* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ | KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

Quyển 1-A    Quyển 1-B    Quyển 2-A    Quyển 2-B    Quyển 3

Số 1806

TỨ PHẦN LUẬT HÀM CHÚ GIỚI BỔN

Nguyên tác Hán văn: Luật sư Thích Đạo Tuyên.

Dịch sang Việt: Thích Thọ Phước.

Thứ sáu, 31 Tháng 1 2014 06:49

Lời Tựa

Tứ phần giới bản là con đường rộng lớn mở ra muôn hạnh, là phép tắc chân chính dẫn dắt Ba thừa.[1] Từ khi đấng Pháp Vương xuất thế khế hợp thời cơ, tùy nhân duyên cứu độ chúng sanh, Ngài thể hiện ḷng xót thương của bậc thượng thánh, đồng thời cũng buồn tiếc cho sự ch́m đắm của hàng tiểu phàm.

Cho nên, mới mở ra môn Bất húy[2], chỉ bày thuật sâu mầu bí mật[3], giảng giáo môn ‘Vô vấn tự thuyết’, hiển rơ con đường thẳng tắt cho người mới học. Do đó, ở nơi vắng vẻ Ngài hưng khởi cội nguồn giáo này, tập chúng để nêu ra phép tắc nhiệm mầu. Trước nói nguyên do, tŕnh bày rộng về công phát khởi; sau nêu ra tông chỉ chính, bao trùm hết thảy mọi căn cơ. Do căn cứ theo thời mà giảng nói hạnh chung, thế là đại chúng tuân hành, ḥa hợp, thanh tịnh đồng lắng nghe, nhờ đó chính pháp mới tồn tại dài lâu. Chỉ v́, ba thời đến không tranh cạnh, t́nh chấp th́ biến chuyển, kinh lại dẫn chuyện mộng thấy tấm lụa;[4] luật th́ nêu thí dụ cây gậy găy[5], làm cho giáo tùy theo văn mà phân chia, lí thuận theo t́nh mà đổi thay. Do đó, hai bộ, năm bộ khác nhau như mây bay lớp lớp; mười tám bộ, năm trăm bộ khác nhau như núi non trùng trùng. Nếu xét đến khởi nguyên chế giới th́ đều do tùy chấp t́nh kiến phân bộ; nhưng nếu xét cho cùng chỗ qui về th́ đều thông với chính nghiệp[6].

Đến cuối thời Tào Ngụy (220-265), giới bổn mới truyền vào Trung Quốc.[7] Đến đầu đời Tùy (581-618), th́ giới luật đă bị thay đổi nhiều. Trong đó, hoặc có bản vẫn giữ nguyên tiếng Phạn, hoặc đă dịch sang tiếng Hán, hoặc dựa theo ư nghĩa, hoặc căn cứ theo duyên. Song, nếu so sánh đối chiếu các thuyết với nhau th́ việc thành tựu thật mờ mịt; dối gạt người trước; che tối người học sau. Về bản tiếng Phạn th́ văn và nghĩa trái ngược nhau; c̣n  bản chữ Hán th́ văn nghĩa cũng không dung thông. Nếu căn cứ theo luật th́ chỉ được phần tông chỉ mà mất phần biện tướng. Theo nghĩa lí mà t́m cầu th́ tuy đă hiểu sâu, nhưng vẫn chưa dẹp hết đầu mối tranh luận. Theo duyên mà y cứ th́ dường như đều tṛn đủ, nhưng chỉ toàn là những kiến giải riêng. Bởi v́ chính giới[8], tức những giới điều cấm chế rơ ràng, chỉ có Phật mới ngăn hay cho phép, c̣n các bậc hiền thánh th́ chỉ biết im lặng làm theo. V́ thế, những điều tŕnh bày trong luật luận đều căn cứ theo chính kinh, c̣n về lời của Phạt hay Đại-Tiểu hiền thánh khác th́ chưa từng dám suy lường đến. Nay tổng hợp những kiến giải trên th́ thấy phần nhiều đều theo ư ḿnh; c̣n khảo xét lại duyên xưa th́ thật chưa có thời gian. Nay v́ giới bổn rộng lược khác nhau, văn th́ cục hạn, th́ nghĩa ẩn kín, nếu áp dụng th́ không đúng oai nghi, mà bỏ qua th́ không có nơi y cứ. Nếu không biện rơ tướng th́ người khó mà nương theo.

Từ thuở nhỏ tôi đă ngượng mộ đạo mầu, ḷng tôn sùng khuôn phép thanh tịnh. Ngày trước tôi đă từng đến các đạo tràng giảng pháp ở kinh đô, dốc ḷng t́m thầy cầu học và trải qua nhiều năm miệt mài, chưa một lần rời sách ĺa văn, nhưng vẫn cảm khái v́ văn nghĩa vẫn c̣n có chỗ ngăn trệ.

Đến năm Canh Dần, niên hiệu Trinh Quán thứ 4 (630), tôi đi khắp nơi t́m người để luận bàn về Luật tông, nhưng chỉ thấy mọi người luận bàn tạp loạn, chứ chẳng thấy ai suy nghĩ sâu rộng. Lại thấy mọi người chỉ chú trọng việc bàn luận cao xa, c̣n hành sự dụng th́ hoàn toàn không có; vừa mới biết danh từ năm thiên bảy tụ th́ đă cho ḿnh là luật sư; hoặc chỉ thuật chỗ hưng phế, hơn kém của giáo và luật, chứ đâu mở được điểm trọng tâm để quyết định chính xác mà tuân theo. Giả như có hỏi đến việc hưng suy của giới luật th́ lại khéo nương vào sớ để giải thích. Nếu gạn đến chứng cứ cốt yếu th́ không có văn để minh chứng, chỉ một bề ức thuyết. Hoặc có những bậc thông minh thiên phú, học rộng hiểu nhiều, công hạnh và danh tiếng đều vang xa, nhưng trí dụng th́ không có chuẩn tắc, t́nh chấp cách xa như trời đất. Đó là điều làm ḷng tôi c̣n chưa an, bởi nghĩa phải nương vào pháp để xác định, th́ dứt hết mọi tranh luận, vậy cần ǵ phải nhiều lời?

Nay tôi mạo muội nương vào luật bản, trích đủ từ trong chính kinh,[9] nhưng vẫn nương vào lời Phật giải thích, nên gọi là chú thuật. Văn chỉ có một quyển th́ đồng với những bản  xưa truyền lại; tŕ và phạm đều tŕnh bày, nên nay và xưa khác biệt. Như vậy ngơ hầu khiến cho người học đă lâu và người mới học sau đều tu tập, bậc trí người ngu đều tuân theo. Người hiểu biết cạn th́ có thể thông hiểu đủ ba phẩm tŕ luật, người đă rành rẽ th́ biết đó chính là một đời giáo hóa của Đức Phật. Nếu nương vào đó để t́m cầu th́ thành tựu rất lớn.

Lại nữa, v́ mỗi giới đều có duyên khởi, nhưng từ xưa lại vọng truyền và phản bác là không có, nếu không hiểu biết rơ ràng th́ rốt cuộc cũng chỉ trở về chỗ hư dối mà thôi. Do đó, tùy mỗi giới mà so sánh dẫn chứng, chọn lấy nhũng điểm cốt yếu mà thêm vào; khiến hiển bày giới tướng, thông thạo thứ bậc; giới nặng, giới nhẹ đều được hiện rơ; đđể tô thân, bồi đức; đđể giữ ǵn Phật pháp, cứu văn thời cuộc.

V́ thế, đọc văn th́ không nên chọn lấy văn sai lầm; tư duy ư nghĩa th́ không nương vào nghĩa các sư khác. Được như vậy th́ không chỉ tự ḿnh được Thánh quả vô lậu, mà c̣n cứu giúp cho những ai có duyên; thế nên mới tự ư đặt bút viết lời tựa này vậy.

Kinh biệt giải thoát khó được nghe

Trải qua vô lượng câu-chi[10] kiếp

Tụng đọc thụ tŕ cũng như thế

Làm theo lời dạy càng khó hơn.

TỨ PHẦN LUẬT HÀM CHÚ GIỚI BỔN

Nguyên tác Hán văn: Luật sư Thích Đạo Tuyên.

Dịch sang Việt: Thích Thọ Phước.

QUYỂN 1-A

 Là một bộ luật quan trọng trong sáu bộ luật[11] của ngài Nam Sơn, bắt nguồn từ bộ luật của ngài Đàm-vô-đức.[12] Vào cuối đời Đường ở núi Thái Nhứt, sa môn Đạo Tuyên[13] chú thích.

Cúi đầu lễ chư Phật,

Và Pháp, t́-kheo Tăng

Nay nói pháp t́-ni

Để chánh pháp c̣n lâu.

Giới như biển không bờ,

Như báu cầu không chán.

Muốn giữ thánh pháp tài

Chúng họp nghe tôi nói.

Muốn trừ bốn pháp khí

Và diệt pháp tăng-tàn.

Ngăn ba mươi xả-đọa,

Chúng họp nghe tôi nói.

T́-bà-thi, Thức-khí,

T́-xá, Câu-lưu-tôn,

Câu-na, Hàm-mâu-ni,

Ca-diếp, Thích-ca Văn.

Chư Thế Tôn, Đại đức,

V́ tôi nói việc này.

Nay tôi sắp tụng giới,

Các ngài đều cùng nghe.

Ví như người què chân,

Không thể đi lại được.

Người phá giới cũng vậy,

Không được sinh trời, người

Muốn được sinh lên trời,

Hoặc sinh vào cơi người.

Phải giữ ǵn giới chân,

Chớ có để sai phạm.

Như xe vào đường hiểm,

Pḥng rớt chốt găy trục.

Phá giới cũng như thế,

Khi chết ḷng lo sợ

Như người tự soi gương,         

Đẹp, xấu sinh vui, buồn.

Nói giới cũng như thế, 

Tṛn, khuyết sanh vui, buồn.

Như hai quân đánh nhau,       

Mạnh tiến, yếu rút lui.

Nói giới cũng như thế, 

Sạch, nhơ sinh vui, buồn.

đời vua là lớn,                      

Các ḍng, biển là to.

Các sao, trăng là sáng,         

Các Thánh, Phật là hơn.

Trong tất cả giới luật,

Giới kinh là hơn hết.

Như Lai lập giới cấm,  

Nửa tháng nói một lần.

Bài kệ văn trên do tôn giả Pháp Hộ[14] sáng tác, là bài tựa chung của quảng giáo[15] và lược giáo;[16] cũng là lời khai, tŕ, hủy trước; là cội gốc để thành tựu hai việc nói và nghe.

Từ hai chữ “hoà hợp” trở xuống là phần chính của hai giáo quảng và lược. Trong phần này tự chia làm ba phần: phần tự, phần chính tông và phần lưu thông.

Hỏi: Tăng tập hợp chưa?

Đáp: Tăng đă tập hợp.

Hỏi: Tăng có ḥa hợp không?

Đáp: Tăng đă ḥa hợp.

- Ḥa hợp

Bấy giờ, có các t́-kheo tri thức cùng thầy, khác bộ thuyết giới chung. Mọi nghi thức đều phải tuân thủ, cung kính làm theo, bố-tát cùng một nơi, ḥa hợp nói giới. Nếu làm trái với những điều vừa nêu trên th́ mắc tội.

Phật dạy: “Có ba trường hợp hoà hợp: một là đáng đến th́ đến; hai là đáng gửi dục th́ gửi dục; ba là hiện tiền bị quở trách th́ không quở trách”. Nếu trái lại với ba trường hợp này th́ phạm lỗi biệt chúng.

- Tăng tập hội

Bấy giờ, có t́-kheo đến ngày thuyết giới, hoặc đang ở trong cương giới, hoặc đang ở trong giới trường nhưng không chịu đến nơi thuyết giới. Phật dạy: “Phải gọi vị ấy đến và nhắc nhở. Đó là lời chỉ dạy của Ta.” Nếu t́-kheo nào đă ra ngoài cương giới, hoặc đă đến nơi thuyết giới nhưng không chịu ngồi th́ cứ y như pháp xử trị người đó.

Từ nay trở đi, tu theo trú xứ, đến ngày thuyết giới, tất cả t́-kheo phải đến nhà bố-tát trước, quét dọn, trải toạ cụ, châm dầu, đốt đèn và chuẩn bị thẻ[17] v.v… nếu có khác t́-kheo khách đến, đủ bốn người, hoặc hơn bốn người th́ nên tiến hành tác pháp yết-ma thuyết giới. Nếu chỉ có một người th́ nên tâm niệm thanh tịnh. Nếu có người biệt chúng thuyết giới th́ nên xử trị đúng như pháp.

Hỏi: Người chưa thọ giới cụ túc đă ra chưa?

Đáp: Trong đây không có người chưa thụ giới cụ túc (Nếu có và đă ra th́ đáp: Người chưa thụ giới cụ túc đă ra)

Bấy giờ, có t́-kheo xúi giục t́-kheo khác ngăn việc thuyết giới. Phật đều bảo họ đến nơi không thấy không nghe. Ngoại trừ người chưa thọ đại giới ra, nếu phi nhân[18] đến th́ cho phép. Không được ở trước ni chúng mà tác pháp thuyết giới.

Hỏi: Những t́-kheo không đến có thuyết dục[19] và thanh tịnh không?

Đáp: Có người thuyết dục và thanh tịnh.

- Bạch Đại đức Tăng, t́-kheo tên…… v́ việc Tăng như pháp, có gửi ư muốn và thanh tịnh cho tôi, tôi đă nhận ư muốn và thanh tịnh.

Thượng tọa nói: Thiện

Người nhận dục đáp: Nhĩ.

Nếu không có người gửi ư muốn th́ đáp: Trong đây không có t́-kheo gửi ư muốn và thanh tịnh.

Bấy giờ, đến ngày thuyết giới, có t́-kheo bị bệnh, hoặc người nuôi bệnh và người làm việc cho Tam bảo không đến nghe giới. Đức Phật dạy: “Phải gửi dục và thanh tịnh.” Tu theo từng trường hợp hoặc nói nhiều hoặc nói ít. Nếu không thể hiện bằng thân tướng, hoặc không nói th́ việc gửi dục không thành. Hoặc người bị bệnh nặng nếu khiên đến trong tăng th́ sợ bệnh nặng thêm. Hoặc ra ngoài đại giới tác pháp, v́ không có phương tiện nên có thể được phép biệt chúng tác pháp yết-ma thuyết giới.

Hỏi: Chúng T́-kheo-ni có sai người đến xin giáo giới không?

Đáp: Trong đây có T́-kheo-ni đến thỉnh giáo giới.

Hoặc đáp: Trong đây không có t́-kheo-ni đến thỉnh giáo giới.

Đức Phật dạy: “Nếu có th́ người đó phải đứng lên và bạch rằng: ‘T́-kheo-ni tăng ḥa hợp đảnh lễ dưới chân t́-kheo tăng.’”  Điều này được tŕnh bày đầy đủ như trong bộ San Bổ Yết-ma. Nếu không có người đến th́ trả lời rằng: “Không có t́-kheo-ni đến xin giáo giới.”

Hỏi: Nay tăng hoà hợp để làm ǵ?

Đáp: Yết-ma thuyết giới.

Đức Phật dạy: “Đến ngày thuyết giới không một ai được ở trong pḥng.” T́-kheo ngồi bên cạnh phải kiểm tra nhau xem ai đến ai không đến. Phải bạch trước, sau đó mới thuyết giới. Nếu t́-kheo si mê nói trước rằng: ‘Tôi không thuộc giới, có chỗ bị quên,’th́ việc thuyết giới không thành. Phải nương theo người thông thuộc giới, hoặc nương tựa với t́-kheo năm hạ thuộc ḷng giới khiến được lợi ích, hoặc đến y chỉ với t́-kheo khác để học thông suốt lời tựa của giới kinh, cho đến những pháp khác. Khi trở về trú xứ cũ theo thứ tự lần lượt nói tiếp, không nên tụng lại. Nếu không thể tụng được th́ chỉ nói pháp, tụng kinh rồi giải tán. Nếu không làm như thế th́ như pháp mà trị.

 - Đại đức tăng lắng nghe! Hôm nay ngày thứ 15, Tăng bố-tát thuyết giới nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng bằng ḷng bố-tát thuyết giới. Bạch như thế!

Phật dạy: “Phải tùy theo pháp luật nhà vua ban, hoặc 14 ngày, hoặc 15 ngày nên theo cách đó mà tính ngày. Hoặc trắng, hoặc đen, mỗi k có 15 ngày, tùy theo tháng mà nói. Nếu có đủ bốn người th́ nên làm pháp bạch như thế. Nếu chỉ có ba người, dưới ba người nên tam ngữ thuyết giới.[20]

- Các Đại đức! Nay tôi sắp nói Ba-la-đề-mộc-xoa.[21]

Đức Phật dạy: “V́ người mới thọ giới chưa nghe giới cho nên không biết học ǵ.” V́ thế Đức Phật cho phép chư t́-kheo tập họp lại một nơi, ḥa hợp thuyết giới.

Ba-la-đề-mộc-xoa là giới. Tự giữ ǵn oai nghi, trú xứ, hành, căn, đầu mặt, tập các thiện pháp, thành tựu tam-muội, phải kết, phải nói, phải tự nói tội, phải giảng giải, mở bày, lặp lại, phân biệt.

- Chư t́-kheo cùng tụ tập ở một nơi.

 Đức Phật dạy: “Những người cùng làm yết-ma th́ phải tụ tập tại một nơi, cho đến người đáng trách không trách.” Đó gọi là như pháp. Nếu chúng đông nhiều mà âm thanh nhỏ, e không nghe rơ th́ nên thiết ṭa cao rồi đứng trên đó mà thuyết giới. Nếu gặp tám nạn và những lư do khác th́ tùy thời gian có thể nói tóm lược. Nếu có t́-kheo khách tụ tập ở ngoài cương giới đă lâu, tu theo số lượng nhiều-ít; khi đó đă nói hết lời tựa của giới kinh mà những người kia nói thanh tịnh th́ cho phép được vào cùng nghe giới. Ngoài ra, những trường hợp khác như trong luật đă nói rơ.

- Các ngài phải lắng nghe cho kĩ, nhớ nghĩ cho hay.

Phật dạy: “Phải lắng ḷng chuyên tâm nghe pháp.”

- Nếu tự biết ḿnh có phạm th́ phải tự phát lồ sám hối.

Phật dạy: “Đó là trường hợp đă phạm nhưng chưa sám hối.” Có hai hạng người trí: đó là người tự biết ḿnh có tội và người biết ḿnh có tội rồi như pháp mà sám hối. Nếu muốn sám hối phải đến trước mặt t́-kheo thanh tịnh nói rơ những tội ḿnh phạm. Như pháp trừ tội xong mới được phép nghe giới. Cho đến có sự nghi ngờ với tội đă phạm, cũng như thế mà nói. Nếu Tăng đều phạm, không có người đáng để sám hối, th́ không kể là người biết hay người si, phải bạch sám hối rồi sau mới thuyết giới.

- Nếu không phạm th́ im lặng. V́ im lặng nên biết chư Đại Đức đều thanh tịnh.

Phật dạy: “Người không phạm có hai trường: vốn không phạm; hoặc phạm mà đă sám hối rồi .”

- Nếu có người hỏi cũng nên trả lời như thế.

Phật dạy: “Như hai t́-kheo hỏi đáp nhau.”

- T́-kheo như thế ở trong chúng hỏi đến lần thứ ba, nếu nhớ biết có tội nhưng không chịu sám hối th́ mắc tội cố ư nói dối. Phật nói người nói dối th́ làm trở ngại đạo pháp.

Phật dạy: “Khi Tăng thuyết giới, im lặng là nói dối nên phạm tội đột kiết la.”

Trở ngại đạo: ngăn ngại tứ thiền,[22] tam không,[23] tứ quả.[24] Phật bảo các thầy t́-kheo: “Giống như biển lớn kia không bao giờ dung chứa xác chết, giả sử có cũng bị trôi dạt ra ngoài. Pháp của Ta cũng như thế, không dung chứa xác chết.”

Tử thi là dụ cho những người không phải sa-môn phạm hạnh mà tự cho ḿnh là sa môn phạm hạnh, phạm giới, ác pháp, bất tịnh, uế ô, tà kiến, che dấu, bên trong đă mục ră, bên ngoài hiện thanh tịnh hoàn hảo. Giống như cây mọc giữa đồng trống, dù ở trong chúng nhưng luôn cách xa chúng, chúng cũng thường xa cách người kia, cho nên người biết sám hối tội mới được nghe giới.

- Nếu t́-kheo nhớ biết ḿnh có tội muốn được thanh tịnh th́ nên sám hối. Sám hối th́ được an vui.

Phật dạy: “V́ giới học thanh tịnh nên liền được thanh tịnh định, tuệ, gọi là đạt được thiền quả và được an vui.

- Này chư đại đức! Tôi đă nói lời tựa của giới kinh. Nay hỏi chư Đại đức trong đây thanh tịnh không?(hỏi 3 lần). Chư Đại đức trong đây thanh tịnh v́ im lặng. Việc ấy tôi xin ghi nhận như vậy.

Từ đầu đến đoạn này là nói rơ riêng về lời tự. C̣n phần văn sau tức nói rơ về phần chánh tông.

- Bạch các Đại đức! Đây là bốn pháp ba-la-di[25] trích trong giới, nửa tháng nói một lần.

1. Giới Dâm

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở tại nước T-xá-ly. Bấy giờ, Tu-đề-na-tử v́ tin Phật mà xuất gia. Một thời gian sau thầy trở về làng cũ rồi cùng với người vợ cũ làm việc bất tịnh. Các t́-kheo biết việc ấy và nói với Tu-đề-na rằng: “Thầy phải ở trong chánh pháp thanh tịnh của Như Lai, đối với pháp dâm dục mà không khởi dục th́ mới có thể đoạn trừ ḷng khát ái, phá hoại hang ổ, trừ dứt mọi trói buộc, ḷng ái dục đă dập tắt hết th́ niết-bàn hiển hiện, tại sao thầy lại làm việc xấu ác như thế?” V́ thế các t́-kheo đem việc ấy bạch Phật. Phật liền cho tập hợp chúng Tăng, Ngài biết đến lúc phải thuyết giới và vị t́-kheo kia tự nhận lỗi rồi. Đức Phật quở trách rằng: “Việc làm của thầy là sai trái, chẳng phải oai nghi, chẳng phải sa-môn, chẳng phải hạnh thanh tịnh, không phải hạnh tùy thuận, việc ấy không nên làm.”

Phật lại bảo các t́-kheo: “Ta dùng vô số phương tiện nói pháp đoạn trừ dâm dục, thoát khỏi sự trói buộc của luyến ái.” Phật lại nói: “Pháp dâm dục này giống như lửa, như đuốc, cũng giống như dao, như kích.” Đức Phật quở trách như thế rồi nói: “Đây là người si mê, có nhiều hạt giống hữu lậu, là người đầu tiên phạm giới. Nay Ta phải kết giới.” V́ thế Ngài cho tập hợp đại chúng lại nói mười lư do mà Phật phải kết giới.

1. Thống nhiếp trong Tăng.

2. Làm cho Tăng vui vẻ.

3. Làm cho Tăng yên ổn.

4. Người chưa tin làm cho được tin.

5. Người đă tin th́ làm cho ḷng tin lớn thêm.

6. Người khó điều phục làm cho được điều phục.

7. Làm cho người có hổ thẹn được vui vẻ.

8. Đoạn trừ pháp hữu lậu hiện tại.

9. Đoạn trừ pháp hữu lậu vị lai.

10. Làm cho chánh pháp tồn tại lâu.

Khi chế những giới khác cũng lấy mười điều này làm tiêu chuẩn. Tất cả những giới sau đều lược bớt không nêu mười điều này. Nhưng khi muốn thuyết giới phải nói như thế.

b. Văn giới

T́-kheo nào, cùng với t́-kheo đồng giới, không hoàn giới, giới sút kém, không tự phát lồ, cho đến loài súc sanh, phạm bất tịnh hạnh; t́-kheo ấy là kẻ ba-la-di, không được sống chung.

c. Giải thích

- T́-kheo: Đức Phật nói có tám loại t́-kheo: 1. Danh tự t́-kheo; 2. Tương tự t́-kheo; 3. Tự xưng t́-kheo; 4. Khất cầu t́-kheo; 5. Trước cát tiệt t́-kheo; 6. Phá kiết sử t́-kheo; 7. Thiện lai t́-kheo; 8. Bạch tứ như pháp thành tựu xứ sở t́-kheo.

Trong tám loại t́-kheo này chỉ có trường hợp khi thọ đại giới làm pháp bạch tứ yết-ma, như pháp thành tựu đắc xứ sở, trụ trong pháp của t́-kheo.  Đó là ư nghĩa của hai chữ ‘t́-kheo’. 

- Cùng t́-kheo: Đức Phật dạy: “Nếu có t́-kheo cùng với t́-kheo khác thọ đại giới, bạch tứ yết-ma, cho đến trụ trong pháp của t́-kheo.” Đó là nghĩa của ba chữ ‘cùng t́-kheo’.

- Đồng giới:  Đức Phật dạy: “Ta đă v́ hàng đệ tử mà kết giới rồi, thà chết chớ để sai phạm.” Trong đây nói cùng với t́-kheo khác nhất giới, đồng giới, đẳng giới. Đó là nghĩa của hai chữ ‘đồng giới’.

- Nếu không hoàn giới: Đức Phật dạy: “Nếu có t́-kheo không thích đời sống phạm hạnh th́ cho phép vị ấy xả giới hoàn tục trở về nhà. Sau đó, nếu muốn xuất gia lại ở trong Phật pháp tu hành phạm hạnh th́ nên độ cho xuất gia thọ đại giới.” V́ sao không gọi là xả giới? Hoặc người ấy điên cuồng, hoặc tâm loạn, hoặc thống năo, hoặc câm, điếc. Nếu đến trước những hạng người như thế và những người xung quanh mà cùng nhau nói xả giới th́ việc xả giới ấy không thành. Hoặc nói giỡn, hoặc ngủ quên, hoặc người không có trí, hoặc không phải tự nói, hoặc đối trước người không hiểu th́ việc xả giới ấy không thành. Nếu nói tôi bỏ Phật, bỏ Pháp, bỏ Tăng, bỏ ḥa thượng, bỏ giới luật, tôi thích đời sống tại gia, th́ đó gọi là xả giới.

- Giới ốm không tự hối: Đức Phật dạy: “Thế nào gọi là giới ốm không xả giới? Nếu có t́-kheo thường ôm ḷng sầu muộn, không thích đời sống phạm hạnh, chán chường đời sống của một t́-kheo, có ư muốn trở về đời sống tại gia. Liền nói: ‘Tôi nhớ cha mẹ, vợ con, bà con, thôn làng, thành ấp, ruộng vườn và tài sản. Tôi muốn bỏ Phật cho đến bỏ học xứ v.v…’ Nếu có suy nghĩ như vậy rồi nói, nay tôi xả giới. Đó là giới ốm thành xả.”

- Phạm bất tịnh hạnh: Đức Phật dạy: “Đó là pháp dâm dục. Đối với người nam th́ có hai đường, đối với người nữ th́ có ba đường. Nếu từ đường vào đúng đường, từ đường vào không phải đường, từ không phải đường vào đúng đường. Hoặc mới vừa chạm vào, hoặc vào hết, cho đến vào chừng bằng đầu sợi lông tất cả đều ba-la-di.”

- Cho đến cùng với súc sanh: Đức Phật dạy: “Đó là bộ phận có thể hành dâm.” Có ba đối tượng có thể hành dâm: nhân, phi nhân[26] và súc sanh. Lại có năm đối tượng hành dâm: phụ nữ, đồng nữ,[27] nhị h́nh,[28] hunh môn,[29] nam tử. Nếu t́-kheo có ư dâm dục đến trước những đối tượng kia, hoặc hành dâm trong hai đường, ba đường th́ lúc mới vào liền phạm. Nếu có vật ngăn cách cũng phạm. Hoặc hành dâm với người ngủ quên, hoặc xác chết chưa phân hủy, hoặc phần lớn thân thể chưa hư hoại mà hành dâm nơi hai đường, ba đường th́ mới vừa vào liền phạm. Như thế nói rộng ra. Nếu t́-kheo bị oan gia bắt đem trước đối tượng hành dâm cưỡng ép làm việc dâm dục vào hai đường ba đường, lúc mới vào có cảm giác ưa thích th́ phạm, không có tâm ưa thích th́ không phạm. Trường hợp có vật ngăn cách, không có vật ngăn cách, tất cả giống như trên đă nói. Nếu t́-kheo bị oan gia cưỡng bắt ép làm việc dâm dục mà có tâm ưa thích, không có tâm ưa thích, có vật ngăn cách, không có vật ngăn cách, đều giống như trên đă nói.

- T́-kheo đó ba-la-di: Đức Phật dạy: “Giống như người bị đứt đầu không thể mọc lại. T́-kheo cũng như thế, khi phạm giới này rồi th́ không trở lại làm t́-kheo như pháp, v́ vậy nên gọi là ba-la-di.”

Nếu t́-kheo t́m cách làm muốn làm việc bất tịnh, việc thành th́ phạm ba-la-di; không thành th́ phạm thâu-lan-giá.[30] Hoặc chỉ bày t́-kheo làm việc bất tịnh, nếu người kia làm theo th́ người dạy mắc tội thâu-lan-giá, nếu người kia không làm theo th́ phạm tội đột-kiết-la. Trừ t́-kheo và T́-kheo-ni ra, nếu chỉ bày cho những chúng khác mà họ làm, hoặc không làm, th́ tất cả đều phạm đột-kiết-la.

Hoặc đối với thân thể đă tan ră một nửa, hoặc đă tan ră hết, hoặc giữa hai đốt xương, hoặc ở nơi lỗ đất, hoặc ở nơi lỗ bùn mà làm việc bất tịnh th́ đều phạm thâu-lan-giá. Hoặc đúng đường, hoặc tưởng là đường, hoặc nghi, hoặc tưởng không phải đường tất cả đều ba-la-di.

Hoặc không phải đường, hoặc tưởng đường, hoặc nghi đường tất cả đều phạm thâu-lan-giá. T́-kheo-ni phạm ba-la-di. Thức-xoa-ma-na, sa-di, sa-di-ni th́ phạm đột-kiết-la. Những ai đă phạm những lỗi như đă nêu th́ bị diệt tẩn.[31] Đây là trường hợp phạm.

- Trường hợp không phạm: Hoặc ngủ quên không hay biết, không thọ lạc, hoàn toàn không có ư dâm.

- Người không phạm: Người đầu tiên khi Phật chưa chế giới, người cuồng si, người loạn tâm, người bị khổ năo bức bách.

- Không ở chung: Phật dạy: “Có hai h́nh thức ở chung: cùng một yết-ma, cùng một nơi thuyết giới. Không được tham dự vào hai việc ấy cho nên gọi là không được ở chung.”

2. Giới Trộm

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở tại thành La-duyệt. Bấy giờ, t́-kheo Đàn-ni-ca ngồi thiền trong một am cỏ nơi vắng vẻ. Một hôm, tôn giả vào thành khất thực, khi trở về th́ thấy thảo am của ḿnh bị người dỡ lấy làm củi. V́ thế, tôn giả liền làm một ngôi thất khác toàn bằng đất nung. Phật biết việc ấy liền cho người đến đập bỏ. Sau đó, tôn giả lại nói dối là vua cho phép lấy tùy ư chặt lấy gỗ. V́ việc này làm cho vị quan giữ cây bị bắt giữ. Sau khi sự việc được làm rơ tôn giả vua, đại thần của vua, nhân dân quở trách và đuổi ra khỏi thôn không cho trở lại. Chư t́-kheo biết được việc ấy bạch Phật. Nhân việc đó, theo như trên Phật chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, nơi thôn xóm hay chỗ trống vắng, với tâm trộm cắp, lấy vật không được cho. Tùy theo vật không được cho mà lấy, hoặc bị vua hay đại thần của vua bắt, hoặc giết, hoặc trói, hoặc đuổi ra khỏi nước, rằng “ngươi là giặc, ngươi ngu si, ngươi không biết ǵ.” T́-kheo ấy là kẻ ba-la-di, không được sống chung.

c. Giải thích

- T́-kheo: Nghĩa như trên đă giải thích.

- Nơi thôn xóm: thôn th́ có bốn loại: 1. Bốn phía đều có tường bao; 2. Có hàng rào bao quanh; 3. Có tường và rào nhưng không giáp ṿng; 4. Bốn phía đều có nhà.

- Hoặc ở nơi vắng vẻ: tức vùng đất trống và vắng vẻ ở ngoài thôn.

Xứ:[32] là những nơi như: hoặc dưới ḷng đất, hoặc trên mặt đất, hoặc để trong xe, hoặc vác trên vai, hoặc trong không trung, hoặc trên móc giá áo, hoặc để trong xóm, hoặc a-lan-nhă,[33] hoặc trên đồng ruộng, hoặc xứ sở,[34] hoặc trên ghe thuyền, hoặc trên sông nước, hoặc qua đ̣ không nộp thuế, hoặc người gửi vật rồi ḿnh chiếm lấy không trả lại, hoặc lấy nước, hoặc lấy dương chi, [35] hoặc lấy hoa quả cỏ cây, hoặc chúng sinh không chân, hoặc chúng sinh hai chân, bốn chân và nhiều chân, hoặc tài sản chung, hoặc cùng giao ước, hoặc ḍ xét, hoặc giữ ǵn, hoặc đường ṿng. Đó gọi là xứ.

- Không cho: không phải vật người vất bỏ, hoặc tưởng là vật của người, tưởng có người ǵn giữ, tưởng có chủ, không phải vật của ḿnh, dùng tạm, không được sự đồng ư.

- Lấy bằng tâm trộm: lấy bằng tâm trộm th́ có năm loại: tâm đen tối, tâm tà, tâm quanh co, tâm sợ hăi, tâm thường muốn trộm của người. Lại có năm cách trộm: quyết định lấy, lấy với tâm sợ hăi, lấy vật của người gửi, thấy lấy liền, lấy vật do người giao lại. Hoặc dựa vào thế lực của người thân, hoặc dùng lời nói thuyết phục làm người cuồng loạn rồi lấy.

- Tùy vật không cho mà lấy: v́ theo pháp luật của nhà vua; nếu lấy năm tiền, hoặc vật có trị giá bằng năm tiền, nếu lấy những vật có giá trị như thế th́ mắc tội chết. Đức Phật theo vương pháp, nếu trộm đủ năm tiền th́ phạm tội nặng.

- Hoặc bị Vua: Vua là người được tự do, không bị người khác ràng buộc.

- Đại thần của vua: Đại Thần là những người phụ giúp cho vua.

- Bị bắt, hoặc giết, hoặc trói, hoặc đuổi ra khỏi nước, rằng ‘ông là giặc, ngươi ngu si, ngươi không biết ǵ. T́-kheo ấy là ba-la-di.

T́-kheo như trên đă giải thích. Được vật ở các nơi. Nếu trộm đúng năm tiền, hoặc hơn năm tiền th́ phạm ba-la-di. Phương tiền trộm th́ phạm thâu-lan-giá. Nếu trộm dưới năm tiền th́ phạm thâu-lan-giá. Nếu trộm mà không được th́ phạm đột-kiết-la. Dạy người trộm lấy, nếu người kia lấy được vật th́ cả hai đều phạm ba-la-di. Nếu người được chỉ bày kia tự ư lấy vật khác, hoặc lấy vật ở chỗ khác, th́ người lấy phạm tội nặng, người dạy phạm thâu-lan-giá. Nếu người bị sai lấy vật, người bị sai không có tâm trộm, th́ người sai phạm ba-la-di, người bị sai không phạm. Hoặc sai người lấy vật; người được sai lấy trộm, th́ người nhận sai phạm tội nặng, người sai không phạm. Tưởng có chủ th́ phạm tội nặng, hoặc nghi th́ phạm thâu-lan-giá; vật không có chủ mà tưởng có chủ, nghi có chủ th́ phạm thâu-lan-giá.

T́-kheo-ni và bốn chúng v.v... đều giống như giới trên đă nói.

- Trường hợp không phạm: v́ tưởng cho ḿnh nên lấy, tưởng ḿnh có, hoặc tưởng đồ vất bỏ, hoặc tưởng của người thân.

- Không được ở chung: nghĩa như trên đă giải thích.

 3. Giới  Sát

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở tại thành T-xá-li. Bấy giờ, Đức Phật dạy chư t́-kheo quán bất tịnh.[36] Các thầy t́-kheo kia tu tập định quán sát rồi, sinh ra nhàm chán thân mạng này, nên mới khen ngợi việc chết, khuyên người chết. Khi ấy, có t́-kheo Nan-đề nhận lời giết người mướn, hàng cư sĩ vô cùng hoảng sợ trước việc làm này. Phật cũng biết được việc đó liền dạy cho chư t́-kheo phương pháp thiền quán. Các thầy t́-kheo thực hành theo và tất cả đều chứng A-la-hán. Nhân đó, Đức Phật quở trách lỗi trước và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, cố ư tự tay dứt sinh mạng người, cầm dao đưa người, khen ngợi sự chết, khuyến khích cho chết, nói: ‘Này nam tử ích ǵ cuộc sống xấu ác này, thà chết c̣n hơn sống!’ Với tâm tư như vậy, dùng mọi phương tiện khen ngợi sự chết, khuyến khích cho chết; t́-kheo ấy là kẻ ba-la-di, không được sống chung.

c. Giải thích

- T́-kheo nào, cố ư tự tay dứt: đó là hành động sát hại. Hoặc tự ḿnh giết, hoặc sai người giết, hoặc sai người giết, hoặc sai người đi và về mà giết, hoặc trùng sứ[37] mà giết, hoặc sai sứ luân chuyển[38] giết, hoặc nhờ người nam giết, hoặc sai người t́m người nam để nhờ giết, hoặc cầu người cầm giao giết, hoặc sai người t́m người cầm dao giết, hoặc thể hiện bằng thân tướng, hoặc miệng nói, hoặc thể hiện qua thân và miệng, hoặc sai người khen ngợi, hoặc sai người đưa thư, hoặc dạy người đưa thư, hoặc giết bằng hầm hố, hoặc ỷ phạt,[39] hoặc đưa thuốc, hoặc đưa dụng cụ tự sát và các cách giết khác.

- Mạng người: đoạn từ thức đầu đến thức cuối gọi là đoạn mạng người.

Cầm dao đưa cho người, khen ngợi người chết, khuyến khích người chết: ‘Này nam tử! Cần ǵ đời sống xấu ác này, thà chết hơn sống’! Khởi tâm như thế, t́m nhiều cách khen ngợi người chết, khuyến khích người chết, t́-kheo ấy ba-la-di: nếu giết người bằng những cách như trên mà người không chết th́ phạm thâu-lan-giá. Hoặc giết phi nhân, hoặc giết súc sinh có trí hiểu được tiếng người, hoặc súc sinh có thể biến h́nh, phương tiện giết, đều phạm thâu-lan-giá; không chết phạm tội đột-kiết-la. Nếu giết súc sinh có thể biến h́nh th́ phạm ba-dật-đề; thật là người mà tưởng là người th́ phạm ba-la-di; tưởng, nghi không phải người th́ phạm thâu-lan-giá. Bốn chúng phạm tướng giống như trên đă nói.

- Trường hợp không phạm: ném dao, gậy, ngói, đá, trúng nhằm làm chết người, hoặc do xây cất pḥng xá lỡ rớt cây, đá mà chết, hoặc d́u người bịnh ra vào pḥng; tất cả những trường hợp ấy đều không có tâm hại mà người kia bị chết th́ đều không phạm.

- Không được ở chung: nghĩa như trên.

4. Giới Đại Vọng Ngữ

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở tại thành T-xá-ly. Bấy giờ, gặp lúc mất mùa lương thực quí hiếm, các thầy t́-kheo khất thực khó được thức ăn. Khi ấy, có một số t́-kheo an cư bên sông Bà-cầu mới khen nhau là đắc pháp của bậc thượng nhân. Nghe vậy, hàng cư sĩ có tín tâm giảm bớt phần ăn của gia đ́nh đem dâng cúng cho những vị ấy. Sau mùa an cư những vị này về thăm Phật, theo thường lệ  Đức Phật hỏi việc an cư tu tập trong ba tháng, nhân đó biết được việc kia, v́ thế Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, thật không sở tri mà tự xưng rằng: ‘Tôi chứng đắc pháp thượng nhân, tôi biết như vậy, tôi thấy như vậy.’ Vào lúc khác, t́-kheo ấy hoặc bị người cật vấn, hoặc không người cật vấn, muốn tự thanh tịnh nên nói như vầy: ‘Tôi thật không biết, không thấy, mà nói có thấy có biết, nói lời hư dối vọng ngữ,’ trừ tăng thượng mạn, t́-kheo ấy là kẻ ba-la-di, không được sống chung.

c. Giải thích

- T́-kheo nào, thật không có sở tri: nghĩa là thật không có hiểu biết ǵ về pháp.

- Tự nói rằng: ‘Tôi đắc pháp của bậc thượng nhân…: tự nói có tín, có giới, có thí, có văn, có trí, có tuệ và biện tài hơn người. Pháp của con người là: ấm của con người, giới của con người và nhập của con người. Thượng nhân pháp là: là những pháp có công năng làm cho xuất li, thành tựu đạo quả.

- Tôi đă vào pháp thù thắng của bậc thánh: tự nói tôi có niệm tại thân, nhớ nghĩ chân chính, giữ giới nghiêm mật, có dục, không buông lung, siêng năng, được định, thụ dụng chân chính, có đạo, có sự tu, có tuệ, có kiíến, có đắc và có quả.

- Tôi biết điều đó, tôi thấy điều đó: hoặc nói trời, rồng, quỉ, thần đến cúng dường cho tôi. Hoặc nói tôi đắc pháp quán bất tịnh, tứ thiền và tứ không định[40] v.v…

- Vào thời gian khác, người kia hoặc bị người hỏi, hoặc không bị người hỏi, tự muốn được thanh tịnh mà nói rằng: ‘Tôi thật không biết, không thấy mà nói biết, nói thấy’: ư muốn rồi sau đó hối hận lỗi trước, dùng thật chuyển thànhh hư. Bởi miệng tạo nghiệp cho nên khi nói xong th́ liền mắc tội nặng.

- Trừ tăng thượng mạn: t́-kheo có tâm kiêu mạn tự nói ḿnh đắc đạo nhưng sau đó vị ấy tinh tấn tu hành đắc được quả A-la-hán, sinh tâm phân vân liền đem việc ấy hỏi Đức Phật. Phật dạy: ‘Người tăng thượng mạn th́ không phạm.’

- T́-kheo đó ba-la-di: nếu biết việc ấy là không thật mà cố ư nói với người, người nghe hiểu được th́ phạm ba-la-di; người kia không hiểu th́ phạm thâu-lan-giá. Hoặc ra dấu bằng tay, hoặc sai sứ, hoặc đưa thư, hoặc ra dấu, nếu người kia biết th́ phạm cũng như thế. Nếu nói với súc sinh không thể biến h́nh th́ phạm đột-kiết-la. C̣n nói  với bốn chúng dưới th́ giống như trước đă tŕnh bày.

- Trường hợp không phạm: người tăng thượng mạn, hoặc mắc nghiệp báo, hoặc không nói tôi được, hoặc nói đùa, hoặc nói nhanh, hoặc nói mập mờ, hoặc định nói việc này lại nói nhầm việc kia.

- Không được ở chung.

Chư đại đức! Tôi đă nói bốn pháp Ba-la-di. Nếu t́-kheo nào phạm pháp nào trong bốn pháp Ba-la-di th́ không được sống chung với chư t́-kheo. Như trước, sau cũng như thế. T́-kheo đó mắc ba-la-di không được sống chung. Nay hỏi chư Đại đức trong đây thanh tịnh không (3 lần). Chư Đại đức trong đây thanh tịnh v́ im lặng. Việc này tôi xin ghi nhận như vậy.

Chư Đại đức! Đây là mười ba pháp Tăng-già-bà-thi-sa nửa tháng nửa tháng nói một lần, trong giới kinh chép ra.

1. Giới Cố Ư Xuất Chất Bất Tịnh

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật du hành đến thành Xá-vệ. Bấy giờ, t́-kheo Ca-lưu-đà-di v́ dục tâm lẫy lừng, thân h́nh tiều tuỵ, thầy ở riêng một ḿnh trong một pḥng, giường tốt chăn êm, dưới đất th́ trải tọa cụ, ăn uống đầy đủ, theo ư thích vọc âm xuất tinh, các căn xướng thích, nhan sắc hồng hào. Các thầy t́-kheo biết được, đem việc ấy bạch Phật. Phật dùng vô số phương tiện quở trách t́-kheo Ca-lưu-đà-di rồi, đồng thời chế ra giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, cố ư vọc âm cho xuất tinh, trừ chiêm bao, tăng-già-bà-thi-sa.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Cố ư vọc âm xuất tinh: thật tâm có ư cố làm ra chất bất tịnh. Tiền cảnh th́ có sáu trường hợp: hoặc đối với nội sắc, ngoại sắc, nội ngoại sắc, hoặc nước, hoặc gió, hoặc là không. Tùy theo cách làm, nếu xuất chất bất tịnh th́ liền phạm.

- Trừ trong mộng: Đức Phật dạy: “Người ngủ với ư loạn động th́ có năm lỗi: một là thấy ác mộng; hai là chư thiên không bảo hộ; ba là tâm không vào pháp; bốn là không nghĩđến tướng sáng và năm là trong mộng bị xuất tinh. Nếu khéo nhiếp ư mà ngủ th́ có được năm công đức, tức trái lại với năm điều bất lợi trên.

- Tăng-gia-bà-thi-sa: nếu phương tiện vọc âm mà không bị xuất tinh th́ phạm thâu-lan-giá. T́-kheo tự làm, chỉ bày người làm, nếu xuất tinh th́ phạm thâu-lan-giá; nếu không xuất tinh th́ phạm đột-kiết-la; T́-kheo-ni th́ phạm ba-dật-đề; ba chúng dưới th́ phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: tất cả những hành động đều không có ư làm xuất tinh.

2. Giới Xúc Chạm Người Nữ 

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, t́-kheo Ca-lưu-đà-di v́ Phật trước đă chế giới, thầy ở trong, ngoài cổng đợi những phụ nữ đến rồi dẫn vào pḥng nắm tay, sờ mó; người thích th́ cười giỡn, người không thích th́ nổi nóng, mắng chởi, nhục mạ. Các thầy t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật liền cho tập hợp Tăng và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, với ư dâm dục, cùng người nữ thân xúc chạm nhau, hoặc nắm tay, hoặc nắm tóc, hoặc xúc chạm mỗi một thân phần, tăng-già-bà-thi-sa.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Có ư dâm dục: tâm ái nhiễm và ô uế.

- Cùng với người nữ: nghĩa là đối tượng th́ có bốn loại: thức, ngủ, mới chết và hỷ hoại một ít phần.

- Thân: từ tóc đến chân.

- Xúc chạm nhau: hoặc nắm, xoa, xoa mạnh, hoặc kéo tới, hoặc đẩy lui, hoặc xoa thuận, hoặc xoa nghịch, hoặc đưa lên, hoặc vuốt xuống, hoặc nắm, hoặc đè, hoặc làm những hành động xúc chạm khác.

- Hoặc nắm tay, hoặc nắm tay, hoặc xúc chạm toàn thể thân phần, tăng-già-bà-thi-sa: nếu xúc chạm bốn hạng người nữ mà có tâm đắm trước th́ liền phạm tăng-tàn. Nếu người nữ xúc chạm t́-kheo mà t́-kheo động thân th́ cũng phạm như vậy. Nếu không động thân th́ chỉ phạm đột-kiết-la. Trước có nhiễm tâm th́ phạm thâu-lan-giá; xúc chạm nhau mà có y ngăn cách th́ phạm thâu-lan-giá; cả hai đều có y th́ đều phạm đột-kiết-la.

Nếu xúc chạm với người hai h́nh th́ phạm thâu-lan-giá. Nếu v́ dục tâm mà xúc chạm thân người nam, hoặc y, toạ cụ cho đến tự xúc và xúc chạm súc sinh, tất cả đều phạm tội đột-kiết-la. T́-kheo-ni th́ phạm ba-la-di. Ba chúng dưới phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: đó là: bị người nắm, xúc chạm người cùng phái, đùa giỡn mà xúc chạm nhau.

3. Giới Nói Lời Thô Ác Với Người Nữ

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, t́-kheo Ca-lưu-đà-di đă nghe Phật chế hai giới trước rồi, liền ở trước người nữ khởi dục tâm và nói với người nữ kia những lời thô tục. Các thầy t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, với ư dâm dục, nói lời dâm dục thô ác với người nữ; tùy tiện nói những lời dâm dục thô ác, tăng-già-bà-thi-sa.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Với ư dâm dục, với người nữ: người nữ có trí và c̣n sống.

- Lời thô ác, lời dâm dục: thô ác là không phải phạm hạnh. Lời lẽ dâm dục là nói sự tốt, xấu của hai đường. Hoặc xin, hoặc dạy người xin, hoặc hỏi, hoặc trả lời, hoặc giảng giải, hoặc nói, hoặc dạy, hoặc mắng chửi. Xin, nói: ‘Nên cùng với tôi ở nơi hai đường làm việc như thế.’ Hoặc lại nói những lời lẽ khác th́ cũng nên hiểu như thế.

- Tùy tiện nói những lời dâm dục thô ác, tăng-già-bà-thi-sa: nếu nói lời thô một lần th́ phạm tăng-tàn. Cũng tùy trường hợp, hoặc nói nhiều lời, hoặc nói ít lời, nhưng nếu rơ ràng th́ mỗi lời đều phạm một tăng-tàn; nếu nói không rơ ràng th́ phạm thâu-lan-giá. Nếu đưa thư, ra dấu, sai người, làm điệu bộ mà người nữ hiểu được th́ cũng phạm tăng-tàn. Nếu người nữ không hiểu th́ phạm thâu-lan-giá. Ngoài hai đường đại tiện và tiểu tiện ra nói những chỗ khác th́ phạm thâu-lan-giá. Nói lời thô tục với phi nhân nữ, hunh môn, nhị h́nh; nếu họ hiểu th́ phạm thâu-lan-giá. Loài súc sinh không thể biến đổi h́nh dạng; hoặc nói lời tục tỉu với người nam, tất cả trường hợp trên đều phạm tội đột-kiết-la. Nói lời thô tục với t́-kheo-ni th́ phạm thâu-lan-giá. Nói với ba chúng dưới th́ phạm đột-kiết-la. Cho đến nói với những người ít giới hơn ḿnh cũng phạm tội đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: V́ nói phép quán bất tịnh, hoặc nói giảng nói luật, hoặc tŕ kinh, hoặc v́ có người hỏi nên trả lời; tất cả đều không có ư dục nên không phạm.

4. Giới Tự Khen Ḿnh Và Khuyến Khích Người Nữ Cúng Dường Sự Dâm Dục

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở trong thành Xá-vệ. Bấy giờ, t́-kheo Ca-lưu-đà-di nghe Phật đă chế ba giới trước, ông mời gọi những người nữ và kéo họ vào pḥng rồi tự khen ḿnh và khuyên họ: “Các nàng nên đem sự dâm dục cúng dường cho tôi.” Những người nữ trách mắng t́-kheo Ca-lưu-da-di và cho là điều ḱ lạ. Các thầy t́-kheo biết được lỗi ấy, liền bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, với ư dâm dục, đối trước người nữ tự khen thân ḿnh, nói: “Này cô, tôi tu phạm hạnh, tŕ giới tinh tấn, tu tập pháp lành; cô nên đem sự dâm dục cúng dường tôi. Đó là sự cúng dường bậc nhất’; tăng-già-bà-thi-sa.

c. Giải thích

- T́-kheo nào, với ư dâm dục ở trước người nữ: Người nữ: như trên đă giải thích.

- Tự khen thân ḿnh: nghĩa là khen ḿnh đẹp trai, lịch lăm. Cho rằng tôi thuộc ḍng dơi Sát-đế-lợi, là trưởng giả, cư sĩ, đại Bà-la-môn. 

- Nói rằng: “Này cô, tôi tu phạm hạnh.”: nghĩa là người siêng năng tu tập xa ĺa mọi nhơ uế.

- Tŕ giới tinh tấn: nghĩa là giữ giới không bị khuyết, không thủng chảy, không nhiễm nhơ.

- Tu tập pháp lành:  như là thích ở chỗ thanh vắng, đến giờ đi khất thực, mặc y phấn tảo,[41] thực hành pháp dư thực, không ăn phi thời, chỉ ăn một bữa, không ăn nhiều lần, ngồi nơi g̣ mả, ngồi dưới gốc cây, thường ngồi, ngồi bất cứ chỗ nào nếu chỗ ấy không có người ở (tùy tọa), giữ ba y, chúc tụng, ẩn nấu, nghe nhiều, thường nói pháp, giữ luật, ngồi thiền v.v…

- Cô nên đem sự dâm dục cúng dường tôi. Đó là sự cúng dường bậc nhất, tăng già-bà-thi-sa: Nếu khen ngợi ḿnh như thế xong và bảo cúng dường cho tôi, nhưng khi người cúng đến không nói ǵ đến việc dâm dục th́ phạm thâu-lan-giá. Ngoài ra, trường hợp khác đều phạm như những giới trước đă nói.

- Trường hợp không phạm: Nếu t́-kheo nói với người nữ: "Trú xứ này đáng quư bậc nhất, t́-kheo này tinh tấn, giữ giới, thực hành các thiện pháp, các người nên đem thân, khẩu, ư nghiệp v.v… cúng dường cho vị t́-kheo kia.” Nếu người nữ kia nghĩ rằng v́ ḿnh mà khen thân. Hoặc nói luật rồi dần dần đề cập đến việc này. Hoặc người kia cho rằng khen họ, hoặc nói lầm; tất cả đều không phạm.

5. Giới Làm Mai Mối

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở La-duyệt-ḱ. Lúc ấy, có t́-kheo Ca-la, xưa kia là một đại thần nên biết rành rẽ các pháp thế gian. Những gia đ́nh trong thành mỗi khi có hôn sự đều đến hỏi t́-kheo ấy. Bấy giờ, có người muốn kết hôn gặp đối tượng nhưng không biết là tốt hay xấu nên mới đến hỏi t́-kheo Ca-la là sẽ được sướng hay khổ. Hàng cư sĩ biết việc đó chê trách t́-kheo Ca-la. Các t́-kheo bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách rồi chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, tới lui bên này, bên kia làm mai mối; đem ư người nam nói với người nữ; đem ư người nữ nói với người nam; hoặc để thành vợ chồng, hoặc v́ việc tư thông, cho đến chỉ trong chốc lát, tăng-già-bà-thi-sa.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Tới lui bên này, bên kia làm mai mối: Đó chính là làm cho hai bên kết giao với nhau.

- Đem ư người nam nói với người nữ; đem ư người nữ nói với người nam: Người nữ có hai mươi hạng: mẹ giám hộ, cha giám hộ, cha mẹ giám hộ, anh giám, chị giám hộ, anh chị giám hộ, tự ḿnh giám hộ, pháp giám hộ, ḍng họ giám hộ, người thân giám hộ, tự ư muốn làm t́ nữ, v́ được cho áo mà làm nô t́, v́ cho tài sản mà làm nô t́, v́ cùng hợp tác mà làm nô t́, v́ được cứu khi nước cuốn trôi mà làm nô t́, v́ không thâu thuế mà nguyện làm nô t́, v́ được mua lại, hay sinh từ trong nhà chủ mà làm nô t́, v́ làm mướn mà làm nô t́, được người khác giúp đỡ mà xin làm nô t́, v́ bị bắt ngoài biên cương mà làm nô t́. Người nam cũng có hai mươi hạng người như người nữ vừa nêu trên.

- Hoặc để thành vợ chồng, hoặc v́ việc tư thông, cho đến chỉ trong chốc lát, tăng-già-bà-thi-sa: Nếu chỉ mới nhận lời, phạm đột-kiết-la. Nếu đem lời người này đến nói với người kia nhưng không về báo lại kết quả cho người này biết th́ phạm thâu-lan-giá. Nếu trở về báo lại kết quả cho người này biết th́ phạm tăng-tàn. Hoặc viết thư, hoặc sai sứ đi, hoặc ra dấu, hoặc hiện tướng; tùy theo trường hợp hoặc làm mai mối nhiều lần, hoặc ít lần, nói rơ ràng nếu người kia đáp lại th́ tất cả đều phạm tăng-tàn. Nếu người kia không hiểu th́ phạm thâu-lan-giá. Trừ hai đường, nếu nói các chi phần khác trên thân thể để làm mai mối phạm thâu-lan-giá. Hoặc làm mai mối cho phi-nhân, hunh môn, hai căn, th́ phạm thâu-lan-giá. Hoặc làm mai mối cho súc sinh, mai mối cho người nam với người nam, phạm đột-kiết-la. Hoặc đưa thư giúp người mà không xem trước, hoặc v́ hàng cư sĩ mà sai người khác làm phạm đột-kiết-la. T́-kheo-ni th́ phạm giống như đây.

- Trường hợp không phạm: Nếu người nam, người nữ trước đó đă tư thông, sau chia tay rồi ḥa hợp trở lại; hoặc v́ cha mẹ cha giận hờn nhau mà làm cho họ thân gần trở lại. Hoặc xem thư rồi đem đến cho cư sĩ có tín tâm, tinh tấn cũng như vậy. Nếu v́ Phật pháp t́-kheo làm sứ giả th́ không phạm.

6. Giới Không Có Tín Chủ Làm Pḥng Quá Hạn Lượng

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở thành La-duyệt-ḱ. Bấy giờ, Đức Phật cho phép các thầy t́-kheo được làm pḥng riêng. Bấy giờ, t́-kheo Khoáng-dă liền làm một cái pḥng lớn. V́ thế thầy phải t́m xin nhiều loại vật nên làm cho hàng cư sĩ buồn phiền. Xin măi không được, ông đến chặt cây có thần đang ở. Thần cây và các thầy t́-kheo khác đem việc ấy thưa Phật. Phật liền đi đến chỗ của t́-kheo Khoáng-dă quở trách, chỉ dạy rồi chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, tự khất cầu để cất thất, không có thí chủ, tự làm cho ḿnh, cần phải đúng lượng. Trong đây đúng lượng là dài mười hai gang tay Phật, bên trong rộng bảy gang tay Phật. Phải mời các t́-kheo đến chỉ định nơi chốn. Các t́-kheo ấy cần chỉ định nơi chốn, là nơi không có nguy hiểm, nơi không bị bít lối. Nếu t́-kheo, nơi có nguy hiểm, nơi bị bít lối, tự khất cầu để cất thất, không có thí chủ, tự làm cho ḿnh, không mời các t́-kheo đến để chỉ định nơi chốn, hoặc làm quá lượng định, tăng-già-bà-thi-sa.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Tự khất cầu: t́-kheo tự đi đến chỗ này, chỗ kia xin vật liệu xây dựng.

- Để cất thất: Chữ ốc () cũng giống như chữ Pḥng (), nghĩa là cái pḥng, cái nhà.

- Không có thí chủ: nghĩa là người kia không có thí chủ. Như không có một người, hai người cho đến nhiều người.

- Tự làm cho ḿnh: nghĩa là không phải làm cho người khác.

- Cần phải đúng lượng. Trong đây đúng lượng là dài mười hai gang tay Phật, bên trong rộng bảy gang tay Phật. Phải mời các t́-kheo đến chỉ định nơi chốn: các thầy t́-kheo kia xem biết chỗ không có nguy hiểm, không cản trở rồi vào trong Tăng, cởi giầy, bày vai bên phải, lạy dưới chân thượng tọa, qu sang bên phải chấp tay thưa rằng:

Đại đức Tăng lắng nghe! T́-kheo tên…..tự xin làm pḥng riêng, không có tín chủ, tự làm cho ḿnh, nay tôi theo chúng Tăng xin chỉ cho chỗ không nguy hiểm, không trở ngại. Bạch như vậy ba lần.

- Các t́-kheo ấy cần chỉ định nơi chốn: Bấy giờ, chúng Tăng xem xét kĩ t́-kheo ấy nếu đáng tin th́ cho phép làm. Nếu là người không đáng tin th́ chúng Tăng phải đến chỗ cần xây pḥng xem xét lại. Nếu Tăng không đến th́ phải sai một người đáng tin trong Tăng đến xem. Nếu là chỗ nguy hiểm, trở ngại th́ không cho phép xây cất; c̣n chỗ không nguy hiểm, không trở ngại th́ cho phép xây dựng. Trong chúng nên cử người có thể làm yết-ma; hoặc là thượng tọa, thứ tọa, hoặc người thông thạo luật, không thuộc luật, nên làm pháp bạch:

Đại đức Tăng lắng nghe! T́-kheo….. tự xin làm pḥng, không có tín chủ, tự làm cho ḿnh, nay theo Tăng xin chỉ định chỗ không nguy hiểm, không trở ngại. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng bằng ḷng nên chỉ định t́-kheo… nơi chốn, là nơi không nguy hiểm, không trở ngại, bạch như vậy.

Đại đức Tăng lắng nghe! T́-kheo….. tự làm pḥng, không có tín chủ, tự làm cho ḿnh, đến Tăng xin chỉ định cho chỗ không nguy hiểm, không trở ngại. Tăng nay chỉ định cho t́-kheo…. nơi chốn, là nơi không nguy hiểm, không trở ngại. Chư trưởng lăo nào bằng ḷng chỉ định cho t́-kheo….. ở chỗ không nguy hiểm, không trở ngại th́ im lặng. Ai không bằng ḷng th́ nói. Tăng bằng ḷng v́ im lặng, việc ấy tôi nên ghi nhận như thế.

Vị t́-kheo làm pḥng kia nên biết thứ tự, trước là đặt đá, và chỗ nào có ao phải lấp bằng cho đến sau cùng trát vách xong.

- Là nơi không có nguy hiểm: có cọp, sói, sư tử, các loại thú cho đến trùng kiến. Nếu không bị những cầm thú và côn trùng gây hại nên ban đất cho bằng phẳng. Nếu có đá, cây, gốc cây, bụi gai nên sai người đào lên. Nếu có hầm hố, cống rảnh, vũng nước đọng v.v… nên nhờ người lấp bằng. Nếu sợ nước ứ đọng phải đắp đê ngăn nước. Nếu đất đó có người nhận là của họ th́ phải thương lượng với họ cho dứt khoát, đừng để có lời qua tiếng lại. Đó gọi là chỗ có nạn.

- Nơi không bị bít lối: chỗ không có hại. Là chỗ mà xe cộ lưu thông qua lại được.

- Nếu t́-kheo, nơi có nguy hiểm, nơi bị bít lối, tự khất cầu để cất thất, không có thí chủ, tự làm cho ḿnh, không mời các t́-kheo đến để chỉ định nơi chốn, hoặc làm quá lượng định, tăng-già-bà-thi-sa: nếu t́-kheo nào làm pḥng ở hai nơi có sự nguy hiểm và nơi bị bít lối th́ phạm hai tội đột-kiết-la. Không được sự chỉ định của Tăng mà làm quá kích thước cho phép th́ phạm hai tội tăng-tàn.

Nếu t́-kheo làm pḥng ở chỗ có sự nguy hiểm, không có sự trở ngại và ngược lại, làm ở chỗ không có sự nguy hiểm mà có sự trở ngại th́ tùy trường hợp mà phạm.  Hoặc bảo người làm, làm thành cũng phạm như vậy. Nếu làm cho người, làm thành th́ phạm hai tội thâu-lan-giá, hai tội đột-kiết-la.

Nếu dùng dây đo đất rồi làm, người nhận lời làm và người làm quá kích thước cho phép th́ cả hai đều phạm. Không báo lại, cũng không hỏi người kia mà tự ư làm đều phạm tội đột-kiết-la. T́-kheo-ni làm sai qui định phạm thâu-lan-giá.

- Trường hợp không phạm: nếu làm đúng kích thước cho phép, hoặc làm ít hơn, hoặc làm nơi  được tăng chỉ định, chỗ không có sự nguy hiểm, chỗ không có sự trở ngại, làm đúng pháp hoặc đo đúng kích thước rồi làm. Nếu làm cho Tăng, làm Phật đường, làm giảng đường, làm am tranh, làm am lá hay chỉ làm một cái thất nhỏ. Đó gọi là làm đúng như pháp.

7. Giới Có Thí Chủ Làm Chùa Cho Ḿnh Nhưng Không Có Sự Chỉ Định Của Tăng

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Câu-diệm-di. Bấy giờ, vua Ưu-điền xây dựng pḥng ốc cho t́-kheo Xiển-đà. T́-kheo Xiển-đà cậy thế, tùy ư đốn hạ các cây cổ thụ dọc bên đường. Người đi đường chê cười, quở trách. Các thầy t́-kheo biết được việc ấy đem bạch Phật. Phật quở trách và nói: ‘Nếu chặt cây cổ thụ phạm đột-kiết-la.’ Nhân đó, Đức Phật chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, muốn cất chùa lớn, có thí chủ làm cho ḿnh, cần phải mời các t́-kheo khác đến chỉ định nơi chốn. Các t́-kheo ấy cần phải chỉ định nơi chốn, là nơi không có nguy hiểm, nơi không bị bít lối. Nếu t́-kheo, nơi có nguy hiểm, nơi bị bít lối, cần chùa lớn, có thí chủ làm cho ḿnh, không mời các t́-kheo đến chỉ định nơi chốn, tăng-già-bà-thi-sa.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Muốn cất chùa lớn: chùa lớn là chùa cần sử dụng nhiều tài vật để xây cất.

- Có thí chủ: trái với trường hợp của giới trên là không có thí chủ.

- Làm cho ḿnh, cần phải mời các t́-kheo khác đến chỉ định nơi chốn: t́-kheo kia như trên đă nói rồi. Vị ấy phải đến trong Tăng lễ dưới chân thượng tọa v.v… xin với Tăng ba lần. Văn tác bạch xin giống như giới trên. Chỉ khác ở chỗ là “có thí chủ làm cho ḿnh.”

- Các t́-kheo ấy cần phải chỉ định nơi chốn: Tăng nên xem xét, nếu người ấy đáng tin, có trí tuệ th́ tin lời người ấy và bạch nhị yết-ma chỉ cho chỗ xây dựng chùa. Nếu không đáng tin th́ cũng giống như trên, hoặc cho làm hoặc ngăn lại.

- Là nơi không có nguy hiểm: nghĩa là có các loại thú dữ như: sư tử, gấu ngựa, gấu người v.v… nhưng nếu không bị chúng gây hại th́ nên giống như trên đă nói, có thể san lấp bằng phẳng, cho đến nếu sợ có người nh́n nhận đất đó của họ th́ phải giải quyết cho rạch ṛi trước rồi mới xây dựng.

- Nơi không bị bít lối: là ở trong khoảng đất nơi mà xe cộ có thể lưu thông được.

- Nếu t́-kheo, nơi có nguy hiểm, nơi bị bít lối, cần chùa lớn, có thí chủ làm cho ḿnh, không mời các t́-kheo đến chỉ định nơi chốn, tăng-già-bà-thi-sa: về phần h́nh thức và giải thích cũng giống như giới trước đă nói; chỉ có khác là không có hai chữ “quá lượng.”

8. Giới Vu Khống T́-Kheo Phạm Ba-La-Di Không Có Căn Cứ

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở thành La-duyệt-ḱ. Bấy giờ, tôn giả Đạp-ba mới vừa chứng quả A-la-hán, tay phát ra ánh sáng. Ngài làm tri sự cho Tăng, được Phật khen là bậc nhất. T́-kheo Từ Địa theo cấp bậc trong chúng, được chia cho pḥng xấu, lại được thức ăn không ngon. Nhưng cũng v́ thế Từ Địa sinh ḷng hiềm khích, liền bảo em ḿnh T́-kheo-ni……  đến trước Tăng mắng chửi tôn giả Đạp-ba. Các thầy t́-kheo thấy vậy hỏi t́-kheo-ni kia, th́ cô thú nhận là tự bịa ra nói. Các thầy t́-kheo đem việc ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, v́ thù hận ấp ủ, đối với t́-kheo không phải ba-la-di, mà vu khống bằng pháp ba-la-di không căn cứ, muốn hủy hoại đời sống thanh tịnh của vị ấy. Về sau, dù bị cật vấn hay không bị cật vấn, sự t́nh ấy được biết là không căn cứ, t́-kheo này nói rằng: ‘Tôi v́ thù hận nên nói như vậy.’ T́-kheo nói như vậy, tăng-già-bà-thi-sa.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

-  V́ thù hận ấp ủ: có mười nhân duyên ác pháp gây ra sân hận ứng với mười việc. Nhưng trong trường hợp này t́-kheo Từ Địa v́ hai việc mà sinh sân hận.

- Đối với t́-kheo không phải ba-la-di, mà vu khống bằng pháp ba-la-di không căn cứ: Có căn cứ tức phải đủ ba việc: thấy, nghe và nghi. Thấy có căn cứ là thấy phạm phạm hạnh, thấy trộm năm tiền, thấy giết người. Hoặc người khác thấy rồi nói lại. Đó gọi là thấy có căn cứ.

Nghe đă phạm phạm hạnh, nghe trộm năm tiền, nghe giết người. Nghe tự nói đắc pháp thượng nhân. Hoặc nghe người khác nói lại nghe người kia nói. Đó gọi là nghe có căn cứ.

Nghi có căn cứ có hai trường hợp. Một là do thấy mà sinh nghi. Thấy t́-kheo cùng với người nữ đi vào trong rừng rồi đi ra, thân h́nh trần trụi, không tấm vải, thân thể nhớp nhúa, tay cầm dao dính máu, làm bạn với người xấu.

V́ nghe mà sinh nghi. Nếu ở trong chỗ khuất nghe tiếng giường động, nghe tiếng trở ḿnh, hoặc nghe tiếng động của thân thể, hoặc nghe tiếng th́ thầm với nhau, hoặc nghe nói tôi phạm phi phạm hạnh, cho đến nghe nói tôi đắc pháp của bậc thượng nhân. Ngoài ba căn cứ như vừa nêu trên mà đem những việc khác không có căn cứ để vu khống th́ đó gọi là vu khống không có căn cứ.

- Muốn hủy hoại đời sống thanh tịnh của vị ấy: nghĩa là bảo chúng Tăng diệt tẩn người kia để tôi được ở an ổn.

- Về sau, dù bị cật vấn hay không bị cật vấn: Phật bảo các thầy t́-kheo hỏi người hủy báng kia để biết việc ấy có thật hay không? Nếu người kia dùng những việc không có căn cứ mà hủy báng người khác th́ mắc tội nặng.

- Sự t́nh ấy được biết là không căn cứ, t́-kheo này nói rằng: t́-kheo kia nói: ‘Đạp-ba-la là người thanh tịnh, thật không có việc như vậy.’

- Tôi v́ thù hận nên nói như vậy: do trước đó theo thứ tự t́-kheo ấy nhận được pḥng xấu, thức ăn đạm bạc nên ôm hận trong ḷng nên mới hủy bán t́-kheo kia.

- T́-kheo nói như vậy, tăng-già-bà-thi-sa: nếu dùng bốn việc không có căn cứ vu khống, nói rơ ràng phạm tăng-tàn, nói không rơ ràng phạm thâu-lan-giá. Hoặc ra dấu, viết thư, sai sứ, hoặc làm ra điệu bộ, dù rơ hay không rơ tất cả đều phạm như thế. Nếu dùng mười ba nạn[42] để hủy báng người th́ cũng phạm tăng-tàn. Trừ trường hợp người bị hủy báng không phải là t́-kheo như pháp. Hoặc dùng những sự việc vô căn cứ khác hủy báng th́ tùy việc mà phạm như trước đă nói.

Nếu hủy báng t́-kheo-ni th́ cũng phạm như trước. Nếu hủy báng những chúng dưới th́ phạm tội đột-kiết-la. T́-kheo-ni hủy báng cũng phạm tăng-tàn.

- Trường hợp không phạm: cả ba trường hợp thấy, nghe, nghi đều có căn cứ và nói đúng sự thật; hoặc nói đùa, hoặc nói nhanh, hoặc nói một ḿnh, hoặc nói ở nơi vắng vẻ, hoặc nói nhầm, tất cả đều không phạm.

9. Giới Mượn Việc Ba-La-Di Có Căn Cứ Để Vu Khống

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở tại thành La-duyện-ḱ. Bấy giờ, t́-kheo Từ Địa thấy hai con dê đang giao phối với nhau, liền nói con dê đực này là Đạp-ba, con dê cái là t́-kheo-ni Từ Địa. Ông liền nói với các thầy t́-kheo, hôm nay chính mắt tôi trông thấy, không giống như trước không có bằng chứng ǵ. Các thầy t́-kheo hỏi kĩ lại, Từ Địa liền tự thú nhận là vu khống. Các thầy t́-kheo đem việc ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, v́ thù hận, dựa vào tiểu tiết trong sự t́nh của phần khác, đối với t́-kheo không phải ba-la-di, mà vu khống bằng pháp ba-la-di không có căn cứ, muốn hủy hoại đời sống phạm hạnh của vị ấy, về sau, dù bị cật vấn hay không bị cật vấn, sự t́nh ấy được biết là dựa lấy tiểu tiết trong sự t́nh của phần khác, t́-kheo này nói rằng: ‘Tôi v́ thù hận nên nói như vậy.’ T́-kheo nào như vậy, tăng-già-bà-thi-sa.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- V́ thù hận: như trên đă nói.

- Dựa vào tiểu tiết trong sự t́nh của phần khác: hoặc dựa vào một tội khác, mục đích khác, người khác, hoặc là người tại gia, hoặc nghe tin đồn.

- Đối với t́-kheo không phải ba-la-di, mà vu khống bằng pháp ba-la-di không có căn cứ, muốn hủy hoại đời sống phạm hạnh của vị ấy, về sau, dù bị cật vấn hay không bị cật vấn, sự t́nh ấy được biết là dựa lấy tiểu tiết trong sự t́nh của phần khác, t́-kheo này nói rằng: ‘Tôi v́ thù hận nên nói như vậy.’ T́-kheo nào như vậy, tăng-già-bà-thi-sa: Về phần phạm và không phạm cũng giống như giới trước.

10. Giới Phá Tăng Và Chống Lại Sự Can Gián

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Di-ni-lâu, Ngài độ tám người ḍng họ Thích. Sau đó, Ngài dẫn họ đến nước Chiêm-ba th́ tất cả đều chứng Tăng thượng địa. Trong đó, chỉ có Đề-bà-đạt-đa chứng được thần túc thông. Một thời gian sau, Phật trở về nước La-duyệt-ḱ. Bấy giờ, Đề-bà-đạt-đa xúi giục người hại Phật. Việc ấy bại lộ, tiếng xấu đồn xa, không ai cúng dường thức ăn, v́ thế t́-kheo ấy ăn riêng chúng và bị Phật quở trách. Nhưng Đề-bà-đạt-đa không chịu dừng lại, t́-kheo ấy lại bày cách phá Tăng. Hàng t́-kheo nói lỗi và can ngăn và Phật chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, muốn phá hoại ḥa hợp Tăng, tiến hành phá hoại ḥa hợp Tăng, chấp chặt pháp phá ḥa hợp Tăng, kiên tŕ không bỏ. Các t́-kheo nên can gián t́-kheo này rằng: ‘Đại đức chớ pháp ḥa hợp Tăng, chớ tiến hành phá hoại ḥa hợp Tăng, chớ chấp chặt pháp hoại ḥa hợp Tăng, kiên tŕ không bỏ. Đại đức nên cùng Tăng ḥa hợp, v́ cùng Tăng ḥa hợp, hoan hỉ không tranh chấp, đồng một thầy học, ḥa hợp như nước với sữa, th́ ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.’ Khi t́-kheo ấy được can gián, kiên tŕ không bỏ. T́-kheo được can gián như vậy ba lần cho bỏ việc ấy, cho đến ba lần can gián, bỏ th́ tốt; nếu không bỏ, tăng-già-bà-thi-sa.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Muốn phá hoại: phá hoại có tất cả mười tám việc: như pháp, phi pháp, như luật, phi luật, phạm, không phạm, hoặc nhẹ, hoặc nặng, che giấu, không che giấu, thô ác, không thô ác, việc thường làm, việc không thường làm, chế định, không chế định, đă nói, chưa nói.

- Ḥa hợp: cùng yết mà, cùng thuyết giới.

- Tăng: chỉ cho bốn t́-kheo, hoặc năm t́-kheo, hoặc mười t́-kheo, cho đến vô số t́-kheo.

- Tiến hành phá hoại ḥa hợp Tăng, chấp chặt pháp phá ḥa hợp Tăng, kiên tŕ không bỏ: nghĩa là dùng mười tám cách phá hoại sự ḥa hợp của Tăng.

- Các t́-kheo nên can gián t́-kheo này rằng: ‘Đại đức chớ pháp ḥa hợp Tăng, chớ tiến hành phá hoại ḥa hợp Tăng, chớ chấp chặt pháp hoại ḥa hợp Tăng, kiên tŕ không bỏ. Đại đức nên cùng Tăng ḥa hợp, v́ cùng Tăng ḥa hợp, hoan hỉ không tranh chấp, đồng một thầy học, ḥa hợp như nước với sữa, th́ ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.’: nên nói với vị t́-kheo kia rằng: ‘Đại đức nên từ bỏ việc này, chớ để cho Tăng phải làm pháp can gián, quở trách mà phạm tội nặng.’ Nếu dùng lời can ngăn được th́ tốt. Nếu không thể dùng lời can gián được th́ có thể nhờ T́-kheo-ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, hoặc vua, quan, hoặc nhờ các sa-môn, bà-la-môn đạo khác. Hoặc nhờ t́-kheo ở những nơi khác có hiểu biết mà người kia có thể tin theo lời can gián, th́ nên nhờ họ can gián t́-kheo kia. Đó là can gián.

- Khi t́-kheo ấy được can gián, kiên tŕ không bỏ: nghĩa là chống lại sự can gián.

- T́-kheo được can gián như vậy ba lần cho bỏ việc ấy, cho đến ba lần can gián, bỏ th́ tốt: t́-kheo kia nên tập hợp chúng tăng làm pháp yết-ma, như pháp tác bạch can gián rồi, lại cầu xin Tăng làm pháp yết-ma, cho đến yết-ma lần thứ nhất, lần thứ hai cũng như thế.

- Nếu không bỏ: nghĩa là chống lại sự can gián của Tăng. Giới sau cũng như giới này.

- Tăng-già-bà-thi-sa: khi Tăng can gián bạch lần thứ hai xong, nếu t́-kheo kia từ bỏ ư định th́ phạm ba thâu-lan-giá. Cho đến bạch xong mới từ bỏ th́ phạm một thâu-lan-giá; bạch chưa xong mà đă từ bỏ th́ chỉ phạm một đột-kiết-la. Nếu trước khi làm pháp yết-ma nhận pháp phá Tăng, kiên tŕ không từ bỏ đều phạm đột-kiết-la. T́-kheo-ni phạm tăng-tàn.

- Trường hợp không phạm: can gián lần đầu từ bỏ liền, hoặc làm pháp yết-ma phi pháp mà quở trách, can gián. Hoặc phi pháp, phi luật, chẳng phải lời Phật dạy, hoặc phá bạn xấu, hoặc phá tri thức, hoặc muốn phá Tăng, hoặc làm không đúng pháp, hoặc v́ Tăng mà làm hư tổn tháp của ḥa thượng A-xà-lê, tri thức, người phá không phạm.

11. Giới Giúp Phá Tăng Và Chống Lại Sự Can Gián

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước La-duyệt-ḱ. Bấy giờ, t́-kheo Đề-bà-đạt-đa dùng năm pháp: suốt đời khất thực, mặc y phấn tảo, thường ngủ dưới gốc cây, không uống sữa, không ăn muối, cá và thịt để chỉ dạy các t́-kheo khác. Khi chúng Tăng can ngăn t́-kheo Đề-bà-đạt-đa th́ các t́-kheo đồng bạn khác giúp t́-kheo Đề-bà-đạt-đa phá hoại sự can ngăn của Tăng. Các t́-kheo đem việc ấy bạch Phật. Phật quở trách rồi, nhân việc ấy mà chế định giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, có bè đảng từ một, hoặc hai, hoặc ba, cho đến vô số. Các t́-kheo bè đảng ấy nói với các t́-kheo rằng: ‘Đại đức, chớ can gián t́-kheo ấy. T́-kheo ấy là t́-kheo nói như pháp, t́-kheo ấy là t́-kheo nói như luật. Những điều t́-kheo ấy nói chúng tôi ưa thích. Những điều t́-kheo ấy nói, chúng tôi chấp nhận.’ Chúng t́-kheo ấy nói: “Đại đức chớ nói như vầy: ‘T́-kheo ấy là t́-kheo nói như pháp. T́-kheo ấy là t́-kheo nói như luật. Những điều t́-kheo ấy nói chúng tôi ưa thích. Những điều t́-kheo ấy nói chúng tôi chấp nhận.’ Nhưng t́-kheo ấy là t́-kheo nói phi pháp, là t́-kheo nói phi luật. Đại đức, chớ phá hoại ḥa hợp Tăng. Các ngài nên hoan hỉ ḥa hợp Tăng. Đại đức cùng Tăng ḥa hợp, hoan hỉ, không tranh chấp, đồng học một thầy, ḥa hợp như nước với sữa, ở trong Phật pháp mới có tăng ích, sống an lạc.” Các t́-kheo bè đảng được can gián như vậy mà kiên tŕ không bỏ. Chúng t́-kheo kia nên can gián ba lần cho bỏ việc này. Cho đến ba lần can gián, bỏ th́ tốt. Nếu không bỏ, tăng-già-bà-thi-sa.

c.Giải thích:

- T́-kheo: nghĩa như trên.

-  Có bè đảng từ một, hoặc hai, hoặc ba, cho đến vô số: đồng bạn là từ bốn người trở lên đến nhiều vô số. Có hai trường hợp phục tùng. Một là phục tùng v́ pháp. Nghĩa là dùng pháp truyền dạy làm cho tăng giới, tăng tâm, tăng tuệ, tụng đọc, tiếp nhận. Hai là phục tùng v́ ăn mặc. Đó là cấp cho y phục, thức ăn uống, mền nệm, giường, đồ nằm, thuốc thang.

- Các t́-kheo bè đảng ấy nói với các t́-kheo rằng: ‘Đại đức, chớ can gián t́-kheo ấy. T́-kheo ấy là t́-kheo nói như pháp, t́-kheo ấy là t́-kheo nói như luật. Những điều t́-kheo ấy nói chúng tôi ưa thích. Những điều t́-kheo ấy nói, chúng tôi chấp nhận.’: Đây là nói việc giúp đồng đảng xấu chống sự can gián của Tăng. Nói Điều Đạt là người rành thông pháp và luật. Chúng tôi đều rất hài ḷng, sao Tăng lại làm pháp can gián t́-kheo ấy và cho rằng việc ấy trái với luật.

- Chúng t́-kheo ấy nói: “Đại đức chớ nói như vầy: ‘T́-kheo ấy là t́-kheo nói như pháp. T́-kheo ấy là t́-kheo nói như luật. Những điều t́-kheo ấy nói chúng tôi ưa thích. Những điều t́-kheo ấy nói chúng tôi chấp nhận.’ Nhưng t́-kheo ấy là t́-kheo nói phi pháp, là t́-kheo nói phi luật. Đại đức, chớ phá hoại ḥa hợp Tăng. Các ngài nên hoan hỉ ḥa hợp Tăng. Đại đức cùng Tăng ḥa hợp, hoan hỉ, không tranh chấp, đồng học một thầy, ḥa hợp như nước với sữa, ở trong Phật pháp mới có tăng ích, sống an lạc.”: đây là nói các thiện t́-kheo dùng pháp can gián những ǵ Điều Đạt nói, nhân và pháp đều không đúng, chớ có ngu ngơ tin theo.

- Các t́-kheo bè đảng được can gián như vậy mà kiên tŕ không bỏ. Chúng t́-kheo kia nên can gián ba lần cho bỏ việc này. Cho đến ba lần can gián, bỏ th́ tốt. Nếu không bỏ, tăng-già-bà-thi-sa: phần quở trách, giáo huấn và chế giới cũng giống như trên.

12. Giới Làm Nhơ Nhà Người Bị Tẩn Xuất

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, t́-kheo A-thấp-bà và một số t́-kheo khác ngủ nhờ trong thôn Ḱ-liên và làm nhơ uế nhà người. Các thầy t́-kheo đem việc ấy bạch Phật. Phật bảo tôn giả Xá-lợi-phất và những t́-kheo khác đến chỗ những thầy t́-kheo kia đang ở làm pháp diệt tẩn. Trong khi tôn giả Xá-lợi-phất và các thầy t́-kheo tác pháp, những t́-kheo kia hủy báng chúng Tăng và không chịu nghe lời. Chúng Tăng đem việc ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, sống nương tựa xóm làng, hay thành ấp, mà làm hoen ố nhà người, có hành vi xấu. Sự làm hoen ố nhà người ai cũng thấy, ai cũng nghe. Hành vi xấu ai cũng thấy, ai cũng nghe. Các t́-kheo nên nói với t́-kheo ấy rằng: ‘Đại đức là người làm hoen ố nhà người, có hành vi xấu. Sự làm hoen ố nhà người ai cũng thấy, ai cũng nghe. Hành vi xấu ai cũng thấy, ai cũng nghe. Đại đức, ngài làm hoen ố nhà người, có hành vi xấu, nay nên xa lánh xóm làng này, không nên sống ở đây nữa.’ T́-kheo ấy nói với các t́-kheo rằng: ‘Chư đại đức, các t́-kheo có thiên vị, có thù nghịch, có sợ hăi, có bất minh. V́ có t́-kheo đồng tội như vậy, mà có người bị đuổi, có người không bị đuổi.’ Các t́-kheo nên trả lời rằng: “Đại đức chớ nói ‘Tăng có thiên vị, có thù nghịch, có sợ hăi, có bất minh. V́ có t́-kheo đồng tội như vậy, mà có người bị đuổi, có người không bị đuổi’.”  Nhưng các t́-kheo không có thiên vị, không có thù nghịch, không có sợ hăi, không có bất minh. Đại đức làm hoen ố nhà người, có hành vi xấu. Sự làm hoen ố nhà người ai cũng thấy, ai cũng nghe. Hành vi xấu ai cũng thấy, ai cũng nghe. T́-kheo ấy được can gián như vậy mà kiên tŕ không bỏ; các t́-kheo nên can gián ba lần cho bỏ việc ấy. Cho đến ba lần can gián, bỏ th́ tốt. Nếu không bỏ, tăng-già-bà-thi-sa.

c. Giải thích 

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Sống nương tựa xóm làng: thôn có bốn loại như trên đă nói.

- Hay thành ấp: thành là vùng đất thuộc của vua.

Mà làm hoen ố nhà người: nhà th́ có người nam, có người nữ. Làm hoen ố nhà người có bốn trường hợp:

- Một là dựa vào nhà này làm hoen ố nhà kia. Nghĩa là được vật ở nhà này đem cho lại nhà kia. Nhà cúng phẩm vật biết được việc ấy nên không vui. C̣n nhà nhận được vật th́ nghĩ ḿnh phải báo đền ân, nên nói rằng: “Người ta cho ḿnh vật th́ ḿnh phải đền ân người ta. Nếu người ấy không cho ta th́ v́ sao ta phải cho lại?”

- Hai là dựa vào lợi dưỡng mà làm hoen ố nhà người. Được lợi dưỡng như pháp và các thứ c̣n dư trong bát, hoặc cho một cư sĩ. Người được cho ấy nghĩ: “Ḿnh phải báo ân người kia. Nếu người kia không cho tôi th́ tại sao tôi phải cho lại?”

- Ba là dựa vào người thân làm hoen ố nhà người. T́-kheo nào dựa vào vua, quan, đại thần, hoặc v́ cư sĩ, hoặc không v́ cư sĩ, người kia nghĩ rằng: “Nếu người ấy v́ ḿnh th́ ḿnh nên cúng dường người ấy; nếu người ấy không v́ ḿnh th́ ḿnh không nên cúng dường.”

- Bốn là dựa vào tăng-già-lam làm hoen ố nhà người. Nếu t́-kheo lấy hoa quả của chùa đem cho cư sĩ, hoặc không cho cư sĩ. Người được cho kia nghĩ ḿnh phải cúng dường, người không được cho nghĩ rằng tôi không cúng dường.

- Có hành vi xấu: t́-kheo kia làm những việc không đúng pháp như thế. Tự trồng hoa, tưới nước, hái hoa, kết thành tràng, lấy chỉ xâu lại rồi đem cho người. Hoặc dạy người làm như vậy. Trong làng có người nữ ngồi cùng giường, ăn cùng mâm, nói cười huyên huyên, hoặc tự xướng ca nhảy múa, hoặc người khác làm rồi ḥa theo, hoặc ḥ vè, hoặc gảy đàn, đánh trống, thổi sáo, ngâm nga, hoặc giả tiếng chim hót, hoặc chạy, hoặc đi khập khiễng, huưt gió, hoặc tự mân mê thân thể, hoặc nhận lời cười thuê.

- Sự làm hoen ố nhà người ai cũng thấy, ai cũng nghe. Hành vi xấu ai cũng thấy, ai cũng nghe: Bấy giờ, có thầy t́-kheo ngủ ở trong làng ấy, sáng ngày thầy đắp y, ôm bát vào thôn khất thực. Pháp phục ngay ngắn, thầy từng tự bước đi, cuối mặt đi thẳng, không ngoái nh́n hai bên, đi từng nhà từng nhà. Hàng cư sĩ thấy vậy mới bàn tán với nhau. Người này là người ǵ? Tại sao cuối mặt mà đi, cũng không ngoái nh́n hai bên, cũng không nói cười, cũng không giao tiếp với ai, cũng không chào hỏi ai, chúng ta không nên cúng dường thức ăn cho người này. Người này không như thầy A-thấp-bà giao thiệp với mọi người và làm những việc như nói ở trên. Chúng ta nên cúng dường A-thấp-bà. Khi ấy, t́-kheo khất thực kia khó khăn lắm mới xin được thức ăn. Sau mùa an cư, vị ấy về thăm Phật, Đức Phật hỏi: Chỗ ở có vui vẻ an ổn không? Tăng có ḥa hợp không? Không bị việc khất thực làm khổ chứ? Vị t́-kheo kia tŕnh bày hết mọi việc với Phật. Phật từ xa quở trách t́-kheo A-thấp-bà và sai chúng Tăng đến làm pháp diệt tẩn.

- Các t́-kheo nên nói với t́-kheo ấy rằng: ‘Đại đức là người làm hoen ố nhà người, có hành vi xấu. Sự làm hoen ố nhà người ai cũng thấy, ai cũng nghe. Hành vi xấu ai cũng thấy, ai cũng nghe. Đại đức, ngài làm hoen ố nhà người, có hành vi xấu, nay nên xa lánh xóm làng này, không nên sống ở đây nữa.’: Bấy giờ, tôn giả Xá-lợi-phất nói pháp cho hàng cư sĩ nghe, làm cho họ sinh ḷng tin và vui. Sau khi ăn trưa xong, tôn giả tập hợp Tăng làm pháp yết-ma nêu tội, làm pháp ức niệm và chỉ tội. Làm yết-ma như trên rồi đuổi t́-kheo A-thấp-bà ra khỏi thôn làng. Trong lúc đang làm pháp yết-ma, t́-kheo A-thấp-bà đứng dạy mắng chửi chúng Tăng và nói những người khác cũng phạm như tôi sao không bị đuổi mà chỉ đuổi một ḿnh tôi. A-thấp-bà nói như thế.

- T́-kheo ấy nói với các t́-kheo rằng: ‘Chư đại đức, các t́-kheo có thiên vị, có thù nghịch, có sợ hăi, có bất minh. V́ có t́-kheo đồng tội như vậy, mà có người bị đuổi, có người không bị đuổi.’: Bấy giờ, tôn giả Xá-lợi-phất trở về thưa với Phật và tŕnh bày mọi việc. Phật từ xa quở trách và bảo làm pháp can gián.

- Các t́-kheo nên trả lời rằng: “Đại đức chớ nói ‘Tăng có thiên vị, có thù nghịch, có sợ hăi, có bất minh. V́ có t́-kheo đồng tội như vậy, mà có người bị đuổi, có người không bị đuổi’.” Nhưng các t́-kheo không có thiên vị, không có thù nghịch, không có sợ hăi, không có bất minh. Đại đức làm hoen ố nhà người, có hành vi xấu. Sự làm hoen ố nhà người ai cũng thấy, ai cũng nghe. Hành vi xấu ai cũng thấy, ai cũng nghe. T́-kheo ấy được can gián như vậy mà kiên tŕ không bỏ; các t́-kheo nên can gián ba lần cho bỏ việc ấy. Cho đến ba lần can gián, bỏ th́ tốt. Nếu không bỏ, tăng-già-bà-thi-sa: nếu trước khi Tăng làm pháp yết-ma mà nói Tăng có yêu, có ghét, có giận, có sợ, có si, nếu không xem thư đem đến, và v́ hàng cư sĩ mà truyền tin, tất cả phạm đột-kiết-la. T́-kheo-ni cũng phạm như t́-kheo.

- Trường hợp không phạm: chúng Tăng vừa mới nói th́ từ bỏ liền; can gián không đúng pháp. Hoặc được quần áo, thức ăn đem dâng cha mẹ và cho người  bệnh, cho trẻ nhỏ, cho người đang mang thai, cho người bị nhốt trong tù, hoặc cho những người giúp việc trong chùa. Hoặc trồng hoa quả, tự hái, cắt, cho đến dạy người kết hoa đem cúng dường Phật, Pháp, Tăng, tất cả đều không phạm. Nếu có người muốn đánh, bị giặc cướp, chỗ có nạn cọp, sói gây sợ hăi, hoặc mang vác vào trong  làng để lẫn trốn, đều không phạm. Nếu v́ qua sông, rạch, nhảy qua hầm th́ không phạm. Nếu có bạn đi phía sau, ngoái lại nh́n không thấy gọi lớn th́ không phạm. Hoặc v́ cha mẹ, v́ người bệnh, hoặc v́ người bị giam trong ngục, hoặc người nam thành tín bị bệnh, hoặc ở trong ngục, xem thư đem đến, hoặc v́ tháp của Tăng, nuôi bệnh t́-kheo, đem thư qua lại, như thế đều không phạm.

13. Tánh Xấu Chống Lại Sự Can Ngăn Của Tăng

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Câu-diệm-di. Bấy giờ, tôn giả Xiển-đà ngang bướng chống lại sự can gián của Tăng. Xiển-đà nói lại: ‘Tôi nên dạy các đại đức. V́ sao? V́ thánh chủ của tôi đắc chính giác.’ Các thầy t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách rồi liền chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, có tính ngoan cố không nhận lời khuyên của người khác. Khi được các t́-kheo khuyên can như pháp những điều trong học giới, tự thân không nhận lời can gián, lại nói: “Các Đại đức, chớ nói với tôi điều ǵ hoặc tốt hoặc xấu. Tôi cũng không nói với các Đại đức điều ǵ hoặc tốt hoặc xấu. Các Đại đức thôi đi, đừng can gián tôi.” Các t́-kheo can gián t́-kheo ấy rằng: “Đại đức, chớ tự thân không nhận lời can gián. Đại đức như pháp can gián các t́-kheo. Các t́-kheo cũng như pháp can gián Đại đức. Như vậy, chúng đệ Phật được tăng ích, trao đổi dạy bảo nhau, trao đổi can gián nhau, trao đổi sám hối với nhau.” T́-kheo này được can gián như vậy, kiên tŕ không bỏ. Các t́-kheo nên ba lần can gián cho bỏ sự ấy. Cho đến ba lần can gián, bỏ th́ tốt. Nếu không bỏ, tăng-già-bà-thi-sa.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Có tính ngoan cố không nhận lời khuyên của người khác. Khi được các t́-kheo khuyên can như pháp những điều trong học giới: dùng giới luật, như pháp mà truyền dạy, có bảy phạm tụ: Ba-la-di, Tăng-già-bà-thi-sa, Ba-dật-đề, Ba-la-đề-đề-xá-ni, Thâu-lan-giá, Đột-kiết-la, ác thuyết.

- Các t́-kheo như pháp can gián rồi: như pháp như luật, như lời Phật dạy.

- Tự thân không nhận lời can gián, lại nói: “Các Đại đức, chớ nói với tôi điều ǵ hoặc tốt hoặc xấu. Tôi cũng không nói với các Đại đức điều ǵ hoặc tốt hoặc xấu. Các Đại đức thôi đi, đừng can gián tôi.”:  đây là việc can gián chính của giới này. Hai lần can gián sau theo thứ tự đều là những lời giáo huấn.

- Các Đại đức thôi đi, đừng can gián tôi.” Các t́-kheo can gián t́-kheo ấy rằng: “Đại đức, chớ tự thân không nhận lời can gián. Đại đức như pháp can gián các t́-kheo. Các t́-kheo cũng như pháp can gián Đại đức. Như vậy, chúng đệ Phật được tăng ích, trao đổi dạy bảo nhau, trao đổi can gián nhau, trao đổi sám hối với nhau.” T́-kheo này được can gián như vậy, kiên tŕ không bỏ. Các t́-kheo nên ba lần can gián cho bỏ sự ấy. Cho đến ba lần can gián, bỏ th́ tốt. Nếu không bỏ, tăng-già-bà-thi-sa: nếu trước khi bạch yết-ma mà càng bướng không nghe lời can gián th́ phạm một đột-kiết-la. T́-kheo-ni cũng phạm giống như t́-kheo.

- Trường hợp không phạm: mới can gián lần thứ nhất th́ từ bỏ liền, quở trách không đúng pháp, không đúng pháp, không đúng luật, chẳng phải lời Phật dạy. Nếu can gián người vô trí th́ nên nói với người ấy rằng: “Việc làm của ḥa thượng A-xà-lê của thầy cũng như vậy. Thầy nên học hỏi, tụng đọc thêm kinh luật.” Nếu những việc ấy như thế, hoặc nói sai, đều không phạm.

Chư Đại đức tôi đă nói mười ba pháp tăng-già-bà-thi-sa, chín giới trước vừa làm liền phạm, bốn giới sau can gián đến lần thứ ba mới phạm. Nếu t́-kheo nào phạm mỗi mỗi pháp biết mà che giấu th́ buộc phải thực hành Ba-lợi-bà-sa.[43] Hành Ba-lợi-bà-sa xong phải thực hành thêm sáu đêm ma-na-đỏa. Hành ma-na-đỏa[44] xong mới cho nói tội và phải đối trước hai mươi vị t́-kheo tăng nói tội của t́-kheo ấy. Nếu thiếu một người không đủ số chúng là hai mươi vị t́-kheo, th́ chẳng những tội của vị t́-kheo kia không hết mà các t́-kheo cũng bị quở trách. Nay xin hỏi các Đại đức trong đây có thanh tịnh không? (3 lần). Các Đại đức trong đây thanh tịnh, v́ các thầy đều im lặng. Việc này tôi ghi nhận như vậy.

Hết quyển 1-A

________________________________________

[1] Ba thừa 三乘: Thanh văn thừa, Bích-chi-phật thừa và Bồ-tát thừa.

[2] Môn Bất húy 不諱之門: Tức môn Giới luật. Húy chính là quá,(lỗi lầm).

[3] Thuật sâu mầu bí mật 祕密之深術: Cũng chỉ cho giới luật, v́ giới luật chỉ được truyền trong bốn chúng mà thôi.

[4] Mộng thấy tấm lụa 經陳夢[*]之徵: kinh Đại tập ghi: “Vua nằm mộng thấy tấm lụa trắng từ trời rơi xuống đứt làm năm đoạn. Vua lo sợ đến hỏi Phật. Đức Phật nói: ‘Đó không phải việc liên quan đến bệ hạ. Sau khi Ta nhập niết-bàn các đệ tử của Ta chia T́-ni làm năm bộ’”.

[5] Cây gậy găy 分杖之喻: Vua B́nh-sa nằm mộng thấy một cây gậy bằng vàng găy làm mười tám khúc, vua sợ hăi đến hỏi Phật. Đức Phật nói: “Sau khi Ta diệt  độ hơn một trăm năm, có vua A-thâu-ca cai  trị Gia-thiệm bộ. Bấy giờ, các Bật-sô chia giáo pháp thành mười tám phần để hướng đến cửa giải thoát, nhưng đích đến của mười tám phần ấy chỉ có một. Đây là điềm báo trước, bệ hạ chớ lo lắng.”

[6] Chính nghiệp 正業: ba nghiệp thân, khẩu, ư thanh tịnh, ĺa tất cả những hành vi xấu ác như sát sinh, trộp cướp, tà dâm.

[7] Vào niên hiệu Gia B́nh thứ 2 (250), ngài Đàm-ma-la-ca đến Lạc Dương và dịch bộ Tăng-ḱ giới bản. Hai năm sau, lại có ngài Đàm-đế dịch bộ Đàm-vô-đức Yết-ma. Trong số các vị Phạm tăng đến nước Ngụy thời ḱ này th́ hai ngài Đàm-ma-la-ca và ngài Đàm-đế là những vị truyền bá giới luật đầu tiên. Lúc bấy giờ, ở Trung Quốc đă có người xuất gia, nhưng chưa biết cách tác pháp thụ giới. Như vậy, có thể nói bộ Tăng-ḱ giới bản là giới pháp căn bản cho người xuất gia và bộ Đàm-vô-đức Yết-ma là phương cách tác pháp thụ giới đầu tiên ở Trung Quốc. Do đó, ngài Đàm-ma-la-ca chính là vị tổ đầu tiên truyền giới luật vào Trung Quốc. Đồng thời, người Trung Quốc xuất gia thụ giới đầu tiên là Chu Sĩ Hành.

[8] Chính giới 正戒: Khi Đức Phật chưa xuất hiện ở đời, Chuyển Luân vương cũng dạy con người  mười pháp thiện như không giết, không trộm, không tà dâm, không nói dối, không nói hai lưỡi, không ác khẩu, không ỷ ngữ, không tham dục, không giận dữ, không tà kiến.  Đó gọi là chính giới.

[9] Chính kinh 正經: Chính là sung vào những ghi chép chính; kinh là thuận pháp, thuận thường, nên gọi chung là Chính Kinh.

[10] Câu-chi 俱胝(S: Koṭi): đơn vị chỉ số lượng của Ấn Độ.

[11] Sáu bộ 六部: đó là: 1. Tứ phần luật hàm chú giới bản (3 quyển); 2. Tứ phần luật hành sự sao (3 quyển); 3. Tứ phần yết-ma sớ (4 quyển); 4. Tứ phần giới bản sớ (4 quyển); 5. Thập t́-ni nghĩa sớ (4 quyển); 6. T́-kheo-ni nghĩa sao (3 quyển).

[12] Đàm-vô-đức 曇無德 (S: Dharmaguptaka): Tổ của Pháp Tạng bộ (1 trong 20 bộ phái Tiểu thừa), là đệ tử của tổ Ưu-ba-cúc-đa. Trong lần kiết tập thứ nhất, tôn giả Ưu-ba-li tụng tạng luật 80 lần gọi là Bát Thập Tụng Luật. Về sau trải qua sự truyền thừa phát triển, ngài Đàm-vô-đức thu thập từ Bát Thập Tụng Luật lập thành một bộ gọi là Đàm-vô-đức bộ hay Pháp Tạng bộ. Đàm-vô-đức là vị khai sáng Luật tông, nên gọi là Tứ Phần Luật tông là chỉ cho Đàm-vô-đức Luật tông.

[13] Đạo Tuyên 道宣 (596-667): Cao tăng Trung Quốc, sống vào đời Đường, họ Tiền, tự Pháp Biến, người Ngô Hưng, tỉnh Chiết Giang, là Sơ Tổ của Nam Sơn Luật tông. Có thuyết cho là người Đan Đồ, Nhuận Châu, tỉnh Giang Tô. Ngài sinh năm Khai Hoàng thứ 16 (596), đời Tùy. Sau ngài nương theo Ngài Trí Thủ  (567-635) ở Trường An thụ giới Cụ túc, chuyên học luật. V́ lúc đầu Ngài trụ tŕ chùa Phong Đức núi Chung Nam nên gọi Ngài là Nam Sơn luật sư. Ngài tịch năm Càn Phong thứ 2 (667), thọ 72 tuổi. 

[14] Tôn giả Hộ Pháp 法護尊者: chính là ngài Đàm-vô-đức.

[15] Quảng giáo 廣教: giáo pháp được giảng dạy đầy đủ. Khoảng 12 năm đầu, sau khi Đức Phật thành đạo, đại chúng đều thanh tịnh, không có ai phạm lỗi nên Đức Phật chưa chế giới, mà chỉ dạy: “Chớ làm các điều ác…” Hành pháp răn dạy đệ tử gọi là Lược giáo hay Lược giới. Sau 12 năm, trong hàng đệ tử người phạm giới pháp dần dần thêm nhiều, nên Phật phải nói nhiều giới luật, chỉ ra những sai lầm của từng giới một, nên gọi là Quảng giáo hay Quảng giới.

[16] Lược giáo 略教: sau khi đức Thích tôn thành đạo, trong khoảng 12 năm đầu, hàng đệ tử của Ngài chưa phạm giới, nên Phật nói giáo giới sơ lược. 

[17] Chuẩn bị thẻ 舍羅 (S: Śalākā): tấm thẻ nhỏ bằng tre, gỗ, đồng, sắt dùng đđếm số t́-kheo tham dự khi giáo đoàn thực hành pháp Diệt tránh hoặc bố-tát.

[18] Phi nhân 非人(S: Amanuṣya): từ gọi chung cho các loại: trời, rồng, dạ-xoa, ác quỷ, tu-la, địa ngục… không thuộc loài người, mắt người không thể thấy.

[19] Thuyết dục 說欲: nói lại ḷng mong muốn của vị t́-kheo vắng mặt cho tăng chúng biết khi thực thiện pháp sự. T́-kheo muốn thành tựu các việc Tăng như thụ giới, thuyết giới nhưng v́ bận việc khác không thể đến tham dự được nên gửi ḷng mong muốn tán đồng của ḿnh cho t́-kheo khác. Sau khi nhận dục, t́-kheo đó mới đem việc này tŕnh bày lại giữa tăng chúng, gọi là Thuyết dục. Trao dục ư của ḿnh cho t́-kheo khác đến dự hội gọi là Dữ dục. T́-kheo nhận sự ủy thác của t́-kheo này gọi là Thụ dục.

[20] Tam ngữ thuyết giới 三語說戒: là nói ba điều như sau: 1. Hai đại đức nhớ nghĩ cho; 2. Hôm nay ngày thứ 15 tăng nói giới; 3. Con t́-kheo tên… thanh tịnh.

[21] Ba-la-đề-mộc-xoa 波羅提木叉(S: Prātimokṣa-saṃvara):  một trong ba thứ luật nghi; là giới luật nghi mà 7 chúng mỗi mỗi phân biệt thụ tŕ để xả bỏ các điều ác ở 7 chi nơi miệng và thân. V́ giới thể phát sinh do thụ lĩnh giới pháp ở cơi Dục, cho nên c̣n gọi là Dục triền giới, thuộc về giới hữu lậu.

[22] Tứ thiền 四禪(S:Catvāri dhyānāni): bốn loại thiền định căn bản dùng đđối trị hoặc nghiệp và sinh ra các công đức, cũng chỉ Sơ thiền, Đệ nhị thiền, Đệ tam thiền, Đệ tứ thiền thuộc cơi Sắc, nên c̣n gọi là Sắc giới định.

[23] Tam không 三空: ba thứ Không được lập ra dựa vào sở chấp của chúng sinh: ngă không, pháp không, câu không.

[24] Tứ quả 四果: bốn quả vị hàng Thanh Văn thuộc Tiểu thừa chứng được. Giai đoạn theo thứ lớp là: quả Dự lưu, quả Nhất Lai, quả Bất hoàn, quả A-la-hán. Có thuyết chỉ cho quả A-la-hán.

[25] Ba-la-di 波羅夷 (S: Pārājika): giới căn bản về tội cực ác mà t́-kheo, T́-kheo-ni phải giữ ǵn sau khi thụ giới Cụ túc, 1 trong 5 thiên, 1 trong 6 tụ, 1 trong 7 tụ. Người tu hành nếu phạm giới này th́: 1. Mất tư cách t́-kheo, T́-kheo-ni, không được sống chung với Tăng; 2. Bị trục xuất khỏi giáo đoàn, không được ở chung với Tăng; 3. Sau khi chết rơi vào địa ngục. 

[26] Phi nhân 非人(S: Amanuṣya): từ gọi chung các loại như trời, rồng, dạ-xoa, ác quỉ, tu-la, địa ngục... không thuộc loài người, mắt người không thể thấy được.

[27] Đồng nữ 童女 (S: Kumārī): thiếu nữ vị thành niên.

[28] Nhị h́nh 二形 (S: Ubhayavyañjanaka): người có hai bộ phận sinh dục nam và nữ, sinh lí khác thường. Trong luật của Phật giáo, người này không được xuất gia, thụ giới.

[29] Hunh môn 黃門 (S: Paṇḍaka): chỉ cho người có nam căn hư hoại. Theo luật Thập tụng 21, luật Tứ Phần 35, 59, Hunh môn được chia làm năm loại, gọi là Ngũ chủng hunh môn, Ngũ chủng bất năng nam, Ngũ chủng bất nam. Năm loại đó là: 1. Sinh bất năng nam; 2. Bán nguyệt bất năng nam; 3. Đ  bất năng nam; 4. Biến bất năng nam; 5. Bệnh bất năng nam.

[30] Thâu-lan-giá 偷蘭遮 (S: Thullaccaya): các tội nếu phạm sẽ cấu thành Ba-la-di, Tăng tàn nhưng chưa thành Ba-la-di, Tăng tàn. Các tội thuộc về ngũ thiên, ngoài tội Đột-kiết-la th́ tất cả nhân tội, quả tội hoặc nặng hoặc nhẹ c̣n lại đều gọi chung là Thâu-lan-giá; 1 trong 6 tụ, 1 trong 7 tụ giới do Phật chế. Thâu-lan-giá được chia làm hai loại chính phụ: Độc đầu Thâu-lan-giá và Phương tiện Thâu-lan-giá. 

[31] Diệt tẩn 滅擯 (S: Nāśanīyaṃ): một khoa xử tội trong giới luật, một trong bảy cách trị phạt các t́-kheo hoặc chỉ cho sự tước đoạt tăng tịch, cho nên c̣n gọi là Tước tịch. Đối với t́-kheo phạm vào trọng tội mà trong tâm không hối hận th́ loại bỏ tăng tịch của vị ấy và đuổi đi. Tội ấy tương đương với tội tử h́nh của thế gian.

[32] Xứ : ‘xứ’ ở đây được hiểu là vị trí mà vật đó hiện có.

[33] A-lan-nhă 阿蘭若(S:Araṇya): thường chỉ khu rừng vắng, không có thú dữ. 

[34] Xứ sở 處所: chỉ phạm vi cư trú của người.

[35] Dương chi 楊枝(S: Danta-Kāṣṭha): mảnh gỗ mỏng nhỏ dùng đđánh răng nạo lưỡi, là một trong tám vật mà Phật qui định cho hàng t́-kheo phải có.

[36] Quán bất tịnh 不淨觀 (S: A-śubhā-smṛti): pháp quán bất tịnh là một pháp trong quán trong Ngũđ́nh tâm quán đđối trị phiền năo tham dục.

[37] Trùng sứ 重使: sứ giả này tiếp theo sứ giả khác, một chuỗi sứ giả.

[38] Luân chuyển sư 展轉使: bởi sứ giả lần lượt giết nhau (để phi tang thủ phạm).

[39] ỷ phạt 倚撥: biết người kia đứng tựa nơi chỗ nào đó, rồi hoặc đặt để các dụng cụ có thể làm hại chết người kia.

[40] Tứ không định 四空定(S: Catasra ārūpya-samāpattayaḥ): bốn cảnh giới vượt ngoài sự ràng buộc của Sắc pháp, là thứ định có được do tư duy Tứ Vô sắc. Nếu muốn sinh lên Tứ Vô sắc giới th́ phải tu tập Tứ Vô sắc định. Nói cách khác, tứ Vô sắc định là pháp tu hành đđối trị sự ràng buộc của Sắc pháp, diệt trừ tất cả sự cảm thụ, tư tưởng đối với ngoại cảnh và cảnh giới tinh thần thanh tịnh vô nhiễm, trạng thái tịch tĩnh như hư không nhờ sự tu hành này mà đạt đến.

[41] Y phấn tảo 糞掃衣(S: Pāṃsu-kūla): ca-sa được may bằng vải rách nhặt từ trong đống rác, sau khi đă được giặt sạch.

[42] Mười ba nạn 十三難: tức mười ba già nạn trước khi thụ giới t́-kheo, đó là: 1. Phạm biên tội; 2. Phá tịnh hạnh của T́-kheo-ni; 3. Tặc trú; 4. Phá nội ngoại đạo; 5. Giết cha; 6. Giết mẹ; 7. Giết a-la-hán; 8. Phá ḥa hợp Tăng; 9. Với ác ư gây thương tích thân Phật; 10. Bất năng nam; 11. Phi nhân; 12. Súc sinh; 13. Nhị h́nh.

[43] Ba-lợi-bà-sa 波利婆沙 (S: Parivāsa): Hán dịch là Phú tàng hoặc Biệt trụ: có nghĩa là che giấu hoặc ở riêng.

[44] Ma-na-đỏa 摩那埵 (S: Mānatta): phương pháp diệt tội và sám hối của một vị t́-kheo, khi phạm trọng tội tăng tàn. Khi phạm tội tăng tàn, phải phát lồ sám hối ngay, trong ṿng sáu ngày sáu đêm ở riêng một chỗ, làm các việc nặng nhọc thay cho chúng tăng như: quét dọn tháp, tăng pḥng, nhà vệ sinh, nhà tắm, được vào trong Tăng, nhưng không được luận đàm với người khác. Trong thời gian trị phạt này người phạm tội phải chí thành sám hối, làm cho chúng Tăng hoan hỉ.

 

back_to_top.png      next.png

 

 

[ TRANG CHỦ | KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

 

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0