佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

Quyển 1  Quyển 2  Quyển 3  Quyển 4  Quyển 5  Quyển 6  Quyển 7  Quyển 8  Quyển 9  Quyển 10

Số 0639

KINH NGUYỆT ĐĂNG TAM MUỘI

Hán dịch: Cao Tề, Thiên Trúc Tam tạng Na Liên Đề Da Xá

Việt dịch:  Thích Chánh Lạc

--- o0o ---

QUYỂN 10

Này đồng tử! Cho nên Bồ tát cần phải có đầy đủ sự tu học thân giới.

Sao gọi là Bồ tát đầy đủ thân giới?

–Nếu Bồ tát đầy đủ thân giới th́ đối với tất cả pháp được trí vô ngại. Đó là thân khéo tu hành. Nếu thân khéo tu hành th́ đối với tất cả pháp được trí vô ngại cho nên gọi là Bồ tát đầy đủ thân giới.

Lại nữa, này đồng tử! Nếu Bồ tát đầy đủ thân giới, có thể thành tựu ba mươi hai tướng đại nhân, được mười lực, bốn vô sở úy, bốn tí vô ngại, mười tám pháp bất cộng của Như Lai.

Này đồng tử! Đó gọi là Bồ tát đầy đủ thân giới.

Lại nữa, này đồng tử! Bồ tát đầy đủ thân giới có thể đạt được ba giải thoát môn. Những ǵ là ba?

–Đó là Không giải thoát môn, Vô tướng giải thoát môn và Vô nguyện giải thoát môn. Đó gọi là đầy đủ thân giới.

Lại nữa, này đồng tử! Nếu Bồ tát đầy đủ thân giới có thể được đầy đủ bốn phạm trụ: Những ǵ là bốn?

–Đó là niệm Từ đối với tất cả chúng sanh, với tâm Bi, Hủ, và Xả cũng lại như vậy. Đó gọi là Bồ tát đầy đủ thân giới.

Lại nữa, này đồng tử! Sao gọi là Bồ tát tu thân thiện hạnh?

–Đó là bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn như ư túc, năm căn, năm lực, bảy giác phần, tám thánh đạo phần. Đó gọi là Bồ tát đầy đủ thân giới.

Lại nữa, này đồng tử! Nếu Bồ tát đầy đủ thân giới có thể được bốn thiền và bốn chánh thọ, hay trụ vào đại bi, được thiện giác quán, được giác quán tịch tiệt. Đó gọi là Bồ tát đầy đủ thân giới.

Lại nữa, này đồng tử! Nếu Bồ tát có đầy đủ thân giới th́ xa ĺa sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, nói hai lưỡi, nói lời ác, nói thêu dệt, tham, sân, tà kiến, mười nghiệp bất thiện, xa ĺa sự lường cân trao đấu, lời nói điêu ngoa, lừa đảo về y phục. Đó là nguyên do đưa đến quan lại đâm chém, giết hại, trấn áp cột trói. Những tội tà ngụy, quanh co, hư vọng ấy, cùng đi đôi với ḷng tham. Vậy phải xa ĺa tất cả nghiệp ác, tự ḿnh phải pḥng hộ ngăn cấm, không tham, không thủ, đoạn trừ tất cả. Giống như chặt đứt đầu cây đa la, làm cho đời vị lai không c̣n khởi sanh lại.

Đồng tử! Nên biết thực hành pháp ấy là Bồ tát có đầy đủ thân giới.

Này đồng tử! Vào thuở quá khứ, trải qua số kiếp, bất khả tư ngh́, rộng lớn vô lượng vô biên, hai lần a tăng kỳ, bấy giờ có đức Phật hiệu là Trí Quang Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn. Ngài sống đến sáu mươi ức năm. Bấy giờ có một vị vua hiệu là Thắng Tư Duy, cùng với tám vạn ức quyến thuộc đi đến chỗ đức Như Lai Trí Quang, đảnh lễ dưới chân ngài, nhiễu quanh bên hữu ba ṿng rồi lui về ngồi một chỗ.

Bấy giờ đức Như Lai Trí Quang liền dùng bài kệ nói về thân luật nghi:

Giống như hư không, không cấu uế

Tự tánh sáng, sạch, hoàn toàn tịnh

Thân giới trong sạch cũng như vậy

Không thể dùng âm thanh diễn thuyết

Âm thanh và Không, không thể biết

Cả hai như vậy, đồng một tướng

Nói về hư không, không tướng mạo

Tướng ấy liền đồng với thân giới

Nếu biết giới ấy chỉ một tướng

Họ liền đầy đủ giới luật nghi

Trí tánh vô sanh, cảnh cũng tịch

Trong chơn vô lậu, hết vọng tưởng

Cũng không tham trước và ái dục

Không khởi khát ái nơi tài sắc

Nếu không thấy được các lỗi lầm

Không bao giờ biết thân giới ấy

Nếu ai biết được giới vô lậu

Họ liền không c̣n tái sanh nữa

Nên biết pháp La hán như vậy

Không phải ngoại đạo mà biết được

Đối với ba cơi tâm sợ hăi

Với dục mưu sinh, không tham ái

Không thích ngôi vua và của cải

Họ mới đầy đủ thân giới này.

Nay ta nói nghĩa thân giới ấy

Nghĩa này Thinh giáo không thể nói

Ai biết nó là mẹ các pháp

Người ấy thường hay trụ thân giới.

Bậc trí ưa thích nghĩa gốc này

V́ thích nghĩa này nên ta nói

Xa ĺa nghĩa sai là nghĩa đúng

Họ được gọi là trụ thân giới

Trong các Phật pháp nói nghĩa ǵ?

Làm sao khéo léo biết nghĩa ấy?

Nếu hay biết được nghĩa tương ưng

Đó mới chính là trụ thân giới

Nếu ai quán sát nơi vô tướng

Tất cả Vô ngă, thảy đều Không

Người ấy không thể nói không giới

V́ họ tu học về thật tế.

Xem tất cả hữu là phi hữu

Người ấy thường trụ nơi phi hữu

Với tất cả hữu, không đắm trước

Người ấy hay chứng định Vô tướng

Nếu ai biết được pháp vô ngă

Tự thể không vô, tánh phi hữu

Không thể gọi người ấy không giới

V́ học chân thật quyết định vậy.

Nếu ai hay biết ngũ ấm không

Các pháp tịch diệt, không thần ngă

Người ấy được gọi bậc tŕ giới

Thân họ không c̣n làm nghiệp ác

Người chấp tướng, không có luật nghi

V́ c̣n ngă tướng, tâm chấp trước

Nếu thủ sắc tướng, người chấp trước

Khởi sanh ái dục không luật nghi.

Nếu thường tu học nơi thật tế

Người ấy rốt ráo chơn diệu pháp

Họ không c̣n khởi sanh ái dục

Không c̣n phạm giới đọa đường ác.

Con kiến làm hư không lay động

Rung chuyển núi Tu di kiên cố.

Nếu có ai khéo học thật pháp

Chư thiên diệu sắc không thể động.

Có thể dùng màu vẽ hư không

Bàn tay có thể nắm Thái hư

Tất cả các ma thuộc ái dục.

Không ai có thể làm lay động

Âm thanh nói ra có thể bắt

Đá ch́m dưới nước làm cho nổi

Những người học giới thân như vậy

Không ai biết được tâm niệm họ.

Có bao nhiêu âm thanh tất cả

Thảy đều chứa được trong hộp nhỏ

Nếu ai trụ giới thân như vậy

Không ai biết được chỗ họ ở

Bao nhiêu sấm sét và điện chớp

Ánh sáng trời trăng đều bắt được

Nếu ai an trụ nơi thân giới

Không ai biết tự tánh thân họ.

Bao nhiêu ṿng gió ở bốn phương

Giăng lưới, bủa câu bắt lại được

Nếu ai an trụ nơi thân giới

Không ai biết được thân lượng họ

Nếu ai an trụ chế ngự tâm

Chẳng phải cảnh giới các chúng sanh

Ai khéo tu tập nơi thân giới

Giống như hư không không thể nhiễm;

Đường đi của gió khắp bốn phương

Dấu chim hư không có thể thấy

Thân lượng vị ấy không thể biết

Và tâm sở hành cũng như vậy.

Nếu ai trụ thân giới như vậy

Họ không có các điều tội ác

Xa ĺa tất cả các phiền năo

Là nhờ học thân giới như vậy

Trụ nơi định tịch diệt thanh tịnh

Không bị dao, lửa làm hại được

Thân họ không thể nắm bắt được

Là nhờ thường tu học thân giới.

An trụ như vậy, không sợ hăi

Tâm không lay động, không ganh ghét

Xa ĺa tất cả các hiểm nạn.

Nhờ tu học thân giới như vậy

Không sờ dao lửa và thuốc độc

Cũng không sợ bị nạn nước lửa

Xa ĺa tất cả các nguy nạn

Là nhờ có tu học thân giới

Không sợ mưa đá và trộm cướp

Với tất cả những sự độc hại

Nhờ họ ĺa tất cả ngă tưởng

Nhờ đă ĺa tưởng nên không sợ.

Xa ĺa sợ hăi và âu lo

Nhờ không sợ hăi, tâm bất động

Tâm không động chuyển, nên không sợ

Hằng ức chúng ma cũng không sợ,

Nên ở chỗ Bồ tát thân giới

Diễn thuyết, khai triển và hiển thị

Nếu ai tu học thân giới này

Hằng ức ma binh không thể động.

Nếu ai muốn biết pháp chư Phật

Nên biết trong đó không giới hạn

Nếu ai tu học về thân giới

Người ấy hay xây tháp ba cơi

Nếu ai muốn biết Phật pháp này

Bất khả tư ngh́ chúng tịch diệt

Nếu ai học thân giới như vậy

Công hạnh kiên cố, mau thành Phật

Nếu ai muốn được pháp Đại tiên

Được Phật mười lực bất tư ngh́

Nếu ai học thân giới như vậy

Tu tập Phật lực đâu có khó

Mười tám pháp tối thắng bất cộng

Chư Phật Như Lai đă an trụ

Nếu ai tu thân giới này

Họ được pháp ấy đâu có khó.

Nếu ở chỗ báu bảy giác chi

Cùng với thần túc và biện tài

Nếu có ai tu học thân giới

Được diệu quả ấy đâu có khó

Đối với Phạm trụ và Tứ thiền

Cùng với ba thứ môn giải thoát

An trụ giác quán và tịch diệt

Người trụ thân giới, được không khó

Bốn niệm xứ cùng với chánh cần

Năm căn năm lực của Đại tiên

Cùng với tám Chánh đạo Thánh báu

Người trụ thân giới được không khó.

Bao nhiêu pháp khác của chư Phật

Không thể nghĩ bàn, không hạn lượng

Họ được pháp ấy không khó khăn

Nhờ học được thân giới như vậy.

Được nghe thân giới như vậy rồi.

Đức vua đạt được lợi tối thắng

Hoan hỷ, nhảy nhót và vui sướng

Trong Phật pháp ấy liền xuất gia

Xuất gia trải qua mười ức năm

Tu hành phạm hạnh rất thanh tịnh

Luôn luôn tu hành tứ Phạm trụ

Lợi ích thế gian các trời người

Khéo tu phạm trụ thanh tịnh rồi

Liền được thắng thân giới như vậy

Lại thấy mười phương ức ngàn Phật

Tu hành hạnh Bồ đề như vậy

Xuất gia trong thắng pháp ngài rồi

Tu hành tịnh phạm hạnh tối thắng.

Đầy đủ đa văn, diệu biện tài

Gọi là Đại pháp sư thông huệ

Kiên tŕ cấm giới không sứt mẻ.

Giới thân thanh tịnh, không ô uế

Đó là Thánh giới, vô lậu giới

Nên biết Thánh giới là thường trụ

Đồng tử! Xưa ta tu Bồ đề

Bấy giờ hóa làm vua Thắng Tư

Ngươi chớ có nghi là ai khác

Nên biết chính là thân của ta

Đồng tử! Ngươi nên tùy thuận học

An trụ Thắng thân giới như vậy,

Nên đem tuyên thuyết cho mọi người

Không lâu cũng sẽ được như ta.

Này đồng tử! Cho nên Bồ tát phải tu hành thân nghiệp thanh tịnh. V́ sao vậy? V́ Đại Bồ tát tu hành tịnh nghiệp, không sợ đọa vào địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, và cảnh giới của ma, cũng không sợ bị khổ ách nơi năm đường, tám nạn, lại cũng không sợ tai nạn nước, lửa, đao binh, thuốc độc, sư tử, cọp, beo, chồn, cáo, tê giác, voi, gấu, không bị tất c ả ác thú, trùng độc ăn thịt, cũng lại không sợ nạn người và phi nhân làm hại.

Này đồng tử! Đại Bồ tát tu hành thân hạnh thanh tịnh, nếu muốn dùng tay nâng thế giới ba lần ngàn này lên cao từ một cây đa la cho đến mười cây đa la, tùy theo ư muốn đều làm được cả.

Này đồng tử! Đại Bồ tát tịnh thân hạnh có thế đạt đến cứu canh, thần thông rốt ráo. Nhờ họ đạt được sức mạnh phước đức thần túc, nên được định, tịch diệt, vô nhiễm tùy thuận, viễn ly, nhiếp thủ. Nhờ có thể nhập vào và nương nơi định này nên được vô lậu, thành tựu được con mắt vô ngại đối với tất cả thế gian.

Sao gọi là thần túc?

–Đó là tùy theo ư nghĩ có thể tạo ra oai lực tự tại, hiểu rơ không bị ngăn trệ, tùy theo ư muốn đều được thành tựu, nên gọi là Thần túc.

Lại nữa, này đồng tử! Đại Bồ tát trụ thần túc có thể làm các việc thần biến. Đó là một có thể biến thành nhiều, nhiều có thể biến thành một, ẩn hay hiện tự tại, có thể đi xuyên qua vách đá núi non, không bị trở ngại, như gió đi trên hư không, ngồi kiết già trên không trung giống như chim bay, đi dưới nước như đi trên đất, ẩn hay hiện trong đất như ở trong nước không khác, thân phát ra khói lửa. Giống như đống lửa lớn, mặt trời mặt trăng có đại oai đức nhưng có thể sờ mó được, muốn làm thân to lớn cho đến trời Phạm thiên th́ tự tại vô ngại.

Bấy giờ đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Thần thông tự tại dạo mười phương

Đói với vách đá và núi non

Tùy ư xuyên qua không trở ngại

Giống như chim bay theo chiều gió

Đi trên mặt đất như dưới nước

Ẩn hiện tự tại, không chướng ngại

Đi trên mặt nước không bị ch́m

Cũng giống như đi trên đất cứng

Một thân có thể hiện ngàn thân

Nhiều thân vô lượng hiện thành một

Tùy ư hiển hiện đủ màu sắc

Bậc trí v́ độ các chúng sanh,

Du hành không trung như chim bay

Thân phun khói lửa như đống lửa

Lại có thể toàn thân lưu xuất

Nước hoa thơm thanh tịnh mát mẻ

Bậc trí ngồi ngay trên mặt đất

Có thể dùng tay sờ trời trăng

Đến chỗ Phạm thiên trong một niệm

Diễn nói thắng pháp cho Phạm chúng

Ngàn vạn Phạm chúng nghe pháp xong

Thích cầu Vô thượng, được thắng lợi

Lại hay đến các cơi trời khác

Diễn thuyết pháp tối thắng cho họ

Nếu lúc vị ấy muốn thuyết pháp

Liền làm chấn động đại thiên giới

Lại khiến vô lượng ức cơi Phật

Âm thanh vi diệu vang khắp nơi.

Này đồng tử! Cho nên Bồ tát cần phải tu học thân hành thanh tịnh. V́ sao vậy?

–V́ Đại Bồ tát tu hành thân hành thanh tịnh, với thiên nhĩ thanh tịnh nghe xa hơn người thường, hoặc địa ngục, súc sanh, cơi Diêm ma la, thiên thượng và nhân gian, hoặc gần, hoặc xa đó gọi là Thiên nhĩ thông.

Này đồng tử! Bồ tát lại phải tu học thân hành thanh tịnh. V́ sao vậy?

–V́ đại Bồ tát tu hành thân hành thanh tịnh thường có thể biết được tâm người khác, nếu họ có tâm dục th́ như thật biết có tâm dục, nếu họ không có tâm dục th́ như thật biết là không có tâm dục, nếu có tâm sân th́ như thật biết có tâm sân, nếu không có tâm sân th́ như thật biết là không có tâm sân, nếu có tâm si th́ như thật biết có tâm si, nếu không có tâm si th́ như thật biết là không có tâm si; có tâm chấp thủ th́ như thật biết có tâm chấp thủ, không có tâm chấp thủ th́ như thật biết là không có tâm chấp thủ, nếu có tâm điên đảo th́ như thật biết có tâm điên đảo, c̣n nếu không có tâm điên đảo th́ như thật biết là không có tâm điên đảo, nếu có tâm nhỏ nhoi th́ như thật biết có tâm nhỏ nhoi, nếu không có tâm nhỏ nhoi th́ như thật biết là không có tâm nhỏ nhoi. Nếu họ có tâm to lớn th́ như thật biết có tâm to lớn, họ không có tâm to lớn th́ cũng như thật biết là họ không có tâm to lớn. Nếu họ có tâm trong sáng th́ như thật biết có tâm trong sáng, họ không có tâm trong sáng th́ như thật biết họ không có tâm trong sáng. Nếu họ có tâm vô lượng th́ như thật biết có tâm vô lượng, nếu họ có tâm hữu lượng th́ như thật biết họ có tâm hữu lượng. Nếu họ có tâm thu nhiếp th́ như thật biết có tâm thu nhiếp, nếu họ không có tâm thu nhiếp th́ như thật biết họ không có tâm thu nhiếp. Nếu tâm họ loạn th́ như thật biết tâm họ loạn, nếu tâm họ không loạn th́ như thật biết tâm họ không loạn. Nếu tâm họ định th́ như thật biết tâm họ định, nếu tâm họ không định th́ như thật biết tâm họ không định. Nếu họ có tâm hướng thượng th́ như thật biết tâm họ hướng thượng, nếu họ không có tâm hướng thượng th́ như thật biết họ không có tâm hướng thượng. Nếu họ có tâm giải thoát th́ như thật biết họ có tâm giải thoát, nếu họ không có tâm giải thoát th́ như thật biết là không có tâm giải thoát. Nếu tâm họ vô học th́ như thật biết tâm vô học, nếu tâm có học th́ như thật biết tâm có học.

Này đồng tử! Đó gọi là Bồ tát hiểu biết như thật về tâm chúng sanh khác.

Lại nữa, này đồng tử! Bồ tát cần phải tu học thân hành thanh tịnh.

Sao là Bồ tát thân hành thanh tịnh?

–Đó là nhớ biết vô số việc kiếp trước, hoặc một đời, hai đời, ba đời cho đến mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, trăm đời, ngàn đời, vạn đời, mười vạn đời, trăm vạn đời, ngàn vạn đời, vạn vạn đời.

Lại biết sự việc một kiếp, trăm kiếp cho đến ngàn vạn kiếp, biết kiếp thành, biết kiếp hoại, biết kiếp thành hoại, cho đến sự việc vô lượng kiếp thành hoại, và biết trong kiếp ấy từng có chúng sanh tên như vậy, họ như vậy, sanh xứ như vậy, ăn uống như vậy, trường thọ như vậy, chết yểu như vậy, cửu trụ như vậy, kết thúc như vậy, biết sự chịu khổ như vậy, thọ vui như vậy, hoặc chết chỗ này, sanh chỗ kia, chết chỗ kia, sanh chỗ này, dáng mạo như vậy, quốc độ như vậy. Những việc kiếp trước như vậy thảy đều nhớ biết hết. Đó gọi là Bồ tát túc mạng trí thông.

Lại nữa, này đồng tử! Bồ tát cần phải tu học thân hành thanh tịnh.

Sao là Bồ tát thân hành thanh tịnh?

–Đó là Thiên nhăn giới thanh tịnh thấy xa hơn người thường, thấy các chúng sanh sống chết qua lại, hoặc sắc đẹp, hoặc sắc xấu, hoặc đến đường thiện, hoặc đến đường ác, hoặc trụ thiện đạo, hoặc trụ ác đạo, hoặc khổ, hoặc vui, hoặc hơn, hoặc kém, như nghiệp tự ḿnh tạo ra, thảy đều biết rơ. V́ các chúng sanh này thành tựu thân ác hạnh, thành tựu khẩu ác hạnh, thành tựu ư ác hạnh, hủy báng hiền thánh, do nhân duyên nghiệp tà kiến nên khi thân hoại mạng chung phải đọa vào địa ngục.

Các chúng sanh này nếu thành tựu thân thiện hạnh, thành tựu khẩu thiện hạnh, thành tựu ư thiện hạnh, không hủy báng hiền thánh, nhờ có chánh kiến, nên khi thân hoại mạng chung đi đến chỗ lành, sanh lên cơi trời.

Này đồng tử! Đó gọi là Bồ tát có Thiên nhăn giới thanh tịnh thấy xa hơn người thường, thấy các chúng sanh sống chết qua lại, hoặc sắc đẹp, hoặc sắc xấu, hoặc đến đường lành, hoặc đến đường ác, hoặc ở trên đường lành, hoặc ở trên đường ác, hoặc khổ, hoặc vui, hoặc hơn, hoặc kém, như nghiệp của chính ḿnh, thảy đều biết rơ. Đó gọi là Thiên nhăn thông.

Lại nữa, này đồng tử! Nếu Đại Bồ tát tu hành thân hành thanh tịnh trong một niệm, trí huệ tương ưng ba đời, những điều hoặc biết, hoặc thấy, hoặc được, hoặc chứng, cần phải biết rơ. Đối với tất cả đều biết, đều thấy, đều được, đều chứng, thảy đều hiểu đạt. Pháp ấy thế nào?

–Đó là Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lăo tử ưu bi khổ năo. Mười hai nhân duyên như vậy, nên biết, nên thấy, nên được, nên chứng, cần phải biết rơ. Như vậy do vô minh diệt nên hành diệt, hành diệt nên thức diệt, thức diệt nên danh sắc diệt, danh sắc diệt nên lục nhập diệt, lục nhập diệt nên xúc diệt, xúc diệt nên thọ diệt, thọ diệt nên ái diệt, ái diệt nên thủ diệt, thủ diệt nên hữu diệt, hữu diệt nên sanh diệt, sanh diệt nên lăo tử diệt, ưu bi khổ năo tất cả đều diệt, phải thấy biết như thật, chứng đắc như thật, giác biết như thật.

Đối với bốn Thánh đế cũng biết rơ như thật. Đó gọi là lậu tận thông.

Bấy giờ đức Thế Tôn nói bài kệ:

Bồ tát đă hiện thị 

Thứ lớp các thần thông

An trụ trong Tam muội 

Có thể tùy ư muốn

Khéo tu về nhĩ căn 

Được thiên nhĩ siêu việt

Tai họ nghe tất cả  

Pháp đạo sư nói ra

Hay biết tâm chúng sanh  

Có dục hay ĺa dục

Có sân hay không sân 

Có si hay không si

Biết rơ việc kiếp trước

Thuở xưa sống ở đâu

Suốt cả ngàn ức kiếp

Kho trí đều chiếu thấu

Khéo tu nơi nhăn căn    

Được Thiên nhăn siêu việt

Dùng mắt xem chúng sanh   

Chết đây sanh ở kia

Một niệm đều biết hết 

Tâm niệm các chúng sanh

Như vậy biết tất cả  

Trí ấy thật siêu việt.

Này đồng tử! Sao gọi là khẩu giới?

–Đó là nếu Đại Bồ tát thành tựu khẩu giới th́ được sáu mươi thứ âm thanh mỹ diệu vô ngại, thanh tịnh, không thể nghĩ bàn. Đó gọi là khẩu giới.

Lại nữa, này đồng tử! Nếu Đại Bồ tát có đầy đủ khẩu giới th́ bất cứ nói điều ǵ cũng được mọi người tín thọ. Đó gọi là khẩu giới.

Lại nữa, này đồng tử! Đại Bồ tát đầy đủ khẩu giới được ba mươi hai tướng của đại nhân, được mười lực của Như Lai, đó là trí lực về thị xứ, phi xứ, trí lực biết về nghiệp xứ nhân quả của các chúng sanh ở qua khứ, vị lai và hiện tại, biết các Tam muội chánh thọ về thiền định, giải thoát, trí lực biết có phiền năo, không phiền năo, trí lực biết thọ mạng của người khác, biết căn tánh sai biệt các chúng sanh, trí lực biết chúng sanh có nhiều dục, trí lực biết vô lượng tâm tánh các chúng sanh, trí lực biết con đường đến tất cả xứ, trí lực biết túc mạng, trí lực biết sự sanh tử tất cả chúng sanh, trí lực biết lậu tận.

Lại nữa, này đồng tử! Nếu Đại Bồ tát đầy đủ khẩu giới có thể được bốn vô úy, mười tám pháp bất cộng. Đó gọi là đầy đủ khẩu giới.

Lại nữa, này đồng tử! Nếu Đại Bồ tát đầy đủ khẩu giới được ba giải thoát môn, được bốn phạm trụ. Đó gọi là đầy đủ khẩu giới.

Lại nữa, này Đồng Tử! Đại Bồ Tát đầy đủ khẩu giới, nói một cách tóm lược, được tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ư túc, ngũ căn, ngũ lực, thất giác phần và bát Thánh đạo phần. Đó gọi là Bồ Tát đầy đủ khẩu giới.

Lại nữa, Đồng Tử! Nếu Đại Bồ Tát đầy đủ khẩu giới sẽ được đại bi phạm trụ, được đại xa phạm trụ, được an ổn giác, được tịch diệt giác. Đó là Bồ Tát đầy đủ khẩu giới.

Lại nữa, này Đồng Tử! Đại Bồ Tát đầy đủ khẩu giới được xa ĺa vọng ngữ, nói hai lưỡi, nói lời ác, nói thêu dệt, đối với cha mẹ, sư trưởng, không nói lời thô lỗ, tất cả những lời xấu ác Bồ Tát thảy đều xa ĺa. Bồ Tát c̣n hiểu rơ một cách như thật âm thanh như tiếng vang, như giấc mộng, như huyễn thuật, như biển hóa, như bóng nắng, như ánh sáng, đối với tiếng vang cho đến ánh sáng này thảy đều không sở đắc, không phân biệt, không thủ, không duyên, không chấp trước. Đó gọi là Bồ Tát đầy đủ khẩu giới.

Này Đồng Tử! Đại Bồ Tát khẩu giới thanh tịnh, được tất cả lời Phật, được tất cả thần túc Phật, được tất cả thần thông Phật.

Bấy giờ đức Thế Tôn nói bài tụng:

Nếu ai tương ưng cùng khẩu giới

Các Bồ Tát ấy sẽ đạt được

Trí tất cả các pháp vô ngại

Gọi là đầy đủ về khẩu giới

Nếu ai tương ưng cùng khẩu giới

Đạt được ba hai tướng đại nhân

Được Phật mười lực, bất cọng pháp

Gọi là bậc đầy đủ khẩu giới

Nếu ai tương ưng cùng khẩu giới

Sẽ được tất cả các Phật Pháp

Là các Phật pháp ta đă nói

Gọi là bậc đầy đủ khẩu giới

Nếu ai tương ưng cùng khẩu giới

Sẽ được Phạm trụ và biện tài

Được pháp hy hữu, bất tư nghị

Gọi là bậc đầy đủ khẩu giới

Nếu ai tương ưng cùng khẩu giới

Được tứ niệm xứ và chánh cần

Đủ thứ thần túc, căn và lực

Gọi là bậc đầy đủ khẩu giới

Nếu ai tương ưng cùng khẩu giới

Sẽ được đại xả, vô sở úy.

Được ḷng đại bi, thanh tịnh trụ

Gọi là bậc đầy đủ khẩu giới

Nếu ai tương ưng cùng khẩu giới

Sẽ được an ẩn giác thanh tịnh

Và đạt được giác quán tịch tịnh

Gọi là bậc đầy đủ khẩu giới

Nếu ai tương ưng cùng khẩu giới

Xa ĺa vọng tử và hai lưỡi

Lại ĺa ác khẩu và thêu dệt

Gọi là bậc đầy đủ khẩu giới

Nếu ai tương ưng cùng khẩu giới

Không bao giờ phỉ báng chánh pháp

Cũng không hỷ bang đức Như Lai

Gọi là bậc đầy đủ khẩu giới

Nếu ai tương ung cùng khẩu giới

Đối với cha mẹ và sư trưởng

Không làm phi pháp, lời thô ác

Gọi là bậc đầy đủ khẩu giới

Nếu ai tương ưng cùng khẩu giới

Miệng không bao giờ nói lời lỗi

Họ đều ĺa hết mọi lỗi lầm

Gọi là bậc đầy đủ khẩu giới

Nếu ai tương ưng cùng khẩu giới

Sẽ biết tiếng nói như âm vang

Biết rơ âm thanh giống như mộng

Gọi là bậc đầy đủ khẩu giới

Biết rơ vô ngă và thọ mạng

Duyên khởi, hư vọng giống như mộng

Người hay biết ngôn ngữ như vậy

Gọi là bậc đầy đủ khẩu giới

Diệt đế không thật giống như mộng

Bản thể Niết Bàn như tánh mộng

Bồ Tát biết nói việc như vậy

Gọi là bậc đầy đủ khẩu giới

Các ngôn ngữ khác bất khả đắc

Không có phân biệt, không chấp trước

Không có phan duyên, không chấp thủ

Gọi là bậc đầy đủ khẩu giới.

Này Đồng Tử! Sao gọi là ư giới?

–Nếu đại Bồ Tát đầy đủ ư giới, sẽ được tất cả Phật pháp, được tất cả thần thông, tâm được giải thoát, bất động. Nếu đại Bồ tát đầy đủ ư giới, sẽ được định Kim Cang tam muội. Đó gọi là thành tựu ư giới.

Lại nữa, này Đồng Tử! Nếu đại Bồ Tát đầy đủ ư giới sẽ được ánh sáng rực rỡ. Đó gọi là đầy đủ ư giới. Nếu đại Bồ Tát đầy đủ ư giới sẽ được sáu mươi thứ âm thanh tương ưng mỹ diệu. Đó gọi là đầy đủ ư giới.

Lại nữa, này Đồng Tử! Nếu đại Bồ tát đầy đủ ư giới, sẽ được ba mươi hai tướng của Đại Nhân, mười lực, bốn vô úy, vô ngại trí, mười tám pháp bất cộng. Đó gọi là đầy đủ ư giới.

Lại nữa, này Đồng Tử! Đại Bồ Tát đầy đủ ư giới, sẽ được tam giải thoát môn, đó là Không, Vô tướng và Vô nguyện. Đó là đầy đủ ư giới.

Lại nữa, này Đồng Tử! Đại Bồ Tát đầy đủ ư giới sẽ được bốn phạm trụ. Đó là đại Từ, đại Bi, đại Hỷ và đại Xả. Đó gọi là đầy đủ ư giới.

Lại nữa, này Đồng Tử! Đại Bồ Tát đầy đủ ư giới sẽ được tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ư túc, ngũ căn, ngũ lực, thất giác phần và bát chánh đạo phần. Đó gọi là đầy đủ ư giới.

Lại nữa, này Đồng Tử! Nếu đại Bồ Tát đầy đủ ư giới được trụ nơi đại Bi, trụ nơi đại Xá, được giác an ổn, được giác tịch diệt, được lợi ích, được oai nghi, được thắng hạnh. Đó gọi là đầy đủ ư giới.

Lại nữa, này Đồng Tử! Nếu đại Bồ Tát vất bỏ tá kiến, không tương ưng với tà kiến, đoạn trừ sân nhuế, không tương ưng với sân nhuế, đoạn trừ xan tham, không tương ưng với xan tham, vất bỏ giải đăi không tương ưng với giải đăi, đối với cha mẹ, sư trưởng, không khởi tâm quanh co, dua nịnh, tâm tham, sân si, cũng không tương ưng với những tâm lư ấy, không bỏ tâm Bồ Đề, không bỏ tâm tín nhạ, đối với các tâm giác quán xấu ác khác thảy, đều xả ly, cũng không tương ưng với chúng. Đó gọi là đầy đủ ư giới.

Bồ Tát phải khéo biết các pháp như huyễn thuật, như giấc mộng, như biến hóa, như bóng nắng, như tiếng vang, như ánh sáng, không đến, không đi, cũng lại biết sự khổ như mộng, biết sự vô ngă như mộng, biết sự vô thường như mộng, biết chúng sanh như mộng, biết cái không như mộng, ư không sở đắc, không phân biệt, không trệ trước, không phan duyên không chấp trước.

Này Đồng Tử! Đó gọi là Bồ Tát đầy đủ ư giới. Nếu Bồ tát đầy đủ pháp ư giới thanh tịnh, liền xa ĺa tất cả các nạn, được tất cả các Phật pháp bất tư nghị, được tất cả thần thông của chư Phật, được tâm giải thoát bất động.

Này Đồng Tử! Đó gọi là đầy đủ ư giới.

Bấy giờ đức Thế Tôn nói bài tụng:

Một ḷng lắng nghe chớ loạn tưởng

Đă nói ư giới tịnh không uế

Được nghe pháp xong, khởi các hạnh

Điền mau chứng ngộ được Bồ đề

Bậc trí nếu thọ tŕ ư giới

Tịch tịnh bậc nhất, luôn bất động

Pháp Phật siêu việt chưa từng có

Đó mới gọi là ư giới tịnh

Bậc trí nếu thọ tŕ ư giới

Tâm được giải thoát, thường bất động

Được định tối thắng như Kim Cang

Đó mới gọi là ư giới tịnh

Bậc trí nếu phát khởi như vậy

Khen ngợi, diễn thuyết, rộng lợi ích

Đạt được sáu mươi tiếng vi diệu.

Đó mới gọi là ư giới tịnh.

Bậc trí, ư giới thật cao tột

Được ba hai tướng bậc đại nhân

Được mười lực Phật, các công đức

Đó mới gọi là thắng ư giới

Bậc trí nếu thọ tŕ ư giới

Đạt được biện tài và vô úy

Được pháp siêu việt rất hy hữu

Đó mới gọi là thắng ư giới

Bậc trí nếu thọ tŕ ư giới

Được tứ niệm xứ và thần túc

Lại được chánh cần và căn lực

Đó là nói về thắng ư giới

Bậc trí nếu thọ tŕ ư giới

Hay được thất giác tri thanh tịnh

Cũng hay đạt được Bát thánh đạo

Đó là nói về thắng ư giới

Bậc trí nếu thọ tŕ ư giới

Đạt được sự xả ly tối thắng

Cùng với đại bi tịnh vô cấu

Đó là nói về thắng ư giới

Bậc trí nếu thọ tŕ ư giới

Được giác an ổn tịnh vô cấu

Được giác viễn ly, các công đức

Đó là nói về thắng ư giới

Bậc trí nếu thọ tŕ ư giới

Không tương ưng tất cả tà kiến

Luôn luôn không khởi sân vô minh

Đó mới gọi là ư giới tịnh

Nếu ai được đầy đủ ư giới

Thậm chí khoảnh khắc không dua nịnh

Không dối láo với cha mẹ sư trưởng

Đó là nói về ư giới tịnh

Bậc trí nếu đầy đủ ư giới

Các việc Tham, sân đều xa ĺa

Pháp ngu si cũng đều đoạn trừ

Đó là nói về thắng ư giới

Bậc trí nếu đầy đủ ư giới

 Luôn luôn không bỏ tâm Bồ đề

Trí tâm quyết định không thể hoại

Đó là nói về thắng ư giới

Bậc trí nếu đầy đủ ư giới

Nếu có tất cả các xấu ác

Thảy đều xa ĺa, không tương ưng

Đó là nói về thắng ư giới

Tâm có thể vào pháp như huyễn

Giống như giấc mộng và bóng nắng

Cũng như bóng sáng và tiếng vang

Đó là nói về thắng ư giới

Biết việc khổ năo giống như mộng

Cũng như Vô thường, Không, Vô ngă

Tâm ư hay biết việc vậy

Đó là nói về thắng ư giới

Biết không chúng sanh, không thọ mạng

Hiểu nhân duyên như bánh xe lăn

Không từ đâu đến, chẳng về đâu

Đó là nói về thắng ư giới

T́m cầu ư họ, không thể được

Cũng không phân biệt, không đ́nh trệ

Không có phan duyên, không chấp thủ

Đó là nói về thắng ư giới

Đệ nhất nghĩa đế giống như mộng

Quán biết Niết Bàn cũng như vậy

Bậc trí nếu biết ư như vậy

Đó là nói về thắng ư giới.

Này Đồng Tử! Sao gọi họ là nghiệp thanh tịnh?

–V́ họ thấy ba cơi giống nhu mộng tưởng, nên họ nhàm chán ba cơi, không khởi tham ái. Đó gọi là nghiệp thanh tịnh.

Sao gọi họ vượt qua phan duyên?

–V́ họ biết ấm, giới và nhập giống như huyễn, nên xa ĺa chúng.

Sao gọi là biết rơ các ấm?

–Đó là v́ biết rơ các ấm giống như bóng nắng.

Sao gọi là được các giới b́nh đẳng?

–Đó là v́ biết giới v.v... như biến hóa, nên xả bỏ chúng.

Sao gọi là trừ bỏ các nhập?

–Đó là v́ các nhập như bóng ánh sáng nên trừ bỏ đi.

Sao gọi là đoạn trừ khát ái?

–Đó là v́ đối với tất cả pháp không có sự phan duyên.

Sao gọi là chứng vô sanh nhăn?

–V́ đối với tất cả pháp không có sở đắc.

Sao gọi là biết các nghiệp?

–Đó là v́ phát khởi tinh tấn, đoạn trừ các khổ.

Sao gọi là hiển thị các nhân?

–Đó là ấm như tiếng vang, không có sanh vậy.

Sao gọi là không hoại đối với quả?

–Đó là v́ nghiệp quả giống như mộng nên không có hoại.

Sao gọi là hiện thấy các pháp?

–Đó là v́ trong các pháp được nhẫn vô sanh.

Sao gọi là tu tập nơi đạo?

–Đó là đối với tất cả pháp không có cái để tu.

Sao gọi là gặp được chư Phật?

–Đó là v́ đầy đủ tất cả giới hạnh của chư Phật.

Sao gọi là trí huệ sáng suốt?

–Đó là v́ đối với tất cả pháp, được nhẫn vô sanh.

Sao gọi là vào các dục lạc của chúng sanh?

–Đó là v́ biết các chúng sanh căn tánh trước sau sai biệt.

Sao gọi là dược pháp trí?

–Đó là ta đối với tất cả pháp vô sở đắc.

Sao gọi là trí vô ngại biện?

–Đó là hay đạt được pháp thức như thật.

Sao gọi là trí sai biệt khéo biết văn tự?

–Đó là nhờ biết ba thứ ngôn ngữ sai biệt.

Sao gọi là vượt qua các việc?

–Đó là nhờ hiểu rơ vô sự.

Sao gọi là biết về âm thanh?

–Đó là nhờ trí nhập vào âm thanh như tiếng vang.

Sao gọi là được hoan hỷ?

–Đó là đối với tất cả pháp mà vô sở đắc, xa ĺa khổ năo vất bỏ gánh nặng mà được ra khỏi.

Sao gọi là được sự ái hỷ?

–Đó là đối với kẻ đi xin khiến cho họ được hoan hỷ, biết lúc bố thí nên thấy được lợi ích.

Sao gọi là giữ tâm ngay thẳng?

–Đó là hay hiểu rơ về tứ chân đế.

Sao gọi là oai nghi ngay thẳng?

–Đó là kiềm chế giữ tâm ngay thẳng.

Sao gọi là xa ĺa sắc tức giận?

–Đó là đoạn trừ các lỗi sân hận.

Sao gọi là sắc mặt thường vui vẻ?

–Đó là cùng ở chung an ổn với người khéo giữ giới.

Sao gọi là âm thanh mỹ diệu?

–Đó là nói sự lợi ích cho người khác.

Sao gọi là trước tiên nói lời an ủi?

–Đó là trước tiên nói: “Lành thay!”, liền đứng dậy để nghinh tiếp.

Sao gọi là không giải đăi?

–Đó là không bỏ sự siêng năng.

Sao gọi là cung kính bậc tôn trưởng?

–Đó là kính nể bậc tôn trưởng, tưởng như bậc thiện tri thức.

Sao gọi là cúng dường bậc tôn trưởng?

–Đó là theo lời dạy bậc tôn trưởng mà hầu hạ cúng dường.

Sao gọi là sanh ra liền đầy đủ?

–Đó là đối với tất cả nhu cầu sanh sống đều không đắm trước.

Sao gọi là cầu pháp thiện “bạch” không chán?

–Đó là chứa nhóm các thiện pháp.

Sao gọi là đời sống thanh tịnh?

–Đó là tùy nghi mà được, liền thấy đầy đủ, nếu không biết đủ liền sanh tâm quanh co, dua nịnh, khoa trương, dụ dỗ, xách động người khác, lấy lợi cầu lợi, những việc như vậy đều xả bỏ hết.

Sao gọi là không ĺa việc sống ở A lan nhă?

–Đó là không bỏ sự siêng năng, thích ở một cách nhàn hạ và ở ṭng lâm, hang núi, khe suối, ưa thích đối với pháp, không giao du với người tại gia và xuất gia, không thích lợi dưỡng, đoạn trừ khát ái và cảm thọ sự hỷ lạc của thiền định vậy.

Sao gọi là trí trụ xứ từng địa vị, cấp bậc?

–Đó là trí ở quả Thanh văn, trí ở qủa Bích chi Phật, trí trụ xứ Bồ tát địa vậy.

Sao gọi là nhớ măi không quên?

–Đó là nhớ vô thường, khổ, không và vô ngă.

Sao gọi là được trí xảo tiện về ấm?

–Đó là biết sự sai biệt của ấm, giới, nhập là vô sở đắc.

Sao gọi là chứng thần thông?

–Đó là được bốn thần túc, nên có thể biến hiện được.

Sao gọi là diệt các phiền năo?

–Đó là đoạn trừ tham, sân, si.

Sao gọi là đoạn trừ tập khí?

–Đó là nhàm chán hành động ngu si quá khứ, không thích địa vị Thanh văn và Bích chi Phật.

Sao gọi là Chuyển Thắng hạnh?

–Đó là hay khởi lên bốn vô ngại biện, năng lực vô úy của Như Lai.

Sao gọi là tu tập nhân?

–Đó là đoạn trừ sự thương, ghét.

Sao gọi là biết phương tiện Phạm?

–Đó là biết Ba la đề mộc xoa, biết tỳ ni, biết giới.

Sao gọi là đoạn trừ các sự hối hận ray rức?

–Đó là đối với các tội lỗi, phải chí thành sám hối, không c̣n tạo tội nữa, tu các thiện pháp.

Sao gọi là đoạn trừ ái luyến?

–Đó là nhổ sạch cành nhánh khát ái của ba cơi, phát sanh điều thiện chưa sanh với điều thiện đă sanh đừng cho tiêu mất.

Sao gọi là vượt qua các hữu?

–Đó là đối với ba cơi mà không sở đắc, lại không hoài niệm, gọi là vượt qua các hữu.

Sao gọi là minh đạt túc mạng?

–Đó là nhớ biết sự việc đời quá khứ.

Sao gọi là không nghi ngờ đối với nghiệp quả?

–Đó là ĺa các chấp thường, chấp đoạn.

Sao gọi là tư duy về pháp?

–Đó là suy nghĩ về pháp như thật.

Sao gọi là tập nghe nhiều?

–Đó là tu tập, thọ tŕ tạng Thanh văn, tạng Bích chi Phật, tạng Bồ tát.

Sao gọi là được trí huệ lanh lợi?

–Đó là quán trí vô sanh giống như giấc mộng.

Sao gọi là ưa thích nơi trí?

–Đó là thường thục tập trí huệ.

Sao gọi là trí huệ thông đạt?

–Đó là nơi phát sinh ra A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề.

Sao gọi là được địa vị điều phục?

–Đó là chỗ Bồ tát đă tu học.

Sao gọi là giống như núi?

–Đó là không bỏ tâm Bồ đề.

Sao gọi là bất động?

–Đó là v́ không phân biệt nên không bị phiền năo xâm đoạt.

Sao gọi là không lay động?

–Đó là đối với tất cả tướng, không duyên nơi niệm.

Sao gọi là tướng bất thối?

–Đó là đối với sáu ba la mật không bị tổn giảm, luôn luôn được thấy quốc độ các đức Phật.

Sao gọi là sanh ra pháp lành?

–Đó là thân cận A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề.

Sao gọi là nhàm chán nghiệp ác?

–Đó là kiên tŕ cấm giới, không c̣n khởi ra điều ác.

Sao gọi là không làm phiền năo?

–Đó là không khởi vô minh, hữu ái và sân hận.

Sao gọi là không xả bỏ giới?

–Đó là nhờ tin nhân quả, nên cung kính đức Như Lai.

Sao gọi là phân biệt các thiền?

–Đó là biết tâm nên thường dùng phương tiện thiện xảo để được nhất tâm.

Sao gọi là biết tất cả dục lạc của chúng sanh?

–Đó là biết căn tánh sai biệt.

Sao gọi là trí khéo phân biệt chỗ sanh?

–Đó là biết sự sai khác của năm đường.

Sao gọi là trí vô biên?

–Đó là tự nhiên biết về pháp thế gian và xuất thế gian.

Sao gọi là trí thứ lớp về ngôn ngữ?

–Đó là hay biết về ngôn thuyết quyền xảo bí mật của đức Như Lai.

Sao gọi là vất bỏ duyên tục?

–Đó là thân tâm xa ĺa mà xuất gia.

Sao gọi là không thích ba cơi?

–Đó là đối với ba cơi, thấy sự khổ đau tại đó một cách như thật.

Sao gọi là không dùng tâm hạ liệt?

–Đó là không vất bỏ tâm, cho dù lúc nhập chánh thọ, vẫn không bỏ tâm.

Sao gọi là đối với các pháp không chấp trước?

–Đó là xả bỏ tâm ái dục đối với tất cả pháp.

Sao gọi là nhiếp thọ chánh pháp?

–Đó là bảo vệ kinh điển của Phật th́ gọi là nhiếp thọ chánh pháp.

Sao gọi là thủ hộ chánh pháp?

–Đó là đối với những chúng sanh hủy báng chánh pháp th́ dùng pháp để hàng phục họ, gọi là hộ pháp.

Sao gọi là tin nơi nghiệp báo?

–Đó là đối với các nghiệp ác phải biết xấu hổ, xa ĺa, tu tập thiện pháp.

Sao gọi là biết luật phương tiện?

–Đó là biết tự tánh phạm hay không phạm, biết phạm tánh tội hay không phạm.

Sao gọi là diệt trừ các sự tranh căi, chống trái?

–Đó là vất bỏ các việc huyên náo.

Sao gọi là không chống trái?

–Đó là không thích tất cả ngôn ngữ thế gian.

Sao gọi là nhẫn địa?

–Đó là nhẫn chịu sự bức năo của thân tâm.

Sao gọi là nhiếp thọ nơi nhẫn?

–Đó là đối với những lời nói thô ác của kẻ khác thảy đều có thể nhẫn nhục, xả bỏ không nghĩ đến.

Sao gọi là lựa chọn nơi pháp?

–Đó là biết sự sai biệt của ấm, giới, nhập, biết trợ đạo hữu lậu và trợ đạo thanh tịnh, v́ đối với pháp ấy là vô sở đắc.

Sao gọi là đối với pháp quyết định thiện xảo?

–Đó là đối với tất cả pháp, không có ngôn thuyết.

Sao gọi là trí khéo biết sự sai biệt của cú nghĩa?

–Đó là thông đạt tất cả các pháp.

Sao gọi là trí thiện xảo xuất sanh pháp cú?

–Đó là nói về pháp như thật.

Sao gọi là trí biết về sự sai biệt của nghĩa và phi nghĩa?

–Đó là biết pháp tánh không tăng không giảm.

Sao gọi là trí tiền tế?

–Đó là trí về nhân.

Sao gọi là trí hậu tế?

–Đó là trí về duyên.

Sao gọi là trí b́nh đẳng ba đời?

–Đó là đối với tất cả sự pháp, hiểu rơ không có sai biệt, an trụ pháp vô sự.

Sao gọi là trí sai biệt về ba đời?

–Đó là đối với pháp ba đời, không sở đắc, cũng không nhớ nghĩ.

Sao gọi là tâm trụ?

–Đó là đối với tâm mà không sở đắc.

Sao gọi là thân trụ?

–Đó là đối với tâm mà không sở đắc.

Sao gọi là thân trụ?

–Đó là niệm xứ về thân, gọi là thân trụ.

Sao gọi là ǵn giữ oai nghi?

–Đó là oai nghi không có thác loạn.

Sao gọi là không hoại oai nghi?

–Đó là che dấu việc thiện.

Sao gọi là không phân biệt oai nghi?

–Đó là ĺa bỏ sự ưa thích tâm ác.

Sao gọi là các căn đoan nghiêm?

–Đó là nhờ tư lương về hướng đi của pháp nên lời nói hợp lẽ, hay biết thời lúc thích nghi, đối với pháp nhu thật, diễn thuyết như thật.

Sao gọi là trí về thế đế?

–Đó là khéo biết pháp quá khứ, vị lai, nên gọi là Thế trí.

Sao gọi là giải thoát xả?

–Đó là tùy theo tài sản có được mà sử dụng, không che dấu, không keo kiết.

Sao gọi là thường đưa tay bố thí?

–Đó là khéo sống với người cùng giới.

Sao gọi là không có tâm keo kiết?

–Đó là với tâm tín tưởng, hết ḷng bố thí.

Sao gọi là xấu hổ?

–Đó là xấu hổ về các việc bạo ác.

Sao gọi là thẹn thùng?

–Đó là hổ thẹn về các việc ngu si, độc hại.

Sao gọi là ghét bỏ tâm ác?

–Đó là biết pháp ngu si th́ vất bỏ, không tương ưng.

Sao gọi là không bỏ hạnh đầu đà?

–Đó là cần phải kiên cố, không thoái chuyển.

Sao gọi là thọ tŕ tín nghĩa?

–Đó là làm đúng như nói.

Sao gọi là khởi hạnh hoan hỷ?

–Đó là nhớ nghĩ sự lợi ích của pháp thiện.

Sao gọi là sống gần bậc tôn trưởng?

–Đó là vất bỏ sự kiêu mạn, xa ĺa sự giải đăi.

Sao gọi là hàng phục tâm kiêu mạn?

–Đó là v́ không có ngă, nên không phan duyên.

Sao gọi là nhiếp phục tâm?

–Đó là trí nhớ nghĩ đến tất cả pháp lành nên không mất lợi ích.

Sao gọi là tâm trí siêng năng?

–Đó là trí biết quả báo của sự tinh tấn, không bao giờ mất.

Sao gọi là trí biết biện nghĩa?

–Đó là trí thông đạt như thật.

Sao gọi là biết rơ về trí?

–Đó là biết pháp thế gian, pháp xuất thế gian.

Sao gọi là trí xa ĺa điều chẳng phải trí?

–Đó là đối với pháp như thật, xa ĺa sự chấp thủ.

Sao gọi là trí nhập tâm?

–Đó là trí không sanh diệt.

Sao gọi là trí thiện xảo phân biệt từng bộ phận?

–Đó là trí biết rơ lợi ích sai biệt.

Sao gọi là trí biết các tiếng nói?

–Đó là trí chỉ rơ pháp như thật.

Sao gọi là trí biết xứ sở?

–Đó là nhập vào trí như thật.

Sao gọi là trí phương tiện, quyết định nghĩa?

–Đó là phụng sự tất cả chư Phật, Bồ tát và Thanh văn.

Sao gọi là vất bỏ sự phi nghĩa?

–Đó là khéo vượt qua các hữu.

Sao gọi là thân cận người lành, cùng người lành làm việc?

–Đó là thân cận chư Phật, Bồ tát và Thanh văn.

Sao gọi là xa ĺa người ác?

–Đó là xa ĺa sự chấp ngă, giải đăi.

Sao gọi là tu thiền phát sanh thông suốt?

–Đó là ĺa gia ái dục, không bỏ sự vui của thiền.

Sao gọi là không đắm vào mùi vị thiền?

–Đó là muốn ĺa ba cơi.

Sao gọi là thần thông tự tại?

–Đó là trụ vào năm thông khó biết của Phật pháp mà hiển thị cho người khác.

Sao gọi là hiểu giả danh?

–Đó là hiểu rơ danh không có cứu cánh.

Sao gọi là biết rơ sự thi thiết ngôn thuyết?

–Đó là biết danh số, văn tự của thế tục đế.

Sao gọi là vượt qua giả danh?

–Đó là hiểu rơ trí không có ngôn thuyết.

Sao gọi là ĺa thế gian?

–Đó là trước hết phải quán sát sự xấu ác của thế gian.

Sao gọi là không thích danh lợi?

–Đó là tự tánh thiểu dục.

Sao gọi là không đắm tham lợi dưỡng?

–Đó là không có các tham lam, mong cầu, xa ĺa dục ác.

Sao gọi là nghe người mắng chửi, không sanh tâm ghét giận?

–Đó là biết bản thể các ấm và giới.

Sao gọi là nghe khen thật đức của ḿnh không sanh tâm vui mừng?

–Đó là che dấu công đức thiện pháp, biết sự tội lỗi của lợi dưỡng.

Sao gọi là không mong cung kính?

–Đó là biết rơ bản thể nhân quả.

Sao gọi là không được cung kính, tâm không giận ghét?

–Đó là không bỏ tâm thiền định.

V́ sao bị hủy nhục mà không giận?

–Đó là quán sát thế gian, hiểu được nhân quả. V́ sao nghe khen ngợi mà không tự cao?

V́ cầu pháp lành mà xuất gia.

Sao gọi là không có các lợi dưỡng, tâm không buồn rầu?

–Đó là quan sát nghiệp đă làm ở kiếp trước.

Sao gọi là không giao du với người đời?

–Đó là không thích mưu sinh.

Sao gọi là không thích ở chung với người xuất gia làm điều phi pháp?

–Đó là thân cận với người sống như pháp, chứ không thân cận với người phi pháp.

Sao gọi là xa ĺa chỗ phi cảnh giới?

–Đó là vất bỏ năm cái (năm sự ngăn che).

Sao gọi là trụ cảnh giới sở hành?

–Đó là tu tứ niệm xứ.

Sao gọi là thành tựu pháp thức?

–Đó là hộ tŕ pháp thức.

Sao gọi là xa ĺa phi pháp?

–Đó là tự hộ tŕ thiện pháp.

Sao gọi là không làm ô uế nhà người khác?

–Đó là bỏ lỗi lầm do sự quen thân.

Sao gọi là hộ pháp?

–Đó là đầy đủ sự cầu pháp, như pháp mà hành động.

Sao gọi là ngồi im lặng, ít nói?

–Đó là được trí tịch diệt.

Sao gọi là thiện xảo việc hỏi và đáp?

–Đó là trí huệ tùy theo sự hỏi đều có thể trả lời tất cả.

Sao gọi là hàng phục oán thù?

–Đó là phân biệt hiển thị pháp như thật, xa ĺa việc chấp trước.

Sao gọi là biết thời?

–Đó là có thể phân biệt để biết năm tháng ngày giờ.

V́ sao không thân cận với kẻ phàm ngu?

–Đó là v́ thấy pháp phàm ngu là tội lỗi.

V́ sao không khinh chê kẻ bần tiện?

–V́ đối với tất cả chúng sanh, khởi tâm b́nh đẳng.

V́ sao phải dùng tiền của thí gấp cho kẻ nghèo khổ?

–V́ có người đến xin liền dùng tài thí và pháp thí.

V́ sao đối với người bần cùng có thể dùng thí vô ngại?

–Đó là v́ đối với các chúng sanh ấy, khởi ḷng thương xót, theo ư người xin mà thí vật trong thân và ngoài thân.

V́ sao phải cứu giúp kẻ phá giới?

–V́ để họ trừ bỏ nghiệp phạm giới, an trụ trong tịnh giới.

Sao gọi là làm việc lợi ích?

–V́ hay trưởng dưỡng chúng sanh.

Sao gọi là bi trí?

–V́ hay thấy sự khổ năo của chúng sanh ở đời vị lai.

Sao gọi là nhiếp thọ nơi pháp?

–V́ hay khiến chúng sanh nhập vào pháp như thật.

Sao gọi là xả bỏ tài sản?

–Đó là xả bỏ các ấm v́ tài sản làm lớn mạnh chúng.

V́ sao không kinh doanh tích tụ?

–V́ nhàm chán đời sống, thấy sự thủ hộ là tội lỗi.

V́ sao phải khen ngợi sự tŕ giới?

–V́ khéo biết quả báo của sự tŕ giới.

V́ sao lại chê trách sự phá giới?

–V́ hiểu rơ lỗi lầm của sự phạm giới.

V́ sao dùng tâm không gièm pha để phụng sự người tŕ giới?

–V́ đối với người tŕ giới phải sanh tư tưởng là khó gặp.

Sao gọi là xả bỏ tất cả?

–V́ khéo tín nhạo vậy.

Sao gọi là thành tâm khuyến thỉnh sự tăng thượng tín?

–V́ mong cầu sự lợi ích cho chúng sanh.

V́ sao gọi là làm đúng như nói?

–V́ đầy đủ sự tin nghe khéo léo, nên liền thực hành.

Sao gọi là phụng sự Tỳ kheo trí huệ?

–V́ để thưa hỏi việc thiện.

V́ sao cùng người bàn luận, có thể sanh ra sự ưa thích?

–V́ có chứng trí và giáo trí.

Sao gọi là trí thí dụ?

–V́ dùng thí dụ để hiểu rơ gốc ngọn của pháp tướng.

Sao gọi là thiện xảo về tiền tế?

–V́ tự biết được sự nghe nhiều của kiếp trước.

Sao gọi là lấy thiện căn làm đầu?

–V́ để khởi đức tin tăng thượng đối với Bồ đề, v́ để khuyến khích người khác.

Sao gọi là thiện xảo phương tiện?

–Đó là sám hối, tùy hỷ, khuyến khích những thiện căn đă tạo thảy đều hồi hướng.

Sao gọi là đoạn trừ hữu tướng?

–Đó là quán sát các việc, thấy các pháp như mộng.

Sao gọi là đoạn trừ đối với tưởng?

–Đó là xa ĺa tưởng điên đảo.

Sao gọi là khéo quán sự tướng?

–Đó là được trí vô tướng.

Sao gọi là khéo nói các kinh?

–Đó là hay hiển thị, thí dụ việc ấy là pháp thiện hay chẳng phải thiện.

Sao gọi là phân biệt đối với đế?

–Đó là đă diệt trừ vô minh rồi th́ danh sắc không khởi lên.

Sao gọi là chứng sự giải thoát?

–Đó là được Kim Cang Tam muội, bất động, không phân biệt.

Sao gọi là chỉ nói một lời?

–Đó là nhàm chán ngoại đạo, chứng được trí vô sanh.

Sao gọi là được sự vô úy?

–Đó là biết sức mạnh của Phật pháp.

Sao gọi là an trụ nơi giới?

–Đó là giới Ba la đề mộc xoa ngăn cấm thân và miệng.

Sao gọi là nhập vào Tam muội?

–Đó là không nhiễm ba cơi.

Sao gọi là được trí huệ?

–Đó là khéo được trí vô công dụng.

Sao gọi là thích ở một ḿnh chỗ thanh vắng?

–Đó là xa ĺa lỗi lầm của sự ồn ào, thường không xả bỏ sự không nhàn.

Sao gọi là thích ít bạn bè?

–Đó là thiểu dục tri túc.

Sao gọi là tâm không ô trược?

–Đó là nhờ nhập thiền định, trừ các ngăn che.

Sao gọi là xả bỏ các kiến?

–Đó là xa ĺa sự chấp thủ kiến.

Sao gọi là được Đà la ni?

–Đó là tùy theo pháp thấy được mà như thật hiển thị, không quên.

Sao gọi là được trí huệ sáng?

–Đó là biết tự tánh mà vào.

Sao gọi là xứ?

–Đó là chỗ ở của tâm.

Sao gọi là an trú?

–Đó là chỗ ở của tín tâm.

Sao gọi là hạnh?

–Đó là pháp trụ nơi tín hạnh.

Sao gọi là biện trí?

–Đó là biết biện luận về đạo.

Sao gọi là nhân?

–Đó là do vô minh sanh ra các hành.

Sao gọi là tương ưng?

–Đó là pháp để giải thoát.

Sao gọi là pháp?

–Đó là đoạn trừ sự khát ái.

Sao gọi là môn?

–Đó là đoạn trừ các lỗi lầm.

Sao gọi là đạo?

–Đó là trí về Vô thường, Khổ, Không, Vô ngă.

Sao gọi là địa?

–Đó là mười loại cấp bậc vô nguyện.

Sao gọi là xa ĺa sự sanh?

–Đó là pháp đoạn trừ sự sanh.

Sao gọi là trí địa?

–Đó là trí không quên.

Sao gọi là xả bỏ sự vô tri?

–Đó là đoạn trừ ngu si.

Sao gọi là an trụ nơi trí?

–Đó là trí vô sở trụ.

Sao gọi là phương tiện địa?

–Đó là pháp tu ba mươi bảy trợ Bô đề.

Sao gọi là cảnh giới của Bồ tát?

–Đó là hành sáu ba la mật.

Sao gọi là thân cận người hành?

–Đó là gần gũi chư Phật.

Sao gọi là xa ĺa người ác?

–Đó là xa ĺa chấp kiến của ngoại đạo.

Sao gọi là Như Lai đă nói?

–Đó là trụ nơi tự tánh giải thoát trí lực của Như Lai.

Sao gọi là Phật địa?

–Đó là được tất cả pháp thiện.

Sao gọi là bậc trí tùy hỷ?

–Đó là sự tùy hỷ của chư Phật, Thanh văn, Bích chi Phật ở qúa khứ, vị lai và hiện tại.

Sao gọi là kẻ ngu hủy báng?

–Đó là tất cả kẻ ngu không thể biết được.

Sao gọi là Thanh văn không thể biết?

–Đó là sự bất khả tư ngh́ của Phật pháp.

Sao gọi là cấp bậc ngoại đạo?

–Đó là cái thấy phương tiện, ngă mạn của ngoại đạo.

Sao gọi là thu nhiếp về Như Lai?

–Đó là điều khó có thể được của bậc đại y vương.

Sao gọi là mau được mười lực?

–Đó là siêng tu phương tiện.

Sao gọi là tất cả chư thiên cúng dường?

–Đó là khéo có thể sanh ra tất cả sự vui.

Sao gọi là Phạm vương lễ bái?

–Đó là từ vị ấy sanh ra giải thoát.

Sao gọi là rồng lễ bái?

–Đó là có thể đoạn trừ tất cả ác đạo và các kiến chấp.

Sao gọi là dạ xoa tùy hỷ?

–Đó là ngăn che các đường ác.

Sao gọi là chân đà la tán thán?

–Đó là hay đạt được sự hoan hỷ giải thoát.

Sao gọi là Ma hầu la khen hay?

–Đó là đoạn trừ sự sanh tử.

Sao gọi là sự tu của Bồ tát?

–Đó là hay đạt được Nhất thiết trí.

Sao gọi là bậc trí mong cầu?

–V́ mong được địa vị bất thối chuyển.

Sao gọi là được của cải vô thượng?

–Đó là hay được quả báo của nhân thiên và sự giải thoát.

Sao gọi là chẳng phải tài thí?

–Đó là hay trừ tất cả bận phiền năo.

Sao gọi là thuốc hay để trị bệnh hoạn?

–Đó là tiêu diệt tai hoạn tham sân si.

Sao gọi là kho tàng trí huệ?

–Đó là thường thích tu tập trí huệ.

Sao gọi là vô tận biện?

–Đó là thấy được trí như thật.

Sao gọi là xa ĺa sự ưu sầu?

–Đó là biết khổ là hư vọng, nên trừ bỏ, ngộ được vô ngă.

Sao gọi là biết ba cơi?

–Đó là biết ba cơi như huyễn mộng.

Sao gọi là ghe thuyền đưa qua bờ bên kia?

–Đó là trí ưa thích nhập Bát Niết bàn, tu Vô thường, Khổ, Không, Vô ngă.

Sao gọi là vượt qua bốn ḍng sông?

–Đó là mau được Niết bàn.

Sao gọi là mong cầu danh tiếng?

–Đó là được pháp rộng lớn.

Sao gọi là tán dương công đức của Như Lai?

–Đó là khen ngợi bậc bố thí pháp được vô lượng công đức.

Sao gọi là khen ngợi danh xưng của đức Như Lai?

–Đó là bậc thí chủ bố thí tất cả công đức, giải thoát, an vui.

Sao gọi là tán thán mười lực?

–Đó là khen ngợi, bậc đại pháp bảo hay thí những pháp khó được.

Sao gọi là công đức của Bồ tát?

–Đó là vị hay học pháp Tam muội của kinh này.

Sao gọi là ḷng từ diệt sân hận?

–V́ đó là pháp đối trị sân hận.

Sao gọi là Bi?

–Đó là pháp diệt trừ khổ năo của tất cả chúng sanh.

Sao gọi là hoan hỷ?

–Đó là đối với tất cả chúng sanh khởi sanh sự hoan hỷ.

Sao gọi là xả?

–Đó là ḷng bi vô duyên (không điều kiện), có thể làm được điều Phật làm.

Sao gọi là an ủi người đại thừa?

–Đó là tùy theo sự mong cầu đối với tất cả Phật, pháp, thảy đều có thể ban bố đầy đủ.

Sao gọi là phát hạnh sư tử hống?

–Đó là hay đạt được pháp tối thượng.

Sao gọi là con đường trí huệ của Phật?

–Đó là không có chấp trước đối với tất cả pháp lành, mà vẫn được thiện pháp.

Sao gọi là giải thoát tất cả chúng sanh?

–Đó là có thể biết từ bờ bên này đến bờ bên kia.

Sao gọi là đạt được nhất thiết trí?

–Đó là đoạn trừ tất cả pháp bất thiện, tập hợp tất cả pháp thiện và tất cả pháp giải thoát.

Sao gọi là vườn hoa cua Bồ tát?

–Đó là vị hay được sự hỷ lạc, tự thân an lạc, cũng khiến tất cả chúng sanh được an lạc.

Sao gọi là hàng phục ma quân?

–Đó là bậc hay được tất cả lực, hay diệt trừ tất cả bậc phiền năo.

Sao gọi là an ổn thực hành chú thuật?

–Đó là hay dứt sạch tất cả khổ nạn.

Sao gọi là thành tựu sự tốt đẹp?

–Đó là hay đạt được tất cả quả báo.

Sao gọi là ngăn ngừa oán địch?

–Đó là đoạn trừ tất cả tà kiến và chấp thủ kiến.

Sao gọi là hàng phục oan gia?

–Đó là dùng chánh pháp để hàng phục các ngoại đạo.

Sao gọi là được sự vô úy?

–Đó là đối với tất cả pháp, hay khéo quán sát, ôn tập.

Sao gọi là cầu sức mạnh như thật?

–Đó là cầu pháp lực không điên đảo.

Sao gọi là tướng đầu tiên của mười tám pháp bất cộng?

–Đó là làm tất cả thiện pháp.

Sao gọi là trang nghiêm pháp thân?

–Đó là được ba mươi hai tướng trang nghiêm.

Sao gọi là thích sự giải thoát?

–Đó là được pháp thiện phần đầu, phần giữa và phần cuối.

Sao gọi là trưởng tử đáng yêu?

–Đó là có thể đạt được các tài sản khác của chư Phật, đấng cha lành.

Sao gọi là đầy đủ Phật trí

–Đó là chỉ nuôi lớn tất cả pháp thiện.

Sao gọi là chẳng phải địa vị Bích chi Phật

–Đó là có thể đạt được Phật pháp vô biên, tối thượng.

Sao gọi là tâm thanh tịnh

–Đó là hay đoạn trừ tất cả sự cấu uế.

Sao gọi là thân thanh tịnh

–Đó là diệt trừ tất cả bệnh hoạn.

Sao gọi là thành tựu giải thoát môn

–Đó là quán sát Vô thường, Khổ, Không, Vô ngă và Tịch diệt.

Sao gọi là ĺa các dục ô uế

–Đó là hay được pháp cú cam lồ.

Sao gọi là ĺa sự sân hận

–Đó là đạt được Đại từ đại bi.

Sao gọi là chẳng phải hạng ngu si

–Đó là được sự sáng suốt như thật.

Sao gọi là trí A hàm

–Đó là trí biết nghiệp đă tạo của tất cả thế gian và xuất thế gian.

Sao gọi là hay phát khởi sự sáng suốt

–Đó là tư duy, nhớ nghĩ hướng đến tất cả đường lành.

Sao gọi là đoạn trừ vô minh

–Đó là tất cả sự nhớ nghĩ đưa đến phi thiện.

Sao gọi là đầy đủ giải thoát

–Đó là được pháp của bậc Đại Thánh.

Sao gọi là người tu thiền hoan hỷ

–Đó là có thể đạt được sự hỷ lạc nhất tâm.

Sao gọi là mắt thấy

–Đó là thấy cái thật nghĩa không thể thấy.

Sao gọi là thần thông biến hiện

–Đó là khéo tu pháp không chướng ngại.

Sao gọi là thần túc hiện tiền

–Đó là hay được trí không phân biệt, không có chướng ngại của tất cả pháp.

Sao gọi là thích nghi Đà la ni

–Đó là hiểu rơ tất cả pháp, đối với tất cả pháp hay hướng đến Niết bàn b́nh đẳng.

Sao gọi là tŕ niệm

–Đó là diệt trừ tất cả tự tánh của phan duyên...

Sao gọi là Như Lai trú tŕ

–Đó là trí huệ sanh ra các công đức, không thể hủy hoại.

Sao gọi là đạo sư phương tiện quyền xảo

–Đó là khiến cho người khác hướng đến thành lớn, an ổn khoái lạc.

Sao gọi là trí vi tế, giống như đầu sợi lông

–Đó là khó có thể suy lường mà biết được.

V́ sao khó biết, khó có thể tương ưng

–Đó là điều chưa từng có ở thời xưa.

V́ sao xa ĺa văn tự?

–V́ con đường ngôn ngữ là bất khả đắc.

Sao gọi là âm thanh khó biết

–Đó là tất cả pháp không thể nghĩ bàn.

Sao gọi là người trí mới có thể biết

–Đó là biết pháp là bảo vật vô giá.

Sao gọi là đă biết điều phục, trí sở tri

–Đó là nói đúng như làm.

Sao gọi là biết về thiểu dục?

–V́ biết lỗi của đa dục.

Sao gọi là dũng mănh tinh tấn?

–V́ biết không xả bỏ thời gian cần thiết.

Sao gọi là ghi nhớ tổng tŕ?

–V́ tùy theo việc làm mà vẫn không mất.

Sao gọi là cùng tận sự khổ?

–V́ đoạn trừ tham, sân, si.

Sao gọi là tất cả pháp không sanh?

–V́ diệt hết tất cả thức, tất cả nguyện.

Sao gọi là một lời diễn thuyết có thể biết tất cả các đường sanh tử?

–V́ quán tất cả pháp giống như mộng huyễn, nên không chấp thủ.

Này đồng tử! Đó gọi là giải thích nghĩa ba trăm cú pháp xong.

Này đồng tử! Đó là Tam muội không hư luận, thể tánh b́nh đẳng của tất cả các pháp.

Bấy giờ đức Thế Tôn nói bài kệ:

Trí Phật pháp vô lượng

Diễn thuyết vô cùng tận

Nói rộng các pháp xong

Được tất cả công đức.

Rộng lớn như hư không

Pháp tướng ấy như vậy.

Là bảo vật cứu cánh

Nên gọi là Phương Quảng

Hạnh chúng sanh vô biên

Nên thuyết pháp cũng nhiều

Nghĩa A hàm vô tận

Nên gọi là phương tiện.

Khi đức Thế Tôn nói pháp này, vô lượng chúng sanh đều phát tâm A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề, vô lượng chúng sanh đối với Bồ đđược bất thối chuyển. Vô lượng chúng sanh phát tâm Bích chi Phật, vô lượng chúng sanh chứng được ba quả.

Lại nữa, cơi thế giới ba lần ngàn này có sáu thứ chấn động, trời mưa hương lạ, tung răi hoa trời, tấu lên trăm ngàn vạn thứ âm nhạc của chư thiên trong hư không, mưa các thiên y, từ từ rơi xuống, có tiếng nói như vầy:

–Các chúng sanh này nhờ nghe pháp ấy nên được sự lợi ích lớn. V́ các chúng sanh ấy đối với vô lượng đức Phật đă gieo trồng căn lành, nên nghe pháp này, hoan hỷ, thọ tŕ, đọc tụng, biên chép, giải nói cho người khác, làm ruộng phước tối thượng thành tựu lợi ích cho tất cả chúng sanh. Tất cả chúng sanh này không đoạn mất hạt giống Phật. Các chúng sanh này quyết định có thể v́ con đường Bồ đề trước nhất, nghe pháp môn này khởi hạnh như thật.

Bấy giờ đức Phật bảo A Nan:

–Ngươi nên thọ tŕ pháp môn như vậy rồi đọc tụng, biên chép, rộng nói cho người khác.
Tôn giả A Nan bạch đức Phật:

–Kinh này tên gọi là ǵ và phụng tŕ như thế nào?
Đức Phật bảo tôn giả A Nan:

–Kinh này gọi là "Nhập vào Đại Bi". Ngươi nên thọ tŕ. Lại có tên "Tam muội b́nh đẳng, vô hư luận, thể tánh của tất cả các pháp". Ngươi nên thọ tŕ.

Tôn giả A Nan bạch đức Phật:

–Như lời Phật dạy, con xin thọ tŕ pháp môn ấy.

Khi đức Phật nói kinh này xong, đồng tử Nguyệt Quang, vui mừng nhảy nhót, Bồ tát A Dật Đa cùng với tám mươi ức na do tha Bồ tát, trưởng lăo A Nan và bốn chúng T kheo, T kheo ni, Ưu bà tắc, ưu bà di, Thiên tử trời Tịnh cư, Phạm thiên vương, chủ thế giới Ta bà, với Thiên Đế thích, Tứ Thiên vương ... chư thiên, nhân loại, chúng A tu la, nghe đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH NGUYỆT ĐĂNG TAM MUỘI

Hết quyển 10

 

 

previous.png   back_to_top.png

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0