* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ | KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

Quyển 1-A    Quyển 1-B    Quyển 2-A    Quyển 2-B    Quyển 3

TỨ PHẦN LUẬT HÀM CHÚ GIỚI BỔN

Nguyên tác Hán văn: Luật sư Thích Đạo Tuyên.

Dịch sang Việt: Thích Thọ Phước.

QUYỂN 3

Chư Đại đức, đây là bốn pháp Ba-la-đđề-xá-ni, cứ mỗi nửa tháng nói một lần, trong giới kinh chép ra.

1. Giới Nhận Thức Ăn Từ T́-Kheo-Ni Không Phải Bà Con Trong Thôn

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, gặp lúc mất mùa, lúa gạo quí hiếm, người bị chết đói nhiều vô số. Như thường lệ, đúng giờ, t́-kheo-ni Liên Hoa Sắc đắp y, ôm bát vào thành khất thực. V́ ba ngày liền khất thực được đều cúng dường lại hết cho t́-kheo khác, nên bị đói ngă bên đường, nằm úp mặt xuống vũng bùn. Người đời thấy vậy chê cười. Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới 

T́-kheo nào, vào trong thôn xóm, nếu không bệnh mà tự tay nhận thức ăn từ t́-kheo-ni không phải thân quyến mà ăn. T́-kheo ấy cần phải đối trước t́-kheo khác phát lồ rằng: “Đại đức, tôi phạm pháp đáng khiển trách, làm điều không đáng làm. Nay đối trước Đại đức xin phát lồ sám hối.” Đây là pháp hối quá.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Chẳng phải thân quyến: như trên đă nói.

- Không bệnh: như trên.

- Tự tay nhận thức ăn: hai loại thức ăn như trên đă nói.

Nếu tự tay nhận mỗi mỗi miếng phạm ba-la-đđề-xá-ni. T́-kheo-ni phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: nhận thức ăn từ t́-kheo-ni là bà con; hoặc có bệnh; hoặc đặt trên đất; hoặc bảo người trao cho; hoặc thức ăn được đem đến trong tăng-già-lam cho; hoặc cho ở ngoài thôn; hoặc cho trong chùa ni; những trường hợp vừa nêu trên, nếu nhận đều không phạm.

2. Giới Ăn Thức Ăn Do T́-Kheo-Ni Chỉ Dẫn

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, có số đông t́-kheo và nhóm sáu thầy t́-kheo cùng ngồi ăn trong nhà bạch y. Khi ấy, nhóm sáu cô t́-kheo-ni đ̣i cơm canh rồi bỏ qua thứ tự đem cho nhóm sáu thầy t́-kheo. Họ c̣n chỉ dẫn: “Đem canh cho vị này, đem cơm cho vị kia.” Các thầy t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, vào trong nhà bạch y đăn. Trong đó, có t́-kheo-ni chỉ bảo rằng: “Đem canh cho vị này, dâng cơm cho vị kia.” T́-kheo nên nói với t́-kheo-ni kia rằng: “Này cô, hăy thôi đi! Hăy để yên cho các t́-kheo ăn xong!” Nếu không có một t́-kheo nào nói với t́-kheo-ni kia rằng: “Này cô, hăy thôi đi! Hăy để yên cho các t́-kheo ăn xong!” T́-kheo nên đối trước t́-kheo khác mà phát lồ rằng: “Bạch Đại đức, tôi phạm pháp đáng khiển trách, làm điều không đáng làm. Nay tôi đối trước Đại đức xin phát lồ sám hối.” Đây gọi là pháp hối quá.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Trong nhà: nơi có nam, có nữ ở.

Nếu không quở trách t́-kheo-ni mà ăn th́ mỗi mỗi miếng đều phạm ba-la-đđề-xá-ni. T́-kheo-ni phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: nếu nói rằng: “Này cô, hăy thôi đi! Hăy để yên cho các t́-kheo ăn xong!” Hoặc t́-kheo-ni tự ḿnh làm đàn-việt. Hoặc đàn-việt thiết thực rồi nhờ t́-kheo-ni phân chia thức ăn cho t́-kheo. Hoặc không có tâm có làm thiên lệch với t́-kheo này, t́-kheo kia; tất cả đều không phạm.

3. Giới Nhận Thức Ăn Ở Học Gia

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở thành La-duyệt-ḱ. Bấy giờ, có cư sĩ và vợ cư sĩđều đă đắc kiến đế, không c̣n luyến tiếc ǵ, kể cả thịt trên thân. V́ thế, họ cúng dường rất nhiều, đên nỗi thức ăn, đồ mặc đều hết sạch. Hàng cư sĩ thấy vậy chê cười. Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Đức Phật dạy: “Nên làm pháp bạch nhị yết-ma cấm t́-kheo không đến nhà người đó khất thực nữa.” Sau đó, họ giàu có trở lại, Đức Phật bảo các t́-kheo nên giải yết-ma. Nhân đó, Đức Phật chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, nếu trước đó đă tác yết-ma học gia, đối với học gia đó, không có sự thỉnh trước, không bệnh, tự tay nhận thức ăn và ăn. T́-kheo ấy cần đối trước t́-kheo khác phát lồ rằng: “Tôi phạm pháp đáng khiển trách, làm điều không đáng làm. Nay tôi đối trước Đại đức, xin phát lồ sám hối.” Đây là pháp hối quá.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên. 

- Học gia: là nhà được Tăng trao pháp bạch nhị yết-ma. Giống như trên.

- Không có sự thỉnh trước: nếu đă nhận lời mời trước th́ được phép đến.

- Không bệnh: cho phép t́-kheo có bệnh được nhận thức ăn ở nhà đó.

- Tự tay nhận thức ăn: hoặc cho bằng cách để trên đất; hoặc sai người đem cho th́ được phép nhận.

Nếu tự tây nhận lấy mỗi mỗi miếng phạm ba-la-đđề-xá-ni. T́-kheo-ni phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: đă nhận lời mời trước; hoặc v́ bệnh; hoặc để trên đất rồi lấy; hoặc nhận qua người khác; hoặc bạch nhị yết-ma giải rồi, nhận và ăn; tất cả đều không phạm.

4. Giới Nhận Thức Ăn Trong A-Lan-Nhă Có Sự Khủng Bố

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Ni-câu-luật, nước Thích-súy-sấu. Bấy giờ, trong thành có những người nữ mang thức ăn đến Tăng-già-lam cúng dường. Bọn giặc cướp biết được đón đường làm hại. Các t́-kheo đem việc ấy bạch Phật. Đức Phật dạy: “Phải báo cho họ biết việc ấy.” Nhân đó, Đức Phật chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, sống nơi a-lan-nhă, xa xôi hẻo lánh, chỗ đáng nghi có kinh sợ. T́-kheo sống tại trú xứ a-lan-nhă như vậy, trước không nói cho đàn-việt biết, không thụ nhận thức ăn bên ngoài tăng-già-lam; trái lại, không bệnh mà ở trong tăng-già-lam, tự tay nhận thức ăn đăn; t́-kheo ấy cần phải đến đối trước t́-kheo khác mà pháp lồ rằng: “Đại đức, tôi phạm pháp đáng khiển trách. Nay tôi đối trước Đại đức xin phát lồ sám hối.” Đây là pháp hối quá.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Nơi a-lan-nhă: cách thôn năm trăm cung. Một cung bằng một khuỷu tay, là cách đo lường của nước Giá-ma-la.

- Chỗ đáng nghi: nghi có giặc cướp, có khủng bố.

- T́-kheo sống tại trú xứ a-lan-nhă như vậy, trước không nói cho đàn-việt biết: Đức Phật dạy: “Nên báo cho người nữ biết, chớ ra khỏi thành, v́ đoạn đường ấy có giặc cướp, có khủng bố.”

- Không thụ nhận thức ăn bên ngoài tăng-già-lam: Nếu họ đă ra khỏi thành, th́ nên nói với họ: “Chớ đến trong tăng-già-lam, v́ đoạn đường ấy có giặc cướp, có khủng bố.”

- Không bệnh mà ở trong tăng-già-lam: nếu họ quyết tâm mang thức ăn đến th́ cho phép người bệnh được nhận.

- Tự tay nhận thức ăn đăn: nếu có thí chủ đem thức ăn đặt trên đất; hoặc sai người đem cho.

T́-kheo-ni phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: hoặc lúc đến nhận sự chỉ bảo; hoặc đến để nghe pháp; tự có thức ăn riêng bảo trao cho; tất cả đều không phạm.

Chư Đại đức, tôi đă nói xong bốn pháp Ba-la-đđề-xá-ni. Nay hỏi chư Đại đức trong đây thanh tịnh không? (3 lần). Chư Đại đức trong đây thanh tịnh, v́ quí ngài đều im lặng. Việc này tôi xin ghi nhận như vậy.

Chư Đại đức, đây là những pháp Thức-xoa-ca-la-ni nửa tháng nói một lần, trong giới kinh rút ra.

1.Giới Đắp Niết-Bàn Tăng Ngay Ngắn

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo đắp niết-bàn-tăng không ngay ngắn, nên bị hàng cư sĩ chê cười rằng: “Giống như vào những ngày tiết hội, người trong phường chèo khoác y để làm tṛ. Và cũng giống như cách ăn mặc của vua, đại thần.” Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Phải đắp niết-bàn-tăng cho chỉnh tề, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Chỉnh tề: y không ngay ngắn, có những trường hợp sau: 1. Đắp y thấp: nghĩa là buộc dây lưng dưới rốn. 2. Đắp y cao: vén y cao trên đầu gối. 3. Quấn như ṿi voi: một góc phía trước tḥng xuống. 4. Đắp như lá cây đa-la: hai góc phía trước tḥng xuống. 5. Gấp nhỏ: quấn quanh thắt lưng và xếp nhăn nhó.

- Đắp niết-bàn-tăng: nếu người nào đắp y không ngay ngắn, có ư làm như vậy th́ phạm đột-kiết-la, cần phải sám hối. V́ cố ư làm nên phạm phi oai nghi, đột-kiết-la. Nếu không cố ư làm th́ chỉ phạm đột-kiết-la. T́-kheo-ni và bốn chúng v.v… đều phạm đột-kiết-la. Cho đến thiên sau thành phạm tướng đều căn cứ theo đây.

- Thức-xoa-ca-la-ni.

- Trường hợp không phạm: hoặc trong rốn sinh ghẻ nhọt nên mặc thấp; hoặc đầu gối có mụt ghẻ nên mặc cao hơn; hoặc ở trong tăng-già-lam; hoặc ở ngoài thôn; hoặc khi làm việc; hoặc đi đường; tất cả đều không phạm.

2. Giới Đắp Ba Y Ngay Ngắn

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo đắp y không ngay ngắn. Lúc ấy, có một ông trưởng giả thấy vậy chê cười: “T́-kheo tự cho ḿnh biết chính pháp. Như thế có ǵ là chính pháp? Đắp y không ngan ngắn, như người thế tục không khác.” Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quán sát ba đời chư Phật và chế giới này.

b. Văn giới

Phải quấn ba y cho ngay ngắn, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trước.

Trong đây, không ngay ngắn có những trường hợp sau: 1. Quấn y thấp: tḥng xuống quá khuỷu tay, trống bên hông; 2. Quấn y cao: quấn cao quá ống chân; 3. Quấn như ṿi voi: một góc y phía trước tḥng xuống; 4. Quấn như lá cây đa-la: hai góc y phía trước tḥng xuống, phía sau vén cao lên; 5. Gấp nhỏ: gấp nhỏ làm viền của y.

- Trường hợp không phạm: hoặc mặc thấp xuống v́ ở vai, cánh tay có mụt ghẻ. Những trường hợp không phạm đều giống giới trước.

3. Giới Vắt Ngược Ba Y Vào Nhà Bạch Y

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo vắt ngược y đi vào nhà bạch y. Các cư sĩ thấy vậy chê cười rằng: “Sa-môn Thích-tử không biết tàm quí, ăn mặc giống như vua, đại thần, cư sĩ.”  Các t́-kheo đem lỗi đó bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Không được vắt ngược y khi đi vào nhà bạch y, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Vắt ngược y: hoặc vắt ngược y lên trên hai vai trái và phải.

- Nhà bạch y: chỉ cho thôn xóm.

- Thức-xoa-ca-la-ni.

- Trường hợp không phạm: hoặc bên hông có bệnh ghẻ; hoặc ở trong tăng-già-lam; hoặc trên đường đi; hoặc đang làm việc; tất cả đều không phạm.

4. Giới Vắt Ngược Y Ngồi Trong Nhà Bạch Y

Không được vắt ngược y khi ngồi trong nhà cư sĩ, thức-xoa-ca-la-ni.

5. Giới Quấn Y Ở Cổ Vào Nhà Bạch Y

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo quấn y ở cổ đi vào nhà bạch y. Các cư sĩ thấy vậy chê cười rằng: “Sa-môn Thích tử quấn y ở cổ giống như cư sĩ, trưởng giả.” Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b.Văn giới

Không được quấn y ở cổ đi vào nhà bạch y, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

-T́-kheo: nghĩa như trên.

- Quấn y ở cổ: buộc chặt hai góc y lại trên vai.

- Trường hợp không phạm: hoặc có bệnh; hoặc trên vai có mụt ghẻ; hoặc ở trong chùa tăng; hoặc ở ngoài thôn xóm; hoặc khi làm việc; hoặc đang đi đường; tất cả đều không phạm.

6. Giới Khống Y Nơi Cổ Ngồi Trong Nhà Bạch Y

Không được quấn y nơi cổ ngồi trong nhà cư sĩ, thức-xoa-ca-la-ni.

7. Giới Trùm Đầu Vào Nhà Bạch Y

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo lấy ư trùm đầu đi vào nhà bạch y. Các cư sĩ thấy vậy chê cười rằng: “Sa-môn Thích tử có ǵ gọi là biết chính pháp? Trùm đầu như bọn giặc cướp.” Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Không được trùm đầu đi vào nhà bạch y, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích 

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Trùm đầu: hoặc dùng lá cây; hoặc vật được xé ra từng mảnh; hoặc lấy y trùm.

- Trường hợp không phạm: hoặc có bệnh; hoặc vị thời tiết lạnh; hoặc trên đầu có mụt ghẻ; hoặc v́ mạng nạn, phạm hạnh nạn nên phải trùm đầu mà đi; tất cả đều không phạm.

8. Giới Trùm Đầu Ngồi Trong Nhà Bạch Y

Không được trùm đầu ngồi trong nhà bạch y, thức-xoa-ca-la-ni.

9. Giới Vừa Đi Vừa Nhảy Vào Nhà Bạch Y

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo vừa đi, vừa nhảy khi vào nhà bạch y. Các cư sĩ thấy vậy chê cười rằng: “Sa-môn Thích tử không biết hổ thẹn, chạy nhảy vào nhà giống như chim sẻ.” Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Không được vừa đi vừa nhảy khi vào nhà cư sĩ, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Vừa đi vừa nhảy: hai chân nhảy nhót.

- Trường hợp không phạm: hoặc có bệnh; hoặc bị người đánh; hoặc có giặc; hoặc thú dữ; hoặc có chông gai; hoặc nhảy qua kênh, hào; hoặc nhảy qua bùn lầy; tất cả đều không phạm.

10. Giới Nhảy Nhót Vào Nhà Bạch Y Ngồi

Không được vừa đi vừa nhảy vào nhà bạch y ngồi, thức-xoa-ca-la-ni.

11. Giới Ngồi Chồm Hổm Trong Nhà Bạch Y

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, có cư sĩ thỉnh chúng Tăng đến nhà để thiết trai cúng dường. Lúc ấy, nhóm sáu thầy t́-kheo cũng đến và ngồi chồm hổm trong nhà cư sĩ. T́-kheo ngồi bên cạnh vô t́nh đụng phải nên bị ngă ngửa, lộ h́nh. Các cư sĩ chê cười rằng: “Sa-môn Thích tử không biết hổ thẹn để lộ h́nh giống như bà-la-môn.” Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Không được ngồi chồm hổm trong nhà bạch y, thức-xoa-ca-la-ni.

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Ngồi chồm hổm: hoặc ngồi trên đất, hoặc ngồi trên giường mà mông không chạm đất.

- Thức-xoa-ca-la-ni.

- Trường hợp không phạm: hoặc đang có bệnh, hoặc một bên mông có mụt ghẻ; hoặc do đưa vật ǵ; hoặc lễ bái, hoặc sám hối, hoặc nhận giáo giới v.v… tất cả đều không phạm.

12. Giới Chống Nạnh Vào Nhà Bạch Y

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo chống nạnh đi vào nhà bạch y. Các cư sĩ thấy vậy chê cười rằng: “Sa-môn Thích tử tự cho ḿnh biết chính pháp mà chống nạnh vênh váo, đắc chí như người mới cưới vợ.” Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Không được chống nạnh đi vào nhà bạch y, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Chống nạnh: khuỷu tay ngay thẳng.

- Trường hợp không phạm: hoặc có bệnh; hoặc dưới hông sinh mụt ghẻ; hoặc ở trong tăng-già-lam; hoặc ở ngoài thôn xóm; hoặc khi làm việc; hoặc trên đường đi; tất cả đều không phạm.

13. Giới Chống Nạnh Ngồi Trong Nhà Bạch Y

Không được chống nạnh ngồi trong nhà bạch y, thức-xoa-ca-la-ni.

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Chống nạnh: chống tay lên hông, khuỷu tay ngay thẳng làm trở ngại t́-kheo ngồi bên cạnh.

14. Giới Lắc Lư Thân Vào Nhà Bạch Y

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo thân lắc lư đi vào nhà bạch y. Các cư sĩ thấy vậy chê cười rằng: “Sa-môn Thích tử không biết hổ thẹn, đi lắc lư thân giống như vua, đại thần.” Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Không được lắc lư thân ḿnh khi đi vào nhà bạch y, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Lắc lư: thân nghiêng bên trái bên phải mà rảo bước.

- Thức-xoa-ca-la-ni.

- Trường hợp không phạm: hoặc v́ bệnh; hoặc bị người đánh nên phải nghiêng ḿnh để tránh gậy; hoặc bị thú dữ tấn công; hoặc gặp người gánh gai nên phải nghiên ḿnh tránh; hoặc v́ qua sông, qua hầm nên phải nghiêng ḿnh qua; hoặc mặc y phải nghiêng ḿnh xem cho ngay thẳng; tất cả đều không phạm.

15. Giới Lắc Lư Thân Ngồi Nhà Bạch Y 

Không được lắc lư thân đi vào nhà bạch y ngồi, thức-xoa-ca-la-ni.

16. Giới Vung Tay Đi Vào Nhà Bạch Y

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo vung cánh tay đi vào nhà bạch y. Các cư sĩ thấy vậy chê cười rằng: “Sa-môn Thích tử không biết hổ thẹn, vừa đi vừa vung cánh tay giống như vua, trưởng giả.” Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Không được vung cánh tay khi đi vào nhà bạch y, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Vung cánh tay: duỗi cánh tay trước chân mà đi.

- Thức-xoa-ca-la-ni.

- Trường hợp không phạm: hoặc có bệnh; hoặc bị người đánh nên đưa tay ra đỡ; hoặc bị thú dữ tấn công; hoặc có người gánh gai đên nên phải đưa tay ra chận lại; hoặc lội qua sông, qua đầm đưa tay vẫy gọi bạn; tất cả đều không phạm.

17. Giới Vung Tay Ngồi Nhà Bạch Y

Không được vung tay đi vào nhà bạch y ngồi, thức-xoa-ca-la-ni.

18. Giới Để Hở Thân Vào Nhà Bạch Y

a. Duyên khởi

 Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo che thân không kín đáo đi vào nhà bạch y. Các cư sĩ thấy vậy chê cười rằng: “Sa-môn Thích tử mặc y phục che không kín thân giống như bà-la-môn.” Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Phải che kín thân thể khi đi vào nhà bạch y, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Nhà bạch y: tức xóm làng.

- Che kín thân thể: v́ thân hở trước, hở sau.

- Trường hợp không phạm: hoặc có bệnh, hoặc bị trói, hoặc gió thổi y bay khỏi thân; tất cả đều không phạm.

19. Giới Hở Thân Ngồi Nhà Bạch Y

Phải che kín thân thể khi ngồi trong nhà bạch y, thức-xoa-ca-la-ni.

20. Giới Nh́n Ngó Hai Bên Đi Vào Nhà Bạch Y

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo khi đi vào nhà bạch y thường nh́n ngó hai bên. Các cư sĩ thấy vậy chê cười rằng: “Sa-môn Thích tử mà như kẻ trộm ŕnh người.” Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Không được liếc ngó hai bên khi đi vào nhà bạch y, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Liếc ngó hai bên: ở trong thôn xóm nh́n ngó các nơi.

- Thức-xoa-ca-la-ni.

- Trường hợp không phạm: hoặc có bệnh; hoặc ngước xem mặt trời, thời tiết; hoặc bị mạng nạn, phạm hạnh nạn nên phải nh́n ngó phải trái, khắp nơi để t́m đường trốn thoát; tất cả đều không phạm.

21. Giới Nh́n Ngó Hai Bên Ngồi Trong Nhà Bạch Y

Không được liếc ngó hai bên khi đi vào nhà bạch y ngồi, thức-xoa-ca-la-ni.

22. Giới Lớn Tiếng Vào Nhà Bạch Y

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo kêu gọi lến tiếng đi vào nhà bạch y. Các cư sĩ thấy vậy chê cười rằng: “Sa-môn Thích tử chẳng khác nào bà-la-môn, không biết hổ thẹn, không có chính pháp.” Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Phải yên lặng khi đi vào nhà bạch y, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Trong đây không im lặng: là lớn tiếng cao giọng. Hoặc dặn ḍ, hoặc lớn tiếng thí thực.

- Thức-xoa-ca-la-ni.

- Trường hợp không phạm: hoặc có bệnh, hoặc điếc không nghe nên cần phải nói lớn tiếng, hoặc dặn ḍ, hoặc lớn tiếng thí thực, hoặc v́ mạng nạn, phạm hạnh nạn nên phải nói cao giọng để chạy thoát, tất cả đều không phạm.

23. Giới Yên Lặng Vào Nhà Bạch Y Ngồi

Phải yên lặng vào nhà bạch y ngồi, thức-xoa-ca-la-ni.

24. Giới Cười Giỡn Vào Nhà Bạch Y

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo cười giỡn đi vào nhà bạch y. Các cư sĩ thấy vậy chê cười rằng: “Sa-môn Thích tử không biết hổ thẹn, cười giỡn như khỉ, vượn, có ǵ là chính pháp?” Các t́-kheo đem việc ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Không được cười giỡn khi đi vào nhà bạch y, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Cười giỡn: cười để hở răng. 

- Thức-xoa-ca-la-ni.

- Trường hợp không phạm: hoặc có bệnh, hoặc môi bị đau không che được răng, hoặc v́ nhớ nghĩ pháp sinh hoan hỉ nên cười, tất cả đều không phạm.

25. Giới Ngồi Nhà Bạch Y  Cười Giỡn

Không được ngồi trong nhà bạch y cười giỡn, thức-xoa-ca-la-ni.

26. Giới Không Dụng Ư Nhận Thức Ăn

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, có cư sĩ thỉnh chư Tăng về nhà thiết trai cúng dường. Lúc ấy, nhóm sáu thầy t́-kheo khi nhận thức ăn mà không chú ư nên để cơm, canh đổ ra ngoài. Các cư sĩ thấy vậy chê cười rằng: “Sa-môn Thích tử thụ nhận không biết chán, v́ tham nên nhận nhiều, giống như lúc đói kém.” Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Khi nhận thức ăn phải chú ư, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Chú ư: v́ không chú ư nên làm canh, cơm, thức ăn rơi ra ngoài.

- Thức-xoa-ca-la-ni.

- Trường hợp không phạm: hoặc khi ấy mắc chứng bệnh như vậy, hoặc bát nhỏ, hoặc trong lúc ăn cơm bị rơi, hoặc cơm rơi trên bàn, tất cả đều không phạm.

27. Giới Nhận Thức Ăn Tràn Bát

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, có cư sĩ mời chư Tăng đến nhà thụ thực. Lúc ấy, nhóm sáu thầy t́-kheo nhận thức ăn tràn bát, làm cho cơm, canh rơi rớt ra ngoài. Các cư sĩ thấy vậy chê cười rằng: “Sa-môn Thích tử không biết hổ thẹn, không biết đủ, như quỉ đói, tham nhiều.” Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Chỉ nên nhận thức ăn vừa ngang bát, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Ngang bát: không ngang bát là tràn bát.

- Thức-xoa-ca-la-ni.

- Trường hợp không phạm: hoặc lúc ấy có bệnh, hoặc bát nhỏ, hoặc rơi rớt trên bàn, tất cả đều không phạm.

28. Giới Nhận Canh Tràn Bát

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, có cư sĩ thiết trai cúng dường. Lúc ấy, nhóm sáu thầy t́-kheo lấy cơm quá nhiều, nên không thể nhận thêm canh. Các cư sĩ thấy vậy chê cười rằng: “Sa-môn Thích tử giống như những người đói khát tham ăn.” Các t́-kheo bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Nhận canh vừa ngang bát, thức-xoa-ca-la-di.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Nhận canh vừa ngang bát: tràn chảy ra ngoài làm nhơ uế.

- Thức-xoa-ca-la-ni.

- Trường hợp không phạm: hoặc là lúc ấy có bệnh, hoặc bát nhỏ nên đổ thức ăn tràn lên bàn, hoặc nhận ngang bằng với bát, tất cả đều không phạm.

29. Giới Thụ Thực Không Cân Bằng

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, có cư sĩ thiết trai cúng dường và tự tay san sớt thức ăn. Sau khi sớt cơm xong, họ vào trong lấy canh trở ra th́ t́-kheo đă ăn hết cơm. Rồi cư sĩ sớt canh xong, trở vào trong mang cơm ra th́ các t́-kheo đă ăn hết canh. Cư sĩ chê cười rằng: “Sa-môn Thích tử giống như những người đói khát.” Các t́-kheo bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Phải ăn cơm và canh căn bằng nhau, thức-xoa-ca-la-di.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Ăn cơm và canh căn bằng nhau: t́-kheo ăn cơm và canh không đồng đều là cơm mang đến th́ canh đă hết.

- Thức-xoa-ca-la-ni.

- Trường hợp không phạm: hoặc có bệnh, hoặc chỉ cần canh mà không cần cơm, hoặc cần cơm mà không cần canh. Hoặc sắp hết giờ ăn, hoặc v́ mạng nạn, phạm hạnh nạn nên phải ăn thật nhanh, tất cả đều không phạm.

30. Giới Thụ Thực Không Theo Thứ Tự

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, có cư sĩ thiết trai cúng dường chư Tăng và tự tay san sớt thức ăn. Lúc ấy, nhóm sáu thầy t́-kheo không theo thứ tự nhận thức ăn. Các cư sĩ chê cười rằng: “Sa-môn Thích tử nhận không biết chán, không biết đủ, giống như heo, chó, ḅ, lừa, lạc đà, chim, quạ.” Các t́-kheo bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Phải theo thứ tự mà ăn, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Theo thứ tự mà ăn: t́-kheo kia không theo thứ tự mà ăn nghĩa là moi lấy thức ăn khắp nơi trong bát ăn mà ăn.

- Thức-xoa-ca-la-ni.

- Trường hợp không phạm: hoặc có bệnh, hoặc sợ cơm nóng nên moi lấy chỗ nguội, hoặc sắp quá giữa trưa, hoặc v́ mạng nạn, phạm hạnh nạn nên ăn gấp, tất cả đều không phạm.

31. Giới Moi Giữa Bát Ăn

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, có cư sĩ thiết trai cúng dường và tự tay sớt thức ăn. Lúc ấy, nhóm sáu thầy t́-kheo nhận thức ăn và moi ở giữa bát làm cho nh́n thấy trống rỗng. Các cư sĩ thấy vậy chê cười rằng: “Sa-môn Thích tử nhận thức ăn không biết chán giống như ḅ, lừa, lạc đà, heo, chó.” Các t́-kheo bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách rồi chế giới này.

b. Văn giới

Không được moi giữa bát mà ăn, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Moi giữa bát mà ăn: nghĩa là chừa xung quanh lại chỉ moi ở giữa bát xuống tới đáy.

- Trường hợp không phạm: hoặc có bệnh, hoặc sợ thức ăn nóng nên moi ở giữa để nguội; hoặc thời gian nửa ngày sắp hết; hoặc v́ mạn nạn, phạm hạnh nạn cần ăn gấp nên khoét ở giữa đăn; tất cả đều không phạm.

32. Giới Đ̣i Thức Ăn Cho Ḿnh

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, có cư sĩ thiết trai cúng dường. Lúc ấy, nhóm sáu thầy t́-kheo tự đ̣i hỏi thức ăn cho ḿnh, giống như lúc đói khát. Các cư sĩ thấy vậy chế cười rằng: “Sa-môn Thích tử có ǵ là biết chính pháp, nhận thức ăn không biết chán.” Các t́-kheo bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, không bệnh, không được đ̣i hỏi canh cơm cho ḿnh, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Không bệnh: nếu có bệnh th́ cho phép được đ̣i hỏi thức ăn cho ḿnh.

- Trường hợp không phạm: hoặc có bệnh, hoặc đ̣i hỏi cho người khác, hoặc người khác đ̣i hỏi cho ḿnh; hoặc không cầu mà tự được; tất cả đều không phạm.

33. Giới Cơm Che Canh

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, có cư sĩ thiết trai cúng dường. Lúc ấy, nhóm sáu thầy t́-kheo nhận canh rồi. Cư sĩ biết thứ tự lấy canh sớt tiếp. Nhóm sáu thầy t́-kheo sau đó lấy cơm lấp lên canh. Các cư sĩ thấy vậy chê cười rằng: “Sa-môn Thích tử nhận lấy không biết chán, giống như người đói khát, có ǵ là biết chính pháp?” Các t́-kheo bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Không được lấy cơm phủ lên canh để mong được thêm, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Trường hợp không phạm:  hoặc có bệnh, hoặc được mời ăn, hoặc có lúc chỉ cần canh, có lúc chỉ cần cơm; tất cả đều không phạm.

34. Giới Nghi Ngờ Liếc Nh́n Người Ngồi Bên Cạnh

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, cư sĩ thiết trai cúng dường. Lúc ấy, nhóm sáu thầy t́-kheo được thức ăn ít và thấy t́-kheo ngồi bên cạnh nhận được nhiều. V́ vậy, nhóm sáu thầy t́-kheo phàn nàn với cứ sĩ: “Nay ông mời chúng Tăng đến thụ thực, tùy ư sớt thức ăn cho người này nhiều, người kia ít, như vậy là ông có thiên vị.” Các cư sĩ nói: “Tôi sớt thức văn với tâm b́nh đẳng.” Các t́-kheo bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Không được liếc nh́n vào bát của người ngồi bên cạnh, thức-xoa-ca-la ni.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

Trong đây nh́n là nh́n xem ai được thức ăn nhiều, ai được thức ăn ít.

- Trường hợp không phạm: t́-kheo ngồi bên cạnh bị bệnh, hoặc mắt bị mù nên phải nh́n xem họ được thức ăn hay không được thức ăn, tịnh hay bất tịnh, nhận hay chưa nhận, hoặc tự ḿnh có bệnh, tất cả đều không phạm.

35. Giới Ăn Không Nh́n Vào Bát

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, có cư sĩ thiết trai cúng dường. Nhóm sáu thầy t́-kheo nhận thức ăn rồi, măi lo nh́n ngó hai bên, không tập trung, t́-kheo ngồi bên cạnh lấy bát giấu. Các t́-kheo bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Phải chú tâm vào bát mà ăn, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Chú tâm: tức không nh́n ngó hai bên.

- Trường hợp không phạm: hoặc có bệnh, t́-kheo ngồi bên cạnh mắt bị mù, như những trường hợp của giới trước, hoặc xem mặt trời đđoán giờ, hoặc v́ mạng nạn, phạm hạnh nạn định bỏ trốn nên phải nh́n hai bên, tất cả đều không phạm.

36. Giới Vắt Cơm Lớn

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, có các cư sĩ cùng thiết trai cúng dường. Nhóm sáu thầy t́-kheo nhận được cơm rồi vắt thành cục lớn nên không thể đưa vào miệng được. Các cư sĩ thấy vậy chê trách: “Sa-môn Thích tử thụ nhận không biết nhàm chán, không biết đủ, giống như loài heo, chó, lạc đà, lừa, ḅ, chim, quạ.” Các t́-kheo bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Không được vắt cơm lớn, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Vắt cơm lớn: không thể đưa vào miệng được.

- Trường hợp không phạm: hoặc có bệnh, thời gian sắp hết, hoặc v́ mạng nạn, phạm hạnh nạn nên cần phải ăn gấp, tất cả đều không phạm.

37. Giới Há Miệng Lớn Đợi Thức Ăn

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, có cư sĩ thiết trai cúng dường. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo khi đưa thức ăn chưa đến đă há miệng lớn đợi sẵn. Các cư sĩ chê trách: “Sa-môn Thích tử không biết hổ thẹn, nhận không biết nhàm chán, giống như heo, chó, lạc đà, ḅ, lừa.” Các t́-kheo bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Không được há miệng lớn đợi cơm mà ăn, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên. 

- Há miệng lớn: cơm vắt chưa đến mà đă há miệng đợi sẵn.

- Trường hợp không phạm: hoặc có bệnh như thế, hoặc thời gian sắp hết, hoặc v́ mạng nạn, phạm hạnh nạn nên cần phải ăn gấp, tất cả đều không phạm.

38. Giới Vừa Ăn Vừa Nói

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, có cư sĩ thiết trái cúng dường. Nhóm sáu thầy t́-kheo sau khi nhận thức ăn rồi vừa ăn vừa nói chuyện. Các cư sĩ chê trách bằng cách ví như heo, chó, lạc đà, quạ, chim. Các t́-kheo bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Không được ngậm thức ăn mà nói chuyện, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- Ngậm thức ăn mà nói chuyện: ngậm cơm trong miệng mà nói, nên nói không rơ ràng làm cho người nghe không hiểu.

- Trường hợp không phạm: hoặc có bệnh, hoặc bị nghẹn nên xin nước, hoặc v́ mạng nạn, phạm hạnh nạn nên khi ăn phải lên tiếng thông báo, tất cả đều không phạm.

39. Giới Vắt Cơm Ném Vào Miệng

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, có cư sĩ thiết trai thỉnh Tăng cúng dường, rồi tự tay sớt thức ăn. Nhóm sáu thầy t́-kheo vắt cơm rồi từ xa ném vào miệng. Các cư sĩ chê trách: “Sa-môn Thích tử không biết hổ thẹn, nhận không biết nhàm chán, giống như những nhà ảo thuật.” Các t́-kheo bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Không được vắt cơm rồi từ xa ném vào miệng, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- Trường hợp không phạm: hoặc có bệnh, hoặc bị trói buộc nên cần phải ném vào miệng đăn, tất cả đều không phạm.

40. Giới Làm Thức Ăn Rơi Rớt

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, có cư sĩ thiết trai cúng dường. Nhóm sáu thầy t́-kheo tay cầm cơm vắt cắn một nửa, nên rớt nửa trong nửa ngoài. Các cư sĩ chê trách: “Sa-môn Thích tử thụ nhận không biết chán, không biết đủ, giống như loài heo, chó, lạc đà, lừa, ḅ, quạ, chim.” Các t́-kheo bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Không được để cơm và thức ăn rơi văi, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- Rơi văi: một nửa vào miệng, một nửa cầm trên tay.

- Trường hợp không phạm: hoặc có bệnh, hoặc ăn bánh tráng, cơm cháy, hoặc ăn dưa, mía, ăn rau trái, ăn trái lê, ăn nho, nhụy, lá, tim các loại cây cỏ, tất cả đều không phạm.

41. Giới Phồng Má Mà Ăn

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, có cư sĩ thiết trai cúng dường. Nhóm sáu thầy t́-kheo phồng miệng mà ăn. Các cư sĩ chê trách: “Sa-môn Thích tử không biết hổ thẹn, ăn như khỉ, vượn.” Các t́-kheo bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Không được phồng má mà ăn, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- Phồng má: làm cho hai má căng phồng giống như khỉ vượn thường làm.

- Trường hợp không phạm: hoặc mắc bệnh, hoặc thời gian giữa ngày sắp qua, hoặc v́ mạng nạn, phạm hạnh nạn nên cần phải ăn gấp, tất cả đều không phạm.

42. Giới Nhai Thức Ăn Ra Tiếng

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, có cư sĩ thiết trai cúng dường Tăng. Nhóm sáu thầy t́-kheo nhai thức ăn ra tiếng. Các cư sĩ chê trách: “Ăn uống như heo, chó, lạc đà, ḅ, lừa, quạ, chim.” Các t́-kheo bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Không được nhai cơm phát ra tiếng mà ăn, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- Trường hợp không phạm: hoặc có bệnh, hoặc nhai bánh khô, cơm cháy, mía, dưa, nho, hồ đào, ti đào lê, phong lê, tất cả đều không phạm.

43. Giới Húp Thức Ăn

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, có cư sĩ thiết trai cúng dường. Nhóm sáu thầy t́-kheo húp cơm canh ra tiếng. Các cư sĩ chê trách: “Sa-môn Thích tử không biết hổ thẹn, ăn uống như heo, chó, lạc đà, ḅ, lừa, quạ, chim.” Các t́-kheo bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Không được húp thức ăn lớn tiếng mà ăn, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- Húp thức ăn: há miệng lớn từ xa húp thức ăn.

- Trường hợp không phạm: hoặc có bệnh, hoặc miệng bị đau, hoặc uống canh, hoặc uống sữa, lạc, tô, nước t́-la, rượu đắng, tất cả đều không phạm.

44. Giới Lưỡi Liếm Thức Ăn

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, có cư sĩ thiết trai cúng dường. Nhóm sáu thầy t́-kheo lè lưỡi ra liếm thức căn. Các cư sĩ chê trách: “Sa-môn Thích tử không biết hổ thẹn, ăn uống như heo, chó, lạc đà, ḅ, lừa, quạ, chim.” Các t́-kheo bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Không được dùng lưỡi liếm thức ăn, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- Dùng lưỡi liếm thức ăn: tức le lưỡi ra để lấy thức ăn mà ăn.

- Trường hợp không phạm: hoặc mắc bệnh, hoặc bị trói, hoặc tay dính bùn, bụi, mồ hôi, nhơ, nên dùng lưỡi nhận lấy thức ăn, tất cả đều không phạm.

45. Giới Rảy Tay Khi Ăn

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, có cư sĩ thiết trai cúng dường. Cư sĩ tự tay sớt thức ăn. Nhóm sáu thầy t́-kheo rảy tay mà ăn. Các cư sĩ chê trách: “Sa-môn Thích tử không biết chính pháp, ăn uống như vua, đại thần.” Các t́-kheo bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Không được rảy tay mà ăn, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- Trường hợp không phạm: hoặc mắc bệnh, hoặc trong thức ăn có cỏ, có trùng, hoặc tay có chất bất tịnh, nên cần phải rảy nó đi, hoặc lúc chưa ăn tay chạm chất dơ nên phải vảy tay để trừ đi, tất cả đều không phạm.

46. Giới Dùng Tay Nhặt Thức Ăn Rơi

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, có cư sĩ thiết trai cúng dường. Nhóm sáu thầy t́-kheo dùng tay nhặt những thức ăn rơi. Các cư sĩ chê trách: “Sa-môn Thích tử ăn uống như gà, chim.” Các t́-kheo bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Không được dùng tay nhặt thức ăn rơi mà ăn, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- Cơm rơi: cơm bị rơi văi.

- Trường hợp không phạm: hoặc có bệnh, hoặc trong thức ăn có cỏ, trùng, hoặc có chất bất tịnh làm nhơ, hoặc lúc chưa ăn có ǵ đó cần bỏ, tất cả đều không phạm.

47. Giới Tay Nhơ Cầm ĐĐựng Thức Uống

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bầy giờ, có cư sĩ thiết trai cúng dường. Nhóm sáu thầy t́-kheo tay không sạch mà cầm đđựng. Các cư sĩ chê trách: “Sa-môn Thích tử không biết chính pháp, giống như vua, đại thần.” Các t́-kheo bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Không được tay dơ mà cầm nắm vật đựng đồ uống, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- Tay dơ: tay bị dính cơm.

- Trường hợp không phạm: hoặc có bệnh, hoặc hoặc nhận thức ăn trên cỏ, nhận trên lá cây, rửa tay rồi nhận, tất cả đều không phạm.

48. Giới Đổ Nước Rửa Bát Vào Nhà Bạch Y

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo rửa bát rồi đổ nước rửa bát ở nhà vừa thụ thực, nên cơm và thức ăn vung văi ra đất. Các cư sĩ chê trách: “Sa-môn Thích tử thụ nhận nhiều, giống như người đói.” Các t́-kheo bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Không được đổ nước rửa bát trong nhà bạc y, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- Nước rửa bát: cơm lẫn với nước.

- Trường hợp không phạm: hoặc có bệnh, hoặc cùng một lúc rửa nhiều vật đựng, hoặc rửa mâm, hoặc rửa mâm rồi lấy nước đổ ra ngoài, tất cả đều không phạm.

49. Giới Đại Tiểu Tiện Trên Cỏ Tươi

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Nhóm sáu thầy t́-kheo đại tiểu tiện, khạc nhổ trên cỏ, lá cây. Các cư sĩ thấy vậy chê trách: “Sa-môn Thích tử không biết hổ thẹn, giống như heo, chó, lạc đà, ḅ, lừa.” Các t́-kheo bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Không được đại tiểu tiện, khạc nhổ lên cỏ tươi, trừ bệnh, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- Trừ bệnh: v́ bệnh nên không thể tránh nơi có cỏ tươi được. Đức Phật dạy: “Bệnh th́ không phạm.”

- Trường hợp không phạm: do nước chảy làm rơi lên cỏ tươi, lá cây, hoặc v́ chim ngậm rồi rơi xuống, tất cả đều không phạm.

50. Giới Không Đại Tiểu Tiện, Khạc Nhổ Trong Nước

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo tiểu tiện, khạc nhổ trong nước. Các cư sĩ chê trách: “Sa-môn Thích tử giống như heo, chó, ḅ, lạc đà, lừa.” Các t́-kheo bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Không được tiểu tiện, khạc nhổ trong nước sạch, trừ bệnh, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- Trường hợp không phạm: hoặc mắc bệnh, hoặc tiểu tiện trên bờ rồi rơi xuống nước, hoặc gió thổi, chim tha bị rớt, tất cả đều không phạm.

51. Giới Đứng Đại Tiểu Tiện

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo đứng đại tiểu tiện. Các cư sĩ thấy vậy chê trách: “Sa-môn Thích tử không có chính pháp, đứng đại tiểu tiện giống như ḅ, ngựa, heo, dê, lạc đà.” Các t́-kheo bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Không được đứng đại tiểu tiện, trừ bệnh, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- Trừ bệnh: v́ bệnh nên không thể ngồi xổm được. 

- Trường hợp không phạm: hoặc mắc bệnh, hoặc bị trói, hoặc chỗ đứng bị nhơ, hoặc bùn nhơ, tất cả đều không phạm.

52. Giới Nói Pháp Cho Người Không Cung Kính

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo nói pháp cho người không cung kính, vén ngược y mà nghe. Lúc ấy, các t́-kheo nghe, trong đó có người thiểu dục, biết hổ thẹn bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Không được nói pháp cho người không cung kính, vén ngược y, trừ bệnh, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- Trường hợp không phạm: hoặc khi có bệnh như thế, hoặc nói pháp cho vua, đại thần của vua, tất cả đều không phạm.

53. Giới Nói Pháp Cho Người Quấn Y Ở Cổ

Không được nói pháp cho người quấn y nơi cổ, trừ người bệnh, thức-xoa-ca-la-ni.

54. Giới Nói Pháp Cho Người Trùm Đầu

Không được nói pháp cho người trùm đầu, trừ người bệnh, thức-xoa-ca-la-ni.

55. Giới Nói Pháp Cho Người Quấn Đầu

Không được nói pháp cho người quấn đầu, trừ người bệnh, thức-xoa-ca-la-ni.

56. Giới Nói Pháp Cho Người Chống Nạnh

Không được nói pháp cho người chống nạnh, trừ người bệnh, thức-xoa-ca-la-ni.

57. Giới Nói Pháp Cho Người Mang Dép Da

Không được nói pháp cho người mang dép da, trừ người bệnh, thức-xoa-ca-la-ni.

58. Giới Nói Pháp Cho Người Mang Guốc Gỗ

Không được nói pháp cho người mang guốc gỗ, trừ người bệnh, thức-xoa-ca-la-ni.

59. Giới Nói Pháp Cho Người Đi Ngồi Xe

Không được nói pháp cho người ngồi xe, cưỡi ngựa, trừ người bệnh, thức-xoa-ca-la-ni.

60. Giới Ngủ Trong Tháp Phật

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo vào trong tháp Phật ngủ. Có t́-kheo biết hổ thẹn biết được việc đó, bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới 

Không được ngủ nghỉ trong tháp Phật, trừ v́ canh giữ, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- Trường hợp không phạm: hoặc có bệnh, hoặc v́ canh giữ nên phải ngủ nghỉ lại trong đó, hoặc bị thế lực cưỡng bức, hoặc bị bắt, hoặc v́ mạng nạn, phạm hạnh nạn nên ngủ nghỉ, tất cả đều không phạm.

61. Giới Cất Giấu Tài Vật Trong Tháp Phật

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo cất giấu vật trong tháp Phật. Có t́-kheo thiểu dục biết được việc đó, nên bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Không được chôn giấu tài vật trong tháp Phật, trừ v́ muốn cho bền chắc, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- Trường hợp không phạm: hoặc có bệnh, hoặc v́ muốn giữ cho chắc chắn nên mới chôn cất, giấu trong tháp Phật, hoặc bị cưỡng bức, hoặc v́ mạng nạn, phạm hạnh nạn, tất cả đều không phạm.

62. Giới Mang Dép Da Vào Trong Tháp Phật

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo mang dép da đi vào trong tháp Phật. Có t́-kheo hổ thẹn biết việc đó, nên bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Không được mang dép da đi vào trong tháp Phật, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- Trường hợp không phạm: hoặc có bệnh như thế, hoặc bị cưỡng bức, hoặc bị bắt buộc phải đi vào trong tháp Phật, tất cả đều không phạm.

63. Giới Cầm Dép Da Vào Trong Tháp Phật

Không được tay cầm dép da đi vào trong tháp Phật, thức-xoa-ca-la-ni.

64. Giới Mang Dép Da Đi Nhiễu Tháp Phật

Không được mang dép da đi nhiễu quanh tháp Phật, thức-xoa-ca-la-ni.

65. Giới Mang Phú-La Vào Trong Tháp Phật

Không được mang phú-la đi vào trong tháp Phật, thức-xoa-ca-la-ni.

66. Giới Cầm Phú-La Vào Tháp Phật

Không được tay cầm phú-la đi vào trong tháp Phật, thức-xoa-ca-la-ni.

67. Giới Làm Nhơ Chân Tháp

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo sau khi ngồi bên chân tháp dùng bữa xong, bỏ lại thức ăn và cỏ lót ngồi làm nhơ đất, rồi bỏ đi. Các t́-kheo bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật chế giới: “Không được ngồi ăn dưới tháp.” Sau đó, các t́-kheo làm tháp, làm pḥng, hoặc thí ao, thí giếng, thí thực, chúng Tăng tụ tập đông đảo, nên chỗ ngồi chật hẹp. Lúc ấy, Đức Phật cho phép được ngồi thụ thực bên chân tháp, nhưng không được làm nhơ đất. Nhân đó, Đức Phật chế giới này.

b. Văn giới

Không được ngồi ăn dưới tháp lưu lại cỏ và thức ăn dư làm dơ đất, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- Trường hợp không phạm: t́-kheo ngồi ăn một lần và không làm pháp dư thực; hoặc t́-kheo bị bệnh th́ cho phép lót một chỗ bên dưới chân và khi đi phải gom bỏ, tất cả đều không phạm.

68. Giới Khiêng Tử Thi Đi Ngang Qua Dưới Tháp

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo khiêng tử thi đi ngang qua dưới tháp, làm cho thầy bảo vệ tháp nỗi giận. Các t́-kheo thích học giới bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Không được khiêng tử thi đi qua dưới tháp, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- Trường hợp không phạm: hoặc có bệnh, hoặc cần phải đi ngang qua con đường đó, hoặc bị thế lực ép buộc dẫn đi, tất cả đều không phạm.

69. Giới Chôn Tử Thi Dưới Tháp

Không được chôn tử thi dưới tháp, thức-xoa-ca-la-ni.

70. Giới Thiêu Tử Thi Dưới Tháp

Không được thiêu tử thi dưới tháp, thức-xoa-ca-la-ni.

71. Giới Thiêu Tử Thi Trước Tháp

Không được đối diện tháp thiêu tử thi, thức-xoa-ca-la-ni.

72. Giới Thiêu Tử Thi Quanh Tháp

Không được thiêu tử thi ở bốn phía quanh tháp Phật, làm mùi hôi xông vào tháp, thức-xoa-ca-la-ni.

73. Giới Mang Y Phục Của Người Chết Đi Ngang Qua Tháp

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy T́-kheo mang y phục và giường của người chết đi ngang qua dưới tháp, nên làm cho thần ở trú xứ đó nỗi giận. Các t́-kheo tu hạnh đầu-đà bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Không được mang y phục và giường của người chết đi ngang qua dưới tháp, trừ giặt, nhuộm, xông hương, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- Trường hợp không phạm: hoặc mắc bệnh như thế, hoặc y phấn tảo của T́-kheo, hoặc đă giặt, nhuộm, xông hương rồi mới mang đi, tất cả đều không phạm.

74. Giới Đại Tiểu Tiện Dưới Tháp Phật

Không được đại tiểu tiện dưới tháp Phật, thức-xoa-ca-la-ni.

75. Giới Đại Tiểu Tiện Trước Tháp Phật

Không được đại tiểu tiện trước tháp Phật, thức-xoa-ca-la-ni.

76. Giới Đại Tiểu Tiện Quanh Tháp Phật

Không được đại tiểu tiện bốn phía quanh tháp Phật, làm cho mùi hôi bay vào bên trong, thức-xoa-ca-la-ni.

77. Giới Mang Tượng Phật Đến Nơi Đại Tiểu Tiện

Không được mang tượng Phật đến chỗ đại tiểu tiện, thức-xoa-ca-la-ni.

- Có ba trường hợp không phạm: hoặc khi có bệnh như thế, hoặc trên đường đi phải đi ngang qua đó, hoặc bị thế lực ép buộc phải mang đi, tất cả đều không phạm.

78. Giới Xỉa Răng Dưới Tháp Phật

Không được xỉa răng, súc miệng dưới tháp Phật, thức-xoa-ca-la-ni.

79. Giới Xỉa Răng Trước Tháp Phật

Không được xỉa răng, súc miệng trước tháp Phật, thức-xoa-ca-la-ni.

80. Giới Xỉa Răng Quang Tháp Phật

Không được xỉa răng, súc miệng ở bốn phía quanh tháp Phật, thức-xoa-ca-la-ni.

81. Giới Khạc Nhổ Dưới Tháp Phật

Không được khạc nhổ dưới tháp Phật, thức-xoa-ca-la-ni.

82. Giới Khạc Nhổ Trước Tháp Phật

Không được khạc nhổ trước tháp Phật, thức-xoa-ca-la-ni.

83. Giới Khạc Nhổ Bên Tháp Phật

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo khạc nhổ bốn phía quanh tháp Phật. Các t́-kheo bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Không được khạc nhổ bốn phía quanh tháp Phật, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- Trường hợp không phạm: hoặc có bệnh như thế, hoặc do chim ngậm, hoặc do gió thổi bay đến bên tháp.

84. Giới Duỗi Chân Trước Tháp

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo ngồi duỗi chân hướng về trước tháp. Các t́-kheo thích học giới bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Không được ngồi duỗi chân trước tháp, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- Trường hợp không phạm: hoặc bị bệnh như thế, hoặc khoảng giữa có sự ngăn cách, hoặc bị thế lực ép buộc phải làm vậy, tất cả đều không phạm.

85. Giới Đặt Tượng Phật Ở Pḥng Dưới

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Câu-la. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo đặt tượng Phật ở pḥng tầng dưới c̣n họ th́ ở pḥng tầng trên. Các t́-kheo tu hạnh đầu-đà bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Không được đặt tượng Phật ở pḥng tầng dưới c̣n ḿnh ở pḥng tầng trên, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- Trường hợp không phạm: hoặc có bệnh như thế, hoặc có người đang mang tượng Phật ở pḥng tầng dưới c̣n ḿnh đang ở pḥng tầng trên, hoặc v́ mạng nạn, phạm hạnh nạn, tất cả đều không phạm.

86. Giới Nói Pháp Cho Người Ngồi

Không được nói pháp cho người ngồi mà ḿnh đứng, trừ người bệnh, thức-xoa-ca-la-ni.

87. Giới Nói Pháp Cho Người Nằm

Không được nói pháp cho người nằm mà ḿnh ngồi, trừ người bệnh, thức-xoa-ca-la-ni.

88. Giới Nói Pháp Cho Người Ngồi Chính Giữa

Không được nói pháp cho người ngồi chính giữa mà ḿnh ngồi một bên, trừ người bệnh, thức-xoa-ca-la-ni.

89. Giới Nói Pháp Cho Người Ngồi Chỗ Cao

Không được nói pháp cho người ngồi chỗ cao, c̣n ḿnh ngồi chỗ thấp, trừ người bệnh, thức-xoa-ca-la-ni.

90. Giới Nói Pháp Cho Người Đi Trước

Không được nói pháp cho người đi trước, c̣n ḿnh đi phía sau, trừ người bệnh, thức-xoa-ca-la-ni.

91. Giới Nói Pháp Cho Người Ở Chỗ Kinh Hành

Không được nói pháp cho người ở chỗ kinh hành cao, c̣n ḿnh ở chỗ kinh hành thấp, trừ người bệnh, thức-xoa-ca-la-ni.

92. Giới Nói Pháp Cho Người Ở Giữa Đường

Không được nói pháp cho người ở giữa đường, c̣n ḿnh ở bên đường, trừ người bệnh, thức-xoa-ca-la-ni.

93. Giới Nắm Tay Nhau Cùng Đi

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo nắm tay nhau đi ngoài đường, nên làm cản trở những nam, nữ khác. Các cư sĩ chê trách: “Sa-môn Thích tử không biết chính pháp, giống như vua, đại thần, trưởng giả giàu sang.” Các t́-kheo bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Không được nắm tay nhau khi đi đường, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- Trường hợp không phạm: hoặc mắc bệnh, hoặc có t́-kheo bị mù mắt, nên cần phải d́u đi, tất cả đều không phạm.

94. Giới Trèo Cây Cao Quá Đầu Người

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, có t́-kheo nhập hạ an cư trên một cây đại thụ, rồi từ trên cao đại tiểu tiện xuống. V́ thế, thần cây nổi giận t́m dịp giết t́-kheo. Các t́-kheo bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới “Không được an cư trên cây và đại tiểu tiện quanh cây. Nếu đă có chỗ đại tiểu tiện sẵn, th́ được phép.”

b. Văn giới

Không được trèo lên cây cao quá đầu người, trừ khi có nhân duyên, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- Trường hợp không phạm: hoặc có bệnh, hoặc v́ mạng nạn, phạm hạnh nạn nên phải trèo cao quá đầu người, tất cả đều không phạm.

95. Giới Quẩy Bát Bằng Gậy

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, t́-kheo Bạt-na-đà bỏ bát vào trong đăy, rồi xỏ qua đầu gậy, đặt trên vai vác đi. Các cư sĩ tưởng là quan lại, nên đều tránh bên đường. Các t́-kheo bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

Không được bỏ b́nh bát vào đăy, xỏ vào đầu gậy quẩy trên vai mà đi, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- Trường hợp không phạm: hoặc có bệnh, hoặc bị người có thế lực bức ép, hoặc bị trói buộc, hoặc v́ mạng nạn, phạm hạnh nạn, tất cả đều không phạm.

96. Giới Nói Pháp Cho Người Cầm Gậy

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo nói pháp cho người không biết cung kính nghe. Các t́-kheo bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới 

Không được nói pháp cho người cầm gậy, không cung kính, trừ người bệnh, thức-xoa-ca-la-ni.

c. Giải thích

- Trường hợp không phạm: hoặc khi có bệnh, hoặc v́ vua và đại thần, tất cả đều không phạm.

97. Giới Nói Pháp Cho Người Cầm Kiếm

Không được nói pháp cho người cầm kiếm, trừ người bệnh, thức-xoa-ca-la-ni.

98. Giới Nói Pháp Cho Người Cầm Mâu

Không được nói pháp cho người cầm mâu, trừ người bệnh, thức-xoa-ca-la-ni.

99. Giới Nói Pháp Cho Người Cầm Dao

Không được nói pháp cho người cầm dao, trừ người bệnh, thức-xoa-ca-la-ni.

100. Giới Nói Pháp Cho Người Cầm Dù

Không được nói pháp cho người cầm dù, thức-xoa-ca-la-ni.

Chư Đại đức, tôi đă nói một trăm pháp thức-xoa-ca-la-ni. Nay xin hỏi chư Đại đức trong đây thanh tịnh không? (3 lần) Chư Đại đức trong đây thanh tịnh, v́ các ngài đều im lặng. Việc ấy tôi xin ghi nhận như vậy.

Chư Đại đức, đây là bảy pháp diệt tránh nửa tháng tụng một lần, trong giới kinh chép ra. Nếu có việc tranh căi xảy ra th́ cần phải trừ diệt.

Đức Phật dạy: “Tranh căi có bốn loại: ngôn tránh, mích tránh, phạm tránh, sự tránh.

- Về ngôn tránh dùng hai cách diệt để diệt trừ: hiện tiền t́-ni và đa nhân ngữ.

- Về mích tránh dùng bốn cách diệt để diệt trừ: hiện tiền t́-ni, ức niệm t́-ni, bất si t́-ni, tội xứ sở.

- Về phạm tránh dùng ba cách diệt để diệt trừ: hiện tiền t́-ni, tự ngôn trị, như thảo phú địa.

- Về sự tránh dùng tất cả cách diệt trên để diệt trừ.

Trong ba loại tránh trước, mỗi tránh có ba phẩm: thượng, trung và hạ, nên hợp chung lại có chín loại. Riêng về sự tránh khi lần lượt kết hợp với ba tránh trên, th́ tùy theo mỗi tránh lại phân làm chín phẩm và tùy theo từng hiện tiền t́-ni trong mỗi phẩm mà có ba loại hay năm loại để diệt trừ ba phẩm thượng, trung và hạ. Đây là nói tùy theo bệnh mà cho thuốc. Việc này phải quát sát cho kĩ và hiểu cho kĩ.

1. Cần ban cho hiện tiền t́-ni th́ ban cho hiện tiền t́-ni.

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, tôn giả Ca-lưu-đà-di và nhóm sáu thầy t́-kheo cùng tắm sông. Tôn giả Ca-lưu-đà-di lên trước mặc nhầm y của nhóm sáu thầy t́-kheo kia rồi đi. Sau đó, nhóm sáu thầy t́-kheo cho tôn giả Ca-lưu-đà-di trộm y nên làm pháp yết-ma diệt tẩn vắng mặt. Tôn giả Ca-lưu-đà-di bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế pháp này.

Có ba loại hiện tiền: pháp hiện tiền, t́-ni hiện tiền và nhân hiện tiền. Và cũng có năm loại hiện tiền khác: pháp hiện tiền, t́-ni hiện tiền, nhân hiện tiền, Tăng hiện tiền, giới hiện tiền.

Pháp hiện tiền là ǵ? Chính là pháp được dùng để dập tắt tranh căi. T́-ni hiện tiền là ǵ? Chính là t́-ni được dùng để dập tắt tranh căi. Nhân hiện tiền là ǵ? Chính là sự luận bàn đối đáp. Tăng hiện tiền ǵ? Chính là người nên đến th́ đến, người nên gửi dục th́ gửi dục, người bị trách phạt th́ không trách phạt. Giới hiện tiền là ǵ? Chính là xướng yết-ma để hạn chế. Pháp hiện tiền này áp dụng chung cho tất cả yết-ma. Nếu người ở riêng làm pháp đối thú[73], tâm niệm th́ được phép áp dụng ba pháp hiện tiền. Nếu có bốn người, năm người trở lên th́ phải theo pháp của Tăng. Nếu cử pháp yết-ma th́ phải theo năm pháp hiện tiền. V́ mỗi khi cử hành pháp yết-ma th́ phải tác pháp trong cương giới. Trừ trường hợp giới do Tăng làm pháp kết hay trong giới tự nhiên.

2. Cần ban cho ức niệm t́-ni th́ ban cho ức niệm t́-ni.

Một thời, Đức Phật ở thành Vương Xá. Bấy giờ, t́-kheo Đạp-bà-ma-la Tử làm tri sự[74] cho Tăng. Bấy giờ, trong nhóm sáu thầy t́-kheo có thầy v́ được phân chia pḥng xấu, ngọa cụ xấu, thỉnh xứ[75], nên nổi giận phỉ báng t́-kheo Đạp-bà-ma-la Tử: “Thầy có thiêng vị, có giận, có sợ, có si.” V́ thế, t́-kheo kia vu khống, hủy báng t́-kheo Đạp-bà-ma-la Tử bằng việc dâm dục. Bấy giờ, Phật cho gọi cả hai ra trước chúng, Ngài hỏi t́-kheo Đạp-bà-ma-la Tử việc ấy thật hư thế nào. T́-kheo Đạp-bà-ma-la Tử thưa: “Từ khi con sinh ra đến nay trong mộng c̣n không có ư dâm dục huống ǵ khi tỉnh thức.” Các t́-kheo hỏi thầy t́-kheo trong nhóm sáu thầy t́-kheo về việc đó th́ vị kia nói: “T́-kheo Đạp-bà-ma-la Tử thanh tịnh, không có việc như thế.” Đức Phật nói: “Đạp-bà-ma-la Tử là người không có đắm nhiễm, nên không phạm giới, v́ vậy, cần phải bạch tứ yết-ma để trao cho pháp ức niệm.”

3. Cần ban cho bất si t́-ni th́ ban cho bất si t́-ni.

Một thời, Đức Phật ở thành Vương Xá. Bấy giờ, t́-kheo Nan-đề v́ mắc bệnh hủi và si cuồng, nên ra vào, lui tới không có oai nghi, phần nhiều phạm các tội. Các t́-kheo vặn hỏi th́ t́-kheo Nan-đề nói: “V́ lúc ấy cuồng si nên mới tạo tội, bệnh lành không tạo tội nữa.” Các t́-kheo bạch Phật. Đức Phật nói có ba loại cuồng si: 1. Thường nhớ, nên khi nói giới thường đến; 2. Không nhớ, nên khi nói giới không đến; 3. Hoặc nhớ, hoặc đến, hoặc không đến. Người này cần phải bạch tứ trao cho yết-ma bất si để nhận biết, khi bệnh th́ tạo tội, sau khi lành bệnh không tạo tội nữa. V́ muốn cho Tăng được thanh tịnh và đủ số nên chế ra pháp này.

4. Cần ban cho tự ngôn trị th́ ban cho tự ngôn trị.

Một thời, Đức Phật ở nước Chiêm-ba. Bấy giờ, nhằm vào tháng có trăng, chúng Tăng thuyết giới. Khi ấy, Đức Phật ngồi trong chúng im lặng không thuyết giới. Khi đầu đêm đă qua, tôn giả A-nan thỉnh Đức Phật thuyết giới. Đức Phật nói: “Ông muốn Như Lai ở trong chúng không thanh tịnh mà thuyết giới sao? Thật không có lí này.” Đến giữa đêm, cuối đêm, tôn giả A-nan lại thỉnh, Đức Phật vẫn đáp như vậy. Bấy giờ, tôn giả Đại Mục-kiền-liên dùng thiên nhăn xem tất cả mọi người trong chúng th́ thấy t́-kheo phạm giới ngồi cách Đức Phật không xa. Vị ấy bên trong chứa sự mục nát, bên ngoài hiện nguyên vẹn, thanh tịnh. Sau khi, tôn giả Mục-kiền-liên kéo vị t́-kheo ấy ra khỏi chúng, rồi quay trở lại bạch Phật: “Trong chúng đă thanh tịnh, có thể nói giới được rồi.” Đức Phật dạy: “Từ nay về sau không nên làm như vậy mà phải dùng pháp ‘ngôn trị’.” Nhân đó, Đức Phật chế pháp này.

5. Cần ban cho đa nhân ngữ th́ ban cho đa nhân ngữ.

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, các t́-kheo v́ mười tám việc mà tranh căi không dứt, nên đến trong Tăng để phán xét, nhưng vẫn không đoạn được. Các t́-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy: “Cần phải ba cho pháp đa mích tội tướng; nếu có t́-kheo nói lời phi pháp ở chung trong một trú xứ th́ nên sai t́-kheo hành xá-la.” Về hành xá-la th́ có ba cách: 1. Hiển lộ; 2. Che giấu; 3. Rỉ tai nhau. Nếu thượng tọa là bậc đứng đầu trong những người trí và ḥa thượng xà-lê trụ như pháp địa th́ nên hiển lộ hành xá-la; nếu trụ phi pháp địa th́ nên cử hành hai pháp hành xá-la sau. Nếu nhiều có nhiều người phi pháp ngữ, v́ những người kia có thể gây rối loạn rồi bỏ đi. Bản luật này nói ‘Cầu t́m tội tướng’ ư cũng giống như vậy.

6. Cần ban cho tội xứ sở th́ ban cho tội xứ sở.

Một thời, Đức Phật ở nước Thích-sí-sấu. Bấy giờ, Thích tử Tượng Lực có tài nghị luận, bị ngoại đạo hỏi gắt nên trả lời trước sau mâu thuẫn nhau và ở trong Tăng cũng như vậy. Các t́-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:

“Tăng nên bạch tứ  để trao yết-ma cho vị t́-kheo kia để vị ấy nhận lấy bản tội, đồng thời tước ba mươi lăm việc. Nếu vị ấy chịu nhận bản tội th́ nên bạch tứ yết-ma như phải để giải. V́ thế, nên Phật chế ra pháp này.

Có bản gọi pháp này là ‘t́m tội tướng, ư cũng giống như trên, nhưng theo thứ tự th́ thuộc phần sáu ‘diệt mích tránh thượng phẩm dược’.

7. Cần ban cho như cỏ che đất th́ ban cho như cỏ che đất.

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, các t́-kheo tranh căi nhau kéo dài suốt một năm mà không có khả năng chấm dứt. Các t́-kheo bạch Phật. Đức Phật cho phép hai chúng giáp mặt nhau để cùng diệt. Một vị thượng tọa đại diện cho mỗi chúng tác bạch: “Chúng tôi đi lại ra vào phần nhiều phạm các tội, trừ việc ngăn không cho đến nhà bạch y, những tội khác cùng trưởng lăo làm pháp ‘dùng cỏ che đất’ để chấm dứt. Vị thượng tọa ở trong chúng kia cũng tác bạch như thế rồi, hai chúng ḥa hợp tội và sự tranh căi đều chấm dứt, nên không c̣n cật vấn nhau. Đây là pháp như cỏ che đất.

Chư Đại đức, tôi đă nói bảy pháp chấm dứt sự tranh căi, nay xin hỏi chư Đại đức trong đây thanh tịnh không? (3 lần). Chư Đại đức trong đây thanh tịnh, v́ quí ngài đều im lặng. Việc ấy tôi xin ghi nhận như vậy.

Bắt đầu từ bốn giới nặng, kết thúc bởi bảy pháp dứt sự tranh căi này và văn của tám đoạn, phần chính tông của quảng giáo đều gọi là phạm hẹp, chế rộng. Đồng thời giúp cho hàng giáo ấy đem lại lợi ích cho mọi căn cơ.

Các Đại đức, tôi đă nói lời tựa của giới kinh, đă nói bốn pháp Ba-la-di, đă nói mười ba pháp Tăng-già-bà-thi-sa, đă nói hai pháp bất định, đă nói ba mươi pháp Ni-tát-ḱ ba-dật-đề, đă nói chín mươi pháp Ba-dật-đề, đă nói bốn pháp Ba-la-đđề-xá-ni, đă nói pháp chúng học Thức-xoa-ca-la-ni, đă nói bảy pháp diệt tránh. Đây chính là giới kinh do Phật nói, nửa tháng nói một lần, từ trong giới kinh trích ra.

Đây là văn của phần lưu thông thuộc quảng giáo. V́ sợ mọi người buông lung nên mới tổng kết lại để chỉ bảo cho họ biết.

Nếu c̣n có thêm Phật pháp khác th́ mọi người trong đây đều cùng nhau ḥa hợp cần phải học.

Đây là lời tựa riêng của phần Lược giáo. Phần này tŕnh việc làm lợi ích mọi căn cơ của Phật, nhưng không cần phải nhọc công chép hết ra mà chỉ nêu lên những điều cốt yếu, khiến cho ai nghe cũng đều hiểu được đạo.

Nhẫn nhục đạo thứ nhất

Phật nói không ǵ hơn

Xuất gia làm phiền người

Không gọi là sa-môn.

Giới kinh này do đức T́-bà-thi Như Lai Vô Sở Trước Đẳng Chính Giác nói.

Chín mươi mốt kiếp trước thuộc kiếp Hiền này, Đức Phật ấy xuất hiện ở thế gian. Trong ṿng một trăm năm thường nói bài kệ này. Sau đó mới nói rộng ra.

Thí như người mắt sáng

Tránh được đường hiểm ác

Người thông minh ở đời

Hay ĺa xa đường ác.

Giới kinh này do đức T́-thi-khí Như Lai Vô Sở Trước Đẳng Chính Giác nói.

Ba mươi bốn kiếp trước thuộc kiếp Hiền này, Đức Phật ấy xuất hiện ở thế gian. Trong ṿng tám mươi năm thường nói bài kệ này. Sau đó mới nói rộng ra.

Không chê cũng không ghét

Nên làm theo giới luật

Ăn uống biết dừng đ

Thích ở nơi vắng vẻ

Tâm định thích tinh tấn

Đó là chư Phật dạy.

Giới kinh này do đức T́-khí-la Như Lai Vô Sở Trước Đẳng Chính Giác nói. 

Đức Phật này xuất hiện ở thế gian cùng kiếp với Đức Phật trước. Lúc ấy, tuổi thọ con người là bảy vạn năm. Trong bảy mươi năm đầu, Đức Phật ấy thường nói bài kệ này. Về sau mới nói rộng ra.

Thí như ong lấy mật

Không làm hư sắc, hương

Chỉ lấy vị rồi đi

T́-kheo đi vào làng

Không ngăn cản việc người

Không xem làm, không làm

Chỉ tự xét việc ḿnh

đúng, hay không đúng.

Đây là giới kinh lời do đức Câu-lâu-tôn Như Lai Vô Sở Trước Đẳng Chính Giác nói.

Đức Phật này là Đức Phật đầu tiên trong kiếp Hiền. Khi ấy, con người sống thọ sáu vạn năm. Trong ṿng sáu mươi năm, Đức Phật thường nói bài kệ này. Về sau mới nói rộng ra.

Đừng để tâm buông lung

Phải siêng học thánh pháp

Như thế không buồn lo

Tâm định vào niết-bàn.

Đây là giới kinh do đức Câu-na-hàm Như Lai Vô Sở Trước Đẳng Chính Giác nói.

Đức Phật thứ hai trong kiếp Hiền này. Khi ấy, con người sống thọ bốn vạn năm. Trong hai mươi năm đầu, Đức Phật thường nói bài kệ này. Về sau mới nói rộng ra.

Chớ làm các việc ác

Nên làm những điều lành

Tự làm sạch ư chí

Đó là lời Phật dạy.

Đây là giới kinh do đức Ca-diếp Như Lai Vô Sở Trước Đẳng Chính Giác nói.

Đức Phật thứ ba trong kiếp Hiền này. Khi ấy, con người sống hai vạn tuổi, trong hai mươi năm đầu, Đức Phật nói bài kệ này. Về sau mới nói rộng ra.

Khéo giữ ǵn lời nói

Làm trong sạch ư chí

Thân chớ làm điều ác

Ba nghiệp đều thanh tịnh

Hay làm được như thế

đạo Đại tiên nhân.

Đây là giới kinh do đức Thích-ca Mâu-ni Như  Lai Vô Sở Trước Đẳng Chính Giác trong mười hai năm đầu nói cho Vô sự Tăng. Từ đó về sau phân biệt và nói rộng răi.

Phần lược giáo của Phật đây chính là phần chính tông của lược giáo. Khi Đức Phật tiếp dẫn hàng đệ tử căn tính lanh lợi, không phạm lần thứ hai, nên Ngài nói bài kệ này. Về sau, v́ hàng đệ tử nhiều lần phạm lỗi, nên Đức Phật dừng không nói và giao việc hai giáo rộng và lược cho đệ tử nói.

Các thầy t́-kheo, các thầy là những người thích pháp, thích đời sống sa-môn, biến hổ thẹn, thích học giới. V́ vậy, các thầy nên học những giới ấy. Đây là phần lưu thông của Lược giáo.

Người biết hay giữ giới

Th́ được ba điều vui

Tiếng tốt và lợi dưỡng

Chết được sinh lên trời.

Phải quán sát việc ấy

Người trí nên giữ giới

Giới tịnh có trí tuệ

Liền được đạo thứ nhất.

Như chư Phật quá khứ

Và chư Phật vị lai

Các Thế Tôn hiện tại

Luôn thắng mọi điều lo

Đều cùng tôn kính giới

Đây là các Phật pháp.

Nếu người nào v́ ḿnh

Mà muốn cầu Phật đạo

Phải tôn trọng chính pháp

Các Phật dạy thế ấy.

Bảy Phật v́ Thế Tôn

Diệt trừ các kết sử

Và nói bảy giới kinh

Các trói buộc được mở

Đă vào niết-bàn rồi

Các hí luận diệt hết

Vâng làm theo Đại tiên

Thánh hiền khen ngợi giới

Việc làm của đệ tử

Vào niết-bàn tịch diệt.

Khi Thế Tôn niết-bàn

C̣n phát khởi đại bi

Tập họp chúng t́-kheo

Căn dặn như thế này

Chớ cho Ta niết-bàn

Mà không giữ tịnh hạnh

Nay Ta nói giới kinh

Và khéo nói t́-ni

Tuy Ta bát-niết-bàn

Phải xem như Thế Tôn

Kinh này trụ đời lâu

Phật pháp được hưng thạnh

V́ Phật pháp hưng thạnh

Nên được vào niết-bàn.

Hoặc không giữ giới này

Như điều cần bố-tát

Giống như mặt trời lặn

Thế gian đều tối tăm

Phải hộ tŕ giới này

Như trâu mao[76] tiếc đuôi.

Ḥa hợp ngồi một chỗ

Như những điều Phật nói.

Tôi đă nói giới kinh

Chúng Tăng bố-tát xong

Nay tôi nói giới kinh

Được bao nhiêu công đức

Cho tất cả chúng sinh

Đều cùng thành Phật đạo.

Phần văn kệ ấy do tôn giả Pháp Hộ sáng tác.  Đây cũng chính là phần lưu thông chung của quảng giáo và lược giáo. Nay trong phần chú thích của tôi, chỉ là thuật lại chứ không sáng tác thêm; giống như dùng bụi núi, bọt biển để khen ngợi người đời xưa và ngồi chung thuyền mà tồn tại. Thật đúng như vậy!

Hết quyển 3   [ ^ Về trên ^ ]

________________________________________

[73] Đối thú 對首: tác pháp sám hối được thực hành trong ngày bố-tát hoặc trong ngày tự tứ của chúng Tăng. Khi hành pháp này phải đối trước từ 1 đến 3 vị t́-kheo, 1 trong 3 loại pháp yết-ma. Ngoài ra, pháp Đối thú thường thực hành khi an cư, y chỉ, xả hoặc thụ y, bát, tọa cụ, thụ dược v.v…

[74] Tri sự 知事: chức vụ quản lí các công việc thứ yếu của Tăng trong chùa viện, thường do các vị t́-kheo thuận nguyện vọng của đại chúng, nghiêm tŕ giới luật, có tâm công bằng chính trực đảm nhiệm. 

[75] Thỉnh xứ 請處: nhà Phật tử (thí chủ) thỉnh t́-kheo đến để cúng dường thức ăn.

[76] Trâu Mao 犛牛: trâu có thân lùn mà khỏe, lông dài, đa phần lông có màu đen, có chỗ đen rặt, hoặc có chỗ trắng đen lẫn lộn, chịu lạnh tốt, dễ nuôi. Lông đuôi của nó mọc rất dày, có thể dùng làm cờ hiệu. Khi lông đuôi của chúng bị mắc gai, dù thợ săn đến chúng vẫn cố bảo vệ, giữ lấy mà không hề sợ chết.

 

previous.png      back_to_top.png

 

 

[ TRANG CHỦ | KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0