| 
	 VT0272
  
	| ML | Q 01 | Q 02 | Q 03 | Q 04 | Q 05 | Q 06 | Q 07 | Q 08 | Q 09 | Q 10 | 
	KINH ĐẠI TÁT-GIÀ NI-KIỀN TỬ SỞ THUYẾT 
	Hán dịch: Đầu đời Ngụy, Tam tạng Bồ-đề-lưu-chi, người xứ Thiên Trúc. 
	Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh 
	QUYỂN 1 
	Phẩm 1: PHẦN TỰA  
	Tôi nghe như vầy:  
	Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ở trong vườn vua Nghiêm Sí thuộc thành Uất-xà-diên. Trong vườn ấy, có nhiều cây cối tươi đẹp và kỳ lạ vô cùng như: cây Bà-la, cây Đa-la, cây Đa-ma-la, cây Ca-ni-ca-la, cây Ni-câu-luật, cây Ba-la-xoa, cây hoa Uất-đàm-bát, cây hoa Bàsư-ca, cây hoa Đà-nậu-ni-ca, cây hoa A-đề-mục-đa-la, cây hoa Chiêm-bặc, cây hoa Thâu-la, cây hoa Ba-tra-la. Như vậy, khu vườn ấy được trang hoàng vô số trăm ngàn cây cối tươi đẹp.  
	Lại có các dòng nước khác nhau, như nước suối, nước biển, dòng nước chảy thẳng, dòng nước uốn lượn, nước A-la-ca, nước ao, nước từ trên chảy xuống, nước từ dưới phun lên. Như vậy, có vô lượng trăm ngàn các dòng nước vi diệu tô điểm.  
	Lại có các loại hoa nhiều màu sắc rất đẹp, như hoa Ưu-ba-la, hoa Bát-đầu-ma, hoa Câu-mâu-đầu, hoa Phân-đà-lợi, hoa Tha-la, hoa Ma-ha tha-la, hoa Lô-giá, hoa Ma-ha lô-giá. Như vậy, có vô lượng, vô biên trăm ngàn loại hoa đẹp trang trí.  
	Lại có những loài chim có tiếng hót rất hay, như chim Thiên nga, chim Côn-lôn-già, chim Câu-chỉ-la, chim Câu-na-la, chim Cuđa, chim Quật-đa, chim Anh vũ, chim Cà-dục, chim Xà-bà-xà-bá, chim Ca-lăng-tần-già. Như vậy, có vô lượng, vô biên các loài chim có tiếng hót hay.  
	Lại có những loài ong với nhiều màu sắc rất đẹp, bay trên hư không, xen lẫn nối liền nhau, giống như một tấm lưới được kết lại, che khắp trên bầu trời để làm trang trí.  
	Lại có các loại cỏ nhiều màu sắc, mềm mại, có hương thơm, cùng với vô lượng trăm ngàn màu sắc đẹp khác nhau, tô điểm trên mảnh đất ấy. Có những thứ trang hoàng đẹp đẽ ở trong vườn như thế.  
	Ở đây, cũng có đại chúng Tỳ-kheo gồm bảy mươi hai trăm ngàn vạn ức vị, như là: Tuệ mạng Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên, Ma-ha Ca-diếp, A-nậu-lâu-đà, Tu-bồ-đề, Ma-ha Ca-chiên-diên, Ma-ha Kiếptân-na, Nan-đà, Na-đề Ca-diếp, Già-da Ca-diếp, Phú-lâu-na Di-đa-lani Tử, Kiều-phạm-ba-đề, Bàn-tha-ca, Châu-la-bàn-tha-ca, Đà-phiêuma-la-tử, Khước-đà-lâm-thuần-đà, Ma-ha Câu-hy-la, La-hầu-la và Tuệ mạng A-nan. Đó là những vị làm Thượng thủ trong đại chúng gồm bảy mươi hai trăm ngàn vạn ức vị.  
	Tất cả các vị đều tu tập các hạnh ở trong các cảnh giới của pháp giới như thật, đã nhập vào thật tánh pháp giới. Tất cả đều đạt được hạnh vi diệu thù thắng của cảnh giới hư không không chướng ngại, đạt được hạnh không đắm trước, xa lìa các cấu nhiễm phiền não và tất cả kết sử; tất cả đều vào nơi ánh sáng pháp tánh của Như Lai chiếu đến, cùng chứng một trí tuệ lớn bình đẳng pháp tánh, đạt được các môn Nhất thiết trí của Như Lai trong hiện tại, đạt được khả năng bằng không ngừng trong đạo Bồ-đề tâm; tất cả đều không thoái lui, đi thẳng đến đại Bồ-đề; tất cả đều chứng được bất thoái chuyển đại Bồ-đề tâm, đạt Đệ nhất tri kiến Bát-nhã, đi đến bờ kia. Tất cả đều đạt được trí tuệ phương tiện cứu cánh đi đến bờ kia.  
	Lại có Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề, Da-thâu-đà-la... có tám ngàn vị Tỳ-kheo-ni làm thượng thủ trong năm ngàn vạn ức Tỳ-kheo-ni. Tất cả đều đầy đủ hoàn hảo các thiện pháp thắng vi diệu; tất cả đều đi vào đạo Nhất thiết trí hoàn toàn; tất cả đều gần với trí Nhất thiết trí; tất cả đều nhập vào tánh không sở hữu; tất cả đều có khả năng quán sự vô thường của các pháp; tất cả đều có lòng tin hoàn toàn đối với pháp hữu hạn và vô hạn; tất cả đều đạt được giải thoát không chướng ngại; tất cả đều đạt được sự tùy theo nhân duyên có thể giáo hóa chúng sinh, để họ thấy được sắc thân của chư Phật.  
	Lại có bảy mươi hai trăm ngàn vạn ức Đại Bồ-tát đang tập hợp, như là: Bồ-tát Đại Tốc Hành, Bồ-tát Đại Tốc Hành Trụ Trì, Bồ-tát Phấn Tấn, Bồ-tát Đại Phấn Tấn Vương, Bồ-tát Đại Tinh Tấn Phấn Tấn, Bồ-tát Đại Dũng Phấn Tấn, Bồ-tát Hiện Đại Dũng Thế, Bồ-tát Đại Lực Phấn Tấn, Bồ-tát Đại Chúng Tự Tại, Bồ-tát Đại Hương Tượng, Bồ-tát Đại Nguyệt, Bồ-tát Thiện Nguyệt, Bồ-tát Nguyệt Công Đức, Bồ-tát Bảo Nguyệt, Bồ-tát Nguyệt Quang Phổ Chiếu, Bồ-tát Pháp Vô Cấu Nguyệt, Bồ-tát Phổ Chiếu, Bồ-tát Nguyệt Danh Xưng, Bồ-tát Phóng Nguyệt Quang Minh, Bồ-tát Mãn Nguyệt, Bồ-tát Phạm Thinh, Bồ-tát Phạm Tự Tại Hống Thinh, Bồ-tát Địa Hống Thinh, Bồ-tát Pháp Giới Hống Thinh, Bồ-tát Kinh Bố Nhất Thiết Quỹ Cung Hống Thinh, Bồ-tát Xuất Pháp Cổ Thinh, Bồ-tát Phổ Thức Thinh, Bồ-tát Vô Phân Biệt Ly Phân Biệt Thinh, Bồ-tát Sư Tử Hống Địa Dũng Thinh, Bồ-tát Bế Tắc Nhất Thiết Thinh, Bồ-tát Phổ Tạng, Bồ-tát Công Đức Tạng, Bồ-tát Phổ Chiếu Tạng, Bồ-tát Bảo Tạng, Bồ-tát Nguyệt Tạng, Bồ-tát Nhật Tạng, Bồ-tát Nhật Quang Tạng, Bồ-tát Ba Đầu Ma Tạng, Bồ-tát Phước Đức Tạng, Bồ-tát Trí Thắng Tạng, Bồ-tát Đại Tuệ, Bồ-tát Thắng Tuệ, Bồ-tát Danh Xưng Tuệ, Bồ-tát Khoái Tuệ, Bồ-tát Thượng Tuệ, Bồ-tát Tăng Trưởng Tuệ, Bồ-tát Vô Biên Tuệ, Bồ-tát Quảng Tuệ, Bồ-tát Phật Tuệ, Bồ-tát Vô Tận Tuệ, Bồ-tát Di Lưu Sơn Đăng Minh, Bồ-tát Nhiên Đại Đăng Minh, Bồ-tát Pháp Đăng Minh, Bồ-tát Biến Thập Phương Đăng Minh, Bồ-tát Phổ Chiếu, Bồ-tát Phổ Diệt Nhất Thiết Ám Đăng Minh, Bồ-tát Phổ Chiếu Chư Thúc Đăng Minh, Bồ-tát Thường Phóng  
	Hỏa Quang Đăng Minh, Bồ-tát Nguyệt Quang Đăng Minh, Bồ-tát Nhật Quang Đăng Minh, Bồ-tát Ly Ác Đạo, Bồ-tát Hàng Ma, Bồ-tát Đại Hàng Ma, Bồ-tát Hy Sinh, Bồ-tát Nan Hàng, Bồ-tát Nan Lường, Bồ-tát Nan Tri Trí, Bồ-tát Kiệt Ác Đạo, Bồ-tát Đại Thế Chí, Bồ-tát Quán Thế Tự Tại, Bồ-tát Di-lặc, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử. Những vị này làm Thượng thủ trong bảy mươi hai trăm ngàn vạn chúng.  
	Như vậy, tất cả các Đại Bồ-tát đều đắc Nhất sinh bổ xứ, đạt được Đà-la-ni, đạt đến các biển Tam-muội, đạt được vô biên lạc thuyết, vô ngại biện tài, đạt được khả năng thuyết pháp không còn sợ hãi. Tất cả đều đạt được đệ nhất đến bờ kia, rừng công đức tự tại như ý. Tất cả đều đạt được đại đạo thần thông, tự do nhanh chóng đi đến các quốc độ chư Phật. Tất cả đều đạt được thân tâm giải thoát, tự do không còn chướng ngại. Tất cả đều đạt được tri kiến rốt ráo không còn chướng ngại. Tất cả đều đạt khả năng thị hiện thân Phật đi khắp mười phương, đến những quốc độ không có Phật. Tất cả đều đạt được chánh trí như thật, chuyển đại pháp luân không còn lỗi lầm. Tất cả đều đạt được sự tùy thuận khắp mười phương, lắng nghe tiếng chúng sinh để thuyết pháp cho họ. Tất cả đều đạt được môn Đà-lani, không nói phi pháp. Tất cả đều đạt được pháp giới như thật, không thủ không xả. Tất cả đều đạt được khả năng thuyết pháp về nghĩa “Không” của các pháp không còn bị chướng ngại. Tất cả đều có thể rống lên tiếng rống sư tử, có khả năng thu phục ngoại đạo, có khả năng phá tan kẻ thù ma oán. Tất cả đều đạt được thần thông của Bồ-tát và các hạnh tốt đẹp thù thắng, đều đã xa lìa các sự hận thù, ghen ghét. Tất cả đều đạt được tâm rộng lớn bình đẳng như địa, thủy, hỏa, phong. Tất cả đều vào nơi sâu xa bí mật của các Đức Như Lai, vì chúng sinh giữ gìn Phật sự. Tất cả đều đạt hạnh thù thắng, được các Đức Như Lai khen ngợi, tán thán, tùy hỷ nói về hạnh của những vị ấy và có thể tồn tại vô lượng, vô biên kiếp, có khả năng giữ gìn pháp luân của Đức Như Lai đã thuyết giảng và được phóng ra ánh thù thắng không thể nói hết được. Tất cả đầy đủ sự tự tại ở trong các thế gian, những lời nguyện trong quá khứ đều được thành tựu. Tất cả đều đạt được cảnh giới tánh hạnh của các Đức Như Lai và có đủ hạnh tốt đẹp đã tu trong quá khứ. Tất cả đều đạt được trí vô cấu thanh tịnh của Đức Phật, không dừng nghĩ, thường dũng mãnh tinh tấn cúng dường tất cả các Đức Phật Như Lai. Tất cả đều phát khởi dũng mãnh, giữ gìn vững chắc quả vị không thoái chuyển. Tất cả đều được đại Bi hiện tiền, được tự tánh thanh tịnh thâm tâm giải thoát. Tất cả đều xa lìa các phiền não như nghi, hối, giới thủ, được thần lực của các Đức Phật trong quá khứ gia hộ.  
	Lại có rất nhiều Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Lại có các vị đầy đủ oai đức thù thắng như Thiên vương ở các cõi Trời, các vị Long vương, Dạ-xoa và vua Dạ-xoa, các Càn-thát-bà và vua Càn-thát-bà, các Atu-la và vua A-tu-la, các Ca-lâu-la và vua Ca-lâu-la, các Khẩn-na-la và vua Khẩn-na-la, các Ma-hầu-la-già và vua Ma-hầu-la-già, người và vua người.  
	Lúc bấy giờ, tất cả các đại chúng đều có trăm ngàn vạn ức bà con quyến thuộc đều có mặt đầy đủ trong chúng hội.  
	Bấy giờ, vì vô lượng trăm ngàn vạn ức đại chúng cung kính vây quanh, Đức Thế Tôn ngồi kiết già ở trên tòa Sư tử được trang nghiêm bằng trăm ngàn vạn phước báu, chứa đầy công đức thù thắng. Sắc thân nhiệm mầu của Như Lai toát lên uy đức sáng ngời. Tướng ấy rất thù thắng hiển hiện rực rỡ, che khắp cả trời, rồng,… tám bộ chúng.   
	Ví như núi chúa Tu-di mọc lên giữa biển lớn, ánh sáng uy nghi rất đặc biệt, tỏa ra rực rỡ làm che các núi nhỏ. Cũng vậy, Đức Như Lai Thế Tôn là vua đại Tu-di, ngồi trên tòa Sư tử được trang nghiêm bằng trăm ngàn vạn phước báu, uy nghi chói lọi, toát lên rực rỡ thật hiếm có che khắp cả đại chúng.  
	Giống như trăng đầu tháng, vầng ánh sáng lớn dần dần, cho đến khi mặt trăng tròn, ánh sáng của nó rất đặc biệt tỏa ra rực rỡ làm lu mờ tất cả ánh sáng của các vì sao. Cũng vậy, Đức Như Lai Thế Tôn ngồi trên tòa Sư tử được trang nghiêm bằng trăm ngàn vạn phước báu uy nghi sáng chói rất đặc biệt, tỏa ra rực rỡ sáng khắp tất cả đại chúng trời, người.  
	Giống như hư không trong sáng, không bụi nhơ, xa lìa tất cả những đám mây che mờ, bụi bặm nhiễm ô. Trong hư không kia, mặt trời phóng ánh sáng lớn. Ánh sáng ấy rất vượt lên tất cả, tỏa ra rực rỡ sáng che khuất tất cả ánh sáng của các loại côn trùng, đom đóm. Cũng vậy, vầng mặt trời của Đức Thế Tôn khi ngồi trên tòa Sư tử được trang nghiêm bằng trăm ngàn uy nghi sáng chói rất đặc biệt, tỏa ra rực rỡ, ánh sáng bao phủ khắp cả làm cho ánh sáng của Thích Đề-hoàn Nhân, các trời Phạm thiên và Tứ Thiên vương không thể xuất hiện.  
	Giống như đêm tối tăm ở trên đỉnh núi lớn bỗng đốt một vầng lửa lớn, ánh sáng rất rực rỡ, chiếu sáng làm hiện ra tất cả đều thấy. Cũng như ánh sáng của vầng lửa lớn ấy, Đức Như Lai khi ngồi trên tòa Sư tử được trang nghiêm bằng trăm ngàn vạn phước báu, ánh sáng đặc biệt tỏa ra rực rỡ, những ai có nhân duyên đều thấy được.  
	Giống như vua trong các loài thú ở trong núi sâu, uy lực hùng mạnh, toát lên sự hiển hách, hàng phục được tất cả các loài côn trùng cầm thú. Cũng vậy, Đức Như Lai là Sư tử chúa của các pháp, ngồi trên tòa Sư tử được trang nghiêm bằng trăm ngàn vạn phước báu, uy nghi chói lọi tỏa ra rực rỡ, thu phục tất cả ngoại đạo và các chúng sinh tà kiến.  
	Cũng như viên bảo châu như ý ma-ni tám cạnh trong suốt, gắn ở trên phướn cao chiếu ánh sáng rực rỡ, tùy theo tâm nguyện của chúng sinh, mưa xuống các thứ khiến cho họ được đầy đủ. Ánh sáng ấy rất đặc biệt, tỏa ra rực rỡ chiếu khắp mười phương. Cũng vậy, Đức Như Lai như ngọc ma-ni, ngồi trên tòa Sư tử được trang nghiêm bằng trăm ngàn vạn phước báu, ánh sáng trí tuệ rất lớn, uy nghi chói sáng rất đặc biệt, tỏa ra rực rỡ chiếu khắp mười phương, khiến cho ước nguyện của chúng sang được thỏa mãn.  
	Giống như bậc Chuyển luân thánh vương tự tại, uy đức thù thắng, tỏa ra rực rỡ, có khả năng vững chắc chinh phục khắp bốn thiên hạ, không ai có thể đối địch được. Cũng vậy, Đức Như Lai Thế Tôn như vua Chuyển pháp luân, ngồi trên tòa Sư tử được trang nghiêm bằng trăm ngàn vạn phước báu, uy nghi chói sáng rất đặc biệt, tỏa ra rực rỡ hàng phục tất cả ma quỷ, oán thù.  
	Giống như Thích Đề-hoàn Nhân trang điểm báu ma-ni, anh lạc của Đế Thích trên cổ, rồi ngồi trên Thiện pháp đường trong các chúng trời, uy đức thù thắng tỏa ra rực rỡ, thu phục tất cả đại chúng chư Thiên. Cũng vậy, Đức Như Lai như Đế Thích ngồi trên tòa Sư tử được trang nghiêm bằng trăm ngàn vạn phước báu, uy đức sáng chói rất đặc biệt, tỏa ra rực rỡ che khắp trời người.  
	Phẩm 2: VẤN NGHI  
	Lúc bấy giờ, Thánh giả Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử thấy vô số đại chúng vân tập, thấy Đức Thế Tôn thị hiện tướng rất thù thắng hiếm có, mới nghĩ: “Hôm nay, vì nhân duyên gì mà Đức Thế Tôn lại thị hiện tướng này trước? Hôm nay có điều nghi vấn, ta phải nên hỏi. Vì sao Đức Như Lai Thế Tôn ngồi trên tòa Sư tử được trang nghiêm bằng trăm ngàn vạn phước báu, uy nghi sáng chói rất đặc biệt, tỏa ra rực rỡ và có vô lượng đại chúng tập hợp như thế? Đây là điều khó có thể gặp được.”  
	Nghĩ như vậy rồi, Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo bên phải, quỳ gối phải chạm đất, chắp tay hướng về Đức Phật dùng kệ tán thán Đức Như Lai:  
	Thế Tôn tỏa mười Lực  
	Trời người các thế gian  
	Ba cõi không ai bằng  
	Lẽ đâu có người hơn?  
	Như núi chúa Tu-di  
	Vượt biển lớn, núi nhỏ  
	Vững chắc không lay động  
	Các trời nhờ an ổn  
	Như Lai vua Tu-di  
	Vượt qua biển sinh tử  
	Đầy đủ các công đức  
	An trụ không lay động  
	Thân Tu-di công đức  
	Hiện trong các thế gian  
	Tất cả nương Như Lai  
	An ổn trụ Niết-bàn  
	Như hư không không chướng  
	Trăng tròn chiếu sáng nhất  
	Ánh sáng những vì sao  
	Lại tắt không xuất hiện  
	Như Lai mười Lực tịnh  
	Trăng trí tuệ sáng trong  
	Thần thông các đệ tử  
	Chỉ như sao lập lòe   
	Như ánh sáng mặt trời  
	Chiếu sáng các thế gian  
	Trừ sạch mọi tối tăm  
	Làm mờ ánh sáng nhỏ  
	Trí mặt trời Như Lai  
	Trừ si ám thế gian  
	Ánh sáng các Phạm vương  
	Lụi tắt không xuất hiện  
	Như đóm lửa trong đêm  
	Cháy trên đỉnh núi cao  
	Vì thể ánh sáng trong  
	Mười phương tối đầu thấy  
	Lửa Như Lai sáng rực  
	Trí tuệ tỏa núi cao  
	Chiếu cõi tối phiền não  
	Pháp tánh được hiện ra  
	Giống như vua sư tử  
	Hùng mạnh át các thú  
	Không hiện tướng uy hiếp  
	Nhưng các thú quy phục  
	Như Lai vua sư tử  
	Đầy đủ Lực; Vô úy  
	Tâm từ với ngoại đạo  
	Tự nhiên đều quy phục  
	Giống như ngọc ma-ni  
	Tỏa sáng chiếu thế gian  
	Theo các nguyện chúng sinh  
	Mưa thỏa mãn tất cả  
	Như Lai ngọc ma-ni  
	Cờ trí tuệ chiếu xa  
	Hay tuôn mưa đại pháp  
	Đầy đủ nguyện chúng sinh  
	Giống như vua Chuyển luân  
	Đầy đủ bảy phước báu  
	Đi khắp bốn thiên hạ  
	Oán thù thành bằng hữu  
	Như Lai vua Chuyển luân  
	Đầy đủ báu mười Lực  
	Thu phục bốn chúng ma  
	Đều về đạo Như Lai  
	Giống như vua Đế Thích  
	Chủ trời Tam thập tam  
	Xếp đặt Thiện pháp đường  
	Chư Thiên vui mừng thọ  
	Như Lai trời Đế Thích  
	Vua đại pháp ba cõi  
	Yêu thương nhìn các cõi  
	Ngồi pháp đường Niết-bàn  
	Khởi mây Từ bi lớn  
	Mưa xuống pháp cam lồ  
	Trời người vui thọ nhận  
	Tu tập đạo Vô thượng.  
	Bấy giờ, Thánh giả Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử nói các kệ tụng khen ngợi Đức Phật xong, chắp tay bạch Đức Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Như Lai có thể vì đại chúng nói về pháp môn hạnh Bồ-tát nhanh chóng trong cảnh giới phương tiện. Vì khi nghe kinh này các chúng sinh có thiện căn ưa tin Đại thừa Vô thượng đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác và những chúng sinh tin theo Tiểu thừa thấp kém cũng phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Chúng sinh đã phát tâm lớn đối với Vô thượng Bồ-đề thì có thể tăng trưởng niệm Bồ-đề. Những chúng sinh hạnh thấp kém, thấy hẹp hòi cũng có khả năng phát khởi hạnh lớn, từ bỏ con đường chúng sinh, tiến lên nhận lấy đạo lớn Bồ-đề. Những chúng sinh đã nhận lấy đạo thù thắng Bồ-đề, thì có khả năng đi vào pháp thâm mật trang nghiêm trí tuệ của Như Lai.  
	Khi ấy, Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử:  
	–Này Văn-thù-sư-lợi! Pháp thâm mật của các Đức Phật Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri rất khó tin, khó biết, khó hiểu, khó nhận thức, khó suy tính và rất khó thể nhập. Tất cả trời người đều không biết Như Lai dựa vào đâu để nói.  
	Này Văn-thù-sư-lợi! Như đối với pháp cao xa vi diệu này, nếu có chúng sinh nào thực hành ác hạnh thì không biết pháp này, không hiểu pháp này. Những người phá giới cũng không biết pháp này, không hiểu pháp này. Người thích hạnh Tiểu thừa là không tin pháp này; người phá hoại tâm là không thích pháp này, người bị ác tri thức dẫn dắt là không nhập vào pháp này. Những người không được Thiện tri thức dẫn dắt thì không vào được pháp này. Những chúng sinh nào không được chư Phật giữ gìn là không nghe pháp này. Nếu người không được năng lực Như Lai gia trì mà tin được pháp này thì không có chuyện đó.  
	Bấy giờ, vì muốn lặp lại nghĩa này, Đức Thế Tôn nói bài kệ rằng:  
	Pháp tử bằng lời hay  
	Khéo hỏi ta việc này  
	Nay ông hãy lắng nghe  
	Ta sẽ nói cho ông  
	Chúng sinh vô minh che  
	Chỉ tin hạnh Tiểu thừa  
	Nghe pháp Đại thừa này  
	Không tin nên không nói  
	Nếu trong vô lượng đời  
	Quá khứ các Đức Phật  
	Tu hành các hạnh thiện  
	Thiện căn đã thành thục  
	Các chúng sinh như thế  
	Thường được Như Lai hộ  
	Nghe nói sinh vui mừng  
	Khéo tin thọ vững chắc  
	Nếu vì ác tri thức  
	Như nọc của rắn độc  
	Từ bỏ Thiện tri thức  
	Không nghe pháp cam lồ  
	Ở trong các thắng pháp  
	Khởi lên tâm phóng dật  
	Rơi hầm lớn tà kiến  
	Nghe nói không tin theo  
	Tâm chúng sinh hẹp hòi  
	Không thể nhận pháp lớn  
	Nghe thời sinh bất tín  
	Khởi lên tâm chê bai  
	Vĩnh viễn rơi đường ác  
	Mãi không nghe Phật pháp  
	Vì kia khởi tâm Từ  
	Nên ta không nói vội.  
	Bấy giờ, Thánh giả Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử bạch Đức Phật:  
	–Bạch Thế Tôn! Đại chúng trong hội này đều thanh tịnh hoàn toàn, giỏi thực hành các hạnh; có thể cúng dường chư Phật Như Lai, hay phục vụ các Thiện tri thức; khéo tu tập tín căn thanh tịnh; giỏi nhập vào các cảnh giới đại trí tín; khéo thanh tịnh đầy đủ tâm sâu xa, rộng lớn. Đại chúng trong hội này, tất cả đều có khả năng thấy rõ các cảnh giới, có thể biết pháp này và nhận thức được pháp này.  
	Lành thay, bạch Thế Tôn! Xin hãy vì tấm lòng khao khát muốn nghe của con và đại chúng mà khéo nói pháp này. Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử nói kệ rằng:  
	Chúng sinh trong hội này  
	Trải qua vô lượng kiếp  
	Ở nơi các Đức Phật  
	Gieo đầy đủ thiện căn.  
	Những chúng sinh như vậy  
	Vào được cảnh giới Phật  
	Là đầy đủ pháp khí  
	Nay xin Phật nói mau.  
	Tất cả đều chiêm ngưỡng   
	Dung nhan Thầy trời, người  
	Cung kính chắp tay nhìn  
	Khát ngưỡng không rời mắt.  
	Xin Thế Tôn thương đây  
	Tâm chúng sinh khát ngưỡng  
	Mưa xuống pháp vi diệu  
	Khiến sinh mầm pháp thiện.  
	Nay con thỉnh Như Lai  
	Vua đại pháp Vô thượng  
	Xin mở cửa cam lồ  
	Chuyển xe pháp tối thắng.  
	Tất cả những chúng sinh  
	Nếu được nghe Phật thuyết  
	Sẽ sinh đạo Vô thượng  
	Pháp cứu cánh Niết-bàn.  
	Phẩm 3: NHẤT THỪA (Phần 1)  
	Lúc bấy giờ, sau khi nghe Thánh giả Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử hỏi như thế rồi, Đức Thế Tôn bảo:  
	–Lành thay, này Pháp vương tử! Lành thay, này Văn-thù-sư-lợi! Nay ông khéo hỏi Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri về pháp môn thực hành sâu xa của Bồ-tát. Vì sao? Này Văn-thù-sư-lợi! Vì ông thấy thật nghĩa các pháp bảo đang hiện hữu rõ ràng, không có nghi ngờ, hoàn toàn đạt đến đến bờ kia của Đệ nhất Trí tuệ Ba-la-mật. Nay, vì muốn đem lại lợi ích cho vô số chúng sinh để họ đi vào đạo Vô thượng của Bồ-tát nên mới hỏi điều đó.  
	Này Văn-thù-sư-lợi! Ông lại có thể vì chúng sinh trong đời vị lai mà đốt lên ngọn đuốc lớn, quét sạch tăm tối nên mới hỏi pháp này.  
	Hay thay, hay thay, này Văn-thù-sư-lợi! Giờ ông hãy lắng nghe, ta sẽ nói pháp môn hạnh phương tiện nhanh chóng rốt ráo của Bồ-tát.  
	Văn-thù-sư-lợi bạch Đức Phật:  
	–Lành thay, bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn thuyết giảng, con rất muốn nghe.  
	Bấy giờ, các đại chúng Bồ-tát nhất tâm đồng thanh bạch Đức Phật:  
	–Lành thay, bạch Thế Tôn! Chúng con rất muốn được nghe.  
	Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuyết pháp này, nên bảo đại chúng rằng:  
	Này các thiện nam! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào thành tựu hoàn toàn mười hai pháp thì có khả năng phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.  
	Những gì là mười hai pháp?  
	1.     Tự tánh tin pháp Đại thừa, để từ bỏ tâm Tiểu thừa thấp kém nên phát tâm Bồ-đề.  
	2.     Tự tánh thành tựu đại Bi rộng lớn, để muốn đầy đủ các bạch  
	pháp nên phát tâm Bồ-đề.  
	3.     Tâm ngay thẳng, hạnh căn bản vững chắc, để nhàm chán sinh tử, hướng đến bờ kia nên phát tâm Bồ-đề.  
	4.     Khéo tích tập các công đức, vì muốn tu đầy đủ các hạnh nguyện nên phát tâm Bồ-đề.  
	5.     Khéo cúng dường các Đức Phật, vì muốn phát khởi tốt các bạch pháp nên phát tâm Bồ-đề.  
	6.     Ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh, để lìa bỏ tất cả ác hạnh nên phát tâm Bồ-đề.  
	7.     Xa lìa những bạn ác, vì muốn gần gũi những bạn tốt nên phát tâm Bồ-đề.  
	8.     Nghe pháp, rồi y theo pháp tu hành, vì không dối gạt chúng sinh nên phát tâm Bồ-đề.  
	9.     Vì muốn lợi ích cho tất cả, tích chứa của cải nhưng không tham lam keo kiệt nên phát tâm Bồ-đề.  
	10.    Vì được các Đức Phật gia hộ, vì xa lìa các ma oán nên phát tâm Bồ-đề.  
	11.    Đối với những chúng sinh thường khởi lòng Từ bi rộng lớn, có thể xả bỏ tất cả trong ngoài các vật, để xa lìa tánh keo kiệt, đố kî nên phát tâm Bồ-đề.  
	12.    Vì đầy đủ năng lực pháp hành có thể thành tựu các công đức, nên phát tâm Bồ-đề.  
	Này thiện nam tử! Đó gọi là mười hai pháp vi diệu. Nếu thiện nam hay nữ nào thành tựu được mười hai pháp này mới có thể phát tâm cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.  
	Này thiện nam! Lại có mười hai pháp thù thắng, nếu Bồ-tát thành tựu được thì mới gọi là phát tâm cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.  
	Những gì là mười hai?  
	1.     Tâm an ổn, làm cho tất cả chúng sinh được an lạc nên phát tâm Bồ-đề.  
	2.     Tâm thương xót, tức là khi người khác mang đến đến cho mình thêm nhiều điều xấu thì ta hãy nhẫn nhục giúp đỡ họ, chớ sinh ý nghĩ khác, nên phát tâm Bồ-đề.  
	3.     Tâm đại Bi, vì gánh nặng cho chúng sinh nên phát tâm Bồđề.  
	4.     Tâm đại Từ rộng lớn, vì nhổ sạch tất cả khổ đau trong đường ác nên phát tâm Bồ-đề.  
	5.     Tâm thanh tịnh, đối với các thừa khác không sinh tâm thỏa mãn, lạc thú nên phát tâm Bồ-đề.  
	6.     Tâm không nhiễm, vì xa lìa tất cả cấu đục phiền não nên phát tâm Bồ-đề.  
	7.     Tâm trong sáng, vì cầu tự tánh Vô thượng thanh tịnh sáng chiếu nên phát tâm Bồ-đề.  
	8.     Tâm huyễn, có khả năng biết các pháp hoàn toàn không có gì cả nên phát tâm Bồ-đề.  
	9.     Tâm không vật, có thể biết tất cả đều không có sở hữu nên phát tâm Bồ-đề.  
	10.    Tâm vững chắc, đối với trong các pháp không bị lay động nên phát tâm Bồ-đề.  
	11.    Tâm không thoái lui, có thể chứng các pháp hoàn toàn rốt ráo nên phát tâm Bồ-đề.  
	12.    Tâm cứu độ tất cả chúng sinh mà không nhàm chán, theo giáo pháp tu hành nên phát tâm Bồ-đề.  
	Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói lại kệ rằng:  
	Hỡi các Thiện nam tử  
	Nếu có chúng sinh nào  
	Muốn tu các pháp thắng  
	Thành tựu pháp vô cấu  
	Ở giữa oán và thân  
	Tâm Từ bi bình đẳng  
	Những Bồ-tát như thế  
	Đúng phát tâm Bồ-đề.  
	Nếu có chúng sinh nào  
	Đã trong vô lượng kiếp  
	Dẫn dắt ác tri thức  
	Cúng dường Thiện tri thức  
	Giữ gìn pháp Bồ-tát  
	Khởi các hạnh nguyện lớn  
	Những Bồ-tát như thế  
	Đúng phát tâm Bồ-đề.  
	Nếu có chúng sinh nào  
	Nghĩ về đời quá khứ  
	Việc vô lượng ức kiếp  
	Vững chắc như núi chúa  
	Tâm siêng năng không chán  
	Thường tu hành không nghĩ  
	Những Bồ-tát như thế  
	Đúng phát tâm Bồ-đề.  
	Nếu có chúng sinh nào  
	Xa lìa các pháp ác  
	Tâm Từ bi đầy đủ  
	Tâm an ổn thành tựu  
	Dạy bảo các chúng sinh  
	Tất cả các đường thiện  
	Những Bồ-tát như thế  
	Đúng phát tâm Bồ-đề.  
	Nếu có chúng sinh nào  
	Thấy những bậc Thắng trí  
	Nghĩ đến đại Bồ-đề  
	Công đức Vô thượng thắng  
	Muốn đổi các thừa khác  
	Tâm sạch không chút uế  
	Những Bồ-tát như thế  
	Đúng phát tâm Bồ-đề.  
	Bồ-tát được tâm tịnh  
	Lìa hư dối phân biệt  
	Xem thế gian, Niết-bàn  
	Bình đẳng không sai khác  
	Tuy hành hóa chúng sinh  
	Như thấy cảnh trong gương  
	Người phát tâm như thế  
	Thật là tâm Bồ-đề.  
	Đã lìa lỗi phiền não  
	Tất cả những trần lao  
	Trí thanh tịnh hư không  
	Không bị nhuốm dơ bẩn  
	Các tướng hằng tịch diệt  
	Ra khỏi đường ngôn ngữ  
	Đó gọi tu đầy đủ  
	Tâm Bồ-đề thanh tịnh.  
	Những Bồ-tát như thế  
	Không lâu ngồi đạo tràng  
	Đắc đại Đà-la-ni  
	Biện tài không ai bằng  
	Đủ ba hai tướng quý  
	Thân tám mươi vẻ đẹp  
	Được ở trong công đức  
	Bản tánh của chư Phật.  
	Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi! Đại Bồ-tát có thể trụ trong công đức thù thắng như thế, thì có mười hai hạnh bố thí vi diệu, có lợi ích lớn mau chóng đến Bồ-đề. Bồ-tát nên thực hành Bố thí Ba-la-mật.  
	Những gì là mười hai?  
	1.     Bố thí có thể mau chóng tăng trưởng lợi ích, công đức Vô thượng Bồ-đề, cho nên Bồ-tát phải thực hành Bố thí ba-la-mật.  
	2.     Bố thí được sinh ở nơi giàu có đầy đủ, trong tay tuôn ra vô số của báu, cho nên Bồ-tát phải thực hành Bố thí ba-la-mật.  
	3.     Bố thí tùy theo lời nguyện sẽ được sinh ở nơi Đế Thích, Phạm thiên, vua và những nhà quyền quý, cho nên Bồ-tát phải thực hành Bố thí ba-la-mật.  
	4.     Bố thí lìa tất cả lỗi tâm keo kiệt, tham lam, xả bỏ các hữu, không sinh lời nguyện hưởng lạc, cho nên Bồ-tát phải thực hành Bố thí ba-la-mật.  
	5.     Bố thí có thể xả bỏ sự trói buộc tham đắm ở thế gian, cho nên Bồ-tát phải thực hành Bố thí ba-la-mật.  
	6.     Bố thí được ra khỏi loài ngạ quỷ, lìa các đường ác, cho nên Bồ-tát phải thực hành Bố thí ba-la-mật.  
	7.     Bố thí được xa lìa nhiều người cùng với súc vật thế gian, có khả năng đạt được Bồ-đề, không chung cùng với súc vật, cho nên Bồ-tát phải thực hành Bố thí ba-la-mật.  
	8.     Bố thí được chúng sinh khen ngợi, tâm rất vui mừng, cho nên Bồ-tát phải thực hành Bố thí ba-la-mật.  
	9.     Bố thí có thể xả bỏ trong ngoài, thực hành theo hạnh Đức Phật, cho nên Bồ-tát phải thực hành Bố thí ba-la-mật.  
	10.    Bố thí thì đối với trong mọi việc ái dục có thể xa lìa tâm trói buộc, cấu uế, cho nên Bồ-tát phải thực hành Bố thí ba-la-mật.  
	11.    Bố thí có thể thực hành đầy đủ Bố thí ba-la-mật Vô thượng, cho nên Bồ-tát phải thực hành Bố thí ba-la-mật.  
	12.    Bố thí có thể thực hành theo lời dạy của Như Lai và thành tựu sở nguyện, cho nên Bồ-tát phải thực hành Bố thí ba-la-mật.  
	Này thiện nam! Đó là mười hai pháp tu hành Bố thí ba-la-mật, được lợi ích lớn của Đại Bồ-tát, hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.  
	Bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng kệ tụng khen ngợi Bố thí Ba-la-mật như sau:  
	Muốn cầu đạo Vô thượng  
	Tu hành các công đức  
	Bỏ keo kiệt, tham lam  
	Bố thí là bậc nhất.  
	Phật tử hành tâm Xả  
	Thấy người đến cầu xin  
	Hãy sinh tâm vui mừng  
	Tất cả không luyến tiếc  
	Đất nước và vợ con  
	Cho đến chức vua trời  
	Da thịt và tay chân  
	Đầu mắt các tủy não  
	Mắt thanh tịnh trong sáng  
	Cho rồi tâm vui vẻ  
	Hành tâm xả như thế  
	Là thí Ba-la-mật,  
	Tất cả chư Như Lai  
	Đầy đủ các công đức  
	Trọn vẹn đạo Niết-bàn  
	Đều do bố thí vậy!  
	Cho nên những Phật tử  
	Muốn cầu đạo Vô thượng  
	Thường phải tu tâm Xả  
	Hành Thí ba-la-mật.  
	Bố thí được Bồ-đề  
	Không trụ ở thế gian  
	Cho nên các Bồ-tát  
	Thường thực hành tâm Xả.  
	Bố thí hết nghèo khó  
	Giàu đủ bảy tịnh tài  
	Hết keo kiệt, ghen ghét  
	Thanh tịnh Phật Bồ-đề,  
	Bố thí được đầy đủ  
	Thành tựu mười tự tại  
	Cho nên chư Như Lai  
	Khen ngợi hạnh bố thí.  
	Bồ-tát thấy lợi này  
	Được thành Ba-la-mật  
	Cho nên tu tâm Xả  
	Bố thí tất cả vật.  
	Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười hai phương pháp trì giới được lợi ích lớn. Bồ-tát nên thực hành Trì giới ba-la-mật.  
	Mười hai lợi ích của Trì giới ba-la-mật là gì?  
	1.     Trì giới có thể giữ gìn các thiện căn, cho nên Bồ-tát phải thực hành Trì giới ba-la-mật.  
	2.     Trì giới được vào đạo Bồ-tát, cho nên Bồ-tát phải thực hành Trì giới ba-la-mật.  
	3.     Trì giới được giải thoát các sự trói buộc của phiền não, cho nên Bồ-tát phải thực hành Trì giới ba-la-mật.  
	4.     Trì giới có thể vượt qua tất cả các đường ác, cho nên Bồ-tát phải thực hành Trì giới ba-la-mật.  
	5.     Trì giới có thể dứt hết đau khổ của chúng sinh trong đường ác, cho nên Bồ-tát phải thực hành Trì giới ba-la-mật.  
	6.     Trì giới thì nghiệp thân, khẩu, ý không bị chư Phật Như Lai quở trách, cho nên Bồ-tát phải thực hành Trì giới ba-la-mật.  
	7.     Trì giới được chư Phật Như Lai thường khen ngợi, cho nên Bồ-tát phải thực hành Trì giới ba-la-mật.  
	8.     Trì giới có thể vào trong các cõi nhưng không buông lung, cho nên Bồ-tát phải thực hành Trì giới ba-la-mật.  
	9.     Trì giới thì đem bố thí cho chúng sinh việc không sợ hãi, cho nên Bồ-tát phải thực hành Trì giới ba-la-mật.  
	10.    Trì giới được thành tựu nghiệp thiện của thân, miệng và ý, cho nên Bồ-tát phải thực hành Trì giới ba-la-mật.  
	11.    Trì giới có thể đối với các pháp được tùy thuận tự tại, cho nên Bồ-tát phải thực hành Trì giới ba-la-mật.  
	12.    Trì giới thành tựu nghiệp của Ba-la-mật công đức đến đệ nhất bờ kia, cho nên Bồ-tát phải thực hành Trì giới ba-la-mật.   
	Này thiện nam tử! Đó là mười hai pháp tu hành Trì giới Ba-la-mật được lợi ích lớn, hồi hướng về quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của Đại Bồ-tát.  
	Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng kệ khen ngợi Trì giới Ba-la-mật như sau:  
	Muốn lìa các sinh tử  
	An ổn đến Niết-bàn  
	Tất cả Như Lai nói  
	Trì giới là đệ nhất.  
	Giới như ao nước mát  
	Hay sinh các hoa đẹp  
	Giới như lửa cháy mạnh  
	Thiêu đốt những cỏ xấu.  
	Giới, người khéo hành trì  
	Như chim bay trên không  
	Không sợ đạo sinh tử  
	Trong những nẻo đường ác.  
	Đường ác rồng độc lớn  
	Vô minh các La-sát  
	Thấy người trì tịnh giới  
	Cung kính bỏ tâm hại,  
	Tất cả chư Như Lai  
	An ổn trụ Niết-bàn  
	Chấm dứt các đường ác  
	Đều do trì giới vậy.  
	Vì thế, các Phật tử  
	Muốn cầu đạo Vô thượng  
	Giữ vững các gốc thiện  
	Trì giới ba-la-mật.  
	Bồ-tát nên tư duy  
	Sống hoàn toàn theo giới  
	Cởi bỏ dây phiền não  
	Đóng cửa những đường ác.  
	Nếu muốn trì tịnh giới  
	Phải nên như trâu đen  
	Vì giữ một chiếc lông  
	Thà chết không tiếc mạng,  
	Giữ các nghiệp cũng vậy  
	Đó chính là trì giới  
	Như Lai thường khen ngợi  
	Chỗ cầu được thành tựu.  
	Người hay trì tịnh giới  
	Có công đức như vậy  
	Cho nên các Bồ-tát  
	Thường phải giữ tịnh giới,  
	Thân, khẩu, ý thanh tịnh  
	Không làm các điều ác  
	Có thể đến Niết-bàn  
	Nhất thiết trí hiện tiền.  
	Trì giới không phóng dật  
	Các điều thiện vững chắc  
	Trong pháp được tự tại  
	Giữ sạch giới chư Phật,  
	Bồ-tát trì tịnh giới  
	Xem vật không oán, thân  
	Bình đẳng với quần sinh  
	Người thấy không sợ hãi.  
	Ta sống theo trì giới  
	Thường tu không phóng dật  
	Cho nên nay được lìa  
	Tất cả mọi đường ác,  
	Đến bờ kia đệ nhất  
	Như chỗ báu công đức  
	Vì thế, các Bồ-tát  
	Thường phải trì tịnh giới.  
	Bồ-tát nếu muốn cầu  
	Công đức Bồ-đề Phật  
	Trì giới như trâu đen  
	Chánh niệm không buông lung,  
	Những Bồ-tát như thế  
	Chính đó là người trí  
	Mau chóng đến bờ kia  
	Trụ Bồ-đề quả Phật.  
	Này thiện nam! Bồ-tát đã tu hành các pháp như thế, lại có mười ba cách quán tu hành Nhẫn nhục ba-la-mật, được lợi ích lớn. Bồ-tát nên thực hành Nhẫn nhục ba-la-mật.  
	Mười ba lợi ích của Nhẫn nhục ba-la-mật là gì?  
	1.     Hạnh nhẫn tức là nhẫn nại, chịu đựng mọi buồn phiền, có khả năng chứng tất cả pháp không, cho nên Bồ-tát phải thực hành Nhẫn nhục ba-la-mật.  
	2.     Hạnh nhẫn là không thấy có ta bị người khác hại, cho nên Bồ-tát phải thực hành Nhẫn nhục ba-la-mật.  
	3.     Hạnh nhẫn là không thấy chúng sinh có kẻ thân người oán, cho nên Bồ-tát phải thực hành Nhẫn nhục ba-la-mật.  
	4.     Hạnh nhẫn là không thấy thân ta, người bị tổn hại, cho nên Bồ-tát phải thực hành Nhẫn nhục ba-la-mật.  
	5.     Hạnh nhẫn là khi bị người lăng nhục hay khen ngợi tâm thường không bị dao động, cho nên Bồ-tát phải thực hành Nhẫn nhục ba-la-mật.  
	6.     Hạnh nhẫn có thể đoạn trừ phiền não và các kết sử, cho nên Bồ-tát phải thực hành Nhẫn nhục ba-la-mật.  
	7.     Hạnh nhẫn có thể đoạn trừ sân hận và các kết sử, cho nên Bồ-tát phải thực hành Nhẫn nhục ba-la-mật.  
	8.     Hạnh nhẫn có thể đầy đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, cho nên Bồ-tát phải thực hành Nhẫn nhục ba-la-mật.  
	9.     Hạnh nhẫn là có khả năng từ bỏ con đường ác, sinh lên cảnh giới Phạm thiên, cho nên Bồ-tát phải thực hành Nhẫn nhục ba-la-mật.  
	10.    Hạnh nhẫn có thể vượt qua các cảnh giới tổn hại, cho nên Bồ-tát phải thực hành Nhẫn nhục ba-la-mật.  
	11.    Hạnh nhẫn có thể chứng đắc được Tận trí và Vô sinh trí, cho nên Bồ-tát phải thực hành Nhẫn nhục ba-la-mật.  
	12.    Hạnh nhẫn có khả năng thu phục tất cả ma ác ở các cảnh giới, cho nên Bồ-tát phải thực hành Nhẫn nhục ba-la-mật.  
	13.    Hạnh nhẫn có khả năng thấy thân Như Lai có vô lượng công đức trang nghiêm, cho nên Bồ-tát phải thực hành Nhẫn nhục ba-la-mật.  
	Này thiện nam! Đó là mười ba cách quán chiếu, tu hành Nhẫn nhục ba-la-mật được lợi ích lớn, hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của Đại Bồ-tát.  
	Khi ấy, Đức Thế Tôn liền dùng kệ khen ngợi Nhẫn nhục Ba-la-mật như sau:  
	Muốn vì các chúng sinh  
	Làm nơi về nương tựa  
	Khiến sinh tâm không sợ  
	Nhẫn nhục là đệ nhất.  
	Người hay hành nhẫn nhục  
	Người thấy đều vui vẻ  
	Kẻ thù bỏ tâm ác  
	Xem nhau là bằng hữu.  
	Tất cả các Như Lai  
	Thành tựu tâm bình đẳng  
	Chỗ chúng sinh nương tựa  
	Đều do hành nhẫn vậy.  
	Vì thế, các Phật tử  
	Muốn cầu đạo Vô thượng  
	Để mọi loài nương tựa  
	Nên nhẫn nhục vững chắc.  
	Nếu Bồ-tát muốn nương  
	Tất cả Bồ-đề Phật  
	Nên quán các pháp không  
	Chúng sinh không thể đắc.  
	Hành nhẫn nhục như thế  
	Đầy đủ công Đức Phật  
	Vì thế, các Bồ-tát  
	Thường phải tu nhẫn nhục.  
	Nếu Bồ-tát tu nhẫn  
	Nên lìa hai biên kiến  
	Không thấy thân ta, người  
	Có kẻ mất người được,  
	Như Lai từ bi lớn  
	Khen ngợi quán như thế  
	Cho nên các Bồ-tát  
	Thường phải tu nhẫn nhục.  
	Nếu muốn được Tận trí  
	Diệt các sử phiền não  
	Tu nhẫn không hèn nhát  
	Tâm thường không phân biệt.  
	Quán các pháp như thế  
	Thành Nhẫn ba-la-mật  
	Cho nên các Bồ-tát  
	Thường phải tu nhẫn nhục.  
	Bồ-tát muốn trang nghiêm  
	Tướng tốt thân Như Lai  
	Lại sinh thế giới Phạm  
	Ra khỏi các đường ma  
	Vui hành hạnh nhẫn nhục  
	Tất cả đều thành tựu  
	Cho nên các Bồ-tát  
	Phải nhẫn nhục vững chắc.  
	Sức nhẫn nhục tối thượng  
	Không hạnh nào qua được  
	Tất cả các công đức  
	Đều trong hạnh nhẫn nhục  
	Lực bốn ma khó định  
	Sức nhẫn tiêu diệt nó  
	Cho nên các Bồ-tát  
	Thường phải tu nhẫn nhục.  
	KINH ĐẠI TÁT-GIÀ NI-KIỀN TỬ SỞ THUYẾT 
	<<-- --MỤC-LỤC-- -->>
  
	  
	 |