* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ | KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

Quyển 1-A    Quyển 1-B    Quyển 2-A    Quyển 2-B    Quyển 3

TỨ PHẦN LUẬT HÀM CHÚ GIỚI BỔN

Nguyên tác Hán văn: Luật sư Thích Đạo Tuyên.

Dịch sang Việt: Thích Thọ Phước.

QUYỂN 2-A

Chư Đại đức đây là chín mươi pháp Ba-dật-đề, cứ nửa tháng, nửa tháng nói một lần, được trích ra từ giới kinh.

1. Giới Cố Nói Dối

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật trú ở Thích-sí-sấu. Bấy giờ, trong ḍng họ Thích có một người con trai tên là Tượng Lực, có tài đàm luận. Một hôm, Tượng Lực luận bàn với ngoại đạo bị thua, liền nói ngược lại với điều đă nói trước. Khi ở trong Tăng bị hỏi, Tượng Lực cũng nói ngược với những điều đă nói trước. V́ vậy bị Phạm chí chê cười là không phụng hành chính pháp. Các thầy t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, biết mà nói dối, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Biết: đó là do thấy, nghe, xúc giác và không thấy mà biết, như vậy có tất cả tám trường hợp. Thấy: nhăn thức có thể thấy cho đến ư thức có thể biết. Không thấy: trừ nhăn thức, năm thức c̣n lại. Như thế, giống như trường hợp nói ngược lại với trước.

- Mà nói dối: người nào có thấy, nghe, xúc giác, biết nhưng v́ tưởng, nghi, rồi nói không thấy, không nghe, không xúc giác, không biết, ba-dật-đề. Cho đến không thấy, không nghe v.v… giống như trên. Nếu vốn có ư định nói dối và khi nói dối nhưng không nhớ đó là nói dối, đột-kiết-la. Nếu trước, sau không nhớ, nhưng khi nói biết đó là nói đúng, nói dối th́ phạm ba-dật-đề. Hoặc điều thấy có khác, điều nhẫn chịu có khác, điều ham muốn có khác, điều xúc giác có khác, điều nghĩ tưởng có khác; những việc như thế đều là nói dối. Khi nói giới cho đến hỏi ba lần, nhớ nghĩ có tội mà không nói th́ phạm đột-kiết-la.

- Ba-dật-đề: nếu nói không rơ ràng phạm đột-kiết-la. T́-kheo-ni cũng phạm như vậy. Ba chúng dưới phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: không có tám trường hợp như: thấy nói không thấy, cho đến biết nói biết v.v… Nếu ư có tưởng thấy liền nói th́ không phạm.

 2. Giới Mắng Nhiếc

a. Duyên khởi

 Một thời, Đức Phật trú tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo đến trước người đoán sự mắng nhiếc người kia bằng giống loài. T́-kheo kia hổ thẹn quên trước, quên sau, nên không nói được lời nào. Chư t́-kheo đem việc ấy bạch Phật. Đức Phật dẫn chuyện con ḅ[62] để thí dụ cho loài súc sinh khi bị hủy báng c̣n không đủ sức để tiến lên phía trước v.v… Nhân đó, Đức Phật chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, nhục mạ bằng giống loài, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Gống loài: có nhiều ḍng họ. Hoặc nói ông sinh vào ḍng họ, gia đ́nh thấp hèn, hành nghề cũng thấp hèn, kĩ nghệ, công xảo cũng thấp hèn. Hoặc nói ông phạm tội, hoặc nói ông c̣n nhiều kết sử, ông mù, ông chột v.v…

- Nhục mạ: như sáu trường hợp nhục mạ vừa nêu ở trên. Ngoài ra, nếu t́-kheo nói nhục mạ trước mặt, hoặc dùng thí dụ để nhục mạ, nhục mạ bằng cách so sánh với ḿnh th́ phạm tội đọa. Nói mà không rơ ràng th́ phạm đột-kiết-la.

- Ba-dật-đề: Hoặc nói thiện pháp để nhục mạ trước mặt, như nói: ‘Ngươi là người a-lan-nhă’, cho đến nói ‘ngươi là người ngồi thiền.’ Hoặc mượn thí dụ để nhục mạ, như nói: ‘Ngươi giống như người ngồi thiền.’ Hoặc tự so sánh để nhục mạ, như nói: ‘Tôi không phải là người a-lan-nhă v.v… .’ Nói rơ ràng, không rơ ràng đều phạm đột-kiết-la. T́-kheo-ni phạm tội đọa. Ba chúng dưới phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: v́ lợi ích chung nên nói. Hoặc v́ pháp, v́ luật, v́ dạy dỗ nên nói. Hoặc v́ quá thân mật. Hoặc nói giỡn, hoặc lỡ lời, hoặc nói nhầm, đều không phạm.

3. Giới Nói Hai Lưỡi

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo truyền rao lời nói bên này, bên kia làm cho trong chúng sinh ra đấu tranh, không thể chấm dứt được. Các thầy t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Đức Phật dẫn chuyện dă can[63] gây ra loạn đấu giữa hai con thú, huống ǵ con đối với con người. Nhân đó, Đức Phật quở trách rồi chế giới này.

b. Văn giới 

T́-kheo nào, nói hai lưỡi, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Nói hai lưỡi: nói lời làm cho mười chúng loạn đấu nhau, v́ muốn chia rẽ bên này với bên kia.

- Ba-dật-đề.

- Trường hợp không phạm: v́ phá ác tri thức, phá bạn đảng, phá ḥa thượng, phá đồng ḥa thượng, phá tri thức, phá thân hữu, phá những người nói nhiều mà vô nghĩa, vô lợi, v́ muốn phương tiện làm cho vô lợi, vô nghĩa. Phá những người như vậy th́ không phạm.

4. Giới Ngủ Chung Với Người Nữ

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, tôn giả A-na-luật xin ngủ qua đêm tại nhà dâm nữ. Đêm hôm ấy, dâm nữ thoát y đến quấy nhiễu tôn giả. Tôn giả liền bay lên hư không. Dâm nữ thấy vậy vô cùng hổ thẹn và sám hối. Nhân đó, tôn giả nói pháp cho dâm nữ nghe và dâm nữ đắc đạo. Các thầy t́-kheo biết được việc ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, cùng với phụ nữ ngủ một buồng, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Cùng với người nữ: là người có hiểu biết, mạng căn chưa đoạn.

- Một buồng: bốn bên có tường vách ngăn che, bên trên có lợp; hoặc phía trước trống không có tường; hoặc có che nhưng không che khắp hết; hoặc che khắp hết nhưng có chừa chỗ trống.

- Ngủ: hoặc t́-kheo ngủ trước, người nữ đến sau; hoặc cả hai đến cùng một lúc; hoặc tựa lưng; hoặc nằm, tùy theo mức độ hông chạm đất, hoặc tùy sự lăn trở đều phạm ba-dật-đề.

- Ba-dật-đề: hoặc là phi nhân nữ, súc sinh cái, hunh môn, hoặc người hai căn, ngủ cùng nhà, phạm đột-kiết-la. Ban ngày, người nữ đứng, t́-kheo nằm th́ phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: không biết trong nhà kia có người nữ; hoặc nhà đó không có che chắn; hoặc che một nửa, lợp một ít; hoặc che hết, hoặc che chắn một nửa, lợp một nửa. Những trường hợp khác theo trên mà biết. Hoặc v́ bệnh nên nằm, hoặc bị trói, hoặc v́ mạng nạn, phạm hạnh nạn v.v… đều khai.

5. Giới Ngủ Chung Với Người Chưa Thụ Cụ Túc Quán Hạn

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở tại thành Khoáng-dă. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo cùng với các trưởng giả ngủ chung ở nhà giảng. Khi ấy, có t́-kheo ngủ với tâm tán loạn nên lộ h́nh và bị những trưởng giả kia cười giễu. Các t́-kheo biết việc ấy bạch Phật. Nhân đó, Phật chế giới này. Thời gian sau, Đức Phật ở nước Câu-thiệm-di khai cho được ngủ hai, ba đêm và kết lại giới này.

b. Văn giới 

T́-kheo nào, ngủ chung với người chưa thụ đại giới, quá hai đêm, đến đêm thứ ba, ba-dật-đề.

c. Giải thích 

- T́-kheo nào: nghĩa như trên.

- Với người chưa thụ đại giới: trừ t́-kheo, t́-kheo-ni, c̣n lại đều là người chưa thụ đại giới.

- Ngủ chung: ngủ cùng pḥng, như giới trước đă nói.

- Quá hai đêm, đến đêm thứ ba: nếu ngủ chung hai đêm, hoặc ba đêm, khi minh tướng chưa xuất hiện nên thức dậy bỏ đi. Đến đêm thứ tư, hoặc tự bỏ đi, hoặc bảo người chưa thụ đại giới đi.

- Ba-dật-đề: nếu cùng với phi nhân, súc sinh đực, ngủ chung quá ba đêm, tất cả đều phạm đột-kiết-la.

Về phần trường hợp được khai, đều giống với giới trước.

6. Giới Cùng Người Chưa Thụ Cụ Túc Giới Tụng Kinh

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở thành Khoáng-dă. Bấy giờ, nhóm sáu thấy t́-kheo cùng với những trưởng giả tụ tập ở giảng đường tụng kinh, nói cười lớn tiếng làm náo loạn người ngồi thiền. Các thấy t́-kheo bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, tụng đọc pháp chung với người chưa thụ đại giới, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo nào: nghĩa như trước.

- Với người chưa thụ đại giới: nghĩa như trên.

- Tụng đọc chung: nghĩa là tụng cú nghĩa, cú vị, tự nghĩa, phi cú nghĩa, phi cú vị, phi tự nghĩa.

Cú nghĩa: cùng tụng, không trước, không sau. Phi cú nghĩa: như có một người nói ‘chớ làm các việc ác’ chưa dứt, th́ người thứ nhất lập lại giống như vậy. Cú vị: như tụng ‘mắt vô thường’ v.v… . Phi cú vị: là lập lại câu vừa tụng trước. Tự nghĩa: là cùng tụng chữ A. Phi tự nghĩa: tụng lại chữ A trước. 

- Pháp: là chính pháp do Đức Phật, Thanh văn, tiên nhân, các trời nói.

- Ba-dật-đề: hoặc cùng tụng một lời, hai lời, ba lời; hoặc truyền trao bằng miệng, hoặc truyền trao bằng chữ viết, hoặc nói không rơ ràng, hoặc nói rơ ràng, và cùng tụng với phi nhân, súc sinh, đều phạm đột-kiết-la. Nếu vị thầy không dạy: “Ta nói rồi, ông mới nói”, th́ thầy phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: “Tôi nói xong, ông mới nói.” Một người tụng rồi, một người chép. Hoặc đồng nghiệp, đồng tụng; hoặc cười giỡn; hoặc nói một ḿnh; hoặc nói lầm; hoặc muốn nói việc này lại nói việc kia; tất cả đều không phạm.

7. Giới Nói Thô Tội

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở tại thành La-duyệt. Bấy giờ, có t́-kheo đang hành ba-lợi-bà-sa, ma-na-đỏa, nên ngồi dưới hết mọi người. Khi ấy, nhóm sáu thầy t́-kheo đem việc phạm của t́-kheo kia nói với hàng cư sĩ. T́-kheo phạm lỗi kia và những t́-kheo khác đều hổ thẹn. Các t́-kheo đem việc ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách rồi chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, biết t́-kheo khác có thô ác tội, đem nói với người chưa thụ đại giới, trừ Tăng yết-ma, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo nào: nghĩa như trước.

- Biết: người không biết th́ được khai.

- T́-kheo khác có thô ác tội: là bốn tội ba-la-di và mười ba tội tăng-già-bà-thi-sa. 

- Đem nói với người chưa thụ đại giới, trừ Tăng yết-ma, ba-dật-đề: trừ các thô tội, nếu nói những tội khác, tự nói thô tội, nói tội của người khác, tất cả đều phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: hoặc không biết, hoặc được chúng Tăng sai, hoặc tưởng không phải thô tội, hoặc trước đó hàng bạch y đă nghe rồi, tất cả đều không phạm.

8. Giới Nói Với Bạch Y Ḿnh Thật Đắc Đạo

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở tại thành T́-xá-li, v́ nhân duyên đại vọng ngữ trước, Ngài cho tập Tăng, quở trách, rồi chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, đối với người chưa thụ đại giới nói pháp hơn người, nói rằng: ‘Tôi thấy điều này, tôi biết điều này.’ Nếu đây là sự thật, ba-dật-đề.

c. Giải thích

Đều giống như chương đầu tiên ở trên. Nếu nói th́ thành nghiệp báo. Nếu nói giỡn, nói lầm th́ đều không phạm.

9. Giới Một Ḿnh Nói Pháp Cho Người Nữ

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, t́-kheo Ca-lưu-đà-di ở trước mặt người mẹ chồng, thầy ghé bên tai nói pháp cho cô con dâu nghe. Người mẹ chồng chê trách và hỏi cô con dâu. Các thầy t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật ngăn cấm. Sau đó, Đức Phật khai cho được phép nói năm sáu lời và nếu có người năm có hiểu biết th́ được phép nói quá năm sáu lời.

b. Văn giới

T́-kheo nào, nói pháp cho người nữ quá năm, sáu lời, trừ có mặt người nam có hiểu biết, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Cùng với người nữ: nghĩa như trên.

- Nói pháp quá năm lời: như nói: sắc, thụ, tưởng, hành, thức, vô ngă.

- Sáu lời: như nói: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư, vô thường.

- Trừ có mặt người nam có hiểu biết: biết được việc thô ác và việc không thô ác.

- Ba-dật-đề: nếu nói không rơ ràng, phạm đột-kiết-la. Nếu nói với phi nhân, súc sinh quá năm, sáu lời phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: hoặc có người nam có hiểu biết, nói quá năm, sáu lời; hoặc không có người nam có hiểu biết tùy hỏi nên đáp, cũng có thể nói rộng ra; hoặc truyền năm giới cho ưu-bà-di, nên nói năm giới pháp và v́ người thụ Bát quan trai mà nói bát quan trai pháp; hoặc giảng Bát thánh đạo, Thập bất thiện pháp; hoặc v́ người nữ hỏi những nghĩa mà họ không hiểu mà giảng giải rộng th́ đều không phạm.

10. Giới Đào Đất

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở thành Khoáng dă. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo v́ Phật tu sữa giảng đường, đào đất xung quanh giảng đường. Khi ấy, các trưởng giả chê bai: “Sa-môn Thích tử không biết chính pháp, đoạn mạng căn của loài khác.” Nhân đó, Đức Phật chế giới này. Thời gian sau, nhóm sáu thầy t́-kheo v́ tu sữa giảng đường nên sai người đào đất, chỉ bảo: “Đào chỗ này, đem đổ chỗ này.” Lần này, cũng bị các trưởng giả chê trách. Các thầy t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật lại chế giới.

b. Văn giới

T́-kheo nào, tự tay đào đất, hoặc sai người đào, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Tự tay đào: dùng cuốc, bừa, chày đập, cho đến dùng móng tay gơ, khêu. Hoặc đập, chặt xuống đất; hoặc đốt lửa trên đất và tưởng có đất.

- Đất: hoặc đất chưa đào, đất đă đào; hoặc trải qua bốn tháng trời mưa thấm lại như cũ.

- Hoặc sai người đào: hoặc không chỉ dạy rằng: “Xem cái này, biết cái này!” phạm đột-kiết-la.

- Ba-dật-đề: ba chúng dưới phạm đột-kiết-la. Thiên sau cũng giống như thiên này.

- Trường hợp không phạm: hoặc nói: “Biết cái này, xem cái này.” Hoặc kéo cây, kéo gỗ; hoặc rào ngă dựng lại; hoặc lật gạc, đá lấy phân ḅ; hoặc lấy đất do bờ đất sập lỡ; hoặc lấy đất chỗ hang chuột. Trừ đất chỗ đi kinh hành và đất trong pḥng. Hoặc đất chỗ lui tới kinh hành; hoặc quét đất; hoặc không có ư đào. Tất cả đều không phạm.

11. Giới Phá Hoại Sự Sống

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở thành Khoáng dă. Ngài cho tập họp Tăng và dạy rằng: “Có t́-kheo v́ tu sữa pḥng xá mà tự ḿnh chặt cây. Đây không phải pháp của sa-môn.” Nhân đó, Đức Phật quở trách rồi chế giới này.

b. Văn giới 

T́-kheo nào, phá hoại thôn của quỉ thần, ba-dật-đề.

c. Giải thích 

- T́-kheo: nghĩa như trước.

- Phá hoại: chặt cho chúng rơi ngă xuống gọi là pháp hoại.

- Quỉ thần: chính là không phải người.

- Thôn: tất cả cỏ cây là nơi nương tựa của quỷ và súc sinh. Thôn có năm loại: rễ, nhánh, lóng, phú-la, hạt.

- Ba-dật-đề: hoặc tưởng đang có sự sống, tự ḿnh chặt; sai người chặt, tự ḿnh sao, nấu; sai người sao, nấu, đều phạm tội đọa. Nếu nghi có sự sống mà chặt v.v… phạm đột-kiết-la. Cỏ cây có bảy loại sắc, tự ḿnh pháp hoại, sai người phá hoại, phạm tội đọa. Nghi có sự sống, tưởng có sự sống rồi phá hoại phạm đột-kiết-la. Hoặc đóng cọc lên cây cỏ đang sống; hoặc dùng lửa đốt v.v… đều phạm tội đọa. Hoặc chặt nhiều phần cây cỏ đang sống, phạm tội đọa. Hoặc chặt cây cỏ một nửa khô, một nửa c̣n đang tươi sống và không nói: “Biết cái này, xem cái này”, tất cả đều phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: Hoặc nói: “Xem cái này, biết cái này.” Hoặc chặt cây cỏ đă khô héo. Hoặc kéo cây, tre trên cây cỏ đang tươi sống. Hoặc sữa hàng rào, dẹp chỗ bị ngăn trở; hoặc lật đá để lấy phân ḅ. Hoặc cỏ che đường đi dùng gậy vẹt cho trống. Hoặc v́ dùng ngói, đá làm trụ mà đứt, dập cỏ cây. Hoặc quét dọn đất kinh hành. Hoặc quét dọn nơi kinh hành. Hoặc dùng gậy chống xuống đất mà làm đứt cỏ cây đang tươi sống, đều không phạm.

12. Giới Nói Lời Khác Làm Phiền Người

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Câu-thiểm-t́. Bấy giờ, t́-kheo Xiển-đà phạm tội. Các t́-kheo khác hỏi, th́ t́-kheo Xiển-đề trả lời việc khác. Các thầy t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Đức Phật quở trách rồi, Ngài cho phép các t́-kheo tác bạch dư ngữ. Sau đó, t́-kheo Xiển-đà lại gây phiền nhiễu chúng Tăng bằng cách gọi đến th́ không đến, cho đến không nên nói lại nói. Các thầy t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Đức Phật quở trách rồi, cho làm pháp tác bạch Xúc năo. Nhân đó, Đức Phật chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, nói dư ngữ và gây phiền nhiễu người khác, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Nói dư ngữ: khi Tăng chưa bạch mà nói lăng, như nói: “Thầy nói với ai? Nói việc ǵ? Luận việc ǵ? Nói với tôi hay nói với người khác? Tôi không thấy tội này.” Tất cả đều phạm đột-kiết-la. Nếu tác bạch xong rồi, nói những việc như thế, phạm tội đọa.

- Gây phiền nhiễu người khác: tương tự như những việc vừa nêu trước, cho đến việc không đáng nói nhưng lại nói, tất cả đều phạm đột-kiết-la. Khi Tăng đă tác bạch rồi mà vẫn nói th́ phạm ba-dật-đề.

- Ba-dật-đề: nếu thượng tọa gọi đến mà không đến, th́ phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: nghe lại mà không hiểu lời nói trước, v́ có sự lẫn lộn, mập mờ. Cho nên, hỏi lại: “Thầy nói với ai?... cho đến, Tôi không thấy tội này.” Nếu tác bạch phi pháp; hoặc làm yết-ma không đem lại lợi ích, không đem lại ḥa hợp, khi ấy gọi đến th́ không đến. Nếu v́ sự yết-ma phi pháp, lúc ấy v́ muốn biết lời chỉ dạy, dù bảo chớ đến nhưng lại đến. Hoặc nhất tọa thực;[64] hoặc không tác pháp dư thực mà ăn; hoặc bị bệnh bảo đứng lên nhưng không đứng; hoặc v́ mạng nạn, phạm hạnh nạn v.v… bảo chớ đứng dậy nhưng lại đứng dậy. Nếu v́ ác tâm mà hỏi th́ không cần phải trả lời. Hoặc tác yết-ma phi pháp liền bị quở trách. Hoặc nói nhỏ, nói sai, tất cả đều không phạm.

13. Giới Ghét Và Nhục Mạ Vị Tri Sự

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở thành La-duyệt. Bấy giờ, t́-kheo Đạp-bà-ma-la được Tăng sai làm tri sự. Khi ấy, t́-kheo Từ Địa đứng ở chỗ cách t́-kheo Đạp-bà-ma-la trong khoảng tầm mắt nh́n thấy, chê trách t́-kheo Đạp-bà-ma-la. Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Đức Phật quở trách rồi chế giới. Sau đó, t́-kheo Từ Địa lại ở nơi có thể nghe được mà nhục mạ t́-kheo Đạp-bà-ma-la. Các t́-kheo lại đem lỗi ấy bạch Phật. Đức Phật liền theo giới đă chế trước bổ sung thêm.

b. Văn giới

T́-kheo nào, biếm nhẽ và mắng chửi, ba-dật-đề.

c. Giải thích 

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Biếm nhẽ: ở chỗ nh́n thấy mặt mà không ghe nói: “Có ái, có sân, có sợ hăi, có si.”

- Mắng chửi: ở chỗ không thấy nhưng nghe được rồi nhục mạ.

- Ba-dật-đề: chẳng những không nghe lời chỉ bảo của thượng tọa mà c̣n mắng nhiếc, phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: thật có việc như vậy, nhưng v́ sợ hăi, nên sau đó hối hận nói khiến như pháp để phát lồ; liền nói ‘có ái, v.v…’ Hoặc nói giỡn, nói lầm, đều không phạm.

14. Giới Trải Vật Của Tăng Ở Chỗ Đất Trống

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, có một trưởng giả thỉnh Tăng dùng cơm. Lúc ấy, v́ chưa đến giờ ăn, nên nhóm mười bảy thầy t́-kheo lấy tọa cụ của Tăng trải nơi đất trống rồi đi kinh hành chờ đến giờ ăn. Đến giờ ăn, các vị ấy bỏ đi mà không thu dọn tọa cụ, nên bị gió, bụi đất, côn, trùng, chim làm bẩn. Các t́-kheo đem việc ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, mang giường dây, giường gỗ, hoặc ngọa cụ, đệm ngồi của Tăng, bày nơi đất trống hoặc bảo người bày, khi bỏ đi không tự ḿnh dọn cất, không sai người dọn cất, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trước.

- Mang vật của Tăng: có ba loại: vật của chúng Tăng, vật v́ Tăng, vật thuộc về Tăng.

- Giường dây: có năm loại: giường nằm chân xoay, giường nằm chân thẳng, giường nằm chân cong, giường nằm ráp mộng, giường nằm không có chân.

- Giường gỗ: cũng có năm loại, giống như trên.

- Ngọa cụ: hoặc dùng để ngồi, hoặc dùng để nằm.

- Đệm ngồi: nghi rằng thường dùng để ngồi.

- Bày nơi đất trống hoặc bảo người bày, khi bỏ đi không tự ḿnh dọn cất, không sai người dọn cất, ba-dật-đề: người kia lấy vật của Tăng trao cho thầy tri sự và nói rằng: “Nay tôi trao cho thầy, thầy cất giữ giúp.” Nếu không có ai, th́ phải đem cất nơi kín đáo. Nếu không có nơi kín đáo th́ phải chọn chỗ không gây hư hoại, rồi dùng cái xấu phủ lên trên cái tốt. Nếu đi mà về liền th́ nên đi. Tùy theo mưa vừa hay mưa lớn, nếu đi mà về kịp th́ nên đi. Người kia nên tuần tự làm theo các cách như vậy rồi đi. Nếu không làm như vậy, vừa ra khỏi cửa th́ phạm tội đọa. Nếu chuẩn bị đi rồi quay lại, hối hận, tất cả đều phạm đột-kiết-la. Nếu hai người ngồi chung, th́ vị hạ tọa nên thu dọn. Nếu vị hạ tọa không dọn th́ phạm hai tội, vị thượng tọa phạm một tội đọa. Nếu cả hai vị đều không dọn th́ cả hai đều phạm tội đọa.

Ngoài ra, giường dây, giường nằm, ghế v.v… không thu dọn và lớp trong, lớp ngoài của ngọa cụ, tọa cụ, tất cả đều phạm đột-kiết-la. Nếu trải vật của Tăng chỗ đất trống rồi bỏ vào pḥng, ngồi tư duy th́ phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: đem vật của Tăng trải nơi đất trống, trước khi đi nói với người ở lâu, Ma-ma-đế,[65] người giúp việc, khiến cho họ biết những cách thức như trên, th́ tất cả đều không phạm.

15. Giới Trải Vật Của Tăng Nơi Kín Đáo

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, có t́-kheo khách ở pḥng bên cạnh trải ngọa cụ, ngủ qua đêm. Sau đó, vị ấy không nói mà bỏ đi. V́ thế ngọa cụ bị mục rách, trùng cắn rỉa, bạc màu. Các t́-kheo biết lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, ở trong pḥng của Tăng, trải ngọa cụ của Tăng, hoặc tự ḿnh trải, hoặc bảo người trải, hoặc ngồi, hoặc nằm, khi đi không tự dọn cất, không bảo người dọn cất, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Ở trong pḥng của Tăng, trải ngọa cụ của Tăng: giường dây, giường gỗ, ngọa cụ, nệm, toạn cụ, gối, đồ trải dưới đất, cho đến đồ nằm bằng lông.

- Hoặc tự ḿnh trải, hoặc bảo người trải, hoặc ngồi, hoặc nằm, khi đi không tự dọn cất, không bảo người dọn cất: người kia nên nói với vị t́-kheo ở lâu rằng: “Dọn cất giúp tôi.” Nếu không có người để giao phó mà không sợ mất, th́ nên dời giường ra cách vách và kê chân giường lên cao, đem gối, nệm, ngọa cụ để bên trong rồi lấy những cái thô xấu phủ lên trên. Nếu sợ bị hư hoại th́ nên lấy ngọa cụ v.v… máng lên trên giá áo, dựng đứng giường lên rồi đi. Nếu không làm như vậy mà bỏ đi, khi ra ngoài giới phạm tội đọa. Định đi rồi quay trở lại, hối hận phạm đột-kiết-la. Nếu đi rồi về liền, hoặc trải qua hai đêm ở ngoài giới, đến đêm thứ ba khi minh tướng chưa xuất hiện mà không tự trở về, không sai người lấy cất, th́ phạm tội đọa.

- Ba-dật-đề.

- Trường hợp không phạm: ngoài những việc giống như những phương tiện ở giới trên, nếu ở ngoài giới, bị đường xá chia cách, hay gặp phạm hạnh nạn, mạng nạn v.v… th́ đều khai.

16. Giới Chen Lấn Trải Tọa Cụ

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo và nhóm mười bảy thầy t́-kheo trên đường cùng đi đến tụ lạc khác, nơi không có trú xứ của t́-kheo. Khi ấy, nhóm mười bảy thầy t́-kheo tự t́m trú xứ. Nhóm sáu thầy t́-kheo kia biết nhóm mười bảy thầy t́-kheo đă t́m được chỗ ngủ, nên đến chen vào giữa trải ngọa cụ để ngủ. Các t́-kheo biết được việc ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách rồi chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, đă biết đó là chỗ nghỉ của t́-kheo đến trước, ḿnh đến sau cố chen vào khoảng giữa trải ngọa cụ để nghỉ, với ư nghĩ rằng: ‘Người kia nếu hiềm chật th́ tự tránh đi nơi khác;’ hành động với nhân duyên như vậy chứ không ǵ khác, chẳng phải oai nghi, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Biết: người không biết th́ được khai cho.

- Đó là chỗ nghỉ của t́-kheo đến trước, ḿnh đến sau cố chen vào khoảng giữa: hoặc bên đầu, bên chân, hoặc hai bên hông.

- Trải ngọa cụ: hoặc trải cỏ, trải lá cây, cho đến đồ trải dưới đất, đồ nằm bằng lông.

- Để nghỉ, với ư nghĩ rằng: ‘Người kia nếu hiềm chật th́ tự tránh đi nơi khác;’ hành động với nhân duyên như vậy chứ không ǵ khác, chẳng phải oai nghi, ba-dật-đề: tùy theo mỗi lần trở ḿnh, hông chạm giường phạm tội đọa.

- Trường hợp không phạm: trước không biết, hoặc nói với người ở trước, hoặc cửa đă mở sẵn, hoặc nơi rộng răi không trở ngại nhau, hoặc cửa đóng bên ngoài. Hoặc có người bạn thân xưa nói: “Hăy trải đi, tôi sẽ nói với người chủ.” Hoặc bị té xuống đất, hoặc bị bệnh xoay chuyển ngă lên trên, hoặc bị thế lực bắt, hoặc bị trói nhốt, hoặc bị mạng nạn, phạm hạnh nạn, tất cả đều không phạm.

17. Giới Đuổi Người Ra Khỏi Pḥng

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo và nhóm mười bảy thầy t́-kheo đi cùng đường đến một trú xứ nhỏ kia. Nhóm mười bảy thầy t́-kheo đến trước vào chùa, quét dọn, vẩy nước sạch sẽ. Nhóm sáu thầy biết nhóm mười bảy thầy t́-kheo được chỗ tốt liền đuổi, kéo họ ra ngoài. Các thầy t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, giận t́-kheo khác, không vui, tự ḿnh kéo ra hay bảo người khác kéo t́-kheo ấy ra khỏi tăng pḥng, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Giận t́-kheo khác, không vui, tự ḿnh kéo ra hay bảo người khác kéo t́-kheo ấy ra khỏi Tăng pḥng: hoặc tử ḿnh kéo, hoặc sai người kéo. Tùy theo sự lôi kéo nhiều hay ít, tùy vào việc ra khỏi pḥng mà phạm. Hoặc lôi kéo nhiều người ra khỏi một cửa; hoặc lôi kéo một người ra khỏi nhiều cửa, đều phạm nhiều tội đọa. Hoặc lôi kéo một người ra khỏi một cửa, phạm một tội đọa. Hoặc đem nhiều vật ra khỏi cửa; hoặc ném ra ngoài cửa; hoặc đóng cửa để người ở ngoài, đều phạm đột-kiết-la.

- Ba-dật-đề.

- Trường hợp không phạm: không có tâm giận hờn, theo thứ tự đi ra; hoặc đuổi người chưa thụ giới cụ túc ra; hoặc v́ người phá giới, phá kiến, phá oai nghi, người bị cử tội, người bị diệt tẫn. V́ những nhân duyên như vậy, có thể dẫn đến mạng nạn, phạm hạnh nạn, nên đuổi người ra ngoài, đều không phạm.

18. Giới Ngồi Giường Chân Không Vững

a. Duyên khởi

Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, có t́-kheo ở trên lầu gác, ngồi trên giường chân bị rời khớp, nên chân giường rơi xuống trúng t́-kheo bên dưới bị thương chảy máu. T́-kheo bên dưới ngửa mặt lên, giận dữ mắng chửi. Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, hoặc trong pḥng, hoặc trên tầng gác, nằm hay ngồi trên giường dây, giường gỗ bằng chân ráp, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Hoặc trong pḥng: hoặc pḥng của Tăng, hoặc pḥng riêng.

- Hoặc trên tầng gác: đứng không đụng đầu.

- Giường dây, giường gỗ bằng chân ráp: ráp là ráp vào mộng.

- Hoặc ngồi hay nằm: tùy theo hông tiếp xúc với giường, tùy theo sự trở ḿnh.

- Ba-dật-đề: trừ giường chân ráp ra, hoặc ngồi giường độc tọa, hoặc giường một tấm ván, giường tắm,[66] tất cả đều phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: nếu ngồi giường chân xoay, chân thẳng, chân cong, không chân, hoặc giường chân lớn, hoặc giường chân ráp mà có buộc cận thận, hoặc trên tầng gác có lót ván, hoặc cây chạm hoa để che, hoặc che dầy, hoặc lật ngửa giường mà ngồi, hoặc tháo chân giường mà ngồi, tất cả đều không phạm.

19. Giới Dùng Nước Có Trùng

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Câu-thiểm-t́. Bấy giờ, t́-kheo Xiển-đà khởi công xây dựng pḥng, tự lấy nước có trùng ḥa với bùn, hoặc sai người ḥa. Các trưởng giả thấy vậy hiềm trách rằng: “Sa-môn Thích tử không có chính pháp, hại sinh mạng chúng sinh.” Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, biết nước có trùng, mà tự ḿnh rưới lên bùn hoặc cỏ, hoặc bảo người rưới, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Biết: không biết không phạm.

- Nước có trùng, mà tự ḿnh rưới lên bùn hoặc cỏ, hoặc bảo người rưới: hoặc dùng cỏ, đất ném vào trong nước có trùng, hoặc nước trái cây, nước trái trong, hoặc dấm, lấy rưới bùn, lên cỏ, tất cả đều phạm tội đọa. Sai người làm cũng phạm như vậy.

- Ba-dật-đề.

- Trường hợp không phạm: không biết có trùng; nghĩ không có trùng; hoặc là trùng lớn; lấy tay khua động nước khiến trùng tránh đi; hoặc nước đă lọc tưới đất, hoặc sai người lọc, tất cả đều không phạm.

20. Giới Lợp Nhà Quá Hạn

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Câu-thiểm-t́. Bấy giờ, t́-kheo Xiển-đà cất pḥng, lợp măi không thôi, dẫn đến pḥng bị sập. Hàng cư sĩ chê trách rằng: “Tuy đàn-việt cúng không biết chán, nhưng người nhận phải biết đủ chứ!” Các thầy t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, làm pḥng xá lớn, cánh cửa, khung cửa sổ và các thứ trang trí, chỉ dẫn lợp tranh ngang bằng hai, ba lớp; nếu lợp quá, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Làm pḥng xá lớn: pḥng phải cần dùng đến nhiều tài, vật.

- Cánh cửa, khung cửa sổ và các thứ trang trí: chạm trổ hoa văn.

- Chỉ dẫn lợp tranh: có hai cách lợp: lợp dọc và lợp ngang.

- Bằng hai, ba lớp; nếu lợp quá: t́-kheo kia chỉ dẫn lợp lớp thứ ba chưa xong, nên đi đến chỗ không thấy, không nghe; nếu không đi đến chỗ không thấy, không nghe, khi lợp lớp thứ ba xong th́ phạm tội đọa.

- Ba-dật-đề: nếu bỏ chỗ tai nghe đến chỗ mắt thấy, bỏ chỗ mắt thấy đến chỗ tai nghe, tất cả đều phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: chỉ dẫn như trên và đi tránh xa th́ đều không phạm.

21. Giới Tự Ư Giáo Thọ Ni

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, t́-kheo-ni Đại Ái Đạo đến thỉnh giáo thụ. Đức Phật bảo tôn giả A-nan nên sai thượng tọa đại t́-kheo giáo giới cho t́-kheo-ni. Khi ấy, tôn giả A-nan đến trong Tăng theo thứ tự sai t́-kheo Bàn-đà đến chúng t́-kheo-ni thuyết pháp. Nhóm sáu thầy t́-kheo theo thứ tự cũng đến bên t́-kheo-ni nhưng chỉ bàn chuyện thế tục. V́ thế, t́-kheo-ni Đại Ái Đạo mới đến bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật dạy phải bạch yết-ma sai t́-kheo đi giáo giới và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, không được Tăng sai mà giáo giới t́-kheo-ni, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Tăng: cùng một thuyết giới, cùng một yết-ma.

- Không sai: ở trong Tăng không được bạch nhị yết-ma.

- Giáo thụ: tám pháp không thể trái. Tám pháp này được trích ra đầy đủ như trong văn luật.

- T́-kheo-ni, ba-dật-đề.

Vào giờ thuyết giới, người ngoài ở trên hỏi, đáp xong, hoặc Tăng sai, hoặc theo sự thỉnh cầu của ni chúng. T́-kheo được sai kia phải đến đúng giờ như đă hẹn. T́-kheo-ni cũng phải đón tiếp đúng giờ như đă hẹn. Nếu cả hai bên đều trái hẹn th́ đều phạm đột-kiết-la. Nếu nghe t́-kheo đến th́ t́-kheo-ni phải ra nửa do-tuần đđón rước và cung cấp những thứ cần dùng; nếu không làm như vậy th́ phạm đột-kiết-la. Nếu không được Tăng sai, không phải ngày giáo thụ mà đến nói Tám pháp không thể trái th́ phạm đột-kiết-la. Nếu không được Tăng sai mà đến nói pháp th́ phạm tội đọa. Nếu Tăng t́-kheo bị bệnh, không ḥa hợp, không đủ số chúng, (t́-kheo-ni) nên sai người đến lễ bái hỏi thăm. Nếu t́-kheo-ni Tăng bệnh, Tăng t́-kheo cũng sai người đến làm lễ thăm hỏi. Nếu không làm như vậy th́ phạm đột-kiết-la. T́-kheo-ni và hai chúng dưới v.v… phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: t́-kheo-ni chúng làm các cách như trên mà v́ bị đường xá chia cắt, gặp các nạn, không thể đi lại lễ bái thăm hỏi, th́ đều không phạm.

22. Giới Thuyết Pháp Cho Ni Đến Chiều Tối

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, t́-kheo Nan-đà được Tăng sai đi giáo giới t́-kheo-ni. Giáo thụ t́-kheo-ni xong, t́-kheo Nan-đà ngồi im lặng. Khi ấy, t́-kheo-ni Đại Ái Đạo lại thỉnh nói pháp tiếp. V́ thế, t́-kheo Nan-đà nói pháp đến chiều tối. Khi t́-kheo-ni ra khỏi tinh xá Ḱ-hoàn để về thành Xá-vệ, th́ cửa thành đă đóng, nên phải dựa vào hào ở trong thành để ngủ qua đêm. V́ vậy, bị người đời chê trách. Các t́-kheo đem việc ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, tuy được Tăng sai, nhưng giáo thụ t́-kheo-ni cho đến mặt trời lặn, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Được Tăng sai: một lần giáo thụ, một lần yết-ma.

- Giáo thụ: trong chúng Tăng bạch nhị yết-ma sai.

- T́-kheo-ni cho đến mặt trời lặn: t́-kheo được Tăng sai kia giáo thụ ni phải về trước khi mặt trời lặn. Trừ việc giáo thụ, nếu dạy kinh, tụng kinh, hoặc tham vấn và v́ những việc khác cho đến mặt trời lặn; trừ t́-kheo-ni, nếu v́ các phụ nữ và người khác dạy kinh v.v… đến khi mặt trời lặn, tất cả đều phạm đột-kiết-la.  

- Ba-dật-đề: t́-kheo-ni phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: giáo thụ t́-kheo-ni cho đến khi mặt trời chưa lặn liền dừng. Trừ phụ nữ, nếu v́ người khác, hoặc nói pháp trên thuyền đ̣, t́-kheo-ni t́nh cờ nghe được. Hoặc nói pháp cho khách buôn vào ban đêm; hoặc ở trong chùa t́-kheo-ni; hoặc do người khác thỉnh, hoặc gặp lúc đang nói pháp nghe luôn, tất cả đều không phạm.

23. Giới Chê Trách Vị Giáo Thụ

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, t́-kheo-ni nghe giáo thụ sư đến liền ra đón tiếp và cung cấp những thứ cần dùng. Khi ấy, nhóm sáu thầy t́-kheo sinh tâm ganh ghét, nói rằng: “Những t́-kheo kia không có tâm chân thật, chỉ v́ thức ăn nên đến giáo thụ t́-kheo-ni.” Các thầy t́-kheo đem việc ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, nói với các t́-kheo như vầy: “T́-kheo v́ sự ăn uống mà giáo thụ t́-kheo-ni,” ba-dật-đề.

c.Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

Nếu nói không rơ ràng phạm đột-kiết-la. T́-kheo-ni v.v… phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: việc kia thật sự như vậy. Tức t́-kheo v́ sự ăn uống, cúng dường mà giáo thụ t́-kheo-ni. V́ sự ăn uống mà dạy tụng kinh, học kinh, hoặc tham vấn, hoặc nói đùa, hoặc nói lầm, tất cả đều không phạm.

24. Giới Cho T́-kheo-ni Không Phải Bà Con Y

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, có t́-kheo khất thực oai nghi đầy đủ. T́-kheo-ni thấy sinh thiện cảm và nhiều lần thỉnh t́-kheo nhưng vị ấy không nhận lời. Sau đó, nhận được phần y của ḿnh cho t́-kheo-ni. T́-kheo-ni nhận liền. V́ thế, t́-kheo trách t́-kheo-ni kia rằng: “Tôi đă nhiều lần nói với người khác rằng: ‘T́-kheo-ni này nhiều lần thỉnh tôi. Đem phần ăn của cô để dành cho tôi, tôi không nhận. Do đó, tôi nghĩ rằng, t́-kheo-ni này nhiều lần thỉnh tôi, đem phần ăn của cô để dành cho tôi, tôi không nhận; nay tôi đem phần y này biếu cho t́-kheo-ni này với ư nghĩ rằng, cô ấy cũng không nhận, đđđáp trả nhau. Nhưng cô lại nhận.’” Các thầy t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, cho y đến t́-kheo-ni chẳng phải thân quyến, trừ trao đổi, ba-dật-đề.

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Cho t́-kheo-ni chẳng phải thân quyến: như trên đă giải thích.

- Y: có mười loại y như trên đă nói.

- Trừ trao đổi: lấy y đổi y, đổi vật không phải y, đổi kim, đổi dao, hoặc đổi chỉ may, cho đến một cân cỏ thuốc.

- Ba-dật-đề: t́-kheo-ni v.v… phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: cho t́-kheo-ni là bà con y, cùng nhau trao đổi, hoặc cho tháp, cho Phật, cho Tăng th́ đều không phạm.

 25. Giới May Y Cho T́-kheo-ni Không Phải Bà Con

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, t́-kheo Ca-lưu-đà-di may đại y cho t́-kheo-ni. Thầy vẽ h́nh nam nữ giao hợp may vào y. May xong, thầy giao cho t́-kheo-ni và dặn: “Khi mặc phải ở sau chúng t́-kheo-ni Tăng.” Hàng cư sĩ trong thấy sinh cơ hiềm. T́-kheo-ni đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, may y cho t́-kheo-ni không phải thân quyến, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên. 

T́-kheo kia tùy theo dao cắt rọc nhiều hay ít, mỗi lần may, mỗi mũi kim đều phạm tội đọa. Nếu mặc thử để xem, hoặc kéo ra ủi cho thẳng, hoặc dùng tay vuốt, hoặc kéo góc cho ngay, hoặc gấp lại, hoặc kết viền, hoặc cột chỉ, hoặc nối chỉ, tất cả đều phạm đột-kiết-la. T́-kheo-ni cũng phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: may cho t́-kheo-ni là thân quyến, may cho Tăng, may cho tháp, hoặc mượn mặc rồi giặt, nhuộm trả lại cho chủ, tất cả đều không phạm.

26. Giới Ngồi Với T́-kheo-ni

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, t́-kheo Ca-lưu-đà-di và t́-kheo-ni Thâu-lan-nan-đà cả hai đều xinh đẹp, và đều có dục ư với nhau. Một hôm, cả hai người hẹn nhau cùng ngồi một chỗ ở ngoài cửa. Các cư sĩ thấy thế cùng nhau chê trách rằng: “Mọi người nh́n xem coi họ giống như đôi uyên ương.” Các t́-kheo nghe vậy, bạch với Phật. Nhân đó, Đức Phật chế giới này.

b. Văn giới 

T́-kheo nào, một ḿnh cùng với một t́-kheo-ni khác ngồi chỗ khuất kín, chỗ ngăn che, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Cùng với t́-kheo-ni: chỗ chỉ có một t́-kheo với một t́-kheo-ni.

- Chỗ khuất: có hai trường hợp: chỗ che khuất tầm nh́n: bị bụi, sương, khói, mây che tối không nh́n thấy. Chỗ ngăn trại sự nghe: cho đến không nghe những âm thanh b́nh thường.

- Chỗ ngăn che: hoặc do cây che khuất, hoặc do tường, rào, vải, hoặc che bằng các vật dụng khác.

- Ngồi: nếu người thứ ba bị mù mà không điếc, điếc mà không mù, hoặc cùng đứng, tất cả đều phạm đột-kiết-la.

- Ba-dật-đề: t́-kheo-ni v.v… phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: nếu t́-kheo ấy có bạn, có người trí, phải có hai điều kiện: mù mà không điếc; điếc mà không mù. Hoặc trên đường đi qua mà bị té xỉu, hoặc bị bệnh ngă xuống, hoặc bị thế lực bắt, hoặc v́ phạm hạnh nạn, mạng nạn v.v… đều không phạm.

27. Giới Đi Chung Đường Với T́-kheo-ni

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo và nhóm sáu T́-kheo-ni cùng du hành trong nhân gian. V́ thế, bị hàng cư sĩ chê cười. Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách rồi chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, cùng hẹn và cùng đi chung một đường với t́-kheo-ni từ một thôn đến một thôn, trừ trường hợp khác, ba-dật-đề. Trường hợp khác là, cùng đi với khách buôn, hoặc khi có nghi ngờ, có kinh sợ. Đó gọi là trường hợp khác.

c. Giải thích

- T́-kheo và t́-kheo-ni: nghĩa như trên.

- Hẹn: nói cùng đến thôn đó, thành đó, nước đó…

- Cùng đi một đường: khoảng cách giữa hai thôn có ranh giới và có lối đi.

- Từ một thôn đến một thôn: tùy theo số đông và ranh giới nhiều hay ít, mỗi mỗi đều phạm tội đọa. Chẳng phải thôn, hoặc đi chỗ đồng trống, cho đến mười dặm th́ phạm tội đọa. Nếu chưa đến một thôn, chưa được mười dặm; hoặc đi trong một ranh giới chung nhiều thôn, th́ phạm đột-kiết-la. Phương tiện muốn đi, cùng hẹn, tất cả phạm đột-kiết-la.

- Trừ trường hợp khác, ba-dật-đề. Trường hợp khác là, cùng đi với khách buôn, hoặc khi có nghi ngờ: nghi có giặc, cướp.

- Có kinh sợ: sợ có giặc, có cướp.

- Đó gọi là trường hợp khác: t́-kheo-ni v.v… phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: không cùng hẹn, có nhiều bạn cùng đi, chỗ có sự nghi ngờ, có sự sợ hăi; hoặc đến chỗ đó sẽ được an ổn, hoặc bị thế lực bắt giữ, hoặc v́ mạng nạn, phạm hạnh nạn v.v… tất cả đều không phạm.

28. Giới Đi Chung Thuyền Với T́-kheo-ni

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu thầy t́-kheo và sáu t́-kheo-ni ngồi chung một thuyền đi ngược ḍng, đi xuôi ḍng. Các cư sĩ thấy cơ hiềm, họ bàn tán với nhau. Các thầy t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách rồi chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, cùng hẹn và cùng đi chung thuyền với t́-kheo-ni, ngược ḍng nước hay xuôi ḍng nước, trừ sang ngang, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Cùng hẹn và cùng đi chung thuyền với t́-kheo-ni, ngược ḍng nước hay xuôi ḍng nước: nếu vào trong thuyền th́ phạm tội đọa; các phương tiện th́ phạm đột-kiết-la.

- Trừ sang ngang, ba-dật-đề: t́-kheo-ni v.v… phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: không hẹn, hoặc ngang qua đến bờ bên kia; hoặc vào trong thuyền, người chèo thuyền lạc hướng phải đi ngược ḍng, xuôi ḍng. Hoặc đến bờ bên kia th́ được an ổn; hoặc bị thế lực bắt giữ, hoặc v́ mạng nạn, phạm hạnh nạn v.v… th́ đều không phạm. 71

29. Giới Nhận Thức Ăn Do T́-kheo-ni Khuyến Hóa

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, có cư sĩ thỉnh tôn giả Xá-lợi-phất v.v… thụ thực. Trưởng giả chuẩn bị thức ăn và trải chỗ ngồi tốt. Khi ấy t́-kheo-ni Thâu-na-lan-đà biết được việc đó, nên nói với cư sĩ rằng: “Những t́-kheo mà ông thỉnh đều là những người hèn mọn.” Rồi T́-kheo-ni Thâu-na-lan-đà nói tiếp: “Nếu tôi thỉnh th́ tôi sẽ thỉnh các t́-kheo Điều- đạt v.v… V́ những vị ấy là rồng trong loài rồng.” Sau khi thụ thực xong, trở về, tôn giả Xá-lợi-phất thuật lại đầy đủ việc ấy với Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, ăn thức ăn được biết là do t́-kheo-ni khen ngợi giáo hóa, trừ đàn-việt có chủ ư trước, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Biết: không biết không phạm.

- T́-kheo-ni khen ngợi giáo hóa: như nói: “Là người a-lan-nhă, sống với hạnh khất thực”, cho đến nói “giữ ba y, tán thán kệ, pháp sư đa văn, tŕ luật, tọa thiền”.

- Ăn thức ăn được: thức ăn nhận được từ sáng đến trưa.

- Trừ đàn-việt có chủ ư trước, ba-dật-đề: nuốt mỗi mỗi miếng th́ phạm ba-dật-đề. Trừ thức ăn ra, nếu được các thứ khác như, áo lót, đèn, dầu, th́ phạm đột-kiết-la. T́-kheo-ni v.v… phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: hoặc không biết, hoặc đàn-việt có ư trước, hoặc tưởng giáo hóa, hoặc t́-kheo-ni tự làm, hoặc đàn-việt nhờ t́-kheo-ni làm, hoặc không cố ư giáo hóa mà do khất thực được rồi cho người; tất cả đều không phạm.

30. Giới Đi Chung Đường Với Người Nữ

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Khi ấy, trong thành có một nàng dâu v́ căi lộn với mẹ chồng nên bỏ trở về nước T́-xá-li. Lúc ấy, tôn giả A-na-luật cũng định đến nước T́-xá-li, nên hai người cùng đi. Sau đó, người chồng của cô ấy đuổi theo kịp và thấy hai người đi chung nên đánh tôn giả A-na-luật đến gần chết. Các t́-kheo biết việc ấy nên bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách rồi chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, cùng hẹn và đi chung đường với người nữ, nhẫn đến trong khoảng giữa hai thôn, ba-dật-đề.

c. Giải thích

Nếu đi chung trong ṿng một thôn th́ phạm đột-kiết-la. T́-kheo-ni và bốn chúng v.v… tất cả đều phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: không biết trước, không cùng hẹn, hoặc cần phải đến đó đđược an ổn, hoặc bị thế lực, hoặc gặp các nạn, tất cả đều không phạm.  

31. Giới Trú Xứ Một Bữa Ăn

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, ở nước Câu-tát-la có thôn mà không có trú xứ. Có cư sĩ xây cất trú xứ và thường cúng dường một bữa ăn cho t́-kheo. Khi ấy, nhóm sáu thầy t́-kheo nhận nhiều lần, nên cư sĩ nói: “Chúng con chỉ vốn nguyện chu cấp cho những vị chỉ tạm trú lại một đêm mà thôi.” Các thầy t́-kheo đem việc ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, nơi trú xứ cho một bữa, t́-kheo không bệnh chỉ nên nhận một bữa; nếu nhận quá một bữa, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Nơi trú xứ cho một bữa: ngủ lại đó một đêm. Thức ăn cho đến bữa ăn đúng thời.

- T́-kheo không bệnh: người bệnh nếu đi khỏi thôn ấy bệnh sẽ nặng thêm.

- Chỉ nên nhận một bữa; nếu nhận quá một bữa: khi ăn mỗi mỗi miếng phạm tội đọa. Ngoài thức ăn ra, nhận các thứ khác như áo lót, đèn, dầu, đều phạm đột-kiết-la.

- Ba-dật-đề: t́-kheo-ni cũng phạm như t́-kheo.

- Trường hợp không phạm: chỉ nghỉ một đêm chỉ nhận một bữa; bệnh th́ được nhận hơn một bữa ăn. Nếu cư sĩ thỉnh ở lại: “Chúng tôi v́ sa-môn Thích tử nên thiết lập những thức ăn này.” Hoặc đàn-việt theo thứ tự thỉnh thụ thực. Hoặc các cậu, cô, chị, bà theo thứ tự thỉnh. Hoặc hôm nay nhận thức ăn của người này, ngày mai nhận thức ăn của người kia. Hoặc đường đi bị chi cắt và gặp các nạn v.v…; tất cả đều không phạm.

32. Giới Ăn Nhiều Lần

a. Duyên khởi

 Một thời, Đức Phật từ thành La-duyệt-ḱ du hành trong nhân gian đến nước A-na-tần-đà. Bấy giờ, có một người tên Sa-nậu cúng cháo. Đức Phật khai cho được phép ăn cháo. Từ đó, các t́-kheo được phép ăn cháo đặc. Khi ấy, gặp lúc tiết hội đàn-việt đem dâng thức ăn, các t́-kheo nhận và dùng xong. Sau đó, lại nhận lời mời của người khác nữa. V́ thế, bị những người đời chê cười. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, ăn nhiều lần, trừ trường hợp đặc biệt, ba-dật-đề. Trường hợp đặc biệt là khi bị bệnh, khi thí y. Đó gọi là trường hợp đặc biệt.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Ăn nhiều lần: nghĩa là mời. Mời có hai trường hợp: mời theo thứ tự, hoặc mời riêng.

- Thức ăn: cơm, lương khô, cơm khô v.v…

- Trừ trường hợp đặc biệt, ba-dật-đề. Trường hợp đặc biệt là khi bị bệnh: không thể ăn một bữa mà no đđược.

- Khi thí y: tự tứ xong, không có y ca-thi-na là một tháng, có y là năm tháng. Hoặc được nhiều chỗ mời thụ thực và cúng y.

- Đó gọi là trường hợp đặc biệt: nếu không từ chối lời mời trước mà nhận lời mời sau, th́ khi ăn mỗi mỗi miếng đều phạm tội đọa. Nếu không từ chối lời mời sau mà nhận lời mời trước th́ khi ăn mỗi mỗi miếng đều phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: khi bệnh, khi có thí y. Nếu trong một ngày mà có nhiều chỗ thỉnh, th́ ḿnh chỉ được nhận một chỗ, c̣n những chỗ khác nhường lại cho những vị khác, nói rằng: “Trưởng lăo! Lẽ ra tôi phải đến chỗ kia nhưng xin cúng dường lại cho ngài.” Hoặc cho những thứ không phải thức ăn, hoặc ăn không đủ, hoặc không có người mời, hoặc ăn rồi lại được thức ăn, hoặc một trú xứ có bữa ăn trước và bữa ăn sau, tất cả đều không phạm.

33. Giới Ăn Chúng Riêng

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước La-duyệt-ḱ. Bấy giờ, Đề-bà-đạt-đa đă sai người hại Phật, lại xúi vua A-xà-thế giết cha. V́ thế, tiếng xấu đồn xa, mất hết lợi dưỡng. Lúc ấy, Đề-bà-đạt-đa cùng với năm t́-kheo đi khất thực riêng. Các thầy t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách rồi chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, ăn chúng riêng,[67]  trừ các trường hợp khác, ba-dật-đề. Các trường hợp khác là khi bệnh, thời may y, thời thí y, khi đi đường, khi đi thuyền, khi đại chúng tập hợp, khi sa-môn thí thực. Đó là các trường hợp khác.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Ăn chúng riêng: hoặc bốn người, hoặc hơn bốn người.

- Thức ăn: gồm những loại thức ăn như cơm, lương khô, cơm khô v.v…

- Trừ các trường hợp khác, ba-dật-đề. Các trường hợp khác là khi bệnh: cho đến gót chân bị trẹo.

- Thời may y: sau ngày tự tứ, nếu không có y ca-thi-na th́ được một tháng; nếu có y ca-thi-na th́ được năm tháng. Cho đến y trên chỉ may một đường to như răng ngựa.

- Thời thí y: giống như giới trước.

- Khi đi đường: cho đến chỉ đi trong nửa do-tuần, gồm cả đi tới và đi lui.

- Khi đi thuyền: cho đến đi thuyền xuôi ngược ḍng trong ṿng nửa do-tuần.

- Khi đại chúng tập hợp: thức ăn đủ cho bốn người mà dư một người là khó xử. Năm người, mười người, cho đến một trăm người mà dư một người là khốn đốn.

- Khi sa-môn thí thực: ở đây chỉ cho những người xuất gia ngoài sa-môn Thích tử và những người theo ngoại đạo xuất gia.

- Đó là các trường hợp khác: nếu không có lí do phải ăn riêng chúng, t́-kheo ấy nên thưa: “Tôi không có nhân duyên ǵ ở trong bữa ăn riêng chúng này. Tôi xin ra khỏi chúng.” Nếu những người nào không có lí do, Đức Phật cũng cho phép ra khỏi chúng. Nếu chỉ có hai người, ba người th́ tùy ư dùng bữa. Nếu bốn người hoặc hơn th́ nên chia làm hai bộ thay nhau vào ăn. Nếu t́-kheo nào có nhân duyên ăn riêng chúng muốn vào th́ phải thưa: “Tôi có nhân duyên ăn riêng chúng. Tôi muốn vào.” Đức Phật dạy: “Nên tùy theo thứ tự từ thượng tọa mà ngồi vào.” Nếu có lí do mà không nói th́ phạm đột-kiết-la. Tùy vào việc ăn riêng chúng, ăn mỗi mỗi miếng phạm tội đọa. T́-kheo-ni cũng phạm như t́-kheo.

- Trường hợp không phạm: như trên đă nêu. Hoặc hai người, ba người, hoặc thay nhau vào ăn, hoặc nói có nhân duyên, hoặc ra ngoài; tất cả đều không phạm.

34. Giới Nhận Thức Ăn Quá Lần

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, có người nữ chuẩn bị trở về nhà chồng, nhưng v́ phải nhiều lần nấu ăn cúng cho t́-kheo mà quá giờ, nên không trở về nhà chồng được. Đến khi người nữ kia về đến nhà chồng th́ chồng cô đă lấy vợ khác.

Lại một nhân duyên khác: Có một khách buôn v́ nhiều lần cúng dường phần thức ăn của ḿnh cho các t́-kheo nên đoàn thương buôn đi trước. Người ấy đi trễ, v́ vậy, bị giặc cướp. Các t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, đến nhà bạch y mời cúng thức ăn như bánh, hoặc lương khô, nếu cần t́-kheo nên nhận hai, ba bát; nhận hai, ba bát rồi về trong tăng-già-lam nên phân cho các t́-kheo khác dùng; nếu t́-kheo không bệnh nhận quá hai, ba bát, về đến trong tăng-già-lam không chia cho các t́-kheo khác dùng, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Đến nhà bạch y: nhà có nam, có nữ.

- Mời cúng thức ăn như bánh, hoặc lương khô, nếu cần t́-kheo nên nhận hai, ba bát; nhận hai, ba bát rồi về trong tăng-già-lam nên phân cho các t́-kheo khác dùng: nếu không mang thức ăn về th́ phải báo cho các t́-kheo biết nhà đó có thức ăn của người phụ nữ chuẩn bị đem về nhà chồng, có lương thực đi đường của khác buôn. Nếu muốn ăn th́ ăn rồi mang về, khoảng hai, ba bát. Nếu mang một bát, hai bát về, th́ mỗi mỗi phải thông báo cho các t́-kheo biết. Cho đến, ḿnh là người mang bát thứ ba đi th́ chớ mang trở về.

- Nếu t́-kheo không bệnh: không thể ăn một lần, thức ăn ngon đă hết.

- Nhận quá hai, ba bát, về đến trong tăng-già-lam: ra khỏi cửa nhà kia phạm tội đọa. Phương tiện sám hối phạm đột-kiết-la.

- Không chia cho các t́-kheo khác dùng: ăn một ḿnh th́ phạm đột-kiết-la.

- Ba-dật-đề: hoặc không hỏi thức ăn của người phụ nữ đem về nhà chồng, thức ăn đi đường của khách buôn; hoặc không nói cho các t́-kheo khác biết; tất cả đều phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: nhận hai, ba bát; hoặc v́ bệnh mà nhận quá, hoặc đă hỏi, hoặc chia nhau, hoặc báo cho biết trú xứ của thôn, hoặc họ tự đem đến cho Tăng trong chùa th́ được nhận, hoặc họ tự đem đến chùa ni th́ được nhận; tất cả đều không phạm.

35. Giới Ăn No Đ

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật trụ tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, Đức Phật nói pháp ăn một lần. Các t́-kheo nghe lời Đức Phật dạy chỉ ăn năm loại thức ăn chính khiến no đủ. Sau đó, do ăn một lần mà các t́-kheo bị gầy c̣m, tiều tụy. V́ thế, Đức Phật cho phép người nuôi bệnh được phép ăn thức ăn dư của người bệnh. Ngài c̣n khai cho làm pháp dư thực. Nhưng v́ có người tham thức ăn dư mà không biết pháp dư thực. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, ăn đă đủ, hoặc khi thụ thỉnh, không làm pháp dư thực mà ăn nữa, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Hoặc khi thụ thỉnh: thức ăn: trong năm loại thức ăn, nếu ăn mỗi mỗi loại thức ăn, hoặc cơm, lương khô, cơm khô, v.v… ăn no rồi.

- Không làm pháp dư thực: t́-kheo kia mang thức ăn về tác pháp rằng: “Đại đức! Tôi đă ăn no rồi, biết cho, xem cho.” Đây là tác pháp dư thực. Vị t́-kheo kia nên lấy một ít đăn. Ăn rồi nên nói với t́-kheo tác pháp rằng: “Tôi đă tác pháp xong, thầy nên lấy mà ăn.” Chứ vị t́-kheo kia không thể tự làm pháp dư thực.

- Không làm pháp dư thực mà ăn nữa, ba-dật-đề: trong đó, các hành động như đi, ở, ngồi, nằm đều ghi chép thành câu đầy đủ và trường hợp phạm, đầy đủ giống như luật.[68] Thức ăn khư-xà-ni gồm có năm loại như: rễ, lá, hoa, quả, dầu, vừng, đường đen, thức ăn được mài nhỏ. T́-kheo kia đă ăn no, không làm pháp dư thực, được thức ăn và ăn, mỗi miếng phạm ba-dật-đề. Nếu ăn rồi, v́ người mà làm pháp dư thực; hoặc biết người khác đă ăn no rồi làm pháp dư thực, tự tay cầm thức ăn tác pháp, cầm thức ăn đặt lên đất tác pháp, sai tịnh nhân làm pháp dư thực, tịnh nhân đă làm pháp dư thực trước rồi, lấy thức ăn không ngon phủ lên trên rồi làm pháp dư thực, nếu mang đi, đều thành pháp dư thực, tất cả đều phạm đột-kiết-la. T́-kheo-ni và bốn chúng đều phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: thức ăn mà tưởng không phải thức ăn, không nhận tác pháp dư thực, và những trường hợp trái với những điều ngăn cấm trên. Hoặc bệnh không làm pháp dư thực, thức ăn dư của người, khong làm pháp dư thực; hoặc đă làm pháp dư thực; tất cả đều không phạm.

36. Giới Khuyến Khích Người Phạm Túc Thực

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật trú tại  nước Xá-vệ. Bấy giờ, có hai anh em đều làm t́-kheo. Một người ham thích ăn uống, không biết túc thực, không túc thực; dư thực, không dư thực, hễ nhận được thức ăn là ăn. V́ thế, một vị t́-kheo bị chỉ trích lỗi lầm, nên ôm ḷng thù hận. Một hôm, t́-kheo này biết vị t́-kheo kia đă ăn rồi, c̣n cưỡng ép ăn thêm, rồi quay lại chỉ trích t́-kheo kia. Các thầy t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, biết t́-kheo khác đă ăn đủ, hoặc thụ thỉnh, không làm pháp dư thực, mà ân cần mời ăn, nói rằng, ‘Trưởng lăo hăy dùng món ăn này!’ chỉ v́ mục đích muốn cho người khác phạm giới chứ không ǵ khác, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Biết: không biết không phạm.

- T́-kheo khác đă ăn đủ: thức ăn th́ có năm loại giống như trên đă nói.

- Hoặc thụ thỉnh: cũng có năm trường hợp giống như trên.

- Không làm pháp dư thực, mà ân cần mời ăn, nói rằng, ‘Trưởng lăo hăy dùng món ăn này!’ chỉ v́ mục đích… chứ không ǵ khác: nếu trước không biết, tưởng không ăn đủ, hoặc cho để bỏ, hoặc cho để cử pháp dư thực; hoặc sai người đem cho người; hoặc chưa làm pháp dư thực; bảo làm pháp dư thực; hoặc thức ăn dư của người bệnh; hoặc đă làm pháp dư thực, không khiến cho người khác phạm.

- Muốn cho người khác phạm giới: nếu t́-kheo nhận và ăn, mỗi mỗi miếng th́ cả hai đều phạm tội đọa. Nếu được cho thức ăn, nhưng t́-kheo kia đem bỏ, hoặc nhận rồi đem cất, hoặc nhận rồi cho người khác. Nếu t́-kheo kia nhận rồi tác pháp dư thực. Nếu đem thức ăn của người bệnh muốn làm cho người khác phạm; hoặc đem thức ăn dư của người bệnh cho người khác; hoặc làm pháp dư thực rồi cho, v́ muốn người khác phạm; giống như trường hợp ở trên; tất cả người cho đều phạm đột-kiết-la.

-Ba-dật-đề: t́-kheo-ni, bốn chúng v.v… đều phạm đột-kiết-la.

37. Giới Ăn Phi Thời

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở tại thành La-duyệt. Bấy giờ, nhân dân trong thành làm lễ tiết hội. Khi ấy, Thích tử Nan-đà, Bạt-nan-đà cùng đến xem kĩ nhạc và nhận thức ăn uống, đến tối mới trở về núi. Một hôm, cũng vào lúc trời nhá nhem tối, t́-kheo Ca-lưu-đà-di vào thành khất thực. Trong ánh chớp sấm sét người phụ nữ thấy t́-kheo Ca-lưu-đà-di hoảng hốt la lớn: Quỉ! Quỉ! Các thầy t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, nhận thức ăn phi thời và ăn, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Phi thời: thời là từ lúc mặt trời mọc đến giữa trưa. Đây là thời gian đúng pháp đăn. Bốn châu thiên hạ cũng ăn như vậy. Phi thời là từ giữa trưa đến khi tướng sáng chưa xuất hiện.

- Nhận thức ăn: thức ăn th́ có hai loại khư-xà-ni và bồ-xà-ni, mỗi thứ lại có năm loại giống như trên đă nêu.

- Và ăn, ba-dật-đề: t́-kheo nào nhận thức ăn phi thời và ăn, mỗi mỗi miếng phạm tội đọa. Nếu nhận và ăn thức ăn phi thời, quá phi thời, bảy ngày, quá bảy ngày đều phạm tội đọa. Nếu là thuốc trọn đời, không nhân duyên mà dùng th́ phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: làm đường đen, phương pháp phải như vậy. Bấy giờ, có người bệnh, uống thuốc xổ. Hơn một ngày rồi, nấu lúa mạch, không để cho nó bể vỏ, lọc lấy nước uống và trường hợp thức ăn trong cổ ói ra mà nuốt lại, tất cả đều không phạm.

38. Giới Ăn Thức Ăn Dư Cách Đêm

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở thành La-duyệt-ḱ. Bấy giờ, tôn giả Ca-la vừa tọa thiền và hàng ngày cũng phải ôm bát vào thành khất thực. Một hôm, tôn giả suy nghĩ: “Phiền ǵ ta phải hằng ngày khất thực cho vất vả, chi bằng ta ăn những thức ăn được trước, thức ăn đang được th́ mang về.” Bấy giờ, các t́-kheo trong các buổi tiểu thực và đại thực đều không thấy tôn giả Ca-la, nên chia nhau t́m kiếm. Khi ấy, tôn giả Ca-la tŕnh bày đầy đủ nguyên nhân. Các t́-kheo đem việc ấy bạch Phật. Đức Phật quở trách: “Ư của ông tuy thiểu dục, nhưng chúng sinh đời sau sẽ bắt chước làm theo.” Nhân đó, Đức Phật chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, ăn thức ăn cách đêm, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Thức ăn cách đêm: nhận hôm nay đđến ngày mai. Đối với tất cả sa-môn Thích tử đă thụ đại giới mà ăn thức ăn ấy th́ đều không thanh tịnh.

- Thức ăn: có hai loại: đó là phi thực và chính thực. Thức ăn phi chính gồm các thứ: củ cho đến thức ăn được nghiền nhỏ vụn. Thức ăn chánh gồm các thứ: cơm, lương khô cho đến thịt v.v…

- Ăn: thức ăn đă qua một đêm mà ăn, mỗi miếng nuốt vào phạm tội đọa. Nếu ăn thức ăn phi thời, thức ăn bảy ngày, thức ăn quá hạn th́ cũng phạm tội đọa. Thuốc dùng suốt đời, không bệnh mà uống phạm đột-kiết-la.

- Ba-dật-đề.

- Trường hợp không phạm: thức ăn nhận được ban đêm, đem cho cha mẹ, hay cho người làm tháp, tính giá bằng với công mà cho. Sau đó, t́-kheo khất thực xin được thức ăn từ người làm đó. Nếu bát bị nứt, thức ăn nhét vào chỗ nứt ấy, th́ phải rửa đúng như pháp. Những thức ăn c̣n lại không ra được th́ không phạm. Nếu ban đêm nhận được dầu, bơ để nhỏ mũi. Nếu khi nhỏ vào chảy xuống miệng th́ nên nhả ra hết. Nếu c̣n sót lại th́ không phạm.

39. Giới Ăn Thức Ăn Không Được Cho

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở thành Xá-vệ. Bấy giờ những người trong thành v́ cha mẹ v.v… qua đời mà sắm thức ăn uống thiết lễ cúng tế ở ngă tư đường, cho đến trong miếu thờ. Khi ấy, có t́-kheo đắp y phấn tảo đi khất thực. T́-kheo ấy tự ư lấy thức ăn ấy và ăn. V́ thế, bị các cư sĩ chê cười. Các thầy t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, cho vào miệng thức ăn, hoặc thuốc uống không được trao nhận, trừ nước và tăm xỉa răng, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Không được trao nhận: không trao cho thức ăn th́ không được nhận. Nhận có năm trường hợp: tay trao tay nhận; tay trao dùng vật nhận; dùng vật trao tay nhận; hoặc dùng vật trao dùng vật nhận; hoặc hoặc từ xa dùng vật đưa qua, người trao và người nhận đều biết khoảng cách đó không có sự ngăn ngại, vật đó rơi được vào tay. Đó gọi là năm cách nhận.

C̣n có năm cách nhận khác: cho qua thân nhận qua thân; cho qua y nhận qua y; cong tay lại để cho cong tay lại để nhận; dùng vật đựng để cho dùng vật đựng để nhận; hoặc có nhân duyên đặt dưới đất cho. Đó gọi là năm cách nhận.

- Thức ăn: thức ăn khư-xà-ni gồm các loại từ rễ cho đến thức ăn được nghiền nhỏ mịn. Ngoài ra c̣n có các loại thức ăn khác như: cơm, lương khô, cơm khô v.v…

- Hoặc thuốc uống: thức ăn xa-da-ni gồm: tô, du, sinh tô, mật, thạch mật.

- Cho vào miệng: nếu thức ăn không được cho mà tự lấy cho vào miệng mỗi mỗi miếng phạm tội đọa. Nếu ăn thức ăn phi thời, thức ăn bảy ngày, hoặc quá hạn cũng phạm tội đọa. Nếu là thuốc trọn đời không có nhân duyên mà nhận và uống th́ phạm đột-kiết-la.

-  Trừ nước và tăm xỉa răng, ba-dật-đề.

- Trường hợp không phạm: hoặc lấy nước sạch và tăm xỉa răng, nếu không được trao nhận sữa, dầu nhỏ vào mũi rồi nhổ ra hết, c̣n dư lại th́ không phạm. Hoặc t́-kheo khất thực gặp lúc chim ngậm thức ăn bay, hoặc gió thổi rơi vào trong bát, muốn trừ bỏ thức ăn ấy, cho đến chỉ dùng một móng tay để trừ bỏ, nếu c̣n dư lại th́ đều không phạm.

40. Giới Đ̣i Hỏi Thức Ăn Ngon

a. Duyên khởi

Một thời, dức Phật ở tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, t́-kheo Bạt-nan-đà có một thương chủ làm đàn-việt. Một hôm, t́-kheo Bạt-nan-đà đi khất thực, rồi đến nhà thương chủ: “Tôi muốn được thức ăn đủ vị.” Người thương chủ kia hỏi lại: “Đại đức có bệnh ǵ mà cần loại thức ăn ấy?” T́-kheo Bạt-nan-đà đáp: “Tôi không có bệnh, chỉ muốn loại thức ăn ấy thôi.” V́ thế bị người thương chủ kia chê cười. Các thầy t́-kheo đem lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật quở trách và chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, được các loại thức ăn ngon như sữa, bơ, cá, thịt, t́-kheo nào không bệnh, với thức ăn như vậy, chỉ v́ tự thân đ̣i hỏi, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Bệnh: cho đến không đủ sức đăn xong một bữa.

- Chỉ v́ tự thân đ̣i hỏi, ba-dật-đề: t́-kheo-ni v.v… phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: người bệnh tự xin, xin cho người bệnh, được và ăn. Hoặc ḿnh xin cho người, hoặc người xin cho ḿnh, hoặc không xin mà được, tất cả đều không phạm.

41. Giới Cho Ngoại Đạo Ăn

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật dẫn chúng đệ tử từ nước Câu-tát-la du hành đến nước Xá-vệ. Bấy giờ, Phật và chúng Tăng được nhiều bánh và thức ăn. Khi ấy, Đức Phật bảo tôn giả A-nan chia cho những người đi xin. Tôn giả A-nan đem hai cái bánh dính lại cho người nữ. Lại có một ngoại đạo cũng được thức ăn. Có người hỏi người ngoại đạo kia được thức ăn ở đâu, người kia nói: “Xin được của một cư sĩ trọc đầu.” Lúc ấy, Đức Phật cho tập hợp Tăng nói rơ những điều đă nghe được. Nhân đó, Đức Phật chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, tự tay cho thức ăn ngoại đạo nam hoặc nữ, ba-dật-đề.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Ngoại đạo nam hoặc nữ: là người lơa h́nh dị học. Bà-tư-ba-la-xà: là người xuất gia với chúng ngoại đạo ấy.

- Tự tay: nếu muốn cho th́ hoặc để trên đất cho, hoặc sai người cho.

- Thức ăn cho: thức ăn khư-xà-ni là loại thức ăn bằng rễ, củ, cho đến các loại thức ăn nghiền nhỏ mịn. Thức ăn có năm loại giống như trên đă nói.

- Ba-dật-đề: t́-kheo-ni v.v… phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: để dưới đất mà cho, hoặc sai người cho, hoặc dâng cho cha mẹ, cho người làm tháp, khác với người làm pḥng, phải tính công và giá trị của thức ăn mà cho; hoặc bị thế lực cưỡng bức, chiếm đoạt lấy đi, th́ đều không phạm.

42. Giới Trước Và Sau Bữa Ăn Đến Nhà Người Khác

a. Duyên khởi

Một thời, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, trong thành có một trưởng giả v́ t́-kheo Bạt-nan-đà mà cúng dường thức ăn cho Tăng. Lúc ấy, sắp qua giờ ăn mới đến nhà thụ thực, nên các t́-kheo ăn xong nhưng vẫn chưa no. Lại một lần, trong thành La-duyệt có một vị đại thần được trái cây, rồi đưa cho t́-kheo Bạt-nan-đà phân chia cho Tăng. Lúc ấy, sau bữa ăn t́-kheo Bạt-nan-đà đến nhà người khác. Các thầy t́-kheo đem hai lỗi ấy bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật chế giới này.

b. Văn giới

T́-kheo nào, trước đă nhận lời mời, trước bữa ăn hay sau bữa ăn đến nhà khác mà không báo cho t́-kheo khác, trừ trường hợp đặc biệt, ba-dật-đề. Trường hợp đặc biệt là lúc bệnh, thời gian may y, thời gian thí y. Đó là những trường hợp đặc biệt.

c. Giải thích

- T́-kheo: nghĩa như trên.

- Trước bữa ăn: từ khi b́nh minh xuất hiện đến khi ăn.

- Sau bữa ăn: từ khi ăn cho đến giữa ngày.

- Nhà: là nơi có nam, có nữ ở.

- Không báo cho t́-kheo khác: nếu ở riêng một pḥng th́ báo cho t́-kheo ở gần biết. Cùng ở chung trong cùng một cương giới.

- Trừ trường hợp đặc biệt, ba-dật-đề. Trường hợp đặc biệt là lúc bệnh: giống như trên đă nói.

- Thời gian may y: như trên.

- Thời gian thí y: sau ngày tự tứ, nếu không thụ y ca-thi-na th́ được một tháng, có thụ y ca-thi-na y th́ được năm tháng. Ngoài thời gian này ra, những lúc khác, khuyến hóa cúng thức ăn và thí y đều thuộc về thời gian thí y.

- Đó là những trường hợp đặc biệt: t́-kheo kia trước đó đă nhận được lời mời, trước sau bữa ăn không báo cho t́-kheo khác biết mà đến nhà người khác, khi vừa bước đến cửa phạm tội đọa. Những trường hợp khác phạm đột-kiết-la.

- Trường hợp không phạm: như những trường hợp được khai ở trên đă nói: báo cho t́-kheo khác biết; hoặc không có t́-kheo, nên không báo; đến chỗ nhà kho, tụ lạc, pḥng bên cạnh; hoặc đến chùa ni, đến dặn nhà bạch y; hoặc nơi có nhiều nhà, trải tọa cụ thỉnh t́-kheo. Nếu gặp nạn duyên th́ được khai cho.

Hết quyển 2-A

________________________________________

[62] Chuyện con ḅ 牯牛: nhân việc nhóm sáu thầy t́-kheo mắng nhiếc người đoán sự bằng giống loài Đức Phật dẫn câu chuyện đấu ḅ giữa con ḅ của người bà-la-môn và con ḅ một ông trưởng giả để làm sáng tỏ việc này.

[63] Chuyện dă can 野干: chuyện dă can gây chia rẽ giữa con sư tử Thiện Nha và con cọp Thiện Bác. Chuyện này được Đức Phật kể lại trong phần duyên khởi trước khi chế giới này.

[64] Nhất tọa thực 一坐食(S: Ekāsanika): mỗi ngày chỉ ăn một lần và ngồi tại một chỗ trong lúc ăn. Khi đă đứng dậy th́ không ngồi xuống ăn nữa, một trong 12 hạnh đầu đà. V́ trong một ngày mà ăn vài ba lần th́ sẽ trở ngại nhiều cho việc tu tập, cho nên người muốn tu hành chỉ ăn một bữa vào lúc giữa ngày.

[65] Ma-ma-đế 摩摩帝(S: Vihāra-svāmin): là người trông coi công việc trong chùa. Tức là chức Tri sự.

[66] Giường tắm 浴牀: có lẽ là ghế nhỏ, dùng để ngồi tắm.

[67]Ăn chúng riêng 別眾食: nghĩa là tách riêng ra thành nhóm từ  bốn t́-kheo trở lên khất thực riêng và ăn riêng.

[68] 是中。行住坐臥。各作句數。犯足如律: trong bộ Hàm chú này ghi rất vắn tắt, rất khó hiểu. Chúng tôi tham chiếu trong bộ quảng luật, khi ấy Đức Phật dạy tôn giả Ưu-ba-li rằng: “Có năm trường hợp được xem túc thực. Thế nào là năm? Ưu-ba-li, t́-kheo biết ḿnh đang đi, biết thức ăn là cơm, biết đă được đem đến, biết ngăn, biết oai nghi, biết xả oai nghi. Biết túc thực rồi, đă xả oai nghi, không tác pháp tàn thực, nhận được thức ăn mà ăn, mỗi miếng phạm một ba-dật-đề.” Như vậy, cứ mỗi hành động Đức Phật đều dạy và đúng ra phải ghi chi tiết như hành động ‘đang đi’. Nhưng v́ ở đây khắn bản quá vắn tắt nên rất khó để hiểu được ư muốn nói ǵ.

 

previous.png      back_to_top.png      next.png

 

 

[ TRANG CHỦ | KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

 

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0