Quyển 1-A Quyển 1-B Quyển 2-A Quyển 2-B Quyển 3
TỨ PHẦN LUẬT HÀM CHÚ GIỚI BỔN
Nguyên tác Hán văn: Luật sư Thích Đạo Tuyên.
Dịch sang Việt: Thích Thọ Phước.
QUYỂN 1-B
Chư đại đức! Đây là hai pháp Bất định mỗi nửa tháng nói một lần, trích trong giới kinh.
1. Giới Ngồi Ở Chỗ Khuất
a. Duyên khởi
Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, tì-kheo Ca-lưu-đà-di lúc chưa xuất gia có quen với vợ của người bạn, người nữ ấy tên là Trai-ưu-bà-tư. Nàng ta rất xinh đẹp ai thấy cũng để ý. Một hôm, Ca-lưu-đà-di đến nhà người kia và họ ngồi ở chỗ khuất nói lời phi pháp. Bấy giờ, bà Tì-xá-khư Mẫu tình cờ nhìn qua khe cửa trông thấy, bà tức tốc đi đến gặp Phật và trình bày những gì bà thấy. Nhân đó, Đức Phật quở trách Ca-lưu-đà-di và chế giới này.
b. Văn giới
Tì-kheo nào, cùng một người nữ, một mình ngồi tại chỗ khuất, chỗ kín, chỗ có ngăn che, chỗ có thể hành dâm, nói lời phi pháp. Có vị ưu-bà-tư trụ tín nói một pháp trong ba pháp, hoặc ba-la-di, hoặc tăng-già-bà-thi-sa, hoặc ba-dật-đề, và tì-kheo ngồi ấy tự xác nhận ‘Tôi phạm tội này.’ Vậy cần xử trị một trong ba pháp, hoặc tăng-già-bà-thi-sa, hoặc ba-dật-đề, hoặc đúng như lời ưu-bà-tư trụ tín. Cần như pháp xử trị tì-kheo ấy. Đây gọi là pháp bất định.
c. Giải thích
- Tì-kheo nào: nghĩa như trên.
- Cùng một người nữ: người nữ có trí, còn sống.
- Một mình: nghĩa là chỉ có một tì-kheo và một người nữ.
- Ngồi tại chỗ khuất: chỗ khuất có hai trường hợp: Một là khuất tầm nhìn, hoặc do bụi, sương mù, trong bóng tối không nhìn thấy nhau. Hai là cách âm, cho đến chỗ nói vừa phải nhưng không nghe.
- Chỗ kín: bên trên có vật che.
- Chỗ có ngăn che: hoặc do cây cối, vách tường, hàng rào, vải, và những vật ngăn che khác.
- Chỗ có thể hành dâm: nghĩa là chỗ có thể làm việc dâm dục.
- Nói lời phi pháp: là nói cách hành dâm.
- Có vị ưu-bà-tư trụ tín: nghĩa là người tin Phật, tin Pháp, tin Tăng và quy y với Phật, Pháp, Tăng; không giết hại, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu, ghi nhớ kĩ, thực hành, không trái phạm, những gì người này nói ra đều thật không dối.
- Nói một pháp trong ba pháp, hoặc ba-la-di, hoặc tăng-già-bà-thi-sa, hoặc ba-dật-đề, và tì-kheo ngồi ấy tự xác nhận ‘Tôi phạm tội này.’ Vậy cần xử trị một trong ba pháp, hoặc tăng-già-bà-thi-sa, hoặc ba-dật-đề, hoặc đúng như lời ưu-bà-tư trụ tín. Cần như pháp xử trị tì-kheo ấy. Đây gọi là pháp bất định: đây là nói, tì-kheo kia tự nói chỗ mình định đến, chỗ mình đến, hoặc ngồi, hoặc nằm, hoặc làm, nếu không tự nói thì đều như ưu-bà-tư nói mà trị tội.
2. Giới Ở Chỗ Trống
a. Duyên khởi
Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, tì-kheo Ca-lưu-đà-di là người đầu tiên phạm giới này. Nhân duyên cũng giống như giới trước, chỉ khác là lần này ở chỗ trống cho nên hai tội khác nhau.
b. Văn giới
Tì-kheo nào, cùng một người nữ, một mình ngồi tại chỗ trống, chỗ không thể hành dâm, nói lời thô tục. Có vị ưu-bà-tư trụ tín nói một trong hai pháp, hoặc tăng-già-bà-thi-sa, hoặc ba-dật-đề, và tì-kheo ngồi ấy tự xác nhận ‘Tôi phạm tội này.’ Vậy cần xử trị một trong hai pháp, hoặc tăng-già-bà-thi-sa, hoặc ba-dật-đề, hoặc đúng như lời ưu-bà-tư trụ tín. Cần như pháp xử trị tì-kheo ấy. Đây gọi là pháp bất định.
c. Giải thích
- Tì-kheo: nghĩa như trên.
- Cùng một người nữ, một mình ngồi tại chỗ trống: nghĩa là chỗ không có tường, vách và những vật ngăn che khác.
- Chỗ không thể hành dâm: nghĩa là chỗ không tiện lợi cho việc hành dâm.
Nói lời thô tục: tức nói việc dâm dục, khen ngợi hai đường tốt xấu.
- Có vị ưu-bà-tư trụ tín nói một trong hai pháp, hoặc tăng-già-bà-thi-sa, hoặc ba-dật-đề, và tì-kheo ngồi ấy tự xác nhận ‘Tôi phạm tội này.’ Vậy cần xử trị một trong hai pháp, hoặc tăng-già-bà-thi-sa, hoặc ba-dật-đề, hoặc đúng như lời ưu-bà-tư trụ tín. Cần như pháp xử trị tì-kheo ấy. Đây gọi là pháp bất định: Đây là nói, tì-kheo kia tự nói chỗ mình định đến, chỗ mình đến, hoặc ngồi, hoặc nằm, hoặc làm, nếu không tự nói thì đều như ưu-bà-tư nói mà trị tội. Trong đây không xác định được phạm tội nào, nên gọi là bất định.
Chư Đại đức! Tôi đã nói hai pháp bất định, nay xin hỏi chư Đại đức trong đây thanh tịnh không? (3 lần). Chư Đại đức trong đây thanh tịnh, vì các ngài đều im lặng. Việc này tôi ghi nhận như vậy.
Chư Đại đức! Đây là ba mươi pháp Ni-tát-kì ba-dật-đề,[45] nửa tháng tụng một lần, trích từ giới kinh.
1. Giới Chứa Y Dư Quá Hạn
a. Duyên khởi
Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ, cho phép tì-kheo giữ ba y không được có dư. Bấy giờ, nhóm sáu thầy tì-kheo chứa nhiều y dư, rồi hoặc sáng mặc, hoặc trưa mặc, chiều mặc. Sáu thầy kia, suốt ngày sửa sang, trau chuốt y phục, gôm lại và cất chứa. Các thầy tì-kheo đem việc ấy thưa Phật. Đức Phật quở trách rồi, nhân đó khai cho và chế lại giới này.
b. Văn giới
Tì-kheo nào, y đã xong, y ca-thi-na đã xả, cất chứa y dư, trong mười ngày không tịnh thí được phép chứa. Nếu quá mười ngày, ni-tát-kì ba-dật-đề.
- Tì-kheo: nghĩa như trên.
- Y đã xong: nghĩa là đã đủ ba y.
- Y ca-thi-na đã xả: nghĩa là đã qua thời gian giữ y công đức.
- Cất chứa y dư: Y có mười loại. Trường y: đó là dài bằng tám ngón tay của Như Lai và rộng bằng bốn ngón tay của Như Lai.
- Trong mười ngày không tịnh thí được phép chứa. Nếu quá mười ngày: ban đầu Đức Phật không cho phép chứa y dư, sau đó có người cúng tôn giả A-nan một cái y phấn tảo tốt, tôn giả A-nan muốn dâng y ấy cho tôn giả Ca-diếp nhưng sợ phạm, vì tôn giả Ca-diếp mười ngày mới trở về tinh xá, vì thế Phật cho phép chứa y dư đến mười ngày.
- Ni-tát-kì ba-dật-đề.
- Sự không phạm: có tám trường hợp không phạm: hoặc không được y, hoặc đã làm pháp tịnh thí, hoặc đem cho người, hoặc bị mất y, hoặc y cũ rách, hoặc may các vật không phải y, hoặc chiều ý của người thân, trái lại tám trường hợp vừa nêu thì đều phạm ni-tát-kì ba-dật-đề.
Nếu là y xả-đọa mà không chịu xả, lại đem đổi y khác thì phạm một ni-tát-kì ba-dật-đề và một đột-kiết-la. Y này xả-đọa nên xả cho Tăng, cho đến cho một người, không được biệt chúng xả, xả không thành thì phạm đột-kiết-la. Tì-kheo-ni cũng phạm giống như tì-kheo. Ba chúng dưới cho đến giới dưới cũng phạm đột-kiết-la.
- Trường hợp không phạm: hoặc cất chứa trong vòng mười ngày, hoặc làm pháp tịnh thí, hoặc đem cho người, hoặc nghĩ bị giặc cướp, hoặc nghĩ bị mất, hoặc nghĩ bị cháy, nước trôi. Nếu bị cướp y, bị mất y, nhận mặc. Hoặc người khác cho để làm mền. Hoặc có người đi xa gửi lại, trên đường đi người ấy qua đời. Những trường hợp như thế không làm pháp tịnh thí, không cho người, đều không phạm.
2. Giới Ngủ Lìa Y
a. Duyên khởi
Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy tì-kheo đem y gửi người bạn thân, đi đây đi đó. Người kia đem y ra phơi. Tì-kheo thấy vậy hỏi: Phật cho phép giữ ba y, không được có y dư, y này của ai? Người kia trình bày tường tận và bị các tì-kheo trách. Các tì-kheo đem việc ấy thưa Phật. Nhân đó, Đức Phật chế giới này.
b. Văn giới
Tì-kheo nào, y đã xong, y ca-thi-na đã xả, trong ba y, lìa một trong ba y ngủ đêm chỗ khác, trừ tăng yết-ma, ni-tát-kì ba-dật-đề.
c. Giải thích
- Tì-kheo: nghĩa như trên.
- Y đã xong, y ca-thi-na đã xả: như trên đã giải thích.
- Trong ba y: Tăng-già-lê, Uất-đa-la, An-đà-hội. Nhưng y có tất cả mười loại.
- Lìa một trong ba y ngủ đêm chỗ khác: trường hợp không bị mất y là ở trong tăng-già-lam chỉ có một cương giới. Trường hợp mất y là trong tăng-già-lam có một vài cương giới. Các cương giới như dưới bóng cây, bãi đất trống, trên xe, trên thuyền, thôn làng, nhà, giảng đường, nhà kho, lẫm những nơi riêng như thế này cũng như vậy. Tăng-già-lam đề cập ở đây như bốn loại đã được nói ở trên.
Cây nghĩa là bóng cây che đủ để một người ngồi thiền. Bãi đất trống là nơi phơi ngũ cốc. Trên xe hoặc là chỗ quay xe. Cương giới trên thuyền cũng như vậy. Thôn làng có bốn loại. Giảng đường hình thù có nhiều chỗ trống. Kho là nơi cất chứa các vật dụng. Lẫm là nơi cất chứa ngũ cốc.
A-lan-nhã không có giới hạn. Trong khoảng giữa tán cây, khoảng cách giữa mỗi cây là bằng bảy cung, mỗi cung như vậy dài bằng bốn khủy tay của người bình thường.
Giới của già-lam: cương giới của già-làm này không phải là cương giới của già-làm kia, cũng không phải là cương giới của cây, càng không phải cương giới của kho, lẫm v.v… Ngược lại, cương giới của các giới khác không phải là cương giới của tăng già-lam.
Cương giới của một tăng-già-lam ở bên cạnh một tăng-già-lam khác được tính bằng sức của người trung bình dùng đá, gạch ném đến chỗ nào thì đó gọi là giới của y. Cho đến cương giới của kho, lẫm cũng như vậy. Tì-kheo để y trong già-lam cho đến để ở dưới gốc cây mà ngủ, khi mặt trời chưa mọc, hoặc bỏ y, hoặc tay cầm y, hoặc đi đến chỗ ném đá, hoặc không bỏ y, hoặc tay cầm y, hoặc không đến được chỗ ném đá, tùy theo trường hợp lìa y mà phạm ni-tát-kì ba-dật-đề.
- Trừ Tăng yết-ma: bấy giờ có thầy tì-kheo mắc chứng bệnh càn tiêu, y tăng-già-lê phấn tảo quá nặng, vị ấy có việc phải đi lại đó đây, nhưng vì không thể mang theo được, thầy đem việc ấy bạch Phật, Phật bảo tì-kheo ấy xin ba lần rồi, bạch nhị yết-ma cho phép lìa y.
- Ni-tát-kì ba-dật-đề: ngoài ba y ra, nếu lìa các y khác thì phạm đột-kiết-la. Tì-kheo-ni phạm giống như tì-kheo.
- Trường hợp không phạm: Tăng đã làm pháp yết-ma cho phép được lìa y, mặt trời chưa mọc, hoặc tay cầm y, hoặc xả y, hoặc đến được chỗ đã ném đá, hoặc tưởng bị cướp y, hoặc bị ngăn sông cách biển, hoặc có nạn nguy cấp, hoặc bị giặc cướp, thú dữ, hoặc bị người bắt giữ lại, hoặc bị nạn có thể làm mất phạm hạnh, hoặc không lìa y và đến được nơi đã ném đá, tất cả những trường hợp trên đây đều không phạm.
3. Giới Xin Y Quá Thời Gian Một Tháng
a. Duyên khởi
Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, Phật chỉ cho tì-kheo giữ ba y. Có một tì-kheo y tăng-già-lê của thầy bị cũ rách, nhưng trước đó Phật chỉ cho phép chứa vải trong vòng mười ngày nên không đủ vải để may y khác. Cho nên Phật mới cho phép chứa vải dư đến khi nào đủ may y mới thôi. Bấy giờ, nhóm sáu thầy tì-kheo nhận những loại vải đồng loại không đủ rồi giặt, nhuộm, làm phép mặc tịnh, gửi cho người rồi đi giáo hóa. Các tì-kheo đem lỗi ấy thưa Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách rồi chế giới này.
b. Văn giới
Tì-kheo nào, y đã đủ, y ca-thi-na-đã xả, nếu tì-kheo được y vải phi thời, cần thì nhận; nhận rồi mau chóng may thành y; đủ thì tốt, không đủ thì được phép chứa một tháng, vì chờ cho đủ; nếu chứa quá hạn, Ni-tát-kì ba-dật-đề.
c. Giải thích
- Tì-kheo: nghĩa như trên.
- Y đã đủ, y ca-thi-na đã xả.
- Nếu tì-kheo được y vải phi thời: Đúng thời: nếu không có y ca-thi-na thì được nhận y trong vòng một tháng, tính từ sau ngày tự tứ. Nếu có y ca-thi-na thì thời gian nhận y là trong vòng năm tháng, kể từ ngày tự tứ trở về sau. Không đúng thời: là vượt quá thời gian cho phép vừa nói.
- Cần thì nhận; nhận rồi mau chóng may thành y; đủ thì tốt: Nếu trong vòng mười ngày mà nhận được đủ những vải cùng loại, cắt may như trên đã nói. Trường hợp không được đủ thì qua đến ngày thứ mười một, tùy theo vải nhiều hay ít đều phạm xả-đọa.
- Không đủ thì được phép chứa một tháng, vì chờ cho đủ: Nếu vải không cùng loại không đủ đến ngày thứ mười một vải cùng loại đủ, phải cắt may liền trong ngày. Trái lại, nếu để sang ngày thứ mười hai thì tùy theo số vải được nhiều hay ít đều phạm. Để đến ngày thứ hai mươi chín cũng phạm như vậy. Đến ngày thứ ba mươi, dù đủ hay không đủ, vải cùng loại hay không cùng loại ngay trong ngày ấy nên may.
- Nếu chứa quá hạn, ni-tát-kì ba-dật-đề.
Tì-kheo-ni cũng phạm như tì-kheo.
- Trường hợp không phạm: nếu trong vòng mười ngày có đủ vải cùng loại và may. Cho đến ngày thứ ba mươi, ngay trong ngày ấy may y. Ngoài ra các trường hợp khác cũng giống như giới chứa y dư.
4. Giới Nhận Y Của Tì-kheo-ni Không Phải Bà Con
a. Duyên khởi
Một thời, Đức Phật ở nước La-duyệt-kì. Bấy giờ, Tì-kheo-ni Liên Hoa Sắc mang thức ăn vào trong núi để cúng dường các thượng tọa. Khi ấy, có một thầy tì-kheo mặc y bá nạp cũ xấu; thấy vậy, Tì-kheo-ni Liên Hoa Sắc cởi y tốt của cô đổi cho tì-kheo kia. Sau đó, cô mặc y xấu rách kia đến gặp Phật. Đức Phật thấy lạ liền hỏi, mới biết là cô đổi y của tì-kheo kia. Nhân đó, Đức Phật quở trách tì-kheo kia và chế ra giới này.
b. Văn giới
Tì-kheo nào, thọ nhận y từ tì-kheo-ni chẳng phải thân quyến, trừ đổi chác, ni-tát-kì ba-dật-đề.
c. Giải thích
- Tì-kheo: nghĩa như trên.
- Từ tì-kheo-ni chẳng phải thân quyến: không phải thân quyến: nghĩa là không phải cha mẹ, không phải người thân, cũng không phải bà con trong bảy đời. Trái với những trường hợp trên là bà con. Nếu đã không phải bà con, cũng không suy tính có khả năng cúng hay không. Nếu là bà con cũng phải suy tính biết có y, không có y, có nên nhận hay không nên nhận. Hoặc tốt hoặc xấu, hoặc mới hoặc cũ v.v…
- Thọ nhận y: y thì có mười loại. Tì-kheo-ni muốn mặc y cũ rách nên đến xin phép Phật. Phật nói: “Không nên làm như vậy. Phật cho phép chứa năm y còn nguyên và chắc. Ngoài ra những y khác tùy ý làm phép tịnh thí hoặc cho người. Vì sao như vậy? Phụ nữ mặc y thượng hạng còn chưa đẹp huống gì mặc y cũ rách.”
- Trừ đổi chác: Bấy giờ, hai bộ Tăng được y mới chia đều; hai bên lấy nhằm của nhau. Phật nói: “Cho phép đổi cho nhau.”
Trao đổi: nghĩa là lấy y đổi y. Nếu không phải y, hoặc lấy những vật không phải y đổi lấy y; như kim khâu, ống tre, dao, chỉ, những vật ngắn nhỏ, hoặc chỉ một viên thuốc mà đổi lấy y.
- Ni-tát-kì ba-dật-đề: tì-kheo-ni phạm đột-kiết-la.
Trường hợp không phạm: nhận y của tì-kheo-ni bà con, hoặc trao đổi, hoặc vì Tăng, hoặc vì Phật mà lấy, thì đều không phạm.
5. Giới Nhờ Tì-kheo-ni Không Phải Bà Con Giặt Y Cũ
a. Duyên khởi
Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, tì-kheo Ca-lưu-đà-di và tì-kheo-ni Thâu-lan-đà, cả hai đều rất xinh đẹp, hai người đã có ý với nhau. Một hôm, hai người ngồi trò chuyện với nhau thì Ca-lưu-đà-di xuất tinh, làm dơ y An-đà-hội[46] mới bảo Thâu-lan-đà đem về giặt. Các tì-kheo đem việc ấy trình Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách Ca-lưu-đà-di và chế giới này.
b. Văn giới
Tì-kheo nào, khiến tì-kheo-ni chẳng phải thân quyến giặt y cũ, hoặc nhuộm, hoặc đập, ni-tát-kì ba-dật-đề.
c. Giải thích
- Tì-kheo: nghĩa như trên.
- Khiến tì-kheo-ni chẳng phải thân quyến: như trên đã nói. Nếu không phải là Thức-xoa, sa-di ni bà con mà giặt nhuộm, đập y cũ thì phạm đột-kiết-la.
- Giặt y cũ: Y cũ là y thậm chí chỉ mới mặc qua một lần. Nếu giặt, nhuộm, đập y mới thì phạm đột-kiết-la.
- Hoặc nhuộm, hoặc đập, ni-tát-kì ba-dật-đề: hoặc bảo, sai giặt, nhuộm, đập; hoặc làm qua làm lại phạm ba ni-tát-kì ba-dật-đề; hoặc chỉ một người làm, tùy người nào làm thì phạm đột-kiết-la.
- Trường hợp không phạm: hoặc vì bệnh nên nhờ giặt, nhuộm, đập; hoặc vì Tăng, vì Phật; hoặc mượn y người khác rồi giặt, nhuộm, đập tất cả đều không phạm.
6. Giới Xin Y Ở Người Thế Tục Không Phải Bà Con
a. Duyên khởi
Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, tì-kheo Bạt-nan-đà nói pháp cho mọi người nghe, nhân đó Bạt-nan-đà xin cái áo mà người kia đang mặc, miễn cưỡng lắm người kia mới cho Bạt-nan-đà. Sau khi cho rồi, người kia mặc áo chiếc đi vào thành và nói bị giặc ở trong Kì-hoàn cướp mất áo. Người đời vì thế mà cười chê, trách móc tì-kheo. Các thầy tì-kheo khác đem việc ấy trình Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.
b. Văn giới
Tì-kheo nào, xin y từ cư sĩ hay vợ cư sĩ không phải thân quyến, ni-tát-kì ba-dật-đề, trừ trường hợp đặc biệt. Trường hợp đặc biệt là nếu tì-kheo y bị cướp, y bị mất, y bị cháy, y bị nước cuốn trôi. Đây là trường hợp đặc biệt.
c. Giải thích
- Tì-kheo: nghĩa như trên.
- Xin y từ cư sĩ hay vợ cư sĩ không phải thân quyến: về giải thích chính văn cũng giống như trên.
- Ni-tát-kì ba-dật-đề, trừ trường hợp đặc biệt: tì-kheo-ni cũng phạm như tì-kheo.
- Trường hợp đặc biệt là nếu tì-kheo y bị cướp: Bấy giờ, có thầy tì-kheo bị cướp lột mất y phải ở trần mà đi. Phật nói không nên làm như thế. Nếu làm như vậy phạm đột-kiết-la. Nếu tì-kheo nào gặp phải trường hợp như vậy thì phải lấy cỏ mềm, lá cây che thân rồi đến chùa bên cạnh, hoặc lấy y dư, hoặc lấy y của người bạn quen biết bên cạnh. Nếu không có thì nên vào trong Tăng hỏi lấy y định chia. Nếu vẫn không có thì hỏi lấy y, ngọa cụ của Tăng. Nếu không cho thì tự vào kho xem, hoặc rọc nệm, mền cắt lấy may y rồi ra ngoài xin y. Nếu xin được y rồi trở lại giặt, nhuộm khâu trở lại và để lại chỗ cũ. Nếu không để lại chỗ cũ thì theo phép mà xử trị.
- Y bị mất, y bị cháy, y bị nước cuốn trôi. Đây là trường hợp đặc biệt.
- Trường hợp không phạm: nếu gặp trường hợp bị cướp, bị mất y xin người không phải bà con, hoặc xin người thân, hoặc xin người xuất gia, hoặc xin giúp cho người khác, hoặc người khác xin cho mình, hoặc không xin mà người ta tự cho, tất cả đều không phạm.
7. Giới Lấy Y Quá Phần
a. Duyên khởi
Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, có nhiều thầy tì-kheo trên đường trở về tinh xá Kì-hoàn gặp cướp, bị cướp mất y. Khi các tì-kheo này về đến Kì-hoàn, có các cư sĩ biết được việc ấy, họ cùng nhau đem nhiều vải vóc đến cúng dường các thầy tì-kheo. Các thầy tì-kheo nói với các cư sĩ: Thôi đi! Các cư sĩ chớ vì việc ấy mà cúng dường, các thầy tì-kheo đều đã đủ ba y rồi, cho nên không cần nữa. Bấy giờ, nhóm sáu thầy tì-kheo nói: ‘Cứ nhận rồi đem cho chúng tôi.’Các thầy tì-kheo kia nghe vậy liền nhận và đem cho nhóm sáu thầy tì-kheo. Các thầy tì-kheo đem việc lầm lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.
b.Văn giới:
Tì-kheo nào, y bị mất, y bị cướp, y bị cháy, y bị nước cuốn trôi, nếu có cư sĩ, vợ cư sĩ không phải thân quyến, đem cho nhiều y yêu cầu tùy ý nhận. Tì-kheo ấy nên biết đủ mà nhận. Nếu nhận quá, ni-tát-kì ba-dật-đề.
c. Giải thích
- Tì-kheo: nghĩa như trên.
- Y bị mất, y bị cướp, y bị cháy, y bị nước cuốn trôi: Nếu bị mất một y, không được nhận vải. Nếu mất hai y, chỉ còn lại một y. Y ấy hoặc hai lớp, ba lớp, bốn lớp, nên rọc y ấy ra để may Tăng-già-lê,[47] Uất-đa-la-tăng,[48] An-đà-hội.
- Nếu có cư sĩ, vợ cư sĩ không phải thân quyến: đều được giải thích như trên.
- Đem cho nhiều y yêu cầu tùy ý nhận: nếu có cư sĩ cúng nhiều vải, hoặc loại vải rẻo, hoặc vải mỏng, hoặc không bền chắc, nên may làm hai lớp, ba lớp, bốn lớp, nên may làm viền y, nên gấp lại để trên vai chỗ hay ra mồ hôi, nên dùng thắt nút. Nếu còn dư nên nói với cư sĩ: đây là những vải dư, cắt may gì? Nếu người cúng nói: không phải vì ngài mất y mà chúng con cúng vải. Chúng con tự ý dâng cúng cho quý Đại đức. Nếu có nhu cầu thì nên nhận.
- Tì-kheo ấy nên biết đủ mà nhận: nếu cả ba y đều bị mất, tì-kheo kia nên biết đủ mà nhận. Biết đủ có hai trường hợp: 1. Người tại gia biết đủ: nghĩa là tùy khả năng người tại gia cúng bao nhiêu nhận bấy nhiêu. 2. Người xuất gia biết đủ: chỉ ba y.
- Nếu quá: nghĩa là mất một y thì nhận một y, nếu mất cả ba y như đã quy định.
- Ni-tát-kì ba-dật-đề: tì-kheo-ni cũng phạm giống như tì-kheo.
- Trường hợp không phạm: hoặc biết đủ mà nhận, hoặc nhận ít hơn sự cho phép, hoặc cúng nhiều vải, hoặc vải rẻo, vải mỏng, vải không bền chắc, hoặc may làm hai ba lớp, nếu có dư, như trên đã nói; tất cả đều không phạm.
8. Giới Khuyến Khích Cư Sĩ Cúng Thêm Tiền May Y
a. Duyên khởi
Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, có hai vợ chồng người cư sĩ kia bàn với nhau: ‘Bạt-nan-đà là bạn cũ của chúng ta, chúng ta nên đem tiền may y, mua vải cúng cho thầy ấy.’ Khi ấy, có một tì-kheo khất thực đi ngang tình cờ nghe được về nói cho Bạt-nan-đà biết. Sau đó, Bạt-nan-đà tìm đến nhà người kia, khuyến khích họ nên may mới, y rộng lớn, bền chắc. Vì thế, bị người đời chê cười. Các tì-kheo đem việc ấy thưa Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.
b. Văn giới
Tì-kheo nào, có hai cư sĩ hay vợ cư sĩđể dành tiền sắm y cho tì-kheo, đều nói rằng: ‘Ta để dành tiền may y như vậy dâng cúng cho tì-kheo có tên như vậy.’ Tì-kheo ấy trước chưa nhận được sự yêu cầu tùy ý của cư sĩ, mà đến hai nhà cư sĩ, nói như vầy: ‘Lành thay, để dành tiền như vậy, như vậy để sắm y cho tôi. Hãy chung lại làm một cái y.’ Vì muốn đẹp. Nếu nhận được, ni-tát-kì ba-dật-đề.
- Tì-kheo: nghĩa như trên.
- Có hai cư sĩ hay vợ cư sĩ: như trên đã giải thích.
- Để dành tiền sắm y cho tì-kheo: nghĩa là hoặc lấy tiền, hoặc vàng, bạc, chân châu, lưu li, hoặc ngọc thạch, hoặc chuỗi báu, chất giống vàng, cho đến mười loại y.
- Đều nói rằng: ‘Ta để dành tiền may y như vậy dâng cúng cho tì-kheo có tên như vậy.’ Tì-kheo ấy trước chưa nhận được sự yêu cầu tùy ý của cư sĩ: nếu được hứa cúng thì phải hỏi cần y gì? Phật cho phép những tì-kheo muốn ít, biết đủ được xin những y bị thiếu.
- Mà đến hai nhà cư sĩ, nói như vầy: ‘Lành thay, để dành tiền như vậy, như vậy để sắm y cho tôi. Hãy chung lại làm một cái y.’ Vì muốn đẹp: Xin có hai trường hợp: 1. Xin tiền: nói đàn-việt[49] cúng tiền may đại y, cho đến xin tăng thêm một tiền, một phần trong mười sáu phần. 2. Xin y: nói với cư sĩ rằng, nên may y dài, rộng, cho đến chỉ tăng thêm một sợi chỉ.
- Nếu nhận được, ni-tát-kì ba-dật-đề: tì-kheo-ni cũng phạm giống như tì-kheo.
- Trường hợp không phạm: đã nhận được lời hứa tùy ý trước rồi mới đến; xin vừa đủ, xin ít hơn lượng mình cần, xin từ người thân, xin của người xuất gia, hoặc xin giúp cho người khác, người khác xin cho mình, hoặc không xin mà tự được.
9. Giới Khuyến Khích Hai Nhà Tăng Tiền May Y
a. Duyên khởi
Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, có hai vợ chồng hai gia đình kia bàn với nhau, định cúng tiền may y cho tì-kheo Bạt-nan-đà. Có tì-kheo khất thực tình cờ nghe được mới mách với Bạt-nan-đà. Tì-kheo Bạt-nan-đà liền tìm đến hai gia đình kia khuyến khích họ may y. Các cư sĩ nghe vậy chê cười. Các thầy tì-kheo đem việc ấy trình Phật. Nhân đó, Đức Phật chế giới này.
b. Văn giới
Nếu tì-kheo nào, có hai cư sĩ hay vợ cư sĩđể dành tiền sắm y cho tì-kheo, đều nói rằng: ‘Ta để dành tiền may y như vậy dâng cúng cho tì-kheo có tên như vậy.’ Tì-kheo ấy, trước chưa nhận được sự yêu cầu tùy ý của cư sĩ, mà đến hai nhà cư, nói như vầy: ‘Lành thay, để dành tiền như vậy, như vậy để sắm y cho tôi. Hãy chung lại làm một cái y.’ Vì muốn đẹp. Nếu nhận được, ni-tát-kì ba-dật-đề.
Phần giới tướng, trường hợp phạm, trường hợp không phạm, đều giống như giới trên.
10. Giới Đòi Y Gấp Quá Thời Hạn
a. Duyên khởi
Một thời, Đức Phật ở tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, trong thành La-duyệt có vị đại thần là bạn thân với tì-kheo Bạt-nan-đà, nên thường lui tới thăm Bạt-nan-đà. Một hôm, ông ta sai người đem tiền may y đến đưa cho tì-kheo Bạt-nan-đà. Tì-kheo Bạt-nan-đà đem tiền may y ấy gửi lại cho một người khác.[50] Sau đó, nhân có việc Bạt-nan-đà đến đòi gấp, vì thế bị người kia mắng. Những người đời thấy vậy cười chê tì-kheo. Các tì-kheo khác đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật chế giới này.
b. Văn giới
Tì-kheo nào, hoặc vua, hoặc đại thần, hoặc bà-la-môn, hoặc cư sĩ, hay vợ cư sĩ, sai sứ mang tiền sắm y đến tì-kheo bảo rằng: ‘Hãy mang số tiền sắm y như vậy cho tì-kheo có tên như vậy.’ Người xứ kia đến chỗ tì-kheo, nói với tì-kheo rằng: ‘Đại đức, nay tiền sắm y này được gửi đến ngài, ngài hãy nhận.’ Tì-kheo ấy nên nói với người kia rằng: ‘Tôi không được phép nhận tiền may y này, khi nào cần hợp thời và thanh tịnh tôi sẽ nhận.’ Vị sứ kia nên hỏi tì-kheo rằng: ‘Đại đức có người chấp sự[51] không?’ Tì-kheo cần y nên nói: ‘Có’, và chỉ người dân trong tăng-già-lam, hoặc ưu-bà-tắc, nói rằng: ‘Đó là người chấp sự của tì-kheo, thường chấp sự cho các tì-kheo.’ Bấy giờ, sứ giả đến chỗ người chấp sự, trao số tiền sắm y rồi, trở lại chỗ tì-kheo, nói như vầy: ‘Đại đức, tôi đã trao số tiền sắm y cho người chấp sự mà Đại đức chỉ đó, khi nào Đại đức cần, đến đó sẽ được y.’ Tì-kheo khi cần nên đến chỗ người chấp sự, hoặc hai lần, ba lần để cho họ nhớ lại, hoặc bằng cách nói rằng: ‘Tôi cần y.’ Hoặc hai lần, hoặc ba lần khiến cho họ nhớ lại. Nếu nhận được y thì tốt. Bằng không được y thì bốn lần, năm lần, sáu lần, đứng im lặng trước họ. Nếu bốn lần, năm lần, sáu lần, đứng im lặng trước người đó mà nhận được y thì tốt; bằng không được y mà cố cầu quá giới hạn đó, nếu được y, ni-tát-kì ba-dật-đề. Nếu không được y thì tự chính mình, hoặc sai sứ đến chỗ người xuất tiền sắm ý nói rằng: ‘Trước đây, ngài sai sứ mang tiền sắm y cho tì-kheo có tên như vậy; tì-kheo ấy cuối cùng không nhận được y. Ngài nên lấy tiền lại, đừng để mất. Như vậy là hợp thức.’
c. Giải thích
- Tì-kheo nào: nghĩa như trên.
- Hoặc vua: là người được tự do không bị bất cứ ràng buộc nào.
- Hoặc đại thần: là những người hầu bên cạnh vua.
- Hoặc bà-la-môn: là người có đời sống như các đạo sĩ Bà-la-môn.
- Hoặc cư sĩ: trừ vua, đại thần, bà-la-môn, những người tại gia khác đều gọi là cư sĩ.
- Vợ cư sĩ: tà vợ của những người tại gia.
- Sai sứ mang tiền sắm y đến tì-kheo bảo rằng: như đã giải thích ở trên.
- ‘Hãy mang số tiền sắm y như vậy cho tì-kheo có tên như vậy.’ Người xứ kia đến chỗ tì-kheo, nói với tì-kheo rằng: ‘Đại đức, nay tiền sắm y này được gửi đến ngài, ngài hãy nhận.’ Tì-kheo ấy nên nói với người kia rằng: ‘Tôi không được phép nhận tiền may y này, khi nào cần hợp thời và thanh tịnh tôi sẽ nhận.’ Vị sứ kia nên hỏi tì-kheo rằng: ‘Đại đức có người chấp sự không?’ Tì-kheo cần y nên nói: ‘Có’, và chỉ người dân trong Tăng-già-lam, hoặc ưu-bà-tắc, nói rằng: ‘Đó là người chấp sự của tì-kheo, thường chấp sự cho các tì-kheo.’ Bấy giờ, sứ giả đến chỗ người chấp sự, trao số tiền sắm y rồi, trở lại chỗ tì-kheo, nói như vầy: ‘Đại đức, tôi đã trao số tiền sắm y cho người chấp sự mà Đại đức chỉ đó, khi nào Đại đức cần, đến đó sẽ được y.’ Tì-kheo khi cần nên đến chỗ người chấp sự, hoặc hai lần, ba lần để cho họ nhớ lại, hoặc bằng cách nói rằng: ‘Tôi cần y.’: làm cho họ nhớ là: hoặc người giúp việc, hoặc đang ở nhà, đang ở chợ, ở công sở, nên đến chỗ người ấy một, hai, ba lần; nói rằng: ‘Nay tôi cần y nên may y cho tôi.’
- Hoặc hai lần, hoặc ba lần khiến cho họ nhớ lại. Nếu nhận được y thì tốt. Bằng không được y thì bốn lần, năm lần, sáu lần, đứng im lặng trước họ.: người giúp việc kia hoặc ở nhà, hoặc ở chợ, hoặc ở công sở, tì-kheo nên đến trước chỗ người kia đứng im lặng. Người giúp việc cho tì-kheo kia hỏi: ‘Vì việc gì thầy đứng ở đây?’ Tì-kheo nói: ‘Ông tự phải biết việc đó.’
Nếu người kia nói: ‘Nay tôi không biết, có người nào khác biết không?’ Tì-kheo phải nói cho người kia biết việc đó. Đây là trường hợp giữ im lặng.
- Nếu bốn lần, năm lần, sáu lần, đứng im lặng trước người đó mà nhận được y thì tốt: nếu lập lại một lần là phá đi hai lần im lặng, cho đến nói đi nói lại ba lần tức là phá sáu lần im lặng.
- Bằng không được y mà cố cầu quá giới hạn đó, nếu được y, ni-tát-kì ba-dật-đề.: tì-kheo-ni phạm cũng như tì-kheo.
- Nếu không được y thì tự chính mình, hoặc sai sứ đến chỗ người xuất tiền sắm ý nói rằng: ‘Trước đây, ngài sai sứ mang tiền sắm y cho tì-kheo có tên như vậy; tì-kheo ấy cuối cùng không nhận được y. Ngài nên lấy tiền lại, đừng để mất. Như vậy là hợp thức.
- Trường hợp không phạm: hoặc sai người báo cho biết, hoặc người kia nói: nay tôi không cần nên đem cúng người khác. Tì-kheo đó lựa lúc thích hợp dùng lời ôn hòa mà đòi y; hoặc vì làm ba-lợi-ca-la, cho nên lựa lúc thích hợp dùng lời ôn hòa mà đòi, hoặc tùy nghi mà đòi được y.
11. Giới May Ngọa Cụ Bằng Tơ Tằm
a. Duyên khởi
Một thời, Đức Phật ở nước Khoáng-dã. Bấy giờ, nhóm sáu thầy tì-kheo đến nhà nuôi tằm xin những loại tơ tằm chưa thành, những loại tơ tằm đã thành và những loại tơ tằm tạp nhạp để may ngọa cụ. Hoặc xem người ta phơi kén, hàng cư sĩ chê cười, cho là giết hại mạng sống, chẳng phải chính pháp. Các thầy tì-kheo đem lỗi bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.
b. Văn giới
Tì-kheo nào, làm ngọa cụ mới bằng loại tơ tằm tạp, ni-tát-kì ba-dật-đề.
c. Giải thích
- Tì-kheo: nghĩa như trên.
- Làm ngọa cụ mới bằng loại tơ tằm tạp, ni-tát-kì: tạp: hoặc lông, hoặc kiếp cụ,[52] hoặc vải, hoặc các loại tơ sợi. Những loại tơ tằm bị bỏ thì hoặc dùng búa, rìu, bầm, chặt ra rồi trộn với bùn dùng để trét vách.
- Ba-dật-đề: hoặc tự mình làm, hoặc bảo người làm, làm thành thì đều phạm. Làm không thành phạm đột-kiết-la. Nếu làm cho người, thành phạm đột-kiết-la. Tì-kheo-ni làm phạm đột-kiết-la.
- Trường hợp không phạm: nếu xin được loại tơ tằm đã thành rồi dùng búa bầm trộn với bùn để trét tường, bôi lên đất, thì không phạm.
12. Giới Dùng Lông Màu Đen May Ngọa Cụ
a. Duyên khởi
Một thời, Đức Phật ở nước Tì-xá-li. Bấy giờ, các Lê-xa Tử làm nhiều việc bất chính, họ may những áo choàng bằng loại lông toàn màu đen trùm kín thân đi trong đêm tối, làm cho mọi người không thấy. Bấy giờ, nhóm sáu thầy tì-kheo thấy vậy liền làm theo và bị các Lê-xa chê cười. Các tì-kheo đem việc ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật nhân đó mà chế giới này.
b. Văn giới
Tì-kheo nào, làm ngọa cụ mới bằng lông dê toàn đen, nâu, ni-tát-kì ba-dật-đề.
c. Giải thích
- Tì-kheo: nghĩa như trên.
- Bằng lông dê toàn đen, nâu: hoặc lông đã đen sẵn, hoặc do nhuộm thành đen.
- Làm ngọa cụ mới, ni-tát-kì ba-dật-đề: hoặc tự mình may, bảo người may, may cho người, đều phạm giống như giới vừa nói trên. Tì-kheo-ni phạm đột-kiết-la.
- Trường hợp không phạm: hoặc được cái ngọa cụ đã may sẵn, hoặc cắt, rọc cho rách, hoặc nhỏ, mỏng, vá làm hai lớp, hoặc chỉ là cái tọa cụ nhỏ, hoặc may mền, hoặc may mũ, hoặc may áo lót, hoặc may khăn lau mồ hôi, hoặc may vớ, tất cả đều không phạm.
13. Giới Dùng Lông Trắng May Ngọa Cụ
a. Duyên khởi
Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy tì-kheo dùng lông dê toàn màu trắng may ngọa cụ mới, bị hàng cư sĩ chê cười, họ bảo giống như vua và đại thần. Các tì-kheo đem việc ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.
b. Văn giới
Tì-kheo nào, làm ngọa cụ mới thì nên dùng hai phần lông dê toàn màu đen, phần thứ ba màu trắng, phần thứ tư màu xám. Nếu tì-kheo không dùng hai phần đen, phần thứ ba trắng, phần thứ tư xám mà làm ngọa cụ mới, ni-tát-kì ba-dật-đề.
c. Giải thích
- Tì-kheo: nghĩa như trên.
- Làm ngọa cụ mới thì nên dùng hai phần lông dê toàn màu đen, phần thứ ba màu trắng, phần thứ tư màu xám:
Màu trắng: hoặc sinh ra lông đã có màu trắng sẵn, hoặc nhuộm cho lông thành màu trắng. Lông: là loại lông mọc ở phần đầu, ở trên tai, ở chân, hoặc loại lông lẫn lộn nhiều màu khác nhau. Nếu muốn may ngọa cụ bốn mươi bát-la[53] thì dùng hai mươi bát-la lông màu đen, mười bát-la lông trắng, mười bát-la lông nhiều màu. Cho đến ngọa cụ hai mươi bát-la cũng nên theo lượng trên mà tính lường cho thích hợp.
- Nếu tì-kheo không dùng hai phần đen, phần tứ ba trắng, phần thứ tư xám mà làm ngọa cụ mới, ni-tát-kì ba-dật-đề: hoặc tự may, bảo người may, hoặc may cho người đều phạm. Tì-kheo-ni phạm đột-kiết-la.
- Trường hợp không phạm: may đúng lượng, được ngọa cụ đã may sẵn. Ngoài ra các trường hợp khác đều giống như giới trên.
14. Giới Ngọa Cụ Chưa Đủ Sáu Năm
a. Duyên khởi
Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy tì-kheo chê ngọa cụ cũ, hoặc nặng, nhẹ, dày, mỏng, nhưng không xả ngọa cụ cũ mà may thêm ngọa cụ mới khác, thường tìm xin, cất chứa thật nhiều. Các tì-kheo đem việc ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.
b. Văn giới
Tì-kheo nào, làm ngọa cụ mới, phải thụ trì cho đến sáu năm. Nếu chưa đủ sáu năm, không xả, mà lại làm cái mới, trừ Tăng yết-ma, ni-tát-kì ba-dật-đề.
c. Giải thích
- Tì-kheo: nghĩa như trên.
- Làm ngọa cụ mới, phải thụ trì cho đến sáu năm. Nếu chưa đủ sáu năm, không xả, mà lại làm cái mới: hoặc may cho mình, hoặc bảo người may, hoặc may cho người; đều giống như giới trên.
- Trừ Tăng yết-ma: Bấy giờ, có một thầy tì-kheo mắc chứng bệnh càn-tiêu mà y phấn tảo và ngọa cụ quá nặng, tì-kheo ấy không đủ sức để mang theo; Phật dạy nên đến trong Tăng xin ba lần rồi được may ngọa cụ mới. Tăng nên làm pháp bạch nhị cho tì-kheo đó được phép may ngọa cụ mới.
- Ni-tát-kì ba-dật-đề: tì-kheo-ni phạm đột-kiết-la.
- Trường hợp không phạm: Tăng cho phép, hoặc đủ sáu năm, hoặc chưa được sáu năm mà bỏ cái cũ thì được may cái mới. Hoặc được cái đã may sẵn, hoặc không may, hoặc được người khác may cho; tất cả đều không phạm.
15. Giới Không May Chồng Lên Trên Tọa Cụ Mới
a. Duyên khởi
Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, đến giờ Phật bảo các tì-kheo đi thụ thực. Như thường lệ, sau khi các tì-kheo đi thụ thực, Ngài dạo khắp các phòng, thấy những tọa cụ cũ bị vứt bỏ bừa bãi mà không ai thu dọn. Vì các tì-kheo chê những cái này dày, mỏng, nhẹ, nặng rồi may thêm cái mới. Vì thế, Đức Phật dạy lấy cái cũ may đắp lên cái mới. Sau đó, nhóm sáu thầy tì-kheo không tuân thủ. Các tì-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật chế giới này.
b. Văn giới
Tì-kheo nào, may tọa cụ mới, phải lấy một miếng của cái cũ vuông vức một gang tay, may lên trên cái mới, cho hoại sắc. Nếu may tọa cụ mới, không lấy một miếng của cái cũ vuông vức một gang tay đắp lên trên cái mới, cho hoại sắc, ni-tát-kì ba-dật-đề.
c. Giải thích
- Tì-kheo: nghĩa như trên.
- May tọa cụ mới, phải lấy một miếng của cái cũ vuông vức một gang tay, may lên trên cái mới, cho hoại sắc: nếu lúc người kia may tọa cụ mới mà cái tọa cụ cũ chưa hư rách, chưa bị thủng thì phải lấy cái cũ giặt, nhuộm sửa lại, rồi kéo cho giãn ra cắt lấy ngang rộng một gang tay may đắp lên ngọa cụ mới; hoặc may xung quanh, hoặc may ở giữa, vì làm cho cái mới bớt sặc sỡ.
- Nếu may tọa cụ mới, không lấy một miếng của cái cũ vuông vức một gang tay đắp lên trên cái mới, cho hoại sắc, ni-tát-kì ba-dật-đề: hoặc tự may cho mình, hoặc bảo người may, hoặc mình may cho người khác, may thành thì phạm giống như giới trên. Tì-kheo-ni phạm đột-kiết-la.
- Trường hợp không phạm: cắt lấy cái cũ may đắp lên cái mới. Hoặc người kia không có tọa cụ, nay may cái mới; hoặc may cho người; hoặc được cái đã may xong, hoặc cái hoàn toàn cũ, tất cả đều không phạm.
16. Mang Lông Dê Đi Quá Giới Hạn
a. Duyên khởi
Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, tì-kheo Bạt-nan-đà có được lông dê, thầy treo trên đầu gậy quẩy đi, các cư sĩ thấy vậy chê cười, cho rằng tì-kheo buôn bán lông dê. Các thầy tì-kheo khác đem việc ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật chế giới này.
b. Văn giới
Tì-kheo nào, khi đi đường được lông dê, nếu không có người mang, tự mình được mang đi cho đến ba do-tuần. Nếu không có người mang, tự mình mang đi quá ba do-tuần, ni-tát-kì ba-dật-đề.
c. Giải thích
- Tì-kheo: nghĩa như trên.
- Khi đi đường được lông dê, nếu không có người mang, tự mình được mang đi cho đến ba do-tuần: hoặc đang đi trên đường, hoặc tại chỗ ở được lông dê, nếu cần thì nên nhận, không có người mang, tự mang đi trong vòng ba do-tuần. Nếu có người nên nói với người kia: ‘Tôi có vật này xin mang giúp cho tôi đến chỗ kia.’ Trong suốt đoạn đường ấy, tì-kheo không được mang giúp, nếu mang phụ phạm đột-kiết-la. Nếu bảo tì-kheo-ni, bốn chúng mang quá ba do-tuần thì phạm đột-kiết-la. Ngoài lông dê, nếu mang các loại vải khác hoặc đay gai v.v…phạm đột-kiết-la. Gánh các vật khác trên đầu gậy cũng phạm đột-kiết-la.
- Nếu không có người mang, tự mình mang đi quá ba do-tuần, ni-tát-kì ba-dật-đề.: tì-kheo-ni phạm đột-kiết-la.
- Trường hợp không phạm: chỉ mang trong vòng ba do-tuần, chưa tới ba do-tuần, có người mang giúp, nhờ người mang nhưng không mang phụ, nhờ tì-kheo-ni và bốn chúng mang trong vòng ba do-tuần, hoặc mang lông mịn, dây bằng lông, hoặc mang loại lông mọc trên đầu, may làm mũ, khăn, tất cả đều được.
17. Giới Bảo Tì-kheo-ni Không Phải Bà Con Nhuộm Lông Dê
a. Duyên khởi
Một thời, Đức Phật ở nước Ca-duy-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy tì-kheo đem lông dê nhờ Tì-kheo-ni giặt, nhuộm, xé ra. Khi ấy, có tì-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề vì nhuộm lông dê, màu nhuộm còn dính trên tay. Tì-kheo-ni đến lễ dưới chân Phật và đứng qua một bên. Đức Phật biết nhưng cố hỏi. Sau khi nghe xong sự việc, Đức Phật quở trách nhóm sáu thầy tì-kheo và chế giới này.
b. Văn giới
Tì-kheo nào, sai tì-kheo-ni không phải thân quyến giặt, nhuộm, chải lông dê, ni-tát-kì ba-dật-đề.
c. Giải thích
Tì-kheo-ni phạm đột-kiết-la.
Phần chế giới, phạm, không phạm đều giống như giới giặt y cũ.
18. Giới Chứa Tiền Và Vật Báu
a. Duyên khởi
Một thời, Đức Phật ở thành La-duyệt. Bấy giờ, có vị đại thần chuẩn bị thức ăn để dâng cúng cho tì-kheo Bạt-nan-đà. Người con của vị đại thần kia dùng năm tiền đổi lấy thức ăn ấy. Sau đó, Bạt-nan-đà đến lấy năm tiền và đem ra chợ gửi. Các tì-kheo quở trách, vua và đại thần bàn tán. Nhân đó, Đức Phật giảng dạy, dẫn dụ, quở trách và chế giới này.
b. Văn giới
Tì-kheo nào, tự tay cầm tiền, hoặc vàng bạc, hoặc bảo người cầm, hoặc nhận từ dưới đất, ni-tát-kì ba-dật-đề.
c. Giải thích
- Tiền: trên mặt có hoa văn và hình tượng.
- Tì-kheo nào, tự tay cầm tiền, hoặc vàng bạc, hoặc bảo người cầm, hoặc nhận từ dưới đất, ni-tát-kì: cách xả trong giới này là: Giả như chỗ kia có người làm vườn đáng tin cậy, hoặc ưu-bà-tắc, tì-kheo nên nói với người kia rằng: Những thứ này không thích hợp với tôi, anh phải biết điều đó. Nếu người kia lấy rồi trao lại cho tì-kheo, tì-kheo nên vì người kia mà nhận những vật đó rồi đưa cho tịnh nhân cất giữ. Nếu được y bát đúng như pháp, nên đem đổi, nhận lấy giữ để sử dụng. Nếu người ưu-bà-tắc kia đã nhận rồi, trao cho tì-kheo y bát đúng như pháp, thì tì-kheo nên nhận giữ và sử dụng.
- Ba-dật-đề: tì-kheo-ni phạm giống như tì-kheo. Nếu không nói cho người kia biết vật đó, chỉ cho xem vật đó, đột-kiết-la.
- Trường hợp không phạm: hoặc nói cho biết, chỉ cho biết vật đó, pháp xả như trên. Nếu người kia không chịu đưa y bát, tì-kheo khác nói với người kia: ‘Phật dạy, vì để hợp pháp nên mới đưa cho anh, anh nên hoàn trả vật ấy cho tì-kheo.’ Nếu người kia vẫn không chịu trả lại, tì-kheo ấy tự đến nói với người kia: ‘Phật dạy tì-kheo phải làm pháp tịnh thí cho anh, anh nên trao lại cho Tăng, cho tháp, hòa thượng, tri thức và người cúng, chớ có ý định làm mất tài vật của người cúng kia.
19. Giới Buôn Bán Tiền Tài Bảo Vật
a. Duyên khởi
Một thời, Đức Phật ở tại thành La-duyệt-kì. Bấy giờ, tì-kheo Bạt-nan-đà đi vào chợ, lấy tiền đổi tiền, hàng cư sĩ chê cười và nói: “Tì-kheo buôn bán giỏi quá!” Chư tì-kheo nghe được đem việc ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách rồi chế giới.
b. Văn giới
Tì-kheo nào, kinh doanh tiền tài bảo vật, dưới mọi hình thức, ni-tát-kì ba-dật-đề.
c. Giải thích
- Tì-kheo: nghĩa như trên.
- Kinh doanh tiền tài bảo vật, dưới mọi hình thức: hoặc lấy loại vàng đã thành phẩm đổi vàng chưa thành phẩm; vàng chưa thành phẩm đổi vàng đã thành phẩm; vàng đã thành phẩm đổi vàng chưa thành phẩm; bạc cũng có ba cách đổi như vậy, riêng tiền thì chỉ có một đổi. Có tám loại tiền: tiền làm bằng vàng, tiền bạc, tiền đồng, tiền sắt, tiền bạch lạp, tiền chì, tiền gỗ và tiền làm bằng hồ giao.
- Ni-tát-kì ba-dật-đề: tì-kheo-ni cũng phạm giống như tì-kheo. Ngoài ra, cách xả, khai đều giống nhau và cách thức đòi châu báu cũng giống giới trước.
- Trường hợp không phạm: hoặc lấy tiền, vật quý đổi chuỗi hạt và vật dụng; hoặc lấy tiền đổi tiền, hoặc vì Phật, Pháp, Tăng.
20. Giới Buôn Bán
a. Duyên khởi
Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, tì-kheo Bạt-nan-đà đến một thôn không có trú xứ lấy gừng tươi đem đổi thức ăn. Ăn xong mang bát đi. Sau đó, tôn giả Xá-lợi-phất đến khất thực, đàn-việt đem chuyện của Bạt-nan-đà trình bày với tôn giả Xá-lợi-phất nghe. Tôn giả hổ thẹn không nói lời nào. Bạt-nan-đà còn đem y đổi với ngoại đạo, sau đó hối hận xin đổi lại nhưng không được. Chư tì-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật chế giới này.
b. Văn giới
Tì-kheo nào, kinh doanh mậu dịch dưới mọi hình thức, ni-tát-kì ba-dật-đề.
c. Giải thích
- Tì-kheo: nghĩa như trên.
- Dưới mọi hình thức: lấy thuốc đúng thời đổi thuốc đúng thời, thuốc không đúng thời, thuốc bảy ngày, thuốc trọn đời, ba-lợi-ca-la, như thế trao đổi lẫn nhau. Cho đến lấy y đổi y.
- Kinh doanh mậu dịch: nghĩa là vật có giá trị một tiền nhưng nhiều lần nâng giá lên, hạ giá xuống. Nâng bán giá: nghĩa là giá chỉ một tiền mà nói ba tiền. Lại nâng giá bán: nghĩa là giá đáng một tiền mà nói năm tiền. Mua cũng như vậy. Tất cả đều phạm.
- Ni-tát-kì ba-dật-đề: tì-kheo-ni cũng phạm giống như tì-kheo.
- Trường hợp không phạm: cho phép năm chúng xuất gia đổi với nhau, nhưng phải tự thẩm định, không cùng nhau so đo cao thấp như cách làm của người ngoài chợ; không được đổi với người ngoài, sai tịnh nhân đổi, nếu người kia đổi ý thì nên cho đổi lại, hoặc đổi sữa, dầu đều không phạm.
21. Chứa Bát Quá Thời Hạn
a. Duyên khởi
Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ nhóm sáu thầy tì-kheo chứa bát, bát nào xấu thì bỏ, thường tìm bát tốt, chứa bát rất nhiều. Hàng cư sĩ dạo quanh thấy vậy liền chê cười: “Chẳng khác gì lò đúc của người thợ gốm.” Chư tì-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.
b. Văn giới
Tì-kheo nào, chứa bát dư, không tịnh thí, được phép chứa trong hạn mười ngày. Quá hạn, ni-tát-kì ba-dật-đề.
c. Giải thích
- Tì-kheo: nghĩa như trên.
- Chứa bát dư: bát có sáu loại: bát bằng sắt, bát đen, bát đỏ, bát nước ở Tô-ma, bát ở nước Ô-già-la, bát ở nước Ưu-già-xa, nhưng quan trọng nhất là bát bằng sắt và bát bằng đất nun. Bát lớn ba đấu, bát nhỏ một đấu rưỡi, đây là lượng của bát. Như thế nên trì và tịnh thí.
- Không tịnh thí: tịnh thí và không tịnh thí có tám cách làm pháp giống như trong giới “chứa y dư”.
- Được phép chứa trong hạn mười ngày: Bấy giờ, tôn giả A-nan được một cái bát quý, muốn dâng cúng cho tôn giả Ca-diếp để mỗi ngày sử dụng, nhưng mười ngày nữa tôn giả Ca-diếp mới trở về. Tôn giả A-nan sợ phạm xả-đọa nên mới đem việc ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật liền khai và chế cho phép được chứa bát đến mười ngày.
- Quá hạn, ni-tát-kì ba-dật-đề: tì-kheo-ni phạm như tì-kheo.
Phần phân biệt giới tướng và trường hợp không phạm giống như giới “chứa y dư”.
22. Giới Không Đáng Xin Bát
a. Duyên khởi
Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, bát của tì-kheo Bạt-nan-đà bị vỡ, thầy xin nhiều bát và cất chứa. Sau đó, những cư sĩ cúng bát cho Bạt-nan-đà có cơ hội gặp nhau, họ mới biết Bạt-nan-đà nhận nhiều bát, liền than phiền: “Tì-kheo thụ nhận không biết chán.” Chư tì-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách rồi chế giới này.
b. Văn giới
Tì-kheo nào, chứa bát trám dưới năm chỗ không chảy rỉ, mà tìm xin bát mới, vì muốn đẹp, ni-tát-kì ba-dật-đề. Tì-kheo kia nên đến trong Tăng để xả, lần lượt cho đến lấy cái bát tối hạ trao cho, khiến thụ trì cho đến khi vỡ; đó là điều hợp thức.
c. Giải thích
- Tì-kheo: nghĩa như trên.
- Chứa bát trám dưới năm chỗ không chảy rỉ: mỗi vết trám cách nhau khoảng hai ngón tay.
- Mà tìm xin bát mới, vì muốn đẹp: nếu bát trám đủ năm lần, không bị chảy, lại xin bát mới thì phạm đột-kiết-la.
- Ni-tát-kì: cách xả: Ở trong tăng của trú xứ đang cư trú xả bát rồi, đơn bạch nhận sám hối, liền nói tên tội, hình thức phạm; đồng thời chúng Tăng quở trách và người kia cũng sinh tâm nhàm chán, từ bỏ. Nếu bát tốt thì phải lấy lại đem cất và lấy cái bát xấu nhất đưa cho người kia. Liền làm pháp đơn bạch lấy, rồi theo thứ tự đến thượng tọa mà đổi. Đem bát của thượng tọa đưa cho thứ tọa, hoặc đưa cho vị tì-kheo kia. Như thế từng tự đổi nhau cho đến vị hạ tọa.
- Ba-dật-đề: tì-kheo-ni phạm giống như tì-kheo.
- Tì-kheo kia nên đến trong Tăng để xả, lần lượt cho đến lấy cái bát tối hạ trao cho, khiến thụ trì cho đến khi vỡ; đó là điều hợp thức: Sau khi Tăng đã làm pháp bạch nhị yết-ma trao bát. Người kia phải tự giữ gìn, không được để bát ở những nơi có ngói, đá rơi; không được để bát bên dưới nơi có dựng gậy, dựng đao; không được để bát ở dưới những vật đang treo ở trên; không được để bát trên tảng đá, mô đất trên đường; không được để bát dưới cây đang có trái; không được để bát ở những chỗ đất không bằng phẳng; không được để bát bên trong cửa sổ và cửa lớn; không được để bát sau cánh cửa; không được để bát ở dưới giường, bên góc giường, trừ trường hợp để tạm; không được để bát giữa hai giường; không được đứng rửa bát, cho đến chân đạp vỡ bát. Người kia không nên cố làm vỡ bát, cố làm mất bát. Nếu sử dụng bát không đúng pháp thì phạm đột-kiết-la.
-Trường hợp không phạm: bát nứt đủ năm chỗ và bị rỉ, hoặc ít hơn năm chỗ và bị rỉ. Xin bát mới: hoặc xin người thân, xin người xuất gia, mình xin giúp cho người khác, người khác xin cho mình, không xin mà tự được. Hoặc theo thứ tự cúng dường mà được; hoặc tự bỏ tiền ra mua. Những trường hợp như vậy cất giữ thì đều không phạm.
23. Giới Xin Tơ Và Nhờ Thợ Dệt Không Phải Bà Con
a. Duyên khởi
Một thời, Đức Phật ở tại nước Xá-vệ. Khi ấy, tì-kheo Bạt-nan-đà vì vá tăng-già-lê nên xin chỉ và xin được rất nhiều, rồi đem chỉ nhờ người dệt, hoặc tự mắc tơ vào khung cửi, xem người dệt. Hàng cư sĩ thấy vậy chê cười. Các thầy tì-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.
b. Văn giới
Tì-kheo nào, tự mình xin chỉ sợi, nhờ thợ dệt không phải bà con dệt làm ba y, ni-tát-kì ba-dật-đề.
c. Giải thích
- Tì-kheo: nghĩa như trên.
- Tự xin chỉ sợi: tì-kheo xin khắp nơi. Chỉ sợi có tất cả mười loại.
- Nhờ thợ dệt không phải bà con dệt làm ba y: nếu người thợ dệt và người cho chỉ đều là người thân thì không phạm. Nếu người cho chỉ không phải người thân thì phạm đột-kiết-la. Xem người dệt, tự mình dệt, hoặc chỉ mắc tơ vào khung cửi thì phạm đột-kiết-la.
- Ni-tát-kì ba-dật-đề: tì-kheo-ni cũng phạm giống như tì-kheo.
- Trường hợp không phạm: người cho chỉ và người dệt đều là người thân; hoặc tự dệt để làm túi đựng bát; làm túi đựng giầy; tấm bện để gâm kim, thiền đới,[54] dây thắc lưng, mũ, bít tất, khăn quàng, bít tất dùng để mang giầy đều được.
24. Bảo Thợ Dệt Thêm Tơ
a. Duyên khởi
Một thời, Đức Phật ở tại nước Xá-vệ. Khi ấy, có cư sĩđem tơ đưa cho thợ dệt nhờ may y cho tì-kheo Bạt-nan-đà. Sau đó, tì-kheo Bạt-na-đà tìm đến nhà người thợ dệt, chọn loại tơ tốt đưa cho người thợ dệt và hứa sẽ trả thêm tiền. Hàng cư sĩ biết được và chê cười. Các thầy tì-kheo đem việc ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách rồi chế giới này.
b. Văn giới
Tì-kheo nào, được cư sĩ hay vợ cư sĩ nhờ thợ dệt, dệt y cho tì-kheo. Tì-kheo kia trước không nhận được lời mời tùy ý, liền đến nhà của thợ dệt và nói: ‘Y này may cho tôi, ông hãy may sao tốt nhất, làm cho rộng, lớn, bền chắc. Tôi sẽ tăng tiền cho ông.’ Tì-kheo ấy đưa ra giá, thậm chí chỉ trả giá đáng bằng một bữa ăn. Nếu nhận được y, ni-tát-kì-ba-dật-dề.
c. Giải thích
- Tì-kheo: nghĩa như trên.
- Được cư sĩ hay vợ cư sĩ nhờ thợ dệt, dệt y cho tì-kheo. Tì-kheo kia trước không nhận được lời mời tùy ý: Nếu cư sĩđưa tiền may y cho tì-kheo thì cho phép những tì-kheo thiểu dục tri túc được phép nhận. Yêu cầu mà không được như ý gọi là tùy ý.
- Liền đến nhà của thợ dệt và nói: ‘Y này may cho tôi, ông hãy may sao tốt nhất, làm cho rộng, lớn, bền chắc. Tôi sẽ tăng tiền cho ông.’ Tì-kheo ấy đưa ra giá, thậm chí chỉ trả giá đáng bằng một bữa ăn. Nếu nhận được y, ni-tát-kì ba-dật-dề: nếu xin y không được thì đột-kiết-la. Tì-kheo-ni cũng phạm giống như vậy.
- Trường hợp không phạm: nếu xin ít hơn, yêu cầu người thân, yêu cầu người xuất gia, người khác yêu cầu cho mình, thì được.
25. Giới Đoạt Y Của Tì-Kheo
a. Duyên khởi
Một thời, Đức Phật ở tại nước Xá-vệ. Khi ấy, đệ tử của tì-kheo Bạt-nan-đà có khả năng khuyến hóa[55] giỏi. Tì-kheo Bạt-nan-đà muốn cùng du hành, nên trước đó đem y cho một tì-kheo. Một tì-kheo khác nói: “Tì-kheo ấy ngu si không biết tụng giới, nói giới, bố-tát, yết-ma.” Sau đó, tì-kheo Bạt-nan-đà trở về rồi đến tì-kheo kia lấy lại y, nhưng tì-kheo kia không đưa. Vì thế, tì-kheo Bạt-nan-đà tước đoạt lại y. Các tì-kheo quở trách, nêu tội. Nhân đó, Đức Phật chế giới này.
b. Văn giới
Tì-kheo nào, trước cho tì-kheo y, sau đó vì giận hờn, hoặc tự tước đoạt, hoặc sai người tước đoạt, nói: “Trả y lại cho tôi, tôi không cho ngài nữa.” Nếu tì-kheo kia trả lại y và tì-kheo ấy nhận y, thì ni-tát-kì ba-dật-đề.
c. Giải thích
- Tì-kheo: nghĩa như trên.
- Trước cho tì-kheo y, sau đó vì giận hờn, hoặc tự tước đoạt, hoặc sai người tước đoạt, nói: “Trả y lại cho tôi, tôi không cho ông nữa.”: nếu vì giận hờn nên tự tước đoạt và sai người tước đoạt rồi cất giữ thì phạm. Tước đoạt được rồi, nhưng chưa cất thì phạm đột-kiết-la. Nếu vắt lên cây, treo trên giá, móc trên giường hoặc để ở chỗ khác, dời khỏi chỗ cũ thì phạm tội đọa. Lấy nhưng chưa đem khỏi chỗ cũ phạm đột-kiết-la.
- Nếu tì-kheo kia trả lại y và tì-kheo ấy nhận y, thì ni-tát-kì ba-dật-đề: tì-kheo-ni cũng phạm giống như tì-kheo.
- Trường hợp không phạm: Không vì giận hờn. Hoặc nói: “Tôi hối tiếc không cho ngài nữa, hãy trả lại y cho tôi.” Tì-kheo kia biết vị ấy có lòng hối tiếc nên trả lại y. Hoặc có người khác nói với tì-kheo kia: “Tì-kheo ấy hối tiếc, ông nên trả lại y cho tì-kheo ấy.” Nếu mượn y của người khác rồi để ở nơi vắng vẻ, nơi không có đường đi, làng xóm, tước đoạt lại thì không phạm. Vì sợ mất, sợ rách. Hoặc tì-kheo kia phá giới, phá kiến, phá oai nghi. Nếu bị nêu tội diệt tẩn thì nên đuổi đi. Hoặc vì việc này mà dẫn đến mạng nạn, phạm hạnh nạn. Tất cả những trường hợp như vừa nêu, nếu tước đoạt lại, không cất giữ, đưa ra cho mọi người biết thì đều không phạm.
26. Giới Chứa Thuốc Bảy Ngày Quá Thời Hạn
a. Duyên khởi
Một thời, Đức Phật ở tại nước Xá-vệ. Khi ấy, các tì-kheo gặp gió mùa thu nên sinh bệnh, thân thể khô gầy và bị ghẻ lở. Đức Phật dạy: “Có năm thứ bơ, dầu, bơ đặc, mật, mỡ, cho phép người có bệnh được dùng đúng thời và phi thời.” Một lần, Đức Phật ở thành La-duyệt-kì, đồ chúng của tì-kheo Tất-lăng-già chứa nhiều những thứ ấy, nên chảy tràn ra đường, nên bị người đời chê trách. Đức Phật biết được, sau khi quở trách các tì-kheo rồi chế giới này.
b. Văn giới
Tì-kheo nào, mắc bệnh, các loại thuốc dư tàn như tô, dầu, sinh tô, mật, đường thỏi, được dùng trong vòng bảy ngày. Nếu quá bảy ngày mà còn dùng, ni-tát-kì ba-dật-đề.
c. Giải thích
- Tì-kheo: nghĩa như trên.
- Mắc bệnh: đó là thầy thuốc dặn phải uống. Ấy là những loại thuốc.
- Các loại thuốc dư tàn như tô, dầu, sinh tô, mật, đường thỏi, được dùng trong vòng bảy ngày: về văn và nghĩa của tám môn đều giống như giới nói về y ở trên.
- Nếu quá bảy ngày mà còn dùng: tì-kheo ấy sau khi xả thuốc cho Tăng và bạch pháp yết-ma trị tội rồi, Tăng nên như pháp trao thuốc lại cho tì-kheo kia, hoặc đến ngày thứ bảy xả cho tì-kheo. Tì-kheo kia nhên nhận và dùng. Nếu hơn bảy ngày thì dùng tô, du ấy bôi lên cửa, còn mật, đường thỏi thì đưa cho người giữ vườn. Nếu chưa đủ bảy ngày thì bạch nhị yết-ma trả lại cho tì-kheo; tì-kheo nên nhận để xoa chân, đốt đèn.
- Ni-tát-kì ba-dật-đề: tì-kheo-ni cũng phạm như tì-kheo.
- Trường hợp không phạm: khác với việc xả và dùng v.v… như trên vừa trình bày thì không phạm.
27. Giới Xin Và Sử Dùng Y Tắm Mưa Trước Mùa Mưa
a. Duyên khởi
Một thời, Đức Phật ở tại nước Xá-vệ. Khi ấy, Tì-xá-khư Mẫu thỉnh Phật và Tăng đến nhà thụ trai. Sáng hôm sau, Tì-xá-khư-mẫu sai tì nữ đến tinh xá để thỉnh Phật và chúng Tăng. Đến nơi, tì nữ nhìn thấy chúng Tăng ở trần tắm mưa. Tì nữ thấy vậy trở về thưa với Tì-xá-khư Mẫu. Nhân đó, Tì-xá-khư Mẫu phát tám nguyện và được Phật khen ngợi. Rồi nhóm sáu thầy tì-kheo thường hay xin y tắm mưa. Nhân đó, Đức Phật chế giới này.
b. Văn giới
Tì-kheo nào, mùa xuân còn một tháng, nên xin y tắm mưa, còn lại nửa tháng nên dùng. Nếu tì-kheo nào quá trước một tháng tìm cầu y tắm mưa, dùng quá trước nửa tháng, ni-tát-kì ba-dật-đề.
c. Giải thích
- Tì-kheo: nghĩa như trên.
- Mùa xuân còn một tháng, nên xin y tắm mưa: y tắm mưa: là loại y mà tì-kheo dùng để tắm mưa. Y này có mười loại. Tì-kheo được phép bắt đầu xin y này từ ngày 16 tháng 3.
- Còn nửa tháng nên dùng: tì-kheo được phép bắt đầu dùng y tắm mưa trước ngày mùng 1 tháng 4.
- Nếu tì-kheo nào quá trước một tháng tìm cầu y tắm mưa: trước ngày 16 tháng 3, nên tìm cầu y tắm mưa.
- Dùng quá trước nửa tháng: nên sử dùng trước ngày 01 tháng 4.
- Ni-tát-kì ba-dật-đề: tì-kheo-ni phạm đột-kiết-la.
- Trường hợp không phạm: nếu xả bỏ để dùng vào việc khác; hoặc mặc tắm, hoặc giặc, hoặc phơi, thì đều không phạm.
28. Giới Nhận Y Cấp Thí Trước Thời Hạn, Chứa Y Sau thời Hạn
a. Duyên khởi
Một thời, Đức Phật trụ ở Tì-la-nhã. Bấy giờ, Ngài cho phép các thầy tì-kheo được nhận y mùa hạ. Vì biết Đức Phật cho phép nhận y, nên nhóm sáu thầy tì-kheo thường xin y, thường nhận y. Tì-kheo Bạt-nan-đà an cư chỗ khác, nhưng đến nhận y ở chỗ khác. Đức Phật ở nước Xá-vệ, trong mùa an cư, có đại thần cúng y khi còn trong mùa an cư. Nhân đó, Đức Phật khai cho phép tì-kheo được nhận y cấp thí và chế giới này.
b. Văn giới
Tì-kheo nào, còn mười ngày nữa mới mãn ba tháng hạ an cư, các tì-kheo nhận được y cấp thí. Tì-kheo biết đó là y cấp thí có thể thụ nhận, nhận rồi được phép chứa cho đến thời của y, nếu chứa quá thời hạn cho phép, ni-tát-kì ba-dật-đề.
c. Giải thích
- Tì-kheo: nghĩa như trên.
- Còn mười ngày nữa mới mãn ba tháng hạ an cư: tức khoảng thời gian từ ngày 6 tháng 7 về sau, từ ngày 15 tháng 7 trở về trước.
- Các tì-kheo nhận được y cấp thí: vì nếu nhận thì được, nếu không nhận thì mất, nên gọi là cấp thí. Y có mười loại.
- Tì-kheo biết đó là y cấp thí có thể thụ nhận, nhận rồi được phép chứa cho đến thời của y: thời của y: tự tứ xong, tì-kheo không được nhận y ca-thi-na[56] thì được nhận y trong vòng một tháng; tì-kheo được nhận y ca-thi-na thì được nhận y trong vòng năm tháng. Nếu còn mười ngày nữa mới tự tứ mà được y cấp thí, nhận rồi, được phép chứa từ một tháng đến năm tháng. Cho đến, trường hợp ngày mai tự tứ[57] cũng nên nhận và được phép chứa từ một tháng đến năm tháng. Trường hợp ngoại lệ, cho phép chứa thêm chín ngày.
- Nếu chứa quá thời hạn cho phép, ni-tát-kì ba-dật-đề: đối với y cấp thí, nếu nhận trước thời gian cho phép, sau thời gian cho phép đều phạm tội đọa. Tì-kheo-ni cũng phạm giống như tì-kheo.
- Trường hợp không phạm: hoặc không quá trước thời gian cho phép, sau thời gian cho phép; hoặc y bị cướp, bị mất, nhận trước thời gian cho phép thì không phạm. Nếu gửi y cho tì-kheo khác rồi đi xa, lại bị đường xá chia cắt không về kịp, nhận y sau thời gian cho phép thì không phạm.
29. Ở Lan-Nhã Có Nghi Lìa Y Quá Hạn
a. Duyên khởi
Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Khi ấy, có tì-kheo trụ ở chốn lan-nhã bị cướp đánh, lấy hết mười vật.[58] Vì thế, Đức Phật dạy cho phép tì-kheo gửi một y trong ba y ở nhà người trong thôn. Nhóm sáu thầy tì-kheo nghe Đức Phật cho phép, liền gửi y rồi ra đi. Các tì-kheo biết việc đó bạch với Phật. Nhân đó, Đức Phật chế giới này.
b. Văn giới
Tì-kheo nào, ba tháng hạ đã mãn, một tháng ca-đề[59] sau đã hết, ở a-lan-nhã chỗ có sự nghi ngờ, có kinh sợ. Tì-kheo sống tại trú sứ như vậy, trong ba y, nếu muốn có thể gửi lại một y ở nhà trong thôn. Các tì-kheo có nhân duyên được lìa y ngủ cho đến sáu đêm, nếu quá, ni-tát-kì ba-dật-đề.
c. Giải thích
- Tì-kheo: nghĩa như trên.
- Ba tháng hạ đã mãn, một tháng ca-đề sau đã hết: tức nửa tháng tám sau.
- Ở a-lan-nhã: cách thôn năm trăm cung.[60] Theo qui định của nước Già-ma-la thì một cung dài bằng bốn tấc, thường dùng cánh tay của người trung bình để đo.
- Chỗ có sự nghi ngờ: nghi có trộm cướp.
- Có kinh sợ: ở chỗ ấy có sự sợ hãi về trộm cướp.
- Tì-kheo sống tại trú sứ như vậy, trong ba y, nếu muốn có thể gửi lại một y ở nhà trong thôn: thôn tức là tụ: nghĩa là làng xóm.
- Các tì-kheo có nhân duyên được lìa y ngủ cho đến sáu đêm: nếu tì-kheo có duyên sự ngủ lìa y đến đêm thứ bảy trước khi minh tướng[61] chưa xuất hiện, hoặc xả, hoặc nắm y, hoặc chỗ có thể dùng đá ném tới; trái lại những trường hợp vừa nêu thì phạm.
- Ni-tát-kì ba-dật-đề: nhân duyên, được khai giống như giới lìa y đã nói ở trên.
30. Giới Xoay Vật Thuộc Về Tăng
a. Duyên khởi
Một thời, Đức Phật trụ ở nước Xá-vệ. Một hôm, có cư sĩ muốn cúng dường cơm và y cho Phật và chúng Tăng. Tì-kheo Bạt-nan-đà nghe được tin ấy, nói với cư sĩ kia: “Người cúng dường cho Tăng rất nhiều, nay ông có thể cúng dường cho tôi.” Sau đó, cư sĩ gặp một vị trưởng lão tì-kheo oai nghi đầy đủ, liền sinh tâm hối hận và than van. Các tì-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật chế giới này.
b. Văn giới
Tì-kheo nào, biết đó là vật thuộc về Tăng, mà tự xin về cho mình, ni-tát-kì ba-dật-dề.
c. Giải thích
- Tì-kheo: nghĩa như trên.
- Biết: không biết thì không phạm.
- Đó là vật thuộc về Tăng: có ba loại: 1. Vật thuộc về Tăng: thí chủ vì Tăng đã hứa cúng cho Tăng; 2. Vì Tăng: họ vì Tăng nên sắm sửa, nhưng chưa hứa cúng cho Tăng; 3. Đã trao cho Tăng: đã hứa với Tăng và đã xả cho Tăng. Vật: cho đến những vật dụng dùng để uống nước.
- Mà tự xin về cho mình: hoặc đã hứa cho Tăng rồi chuyển qua dùng vào việc xây tháp; hoặc hứa cho bốn phương Tăng rồi chuyển cho hiện tại Tăng; hoặc trao cho ni Tăng; hoặc trao cho Tăng ở trụ xứ khác; hoặc làm trái lại với giao ước trước; hoặc sinh nghi ngờ, tất cả những trường hợp này đều phạm đột-kiết-la.
- Ni-tát-kì-ba-dật-dề.
- Trường hợp không phạm: hoặc không biết, hoặc không hứa, hoặc hứa ít nhưng khuyến hóa được nhiều, hứa với ít người nhưng cho nhiều người, khuyến khích cho vật tốt, hoặc nói đùa, nói sai, thì đều không phạm.
Chư Đại đức! Tôi đã nói ba mươi Ni-tát-kì ba-dật-đề. Nay xin hỏi chư Đại đức trong đây có thanh tịnh không? (3 lần) Chư Đại đức trong đây thanh tịnh vì chư Đại đức im lặng. Việc ấy xin ghi nhận như vậy.
Hết quyển 1-B [ ^ Về trên ^ ]
________________________________________
[45] Ni-tát-kì ba-dật-đề 尼薩耆波逸提: đây là một thứ tội khinh, nghĩa là điều đã phạm, nếu sám hối thì diệt được tội, nếu không sám hối các lỗi lầm thì bị đọa vào đường ác (địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh). Có hai loại: Xả đọa và Đơn đọa. Xả đọa: tội đọa phải xả tài vật và sám hối. Đơn đọa: tội đọa chỉ cần ở trước người khác mà sám hối liền được thanh tịnh.
[46] An-đà-hội 安陀會衣(S: Antarvāsa): pháp y do ráp năm miếng vải may thành. Y này được mặt lót nên gọi là Hạ y, thông thường khi làm việc hay lúc ngủ mặc y này, là y thấp nhất trong ba y. Cách may thì ráp mảnh vải một bức dài và một bức ngắn may thành một điều, có cả thảy là 5 điều và phải dùng loại vải gai hoại sắc để may y.
[47] Tăng-già-lê 僧伽梨 (S: Saṅghātī): pháp y chín điều trở lên của tì-kheo, một trong ba y. Y này được đắp mặc khi vào cung vua, vào tụ lạc khất thực, lên tòa thuyết pháp, hàng phục ngoại đạo, vì thế còn gọi là Nhập vương cung tụ lạc y. Y này lớn nhất trong ba y nên gọi là Đại y. Vì có nhiều điều nên gọi là Tạp toái y.
[48] Uất-đa-la-tăng 鬱多羅僧(S: Uttarasanga): là y bảy điều, được mặc khi lễ bái, nghe giảng, bố-tát v.v…
[49]Đàn-việt 檀越 (S: Dāna): Phiên âm tiếng Phạn, có nghĩa là bố thí, hoặc người bố thí.
[50] Một người khác: trong văn luật gọi là Tịnh chủ 淨主, còn gọi là Thí chủ.
[51] Người chấp sự 執事人: là người trông coi công việt. Danh từ chuyên dùng trong luật học, chỉ người làm giúp những việc mà tì-kheo không được phép làm, ví dụ như giữ tiền, nấu ăn v.v…
[52] Kiếp cụ 劫貝: là cây bông gạo.
[53] Bát-la 鉢羅: có bộ gọi là ba-la 波羅: là một đơn vị trọng lượng. Thí dụ, ngọa cụ nặng 10 cân, thì 5 cần toàn đen, 2,5 cân trắng và 2,5 cân thô.
[54] Thiền đới 禪帶: sợi dây lưng sử dụng khi tọa thiền, buộc ở eo, đề phòng bụng bị lạnh. Theo luật Tứ phần 41, ngồi ở chỗ trống hay bị đau lưng cho nên may thiền đới phòng hộ.
[55] Khuyến hóa 勸化: khuyến tấn và chuyển hóa, tức khuyên bảo sách tấn chúng sinh chuyển ác thành thiện, chuyển mê thành ngộ, chuyển phàm thành thánh.
[56] Y Ca-thi-na 迦絺那衣(S: Kaṭhina): Ca-thi-na là y mà các tì-kheo cùng hợp tác làm chung cho một tì-kheo, như là biểu lộ sự xác nhận và ngưỡng mộ những thành tựu thù thắng mà tì-kheo ấy đạt được trong đời sống phạm hạnh.
[57] Tự tứ 自恣(S: Pravāraṇā): tùy thuận theo người khác mà tự mình nêu lên những lỗi lầm đã phạm. Ngày cuối cùng của Hạ ăn cư, mỗi vị tì-kheo tự nêu lên các tội mình đã phạm trong ba việc thấy, nghe, nghi, đối trước các tì-kheo khác mà sám hối, sám hối thì được thanh tịnh, tự sinh vui mừng, nên gọi là Tự tứ.
[58] Mười vật 什物: các vật dụng sinh hoạt trong tự viện.
[59] Tháng ca-đề 迦提一月: theo Thiên văn học Ấn, tháng ca-đề là tháng mà sao mão gặp nguyệt cung, tức trong khoảng tháng 10-11 dương lịch. Nhưng theo truyền thống Hán tạng, thời gian được kể trong khoảng từ ngày 16 tháng 7 đến hết ngày 15 tháng 8 âm lịch. Tháng ca-đề là tháng may y. Trong thời gian này cho phép tì-kheo được may y.
[60] Cung 弓: Số đo đất, sáu xích 尺 thước là một cung 弓, tức là một bộ 步, 360 bộ là một dặm, 240 bộ vuông là một mẫu.
[61] Minh tướng 明相: nghĩa đen là tướng sáng. Ban đêm là tướng tối, ban ngày là tướng sáng. Nghĩa bóng là chỉ cho mặt trời. Nên có thể dịch ‘minh tướng’ là mặt trời.

|