* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ | KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

Quyển 1-A    Quyển 1-B    Quyển 2-A    Quyển 2-B    Quyển 3

TỨ PHẦN LUẬT HÀM CHÚ GIỚI BỔN

Nguyên tác Hán văn: Luật sư Thích Đạo Tuyên.

Dịch sang Việt: Thích Thọ Phước.

QUYỂN 2-B

43. Giới Ăn Rồi Cố Ngồi Trong Nhà

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, tôn giả Ca-lưu-đà-di, khi c̣n ở đời có quen với vợ của một người kia. Người vợ ấy tên là Trai Ưu-bà-tư. Cả hai người đều xinh đẹp, nên đều có ư với nhau. Sau đó, tôn giả Ca-lưu-đà-di đến nhà họ. Khi ấy, vợ của người kia trang điểm thân h́nh và được người chồng rất yêu quí. Lúc ấy, t́-kheo Ca-lưu-đà-di đă ăn xong mà vẫn ngồi lại măi không chịu đi. V́ thế, người chồng nổi giận bỏ đi. Các t́-kheo đem việc ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, ở trong nhà ăn có vật báu, cố ngồi lại, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Thức ăn: người nam lấy người nữ làm thức ăn, người nữ lấy người nam làm thức ăn.

- Nhà: giống như trên.

- Có vật báu: là các thứ: xa cừ, mă năo, trân châu, hổ phách, kim ngân.

- Cố ngồi lại: nếu duỗi cánh tay mà đụng cửa th́ được ngồi.

- Ba-dật-đề: nếu bị mù mà không điếc, điếc mà không mù th́ đều phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: nếu trong nhà ăn có vật báu mà ngồi ở chỗ có thể duỗi tay đụng cửa; hoặc có hai t́-kheo làm bạn; hoặc có người quen; hoặc có người khách ở một chỗ nào đó; hoặc không mù, không điếc; hoặc chỉ đi ngang qua mà không dừng lại; hoặc v́ phát bệnh ngă xuống đất; hoặc bị thế lực bắt; hoặc bị trói; hoặc bị mạng nạn, phạm hạnh nạn, tất cả đều không phạm.

44. Giới Ngồi Ở Chỗ Khuất Trong Nhà Ăn

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, tôn giả Ca-lưu-đà-di suy nghĩ: “Ở giới trước Đức Phật cho phép được ngồi duỗi tay đụng cửa”, nên tôn giả cùng với Trai ưu-bà-tư ngồi ở sau cánh cửa tṛ chuyện. Các t́-kheo nghe tiếng họ tṛ chuyện liền chê trách, rồi đem việc ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, trong nhà ăn, có vật báu mà ngồi ở chỗ khuất, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Trong nhà ăn, có vật báu: đều giống như giới trên.

- Chỗ khuất: hoặc cây, tường, vách, rào, gác, y và những vật khác ngăn che.

- Ba-dật-đề: hoặc trong nhà ăn ngồi chỗ duỗi tay đụng cửa để cho t́-kheo khất thực có thể nh́n thấy. Ngoài ra, những trương hợp khác, điều kiện được khai, đều giống như giới trên.

45. Giới Một Ḿnh Ngồi Với Người Nữ Nơi Đất Trống

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, tôn giả Ca-lưu-đà-di cùng với Trai ưu-bà-tư ngồi ở chỗ đất trống. Khi ấy, có t́-kheo khất thực đi ngang qua thấy vậy liền chê trách Ca-lưu-đà-di. Sau khi về đến tinh xá, t́-kheo kia tŕnh bày hết cho t́-kheo khác biết. Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, một ḿnh ngồi với người nữ tại chỗ trống, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên. 

- Một ḿnh: một người nữ và một t́-kheo.

- Với người nữ: người nữ có trí tuệ, c̣n sống.

- Ngồi tại chỗ trống: là chỗ có thể nh́n thấy, có thể nghe tiếng nói.

- Ba-dật-đề: phần phạm và không phạm đều giống như giới trước.

46. Giới Đuổi Người Khác Ra Khỏi Làng

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, t́-kheo Bạt-nan-đà v́ tranh căi với một t́-kheo khác, nên ôm hận trong ḷng. Một hôm, Bạt-nan-đà dẫn t́-kheo kia vào trong thành, đến vùng không có thức ăn. Khi ấy, Bạt-nan-đà dự tính biết: “Nếu t́-kheo này về đến tinh xá Ḱ-hoàn th́ cũng đă quá ngọ.” Nghĩ như vậy rồi, Bạt-nan-đà mắng t́-kheo kia: “Ông là người đại ác, làm cho tôi không được thức ăn, ông nên đi khỏi đây mau!” V́ vậy mà t́-kheo kia khi về đến Ḱ-hoàn không nhận được thức ăn, nên đành phải nhịn đói. Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, nói với t́-kheo khác như thế này: “Đại đức, hăy cùng tôi đến tụ lạc, tôi sẽ cho Đại đức thức ăn.” T́-kheo ấy cuối cùng không cho t́-kheo kia thức ăn, c̣n nói: “Trưởng lăo hăy đi chỗ khác nhanh lên! Nếu tôi với thầy ở chung một chỗ hoặc ngồi, hoặc nói chùng th́ không an lạc. Tôi ngồi một ḿnh, tôi nói chuyện một ḿnh lại an lạc.” Chỉ với mục đích ấy, chứ không ǵ khác, t́m cách đuổi người khác đi, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Tụ lạc: có bốn loại thôn giống như trên.

- Thức ăn: đó là thời thực.

- T́-kheo ấy cuối cùng không cho t́-kheo kia thức ăn, c̣n nói: “Trưởng lăo hăy đi chỗ khác nhanh lên! Nếu tôi với thầy ở chung một chỗ hoặc ngồi, hoặc nói chùng th́ không an lạc. Tôi ngồi một ḿnh, tôi nói chuyện một ḿnh lại an lạc.” Chỉ với mục đích ấy: hoặc t́m cách bỏ chỗ thấy đến chỗ nghe phạm đột-kiết-la; hoặc đến chỗ không nghe mà thấy cũng phạm đột-kiết-la; ĺa chỗ thấy và nghe mới phạm tội đọa.

- Chứ không ǵ khác, t́m cách đuổi người khác đi, ba-dật-đề.

- Trường hợp không phạm: trao cho thức ăn rồi bảo đi; hoặc bệnh; hoặc không có oai nghi, người thấy không vui, nên nói: “Thầy đi! Tôi tự sẽ mang thức ăn đến cho thầy.” Hoặc người kia phá giới v.v… hoặc v́ mạng nạn, phạm hạnh nạn, t́m cách đuổi đi, không v́ hiềm giận, đều không phạm.

47. Giới Xin Thuốc Quá Hạn

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở tại nước Thích-súy-sấu. Bấy giờ, Ma-ha-nam thỉnh Tăng đến cung cấp thuốc. Khi ấy nhóm sáu thầy t́-kheo chê thuốc cũ. Rồi họ cùng nhau đến nhà Ma-ha-nam xin loại thuốc hiếm có. Ma-ha-nam v́ họ ra chợ mua nhưng vẫn không có. V́ t́m mua không có nên bị nhóm sáu thầy t́-kheo nhục mạ. Bị nhục mạ, Ma-ha-nam thệ không cung cấp thuốc cho Tăng nữa. Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, không bệnh, được nhận thuốc thỉnh cầu cúng dường bốn tháng, nên nhận, nếu nhận quá, ba-dật-đề. Trừ thường thỉnh, thỉnh trở lại, thỉnh chia phần, thỉnh trọn đời.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Bốn tháng: bốn tháng mùa hạ.

- Cúng dường thuốc: nhân duyên nguyện cung cấp thuốc.

- Không bệnh: t́-kheo bị bệnh thầy thuốc chỉ định uống những loại thuốc đó.

- Nên nhận, nếu nhận quá: nếu là thuốc để cách đêm phải chia đều, bốn tháng mùa hạ nên nhận. Nếu thuốc để cách đêm không chia đều th́ tùy thời thí nên nhận. Không kể là thuốc phân chia.

- Trừ thường thỉnh: thí chủ thưa: “Tôi nguyện thường xuyên cúng dường thuốc.”

- Thỉnh trở lại: thí chủ đă nói không cúng dường thuốc rồi, nhưng sau đó xin phát nguyện cúng dường thuốc trở lại.

- Thỉnh chia phần: thí chủ đem thuốc đến tăng-già-lam cúng rồi phân chia.

- Thỉnh trọn đời: thí chủ thưa: “Tôi xin cúng dường thuốc trọn đời.”

- Ba-dật-đề.

- Trường hợp không phạm: khai giống như trên.

48. Giới Xem Quân Trận

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, tại một vùng nọ trong nước nhân dân phản loạn, nhà vua phải đích thân thống lănh sáu loại quân để chinh phạt. Khi ấy, nhóm sáu thầy t́-kheo đến đó xem quân trận. Vua Ba-tư-nặc thấy vậy không vui. Rồi vua Ba-tư-nặc gửi cho nhóm sáu thầy t́-kheo một túi đường phèn nhờ dâng lên Đức Phật và nhân danh ông lễ bái Phật. Khi nhóm sáu thầy t́-kheo đến chỗ Phật, tŕnh bày hết những chuyện đă xảy ra. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, đi xem quân trận, trừ nhân duyên hợp thời, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Đi xem quân trận: Trận: hoặc chiến, hoặc đấu. Quân: cho đến một quân ngựa, một quân xe, một quân bộ.

- Trừ nhân duyên hợp thời: hoặc cần phải có mặt th́ nên bạch; hoặc được mời gọi.

- Ba-dật-đề: nếu không tránh qua bên đường th́ phạm đột-kiết-la. Từ thấp đến cao, từ đường đến chẳng phải đường, không thấy phạm đột-kiết-la. Phương tiện không thấy cũng như vậy. Nếu thấy phạm tội đọa.

- Trường hợp không phạm: hoặc có việc cần đến; hoặc được mời đến; hoặc bị thế lực bắt dẫn đến; hoặc ḿnh đi trước ở phía trước quân trận đi phía sau; tránh qua bên lề đường; hoặc đường thủy, đường bộ bị chia cắt, nạn ác thú, nạn giặc cướp, nước lụt; hoặc bị thế lực bắt trói; hoặc mạng nạn, phạm hạnh nạn v.v… không tránh bên lề đường th́ không phạm.

49. Giới Ngủ Trong Quân

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo có nhân duyên đến trong quân trận và ngủ lại. Khi ấy, các cư sĩ nói: “Chúng ta v́ ái dục nên ngủ đêm ở nơi đây. C̣n các sa-môn ở lại đây để làm ǵ?” Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, có nhân duyên được phép đến trong quân trận, ngủ lại hai, ba đêm, nếu qua, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Trường hợp không phạm: được ngủ hai đêm, đến hết đêm thứ ba, khi b́nh minh chưa xuất hiện mà đi ra khỏi quân trận, rời khỏi nơi mắt thấy, tai nghe. Hoặc đường nước, đường bộ bị chia cắt; hoặc bị mạng nạn, phạm hạnh nạn v.v… nên không rời khỏi quân trận, th́ không phạm.

50. Giới Xem Quân Đội Chiến Đấu

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo có nhân duyên ở lại trong quân trận xem sức chiến đấu giữa các bên. Trong số sáu người họ có người bị tên bắn trúng. Các người bạn dùng y băng bó rồi khiêng về. Các cư sĩ thấy vậy cho là lạ. Các t́-kheo biết được việc ấy nên bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, ở trong quân trại hai, ba đêm, hoặc khi xem quân đội chiến đấu, hoặc xem thế lực quân bộ, quân voi, quân ngựa, ba-dật-đề. 

Những điều phạm, không phạm, khai đều giống như giới trước.

51. Giới Uống Rượu

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Chi-đà. Bấy giờ, Sa-già-đà làm thị giả cho Phật. Một hôm, Sa-già-đà đến ngủ tại pḥng của Phạm chí bện tóc. Trong căn pḥng ấy có con rồng độc. Đêm hôm đó, Sa-già-đà đă hàng phục được con rồng độc. Sáng hôm sau, có người đem việc ấy tâu với vua nước Câu-thiểm-di. Sau đó, Sa-già-đà du hóa đến nước kia và được vua cúng cho thức ăn ngon và rượu đen. Sa-già-đà ăn uống no đủ, say nằm giữa trên đường. Đức Phật biết việc, sau khi nói mười lỗi và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, uống rượu, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên. 

- Uống rượu: rượu nấu từ cây, rượu nấu từ lúa tẻ, rượu nấu từ gạo, rượu nấu từ đại mạch; hoặc các phương pháp biến chế rượu khác, đều gọi là rượu.

- Ba-dật-đề: hoặc những thứ chẳng phải rượu nhưng có sắc rượu, hương rượu, vị rượu, đều không được uống. Hoặc nấu rượu, pha rượu, ăn, uống tât cả đều phạm tội đọa. Nếu uống vị ngọt của rượu, uống vị chua của rượu, ăn men rượu, hèm rượu, tất cả đều phạm đột-kiết-la. Rượu mà khởi ư tưởng là rượu; rượu mà nghi là rượu; rượu mà không có ư tưởng là rượu, đều phạm tội đọa.

- Trường hợp không phạm: nếu có bệnh, những thuốc khác trị không khỏi, lấy rượu làm thuốc; hoặc lấy rượu thoa vết thương, tất cả đều không phạm.

52. Giới Đùa Giỡn Trong Nước

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm mười bảy t́-kheo đùa giỡn trong sông A-ḱ-la-bà-đề tạt nước qua lại với nhau. Lúc ấy, vua Ba-tư-nặc và phu nhân Mạt-lợi đang ở trên lầu cao nh́n thấy vậy, vua nói với phu nhân Mạt lợi: “Nàng nh́n xem những người mà nàng tôn thờ ḱa!” Phu nhân tâu: “Đó là những người trẻ tuổi mới xuất gia; hoặc những người lớn tuổi nhưng si không biết ǵ.” Rồi bà khéo léo sai người mang gói đường phèn đến cúng dường Phật và tŕnh bày mọi việc đă xảy ra. Nhân đó, Đức Phật chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, đùa giỡn trong nước, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Đùa giỡn trong nước: buông lung theo ư muốn, từ bờ này bơi qua bờ kia, thuận ḍng, nghịch ḍng, hoặc lặn chỗ này nổi lên chỗ kia, hoặc dùng tay vẽ trên nước, hoặc tạt nước qua lại với nhau. Cho đến, dùng b́nh bát đựng đầy nước đđùa giỡn.

- Ba-dật-đề: ngoài nước ra, hoặc dùng sữa, rượu đắng, nước vo gạo, đựng trong đđđùa giỡn, tất cả đều phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: hoặc trên đường đi phải lội qua sống; hoặc từ bờ này đến bờ kia; hoặc kéo tre, gỗ, nong thuận ḍng, nghịch ḍng, lên trên, xuống dưới; hoặc lấy đá, cát; hoặc v́ mất vật nên phải lặn xuống đáy để t́m; hoặc lặn chỗ này nổi chỗ kia; hoặc học bơi nên phải dang tay quạt nước; tất cả đều không phạm.

53. Giới Thọc Cù Nôn

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, một người nhóm sáu thầy t́-kheo thọc léc một người trong nhóm mười bảy thầy t́-kheo, đến nỗi khiến vị kia chết. Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, dùng ngón tay thọc léc nhau, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Ngón tay: tay và chân có mười ngón.

- Thọc léc nhau, ba-dật-đề: ngoài ngón tay, ngón chân ra, nếu dùng gậy, phất trần, cây gài cửa, và những vật khác để thọc léc th́ phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: không cố ư làm; hoặc đang ngủ cần xúc chạm đđánh thức; hoặc ra vào tới lui; hoặc quét đất đụng phải; hoặc đầu gậy chạm phải người khác, tất cả đều không phạm.

54. Giới Không Nghe Lời Can Gián

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Câu-thiểm-t́. Bấy giờ, Xiển-đà sắp phạm giới, các t́-kheo can gián: “Thầy chớ có ư nghĩ như vậy. Thầy không nên như vậy.” Mặc dù vậy, Xiển-đề vẫn không nghe lời can gián của các t́-kheo nên phạm các tội. Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách rồi chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, không nhận lời can gián, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Không nhận lời can gián, ba-dật-đề: nếu người khác can ngăn, bảo chớ làm những điều không nên làm như vậy, nhưng người ấy vẫn cố làm, nên phạm căn bản. V́ không nghe theo lời phạm đột-kiết-la. Nếu tự biết ḿnh làm như vậy là sai, nhưng vẫn cố làm, nên phạm căn bản. V́ không nghe theo lời phạm ba-dật-đề.

- Trường hợp không phạm: nếu người vô trí đến can ngăn, th́ nên nói với người ấy: “Ông nên hỏi thầy ḥa thượng của ông và học hỏi, tụng kinh thêm, để biết pháp can gián.” Hoặc can gián th́ nên nghe theo; hoặc giỡn cười; hoặc nói một ḿnh; hoặc nói trong mộng; hoặc muốn nói việc này lại nói việc kia; tất cả đều không phạm.

55. Giới Dọa Nhát T́-Kheo

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Ba-la-lê-t́. Bấy giờ, Na-ca-ba-la đứng hầu hai bên Đức Phật. Theo pháp thường của các Đức Phật, nếu khi đang đi kinh hành, người cúng dường đứng đầu con đường kinh hành. Khi ấy, t́-kheo Na-ca-ba-la biết đầu đêm, giữa đêm, cuối đêm đă qua nên thỉnh Phật trở về. Nhưng Đức Phật vẫn im lặng. Thấy vậy, Na-ca-ba-la kéo ngược y câu-chấp trùm lên đầu để dọa Phật. Sáng hôm sau, Đức Phật cho tập hợp Tăng. Nhân đó, Đức Phật chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, dọa t́-kheo khác, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Dọa t́-kheo khác, ba-dật-đề: hoặc dùng sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp để dọa người sợ. Người kia sợ hay không sợ đều phạm tội đọa. Người kia không biết th́ phạm đột-kiết-la. Hoặc nói sắc, thanh, v.v… và sáu trần để dọa sợ người, nói rơ ràng phạm ba-dật-đề; nói không rơ ràng phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: hoặc ngồi chỗ tối không có lửa; hoặc ở chỗ nhà vệ sinh, rồi cho là thú dữ nên sợ hăi. Cho đến nghe tiếng người đi, tiếng ho, tiếng va chạm rồi sinh sợ hăi. Hoặc dùng sắc v.v… chỉ cho người, nhưng không có ư làm cho người sợ. Hoặc thật có tướng như vậy; hoặc mộng thấy sẽ chết, bỏ đạo, mất vật dụng, ḥa thượng, cha mẹ bệnh nặng, hoặc chết, rồi nói cho người kia biết. Hoặc nói giỡn, hoặc nói lầm; tất cả đều không phạm.

56.Giới Nửa Tháng Tắm Quá Lần

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở thành La-duyệt-ḱ. Ở đó, có vườn trúc, trong  vườn có một cái ao. Bấy giờ, vua B́nh-sa cho phép các t́-kheo thường đến ao đó tắm. Một hôm, vào lúc cuối đêm rồi mà nhóm sáu thầy t́-kheo c̣n đến ao tắm. Cùng lúc ấy, vua cùng với thể nữ cũng đến ao tắm nên gặp nhau. Cho nên, vua không tắm được. V́ thế, các vị đại thần chê bai và nổi giận. Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo, nửa tháng nên tắm một lần; t́-kheo không có bệnh phải tuân thủ, nếu tắm quá, trừ thời gian khác, ba-dật-đề. Trừ trường hợp đặc biệt là thời gian nóng bức, khi bệnh, lúc làm việc, khi mưa gió, lúc đi đường, đó là những trường hợp đặc biệt.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Nửa tháng nên tắm một lần: c̣n trong thời gian nửa tháng mà tắm th́ gọi là quá.

- T́-kheo không có bệnh phải tuân thủ, nếu quá, trừ thời gian khác, ba-dật-đề. Trừ trường hợp đặc biệt là thời gian nóng bức: bốn mươi lăm ngày cuối mùa xuân và một tháng đầu mùa hạ là thời gian nóng bức.

- Khi bệnh: cho đến thân thể bị hôi nhơ gọi là bệnh.

- Lúc làm việc: cho đến chỉ quét dọn phía trước pḥng.

- Khi mưa gió: cho đến một cơn gió xoáy, một giọt mưa rơi dính thân.

- Lúc đi đường: cho đến đi nửa do-tuần, hoặc đi tới, đi lui.

- Đó là những trường hợp đặc biệt: nếu người kia tắm quá, kể cả chỉ tắm khắp thân, một nửa thân đều phạm tội đọa; phương tiện rồi sinh hối hận phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: như những nhân duyên được khai đă nói ở trên th́ được tắm nhiều lần; hoặc bị thế lực cưỡng bức phải tắm, tất cả đều không phạm.

57. Đốt Lửa Ở Chỗ Đất Trống

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở thành Khoáng-dă. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo bàn với nhau: “Trước mặt Thượng tọa chúng ta không được tùy ư nói năng.” Rồi họ liền ra chỗ đất trống gôm củi, cỏ đốt lửa hướng về phía Thượng tọa. Khi ấy trong gốc cây có con rắn độc bị khói lửa xông nóng nên ḅ ra. Nhóm sáu thầy t́-kheo thấy rắn ḅ tới hoảng sợ ném lửa tung tóe, nên làm cháy giảng đường của Phật. Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, không bệnh, v́ ḿnh tự nhóm lửa nơi đất trống, hoặc sai người nhóm, ba-dật-đề. Trừ có nhân duyên.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Không bệnh: người bệnh cần lửa để sưởi ấm thân.

- V́ ḿnh tự nhóm lửa nơi đất trống, hoặc sai người nhóm, ba-dật-đề. Trừ có nhân duyên: người kia ở chỗ đất trống hoặc lấy cỏ, lá cây, nhánh, lá, sợi gai, sô ma, hoặc phân ḅ, cám, trấu… dùng để nhóm lửa phạm ba-dật-đề. Nếu lấy lửa để lên trên cỏ, cây cho đến trấu… cũng phạm tội đọa. Nếu lấy những nhiên liệu đă bị cháy nám một nửa ném vào trong lửa và đốt than th́ phạm đột-kiết-la. Nếu không báo cho người đối diện: “Người xem cho, biết cho!” th́ cũng phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: nói với người đối diện: “Biết cho, xem cho!” Hoặc người bệnh tự đốt, hoặc sai người đốt. Hoặc có nhân duyên chăm sóc người bệnh, nấu cháo, nấu canh, nấu cơm. Hoặc ở trong nhà bếp, ở trong pḥng tắm; hoặc xông bát; hoặc nấu thuốc nhuộm y; hoặc đốt đèn, đốt hương, tất cả đều không phạm.

58. Giới Cất Giấu Y, Vật Của Người Khác

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, có cư sĩ thỉnh chúng Tăng thụ thực vào sáng ngày mai. Khi ấy nhóm mười bảy thầy t́-kheo mang y bát, tọa cụ, ống đựng kim để một bên rồi thong thả kinh hành chờ đến giờ ăn. Lúc ấy, nhóm sáu thầy t́-kheo ŕnh ở sau lưng rồi lấy y, vật của những người kia giấu. Các t́-kheo xét biết, rồi đem lỗi đó bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, giấu y, bát, tọa cụ, ống đựng kim của t́-kheo khác, hoặc tự ḿnh giấu, hoặc bảo người giấu, cho đến giỡn chơi, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Trường hợp không phạm: nếu biết tướng thể vật của người kia và v́ quen biết nhau nên lấy cất; hoặc để ở nơi đất trống; hoặc v́ sợ gió thổi, mưa thấm ướt mà lấy cất; hoặc người chủ của vật vứt bỏ y, vật lung tung, v́ muốn cảnh giới họ nên lấy cất. Hoặc mượn y của người khác mà người kia không thu xếp, v́ sợ mất nên lấy cất; hoặc v́ y, bát và các vật ấy có thể dẫn đến mạng nạn, phạm hạnh nạn v.v… nên lấy cất; tất cả đều không phạm.

59. Giới Tự Tiện Dùng Y Không Hỏi Chủ

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo thật ḷng cúng y cho t́-kheo quen thân rồi. Sau đó, không nói với chủ nhân mà lấy mặc. Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, dức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, đă cho y cho t́-kheo, t́-kheo-ni, thức-xoa-ma-na, sa-di, sa-di ni, về sau không nói với người chủ mà lấy lại mặc, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên. 

- Trường hợp không phạm: thật ḷng cúng, nói với người chủ; triển chuyển thí; tùy ư lấy mặc, tất cả đều không phạm.

60. Giới Mặc Y  Mới

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy mặc y trắng mà đi. V́ thế, bị hàng cư sĩ cơ hiềm là không có chính pháp, ăn mặc như vua, đại thần. Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, nhận được y mới, tùy ư sử dụng một trong ba màu hoặc là xanh, hoặc đen, hoặc mộc lan nên làm cho hoại sắc; nếu không mà cho hoại sắc bằng ba thứ hoặc xanh, hoặc đen, hoặc mộc lan, mà mặc nguyên y mới, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Nhận được y mới: hoặc bản chất là y mới; hoặc mới nhận được từ người.

- Tùy ư sử dụng một trong ba màu hoặc là xanh, hoặc đen, hoặc mộc lan nên làm cho hoại sắc: Luật chú thích rằng: “Ở đây nói tịnh là, hoặc nhuộm làm màu gọi là tịnh. Nếu y đă thành tịnh sắc rồi th́ nên lấy những vật khác có màu khác đập lên một chỗ làm dấu để nhận biết cũng gọi là tịnh. Từ đây về sau hoặc là y, hoặc chẳng phải y, th́ đó là vật không được dùng, đều phải làm dấu để nhận biết rồi mới cất chứa. Nói ‘trùng’ là chỉ cho thảm, nệm bằng lông. Đó là một lớp bên trong y.

- Nếu không mà cho hoại sắc bằng ba thứ hoặc xanh, hoặc đen, hoặc mộc lan, mà mặc nguyên y mới, ba-dật-đề: t́-kheo kia nhận được y mà không nhuộm làm thành ba loại màu như đă nêu mà cất chứa liền th́ phạm tội đọa. Nếu được y kép không làm pháp điểm tịnh mà cất chứa th́ phạm đột-kiết-la. Nếu không phải y, túi đựng bát, túi đựng giày, túi đựng kim chỉ, dây ngồi thiền, dây buộc lưng, khăn bịt đầu, cái bít tất, khăn lau mồ hôi, khăn gói giày dép, không làm pháp tịnh mà cất chứa th́ phạm đột-kiết-la. Nếu đem y chưa làm pháp điểm tịnh gửi ở nhà bạch y th́ phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: nhận được vải trắng nhuộm làm thành ba màu. Ngoài ra được y kép, y đơn cho đến các loại khăn tác tịnh rồi mới cất chứa, th́ không phạm.

61. Giới Cố Ư Giết Súc Sinh

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, tôn giả Ca-lưu-đà-di không thích thấy quạ, nên làm cung tre bắn chúng, cho đến bắn xác quạ chất thành đống lớn trong tăng-già-lam. Khi ấy hàng cư sĩđến tăng-già-lam lễ bái thấy vậy cùng nhau cơ hiềm. Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, cố ư đoạn mạng sống loài vật, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Cố ư: bấy giờ các t́-kheo sau khi ngồi thiền đứng dậy đi lại đạp chết các loại côn trùng nhỏ nhít; nên hoặc có người làm pháp sám hối ba-dật-đề; hoặc có người sợ phạm giới; Đức Phật dạy: “Không biết th́ không phạm.”

- Đoạn: hoặc tự tay đoạn, hoặc bảo người đoạn.

- Mạng loài vật: là loài không có khả năng biến hóa.

- Ba-dật-đề: t́-kheo-ni cũng phạm như t́-kheo. Các trường hợp khai, giống như giới giết người.

62. Giới Uống Nước Có Trùng

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo lấy nước có tạp trùng uống và sử dụng. Hàng cư sĩ thấy vậy cơ hiềm. Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, biết nước có tạp trùng mà uống hoặc dùng, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Biết: không biết có trùng th́ không phạm.

- Nước: ngoài nước ra, tạp trùng trong chất lỏng, trong giấm, trong sữa trong, trong nước lúa mạch mà uống hoặc sử dụng, đều phạm ba-dật-đề.

- Có tạp trùng mà uống hoặc dùng, ba-dật-đề: t́-kheo-ni phạm như t́-kheo.

- Trường hợp không phạm: trước không biết, hoặc tưởng không có trùng, hoặc trùng lớn khi khua động nước th́ chúng tránh đi, hoặc lọc nước rồi mới uống, sử dụng; tất cả đều không phạm.

63. Giới Làm T́-Kheo Nghi Ngờ Và Buồn Phiền

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm mười bảy thầy t́-kheo hỏi nhóm sáu thầy t́-kheo: “Thế nào là vào sơ thiền?” Cho đến, thế nào thế nào đắc quả A-la-hán?” Nhóm sáu thầy t́-kheo trả lời: “Những ǵ các thầy vừa hỏi, th́ đă phạm ba-la-di rồi.” Sau đó, nhóm mười bảy thầy t́-kheo đến hỏi một t́-kheo khác về việc đó, và vị t́-kheo ấy khiển trách nhóm mười sáu thầy t́-kheo. Nhân đó, Đức Phật chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, cố ư gieo nghi ngờ hoang mang cho người khác, khiến cho không an tâm, dù chỉ trong chốt lát, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Cố ư: Lúc bấy giờ có số đông t́-kheo thường tập họp tại một chỗ cùng nhau bàn luận về pháp. Trong số đó có một t́-kheo bỏ đi. Sau khi đi rồi, vị ấy khởi tâm nghi ngờ, cho rằng: “Các vị t́-kheo kia đă làm cho tôi nghi ngờ.” Đức Phật dạy: “Không cố ư làm th́ không phạm.”

- Gieo nghi ngờ hoang mang cho người khác: nghi ngờ là: hoặc là nghi ngờ về sự sinh, về tuổi tác, về thụ giới, về yết-ma, về phạm, về pháp.

- Khiến cho không an tâm, dù chỉ trong chốt lát, ba-dật-đề: T́-kheo-ni phạm như t́-kheo.

- Trường hợp không phạm: việc ấy thật như vậy; không cố ư. Người kia không phải sinh vào khoảng thời gian ấy. Sợ sau này họ nghi ngờ và hối hận, vô cớ mà để cho họ nhận sự cúng dường của người khác, hoặc nhận sự kính lễ của đại t́-kheo nên nói: “Không phải thầy sinh vào khoảng thời gian đó, v́ so với thời gian sinh của người khác, nên biết được không phải thầy sinh trong khoảng thời gian ấy.”

 Việc ấy thật là như thế. Người kia không phải đă được chừng ấy tuổi. V́ sợ sau này họ sinh nghi ngờ, hối hận, vô cớ nhận lợi dưỡng, kính phụng của người khác, nên nói: “Thầy chưa được chừng ấy tuổi, v́ so với những t́-kheo khác, nên biết thầy chưa được chừng ấy tuổi.”

Việc ấy sự thật là như vậy. Nếu chưa đủ hai mươi tuổi, ở trong nội giới biệt chúng, sợ sau này họ sinh nghi ngờ, hối hận, vô cớ nhận sự cúng dường, kính lễ của người khác, nên phải nói cho người kia biết để họ trở về vị trí cũ và thụ giới lại.

Việc ấy sự thật là như vậy. V́ bạch không thành, yết-ma không thành, phi pháp biệt chúng. V́ sợ sau này họ sinh nghi ngờ, hối hận, vô cớ nhận sự cúng dường, kính lễ của người khác, nên nói để người kia biết trở về vị trí cũ và thụ giới lại.

Việc ấy sự thật là như vậy. Người ấy phạm ba-la-di cho đến phạm ác thuyết, v́ sợ sau này họ nghi ngờ, hối hận, vô cớ nhận sự cúng dường của người khác, nhận sự lễ kính của t́-kheo giữ giới. V́ muốn cho họ biết và sám hối như pháp, nên nói cho biết họ đă phạm ba-la-di cho đến phạm ác thuyết.

Hoặc v́ người tính cạn cợt, không biết nói năng, nên nói: “Thấy nói như thế là tự xưng ḿnh được pháp thượng nhân.” Hoặc nói sai, hoặc nói đùa; tất cả đều không phạm.

64. Giới Che Giấu Tội Của T́-Kheo

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, t́-kheo Bạt-nan-đà quen thân với một t́-kheo khác. Nhưng v́ t́-kheo Bạt-nan-đà nhiều lần phạm giới, nên mới đến nói với t́-kheo kia: “Thầy chớ nói cho người khác biết!” Sau đó, t́-kheo Bạt-nan-đà mâu thuẫn với t́-kheo kia. V́ vậy, t́-kheo kia đến nói với các t́-kheo là Bạt-nan-đà phạm tội. Các t́-kheo hỏi: “Sao giờ ông mới nói”? T́-kheo kia nói: “V́ không nhịn chịu được nữa nên nói.” Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, đă biết t́-kheo khác phạm thô tội mà che giấu, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Biết: nếu không biết th́ không phạm.

- T́-kheo khác phạm thô tội: bốn tội ba-la-di, tăng-già-bà-thi-sa.

- Che giấu: nếu t́-kheo này biết t́-kheo khác phạm thô tội, biết vào lúc tiểu thực đến lúc ăn xong mới nói; hoặc ăn xong mới biết đến đầu mới nói; hoặc biết lúc đầu đêm đến giữa đêm mới nói; tất cả đều phạm đột-kiết-la. Hoặc biết lúc giữa đêm đến cuối đêm muốn nói nhưng không  nói, đến khi minh tướng xuất hiện th́ phạm ba-dật-đề. Trừ thô tội, che giấu những tội khác; tự che giấu tội; trừ t́-kheo-ni, che giấu tội của những người khác; tất cả đều phạm đột-kiết-la.

- Ba-dật-đề: t́-kheo-ni phạm như t́-kheo.

- Trường hợp không phạm: trước không biết, tưởng không phải là thô tội, hoặc nói với người, không có người để nói, hoặc gặp mạng nạn, phạm hạnh nạn; tất cả đều không phạm.

65. Giới Cho Người Chưa Đủ Tuổi Thụ Giới Cụ Túc

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở thành La-duyệt. Bấy giờ, trong thành có mười bảy đồng tử. Người lớn nhất 17 tuổi, người nhỏ nhất 11 tuổi; v́ tín tâm mà xuất gia. Các t́-kheo liền cho xuất gia và thụ đại giới. Nhưng v́ những người ấy, tuổi c̣n trẻ không chịu được ngày ăn một bữa, nên nửa đêm đói bụng, kêu khóc vang rền. Đức Phật tỉnh giấc và hỏi ra mới biết việc như vậy. Lúc ấy, đêm đă qua, Phật cho tụ tập Tăng và lập pháp chế: “Người đủ hai mươi tuổi mới cho thụ đại giới.” Phật dạy: “Nếu người chưa đủ hai mươi tuổi th́ không thể kham chịu lạnh nóng, đói khát, gió mưa, muỗi ṃng, độc trùng và những lời hung dữ. Nếu thân có các khổ đau th́ không thể chịu được. Lại nữa, không thể tŕ giới, không thể ăn một bữa. V́ hai mươi tuổi mới đủ sức kham chịu được những việc khó khổ như trên.

b. Văn giới

T́-kheo nào, người đủ hai mươi tuổi mới cho thụ đại giới; nếu biết người chưa đủ hai mươi tuổi mà cho thụ đại giới, th́ người ấy không đắc giới, c̣n t́-kheo kia bị quở trách là người si, phạm ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Biết: không biết th́ không phạm.

- Người chưa đủ hai mươi tuổi mà cho thụ đại giới, th́ người ấy không đắc giới, c̣n t́-kheo kia bị quở trách là người si, phạm ba-dật-đề: người thụ giới kia biết ḿnh chưa đủ 20 tuổi. Ḥa thượng và Tăng cũng biết như vậy. Nhưng khi ở trong chúng hỏi: “Ông đủ hai mươi tuổi chưa?” Người kia trả lời: “Hoặc đủ, hoặc chưa đủ, hoặc nghi, hoặc không biết, hoặc im lặng, hoặc Tăng không hỏi.” Trong bốn trường hợp ấy, hoặc biết, hoặc nghi… ḥa thượng phạm ba-dật-đề, chúng Tăng phạm đột-kiết-la. Nếu nói không biết th́ đều không phạm. Nếu thụ ba lần yết-ma xong, th́ ḥa thượng phạm tội đọa. Hoặc trong lúc đang bạch, hoặc bạch chưa xong, hoặc mới làm tiền phương tiện, hoặc mới cạo tóc, hoặc mới tập họp Tăng, ḥa thượng tất cả phạm đột-kiết-la. Chúng Tăng cũng phạm như vậy. T́-kheo-ni phạm ba-dật-đề.

- Trường hợp không phạm: trước không biết, tin người thụ giới nói, hoặc người bên cạnh nói, hoặc cha mẹ có tín tâm nói, hoặc đă thụ giới rồi nghi. Đức Phật dạy: “Nên tính số năm tháng trong thai, số tháng nhuần, hoặc tính tất cả mười bốn ngày thuyết giới để làm số năm, nếu đủ th́ không phạm.”

66. Giới Khởi Lại Bốn Tránh Sự

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo tranh chấp và đă như pháp diệt rồi. Sau đó, họ lại khơi dậy. Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, biết tránh sự đă được như pháp sám hối rồi, sau đó lại khơi dậy, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Biết: nếu không biết như pháp diệt rồi th́ không phạm.

- Tránh sự: có bốn loại: ngôn tránh, mịch tránh, phạm tránh và sự tránh.

- Như pháp sám hối rồi: như pháp, như luật, như lời Phật dạy.

- Sáu đó lại khơi dậy, ba-dật-đề: nói không rơ ràng phạm đột-kiết-la. Trừ tránh sự này ra, nếu khơi dậy những việc đấu tranh mắng nhiếc khác; hoặc khơi lại việc đấu tranh của ḿnh; trừ hai chúng ra, nếu đấu tranh và khơi lại với những người khác th́ tất cả đều phạm đột-kiết-la. T́-kheo-ni phạm như t́-kheo.

- Trường hợp không phạm: nếu trước không biết, hoặc quán sát, tưởng không quán sát; hoặc sự thật là như vậy; hoặc lợi nói không khéo quán sát v.v…. hoặc nói giỡn, hoặc nói lầm, tất cả đều không phạm.

67. Giới Hẹn Với Cướp Đi Chung

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, có số đông t́-kheo từ Xá-vệ đến T́-xá-li. Lúc ấy, có đoàn khách buôn muốn lén qua ải để trốn nộp thuế cho vua. Họ kết bạn với các t́-kheo rồi đi chung. Nhưng họ bị quan giữ ải bắt lại và dẫn đến chỗ vua. Và tội đi chung với những người ấy đáng phải chết. V́ thế, các t́-kheo bị vua và người đời chê trách. Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, biết đó là đồng bọn giặc cướp mà giao hẹn cùng đi chung đường, cho đến khoảng cách giữa hai thôn, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Biết: nếu không biết, không kết giao th́ đều không phạm.

- Bọn giặc: hoặc đi cướp rồi trở về, hoặc mới định đi.

- Mà giao hẹn cùng đi chung đường: giao hẹn: hẹn nhau cùng đến thành nào đó, hoặc đến thôn nào đó. Đường: là đường ở khắp nơi ở giữa hai thôn.

- Cho đến khoảng cách giữa hai thôn,ba-dật-đề: hoặc đi đến các nơi giữa hai thôn, đi đến các đường, hoặc đi đến một đường, hoặc nơi không có thôn, chỗ khoảng đồng trống, không có ranh giới, đi chung mười lí th́ phạm ba-dật-đề. Hoặc cùng đi nửa đường giữa hai thôn, hoặc đi chưa được mười lí, hoặc đi trong phạm vi một thôn, hoặc phương tiện cùng đi, hoặc không đi, tất cả đều phạm đột-kiết-la. T́-kheo-ni phạm như t́-kheo.

- Trường hợp không phạm: hoặc đi theo mới được được an ổn đến chỗ cần đến; hoặc v́ mạng nạn, phạm hạnh nạn, hoặc bị thế lực ép buộc, tất cả đều không phạm.

68. Giới Nói Dục Không Chướng Đạo Chống Lại Sự Can Gián Của Tăng

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, t́-kheo A-lê-tra sinh ác kiến nói rằng: “Tôi hiểu Phật dạy hành dâm dục không chướng đạo.” Các t́-kheo can gián và khuyến dụ nhưng t́-kheo A-lê-tra không xả bỏ. Các t́-kheo đem việc ấy bạch Phật. Đức Phật hỏi t́-kheo A-lê-tra về việc ấy và t́-kheo A-lê-tra cũng xác nhận có nói việc ấy. Lúc ấy, Đức Phật cho tập họp Tăng bạch tứ yết-ma can gián và quở trách rồi chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, nói như vầy: “Tôi biết, theo pháp do dức Phật nói, sự hành dâm dục chẳng phải là pháp chướng đạo.” Các t́-kheo kia nên can gián t́-kheo này rằng: “Đại đức, chớ nói như vậy; chớ xuyên tạc đức Thế Tôn; xuyên tạc đức Thế Tôn là không tốt. Đức Thế Tôn không nói như vậy. Đức Thế Tôn bằng vô số phương tiện nói rằng sự hành dâm dục là pháp chướng đạo.” Khi các t́-kheo kia can gián t́-kheo này mà t́-kheo này kiên tŕ không bỏ, th́ các t́-kheo kia nên can gián ba lần cho bỏ sự này. Nếu can gián ba lần, bỏ th́ tốt, không bỏ, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

T́-kheo-ni phạm như t́-kheo. Những trường hợp khác giống như giới can gián trước, chỉ có tên tội là hơn, kém khác nhau thôi.

69. Giới Hỗ Trợ T́-Kheo Bị Cử Tội

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, t́-kheo A-lê-tra sinh ác kiến, Tăng can gián nhưng không chịu xả bỏ. Đức Phật dạy nên làm pháp bạch tứ yết-ma cử tội A-lê-tra. Lúc ấy, nhóm sáu thầy t́-kheo cung cấp cho t́-kheo A-lê-tra những thứ cần dùng và cùng chung yết-ma. Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách rồi chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, biết người nói lời như vậy, chưa được tác pháp, có tà kiến như vậy mà chưa bỏ, lại cung cấp những thứ cần dùng, cùng chung yết-ma, cùng ngủ nghỉ, cùng nói chuyện, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Biết: nếu ban đầu không biết, sau đó mới biết th́ không phạm.

- Người nói lời như vậy: nói lời như thế này: “Tôi nghe Thế Tôn nói pháp hành dâm dục là pháp không chướng đạo.”

- Chưa được tác pháp: hoặc bị tác cử nhưng chưa giải.

- Có tà kiến như vậy: nói biết như thế này: “Tôi biết pháp Thế Tôn nói chẳng phải pháp chướng đạo.”

- Mà chưa bỏ: chúng Tăng quở trách, can gián mà không xả bỏ ác kiến.

- Lại cung cấp những thứ cần dùng: gồm có hai loại: hoặc là pháp, hoặc là tài vật. Pháp: dạy tu tập tăng thượng giới, tăng thượng ư, tăng thượng trí, học vấn, tụng kinh. Tài vật: cung cấp y phục, thức ăn uống, giường, nệm, thuốc thang.

- Cùng chung yết-ma: cùng thuyết giới v.v…

- Cùng ngủ chung: pḥng có bốn vách, lợp và che chắn tất cả; hoặc lợp tất cả nhưng không che chắn tất cả; hoặc che chắn tất cả nhưng không lợp tất cả; hoặc lợp không hết, che chắn không hết.

- Cùng nói chuyện: hoặc t́-kheo vào pḥng trước, rồi người kia vào sau; hoặc người kia vào đến trước; hoặc cả hai cùng vào; tùy hông chạm đất mỗi mỗi đều phạm tội đọa.

- Ba-dật-đề: t́-kheo-ni phạm như t́-kheo.

- Trường hợp không phạm: hoặc không biết; hoặc pḥng được lợp hết nhưng bốn bên không ngăn che; hoặc ngăn che một nửa; hoặc ngăn che một ít; hoặc ngăn che tất cả nhưng không lợp, lợp một nửa, lợp một ít; hoặc lợp một nửa, ngăn che một nửa; hoặc lợp một ít, ngăn che một ít; hoặc nơi đất trống; hoặc bị bệnh; bị trói; hoặc v́ mạng nạn, phạm hạnh nạn, tất cả đều không phạm.

70. Giới Giúp Đỡ Sa-Di Bị Đuổi

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, hai sa-di của t́-kheo Bạt-na-đà cùng làm việc bất tịnh. Đă vậy, hai sa-di c̣n nói với nhau: “Chúng tôi được nghe pháp từ Phật nói, hành dâm dục không chướng đạo.” Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Đức Phật cho làm pháp bạch tứ yết-ma can gián để họ xả bỏ, nhưng họ không xả bỏ nên bị đuổi. Lúc ấy, nhóm sáu thầy t́-kheo dụ dẫn đem về nuôi dưỡng. Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, biết sa-di nói như vầy: “Tôi nghe pháp từ Đức Phật, nói rằng: ‘Hành dâm dục chẳng phải là pháp chướng đạo.’” Các t́-kheo kia nên can gián sa-di ấy như thế này: “Các người đừng phỉ báng đức Thế Tôn, phỉ báng đức Thế Tôn là không tốt. Đức Thế Tôn không nói như vậy. Này sa-di, đức Thế Tôn bằng vô số phương tiện nói hành dâm dục là pháp chướng đạo.” Khi các t́-kheo kia can gián sa-di ấy mà vẫn kiên tŕ không bỏ. Các t́-kheo nên can gián cho đến ba lần, khiến cho sa-di bỏ việc này. Cho đến ba lần can gián mà bỏ th́ tốt; nếu không bỏ, th́ các t́-kheo kia nên nói với sa-di ấy rằng: “Từ nay về sau các ông không được nói rằng: ‘Đức Phật là Thế Tôn của tôi.’ Không được đi theo các t́-kheo khác. Các sa-di khác được phép cùng ngủ hai, ba đêm với t́-kheo, nhưng này ông không được phép đó. Ông phải ra khỏi nơi này, không nên ở đây nữa.” Nếu t́-kheo biết sa-di đă bị đuổi ở trong chúng như vậy, mà vẫn dụ dẫn đem về nuôi dưỡng, cùng ngủ chung, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.   

- Biết: không biết th́ không phạm.

- Bị đuổi: Tăng tác pháp bạch tứ yết-ma đuổi.

- Dụ dẫn đem về nuôi dưỡng: nuôi dưỡng: hoặc tự nuôi, hoặc cho người nuôi. Dụ dẫn: hoặc tự dụ dẫn, hoặc sai người dụ dẫn.

- Cùng ngủ chung: như giải thích ở trên.

- Ba-dật-đề: t́-kheo-ni phạm như t́-kheo. Phần khai duyên giống như trên.

71. Giới Chống Lại Sự Khuyên Học

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Câu-thiểm-t́. Bấy giờ, các t́-kheo như pháp can gián t́-kheo Xiển-đà, nhưng t́-kheo Xiển-đà không nghe mà c̣n nói lại: “Nay tôi không học giới này. Tôi sẽ hỏi những t́-kheo có trí tuệ, tŕ luật khác.” Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, khi được các t́-kheo khác như pháp can gián lại nói như vầy: “Nay tôi không học giới này. Tôi sẽ nạn vấn các t́-kheo trí luật có trí tuệ khác đă”, ba-dật-đề. Nếu v́ muốn biết hay v́ muốn học th́ mới nên nạn vấn.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên. 

- Như pháp: như pháp, như luật, như lời Phật dạy.

- Ba-dật-đề: nếu nói nhưng không rơ ràng th́ phạm đột-kiết-la. T́-kheo-ni phạm như t́-kheo.

- Trường hợp không phạm: nếu t́-kheo can gián kia ngu si, không hiểu được lời can gián, th́ t́-kheo này nên nói: “Thầy nên trở về hỏi ḥa thượng A-xà-lê của thầy đă. Thầy nên học thêm, tụng kinh thêm.” Hoặc việc ấy đúng thật như thế; tất cả đều không phạm.

72. Giới Chê Học Giới

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, các t́-kheo cùng tập họp để tụng pháp t́-ni. Lúc ấy, nhóm sáu thầy t́-kheo bàn với nhau rằng: “Các t́-kheo cùng tập họp tụng luật thông suốt, ắt sẽ thường xuyên cử tội chúng ta.” Rồi họ đến chỗ các t́-kheo nói rằng: “Trưởng lăo, tụng các giới vụn vặt này làm ǵ? Trưởng lăo nên tụng bốn sự cho đến tụng mười ba sự.” Các t́-kheo biết nhóm sáu thầy t́-kheo này muốn diệt pháp, nên đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, khi thuyết giới, nói như vầy: “Đại đức, thuyết những giới vụn vặt như vậy để làm ǵ? Khi nói những giới ấy khiến cho người sinh ra hoài nghi, phiền muộn, xấu hổ”; v́ khinh chê giới, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Khi thuyết giới: hoặc là khi tự ḿnh nói giới, hoặc khi người khác nói giới; hoặc khi tụng giới.

- Nói như vầy: Đại đức, thuyết những giới vụn vặt như vậy để làm ǵ?: nói: “Trưởng lăo, nếu muốn tụng th́ nên tụng bốn việc; nếu muốn tụng nhiều hơn th́ nên tụng bốn việc đến mười ba việc, c̣n những giới khác không cần phải tụng. V́ sao?”

- Khi nói những giới ấy khiến cho người sinh ra hoài nghi, phiền muộn, xấu hổ; v́ khinh chê giới, ba-dật-đề: nếu nói rơ ràng th́ phạm đột-kiết-la. Chê bai t́-ni th́ phạm ba-dật-đề. Chê bai A-t́-đàm và các khế kinh khác th́ phạm đột-kiết-la. T́-kheo-ni phạm như t́-kheo.

- Trường hợp không phạm: Hoặc nói, trước tụng A-t́-đàm sau đó mới tụng luật, hoặc nói trước tụng các khế kinh sau đó mới tụng luật. Hoặc có người bệnh cần phải đợi cho lành rồi mới tụng luật. Ở trong Phật pháp phải khuyên cầu phương tiện đẻ thành tựu bốn quả sa-môn, sau đó sẽ tụng luật. Hoặc không muốn diệt pháp; hoặc nói lầm, tất cả đều không phạm.

73. Giới Sợ Cử Tội Nên Nói Trước

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, một người trong nhóm sáu thầy t́-kheo, đang nói đến lời tựa của giới kinh, biết ḿnh có tội chướng, v́ sợ phát hiện và cử tội nên đến gặp một t́-kheo thanh tịnh trước nói rằng: “Nay tôi mới biết pháp này. Pháp này được chép trong giới kinh, nửa tháng nói một lần, rút ra từ giới kinh.” Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, khi nói giới, nói như vầy: “Nay tôi mới biết pháp này ghi trong giới kinh mỗi nửa tháng tụng một lần, xuất từ trong giới kinh.” Các t́-kheo khác biết t́-kheo này không những hai, ba lần mà nhiều lần có ngồi trong chỗ thuyết giới. T́-kheo kia, không phải do v́ không biết, không hiểu. Nếu có tội th́ nên xử trị như pháp, lại chồng thêm tội vô tri, bảo rằng: “Trưởng lăo, thật không ích lợi, không có sở đắc tốt đẹp nào cho ngài, v́ khi tụng giới ngài không dụng tâm suy nghĩ, không một ḷng nhiếp niệm để nghe pháp.” Vị kia, là kẻ vô tri, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Khi nói giới: hoặc tự nói; hoặc người khác nói, hoặc lúc tụng giới.

- Chồng thêm: nếu có tác pháp chồng thêm th́ phạm ba-dật-đề; nếu không tác pháp chồng thêm th́ phạm đột-kiết-la.

- Không dụng tâm suy nghĩ: để tâm suy nghĩ.

- Ba-dật-đề: t́-kheo-ni phạm như t́-kheo.

- Trường hợp không phạm: hoặc là chưa từng nghe nói rộng nay mới được nghe; hoặc nói giỡn, hoặc nói sai, tất cả đều không phạm.

74. Giới Cùng Yết-Ma Sau Đó Sám Hối

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở thành La-duyệt-ḱ. Bấy giờ, t́-kheo Đạp-bà-ma-la Tử làm tri sự cho Tăng. Cho nên, các hội bố thí bên ngoài đều không đến dự. V́ thế, y phục đều bị cũ rách. Sau đó, Tăng được y quí giá, chúng Tăng bạch nhị yết-ma trao y đó cho Đạp-bà-ma-la Tử. Khi ấy, nhóm sáu thầy t́-kheo cũng có mặt ở đó nhưng không nói, để rồi sau đó lại hối hận. Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách rồi chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, sau khi cùng chung yết-ma rồi, lại nói như vầy: “Các t́-kheo, theo chỗ thân hậu mà lấy vật của chúng Tăng đem cho”, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Các t́-kheo theo chỗ thân hậu: cùng ḥa thượng, cùng a-xà-lê, cùng ngồi, cùng đứng dậy, cùng nói chuyện thân mật với nhau.

- Lấy vật của chúng Tăng: vật của Tăng là những vật như ở trên đă nói, gồm: y, bát, ống đựng kim, ni-sư-đàn, cho đến đđựng nước.

- Đem cho, ba-dật-đề: nếu nói rơ ràng phạm đột-kiết-la. T́-kheo-ni phạm như t́-kheo.

- Trường hợp không phạm: việc ấy thật như thế. Theo chỗ quen thân đem vật của Tăng cho, hoặc nói giỡn, hoặc nói nhầm, tất cả đều không phạm.

75. Giới Không Gửi Dục

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, có nhiều t́-kheo tụ họp lại một chỗ để bàn luận về pháp T́-ni. Khi ấy, nhóm sáu thầy t́-kheo nói với nhau rằng: “Hăy nh́n xem, h́nh như các t́-kheo v́ chúng ta làm pháp yết-ma.” Rồi họ đứng dậy bỏ đi. Các t́-kheo gọi họ ở lại nhưng họ vẫn cố bỏ đi. Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, khi chúng Tăng đoán sự chưa xong, không gửi dục, mà đứng dậy bỏ đi, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Chúng tăng: cùng một thuyết giới, cùng một yết-ma.

- Đoán sự chưa xong:  có tám mười việc phá Tăng, gồm pháp, phi pháp cho đến thuyết và không thuyết.

- Không gửi dục: hoặc v́ lo việc của Tăng, hoặc việc chùa tháp, nuôi bệnh, th́ cho phép gửi dục.

- Đứng dậy bỏ đi, ba-dật-đề: nếu đoán sự chưa xong mà đứng dậy chân bước ra khỏi cửa phạm tội đọa; chân c̣n trong cửa; phương tiện muốn đi mà không đi, phạm đột-kiết-la. T́-kheo-ni phạm ba-dật-đề.

- Trường hợp không phạm: hoặc có gửi dục, hoặc bị câm; hoặc yết-ma phi pháp, hoặc Tăng, tháp, chùa, ḥa thượng, A-xà-lê, đồng học làm tổn giảm, nếu không gửi dục mà bỏ đi th́ không phạm.

76. Giới Gửi Dục Rồi Sau Hối Hận

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo v́ sợ cử tội, nên lúc nào sáu người cũng đi chung với nhau. V́ thế, các t́-kheo không biết bằng cách nào để tác pháp yết-ma được. Sau đó, nhân lúc nhóm sáu thầy t́-kheo đang may y, các t́-kheo gọi đến để nhận dục. Ngay lúc ấy, các t́-kheo tác pháp yết-ma cử tội cho một t́-kheo trong nhóm sáu thầy t́-kheo. Sau đó, nhóm sáu thầy t́-kheo nói: “Chúng tôi v́ việc kia mà gửi dục.” Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, gửi dục rồi, sau lại hối, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Gửi dục rồi, sau lại hối: nói thế này: “Các ông làm yết-ma phi pháp, yết-ma không thành. Chúng tôi v́ việc kia mà gửi dục chứ không phải v́ việc này.”

- Ba-dật-đề: nói không rơ ràng phạm đột-kiết-la. T́-kheo-ni phạm như t́-kheo.

- Trường hợp không phạm: việc ấy thật như vậy; làm yết-ma phi pháp; hoặc nói lầm việc kia mà nói việc này; tất cả đều không phạm.

77. Giới Núp Ở Chỗ Khuất Nghe Bốn Tránh Sự

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo nghe các t́-kheo đấu tranh rồi đến nói với người kia làm cho việc tranh căi không c̣n khả năng trừ diệt. Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách rồi chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, sau khi các t́-kheo cùng tranh căi nhau, nghe lời người này đem qua nói với người kia, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Tranh căi: đấu tranh có bốn: ngôn tránh, mịch tránh, phạm tránh và sự tránh.

- Nghe lời người này đem qua nói với người kia: nghe: là lén nghe lời người của khác nói. Hoặc nghe lời nói của  người kia rồi từ đường đến chẳng phải đường, từ cao đến thấp; từ chẳng phải đường đến đường, từ thấp đến cao, đến và nghe.

- Ba-dật-đề: nếu không nghe th́ phạm đột-kiết-la. Hoặc phương tiện định đi nhưng không đi; hoặc cùng hẹn nhau đi nhưng không đi; tất cả đều phạm đột-kiết-la. Hoặc hai người cùng nói chuyện ở chỗ tối; hoặc cùng nói chuyện ở chỗ khuất; nói chuyện với người đi phía trước; hoặc không búng món tay, tằng hắng, để cảnh giác người; tất cả đều phạm đột-kiết-la. T́-kheo-ni phạm như t́-kheo.

- Trường hợp không phạm: hoặc không làm yết-ma không có lợi ích, yết-ma phi pháp; hoặc v́ muốn biết nên cố ư lắng nghe.

78. Giới Đánh T́-Kheo

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, một người trong nhóm sáu thầy t́-kheo v́ sân hận nên đánh một người trong nhóm mười bảy thầy t́-kheo. T́-kheo bị đánh kia la lớn. T́-kheo ở pḥng bên cạnh nghe tiếng la mới hỏi duyên cớ, t́-kheo bị đánh thuật lại đầy đủ. Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, v́ nóng giận, không hoan hỉ, đánh t́-kheo, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- V́ nóng giận, không hoan hỉ, đánh t́-kheo: hoặc đánh bằng tay, đá, gậy v.v…

- Ba-dật-đề: trừ gậy, tay, đá; nếu đánh bằng ch́a khóa cửa, móc câu, cán phất trần, cán thủ hương, cái cùm chân; tất cả đều phạm đột-kiết-la. T́-kheo-ni phạm như t́-kheo.

- Trường hợp không phạm: có bệnh cần phải đấm lưng; hoặc ăn mắc nghẹn cần phải vuốt cho xuống; hoặc nói chuyện với nhau mà không nghe nên phải đụng chạm làm cho nghe; hoặc khi ngủ nằm gác lên thân người khác; hoặc khi đi qua đi lại đụng chạm với nhau; hoặc lúc quét đất cán chổi vô t́nh đụng phải; tất cả đểu không phạm.

79. Giới Nhá Đánh T́-Kheo Khác

a. Duyên khởi

Một thời, dức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo dùng tay đánh nhóm mười bảy thầy t́-kheo. Những t́-kheo bị đánh la lớn. Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, v́ nóng giận, không vui, dùng tay đánh t́-kheo, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- V́ nóng giận, không vui, dùng tay đánh t́-kheo, ba-dật-đề: nếu dùng hai tay đánh người kia th́ phạm tội đọa. Nếu dùng ch́a khóa cửa, cái cùm chân v.v… tất cả đều phạm đột-kiết-la. T́-kheo-ni phạm như t́-kheo.

- Trường hợp không phạm: hoặc có duyên sự cần đưa tay đỡ, lấy mà đụng chạm th́ không phạm.

80. Giới Vu Khống Tội Tăng Tàn

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo v́ nóng giận dùng tội tăng-tàn không có căn cứ để hủy báng nhóm mười bảy thầy t́-kheo. Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, v́ giận hờn, cố ư dùng pháp tăng-già-bà-thi-sa không có căn cứ để vu khống t́-kheo khác, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Không có căn cứ: giống như trên đă giải thích.

- Ba-dật-đề: T́-kheo-ni phạm như t́-kheo.

- Trường hợp không phạm: có ba căn cứ: thấy, nghe, nghi. Hoặc nói đúng sự thật v́ muốn người kia hối hận không vu khống; hoặc nói giỡn; hoặc nói lầm; tất cả đều không phạm.

81. Giới Vào Cung Vua

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, Mạt-lợi phu nhân cúng dường Phật và rất kính tin. Đồng thời, phu nhân cũng khuyên vua Ba-tư-nặc tin ưa. V́ vậy, vua cho phép các t́-kheo tùy ư vào cung mà không bị ngăn cản. Khi ấy, t́-kheo Ca-lưu-đà-di đến giờ đi vào cung vua. Phu nhân v́ lau dọn chỗ ngồi mời T́-kheo Ca-lưu-đà-di ngồi, sơ ư bị tuột y, lộ h́nh. Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, khi nhà vua thuộc hàng Sát-lợi quán đỉnh chưa ra khỏi, bảo vật chưa được thu cất mà vào; nếu qua khỏi ngạch cửa cung, phạm ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Khi nhà vua thuộc hàng Sát-lợi quán đỉnh: nước rưới: lấy nước ở biển lớn, lấy cái sừng bên phải của con ḅ trắng, thâu thập tất cả hạt giống, đổ vào trong cho đầy, rồi đặt trên xe của vua, rồi bảo các Tiểu vương khiêng. Khi ấy, các đại bà-la-môn lấy nước rưới lên đầu của vua. Đó là ḍng Sát-đế-lợi. V́ phương thức lập vương như thế, nên gọi là Sát-lợi quán đỉnh. Nếu người thuộc ḍng bà-la-môn, t́-xá, thủ-đà lập vị như thế, th́ cũng gọi là quán đỉnh.

- Chưa ra khỏi: vua chưa ra khỏi, người nữ chưa trở về chỗ cũ.

- Bảo vật chưa được thu cất: vàng, bạc, chân châu, xa cừ, mă năo, thủy tinh, lưu li, bối ngọc và các loại chuỗi báu quí v.v… chưa được đem cất.

- Mà vào; nếu qua khỏi ngạch cửa cung, phạm ba-dật-đề: một chân bước ra ngoài, một chân c̣n ở trong, khởi ư muốn đi, tất cả đều phạm đột-kiết-la. Trừ vua, các túc tán tiểu vương,[69] nhà trưởng giả hào quí, nếu bước qua ngạch cửa tất cả đều phạm đột-kiết-la. T́-kheo-ni phạm giống t́-kheo.

- Trường hợp không phạm: hoặc có tấu bạch, bị gọi đến, hoặc v́ mạng nạn, phạm hạnh nạn, tất cả đều không phạm.

82. Cầm Nắm Bảo Vật

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, có ngoại đạo trên đường đi, v́ ghé nghỉ lại, đến khi đi, vị ấy bỏ quên lại một ngh́n lượng vàng. Các t́-kheo thấy túi vàng liền lấy mang đi với ư định sẽ trả lại cho người bỏ quên. Nhưng khi người kia nhận lại túi vàng th́ nói bị thiếu. Việc ấy lọt đến tai vua và vua đứng ra phân xử. Kết quả người kia bị trách phạt và tịch thu hết số vàng nhập vào của quan. Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, tự ḿnh cầm nắm bảo vật, hay đồ trang sức bằng bảo vật, hoặc bảo người khác cầm nắm, ba-dật-đề. Trừ trong tăng-già lam, hoặc chỗ ngủ nhờ mà tự ḿnh cầm nắm bảo vật, hay đồ trang sức bằng bảo vật, hoặc bảo người khác cầm, nên nghĩ như vầy: “Nếu sở hữu chủ nhận ra, sẽ nhận lại.” Chỉ với nhân duyên như vậy chứ không ǵ khác.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Bảo vật: vàng, bạc, chân châu, hổ phách, xa cừ, mà năo, lưu li, bối ngọc, vàng tạp chất, bạc tạp chất.

- Đồ trang sức bằng bảo vật: đồng, sắt, ch́, thiếc, bạch lạp, dùng các bảo vật làm đồ trang sức.

- Tự ḿnh cầm nắm, hoặc bảo người cầm nắm. Trừ trong tăng-già-lam: bấy giờ, T́-xá-khư Mẫu cởi y báu và đến chỗ Thế Tôn nghe pháp. V́ c̣n say đắm pháp nên bà ra về mà không nhớ đến y báu. Các t́-kheo bạch Phật, Đức Phật cho phép cất giữ v́ tránh mất mát. Sau đó, có các t́-kheo đi đường, ngủ qua đêm ở nhà thợ bạc. Lúc ấy, gần chỗ các t́-kheo ngủ có nhiều vàng đă thành phẩm và chưa thành phẩm, nên các t́-kheo thức suốt đêm trông giữ không dám ngủ. Các t́-kheo đem việc ấy bạch Phật, Đức Phật dạy: “V́ tránh mất mát nên cho phép lấy cất.”

- Ba-dật-đề: t́-kheo-ni phạm như t́-kheo.

- Trừ trong tăng-già-lam, hoặc chỗ ngủ nhờ mà tự ḿnh cầm nắm bảo vật, hay đồ trang sức bằng bảo vật, hoặc bảo người khác cầm, nên nghĩ như vầy: “Nếu sở hữu chủ nhận ra, sẽ nhận lại.”: nếu được bảo vật ở hai nơi (trong tăng-già-lam hay trong nhà) nên cầm nắm và phải biết tướng của túi đựng, phải biết sô lượng nhiều-ít. Nếu có người đến hỏi mà họ nói đúng th́ trả lại cho họ; nếu họ nói không đúng th́ nói: “Tôi không thấy.” Nếu không biết h́nh dạng túi đựng, cách buộc túi, không xem vuông, tṛn, mới, cũ; tất cả đều phạm đột-kiết-la.

- Chỉ với nhân duyên như vậy chứ không ǵ khác.

- Trường hợp không phạm: hoặc ở trong tăng-già-lam, hoặc ở chỗ ngủ nhờ, hoặc cầm nắm hay như các phương tiện nêu ở trên; hoặc đó là những thứ cúng dường dùng để trang trí chùa tháp; hoặc v́ sợ mất nên lấy cất, tất cả đều không phạm.

83. Vào Xóm Không Phải Lúc

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, t́-kheo Bạt-na-đà vào làng phi thời, rồi đánh cờ với cư sĩ và thắng. V́ thua nên cư sĩ sinh ḷng ganh ghét cho nên mới chê cười. Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b.Văn giới

T́-kheo nào, phi thời vào tụ lạc mà không báo cho t́-kheo khác, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Phi thời: thời: từ lúc b́nh minh xuất hiện cho đến giữa trưa. Phi thời: từ sau giữa trưa cho đến khi b́nh minh ngày hôm sau chưa xuất hiện.

- Vào tục lạc: thôn tụ lạc có bốn loại như trên đă nói.

- Không báo cho t́-kheo khác: khi có việc của Tăng, tháp, chùa; hoặc nuôi bệnh, Phật dạy: “Nên báo cho t́-kheo khác biết.” Nếu một ḿnh ở riêng một pḥng th́ nên báo với t́-kheo ở pḥng bên cạnh biết.

- Ba-dật-đề: mới bước chân vào cửa thôn phạm tội đọa. Một chân bước vào trong cửa thôn, phương tiện định vào, cùng hẹn nhau, tất cả đều phạm đột-kiết-la. T́-kheo-ni phạm như t́-kheo.

- Trường hợp không phạm: hoặc lo việc của Tăng, tháp; hoặc nuôi bệnh, hoặc báo cho t́-kheo khác biết; hoặc trên đường đi ngang qua thôn; hoặc có việc cần khai báo; hoặc bị gọi đến; hoặc được mời đến; hoặc v́ mạng nạn, phạm hạnh nạn, tất cả đều không phạm.

84. Giới Giường Quá Lượng

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, tôn giả Ca-lưu-đà-di dự đoán biết Phật sẽ từ đường này đi đến, nên kê một cái giường cao đẹp ở giữa đường. Khi Đức Phật đến nơi, tôn giả Ca-lưu-đà-di bạch rằng: “Thế Tôn xem giường ṭa của con đây!” Đức Phật dạy: “Phải biết đó là người ngu si trong ḷng chứa đầy điều xấu ác.” Nhân đó, Đức Phật tập họp Tăng, quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, làm giường dây hay giường gỗ, chân chỉ cao bằng tám ngón tay của đức Như Lai, đă trừ phần từ lỗ mộng để ráp thanh giường trở lên. Nếu quá, ba-dật-đề, phải cắt bỏ.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Làm giường dây hay giường gỗ: có năm loại như trên đă nói.

- Chân chỉ cao bằng tám ngón tay của đức Như Lai, đă trừ phần từ lỗ mộng để ráp thanh giường trở lên. Nếu quá, ba-dật-đề, phải cắt bỏ: hoặc tự làm, hoặc chỉ người làm, làm thành và quá lượng phạm tội đọa. Hoặc làm mà không thành, làm cho người, tất cả đều phạm đột-kiết-la. T́-kheo-ni phạm như t́-kheo.

- Trường hợp không phạm: hoặc làm chân giường chỉ cao bằng đúng tám ngón tay của Phật; hoặc làm ngắn hơn; hoặc do người cúng dường; cắt ngắn lại rồi sử dụng; hoặc tháo bỏ chân giường; tất cả đều không phạm.

85. Giới Đệm Bông

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo làm đệm bông, nên bị hàng cư sĩ chê cười, v́ đoạn mạng sống của chúng sinh, không có ḷng từ. Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, dùng bông đâu-la, dồn làm nệm lớn, nệm nhỏ, giường dây, giường gỗ, đă dồn thành, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Bông đâu-la: đó là những loại hoa: hoa dương thọ trắng, hoa liễu, hoa bồ đài.

- Dồn làm giường dây, giường gỗ: đều có năm loại như trên.

- Nệm lớn, nệm nhỏ: là đồ ngồi, đồ nằm.

- Làm thành, ba-dật-đề: tự làm, hoặc sai người làm, đều giống như trên. T́-kheo-ni phạm như t́-kheo.

- Trường hợp không phạm: đều giống như giới trên đă nói.

86. Giới Làm Ống Đựng Kim Bằng Xương, Răng, Sừng

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở thành La-duyệt-ḱ. Bấy giờ, có người thợ tin Phật pháp. V́ làm ống đựng kim bằng xương, răng, sừng mà bỏ công ăn việc làm dẫn đến không đủ cơm ăn, áo mặc. V́ thế, bị người đời chê cười rằng: “Người này v́ hi vọng được phước nhưng lại gặp tai ương.” Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, dùng xương, răng, sừng, làm ống đựng kim, đục khoét, và làm thành, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

Hoặc tự làm, hoặc nhờ người làm, làm thành phạm như trên. T́-kheo-ni phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: Nếu dùng các thứ như sắt, đồng, ch́, thiếc, bạch lạp, tre, gỗ, cỏ lau, có xá-la dùng làm ống đựng kim th́ không phạm. Hoặc làm chóp bịt đầu gậy; hoặc làm lọng và chóp bịt đầu đấu; hoặc quấn quanh dù và đấu; hoặc làm móc câu; hoặc làm dao cạo bẩn; hoặc cái như ư; hoặc làm khoen nút, th́a, câu móc y, đđựng thuốc nhỏ mắt, cái lược, đồ nạo lưỡi, tăm xỉa răng, đồ móc tai, thiền trấn,[70] ống xông mũi; nếu làm tất cả những vật dụng như thế th́ đều không phạm.

87. Giới Làm Ni-Sư-Đàn[71] Quá Lượng

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Theo pháp thường của các Đức Phật, nếu ngày nào không nhận được lời mời thụ thực th́ Phật thường đi khắp các pḥng xá. Một hôm, Ngài đi như vậy và thấy ngọa cụ của Tăng trải ngoài đất trống bị chất bất tịnh làm dơ bẩn. Thấy vậy, Đức Phật cho gọi các thầy t́-kheo lại dạy rằng: “Các ngoại đạo và tiên nhân ĺa dục c̣n không có việc này.” Đồng thời, Đức Phật cho phép v́ để ngăn che y, ngăn che ngọa cụ, nên được làm ni-sư-đàn. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo nghe Đức Phật cho may ni-sư-đàn liền may cái thật lớn. Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới 

T́-kheo nào, làm ni-sư-đàn, cần phải làm đúng lượng. Trong đây đúng lượng là dài hai gang, rộng một gang tay rưỡi Phật; lại thêm một bên nửa gang tay nữa làm lề. Nếu quá, ba-dật-dề, phải cắt bỏ.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Ni-sư-đàn: đồ trải xuống để ngồi.

- Cần phải làm đúng lượng. Trong đây đúng lượng là dài hai gang, rộng một gang tay rưỡi Phật: Bấy giờ, tôn giả Ca-lưu-đà-di thân h́nh to lớn mà ni-sư-đàn th́ nhỏ, nên đến thưa với Phật. Đức Phật liền cho phép may ni-sư-đàn rộng lớn thêm.

- Lại thêm một bên nửa gang tay nữa làm lề. Nếu quá, ba-dật-dề, phải cắt bỏ: hoặc chiều rộng không quá, chiều dài quá; chiều rộng quá, chiều dài không quá; hoặc cả hai đều quá, tự làm, bảo người làm, làm thành phạm tội đọa; làm không thành phạm đột-kiết-la; làm cho người, thành hay không thành đều phạm đột-kiết-la. T́-kheo-ni phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: hoặc làm ít hơn lượng định, hoặc làm nhiều lớp, hoặc được người khác làm cho, hoặc cắt bỏ bớt; tất cả đều không phạm.

88. Giới May Y Che Ghẻ Quá Lượng

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, có t́-kheo bị bệnh ghẻ nhọt, máu mủ chảy ra làm nhơ nhớp ngọa cụa của Tăng. Đức Phật cho phép dùng loại vải giá cao để che mụt ghẻ, rồi mới đắp niết-bàn-tăng[72] lên. Khi đến nhà bạch y phải nói thế này: “Tôi có mụt ghẻ.” Và phải kéo niết-bàn-tăng để trùm lên trên mụt ghẻ rồi mới ngồi. Khi ấy nhóm sáu thầy t́-kheo lại may y che ghẻ lớn. Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, làm y che ghẻ, cần phải làm đúng lượng. Trong đây đúng lượng là dài bốn gang, rộng hai gang tay Phật, sau khi đă cắt, nếu quá, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Y che ghẻ: là loại y dùng để che thân khi có các loại bệnh ghẻ.

- Cần phải làm đúng lượng. Trong đây đúng lượng là dài bốn gang, rộng hai gang tay Phật, sau khi đă cắt, nếu quá, ba-dật-đề: hoặc chiều dài, chiều rộng đều quá lượng, hoặc chiều dài không quá, chiều rộng quá và ngược lại, tự ḿnh may, bảo người may, may thành phạm tội đọa; may không thành phạm đột-kiết-la. May cho người thành, không thành phạm đột-kiết-la. T́-kheo-ni v.v… phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: may đúng lượng, hoặc ít hơn lượng định; được cái đă may sẵn; cắt đúng như lượng; hoặc may gấp lại thành nhiều lớp, tất cả đều không phạm.

89. Giới Áo Tắm Mưa Quá Lượng

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở thành T́-xá-li. Bấy giờ, T́-xá-khư Mẫu sai người mang y tắm mưa đến cúng dường chúng Tăng. Đức Phật bảo: “Không được phân chia mà phải trao theo thứ bậc Thượng tọa. Nếu không đủ nên lấy y của Tăng theo thứ tự trao cho đủ.” Khi ấy, nhóm sáu thầy t́-kheo nghe Phật cho phép may y tắm mưa liền may y thật lớn. Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, may áo tắm mưa, phải may đúng lượng. Trong đây đúng lượng là dài sáu gang, rộng hai gang rưỡi tay Phật, sau khi đă cắt. Nếu quá, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Áo tắm mưa: áo mặc tắm khi trời mưa.

- Phải may đúng lượng. Trong đây đúng lượng là dài sáu gang, rộng hai gang rưỡi tay Phật, sau khi đă cắt. Nếu quá, ba-dật-đề: hoặc tự may, hoặc bảo người may, hoặc chiều dài, chiều rộng đều quá lượng; hoặc chiều dài quá lượng, chiều rộng không quá lượng và ngược lại. T́-kheo-ni v.v… và phần khai duyên đều giống như giới trước.

90. Giới Ba Y Quá Lượng

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Thích-súy-sấu. Bấy giờ, t́-kheo Nan-đà thấp hơn Đức Phật chỉ bốn ngón tay, các t́-kheo ở xa nh́n thấy lầm cho là Phật, nên đứng dậy đón rước. Nhưng đến khi đến gần mới biết không phải, trong ḷng ai nấy cũng đều xấu hổ. Do đó, Đức Phật quy định: “Từ nay về sau Nan-đà phải đắp y màu đen.” Khi ấy, nhóm sáu thầy t́-kheo thường may y lượng bằng hoặc hơn y của Phật. Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, may y bằng lượng y của Như Lai, hoặc may quá lượng đó, ba-dật-đề. Trong đây lượng y của Như Lai là dài mười gang và rộng sáu gang tay Phật. Đó gọi là lượng y của Như Lai.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

Nếu chiều rộng, chiều dài đúng lượng; hoặc chiều rộng đúng lượng, chiều dài không đúng lượng và ngược lại, th́ đều phạm. Ngoài ra, tự ḿnh may, bảo người may. T́-kheo-ni may; đều phạm như trên.

- Trường hợp không phạm: y do người khác may sẵn; cắt đúng lượng; hoặc may chồng làm hai lớp; tất cả đều không phạm.

Chư Đại đức, tôi đă nói chín mươi pháp ba-dật-đề. Nay xin hỏi chư Đại đức trong đây thanh tịnh không? (3 lần) Chư Đại đức trong đây đều thanh tịnh v́ các ngài im lặng. Việc này tôi xin ghi nhận như vậy.

Hết quyển 2-B   [ ^ Về Trên ^ ]

________________________________________

[69] Túc tán tiểu vương 粟散小王: tiểu vương nhiều như Tán Túc. Từ Chuyển Luân Vương trở xuống thống lănh một châu, một nước, đều gọi là Túc Tán Vương.

[70] Thiền trấn 禪鎮: đạo cụ được đặt trên đầu khi tọa thiền đđánh thức lục ngủ gục.

[71] Ni-sư-đàn 尼師壇: là đồ trải lót.

[72] Niết-bàn-tăng 涅槃僧 (S: Nivāsana): cái quần, một trong mười ba vật dụng về y phục của chúng Tăng.

 

previous.png      back_to_top.png      next.png

 

 

[ TRANG CHỦ | KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

 

 

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0