佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

KINH PHẬT THUYẾT CHÚNG HỨA-MA-Đ

Hán dịch: Đời Triệu Tống, Tam tạng Pháp Sư Pháp Hiền.

Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

-o0o-

Quyển 7

 

Số 0191

KINH PHẬT THUYẾT CHÚNG HỨA-MA-ĐẾ

13 Quyển

Quyển 1

Quyển 2

Quyển 3

Quyển 4

Quyển 5

Quyển 6

Quyển 7

Quyển 8

Quyển 9

Quyển 10

Quyển 11

Quyển 12

Quyển 13

 

        Bấy giờ tại cung trời Phạm thiên, có hai vị Phạm thiên tử suy nghĩ: “Nay ở cơi Nam thiệm-bộ châu có Đức Phật Thế Tôn ra đời, vừa thành đạo trên bờ sông Ni-liên, gần hồ Ô-lô-vĩ-la, Đức Thế Tôn ấy đang ngồi kiết già dưới cội Bồ-đề đă bảy ngày đêm nhập vào Chánh định.” Hai vị Phạm thiên ấy bèn nói với nhau:

        -Chúng ta có đại thần lực, trong thời gian co duỗi cánh tay có thể đến được nơi đó, vậy nay chúng ta hăy mau tới đó dùng lời kệ ca ngợi Phật và xin Ngài chuyển Pháp luân cứu vớt chúng sinh.

        Nói xong, hai vị liền đến chỗ Phật, cung kính nhiễu hành, lễ bái, rồi đứng trước Phật, một vị nói kệ thưa thỉnh:

        Xin Phật dựng gốc đạo

        Cứu chúng sinh thế gian

        Nên nói pháp Tối thượng

        Để trí thâm nhập pháp.

        Vị Phạm thiên kia cũng nói kệ thỉnh:

        Khuôn mặt như trăng tṛn

        Tâm tịnh, không phiền năo

        Xin nói pháp vi diệu

        Làm an vui thế gian

        Hai vị Phạm thiên kia nói kệ xong liền biến mất. Lúc Đức Thế Tôn ra khỏi định, quan sát khắp thế gian rồi nói kệ:

        Những thú vui trong cơi thế gian

        Cho đến niềm vui ở cơi trời

        Đem so niềm vui dứt tham dục

        Mười sáu phần không được một phần.

        Lại nói tiếp kệ:

        Gánh nặng khổ của đời

        Khổ v́ không bỏ mê

        Nếu buông gánh nặng khổ

        Ắt được Tối thượng lạc.

        Thế Tôn lại nói tiếp:

        Dứt được tham ái ở thế gian

        Tất cả phiền năo tự tiêu trừ

        Biết được phiền năo thoát luân hồi

        Sẽ được niềm vui trong giải thoát.

        Suốt trong bảy ngày đêm, Đức Thế Tôn ngồi kiết già nhập định, trong thời gian ấy người không ăn uống ǵ cả. Ngài vừa xuất định nói kệ xong, bỗng có một lái buôn tên Bố-tát-bà-lê-ca đang chuyển năm trăm cỗ xe hàng sang nước khác để bán, đi ngang qua gần nơi Đức Phật thiền định. Vốn có thiện căn nên ông ta thường suy nghĩ: “Làm thế nào để có những bạn lành và quyến thuộc tốt.”         Bỗng ông ta nghe có người nói:

        -Đức Thế Tôn nhập định luôn bảy ngày không ăn uống, ngồi dưới cội Bồ-đề bên bờ sông Ni-liên, gần hồ Ô-lỗ-vĩ-la. Ngài đă chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

        Người lái buôn thầm nghĩ rằng Đức Phật chính là bậc Thiện hữu đem lại lợi ích cho anh ta nên vội vàng đến đó dâng những thức ăn ngon bổ nhất để cúng dường Phật.

        Bấy giờ có một vị trời biết được tâm nguyện của Bố-tát-bà-lê-ca, bèn xem xét người lái buôn và những hàng hóa ông đang đem đi bán. Quan sát xong vị ấy đến bạch Phật:

        -Hôm nay sẽ có người lái buôn tên là Bố-tát-bà-lê-ca biết Thế Tôn tu hành đắc đạo ở đây nên đến cúng dường, mong cầu phước báo an vui, lợi ích.

        Nói xong, vị trời liền biến mất.

        Lúc ấy Bố-tát-bà-lê-ca cùng các bạn thân cùng đi trong đoàn tự tay nấu những thức ăn thơm ngon, tinh khiết, với tấm ḷng thành đem đến cúng dường Đức Phật. Đi chưa tới nơi, ông ta lại nghĩ: “Nay ta đem thức ăn dâng lên cúng dường chắc thế nào cũng được nghe Phật thuyết pháp tối thượng. Chúng ta nhờ gieo nhân này hẳn sẽ được quả tốt.” Đến nơi, người lái buôn cung kính cúi đầu lễ xuống chân Phật, rồi đứng lên chiêm ngưỡng Ngài và thưa:

        -Bạch Đức Thế Tôn, con cùng các thân hữu đă làm các thức ăn đem đến cúng dường. Xin Ngài thương xót nhận cho.

        Đức Phật nhận lời, nhưng chưa dùng. V́ lúc mới thành đạo, Ngài chưa có bát để thọ thực nên nghĩ: “Nếu Ta không dùng bát để thọ nhận các món cúng dường, Ma vương, ngoại đạo sẽ chê cười mà nói rằng chẳng lẽ trong quá khứ, các Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác v́ lợi ích cho mọi chúng sinh, lại thọ sự cúng dường như vậy sao?”

        Khi Đức Phật vừa khởi niệm như thế, Phạm thiên liền bạch Phật:

        -Bạch Thế Tôn, các Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác trong quá khứ v́ lợi ích cho chúng sinh, đều dùng bát để thọ lănh các thức ăn cúng dường của tín thí.

        Lúc ấy Thế Tôn khởi niệm muốn có một cái bát, bốn vị Đại thiên vương biết tâm ư của Ngài nên mỗi vị đă dùng những thứ đá quư sai các thợ giỏi trong thời gian ngắn tạo được các chiếc bát rất thanh tịnh, tốt đẹp không ǵ bằng. Sau khi làm xong, bốn vị Thiên vương đồng nhau cầm b́nh bát đến dâng cho Đức Phật. Tới nơi, bốn vị cúi đầu đảnh lễ Phật rồi đứng sang một bên chiêm ngưỡng người và đồng lên tiếng thưa với Đức Phật:

        -Chúng con mỗi người đă dùng đá quư tạo thành chiếc bát, nay cùng nhau đem đến dâng lên Đức Phật. Cúi mong Đức Thế Tôn thương chúng con mà nhận cho.

        Bạch xong các vị đều đứng chờ ư chỉ của Phật. Khi ấy Đức Phật tự nghĩ: “Bốn vị Thiên vương đều dâng bát, nếu Ta nhận bát của một vị th́ ba vị kia sẽ không vui, nên nay Ta sẽ nhận cả bốn cái.” Sau khi nhận cúng bốn chiếc bát, Ngài lại nghĩ: “Ta chỉ dùng một chiếc bát, nay nên dùng chiếc bát nào trước?” Nghĩ thế rồi, Đức Phật liền dùng thần lực hợp bốn chiếc bát thành một, tuy hợp lại nhưng vẫn giữ nguyên h́nh một chiếc bát. V́ lợi ích cho muôn loài, Đức Phật cầm bát đến thọ nhận thứ ăn cúng dường của người lái buôn Bố-tát-bà-lê- ca. Thọ thực xong, Đức Phật nói với người lái buôn:

        -Hôm nay Ta v́ ông mà nói pháp Tam quy, ông nên chú ư lắng nghe.

        Bố-tát-bà-lê-ca vâng lời đứng yên lănh hội. Đức Thế Tôn dạy:

        -Tam quy gồm có quy y Phật, quy y pháp và quy y Tăng-già trong tương lai. Trọn đời ông phải hết ḷng giữ ǵn chớ có sai phạm.

        Bố-tát-bà-lê-ca thưa:

        -Bạch Đức Thế Tôn, con nay xin quy y Phật, quy y Pháp và quy y Tăng-già trong tương lai, trọn đời không dám sai phạm.

        Đức Thế Tôn nói với Bố-tát-bà-lê-ca:

        -Tùy hỷ bố thí chắc chắn hưởng được phước quả. Ông đă là người tự ư bố thí nhất định sẽ được an vui, mọi điều mong cầu sẽ được thành tựu, tương lai cũng sẽ chứng quả Niết-bàn. Này Bố-tát- bà-lê-ca, ngươi tu hạnh bố thí, làm điều phước lợi, trời, người và cả Ma vương cũng không thể mê hoặc được. Nếu tu tập thiền định, trí tuệ nữa th́ sẽ diệt được nguồn gốc-của khổ đau, chứng được quả thánh.

        Bố-tát-bồ-lê-ca nghe lời Phật dạy xong, tâm ư vô cùng vui mừng, phát nguyện cả trong đời vị lai sẽ luôn nhớ nghĩ không bao giờ quên. Sau khi phát nguyện rồi, ông liền đảnh lễ Phật và lui ra.

        Bấy giờ Đức Phật sau khi thọ lănh sự cúng dường của người lái buôn Bố-tát-bà-lê-ca rồi, liền đem thức ăn đến bờ sông Ni-liên, trải cỏ làm chỗ ngồi và thọ thực. Ăn xong, rửa bát, bỗng Đức Thế Tôn cảm thấy trong người không được thoải mái. V́ sao vậy? Chính v́ Ngài muốn cho chúng sinh biết rơ thân này là huyễn ảo nên mới thị hiện việc ấy.

        Lúc ấy Ma vương sợ Đức Phật ra đời giáo hóa chúng sinh thoát khỏi khổ năo nơi ba cơi th́ cảnh giới của ḿnh sẽ trở nên vắng vẻ, nên thường chờ dịp thuận lợi để đến nhiễu loạn Phật. Nay biết Phật đang khó ở trong người, Ma vương liền rời khỏi ma cung đến chỗ Đức Phật nói:

        -Thưa Bậc Thiện Thệ, Ngài nay phát bệnh, giờ vào Niết-bàn sắp tới. Nay tôi tới để thỉnh Phật nhập Đại Niết-bàn.

        Phật biết Ma vương muốn làm loạn tâm, nên bảo Ma vương:

        -Giờ Niết-bàn của Ta vẫn chưa đến, Ta nay c̣n chờ các hàng đệ tử chứng quả Thanh văn có trí tuệ sáng suốt, hiểu rơ pháp Phật, quảng diễn pháp tướng cùng với các hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di... đều tu hành phạm hạnh và nhiều chúng sinh trong thiên hạ, cho đến các vị trời đều được chứng quả giải thoát. Đến lúc đó Ta mới vào Niết-bàn.

        Ma vương nghe Đức Phật nói thế, biết là Ngài chưa vào Niết-bàn nên trong ḷng buồn bă, xấu hổ mà bỏ đi.

        Khi đó Đế Thích biết trong người Đức Phật không được khỏe, nên từ thiên cung thân hành xuống cơi Nam thiệm-bộ châu đến rừng Đại Ha-lê-lặc cách cội Bồ-đề không xa hái những trái Ha-lê-lặc ngon nhất đem đến chỗ Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ, chiêm ngưỡng và thưa: -Bạch Đức Thế Tôn, con được biết thánh thể của Thế Tôn không được khỏe nên đến cơi Thiệm-bộ châu này hái những quả Ha-lê-lặc có màu sắc tốt tươi, hương vị thơm nhất, có thể chữa được bệnh ấy, đem đến đây xin Phật từ bi nhận cho.

        Đức Thế Tôn nhận và ăn những trái cây ấy xong, thân thể khỏe mạnh như xưa. Đức Phật liền an ủi, khen ngợi trời Đế Thích.         Vua trời từ tạ trở về thiên cung.

        Bấy giờ Thế Tôn rời cội Bồ-đề đến cung điện của Long vương Mầu-tức-lân-na. Tới nơi Ngài ngồi kiết già nhập định bên một cội cây. Trong suốt bảy ngày đêm Đức Phật nhập định luôn có mưa. Long vương thấy trời mưa tuôn, gió thổi, biết Đức Phật đang thiền định, biết rơ về thời tiết này, sợ gió mưa hại đến thân Phật, lại sợ các loài sâu bọ quấy nhiễu thánh thể nên dùng thân ḿnh quấn quanh người Phật, đầu biến thành lọng che cho Đức Phật, trải qua bảy ngày đêm không rời. Lúc Đức Phật xuất định, Long vương cũng thu h́nh lại và trở về long cung, dùng các loại hoa hương trang diểm thân rồi đến chỗ Phật đảnh lễ thưa:

        -Bạch Đức Thế Tôn, mưa gió trong bảy ngày vừa qua và các loại côn trùng có nhiễu loạn đến thân Ngài không? Thánh thể Ngài có được an vui không?

        Đức Phặt liền nói kệ đáp:

        Ta quan sát thế gian

        Tất cả khắp muôn loài.

        Nếu không bị xâm hại

        Sẽ vui mừng sung sướng.

        Ĺa dục đoạn phiền năo

        Vui ấy lớn hơn nhiều

        Điều phục được vô minh

        Ấy, niềm vui tối thượng.

        Sau khi nói kệ trả lời Long vương, Đức Phật liền trở lại cội Bồ-đề trong báy ngày đêm ngồi kiết già nhập định quán sát lư mười hai duyên sinh. Ngài nội quán: “Do nguyên nhân căn bản nào mà có sự sinh? Đó là do vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lăo tử, sầu bi khổ ưu năo. Do nhân ấy mà tích tụ tất cá nỗi khổ lớn như vậy. Nếu căn bản phiền năo không khởi lên th́ tất cả mười hai nhân duyên đều diệt. Đó là khi vô minh diệt th́ hành diệt, hành diệt th́ thức diệt, thức diệt th́ danh sắc diệt, danh sắc diệt th́ lục nhập diệt, lục nhập diệt th́ xúc diệt, xúc diệt th́ thọ diệt, thọ diệt th́ ái diệt, ái diệt th́ thủ diệt, thủ diệt th́ hữu diệt, hữu diệt th́ sinh diệt, sinh diệt th́ lăo tử, sầu bi khổ ưu năo cũng diệt. Hiểu rơ quá tŕnh sinh diệt như thế th́ diệt được các khổ năo lớn đang tích tụ.”

        Trong bảy ngày đêm nhập định, Đức Phật đă quan sát rơ về lư mười hai duyên sinh. Vừa ra khỏi chánh định, Ngài liền nói kệ:

        Lắng ḷng quán sát các tướng khổ

        Biết rơ các pháp có nguyên nhân

        Nếu biết tướng khổ không phát sinh

        Tự nhiên tất cả ái dục dứt.

        Lắng ḷng quán sát ái hữu vi

        Biết pháp hữu vi là vô cùng

        Nếu biết pháp hữu vi không sinh

        Tự nhiên trừ tất cả ái dục.

        Lắng ḷng quan sát nhân duyên sinh

        Biết pháp duyên sinh là vô tận

        Nếu biết duyên sinh không phát khởi.

        Tự nhiên tất cả áidục dứt.

        Lắng ḷng quan sát pháp hữu lậu

        Mới biết pháp hữu lậu vô cùng

        Nếu biết pháp hữu lậu không sinh

        Tự nhiên tất cả ái dục dứt.

        Lắng ḷng quan sát pháp như thị

        Biết pháp như thị là không sinh

        Như mặt trời chiếu khắp thế gian

        Đi đứng trên không, không trở ngại.

        Lắng ḷng quan sát các tướng khổ

        Biết tất cả khổ đều không sinh

        Phá trừ phiền năo chứng Niết-bàn

        Như Phật hàng phục chúng ma quân.

        Nói kệ xong, Đức Phật lại nói tiếp:

        -Nếu có chúng sinh nào đoạn được luân hồi, biết các pháp sâu xa, thông tỏ tất cả ngôn từ vi diệu, những người như thế là bậc Trí, Ta sẽ v́ những người đó mà nói, v́ những người ấy mà dạy cho họ hiểu. Nay Ta ở một ḿnh nơi núi rừng, nương theo pháp ấy để tu hành, t́m thấy niềm vui trong việc tu tập.

        Thế Tôn nói xong bèn đi đứng tự tại không ǵ ràng buộc, không thuyết pháp, cũng không có ư định sẽ thuyết pháp.

        Bấy giờ vua trời cai quản cơi Ta-bà là Đại phạm Thiên vương biết Thế Tôn không thuyết pháp cũng không có ư định thuyết pháp, liền suy nghĩ: “Như thế th́ thế gian sẽ bị hoại diệt! V́ sao? V́ Như Lai xuất hiện ở thế gian khác nào như hoa Ưu-đàm lâu lắm mới nở một lần. Nay Đức Phật không thuyết pháp, tự vui với pháp ḿnh vừa đạt, sẽ khiến tất cả những kẻ tham dục vui thích theo tà pháp, không được giác ngộ, thế th́ làm sao thế gian không bị hủy diệt? Ta nay phải tự thân đến chỗ Đức Phật, hết ḷng khuyến thỉnh Đức Phật thuyết pháp độ sinh.” Nghĩ xong, Đại phạm Thiên vương rời khỏi Phạm giới trong khoảnh khắc thời gian co duỗi cánh tay đă đến chỗ Đức Phật, đứng trước Đức Phật nói kệ:

        Ra đời nước Ma-già

        Bậc Vô Cấu thuở xưa

        Đều mở cửa Cam lộ

        Thuyết pháp độ chúng sinh.

        Đức Thế Tôn bảo:

        -Pháp của Ta rất sâu xa khó gặp, khó hiểu, nếu Ta vội nói ra chắc sẽ bị tiêu hoại. V́ sao? V́ tất cả những kẻ ham thích tà pháp, những kẻ nhiều tham dục trong thế gian sẽ không ưa thích nghe theo nên không thể giác ngộ. V́ sao vậy? V́ nội tâm những kẻ tham dục ấy luôn bị màn đen tối che lấp.

        Đại Phạm vương thưa:

        -Bạch Đức Thế Tôn, chúng sinh ở thế gian có sinh có lăo, có người căn tính thông minh lanh lợi, có người căn tính kém cỏi chậm lụt hoặc có kẻ trung căn, tướng mạo th́ có xấu có đẹp nhưng cũng có người dễ cảm hóa, những kẻ phàm phu có ít phiền năo trần lao. Bạch Thế Tôn, như loài hoa sen xanh hoặc trắng sinh ra, phát triển và tàn úa trong nước, có hoa nhô lên khỏi mặt nước, có hoa không nhô lên khỏi mặt nước. Cũng như thế, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn không v́ muôn loài mà nói pháp vi diệu th́ họ sẽ đều rơi vào các đường dữ. Cúi xin Đấng Thiên Thệ hăy ban pháp bảo, hăy rưới cam lộ!

        Lúc ấy Đức Thế Tôn yên lặng nhận lời khuyến thỉnh của Đại phạm Thiên vương. Ngài dùng Phật nhăn quán sát chúng sinh trong thế gian có trẻ có già, có kẻ lợi căn, có người độn căn, cho đến kẻ ở bậc giữa hoặc bậc dưới, dung mạo đẹp xấu, dễ cải hóa hoặc khó cải hóa, có kẻ ít phiền năo hoặc rất ít phiền năo... rồi Ngài tư duy: “Với các chúng sinh ấy, nếu Ta không giảng nói các pháp vi diệu th́ họ sẽ không biết nguồn gốc của khổ đau, sẽ dễ rơi vào các đường dữ.”

        Sau khi quan sát thấy rơ như thế, Đức Thế Tôn khởi tâm từ bi muốn giảng nói diệu pháp. Trước hết Ngài nói kệ:

        Ta nay tuôn mưa pháp cam lộ

        Thấm nhuần chúng sinh, kẻ thích nghe

        Từ nay cơi đời được diệu pháp

        Nếu gặp ác ma không quảng diễn.

        Khi ấy Đại phạm Thiên vương nghe Đức Phật nói kệ, biết rơ Đức Phật sẽ giảng nói pháp mầu nên trong ḷng vui mừng khôn xiết, liền cúi đầu đảnh lễ chân Phật, nhiễu quanh Phật ba ṿng rồi cáo lui.

        Bấy giờ Đức Phật suy nghĩ: “Người nào sẽ được nghe Ta giảng diệu pháp trước tiên?” Ngài bèn nhớ lại: “Ngày trước, Tiên nhân A-la-nă Ca-la-ma từng cúng dường và cầu chúc cho Ta khi Ta đi ngang qua nơi vị ấy đang tu tập. Vậy Ta hăy đến thuyết pháp cho người đó trước.”

        Bỗng có vị Phạm thiên đến bạch với Phật:

        -Tiên nhân A-la-nă Ca-la-ma và các bạn ông đă mất vừa đúng bảy ngày.

        Nghe lời ấy, Đức Phật liền cât tiếng than:

        -Luật vô thường ở thế gian thật đáng sợ.

        Ngài lại nghĩ: “Những Tiên nhân kia thật bạc phước, không được nghe chánh pháp.”

        Lúc ấy Đức Phật lại nhớ đến Lỗ-nại-la Ca-la-ma tử cũng đă từng cúng dường và chúc tụng Ngài. Khi Phật vừa nghĩ đến đó bỗng có vị La-trá đến bạch Phật:

        Lỗ-nại-la Ca-la-ma Tử cũng đă qua đời.

        Đức Thế Tôn nghe báo liền than:

        -Phật pháp khó được nghe, ông ta thật là bạc phước!

        Đức Phật lại nghĩ đến năm người khi Phật mới rời vương cung vào rừng tu khổ hạnh th́ năm người ấy đă t́m đến cúng dường, giúp đỡ nên mun thuyết pháp cho họ trước tiên. Lúc ấy Thế Tôn dùng Thiên nhăn thanh tịnh quán xem năm người đó hiện giờ ở đâu, th́ thấy năm người đang ở vườn Lộc dă, thuộc nước Ba-la-nại. Ngài liền rời khỏi cội Bồ-đề đi đến nơi ấy. Giữa đường, Đức Phật gặp một vị Tiên nhân tên ô-ba-nga đang đi ngược chiều. Vị ấy trông thấy Thế Tôn thân tướng cao một trượng sáu, thân sắc vàng chói, tướng thật đoan nghiêm đặc biệt, vượt hẳn người thế gian, ngạc nhiên trong giây lát rồi vị ấy nói:

        -Hỡi Ngài Cù-đàm, Ngài có thân tướng tuyệt đẹp, trong sáng thanh tịnh, tỏa ra ánh sáng như vàng ṛng, cơi đời không có, do nguyên nhân ǵ Ngài xuất gia? Tu tập theo pháp môn nào? Ai là thầy của Ngài? Nay Ngài đi về đâu?

        Đức Thế Tôn liền nói kệ đáp:

        Ta tu không có thầy        

        Ở đời không bạn lữ

        Ngộ pháp Chánh đẳng giác

        Là Thầy của trời người,

        Biết các pháp thế gian

        Không nhiễm cũng không dứt

        Đầy đủ Nhất thiết trí

        Hàng phục chúng ma quân.

        Tiên nhân Ô-ba-nga nói:

        -Thưa Cù-đàm, nếu đúng như lời Ngài vừa nói th́ đó chính là quả vị Phật.

        Đức Phật nói:

        -V́ Ta đă ngộ được chân lư, các lậu hoặc phiền năo đều tận diệt, hàng phục được các nghiệp chướng và tội báo nên có hiệu là Phật.

        Tiên nhân lại hỏi:

        -Thưa Cù-đàm, nay Ngài đi đâu?

        Đức Phật bảo:

        -Ta đến thành Ba-la-nại để trối lên tiếng trống pháp, chuyển đại pháp luân, những điều mà người ở thế gian chưa từng nói, lại cũng giảng nói về những lời dạy của chư Phật trong quá khứ để thế gian biết mà xa rời dục vọng.

        Đức Phật nói thế rồi, Tiên nhân Ô-ba-nga đảnh lễ Phật và tiếp tục tục lên đường.

        Khi Đức Phật đến vườn Lộc dă, năm đạo sĩ ở đấy là Sái-thế-lê- ca, Ma-hộc-lê-ca, Mạt-hộc-lê-ca, Phược-bát-la-hạ và Nă-vĩ-bà-la-đa mới vừa tắm rửa xong, thoa dầu lên thân thể, dọn bày thức ăn và cùng nhau ngồi chuẩn bị thọ trai. Bỗng năm người nh́n thấy Đức Thế Tôn từ xa đi đến, nhận ra Ngài, đều ngạc nhiên, nói với nhau:

        -Thái tử đă tu khổ hạnh trên rừng mong thành Phật nhưng rồi thoái chí, nay lại đến t́m chúng ta. Chúng ta cứ ngồi yên đừng đứng lên nghênh tiếp.

        Từ xa, Đức Phật đă biết thái độ của họ, nhưng Ngài vẫn điềm nhiên đi tới, thân h́nh Phật sừng sững như kim sơn, các tướng tôn quư, an lành hiện ra đầy đủ, uy đức lớn lao không ai sánh bằng.

        Năm người ấy thấy Đức Phật đến gần với oai đức c̣n tăng hơn trước, tất cả đều không thể ngồi yên, vội đứng lên nghênh tiếp.         Năm người cùng nói:

        -Lành thay! Mời Ngài ngồi.

        Rồi th́ kẻ dọn chỗ ngồi, người th́ lấy nước rửa chân, kẻ dâng áo, người chắp tay đứng hầu. Năm người hầu hạ Đức Phật giống như luc trước.

        Đức Thế Tôn sau khi an tọa, ung dung nói với năm người:

        -Năm người các ông khi mới nh́n thấy Ta liền bàn với nhau là nên tỏ ra xem thường Ta. Các ông chẳng hiểu biết ǵ cả! Các ông đều là người trong họ của Ta, phải nghe những lời Ta chỉ dạy. Các ông không nên khinh mạng Như Lai. V́ sao? Nếu khinh mạng Như Lai sẽ không đạt lợi ích ǵ cả, mà sau này sẽ măi măi gặp khổ đau.

        Năm người ấy bạch Phật:

        -Trước kia Phật là người có uy nghi hơn hết trong đời, lại có phép tu rất mầu nhiệm, sau tu khổ hạnh được trí Vô thượng và sự thanh tịnh tối thắng, thông đạt diệu pháp. Lúc trước Ngài thường độc cư tu tập, nay Ngài tu tập ở nơi nào?

        Đức Phật nói:

        -Này năm vị, nếu Ta nay nhận tất cả đồ cúng dường, bố thí của chúng sinh những thức ăn uống quư giá như cháo sữa, ăn uống xong th́ tắm rửa, thoa dầu thơm lên thân thể, các căn trong sạch, thân tướng oai nghiêm đẹp đẽ, ngắm nh́n sắc dáng trước sau rất là tươi vui, như thế th́ các ông cho là đă thấy Ta hay là chẳng phải thấy Ta?

        Sái-thế-lê-ca thưa.

        -Đúng như vậy. Lúc trước năm người chúng tôi thường đi khất thực; lúc Đức Thế Tôn đến th́ ba người đi khất thực, c̣n hai người th́ phục vụ Ngài, hoặc hai người đi khất thực th́ ba người phục vụ, luôn thay đổi phục vụ siêng năng khổng mỏi mệt.

        Nhân đó Đức Phật dạy:

        -Có hai điều mà người tu hành không được làm. Hai điều đó là ǵ? Đó là tâm tham đắm sắc dục, ấy là cội nguồn của luân hồi, chẳng phải là pháp của bậc Thượng nhân. Nếu có người nào có thể tự thân giữ đoan chánh, tu tập khổ hạnh, như thế người ấy không bị mê chấp với các pháp năm uẩn, ba độc, dùng con mắt trí tuệ để quan sát th́ dứt được luân hồi, ĺa cả khổ và vui, đi theo Trung đạo. Lại phải tu tập theo tám con đường chân chánh, đó là Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh cần, Chánh niệm và Chánh định th́ sẽ đạt được thần thông, chứng quả Niết-bàn. Theo đúng nẻo Trung đạo tu tập sẽ đạt Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Những điều đó Ta đă thực hiện một cách đầy đủ, rốt ráo.

        Bấy giờ Đức Thế Tôn lại quan sát thấy năm người này có thể thọ lănh pháp, liền bảo với họ.

        -Đây là Khổ, các ông phải biết.

        Năm người lúc ấy tư duy, dùng tuệ nhăn quán pháp ấy, thấy rơ trong đời quá khứ đă từng được nghe thấy, tâm Bồ-đề phát sinh nên được hiểu rơ hoàn toàn.

        Đức Phật lại nói:

        -Đây là Tập (Nguyên nhân gây khổ), các ông nên dứt trừ.

        Năm người lại tư duy về chân lư thứ hai này, dùng tuệ nhăn xem xét trong đời quá khứ đều đă từng nghe thấy, nên tâm Bồ-đề phát sinh và được hiểu rơ.

        Đức Phật lại dạy tiếp:

        -Đây là Diệt, chân lư mà các ông cần phải chứng ngộ.

        Năm người suy nghĩ, dùng tuệ nhăn quan sát chân lư ấy, thấy trong quá khứ đă từng nghe biết, trí giác phát sinh nên được hiểu rơ hoàn toàn.

        Cuối cùng Đức Phật dạy:

        -Này các ông, đây là Đạo, tức con đường đưa đến giải thoát, mà các ông cần phải tu tập.

        Năm người suy nghĩ, dùng tuệ nhăn xem xét con đường tu tập ấy, cũng thấy trong đời quá khứ đă từng nghe biết, do đó trí giác phát sinh nên được liễu ngộ.

        Đức Thế Tôn lại dạy:

        -Chân lư thứ nhất là Khổ, Ta đă hiểu rơ. Tập, nguyên nhân của khổ, Ta đă đoạn trừ. Diệt là chân lư mà Ta đă chứng ngộ. Đạo là những con đường Ta đă tu tập. Chính do phát hiện ra những chân lư ấy và tu tập theo đó mà Ta đă thành tựu được Phật đạo. Các ông cần phải học tập. Ta đă biết khổ, dứt trừ các nguyên nhân gây khổ (Tập), chứng đạt cảnh an vui (Diệt), bằng việc tu tập theo những con đường chân chính (Đạo). Nếu các ông giác ngộ được con đường chân thật của Tứ đế th́ tự nhiên hiểu rơ lư Trung đạo không phiền năo, không giải thoát, không có trí, không có tuệ, không có Bồ-đề, không phải bất sinh, cũng không trụ vào tướng Sa-môn, Bà-la-môn cho đến các cơi Phạm thiên, Ma, Trời, Người, xa rời các tưởng điên đảo, tâm ư an vui, sẽ chắc chắn chứng được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

        Sau đó Đức Phật đă ba lượt chuyển pháp luân, giảng nói về mười hai hành, th́ Tôn giả Câu-ni dứt bỏ trần cấu, đạt được pháp nhăn thanh tịnh. Lúc ấy tám vạn trời, người cũng đạt được pháp nhăn thanh tịnh.

        Sau khi đă ngộ đạo, năm vị ấy liền bạch Phật:

        -Chúng con muốn xuất gia tu theo Phật pháp, xin Đức Phật thương mà chấp nhận.

        Đức Như Lai liền vui vẻ nói:

        Hay lắm! Các Tỳ-kheo.

        Năm người liền tự cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, trở thành Sa- mốn. Lúc đó Đức Phật dạy cho nhóm của Tôn giả Câu-ni:

        -Này các ông, sắc uẩn là thường hay vô thường, là khổ hay không phải khổ, là không hay phi không, là hữu ngă hay vô ngă?         Bốn uẩn kia: Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy chăng?

        Tôn giả Câu-ni thưa:

        Bạch Đức Thế Tôn, con xem xét năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều là pháp vô thường, khổ, không, vô ngă.

        Khi đó năm vị Tỳ-kheo nghe Đức Phật giảng về năm uẩn liền dứt được các lậu và chứng bậc Vô học (A-la-hán). Đức Phật lại nói:

        -Này các ông, việc Ta làm đă xong, phạm hạnh đă trọn. Ta đă dứt hẳn tái sinh, măi măi không c̣n bị luân hồi. Ta và các ông là sáu người sẽ là phước điền đệ nhất ở thế gian, ba ngôi báu ngày nay đă đu.

        Khi Đức Thế Tôn nói pháp như thế, có một vị Dạ-xoa tên là Bồ-ma bèn lớn tiếng xướng lên:

        -Hôm nay ở nước Ba-la-nại, trong vườn Lộc dă, nơi ở của các Tiên nhân, Đức Phật v́ ḷng từ mẫn đă ba lần chuyển Pháp luân, giảng nói Tứ đế và Thập nhị hành, v́ đem lại lợi ích cho cả cơi thế gian và xuất thế gian, cơi Phạm thiên, Ma giới, Trời, Người, Sa-môn, Bà-la-môn.

        Lúc ấy bôn vị Thiên vương của cơi Tam thập tam thiên và chư Thiên chúng cùng nhau truyền vang khiến các vị trời ở cơi Phạm thiên đều nghe biết rơ Thế Tôn đă ở nước Ba-la-nại, trong vườn Lộc dă, nơi ở của các Tiên nhân ba lần chuyển pháp luân, Tam bảo đă xuất hiện ở thế gian làm lợi lạc cho khắp trời người cùng các loài hữu t́nh.

        Khi đó đại địa chấn động, không trung rực sáng, các vị Phạm thiên, Đế Thích và chư Thiên... mỗi vị đều cầm các thứ tràng phan, bảo cái đồng đến chỗ Phật, tung xuống các loại thiên hoa vi diệu như mưa, trông trời vang lừng, ca nhạc ngợi khen... để cúng dường Phật. Sau đó tất cả đều vui mừng cung kính lễ Phật lui ra.

Hết quyển 7

 

previous.png     back_to_top.png     next.png

 

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0