佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

KINH PHẬT THUYẾT CHÚNG HỨA-MA-Đ

Hán dịch: Đời Triệu Tống, Tam tạng Pháp Sư Pháp Hiền.

Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

-o0o-

Quyển 10

 

Số 0191

KINH PHẬT THUYẾT CHÚNG HỨA-MA-ĐẾ

13 Quyển

Quyển 1

Quyển 2

Quyển 3

Quyển 4

Quyển 5

Quyển 6

Quyển 7

Quyển 8

Quyển 9

Quyển 10

Quyển 11

Quyển 12

Quyển 13

 

        Ô-lỗ-vĩ-loa Ca-diếp có hai người em trai là Nẵng-đề Ca-diếp và Nga-da Ca-diếp, mỗi người có hai trăm năm mươi đệ tử và đều cư ngụ bên bờ vùng hạ lưu sông Ni-liên. Các học tṛ đều siêng năng tu tập theo pháp thức của thầy.

        Một hôm, hai vị Ca-diếp ấy bỗng trông thấy những dụng cụ thờ lửa, những áo da nai, áo bằng vỏ cây, tịnh b́nh, gậy, giày bằng da thú của người anh trôi trên sông Ni-liên, họ rất ngạc nhiên, suy nghĩ: “Anh của ta đắc tội với vua chăng, hay bị nạn cướp, nạn nước, lửa? V́ có bị các nạn ấy mới không thể tu hành, nếu không th́ sao các dụng cụ thờ lửa lại bị bỏ trôi sông như thế?”

        Lúc ấy hai người suy nghĩ, bàn luận măi về việc dị thường ấy và quyết định cùng nhau đi t́m anh. Họ đến chỗ ở của người anh, không thấy Ô-lỗ-vĩ-loa Ca-diếp và các đệ tử ở đó, chỉ thấy pḥng ốc vắng vẻ, trông trơn. Hai người càng thêm hoang mang buồn bă bèn đi hỏi thăm, những người láng giềng cho biết là Ô-lỗ-vĩ-loa Ca-diếp đă bỏ đạo tiên, dẫn các đệ tử đến quy y vị Sa-môn, c̣n ra sao nữa th́ họ không rơ, nên thân hành đến đó t́m hiểu xem.

        Hai anh em Ca-diếp được tin ấy bèn nói với nhau:

        -Ta nghe nói có vị Sa-môn tới ở gần đây và có nhiều quyền phép kỳ diệu, các hành động, oai nghi của vị ấy đều khác người thường, có thể anh của ta và các đệ tử đă đến đó rồi. Nếu quả thật như thế th́ đúng là việc vô cùng hy hữu. Nay chúng ta hăy tới đó để xem thật hư thế nào.

        Hai người cùng nhau đến chỗ Đức Phật liền thấy người anh Ô-lỗ-vĩ-loa Ca-diếp cùng các đệ tử đều vận ca-sa với h́nh dáng Sa-môn đang ngồi trước Phật, chăm chú nghe pháp. Thấy thế hai người thất kinh, lông tóc dựng đứng, chân như thể không bước được.

        Đức Phật thấy Nẵng-đề và Nga-da đến t́m anh, lại đứng ngây người ra không bước được, liền bảo Ô-lỗ-vĩ-loa tới đón hai em.         Hai người thấy anh ḿnh đến liền bước vội tới, quỳ lạy và hỏi:

        -Anh đă lớn tuổi, đức hạnh cao, tu hành lâu năm, học rộng biết nhiều, đời không ai bằng. Vua nước Ma-già-đà và các quan đại thần cùng chúng dân đều cho anh là đă chứng quả La-hán, thường đem thức ăn, hương hoa, y phục và nhiều báu vật đến cúng dường. Anh dạy điều ǵ họ cũng nghe theo, sao hôm nay bỗng bỏ đạo ḿnh mà theo đạo người khác. Xưa nay chúng em tu tập theo lời truyền dạy của anh, cho đến các đệ tử cũng không bỏ theo đường lối nào khác. Nay anh lại từ bỏ con đường tu tập của ḿnh, th́ chúng em làm sao giữ đạo được? Chúng em rất hoang mang, nghi ngờ vậy xin anh chỉ dạy cho.

        Nói xong hai người em đều đứng sang một bên. Ô-lỗ-vĩ-loa nói với hai người em Nẵng-đề và Nga-da:

        -Trước khi có Phật, thế gian giống như đêm tối, con người không có đôi mắt tuệ nên không thấy đường dễ rơi vào hang hố.         Trước đây anh tu khổ hạnh, thờ lửa để cầu chứng Thánh quả, lại đem đạo ấy dạy lại các em, cho rằng không đạo nào hơn được, rồi tự cho là đă chứng quả A-la-hán, may có vị Đại Sa-môn, tức Đức Phật Thế Tôn, thân cao một trượng sáu, sắc vàng rực rỡ, tướng tốt đầy đủ, uy đức vô cùng. V́ Ngài thương anh nên đến ở gần, mọi động tỉnh của Ngài chư Thiên đều biết, có cả Tứ Thiên vương, Phạm thiên, Đế Thích đến nghe pháp. Ngài lại có thần túc thông chỉ trong khoảnh khắc đă đi khắp bốn châu thiên hạ, lại lên cung trời nhận thức ăn về..., tất cả đều nhằm để khai thị cho anh, lại biết anh chưa chứng quả A-la-hán. Qua những điều đó ta thấy đức ta không bằng, nên tỉnh ngộ trước để khỏi hối hận về sau. Thế là anh cùng các đệ tử xin xuất gia, Ngài thương chúng ta nên chấp nhận cho mặc pháp phục làm Tăng-già. Ta không báo trước cho các em thật ta có lỗi.

        Bấy giờ Nẵng-đề và Nga-da căn duyên đă thuần thục, nghe xong liền khởi sinh ḷng tin với Đức Phật, trong ḷng buồn vui lẫn lộn, liền nói với anh:

        -Chúng em tu hành là do anh dạy, nay anh xuất gia, chúng em cũng xin đi theo. Nếu không có Phật ra đời làm sao nghe được chánh pháp, chúng em dù tuổi đă già cũng mong được giải thoát.

        Ô-lỗ-vĩ-loa nói:

        -Quư hóa thay! Nay đă đúng lúc.

        Nẵng-đề và Nga-da đến lễ Phật, rồi đứng sang một bên thưa:

        -Bạch Thế Tôn, anh của chúng con là Ô-lỗ-vĩ-loa trước là thầy chúng con, nay đă xuất gia làm Sa-môn, nên chúng con cũng muôn xuất gia, xin Phật thương mà cứu độ.

        Đức Phật bằng ḷng, nhưng muốn hóa độ luôn số đệ tử của hai người, nên bảo:

        -Các đệ tử của ông đă biết chưa?

        Hai người thưa:

        -Chưa biết.

        Phật bảo:

        -Các ông hăy nói rơ với họ rồi đến đây, Ta sẽ nhận cho xuất gia.

        Hai người vâng lời Phật, mỗi người trở về tập hợp các đệ tử của ḿnh lại bảo:

        -Các ngươi có biết không, có một vị Đại Sa-môn gọi là Phật đă đến ở chỗ của anh ta, hiện nhiều thần thông và tướng lạ để khai thị cho anh ta, lại dùng uy lực chế phục anh ta, làm anh ta tỉnh ngộ biết đạo pháp ḿnh không bằng, nên đă đem tất cả đệ tử đến xin xuất gia Phật. V́ thấy những dụng cụ thờ lửa trôi trên sông, nên chúng ta đă đến t́m hiểu và tới chỗ Phật. Đến nơi ta đă thấy anh ta và các đệ tử vận ca-sa thành Sa-môn đang ngồi chăm chú nghe thuyết pháp. Khi thấy việc ấy, lúc đầu ta vô cùng kinh hăi, sững sờ.         Anh ta ra đón và cho biết đầy đủ mọi việc nên ta đă xin xuất gia, nhưng nghĩ đến các ngươi nên phải về nói lại cho hay. Các ngươi nghĩ thế nào cứ thật ḷng cho ta biết.

        Các đệ tử liền thưa:

        -Chúng con theo học với thầy, thầy dạy ǵ đều nghe theo, nay thầy xuất gia theo Phật, chúng con sao dám bảo thủ đạo của ḿnh. Chúng con cũng nguyện xin theo.

        Lúc ấy Nẵng-đề Ca-diếp và Nga-da Ca-diếp liền đem tất cả đệ tử đến đảnh lễ Phật, rồi đứng lên chờ nghe Phật dạy. Đức Phật hỏi hai người:

        -Các ông đă đến rồi sao?

        Hai người đáp:

        -Chúng con và các đệ tử đồng đến lễ Phật cầu xin được xuất gia, theo chánh pháp, vâng giữ giới luật, tu tŕ phạm hạnh. Xin Đức Phật từ bi chấp thuận.

        Đức Phật thâu nhận họ làm Sa-môn. Ngài dạy:

        -Hôm nay các ông mới thật là xuất gia, mới thật có phạm hạnh.

        Các vị ấy nghe thế vui mừng khôn xiết, mỗi vị đều đảnh lễ, nhiễu quanh Phật và đứng sang một bên chiêm ngưỡng Ngài.

        Lúc bấy giờ, sau khi độ ba anh em Ca-diếp và một ngàn vị Tỳ- kheo xong, Đức Phật liền cùng họ rời khỏi nơi đó, lên đỉnh núi Nga-da kinh hành. Đến nơi, Đức Phật v́ các vị Tỳ-kheo làm ba việc: Một là thị hiện thần thông, hai là thuyết pháp và ba là điều phục tâm họ. Lúc ấy Thế Tôn nhập chánh định, hiện thần thông, biến ra các tướng trạng, biến mất ở chỗ ngồi hiện ra nơi hư không phương Đông với bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, thân phóng năm sắc hào quang xanh, vàng, trắng, đỏ và hồng. Thân trên Phật hóa lửa, thân dưới hóa nước, hoặc ngược lại. Đức Phật lại hiện ra ở các phương Tây, Nam, Bắc cũng với các biến tướng ấy và chỉ trong khoảnh khắc, lại trở về chỗ ngồi. Đức Phật lại v́ các vị Tỳ-kheo thuyết pháp, Ngài dạy:

        -Trong ḷng các ông đối với các pháp điều nào c̣n nghi, điều nào hết nghi, điều nào nhớ, điều nào không nhớ, phiền năo đă diệt, hay chưa diệt, trong những pháp ấy hăy chọn mà quyết tâm tu tập.

        Đức Phật lại nói tiếp:

        -Các ông cần biết: Nhăn thức do duyên tham luyến với các sắc, do tiếp xúc với sắc nên tâm phát sinh, do đó mà có khổ, vui, không khổ, không vui, cho đến thức của các căn tai, mũi, lưỡi, thân và ư cũng đều như vậy. Này các Tỳ-kheo, lửa tham thế nào th́ sân, si cũng thế, do đó mà có luân hồi cùng sinh lăo bệnh tử, lo buồn khổ đau. Này các Tỳ-kheo, ba thứ lửa ấy thịnh lên là do cái ta mà ra, muốn diệt ba thứ lửa kia th́ phải trừ ngă chấp, ngă chấp không có th́ ba thứ lửa kia tự nhiên không c̣n, từ đó sự luân hồi và tất cả khổ đau trong ba cơi tự nhiên chấm dứt.

        Lúc ấy ba anh em Ca-diếp cùng một ngàn vị Tỳ-kheo được Phật thị hiện các thần thông và giảng nói chánh pháp, nên dứt trừ phiền năo, đạt tâm giải thoát, mọi việc cần làm đă làm xong, trút được gánh nặng, dứt được luân hồi và đều chứng quả La-hán.

        Đức Phật sau khi độ ba vị Ca-diếp cùng một ngàn vị đệ tử của họ chứng được quả vị A-la-hán, th́ vua Dân-di-ta-la, các vị đại thần cùng dân chúng đều biết được Đức Phật và hơn ngàn vị đệ tử đang ở tại đỉnh núi Nga-da. Lúc ấy có một vị quan đại thần tâu với vua:

        -Thần nghe gần đây dân chúng thường bàn rằng ḍng họ Thích có sinh một người con trai. Khi mới sinh vị ấy đă có đầy đủ tướng tốt, thầy tướng đoán là sau này sẽ lên ngôi Chuyển luân thánh vương cai trị bốn châu thiên hạ, dùng chánh pháp để dạy dân hành thập thiện, lại có đầy đủ bảy thứ báu, có một ngàn người con tướng mạo đẹp tô"t tuyệt trần, có nhiều oai lực, đâu đâu cũng phải hàng phục, c̣n nếu xuất gia th́ sẽ thành Bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Thần nghe như thế nên xin tŕnh tâu hết lên bệ hạ. Xin bệ hạ sớm t́m kế trừ diệt đi để tránh tai họa về sau.

        Bấy giờ vua Dân-di-ta-la, những lúc ngự ở chánh điện thường nghĩ mơ ước năm điều: Một là có Đức Phật xuất hiện ở thế gian. Hai là sớm được đến chỗ Đức Phật đảnh lễ, chiêm ngưỡng và vui theo những công đức của Ngài. Ba là được nghe thuyết pháp. Bốn là nghe thuyết pháp th́ liền được liễu ngộ. Năm là được Đức Phật truyền giới rồi hết ḷng giữ giới. Đang mơ ước như thế, bỗng nghe quan đại thần tâu như vậy trong ḷng đau xót, một lúc sau mới cất tiếng bảo:

        -Ngươi là kẻ ngu si nên sinh tâm ác độc đối với Như Lai, thật là một kẻ đại ngu. Hăy đi đi, chớ nói nữa!

        Vị quan kia biết vua không chịu nghe lời tâu nên sợ sệt, xấu hổ đi ra. Vua Dân-di-ta-la nh́n các quan chung quanh, thấy một vị đại thần có nhiều phước tướng và trí tuệ nên truyền lệnh cho vị ấy:

        -Ngươi hăy đến đỉnh núi Nga-da, nơi Đức Thế Tôn đang ở, thay mặt ta cung kính bạch Thế Tôn rằng vua Dân-di-ta-la xin cung kính cui đầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, gởi lời vấn an sức khỏe, cầu cho Thế Tôn tâm thể an lành, mọi việc điều an vui và kính thỉnh Thế Tôn giáng lâm kinh thành thọ sự cúng dường, để ta và nhân dân trong nước được nhiêu lợi lạc, nguyện xin Thế Tôn và chư Thánh chúng từ bi chấp nhận cho. Ta sẽ trọn đời dâng cúng thực phẩm, thuốc men, y Tăng-già-lê và tất cả các vật dụng khác, nguyện xin Thế Tôn và Thánh chúng từ bi không ngại lao khó quang lâm. Bạch như thế xong, ngươi hăy cung kính đảnh lễ nơi chân Phật và chờ nghe lời Ngài dạy.

        Vị đại thần vâng lời vua t́m tới chỗ Đức Phật tâu bày mọi việc đúng như nhà vua truyền. Khi đảnh lễ xong, thấy Đức Thế Tôn im lặng, vị sứ giả biết Phật đă hứa nên vui mừng đảnh lễ, nhiễu quanh Đức Thế Tôn rồi từ tạ trở về triều.

        Vua Dân-di-ta-la nghe sứ giả trở về, liền ngự lên điện. Vua tôi chào nhau xong, nhà vua hỏi sứ giả:

        -Đức Thế Tôn có nhận lời mời không?

        Sứ thần tâu:

        -Thần thừa lệnh nhà vua lên Nga-da sơn thỉnh Đức Phật và chúng Tăng, tŕnh những lời của vua lên Phật. Ngài lặng im chấp nhận, chắc chắn là Phật sẽ giáng lâm.

        Vua liền truyền lệnh các quan cận thần lo dọn sửa cung điện cho sạch sẽ, trang nghiêm, cả đến thành hào, đường xá đều được dọn dẹp, lại bày các thứ hương thơm, hoa quư để chuẩn bị đón tiếp Đức Phật.

        Bấy giờ Đức Phật cùng các đệ tử lớn tuổi như ba anh em Ca-diếp, cùng một ngàn vị La-hán từ núi Nga-da đến vương thành.         Cách thành không xa có ngôi tháp ở khu Trượng lâm, Đức Phật và Thánh chúng dừng lại nghỉ nơi tháp đó. Vua Dân-di-ta-la nghe tin Đức Phật đă tới Trượng lâm tháp liền sai chuẩn bị xa giá có người hầu hạ, rồi vua cùng quyến thuộc cùng quần thần ra khỏi thành đến nơi Đức Phật dừng chân. Vừa ra khỏi cung không xa, xe vua bị rơi vào hô" không đi tới được. Vua nghĩ: “Chắc đời trước ta đă tạo nghiệp bất thiện nên nay mới gặp sự cố này.” Vua vừa nghĩ như vậy th́ nghe trong không trung có tiếng nói:

        -Không phải đời trước vua làm điều bất thiện mà v́ hiện tại c̣n có nhiều tù nhân bị giam cầm trong tù ngục. Đó là nguyên nhân khiến xe bị sụp hố.

        Vua nghe tiếng nói từ không trung, biết là do các vị Thánh hiền dạy bảo nên rất vui mừng, liền sai quan đi đến tất cả nhà lao, tù nhân tội nặng nhẹ lần lượt được ân xá. Xe đi tới cửa thành, bỗng mũ vua đội bị hư rách, vua lại nghĩ: “Nhất định kiếp trước ta làm điều bất thiện nên nay có nhiều việc chẳng lành xảy ra.” Hiền thánh từ không trung lại nói:

        -Không phải đời trước vua làm điều chẳng lành mà là hiện tại trong khi tha tù nhân, chỉ tha tù tội nhẹ, c̣n tù tội nặng tuy c̣n sống nhưng lại đày nơi khác. Mũ bị hư rách là v́ cớ ấy.

        Vua nghe thế liền sai quan đi khắp nơi, truyền ân xá cho tất cả. Tù nhân được thả vui mừng vô cùng và đều ca ngợi đạo đức của nhà vua. Lúc ấy vua cùng những người hầu cận và quyến thuộc đi trên một vạn hai ngàn cỗ xe, những người Bà-la-môn, trưởng giả và dân chúng trong nước th́ đi trên trăm ngàn chiếc xe khác, tất cả đều rời khỏi thành, đến nơi Đức Phật đang ngự. Khi tới tháp Trượng lâm, nơi vườn hoa, vua hái năm đóa hoa Ca-câu-la rồi tự tay cầm hoa đi đến chỗ Phật. Lúc gần đến vua xuống xe đi bộ, cho dẹp hết những đồ nghi trượng như cờ lọng, kiếm kích... Đến trước Đức Phật, vua trịch áo bày vai bên phải, chắp tay hướng Phật, ba lần tự xưng:

        -Con là vua Dân-di-ta-laể Đức Phật cũng ba lần trả lời:

        -Đúng vậy! Đúng vậy!

        Vua dâng năm đóa hoa rồi cúi đầu lễ dưới chân Phật, dùng những lời tốt đẹp nhất tán thán Đức Phật. Đức Thế Tôn mời vua ngồi. Sau khi vua an tọa, vương quyến và những vị Bà-la-môn, các trưởng giả cùng chúng dân lần lượt lễ Phật, đều vui mừng vô cùng. Mỗi người nói kệ ca ngợi Thế Tôn xong liền đứng sang một bên.

        Ô-lỗ-vĩ-loa Ca-diếp, trước đây đă từng được vua, các quan đại thần và dân chúng rất tôn kính, nay lại thành Sa-môn đứng hầu bên Phật, nhà vua và dân chúng không ai là không ngạc nhiên. Có người nghĩ: “Trưởng lăo Ca-diếp thờ lửa, tu hành khổ hạnh lâu năm, trí tuệ đạo đức hơn người, nay lại ở đây khiến chúng ta thắc mắc là Ca-diếp hóa độ Như Lai hay Như Lai hóa độ Ca-diếp?”

        Đức Phật ngầm biết những thắc mắc ấy, liền bảo Ca-diếp:

        Đến lúc ông nên cho họ thấy sở đắc của ḿnh.

        Ca-diếp vâng lời Đức Phật, ngay tại chỗ ngồi nhập chánh định, rồi biến mất hiện sang phương Đông với bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, từ thân phóng ra hào quang rực sáng gồm năm màu xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, các màu xen nhau, hoặc trong như pha lê, lại biến thân trên hóa nước, thân dưới hóa lửa, hoặc ngược lại. Phương Nam, phương Tây cho đến phương Bắc đều biến hóa như thế. Hiện thần thông xong, trong chóc lát Ca-diếp trở về chỗ ngồi, chắp tay hướng Phật, nói kệ:

        Con vốn tu hành

        Theo đạo thờ lửa

        Trải qua nhiều năm

        Siêng năng lao khổ

        Ḷng thường tự nhủ

        Đă chứng La-hán

        Chấp ngă c̣n nhiều

        Không thể giải thoát.

        Phật v́ từ bi

        Nên đến cứu độ

        Làm lửa không cháy

        Cháy rồi không tắt.

        Lúc đầu cứ tưởng

        Cùng đạo thờ lửa

        Phật nói: Không cầu

        Dùng lửa làm chi

        Khắp cả trời người

        Không ǵ luyến ái.

        Con lập pháp hội

        V́ muốn lợi dưỡng

        Muốn đến không đến

        Đều biết ư con.

        Phật đến bốn châu

        Cũng ở cơi trời

        Hái trái lấy cơm

        Đều cho con nếm.

        Con cố thờ lửa

        Mê mờ chánh đạo

        Như người đui mù        

        Hoặc như người chết

        Không hay biết ǵ

        Chắc bị đọa lạc.

        Đức Đại Mâu-ni

        Giống như rồng lớn

        Rải mây tinh tấn

        Rưới nước Cam lộ

        Lợi ích tất cả

        Hữu t́nh vô t́nh.

        Con muốn giải thoát

        Xin làm Sa-môn

        Ân Phật từ bi

        Nói pháp thanh tịnh

        Dạy pháp tối thượng

        Khiến con liễu ngộ.

        Con nay mới thật

        Chứng A-la-hán

        Phật là thầy con

        Con là đệ tử.

        Các ngươi nên biết

        Chớ nên hoài nghi

        Những lời thành thật

        Nên hết ḷng tin.

        Nói kệ xong Ca-diếp đảnh lễ Đức Phật rồi trở về chỗ ngồi. Lúc ấy vua và mọi người mới biết Ca-diếp là đệ tử của Đức Phật.         Bấy giờ Đức Phật biết mọi người trong chúng đă hết nghi ngờ, thắc mắc nên bảo vua:

        -Ta nay sẽ v́ vua mà nói những pháp quan trọng. Vua nên lắng nghe, suy nghĩ cho kỹ.

        Đức Phật lại nói tiếp:

        -Này Đại vương, Đại vương nên biết rằng sắc thân của Đại vương có sinh th́ có diệt, nên quán sát kỹ hai tướng sinh diệt cho thật rơ ràng và cần quán thọ, tưởng, hành, thức cùng giống như sắc uẩn. Này các thiện nam tử, nếu các vị có thể liễu ngộ được các uẩn là sinh diệt th́ lại cần nội quán kỹ tính không sinh diệt. Nếu các vị có thể tuệ quán rơ tính không sinh diệt của sắc th́ sẽ biết thọ, tưởng, hành, thức cũng không sinh diệt. Này các thiện nam tử, sắc, thọ, tưởng, hành, thức vốn không sinh diệt, không đến, không đi. Nếu liễu ngộ được thật tướng không sinh không diệt, không đến, không đi của các pháp th́ cũng không được châp thủ vào tính không sinh, không diệt, không đến, không đi ấy. Thưa Đại vương, nếu đă biết rơ tướng như thật của các pháp rồi th́ sẽ đạt được vô số a-tăng-kỳ các pháp tịch diệt.

        Lúc ấy tât cả chúng hội, từ các vị Bà-la-môn, các trưởng giả cho đến dân chúng đều sinh tâm niệm nghi ngờ, thắc mắc: “Nay Thế Tôn nói sắc, thọ, tưởng, hành, thức vốn là không th́ sao lại có tướng ngă, tướng nhân, tướng chúng sinh, tướng thọ giả, tướng Bố-nại-nga- la, tướng Ma-noa-phược-ca, tướng của người chủ, tướng của người thừa hành. Nếu các tướng ngă, nhân, chúng sinh, thọ giả... đều không th́ sao biết được nhân quả của chúng sinh khi làm điều thiện hay bất thiện, bỏ thân này rồi lại đến với thân khác?”

        Đức Thế Tôn biết những suy nghĩ thắc mắc trong chúng, liền nói với Ca-diếp và chúng Tỳ-kheo:

        -Này các Tỳ-kheo, thấy có tướng ngă, tướng nhân, tướng chúng sinh, tướng thọ giả... th́ đó chính là cái thấy sai lạc của hàng phàm phu, vô trí. Nếu có tri kiến như thế th́ sẽ nhận lấy sự khổ. Nếu biết khổ đă sinh th́ phải cầu diệt khổ. Này các Tỳ-kheo, vô số các pháp nhân quả hữu vi đều chính từ những hạt giống âm thầm phát sinh, Ta đều đă nhận biết rơ, nay muốn cho chúng sinh cũng như Ta thấu đạt được sự sinh diệt của các pháp. Này các Tỳ-kheo, tuệ nhăn của Phật sáng suốt hơn cả chư Thiên nhiều. Những chúng sinh có tướng tốt, xấu, sinh nơi sang, hèn, muốn làm điều lành hay điều ác theo nghiệp của họ, tất cả Ta đều thâu rơ. Các nghiệp của chúng sinh có thân nghiệp, khẩu nghiệp và ư nghiệp, khái quát th́ chúng sinh có tà kiến sẽ sinh tà nghiệp, hoặc hủy báng Phật pháp. V́ những nghiệp ấy mà mà sau khi chết bị đọa vào những đường dữ, chịu bao nỗi khổ. Này các Tỳ-kheo, nếu chúng sinh nào ở thân khẩu tạo nên nghiệp lành, có đủ chánh kiến, chánh hạnh, chánh nghiệp và thường ngợi ca Phật pháp, do có thiện hạnh như thế nên khi lâm chung sẽ sinh cơi trời Thiện Thệ. Này các Tỳ-kheo, Ta có tri kiến như thật, không có ǵ mà không biết, biết rơ tướng ngă, tướng nhân, tướng chúng sinh, tướng thọ giả, tướng Ma-noa-phược-ca, cho đến tướng người chủ và người thừa hành..., hoặc gây ra nhân quả về nghiệp thiện nghiệp ác, rời bỏ thân này t́m đến thân khác, tất cả những việc đó chẳng ǵ là thật có.Ta đă từng nói tất cả pháp nhân quả hữu vi đều có nguyên nhân sinh ra th́ cũng có nguyên nhân mà tiêu diệt. Nhân đó là duyên với vô minh sinh ra hành, duyên với hành sinh ra thức, duyên với thức sinh danh sắc, duyên với danh sắc sinh lục nhập, duyên với lục nhập sinh xúc, duyên với xúc sinh thọ, duyên với thọ sinh ái, duyên với ái sinh thủ, duyên với thủ sinh hữu, hữu là nhân của sinh, sinh là nhân của lăo tử, lo buồn đau khổ. V́ do một nguyên nhân mà bao nỗi khổ sinh ra. Này các Tỳ-kheo, nếu diệt được nguyên nhân ấy th́ khổ sẽ không c̣n, tức là vô minh diệt th́ hành diệt, hành diệt th́ thức diệt, thức diệt th́ danh sắc diệt, danh sắc diệt th́ lục nhập diệt, lục nhập diệt th́ xúc diệt, xúc diệt th́ thọ diệt, thọ diệt th́ ái diệt, ái diệt th́ thủ diệt, thủ diệt th́ hữu diệt, hữu diệt th́ sinh diệt, sinh diệt th́ lăo tử, lo buồn đau khổ không c̣n nữa, như thế toàn bộ khổ uẩn đều diệt. Này các Tỳ-kheo, do nhân của Tập diệt nên khổ đau sẽ tự diệt, dứt hết đau khổ chính là Niết-bàn an vui. Lại nữa, nếu tướng ngă dứt được th́ không c̣n nguyên nhân sinh ra khổ tức không c̣n luân hồi. Nếu biết cái khổ là không có th́ diệt cái ǵ? Đó là đạt được sự dừng dứt ḍng nhân quả kia, đạt được sự thanh tịnh trong lành, xa rời tất cả mọi vướng mắc của khái niệm đạt, chính là Niết-bàn.

Hết quyển 10

 

previous.png     back_to_top.png     next.png

 

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0