佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

Kinh Ánh Sáng Hoàng Kim

Hán dịch:Nghĩa Tịnh

Việt dịch:Ḥa Thượng Thích Trí Quang

--o0o--

Quyển 5

Phẩm 7: Hoa Sen Ca Tụng (48)

Bấy giờ đức Thế tôn bảo thọ thần của bồ đề đại thọ, rằng thiện nữ thiên, thiện nữ nên biết cái lư do bồ tát Diệu tràng mộng thấy trống hoàng kim xuất âm thanh lớn, ca tụng công đức Như lai và diệu pháp sám hối. Như lai sẽ nói cho các người về lư do ấy. Các người hăy nghe kyլ hăy khéo nghĩ khéo nhớ. Quá khứ có một đế vương tên Kim long chủ, thường đem hoa sen làm ví dụ mà ca tụng chư vị Như lai. Đức Thế tôn liền thuật lại cho đại hội nghe những lời ca tụng này.

(1) Chư Phật quá khứ

vị lai hiện tại,

ở trong thế giới

khắp cả mười phương,

con nay chí thành

cúi đầu kính lạy,

nhất tâm ca tụng

các đấng Tối thắng.

(2) Đấng Đại mâu ni

tối thượng thanh tịnh,

ánh sáng thân thể

rực như hoàng kim.

Trong các thứ tiếng

tiếng Ngài tối thượng,

như tiếng Đại phạn

như sấm rền vang.

(3) Tóc Ngài th́ như

ong chúa đen huyền,

đường nét uốn xoay

ngời lên xanh biếc.

Răng đều và sít

trắng như tuyết, ngọc,

rất bằng và thẳng

và ngời sáng lên.

(4) Mắt trong không gợn,

cực đẹp, uy nghiêm,

to lớn tựa như

cánh hoa sen xanh.

Tướng lưỡi rộng dài,

cùng cực nhu nhuyến,

đỏ như sen hồng

từ nước trồi lên.

(5) Giữa mày thường có

ánh sáng bạch hào

uốn xoay chiều phải

với màu pha lê.

Lông mày dài, mịn,

sáng như trăng mới,

ngời lên lóng lánh

như thân ong chúa.

(6) Mũi cao, dài, thẳng,

tựa như đĩnh vàng,

sạch sẽ, tươi sáng,

không thiếu vẻ đẹp;

mọi thứ hơi thơm

trong thế giới này,

mũi này ngửi thấy

là biết ở đâu.

(7) Thân màu hoàng kim

siêu tuyệt bậc nhất,

mỗi một đầu lông

đẹp đẽ đồng đẳng,

xanh biếc, mềm mại,

uốn theo chiều phải,

tinh tế ánh ngời

khó có ǵ bằng.

(8) Thân ấy mới sinh

đă có ánh sáng,

trải ra khắp cả

thế giới mười phương,

trừ được khổ năo

ba cơi chúng sinh,

làm cho tất cả

đều được yên vui.

(9) Bất kể địa ngục,

bàng sinh, ngạ quỉ,

tô la, chư thiên,

cùng với nhân loại,

làm cho loại trừ

các dạng khổ năo,

thường xuyên hưởng thụ

cái vui tự nhiên.

(10) Ánh sáng thân ấy

thường chiếu khắp cả,

tựa như vàng ṛng

tinh tế bậc nhất.

Mặt th́ sáng ngời

tựa như trăng tṛn.

Môi th́ đỏ tươi

như trái tần bà.

(11) Bước đi uy nghiêm

như sư tử đi.

Ḿnh sáng in như

mặt trời mới mọc

Cánh tay th́ dài,

đứng quá đầu gối,

thường buông thẳng xuống

như nhánh sa la.

(12) Vầng ánh sáng tṛn

một tầm, tỏa chiếu,

rực rỡ tựa như

trăm ngàn mặt trời,

trải đến khắp cả

quốc độ của Phật,

tùy kẻ hữu duyên

mà được thức tỉnh.

(13) Ánh sáng trong suốt

không chi sánh bằng,

trải ra khắp cả

trăm ngàn thế giới,

và khắp mười phương,

không ǵ trở ngại,

mọi sự mờ tối

đều tan biến cả.

(14) Từ quang Thiện thệ

ban cho yên vui,

màu sắc trong suốt

như núi vàng ṛng,

ánh sáng trải khắp

trăm ngàn quốc độ,

những ai gặp được

cùng siêu thoát cả.

(15) Vô biên thắng phước

hoàn thành thân Phật,

tất cả công đức

trang sức Phật thân,

vượt quá ba cơi,

độc xưng Thế tôn,

hơn hết thế giới

thành bậc Vô đẳng.

(16) Chư vị Thế tôn

thuộc th́ quá khứ

nhiều như vi trần

của cả đại địa,

chư vị Thế tôn

vị lại hiện tại

cũng bằng vi trần

của cả đại địa.

(17) Đem thân miệng ư

cùng cực chân thành

con xin kính lạy

tam thế Thế tôn,

ca tụng biển cả

công đức vô biên,

hiến cúng đủ loại

những hương và hoa.

(18) Giả sử miệng con

có cả ngàn lưỡi,

ca tụng Thế tôn

trong vô lượng kiếp,

th́ công đức Ngài

là bất tư nghị,

tối thắng, cực sâu,

vẫn khó diễn tả.

(19) Giả sử lưỡi con

có cả trăm ngàn

khen một công đức

của một đức Phật

cũng vẫn khó được

một phần chút ít,

huống chi vô biên

công đức chư Phật.

(20) Giả sử đại địa

cho đến chư thiên

đến trời Hữu đảnh

toàn là biển nước,

đầu lông nhỏ giọt

đếm biết hết cả,

một đức một Phật

cũng khó lường biết.

(21) Đem thân miệng ư

cực kỳ chân thành

mà con lễ bái

cùng với tán dương

công đức vô biên

của chư Phật đà,

sự lễ tán ấy

được bao thắng phước

quả báo siêu việt,

con xin hồi hướng

cho cả chúng sinh

chóng thành Phật đà.

*

(22) Kim long chủ vương

tán thán Phật rồi,

tâm càng thâm thiết

phát ra đại nguyện:

nguyện con sau này

trong th́ vị lai

sinh ra đến mấy

đời kiếp đi nữa,

(23) thường xuyên mộng thấy

trống hoàng kim lớn,

được nghe âm thanh

diệu pháp sám hối.

Công đức tán Phật

th́ như liên hoa,

nguyện chứng Vô sinh

thành bậc Chánh giác.

(24) Thế tôn xuất thế

lâu thay một lần,

trăm ngàn đời kiếp

cũng khó gặp được.

Nên đêm thường mộng

nghe tiếng trống vàng,

ngày th́ theo đó

tu hành sám hối.

(25) Con nguyện viên tu

sáu ba la mật,

cứu vớt chúng sinh

ra khỏi biển khổ,

sau con mới thành

đấng Vô thượng giác,

với một tịnh độ

bất khả tư nghị.

(26) Con đem trống vàng

hiến lên chư Phật,

tán thán chư Phật

công đức chân thật,

nguyện nhờ việc này

sẽ gặp Thích tôn

thọ kư cho con

nối ngôi Pháp vương.

(27) Kim long, Kim quang,

là con của con,

quá khứ đă làm

bậc thiện tri thức;

nguyện rằng đời đời

vẫn sinh nhà con,

cùng con tiếp nhận

thọ kư bồ đề.

(28) Với những chúng sinh

không ai cứu giúp,

trường kỳ luân hồi

lănh chịu khổ năo,

nguyện con đời sau

làm nơi nương tựa

cho họ thường được

yên vui thích thú.

(29) Cái khổ ba cơi

con nguyện diệt trừ,

làm cho tùy tâm

ở nơi an lạc.

Nguyện những đời sau

tu hành bồ đề

cũng như quá khứ

các vị thành Phật.

(30) Nguyện cầu cái phước

trống vàng sám hối

làm khô biển khổ

loại trừ nghiệp chướng;

nghiệp chướng hoặc chướng

tan biến cả rồi,

nguyện con chóng đạt

quả báo trong sáng.

(31) Biển cả phước trí

giới hạn vô biên,

trong suốt rất mực

và sâu không cùng.

Nguyện con thực hiện

biển phước trí ấy,

mau chóng thành đạt

vô thượng bồ đề.

(32) Sức mạnh sám hối

của trống vàng này

sẽ thể hiện được

ánh sáng phước đức.

Thể hiện ánh sáng

nhiệm mầu như vậy,

rồi đem trí quang

chiếu soi khắp cả.

(33) Nguyện cầu cho con

thân thể, ánh sáng,

phước đức, trí tuệ.

đều như chư Phật,

trong mọi thế giới

độc xưng Thế tôn,

uy lực tự tại

không ai sánh bằng.

(34) Nguyện cầu vượt qua

biển khổ hữu lậu,

nguyện thường du ngoạn

biển vui vô vi,

biển phước hiện tại

nguyện thường dẫy đầy,

biển trí tương lai

nguyện được viên măn.

(35) Nguyện cơi của con

siêu việt ba cơi,

phẩm chất thù thắng

không có số lượng,

những ai liên hệ

cùng sinh cơi ấy,

cùng mau thành đạt

trí giác thanh tịnh.

*

(36) Diệu tràng nên biết

Kim long chủ vương

đă phát nguyện ấy

là bản thân ông.

(37) Và hai người con

Kim long, Kim quang

th́ nay chính là

Ngân tướng, Ngân quang,

sẽ cùng tiếp nhận

Như lai thọ kư.

Toàn thể đại hội nghe những lời này của đức Thế tôn, th́ ai cũng phát tâm bồ đề, nguyện rằng hiện tại và vị lai thường y theo những lời ấy mà tu hành diệu pháp sám hối.

Phẩm 8: Minh Chú Kim Thắng

Bấy giờ đức Thế tôn nói với bồ tát đại sĩ Thiện trú ở trong đại hội, rằng thiện nam tử, có một minh chú danh hiệu Kim thắng. Thiện nam hay thiện nữ nào muốn cầu đích thân nh́n thấy chư vị Như lai trong quá khứ hiện tại vị lai để tôn kính hiến cúng, th́ phải thọ tŕ minh chú này. Minh chú này là mẹ của chư vị Như lai trong ba th́ gian. Do vậy, nên nhận thức rằng thọ tŕ minh chú này th́ có đủ phước đức to lớn. Gieo trồng thiện căn nơi vô lượng chư vị Như lai quá khứ th́ nay mới được thọ tŕ, được thanh tịnh giới pháp, không vi phạm, không thiếu sót, không có chướng ngại, quyết định thể nhập pháp môn sâu xa. Phép tŕ minh chú này là trước hết xưng niệm hồng danh mà chí thành kính lạy chư vị Như lai và chư vị Bồ tát sau đây, rồi mới tŕ tụng minh chú.

Kính lạy chư vị Như lai,

Kính lạy chư vị Bồ tát đại sĩ,

Kính lạy chư vị Thanh văn Duyên giác.

Kính lạy đức Thích ca mâu ni như lai,

Kính lạy đức Bất động như lai ở hướng đông,

Kính lạy đức Bảo tràng như lai ở hướng nam,

Kính lạy đức A di đà như lai ở hướng tây,

Kính lạy đức Thiên cổ âm vương như lai ở hướng bắc,

Kính lạy đức Quảng chúng đức như lai ở hướng trên,

Kính lạy đức Minh đức như lai ở hướng dưới,

Kính lạy đức Bảo tạng như lai,

Kính lạy đức Phổ quang như lai,

Kính lạy đức Phổ minh như lai,

Kính lạy đức Hương tích vương như lai,

Kính lạy đức Liên hoa thắng như lai,

Kính lạy đức B́nh đẳng kiến như lai,

Kính lạy đức Bảo kế như lai,

Kính lạy đức Bảo thượng như lai,

Kính lạy đức Bảo quang như lai,

Kính lạy đức Vô cấu quang minh như lai,

Kính lạy đức Biện tài trang nghiêm tư duy như lai,

Kính lạy đức Tịnh nguyệt quang xưng tướng vương như lai,

Kính lạy đức Hoa nghiêm quang như lai,

Kính lạy đức Quang minh vương như lai,

Kính lạy đức Thiện quang vô cấu xưng vương như lai,

Kính lạy đức Quan sát vô úy tự tại vương như lai,

Kính lạy đức Vô úy danh xưng như lai,

Kính lạy đức Tối thắng vương như lai,

Kính lạy đức Quan tự tại bồ tát đại sĩ,

Kính lạy đức Địa tạng bồ tát đại sĩ,

Kính lạy đức Hư không tạng bồ tát đại sĩ,

Kính lạy đức Diệu cát tường bồ tát đại sĩ,

Kính lạy đức Kim cang thủ bồ tát đại sĩ,

Kính lạy đức Phổ hiền bồ tát đại sĩ,

Kính lạy đức Vô tận ư bồ tát đại sĩ,

Kính lạy đức Đại thế chí bồ tát đại sĩ,

Kính lạy đức Từ thị bồ tát đại sĩ,

Kính lạy đức Thiện tuệ bồ tát đại sĩ.

Rồi tŕ tụng minh chú Kim thắng như sau: Nam mô, rát na, tra da da, tát da tha, kun tê, kun tê, ku sá tê, ku sá lê, ku sá lê, ích chi li, mi ti li, soa ha (Namo ratna trayaya tadyatha kunte kunte kusate kusale kusale icchili mitili svaha).

Đức Thế tôn dạy bồ tát Thiện trú, minh chú này là mẹ của tam thế Như lai. Thiện nam hay thiện nữ nào tŕ minh chú này th́ xuất sinh cái khối phước đức vô lượng vô biên, th́ tức là hiến cúng, cung kính, tôn trọng, tán dương đối với vô số chư vị Như lai, th́ chư vị Như lai ấy cùng thọ kư cho người ấy về vô thượng bồ đề. Thiện trú, ai tŕ minh chú này th́ [hiện tại] tùy theo ư muốn mà cơm áo, tài sản, đa văn, thông minh, vô bịnh, sống lâu, đều được lắm phước trong đó, ước nguyện toại ư. Thiện trú, tŕ minh chú này th́, cho đến lúc thực chứng vô thượng bồ đề, thường xuyên được ở chung với đại bồ tát Kim thành sơn, đại bồ tát Từ thị, đại bồ tát Đại hải, đại bồ tát Quan tự tại, đại bồ tát Diêu cát tường, đại bồ tát Đại băng di la, và các vị đồng đẳng; được các vị đại bồ tát này hộ tŕ.

Thiện trú, tŕ minh chú này th́ theo cách thức sau đây. Trước hết phải tŕ tụng cho được mười ngàn lẻ tám biến, làm tiền phương tiện. Kế đó, trang hoàng đạo tràng ở trong pḥng kín (49) , lấy ngày mồng một của tháng trăng tối mà tắm rửa sạch sẽ, mặc đồ sạch sẽ, rồi đốt hương rải hoa, hiến cúng như vậy, lại hiến cúng ẩm thực. Khi bước vào đạo tràng th́ trước hết, như trước đă chỉ, xướng lạy chư vị Như lai và chư vị Bồ tát; tiếp theo, chí thành và thiết tha mà sám hối nghiệp chướng đă qua; sau đó, đầu gối bên phải qú xuống chấm đất, tŕ tụng minh chú cho được một ngàn lẻ tám biến; rồi ngồi ngay thẳng mà tư duy đến ước nguyện của ḿnh. Mặt trời chưa mọc th́ ở trong đạo tràng mà ăn thức ăn tịnh hắc (50) , và chỉ ăn mỗi ngày một bữa. Phải mười lăm ngày mới ra khỏi đạo tràng. Như vậy th́ người ấy uy lực phước đức thật bất khả tư nghị, ước nguyện ǵ cũng toại ư cả.

Nếu không toại ư th́ lại nhập đạo tràng. Toại ư rồi vẫn thường xuyên tŕ tụng, đừng quên.

Phẩm 9: Trùng Tuyên Về Không

Đức Thế tôn nói về minh chú Kim thắng rồi, để lợi ích cho bồ tát đại sĩ, cho đại hội nhân loại chư thiên, làm cho ai cũng nhận thức đạo lư bậc nhất, thậm thâm chân thật, nên Ngài nói lại về Không, bằng những chỉnh cú sau đây.

(1) Như lai ở trong

các kinh sâu xa

đă nói phong phú

về diệu lư Không.

Nay trong bản kinh

vua các kinh này

lược nói về Không

siêu việt tư nghị.

(2) Với diệu lư Không

quảng đại sâu xa,

chúng sinh vô trí

không thể ư thức,

thế nên Như lai

trùng tuyên nơi đây

về diệu lư ấy

cho họ tỉnh ngộ.

(3) Những bậc đại bi

thương xót chúng sinh,

đem thiện phương tiện

làm thắng nhân duyên (51) ;

thế nên Như lai

trong đại hội này

trùng tuyên cho họ

thể nhận Không lư.

(4) Không th́ thân này

tựa như xóm vắng,

lục tặc ở đó

mà không biết nhau;

nhóm giặc sáu cảnh

dựa riêng sáu căn

mà không biết nhau

cũng y như vậy.

(5) Nhăn căn thường nh́n

vào nơi sắc cảnh,

nhĩ căn liên tục

nghe vào thanh cảnh,

tyՠcăn thường ngửi

vào nơi hương cảnh,

thiệt căn vị giác

vào nơi myՠvị,

(6) thân căn tiếp nhận

xúc giác mềm dịu,

ư căn biết pháp

có chán bao giờ:

như vậy sáu căn

khởi theo yếu tố,

cùng nơi cảnh riêng

mà sinh phân biệt.

(7) Thức như ảo hóa

đâu phải chắc thật,

nó dựa vào cảnh

mà vọng tham cầu.

Như người bôn ba

trong xóm trống vắng,

sáu thức cũng vậy

dựa vào sáu căn.

(8) Thức dông khắp cả

chuyển theo vị trí,

dựa căn vin cảnh

mà biết mọi sự:

đắm sắc thanh hương

say vị xúc pháp,

và riêng với pháp

tầm tư không ngừng.

(9) Thức theo duyên tố

đi khắp sáu căn,

tựa như con chim

bay trong không gian.

Nhưng phải nhờ căn

làm chỗ y cứ

thức mới nhận thức

đối với các cảnh.

(10) Không là tri giả,

không là tác giả (52)

thân không bền chắc,

có do yếu tố.

Tất cả là sinh

từ vọng phân biệt,

chỉ như bộ máy:

chuyển động v́ Nghiệp.

(11) Đất nước lửa gió

chung thành thân thể,

và tùy yếu tố

kết quả khác nhau.

Nhưng ở một chỗ

mà chúng hại nhau,

như bốn rắn độc

ở trong một hộp.

(12) Bốn rắn tứ đại

bản tính khác nhau,

cùng trong một thân

vẫn có thăng trầm,

hoặc lên hoặc xuống

khắp cả châu thân,

thế nên chung cục

qui về diệt vong.

(13) Bốn con rắn độc

tứ đại như vậy,

đất nước hai loại

đa số trầm xuống,

gió lửa hai loại

tính lại nhẹ bổng,

do mâu thuẫn ấy

bịnh hoạn phát sinh.

(14) Tâm thức dựa vào

cái thân như vậy,

tạo nghiệp lành dữ

đủ mọi dạng thức.

Rồi trong trời người

hay ba đường dữ

tùy theo nghiệp lực

mà nhận thân h́nh.

(15) Thân h́nh ấy bịnh,

rồi thân h́nh chết;

bịnh th́ đại tiểu

từ thân thoát ra,

chết th́ thối ră

gịi bọ ghê tởm,

vất ở rừng thây (53)

như vất gỗ mục.

(16) Đại hội hăy xét

thân là như vậy,

tại sao chấp là

bản ngă, sinh thể?

Phải xét các pháp

toàn là vô thường,

toàn do năng lực

vô minh khởi động.

(17) Bốn thứ đại chủng

toàn bộ hư vọng,

bản chất không thật

thật thể không sinh,

nên Như lai nói

đại chủng toàn không,

th́ biết phù hư

không phải thật có.

(18) Và chính vô minh

tự tánh vốn không,

có ra chỉ v́

yếu tố hóa hợp,

làm cho lúc nào

cũng mất tuệ giác,

nên Như lai nói

đó là vô minh.

(19) Do hành với thức

mà có danh sắc,

lục nhập và xúc

cũng sinh từ đó,

do ái thủ hữu

có sinh già chết,

lo buồn khổ năo

theo măi chúng sinh.

(20) Khổ năo ác nghiệp

ràng buộc bức bách,

sinh tử luân hồi

v́ vậy không nghỉ.

Bản lai phi hữu,

thể tánh là không;

v́ không như lư,

phân biệt sinh ra.

(21) Như lai đă diệt

mọi thứ phiền năo,

thường do chánh trí

hiện hành mà sống:

biết nhà ngũ uẩn

toàn là trống rỗng,

tiến chứng bồ đề

nơi thật chân thật.

(22) Như lai mở cửa

đại thành cam lộ,

chỉ cho đồ chứa

cam lộ vi diệu.

Tự ḿnh đă được

chân cam lộ vị,

lại đem cho người

cam lộ vị ấy.

(23) Như lai gióng lên

trống pháp tối thắng,

Như lai thổi lên

loa pháp tối thắng,

Như lai đốt lên

đèn pháp tối thắng,

Như lai mưa xuống

nước pháp tối thắng.

(24) Chiến thắng phiền năo

cùng bao oán kết,

Như lai dựng lên

cờ pháp tối thượng.

Từ biển sinh tử

cứu vớt chúng sinh,

Như lai đóng cửa

ba nẻo đường dữ.

(25) Phiền năo lửa dữ

thiêu đốt chúng sinh,

không ai cứu cho

không nơi nương tựa.

Cam lộ mát ngọt

làm cho sung măn,

thân tâm nóng bức

đều loại trừ cả.

(26) Do vậy Như lai

trong vô số kiếp

tôn kính hiến cúng

chư vị Như lai,

kiên tŕ giới pháp

bước tới bồ đề,

mong chứng pháp thân

thể hiện an lạc.

(27) Như lai đem cho

tai mắt chân tay,

vợ con tôi tớ

cũng không tiếc lẫn,

tài sản vàng ngọc

cả đồ trang sức,

tùy ai cầu ǵ

Như lai cho cả.

(28) Tu hành khắp cả

sáu ba la mật,

viên măn mười địa

mà thành chánh giác,

thế nên được tôn

bậc Nhất thế trí,

không một ai khác

lường nổi Như lai.

(29) Giả sử đất đai

đại thiên thế giới

tất cả mọi nơi

đều mọc cây cối,

cây lùm cây rừng

lúa mè tre lau

cùng với bao nhiêu

chủng loại cây khác.

(30) Cây cối như vậy

đều đốn chặt hết,

và đem nghiền nhỏ

thành vi trần cả ;

tụ vi trần ấy

thành khối thành đống,

cho đến tụ lại

đầy cả không gian.

(31) Tất cả quốc độ

khắp cả mười phương

có được bao nhiêu

đại thiên thế giới,

đất đai trong đó

cũng nghiền thành bụi,

số lượng bụi ấy

hết cách tính toán.

(31) Giả sử trí tuệ

của cả chúng sinh

gom lại thành ra

trí tuệ một người,

và người như vậy

nhiều đến vô số,

có thể biết được

số bụi nói trên.

(33) Nhưng chỉ một thoáng

tuệ giác Như lai,

mà những người trên

chung nhau suy lường

trong những đời kiếp

nhiều đến vô số,

cũng không tính toán

biết được phần ít.

Bấy giờ đại hội nghe đức Thế tôn trùng tuyên về cái Không sâu xa, th́ có vô lượng chúng sinh thấu triệt bốn đại năm uẩn thể tánh toàn không, sáu căn sáu cảnh chỉ ràng buộc một cách giả dối. Ai cũng nguyện bỏ luân hồi, chính xác tu tập giải thoát, thâm tâm vui mừng, phụng tŕ đúng lời đức Thế tôn chỉ dạy.

Phẩm 10: Măn Nguyện V́ Không  

Trong đại hội có thiên nữ Như ư bảo quang diệu, nghe đức Thế tôn tuyên thuyết diệu pháp sâu xa, th́ hoan hỷ, phấn chấn, từ chỗ ngồi đứng dậy, vắt vạt áo của vai bên phải, gối bên phải qú xuống chấm đất, chắp tay cung kính mà thưa, bạch đức Thế tôn, xin đức Thế tôn dạy cho chúng con cách tu hành về diệu pháp sâu xa. Thiên nữ nói lời chỉnh cú sau đây.

Đấng Soi thế giới!

đấng Lưỡng túc tôn!

đấng Tối thắng nhất!

con xin hỏi Ngài

về cách bồ tát

tu hành chính xác.

Xin Ngài từ bi

cho phép con hỏi.

Đức Thế tôn dạy, thiện nữ thiên, có điều ǵ nghi hoặc th́ tùy ư mà hỏi. Như lai sẽ giảng giải cho. Thiện nữ thiên liền thỉnh vấn đức Thế tôn, rằng

Các vị bồ tát

làm sao tu hành

bồ đề chánh hạnh,

rời cả sinh tử

cùng với niết bàn

mà lợi ḿnh người?

Đức Thế tôn dạy, thiện nữ thiên, hăy dựa pháp tánh mà hành bồ đề, tu b́nh đẳng hạnh. Dựa pháp tánh mà hành bồ đề, tu b́nh đẳng hạnh là thế nào? Là chính nơi ngũ uẩn mà phát hiện pháp tánh. Pháp tánh là ngũ uẩn. Nhưng ngũ uẩn với pháp tánh không thể nói tức, cũng không thể nói rời. Nếu nói pháp tánh tức ngũ uẩn th́ thế là đoạn kiến, nếu nói pháp tánh rời ngũ uẩn th́ thế là thường kiến. Phải rời cả hai khái niệm, không vướng hai cực đoan, không thể thấy, vượt trên sự thấy, không danh từ, không ấn tượng, như thế mới là nói về pháp tánh.

Thiện nữ thiên, chính nơi ngũ uẩn mà phát hiện pháp tánh là thế nào? Là xét ngũ uẩn không do yếu tố tương quan mà phát sinh. Nếu nói do yếu tố mà phát sinh, th́ đă sinh mà sinh, hay chưa sinh mà sinh? Nếu nói đă sinh mà sinh th́ cần ǵ yếu tố? Nếu nói chưa sinh mà sinh th́ sự sinh ấy không thể có được. Chưa sinh là không có, không có danh từ, không có khái niệm, không phải tính toán hay ví dụ mà diễn tả được, v́ đâu phải là cái do yếu tố tương quan mà sinh ra. Thiện nữ thiên, hăy nói như tiếng trống: do gỗ, do da, do dùi, do tay, do đủ thứ mới có tiếng phát ra. Tiếng ấy quá khứ đă không có, vị lai sẽ không có, hiện tại cũng không có. Tại sao, v́ tiếng ấy không do gỗ mà có, không do da mà có, không do dùi do tay mà có, không có cả trong ba th́ gian, th́ thế là không sinh. Không sinh th́ không diệt. Không diệt th́ không đến từ đâu. Không đến từ đâu th́ không đi đến đâu. Không đi đến đâu th́ phi thường phi đoạn. Phi thường phi đoạn th́ phi nhất phi dị. Nếu là nhất th́ không khác pháp tánh, mà nếu thế th́ phàm phu đáng lẽ thấy được pháp tánh, được niết bàn tối thượng an lạc; nhưng đă không phải như vậy th́ biết phi nhất. Nếu là dị th́ chư vị Như lai và chư vị Bồ tát thi hành toàn là chấp trước, chưa được giải thoát, không chứng bồ đề; nhưng đối với thánh giả th́ cái ngũ uẩn chuyển biến với cái pháp tánh phi chuyển biến đồng là thật tánh, thế nên phi dị. Do vậy mà biết ngũ uẩn phi hữu phi vô, phi do yếu tố phát sinh, phi không do yếu tố phát sinh, và là cái thánh trí biết đến, không phải lĩnh vực của người khác; lại là cái không phải ngôn ngữ diễn tả, không danh từ, không khái niệm, không nhân tố, không duyên tố, không thể ví dụ, đầu cuối vắng lặng, xưa nay tự không. Như thế đó gọi là chính nơi ngũ uẩn mà phát hiện pháp tánh. Thiện nữ thiên, thiện nam hay thiện nữ nào muốn cầu vô thượng bồ đề th́ phải phi chân phi tục, vượt quá suy lường, phàm cảnh thánh cảnh phi nhất phi dị, [nói tóm], không bỏ tục, không rời chân, th́ đó là dựa pháp tánh mà hành bồ đề.

Đức Thế tôn dạy như vậy rồi, thiện nữ thiên phấn chấn hoan hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy, vắt vạt áo của vai bên phải, gối bên phải qú xuống chấm đất, chắp tay cung kính, nhất tâm đảnh lễ, mà thưa, bạch đức Thế tôn, đúng như lời Ngài đă huấn dụ về bồ đề hạnh, con nguyện xin tu học.

Bấy giờ đại phạn thiên vương chủ của thế giới hệ Sách ha, ở trong đại hội, hỏi thiện nữ thiên Như ư bảo quang diệu, rằng bồ đề hạnh như vậy thật khó tu tập, thiện nữ làm sao tự tại được với bồ đề hạnh ấy? Thiện nữ thiên nói, đại phạn vương, như lời Thế tôn huấn dụ th́ thật sâu xa, chúng sinh khó mà nhận thức, v́ đó là lĩnh vực của thánh giả, nhiệm mầu, khó biết. Nhưng, đối với diệu pháp ấy tôi sống được yên vui trong đó, nếu lời này mà thật th́ ước nguyện toàn thể chúng sinh trong cái thời kỳ đầy cả năm thứ dơ bẩn này đều thành màu hoàng kim, đủ ba mươi hai tướng tốt, phi nam phi nữ, ngồi ṭa sen ngọc, hưởng vô lượng yên vui, thiên hoa tự mưa xuống, thiên nhạc tự tấu lên, mọi cách hiến cúng đầy đủ tất cả. Thiện nữ thiên nói rồi, tất cả chúng sinh trong thời kỳ đầy cả năm thứ vẩn đục này đều thành màu hoàng kim, đủ tướng đại trượng phu, phi nam phi nữ, ngồi ṭa sen ngọc, hưởng vô lượng yên vui y như Tha hóa tự tại thiên cung, không mọi đường dữ, cây ngọc có hàng có lối, hoa sen bảy chất liệu quí đầy cả thế giới, lại mưa xuống thiên hoa bảy chất liệu quư rất đẹp, thiên nhạc tấu lên. Và thiện nữ thiên Như ư bảo quang diệu th́ biến thể nữ thân thành thân đại phạn vương. Bấy giờ đại phạn vương hỏi thiện nữ thiên Như ư bảo quang diệu, ngài hành bồ đề hạnh như thế nào? Thiện nữ thiên nói, đại phạn vương, như trăng dưới nước hành bồ đề hạnh th́ tôi cũng hành bồ đề hạnh, như chiêm bao hành bồ đề hạnh th́ tôi cũng hành bồ đề hạnh, như sóng nắng hành bồ đề hạnh th́ tôi cũng hành bồ đề hạnh, như tiếng vang hành bồ đề hạnh th́ tôi cũng hành bồ đề hạnh. Đại phạn vương nghe nói như vậy th́ thưa rằng, kính bạch bồ tát, ngài dựa vào ư nghĩa nào mà nói như vậy? Thiện nữ thiên trả lời, đại phạn vương, không một pháp nào là thực tại, toàn do yếu tố tương quan mà thành. Đại phạn vương nói, nói như ngài th́ phàm phu lẽ đáng được vô thượng bồ đề cả! Thiện nữ thiên nói, ngài nói như vậy là với ư ǵ? [Ngài nên biết, phàm phu th́ cho] người ngu khác, người trí khác, bồ đề khác, phi bồ đề khác, giải thoát khác, phi giải thoát khác; nhưng, đại phạn vương, [thánh giả th́ thấy] các pháp như vậy b́nh đẳng không khác, biết pháp tánh chân như phi nhất phi dị, cũng không có cái trung tính để mà chấp trước, bất tăng bất giảm. Đại phạn vương, như nhà ảo thuật và đồ đệ của ḿnh, rất rành ảo thuật, đến chỗ ngă tư, dùng những vật liệu cát đất cỏ cây vân vân, gom lại một chỗ mà làm ảo thuật. Làm cho người ta thấy những voi, những ngựa, những xe, vân vân, thấy đống bảy loại quí báu, thấy kho lẫm tràn đầy. Rồi kẻ khờ khạo không biết suy xét, không hiểu ảo thuật, nên thấy hay nghe ǵ cũng cho là thật, voi thật ngựa thật vân vân, và chỉ thế là thật, ngoài ra là dối cả, sau đó không c̣n suy xét ǵ nữa. C̣n người hiểu biết th́ trái lại, biết cái gốc ảo thuật, nên thấy hay nghe ǵ cũng nghĩ, những thứ ta thấy, thấy voi thấy ngựa vân vân, toàn là giả cả, chỉ do ảo thuật mê hoặc mắt người, vọng cho là voi, là lẫm, nhưng chỉ có tên, không có thật, nên cái ta thấy nghe không nên chấp là thật, sau đó càng xét biết là dối trá. Do vậy, trí giả th́ biết các pháp không thật, chỉ do thế nhân thấy ǵ nghe ǵ th́ nói ra như thế, chứ xét cho kyՠth́ không phải như thế. Và như thế th́ cũng do nói giả mà xét ra nghĩa thật. Đại phạn vương, chúng sinh chưa có mắt tuệ của các vị thánh giả, chưa biết chân như của các pháp là không thể nói, nên thấy hay nghe cái pháp hữu vi chuyển biến với cái pháp vô vi phi chuyển biến th́ tư duy y theo thấy nghe và chấp cho là thật; trong chân đế, họ không thể thấu hiểu chân như các pháp là không thể nói. C̣n các vị thánh giả thấy hay nghe cái pháp hữu vi chuyển biến với cái pháp vô vi phi chuyển biến, th́ tùy trí lực mà không chấp là thật có, thấu hiểu tất cả không có ǵ là hữu vi chuyển biến, không có ǵ là vô vi phi chuyển biến, chỉ vọng tưởng là chuyển biến phi chuyển biến, chỉ có tên không có thật. Thế rồi các vị thánh giả ấy tùy tục đế mà nói cho người khác biết sự thật là như vậy. Đại phạn vương, các vị thánh giả sử dụng sự thấy biết của bậc thánh, thấu hiểu chân như là không thể nói, chuyển biến phi chuyển biến cũng như vậy, nhưng v́ làm cho người khác cũng biết như vậy nên nói ra bao nhiêu dạng thức của danh ngôn tục đế. Bấy giờ đại phạn vương lại hỏi bồ tát Như ư bảo quang diệu, rằng có bao nhiêu chúng sinh hiểu được cái pháp sâu xa như thế này? Bồ tát nói, đại phạn vương, có tâm vương và tâm sở của những người được ảo thuật tạo ra biết được cái pháp sâu xa này. Đại phạn vương nói, người ảo thuật th́ không thật có, vậy tâm vương tâm sở có từ đâu? Bồ tát nói, [lời tôi nói có nghĩa] nếu biết pháp tánh phi hữu phi vô, th́ người ấy biết được nghĩa lư sâu xa này.

Đại phạn vương thưa đức Thế tôn, bạch Ngài, vị bồ tát Như ư bảo quang diệu này thật bất khả tư nghị, thông suốt đến như vậy đối với nghĩa lư cực kỳ sâu xa. Đức Thế tôn dạy, đúng như vậy, đại phạn vương, đúng như ông nói. Thiện nữ thiên Như ư bảo quang diệu đă từ lâu giáo huấn cho các người phát tâm tu học vô sinh pháp nhẫn. Đại phạn vương cùng với phạn chúng, liền đứng dậy khỏi chỗ họ ngồi, vắt vạt áo của vai bên phải, gối bên phải qú xuống chấm đất, chắp tay cung kính, lạy ngang chân bồ tát Như ư bảo quang diệu mà nói như vầy, thật là hiếm có, ngày nay chúng tôi hạnh ngộ đại sĩ, được nghe pháp nghĩa đại sĩ nói. Đức Thế tôn bảo đại phạn vương, vị thiện nữ thiên Như ư bảo quang diệu này, trong th́ vị lai sẽ thành Phật đà, danh hiệu là Bảo diệm cát tường tạng, bậc Đến như chư Phật, bậc Thích ứng hiến cúng, bậc Biết đúng và khắp, bậc Hoàn hảo sự sáng, bậc Khéo qua niết bàn, bậc Lư giải vũ trụ, bậc Không ai trên nữa, bậc Thuần hóa mọi người, bậc Thầy cả trời người, bậc Tuệ giác hoàn toàn, bậc Tôn cao nhất đời.

Khi đức Thế tôn tuyên thuyết pháp thoại này th́ có ba ngàn ức bồ tát không c̣n thoái chuyển vô thượng bồ đề, tám ngàn ức thiên tử và vô số quốc vương cùng thần dân đều xa bụi bặm, rời dơ bẩn, được sự trong sáng của mắt pháp.

Bấy giờ trong đại hội có năm mươi ức Bí sô hành bồ tát hạnh mà muốn thoái chuyển bồ đề tâm, nhưng khi nghe bồ tát Như ư bảo quang diệu thuyết pháp như trên th́ ai cũng được sự kiên định bất khả tư nghị, thỏa măn ước nguyện tối thượng, phát lại bồ đề tâm, và cởi pháp y mà hiến lên bồ tát, phát lại cái chí thắng tiến tối thượng, và nguyện rằng bao nhiêu thiện căn của chúng tôi đều được không c̣n thoái chuyển, hồi hướng về vô thượng bồ đề. Đức Thế tôn nói với đại phạn vương, các vị Bí sô này do công đức này mà tu hành đúng như huấn dụ, qua chín mươi đại kiếp th́ sẽ được chứng ngộ, thoát ly sinh tử. Đức Thế tôn liền thọ kư cho, rằng chư vị Bí sô, qua ba mươi vô số kiếp, chư vị sẽ được thành Phật đà, với thời kỳ tên Nan thắng quang vương, quốc độ tên Vô cấu quang. Chư vị đồng thời chứng đắc vô thượng bồ đề, đồng một danh hiệu Nguyện trang nghiêm gián sức vương, đủ mười đức hiệu.

Đại phạn vương, bản kinh nhiệm mầu Ánh sáng hoàng kim này ai chính xác nghe nhớ th́ có uy lực rất lớn. Giả sử có ai tu hành sáu ba la mật trong trăm ngàn đại kiếp mà không có [sự nhận thức về Không làm] phương tiện, mặt khác, nếu có thiện nam hay thiện nữ nào sao chép kinh Ánh sáng hoàng kim này, cứ mỗi nửa tháng đọc tụng chuyên chú, th́ cái khối công đức này, công đức trước không bằng một phần trăm, đến nỗi toán số hay ví dụ cũng không đối chiếu được. Đại phạn vương, do vậy mà Như lai khuyến khích các người tu học, chánh niệm, thọ tŕ, tuyên thuyết phong phú. Tại sao, v́ xưa kia, khi Như lai đi trên đường đi bồ tát th́, như dũng sĩ xung trận, Như lai không tiếc tính mạng mà lưu thông bản kinh vua chúa và nhiệm mầu này, tiếp nhận, ghi nhớ, nghiên cứu, tụng thuộc, giải thích cho người. Đại phạn vương, luân vương c̣n th́ thất bảo c̣n, luân vương mất th́ thất bảo cũng tự nhiên mất theo. Cũng y như vậy, Đại phạn vương, kinh vua Ánh sáng hoàng kim này nếu c̣n th́ pháp bảo tối thượng c̣n cả, nếu không c̣n th́ pháp bảo cũng ẩn mất hết. Do vậy, đối với kinh vua này, các người phải chuyên tâm mà lắng nghe, mà ghi nhớ, nghiên cứu, tụng thuộc, giải thích phong phú cho bao người khác, khuyến khích họ cũng sao chép và tu hành bằng sự tinh tiến ba la mật, không tiếc tính mạng, không nài mệt nhọc. Đó là công đức siêu việt trong các công đức. Là đệ tử của Như lai th́ các người phải siêng năng tu học như vậy. Đại phạn vương với vô số phạn chúng, Đế thích cùng bốn vị Thiên vương với bộ chúng Dược xoa, tất cả đều từ chỗ ngồi đứng dậy, vắt vạt áo của vai bên phải, gối bên phải qú xuống chấm đất, chắp tay cung kính mà thưa, bạch đức Thế tôn, chúng con cùng nhau nguyện giữ ǵn và quảng bá kinh Ánh sáng hoàng kim này, nguyện giữ ǵn cho các vị pháp sư giảng nói kinh này. Có tai nạn ǵ chúng con cũng trừ khử, làm cho có đủ mọi sự cát tường, sắc tướng và sức lực sung túc, hùng biện vô ngại, cơ thể và tâm trí đều thư thái cả. Và cả thính giả nữa cũng yên vui hết thảy. Quốc gia họ ở nếu bị đói khát, giặc giă, kẻ thù, quỉ thần, quấy rối và tác hại th́ chư thiên chúng con sẽ hộ tŕ cho. Dân chúng mà yên ổn, sung túc, không oan khuất, không tai họa, là do sức của chư thiên chúng con. Ai hiến cúng kinh này th́ chúng con tôn kính hiến cúng y như đối với đức Thế tôn, không khác ǵ cả. Đức Thế tôn bảo đại phạn vương, phạn chúng, cho đến bốn vị Thiên vương, cùng bộ chúng Dược xoa, lành thay, các người đă được nghe diệu pháp sâu xa, đối với kinh vua của diệu pháp ấy lại phát tâm hộ tŕ, hộ tŕ những ai thọ tŕ kinh ấy, th́ các người đă đạt được cái phước thù thắng và vô biên, mau chóng thành tựu vô thượng bồ đề. Đại phạn vương, và mọi người đồng đẳng, nghe những lời đức Thế tôn huấn dụ th́ hoan hỷ, cung kính mà tiếp nhận.

Phẩm 11: Thiên Vương Quan Sát

Vào lúc bấy giờ, thiên vương Đa văn, thiên vương Tŕ quốc, thiên vương Tăng trưởng, thiên vương Quảng mục, bốn vị cùng từ chỗ ngồi đứng dậy, vắt vạt áo của vai bên phải, gối bên phải qú xuống chấm đất, chắp tay hướng về đức Thế tôn, đảnh lễ ngang chân của Ngài, thưa rằng, bạch đức Thế tôn, bản kinh Ánh sáng hoàng kim này chư vị Thế tôn thường quan tâm, chư vị Bồ tát thường tôn kính, các bộ thiên long thường hiến cúng, tất cả chư thiên thường vui mừng, tất cả hộ thế thường ca tụng. Kinh này chư vị Thanh văn và chư vị Độc giác cùng nhau thọ tŕ. Kinh này có năng lực chiếu sáng cung điện chư thiên, có năng lực ban cho chúng sinh sự yên vui thượng thặng, có năng lực làm ngưng sự khổ sở trong các đường dữ, có năng lực loại trừ mọi sự sợ hăi, giải tỏa mọi sự thù địch, làm no những lúc đói khát, làm lành những bịnh truyền nhiễm, mọi tai biến với hàng trăm hàng ngàn khổ năo đều tiêu tan cả. Bạch đức Thế tôn, kinh Ánh sáng hoàng kim năng lực làm được những lợi lạc như vậy, lợi ích cho chính chúng con. Kính xin đức Thế tôn, trong đại hội này, tuyên thuyết phong phú thêm nữa cho chúng con. Bốn thiên vương chúng con, cùng tùy thuộc của ḿnh, được nghe pháp vị cam lộ tối thượng như thế này, th́ khí lực sung măn, uy quang tăng thêm, tinh tiến sẽ dũng mănh hơn, thần lực sẽ phát triển hơn.

Bạch đức Thế tôn, bốn thiên vương chúng con làm theo chánh pháp, nói theo chánh pháp, thường đem chánh pháp mà phục vụ thế giới. Chúng con lại làm cho tám bộ thiên long, cùng các vị quốc vương, cũng thường đem chánh pháp mà phục vụ thế giới, ngăn chận và hủy diệt những điều ác. Bao nhiêu quỉ thần không có từ tâm, hấp tinh khí của người, th́ chúng con làm họ phải đi thật xa. Bạch đức Thế tôn, bốn thiên vương chúng con, cùng đại tướng của hai mươi tám bộ chúng Dược xoa, với vô số trăm ngàn Dược xoa tùy thuộc, dùng thiên nhăn trong suốt hơn thị lực của nhân loại mà quan sát và hộ tŕ cho đại lục Thiệm bộ này. Do vậy mà, bạch đức Thế tôn, chúng con được gọi là những người hộ vệ thế giới.

Trong đại lục Thiệm bộ này, nếu có quốc vương nào quốc gia bị giặc thù xâm phạm luôn, quốc dân bị đói khát và tật dịch (54) hoành hành, bị hàng trăm hàng ngàn tai ách, th́, bạch đức Thế tôn, chúng con [v́ họ mà] cung kính hiến cúng kinh Ánh sáng hoàng kim. Và nếu có vị pháp sư Bí sô nào thọ tŕ đọc tụng kinh này th́ chúng con cùng đến mà thức tỉnh, khuyến thỉnh vị ấy; vị ấy, do thần lực của chúng con thức tỉnh khuyến thỉnh, nên đến quốc gia nói trên, tuyên thuyết rộng răi bản kinh nhiệm mầu Ánh sáng hoàng kim. Do thần lực của kinh này mà hàng trăm hàng ngàn những sự tai ách đều bị loại trừ. Bạch đức Thế tôn, các vị quốc vương, khi có vị pháp sư Bí sô thọ tŕ kinh này đi đến quốc gia của họ, th́ họ phải biết kinh này cũng đến quốc gia của họ. Do vậy, bạch đức Thế tôn, các vị quốc vương ấy hăy đến chỗ vị pháp sư mà lắng nghe vị ấy diễn giảng kinh này. Nghe rồi hoan hỷ, cung kính hiến cúng vị pháp sư, thâm tâm hộ tŕ cho vị ấy khỏi lo lắng để tuyên thuyết kinh này, lợi ích tất cả. Bạch đức Thế tôn, chính v́ kinh này mà bốn thiên vương chúng con cùng nhau nhất tâm hộ tŕ vị quốc vương kia, cùng quốc dân của ông, làm cho xa rời tai họa, thường thường yên ổn. Bạch đức Thế tôn, nếu có vị Bí sô, Bí sô ni, ô ba sách ca, ô ba tư ca nào thọ tŕ kinh này, vị quốc vương kia nên hiến cúng, cung cấp những thứ cần dùng, không để thiếu thốn, th́ bốn thiên vương chúng con làm cho vị quốc vương kia, và quốc dân của ông, ai cũng yên ổn, tách xa tai họa. Bạch đức Thế tôn, có ai thọ tŕ đọc tụng kinh này mà vị quốc vương cung kính, hiến cúng, tôn trọng, tán dương, th́ chúng con làm cho vị quốc vương ấy được cung kính tôn trọng nhất trong các vị quốc vương, các vị quốc vương ai cũng tán dương ca tụng.

Đại hội nghe nói như vậy, ai cũng hoan hỷ, tiếp nhận và ghi nhớ.

 

previous.png     Hết quyển 5     next.png

  Mục lục 01020304050607080910

 

 

 

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0