佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

PHẬT NÓI KINH PHỔ DIỆU

Hán dịch: Đời Tây Tấn, Pháp sư Trúc Pháp Hộ, người nước Nguyệt chỉ

Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

-o0o-

QUYỂN I

Phẩm 1: BÀN VỀ GIÁNG THN

 

Số 0186

PHẬT NÓI KINH PHỔ DIỆU  8 Quyển

MỤC LỤC

 Quyển I

 Phẩm 1: Bàn Về Giáng Thần

 Phẩm 2: Thuyết Pháp Môn

 Phẩm 3: Hiện H́nh Voi

 Quyển II

 Phẩm 4: Giáng Thần Ở Trong Thai

 Phẩm 5: Khi Sắp Sinh Ứng Hiện Ba Mươi Hai Điềm Lành

 Quyển III

 Phẩm 6: Vào Miếu Trời

 Phẩm 7: Thị Hiện Học Chữ

 Phẩm 8: Ngồi Dưới Gốc Cây Xem Cày Ruộng

 Phẩm 9: Vua Bạch Tịnh Chọn Vợ Cho Thái Tử

 Phẩm 10: Thi Tài Nghệ

 Phẩm 11: Bốn Lần Dạo Xem

 Quyển IV

 Phẩm 12: Xuất Gia

 Phẩm 13: Bảo Xa Nặc Thắng Ngựa

 Quyển V

 Phẩm 14: Ba Môn Học Khác

 Phẩm 15: Sáu Năm Siêng  Tu Khổ Hạnh

 Phẩm 16: Rồng Ca Lâm

 Phẩm 17: Vời Ma

 Quyển VI

 Phẩm 18: Hàng Phục Ma Quân

 Phẩm 19: Thiền Tư Hành Đạo

 Phẩm 20: Chư Thiên Chúc Mừng Phật Thành Đạo

 Quyển VII

 Phẩm 21: Quán Sát Cây

 Phẩm 22: Thương Nhân Dâng Bánh

 Phẩm 23: Phạm Thiên Khuyến Thỉnh Thuyết Pháp

 Phẩm 24: Câu Lân

 Quyển VIII

 Phẩm 25: Mười Tám Phép Quyền Biến

 Phẩm 26: Phật Đến Nước Ma Kiệt Đà

 Phẩm 27: Giáo Hóa Xá Lợi Phất Và Mục Kiền Liên

 Phẩm 28: Ưu Đà Da

 Phẩm 29: Khen Ngợi Phật

 Phẩm 30: Chúc Lụy

 

Nghe như vầy:

        Một thời, Đức Phật ngự tại khu lâm viên Kỳ-đà cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ, cùng với đông đủ chúng đại Tỳ-kheo, một vạn hai ngàn người và Bồ-tát, ba vạn hai ngàn người. Tất cả là những bậc đă đạt trí tuệ và thần thông tự tại vô ngại, chỉ c̣n thọ sinh một lần nữa sẽ thành Chánh giác. Các vị đă từng bỏ thân mạng bố thí, tŕ giới trong sáng, nhẫn nhục, điều phục ư, nhất tâm, tinh tấn, trí tuệ, phương tiện, khéo léo, vượt trên tất cả, hiểu rơ vạn pháp thảy đều như huyễn, như ngựa đồng hoang, như bóng, như tiếng vang, như cây chuối, như huyễn hóa, như bóng trăng, đều vô sở hữu. Đối với những việc có lợi, không lợi, khen chê, khổ vui, có tiếng, không danh tiếng, đều tự tại an nhiên, đă vượt qua tất cả các pháp sở hữu đó của thế gian, thần thông du hóa tự tại, đạt các pháp tổng tŕ, một ḿnh du hóa khắp ba cơi, như mặt trời chiếu sáng. Các bậc Bồ-tát với chí nguyện đầy đủ, thường qua lại trong năm đường để cứu giúp những khốn nguy ách nạn, phân biệt biện tài, định ư vô ngại, đều là do tự bản thân ḿnh đă hoàn thành pháp nhẫn một cách trọn vẹn. Các ngài trụ chỗ vô trụ để độ thoát khắp mười phương. Tên của các ngài là Bồ-tát Từ Thị, Bồ-tát Tổng Hào Vương, Bồ-tát Sự Tử Anh, Bồ-tát Cát Nghĩa Ư, Bồ-tát Tịch Ư Hạnh, Bồ-tát Phân Biệt Biện Tài, Bồ-tát Đăi Vô Sở Úy, Bồ-tát Tấn Tịch, Bồ-tát Đại Ai. Các bậc Bồ-tát Thượng Thủ như vậy gồm có cả thảy là ba vạn hai ngàn người.

        Bấy giờ, Đức Thế Tôn đang du hóa tại thành Xá-vệ. Nơi đây, trên từ vua quan, đại thần, hào tộc, trưởng giả, cho đến vạn lớp dân chúng thảy đều cùng nhau cúng dường y phục, ẩm thực, giường nệm, ngọa cụ, thuốc men, tất cả đều được đầy đủ, an ổn, và danh xưng tốt đẹp sau đây về Đức Phật được đồn khắp mười phương, đó là Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, đang giảng dạy đạo ư nghĩa, ở đầu, giữa, cuối đều thiện, nghĩa lư thông suốt nhiệm mầu, rỗng lặng, thích hợp cho việc tịnh tu phạm hạnh.

        Bấy giờ, đang đêm có các Thiên tử cơi Tịnh cư tên là Tịch Nhiên Tôn cùng với Thần Diệu Thiên, Hoan Lạc Thiên, Gia Hoan Thiên, Chiên-đàn Thiên, Đại Duyệt Thiên, Huỳnh Nhiên Thiên, Tôn Tịch Luật Thiên và vô số Thiên tử khác trời Tịnh cư, oai thần rực rỡ, hào quang sáng chói chiếu khắp rừng Kỳ thọ, cùng nhau đi đến chỗ Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, rồi lui đứng qua một bên và bạch Phật:

        -Kính bạch Đức Thế Tôn, chúng con từng nghe có kinh điển tên Phổ Diệu Đại Phương Đẳng, phân biệt cội gốc các đức hạnh của Bồ-tát từ cung trời Đâu-suất giáng thần nhập mẫu thai. Thời gian ở trong thai vui vẻ phát triển. V́ muốn hiển bày sự thù đặc lại hiện đản sinh. Tất cả đều là v́ lập các pháp hạnh.

        Lúc ở chốn cung điện cùng thể nữ hưởng thọ dục lạc, hiểu rơ các môn nghệ thuật, thị hiện học tập thơ văn, toán số, thuốc thang trị bệnh, bắn cung, cỡi ngựa, đánh quyền, biểu diễn ném voi... chứng tỏ đạo lực siêu việt quần sinh, thành tựu đầy đủ các hạnh Bồ-tát, qua lại khắp nơi, quả thật là bậc siêu việt thù thắng, tiếng tốt đồn khắp, dùng Bồ-tát lực để tự an vui, hàng phục quân ma, đầy đủ thập lực, vô úy của Như Lai, ban bố, tuyên dương vô lượng kinh điển của chư Phật, mở bày giảng dạy vô lượng giáo pháp mà các Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác trong quá khứ đă từng giảng dạy.

        Đạo nghĩa ngàn xưa cũng giống như các Đức Thế Tôn: Phật Liên Hoa Thượng, Phật Pháp Anh, Phật Định Quang, Phật Đức Anh, Phật Pháp Tạo, Phật Tiên Thiên, Phật Đế Anh, Phật Tập Kim Cang, Phật Chúng Tôn, Phật Tuyết Tượng, Phật Nhạo Thanh Tịnh, Phật Xuất Gia Lạc Hạnh, Phật Hoa Anh, Phật Thắng Nham, Phật Thiện Minh, Phật Thiện Diệu, Phật Tiên Huân, Phật Thắng Luân, Phật Hân Lạc, Phật Thiên Hoa, Phật Luân Cát Tường, Phật Thiện Thủ, Phật Thiên Hỷ, Phật Trụ Giác, Phật Trụ Thí, Phật Đế Pháp Phổ Xưng, Phật Thị Thế Thiện Diệu, Phật Biện Phổ, Phật Bảo Xưng, Phật Oai Cường, Phật Phạm Thần, Phật Vô Úy Thiện Hóa, Phật Thiện Âm, Phật Mục Duyệt, Phật Tích Đức, Phật Âm Vũ, Phật Diệu Nhan, Phật Thọ Thần! Phật Dữ Nhân Du, Phật Mỹ Cầu, Phật Hàng Oán, Phật Cúng Dường, Phật Duy Vệ, Phật Thức-khí, Phật Tùy Diệp, Phật Câu-lưu-tần, Phật Câu-na-hàm Mâu-ni, Phật Ca-diếp, là các Đấng Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác từ xưa đến nay đă từng mở bày con đường giáo hóa.

            Lành thay, cúi xin Đức Thế Tôn v́ ḷng thương xót đối với tất cả quần sinh mà ngày hôm nay cũng mở bày giảng giải giáo pháp như vậy. Cúi xin Đức Thế Tôn v́ thương tưởng đến số đông, an ủi cho số đông mà cứu độ thế gian và nhân loại khắp mười phương. V́ các hàng Đại thừa mà chỉ dạy giáo pháp này, để bẻ dẹp hết tất cả những tà thuyết dị học của ngoại đạo, nhiếp phục các loài ma, tuyên bố các hạnh nghĩa của Bồ-tát. Những ai nguyện thực hiện hạnh Đại thừa Bồ-tát th́ tự ḿnh phải nỗ lực tinh tấn hộ tŕ chánh pháp khiến ngôi Tam bảo được tồn tại dài lâu, không để cho bị dứt mất và đầy đủ thân Phật hiện khắp mười phương.

        Khi ấy Đức Phật nhận lời thỉnh cầu của các Thiên tử bằng cách im lặng, v́ muốn khiến cho tất cả chúng sinh thảy đều được thọ ân.

        Khi ấy các Thiên tử thấy Đức Phật lặng im nhận lời thỉnh cầu th́ trong ḷng rất vui vẻ, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, đi quanh Phật ba ṿng, dùng hoa thiên tâm tung rải để cúng dường Phật, rồi bỗng nhiên biến mất, cùng nhau trở về Thiên giới.

        Sáng hôm sau, Đức Thế Tôn với hàng đệ tử Bồ-tát và Thanh văn vây quanh, nhóm họp tại giảng đường Ca-lê. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo chư Tỳ-kheo.

        -Khi hôm, vào lúc nửa đêm có các Thiên tử cơi Tịnh cư cùng với quyến thuộc đến đảnh lễ sát chân Ta và chắp tay thưa: “Xin Đức Thế Tôn v́ tất cả chúng con mà giảng dạy lại kinh Đại Phương Đẳng Phổ Diệu để cho hết thảy quần sinh đều được nhờ ân”.         Khi ấy Ta im lặng nhận lời thỉnh cầu. Các Thiên tử thấy ta nhận lời, vui mừng phấn khởi rồi bỗng nhiên biến mất, cùng nhau trở về Thiên giới.

        Bấy giờ hội chúng nghe Đức Phật kể lại chuyện trên, vui mừng khôn xiết, cùng nhau đến trước Phật bạch:

        -Cúi xin Đấng Thiên Trung Thiên, hăy v́ chúng con giảng giải những lời hỏi ấy.

        Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Bồ-tát và Thanh văn:

        -Hăy lắng nghe và khéo suy nghĩ, Ta sẽ v́ các thầy giảng lại những lời dạy cao quư mà tất cả các Đức Như Lai đă từng giảng dạy để cứu giúp hết thảy chúng sinh.

        Này các thầy Tỳ-kheo, sao gọi là pháp Đại Phương Đẳng trong kinh Phổ Diệu?

        Bấy giờ, Bồ-tát ở cơi trời Đâu-suất trông thấy cả trăm ngàn chư Thiên đều cung kính Bồ-tát đă đạt đến quả vị Bất thoái chuyển, cùng nhau hết lời ca ngợi, tiếng vang mười phương, các nguyện hoàn măn, hiểu rơ tất cả tạng pháp của chư Phật, thanh tịnh vô cấu. Với đạo nhăn và trí tuệ của bậc Thánh, tâm niệm, trí định qua lại khắp nơi. Bản tánh cao thượng kiên cố, hổ thẹn v́ chưa hóa độ quần sinh. Tâm niệm rộng răi cao xa tự tại, các hạnh Bố thí, Tŕ giới, Nhẫn, Tinh tấn, Nhất tâm, Trí tuệ đều uyên thâm. Dùng đại phương tiện để hóa độ bốn Đẳng tâm: đại Từ, đại Bi, Hỷ, Hộ (Từ, Bi, Hỷ, Xả) truyền rộng giáo pháp. Dùng ba Đạt với thần thông vô cực không chướng ngại, để mở bày Thánh tuệ vĩnh viễn không c̣n bị che lấp tăm tối, thuần thục đạo nghiệp với ư chỉ, ư đoạn, thần túc, căn, lực, giác ư, đạo nghiệp, chỉ, quán, vắng lặng, đầy đủ tất cả đạo phẩm của chư Phật, đạt đến cùng tột ngọn nguồn, công lao phước lộc không thể đo lường, thành tựu tướng hảo trang nghiêm tự thân ở trong cảnh giới ấy lâu dài thường được tự tại.

        Vị ấy nhân từ, ḥa thuận không tranh căi, lời nói và việc làm luôn đi đôi. Ư nghĩ, lời nói không hề sai trái, tâm ư ngay thẳng, không nịnh hót quanh co. Nghĩ đến người oán kết th́ tự nhún nhường, không tự đại, tự cao, tâm b́nh đẳng với tất cả chúng sinh, chưa từng có sự thiên lệch; cúng dường vô số trăm ngàn các Đức Phật thuở trước. V́ chúng sinh nhận chịu những hoạn nạn tai ương, xem thấy vô lượng chúng Bồ-tát, tỏ rơ nguồn gốc của họ. Thích, Phạm, Tứ Thiên vương, Diệu thiên, Thiên, Long, Quỷ thần, Duyệt-xoa, Kiền-đà-la, không một ai được thấy mà không mừng vui, thưa hỏi và nhận lănh lời dạy bảo.

        Vị ấy phân biệt rơ ràng gốc ngọn của từng bài, từng câu xong, đem vô vi nhập vào hữu vi, tùy thời cơ phương tiện mà mở bày giáo hóa. Tâm niệm chứa đựng giáo pháp, hiểu rơ tất cả những ǵ chư Phật đă giảng dạy không rố́ rắm, không c̣n quay trở lại, thẳng hướng đến tổng tŕ, vào sâu tạng pháp, dong thuyền pháp lớn, dạo trên mười hai biển để tiếp độ các hạng chúng sinh, dạy ba mươi bảy phẩm trợ đạo, tập trung trí tuệ sâu xa vào pháp bảo, làm vị thầy dẫn đường vĩ đại vượt qua bốn ḍng, các nguyện đầy đủ, hàng phục ma oán, khéo ngăn chận các đường thuộc về tà thuyết dị học của ngoại đạo; mở bày giáo hóa cho tất cả trụ vào chỗ kiên cố; tuy ở chốn trần lao mà đă có nơi quay về; v́ mọi người làm vị thầy dẫn đường, vững chắc như kim cang, hành từ bi không chướng ngại; chí tánh an ḥa, tích lũy sức tinh tấn; v́ giáo pháp ưu việt thâm sâu, tùy phương tiện khéo léo. Ở giữa chúng, hùng như sư tử, khả năng định ư không thể đo lường, giống như hoa sen mọc trong bùn lầy mà không bị nhơ nhớp. Giữ ǵn giới cấm, học rộng nghe nhiều, chưa từng buông lung. Ḷng từ trùm khắp mười phương, chưa từng có tâm gia hại. Nước tâm lắng trong chưa từng nhiễm trước. Vượt tám pháp thế gian, tâm như khối báu lớn. Phước lộc Thánh tuệ đạt được thật vô cùng. Nhóm công, vun đức, dồn chứa đạo nghiệp, rơ suốt trí tuệ Phật, khai mở thành Pháp, tiêu trừ những hoạn nạn cho chúng sinh, khéo khai ngộ cho họ. Dùng bốn phép Thần túc thông vượt qua bờ bên kia, chí đặt ở ba cửa giải thoát, làm sáng tỏ môn nhất tâm giải thoát vắng lặng, thanh tịnh, chói sáng, tịch lặng.

        Ở chỗ am thất thanh vắng như núi non, đồng trống, dạo chơi nơi rừng pháp, thực hành Cụ túc giới, Thập lực, Vô úy, chưa từng khiếp nhược, đă vượt thoát sinh tử, không c̣n nghi ngờ.

        Không sợ hăi vượt qua vô số các phái dị học ngoại đạo, giống như sư tử dạo đi giữa đám hươu nai, xả bỏ buông lung, không giữ ư riêng. Giả sử có chỗ luận bàn th́ rống lên tiếng rống của sư tử, oai hùng trong loài người.

        Đạo tràng thiền định trí tuệ giải thoát, phóng ánh sáng lớn chiếu soi đến tận những chỗ tối tăm, khắp nơi thảy được nương nhờ ánh sáng của đạo. Các chúng tà dị học giống như con đom đóm, chẳng ích lợi ǵ cho thế gian. Ngu mê tâm tối che lâp ánh sáng nguồn tâm. Phát khởi sức đại đạo, việc làm tinh tấn. Tuyên bày công lao đức hạnh, oai thần vời vợi, trừ những thứ tối tăm, đầy đủ sự trong sáng, mọi người thấy đều hoan hỷ. Đối với quốc độ của chư Phật, không c̣n có chướng ngại. Nhổ phăng những khốn cùng nguy ách, tẩy rửa những bụi bặm nhớp nhơ. Đối với pháp môn giải thoát, nhất tâm, tỉnh thức, điều ḥa, hiểu rơ, thông suốt, thiền tư, sáng tỏ để mở bày giáo hóa bốn bộ chúng, chư Thiên và dân chúng thực hành Thật giác ư, dồn chứa cái quư báu của đạo, điều phục tâm chúng sinh, tùy bệnh cho thuốc, khiến không ôm ấp sự xấu ác, thực hành mười nghiệp lành, lấy đó làm của cải giàu có; vâng giữ đầy đủ không trái với việc làm thù thắng của Đấng Pháp Vương, là chuyển bánh xe báu, chuyển ḍng Luân vương, thành tựu tất cả, sâu xa khó lượng. Tất cả pháp bảo nghe măi không chán, trí tuệ không cùng, không tận.

        Bấy giờ tất cả những việc như đây không thể hạn lượng, không thể thí dụ, giống như sông biển là chỗ tóm thâu trí tuệ. Như đất, nước, lửa, gió, tâm kia đều b́nh đẳng. Vững mạnh không lay động như núi Tu-di. Tiêu sạch các trói buộc dính mắc, như ánh sáng mặt trời chiếu sáng những chỗ nhớp nhơ. Tâm như hư không.

        Tại cung điện lớn sắp đặt ở đó các thứ sàng ṭa đủ hai vạn hai ngàn. V́ cửa ngơ, mái hiên cửa sổ, giảng đường, lầu gác trang hoàng nghiêm chỉnh, dựng các tràng phan bảo cái. Tịnh xá được rải san sát các thứ hoa sen xanh, phù dung. Các chúng ngọc nữ có đến trăm ngàn ức, cùng nhau trổi các thứ nhạc hay và rải các thứ hoa đủ loại không thể kể hết. Các loại cây quư thứ lớp thẳng hàng.         Đất đai sạch sẽ bằng thẳng, không gồ ghề. Hương thơm xông khắp, chim le le, nhạn, loan đủ loại nhiều vô số ức bơi lội trong ao, phát ra các âm thanh ḥa nhă, thấy, nghe, đùa giỡn như tiếng đại pháp, tiêu trừ tất cả nạn khổ của trần dục, nhiếp phục các sự mỏi mệt, chán nản, tự đại, cống cao, Tâm luôn vui vẻ, nhớ nghĩ việc cao xa; do đó thành tựu được pháp lớn không cùng tột. Dùng các loại âm thanh vi diệu của tám vạn bốn ngàn loại nhạc hay để diễn bày, giảng dạy. Do phước đức của Bồ-tát chứa nhóm từ nhiều đời trước, tự nhiên tuyên xuất bài kệ vi diệu này:

        Chứa công dồn đức hạnh

        Tuyên bố đủ pháp âm

        Tâm Ngài gắn liền đạo

        Tạo trí tuệ sáng suốt

        Đủ vô lượng thế lực

        Vứt bỏ các sở hữu

        Phân biệt giải tận gốc

        Các nghi của chư Thiên

        Ư thanh tịnh không nhơ

        Không tỷ vết xen tạp    

        Vứt bỏ sạch ba độc

        Vắng bặt sân, nhuế, hận

        Lắng trong hết các cấu

        Tâm Ngài như ngọc sáng

        Từ xưa cho đến sau

        Thường ưa thích bố thí

        Tiếng vang từ ḍng họ

        Giới, tịnh hạnh, điều ḥa

        Tinh tấn, thiền, trí tuệ

        Làm theo muôn ức pháp

        Vô số tiếng khen ngợi

        Nói pháp muôn ức Phật

        Thương xót các chúng sinh

        Chỉ xem xét hiện thời

        Mà hiểu biết sau trước

        Trần cấu của sinh tử

        Quán sát bản hạnh Ngài

        Thiên, Long, các Quỷ thần

        Trải trăm ngàn ức kiếp

        Ưa nghe không chán mỏi

        Trí tuệ thiện không lười

        No đủ không đói khát

        Các ngươi tuy ngưỡng mộ

        Ưa pháp không thích dục

        Tánh không c̣n cấu uế

        Thương xót trời người đời

        Ở na-thuật ức năm

        Nghe pháp tâm không bỏ

        Hoặc ngưỡng mộ ca tụng

        Quán các nạn địa ngục

        Mắt thông suốt không vướng

        Thấy muời phương chư Phật

        Đă được nghe pháp này

        Kinh này đời tôn trọng

        Đời trước gieo diệu đức

        Ở cung trời Đâu-suất

        Càng được trời thương mến

        Ưa mưa xuống thiên hạ

        Đă vượt khỏi dục gỉới

        Và sắc giới ức năm

        Đều cùng mến mộ Thánh

        Phật vô lượng kiết tường

        Hàng phục các nghiệp ma

        Giáo hóa các dị học

        Quy Phật thật dễ dàng

        Lại xét lúc này đây

        Trần Lao đời hưng thạnh

        Diễn bày mây chánh pháp

        Tinh tấn mưa cam lộ

        Tiêu cấu uế trời, người

        Tôn y hiểu các bệnh

        Trao thuốc để trị liệu

        Chỉ ba cửa giải thoát

        Chóng lập nhà vô vi

        Thí như sư tử rống

        Các trùng nhỏ khiếp sợ

        Với tiếng sư tử rống

        Phật hàng ma, dị học

        Tay cầm đèn minh triết

        Sức tinh tấn vượt lực

        Tổng tŕ gần trước mắt

        Hàng phục thắng chúng ma

        Bốn Thiên vương xa thấy

        Muốn dâng bát lên Ngài

        Thiên, Đế, Phạm, ức năm

        Vừa sinh, đến phụng kính

        Thảy đều dâng lời khen

        Ḍng báu, các họ quư

        Bậc trời người tôn kính

        Tu hành đạo Bồ-tát

        Về sau tại ba cơi

        Sáng báu lại hơn hẳn

        Như ma-ni vô cấu

        Nổi mây, mưa thiên hạ

        Các tiếng âm nhạc hay

        Diễn xuất biết ba âm

        Ư mến thương khuyên giúp

        Xem xét nay đúng lúc.

        Bấy giờ Phật bảo các thầy Tỳ-kheo:

        -Khi ấy Bồ-tát dùng các thứ nhạc hay tuyên bày pháp âm. Ra khỏi đại cung điện có đại giảng đường tên là Diễn thí pháp. Bồ-tát lên ngồi trên ṭa sư tử nơi giảng đường kia, các Thiên tử theo học nghiệp Đại-thừa, hạnh b́nh đẳng, từ bi, cũng đều lên giảng đường lớn này, mọi người theo thứ lớp ngồi vào chỗ của ḿnh đều cùng theo học, bỏ lại chúng ngọc nữ và các Thiên tử. Mỗi người đến nhóm họp, các chúng quyến thuộc của mỗi người đem theo có đến sáu mươi sáu ức, đều cùng bàn tán: “Chủng tộc nào đáng cho Bồ-tát hiện sinh vào?” Có người cho rằng: ḍng họ Duy-đề thuộc đất nước Ma-kiệt rất là hưng thịnh, nay Bồ-tát nên giáng thần mẫu thai ở nơi ấy. Có người cho: Bồ- tát không nên sinh vào đất nước kia, v́ lẽ ǵ? V́ ḍng Duy-đề ấy người mẹ thuộc ḍng họ chân chánh nhưng ḍng họ của người cha không chân chánh, thuộc giống binh nô: hung bạo không hiền lành, không đáng ưa thích.         Ḍng họ đó phước đức ít oi không đầy đủ. Đất đai thành ấp không có hoa viên, ao tắm tốt đẹp. Đă là chỗ biên địa th́ không nên sinh ở đó.

        Có người luận rằng: Câu-tát-la là một nước lớn, ḍng họ to lớn, quyến thuộc đông đúc, Bồ-tát nên giáng thần ở nước ấy. Có người cho rằng: Bồ-tát không nên giáng thần cơi kia. V́ lẽ ǵ? Bởi v́ Câu-tát-la vốn ḍng họ Ma-đằng đến sinh sống nơi đó, cha mẹ ḍng họ đều không chân chánh, thuộc hạng hạ liệt, thấp hèn, không phải là chỗ đáng cho bậc thầy của trời ưa chuộng. Xứ sở ấy phước lộc mỏng manh, thấp hèn, thô bỉ, tánh hạnh không ḥa, không có các thứ trân châu quư báu khác lạ cùng những thức ăn quư, bổ để có thể cúng dường lên bậc Thánh, vườn quán, ao tắm cũng rất sơ sài, đă là chốn biên vực th́ không nên tôn ngưỡng.

        Có người nói: Ḥa-sa là một nước lớn, quốc vương thuộc ḍng họ cao sang, dân chúng đông đúc, thạnh vượng, ngũ cốc dẫy đầy, Bồ-tát nên giáng thần nước kia. Hoặc có người lại bảo: Bồ-tát không nên giáng thần nơi đó. V́ lẽ ǵ? Quốc vương nước kia thuộc ḍng họ thấp kém, hợp chủng, không phải cao đức. Đất không có oai thần, phải lễ tiết từ nước khác để lập thành nước ḿnh. Cha mẹ không chân thành, không được thong dong. Do v́ lẽ ấy không nên sinh vào nước kia.

        Lại có người nói rằng: Duy-da-ly là một thành vô cùng rộng lớn, nhân dân phồn vinh an ổn, thịnh vượng vui vẻ, không có các nạn. Cửa nhà, mái hiên chạm trổ hoa văn, lầu gác, bao lơn trang hoàng rực rỡ. Ao tắm, vườn quán, nam nữ dạo chơi cùng khắp trong đó. Nhà cửa của dân chúng ngay hàng thẳng lối, Bồ-tát nên giáng thần vào nước kia. Lại có người nói: Bồ-tát không nên giáng thần nơi ấy. V́ lẽ ǵ? Dân chúng nước kia thường hay tranh căi, bất ḥa, không có hạnh thanh tịnh; chỉ có h́nh thức bên ngoài chứ không có thực lực bên trong, không tu đạo pháp, không biết tôn ti. Mỗi người tự cho ḿnh là hơn hết, là duy nhất, không tự nhún nhường, không tuân theo giáo pháp, không kính phục bậc cao đức. Do đó cho nên không đáng tôn phục.

        Lại có người nói rằng: nước Đăng thọ này thuộc ḍng họ hào cường, sự nghiệp to lớn, tài năng số một, không có ai vượt khỏi, Bồ-tát nên giáng thần vào nước ấy. Lại có người nói rằng: Ở đó cũng không nên. V́ lẽ ǵ? V́ người cơi đó hung hăng ngỗ nghịch, việc làm th́ dối trá, tánh khí lại hung ác, cứng cỏi khó dạy, cười chê người, tự đại, cho ḿnh là hơn, không có sự nghiệp tu hành. Do đó, Bồ-tát không nên sinh vào cơi kia.

        Các Bồ-tát và Thiên tử ai nấy đều cùng nhau luận bàn xem xét khắp các quốc độ lớn trong thiên hạ. Các ḍng họ lớn của các vua, các địa vị giàu sang, quư trọng, đều xem xét hết, nhưng hết thảy đều không vừa ư.

        Bấy giờ trong chúng hội có một vị Thiên tử tên là Tràng Anh thực hành đạo Bồ-tát đến địa vị Bất thoái chuyển, thông suốt về Đại thừa, bảo với các Bồ-tát và các Thiên tử:

        -Này chư hiền, chúng ta nên cùng nhau đến thưa hỏi Bồ-tát, ḍng họ nơi nào là ḍng họ sau cùng rốt ráo để Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ giáng thần mẫu thai.

        Tất cả cùng nhau đi đến chỗ Bồ-tát, tới trước chắp tay thưa:

        -Cúi xin đấng Chánh sĩ cứu cánh Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ, Ngài sẽ giáng thần vào chỗ nào, ḍng họ nào và công đức ra sao?

        Bồ-tát đáp:

        -Nước nào, ḍng họ nào có sáu mươi đức, bậc Nhất sinh bổ xứ mới nên giáng thần. Những ǵ là sáu mươi?

        1. Cơi nước rộng lớn, ḍng họ tịch lặng.

        2. Mọi người đều tôn trọng, kính ngưỡng.

        3. Ḍng họ không tạp nhạp.

        4. Sinh chỗ trang nghiêm đẹp đẽ.

        5. Ḍng họ chân chánh.

        6. Đúng hạnh của kẻ nam người nữ.

        7. Ư chí tháo vát kiên cường.

        8. Trước sau đều trượng phu.

        9. Học theo nghề nghiệp tốt.

        10. Đức hạnh bền chắc.

        11. Làm người giản dị.

        12. Được mọi người khen ngợi ưa thích.

        13. Ư chí hành động dũng mănh.

        14. Ở chỗ tôn quư.

        15. Chí hạnh không cùng.

        16. Nữ hạnh trong trắng.

        17. Nam tử đông nhiều.

        18. Chỗ sinh không sợ.

        19. Không có tật đ, xan tham.

        20. Trí tuệ sáng suốt.

        21. Có nhiều nghệ thuật.

        22. Dứt sạch nẻo ác.

        23. Ăn uống tùy ư.

        24. Được tự do.

        25. Bạn lành đông nhiều.

        26. Tuy ở chỗ có trùng thú mà không bị hại.

        27. Ḍng họ ôn ḥa, lương thiện.

        28. Chuộng tu đạo đức.

        29. Không có tham dục.

        30. Không có sân hận.

        31. Không ôm ấp ngu si tăm tối.

        32. Vui vẻ, không cống cao.

        33. Tướng tốt trùm khắp.

        34. Dốc ḷng tin vào đạo.

        35. Ưa thích b thí.

        36. Xuất gia bền bỉ.

        37. Thế lực vượt xa.

        38. Chỗ dạo chơi thù thắng.

        39. Không ai là không cung kính.

        40. Chư Thiên phụng thờ.

        41. Quỷ thần vâng lệnh.

        42. Ngạ quỷ quy ngưỡng.

        43. Không có oán kết.

        44. Tiếng đồn khắp nơi.

        45. Chủng loại hàng đầu.

        46. Tánh hạnh tự tại.

        47. Quyến thuộc mạnh mẽ.

        48. Không bạn bè náo loạn.

        49. Bạn bè cao thượng.

        50. Hiếu thuận cha mẹ.

        51. Kính trọng Sa-môn, Phạm chí.

        52. Tiền của giàu có, nghề nghiệp tinh xảo.

        53. Nhiều kho tàng của báu, ngũ cốc.

        54. Bảy báu dồi dào.

        55. Voi ngựa vô số.

        56. Độc lập, tự chủ.

        57. Tôi tớ, tiểu đồng để sai khiến nhiều vô s.

        58. Nghĩa lợi như ư.

        59. Không ai có thể hơn.

        60. Nhân từ trùm khắp.

        Đó là sáu mươi đức.

        Khi ấy các Bồ-tát và các Thiên tử nghe kể sáu mươi chủng tánh thanh tịnh như vậy mới biết sự đặc thù, hết sức vui mừng, sung sướng, đến trước bạch với Bồ-tát:

        -Kính bạch Bồ-tát, ḍng họ nơi nào mà công đức huân tập rực rỡ đầy đủ như đây?

        Bồ-tát đáp:

        -Nay ḍng họ Thích này rất thịnh vượng, ngũ cốc dẫy đầy, thanh b́nh an vui, đời sống dân chúng rất sung túc, hưng thạnh, là do trồng các gốc đức. Nước Ca-duy-la-vệ mọi người ḥa thuận, trên dưới nương nhau, tâm niệm ḥa hợp, bảo vệ t́nh h́nh chung, có ba loại kho chứa của, không c̣n tai ương, bỏ các tà kiến. Tất cả ḍng họ Thích đều khát ngưỡng đạo Nhất thừa, kính thờ bậc trưởng thượng tôn túc. Cư sĩ, đại thần, quyến thuộc ḥa ái với nhau, sắc tướng xinh đẹp vào bậc nhất.

        Đức vua Bạch Tịnh tánh hạnh rất hiền từ, nhân đức. Phu nhân của vua tên là Khiết Diệu, thùy mị, tánh t́nh ôn ḥa, nhân từ bác ái, nhan sắc không ai bằng, tâm không thay đổi, chưa có con nối ḍng, bà nhàm chán thế tục, học đạo không mỏi mệt, giống như Thiên ngọc nữ, ai trông thấy cũng hoan hỷ, không có thói thường của nữ nhân, lời nói chí thành không thô bỉ hung ác, trừ bỏ sân hận, không đi truyền nói việc của người này người kia, ưa thích bố thí, ǵn giữ giới cấm không hề bị khiếm khuyết, kính trọng chồng, đúng lúc, tâm không thay đổi, thường định an lành. Màu tóc xanh biếc, sắc mặt sáng sủa, vui tươi, nghĩ kỹ trước khi nói. Ḍng họ đó nhân ḥa, tánh nết ngay thẳng, không dua nịnh quanh co, thường biết hổ thẹn, tính t́nh chính chắn không hời hợt. Ba cấu nhẹ mỏng, nhẫn nhục hàng đầu, tay chân mềm mại giống như hoa sen. Giữ ǵn thân, khẩu, ư vững như kim cang, như ngọc nữ báu, đức vốn thanh tịnh, năm trăm đời trước đă từng làm mẹ Bồ-tát. Ḍng họ Thích luôn luôn khát khao trông đợi nên Ta đến giáng thần vào thai bà.

        Ngài liền đọc bài kệ:

        Người thanh tịnh ưa pháp

        Ngồi pháp ṭa sư tử

        Tự nhiên trời vây quanh

        Buồn bă nên Bồ-tát

        Bàn khắp nơi giảng đường

        Ḍng nào rất hiền lương

        Bồ-tát nên giáng thần

        Cha mẹ thuần chân chánh

        Xem khắp trong thiên hạ

        Vua, chư hầu, họ lớn

        Cùng chung ḷng suy nghĩ

        Ḍng Thích sạch không tỳ

        Vua Bạch Tịnh tối thắng

        Đặc thù trong hàng vua

        Giàu có thêm không bệnh

        Cung kính thường hành pháp

        Tất cả đều quy ngưỡng

        Mến họ Thích thuần ḥa

        Giảng đường, vườn quán tốt

        Nên giáng thần Ca-duy

        Hoàn thành thế lực lớn.

        Ba mươi hai sức voi

        Học thuật vượt không cùng

        Thân chết không bị hại

        Bạch Tịnh không tự đại

        Đứng đầu ba ngàn cơi

        Ư vui như Thiên đế

        Hoàng hậu tên Khiết Diệu

        Đẹp như ngọc nữ trời

        H́nh thể rất thanh khiết

        Chư Thiên nhân trông thấy

        Nh́n măi không chán mệt

        Không vết như ngọc báu

        Nói dịu dàng ngay thẳng

        An ổn không tranh căi

        Sắc mặt thường tươi vui

        Luôn hành pháp hổ thẹn

        Ĺa mạn, không khinh dễ

        Không nghe lời nịnh hót

        Thường thương ưa bố thí

        Sạch tà, hành mười thiện

        Thân, khẩu, ư chân thật

        Đă vượt tánh nữ nhân

        Chưa từng có sơ suất

        Không ham vinh thế tục

        Long cung và thế gian

        Không ai thể sánh kịp

        Xứng đáng mang thai Thánh

        Xưa kia năm trăm đời

        Thường làm mẹ Bồ-tát

        Bạch Tịnh đáng làm cha

        Ngài hay ban đức thần

        Thấy lành, siêng tu hành

        Vâng thờ, thường kính pháp

        Ngài luôn luôn thanh bạch

        Với mươi hai vô dục

        Tới lui ở trong nước

        Ngủ nghỉ và đi đứng

        Sáng soi xứ sở Ngài

        Tịnh quang diệt các tội

        Tuy chỗ trời, thần, người

        Không dám có tâm dục

        Thấy người không nết na

        Xem họ như mẹ con

        Hoàng hậu phát tịnh nghiệp

        Sinh trưởng tại cung vua

        Tôn quư không ai hơn

        Danh xưng vang dội khắp

        Vương hậu thật xứng đáng

        Người tôn quư tối thượng

        Nên đến cơi lành ấy

        Ta chọn để giáng thần

        Thiên hạ không ai hơn

        Mang thai bậc Thánh tôn

        Hoàng hậu Diệu đủ đức

        Mới có thể kham nhận

        Chư Thiên hỏi Đại Thánh

        Bồ-tát trí thanh tịnh

        Đều khen vua và hậu

        Nên sinh ḍng Thích-ca.

Phẩm 2: THUYẾT PHÁP MÔN

        Phật dạy các thầy Tỳ-kheo:

        -Trước khi lựa chọn nơi chốn Bồ-tát giáng thần, cơi trời Đâu-suất kia có Đại Thiên cung tên là Cao tràng, dài rộng hai ngàn năm trăm sáu mươi dặm. Bồ-tát thường ngồi nơi đó giảng dạy kinh điển cho chư Thiên.

        Bấy giờ, Bồ-tát lên cung trời kia bảo khắp chư Thiên: “Có kinh điển tên là Liệu Trị Chúng Kiết Chung Thỉ Chi Hoạn”. Cuối cùng xong xuôi lên trên pháp ṭa cao lớn, ban bố pháp chân chánh khiến các pháp hội được nghe lời dạy bảo.

        Bấy giờ các Bồ-tát và các ngọc nữ đều thưa:

        -Chúng con mong mun được nghe.

        Khi ấy Bồ-tát xem khắp bốn phương cơi, hóa làm một ṭa cao như bốn thiên hạ, hiện vô số các phẩm vật tốt đẹp, quư lạ, trang nghiêm để làm vui ḷng tất cả mọi người. Ṭa đó trang sức tốt đẹp vượt xa cơi Dục và sắc giới. Có được sàng ṭa này đều là do phước đức nhiều đời của Bồ-tát. Và ṭa sư tử ấy có vô số vật dồn lại trang hoàng, dùng Thiên y cực đẹp trải lên trên, dùng vô lượng hương xông để xông lên đó. Đốt các loại hương, rải các thứ danh hoa, trăm ngàn minh châu chiếu sáng tự nhiên được trang trí xen lẫn các màn che, nghiêm sức các loại cờ, trướng. Từ nơi các màn che xen lẫn đó, phát ra những âm thanh vi diệu. Ánh sáng lớn chiếu khắp mười phương. Dựng các cờ phướn, lọng báu buông rủ khắp chung quanh, chưng bày các minh châu, tơ lụa rực rỡ. Trăm ngàn ngọc nữ phút chốc nhóm họp. Vô số sàng ṭa cũng tự nhiên hiện đến. Ngàn công đức huân tập cũng đều hiện khắp. Vô số Thích, Phạm đều đến đảnh lễ hộ vệ Bồ-tát. Từ vô số kiếp chứa nhóm công đức, trăm ngàn ức năm tu các pháp ba-la-mật, công đức thành tựu. Chư Phật trong mười phương đều nghĩ nhớ.

        Bồ-tát ngồi xuống bảo với chư Thiên và chúng hội:

        -Này chư Hiền giả, ta xem xét Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn góc trên dưới, mười phương thế giới, các cơi trời Đâu-suất, các bậc Nhất sinh bổ xứ đều muốn giáng thần. Vô số trăm ngàn đại chúng chư Thiên và quyến thuộc vây quanh theo hầu, Bồ-tát đều khiến họ mắt được thấy hết, đều v́ họ mở bày giảng dạy pháp môn diệu đạo.

        Chỗ kiến lập oai thần của Bồ-tát khiến cho các chúng chư Thiên tận mắt trông thấy khắp mười phương, từ xa cúi đầu đảnh lễ.         Mỗi người đem hương hoa cúng dường bậc Bổ xứ sắp thành Phật, năm vóc lễ lạy, lớn tiếng ngợi khen:

        -Lành thay! Đức của Bồ-tát không thể nghĩ bàn, khiến cho thân của chúng ta cùng một lúc thấy được vô lượng Bồ-tát.

        Bấy giờ, Bồ-tát bảo với các Thiên chúng:

        -Quư vị hăy lắng nghe. V́ lẽ ǵ gọi pháp môn Diệu đạo đều là bất cập, mà chỉ phân biệt? Pháp môn Diệu đạo có một trăm lẻ tám việc, bậc sắp giáng thần sẽ v́ chư Thiên nói rơ. Những ǵ là một trăm lẻ tám? Đó là:

        -Pháp môn chí thành: Thành tựu tánh hạnh, không có ǵ phá hoại được.

        -Pháp môn diệu hỷ: Tâm vui trong mọi lúc.

        -Pháp môn hân lạc: Thành tựu dốc ḷng tin.

        -Pháp môn ái kính: Tâm tự nhiên thanh tịnh.

        -Pháp môn hộ thân: Sạch nơi ba việc.

        -Pháp môn hộ khẩu: Không phá hủy bốn điều lành.

        -Pháp môn hộ ư: Vứt bỏ ganh ghét, giận dữ, ngu si.

        -Pháp môn niệm Phật: Thấy mười phương chư Phật.

        -Pháp môn niệm Pháp: Thấy pháp thanh tịnh.

        -Pháp môn niệm Chúng: Hướng vào tịch diệt.

        -Pháp môn niệm Thí: Oai thần trùm khắp.

        -Pháp môn niệm Giới: sở nguyện được đầy đủ.

        -Pháp môn niệm Thiên: Khiến tâm thanh tịnh.

        -Pháp môn Từ tâm: Dạy bảo mọi người lập đức.

        -Pháp môn Bi tâm: Không hại hàng đầu.

        -Pháp môn hoan hỷ: Không chê bai người khác.

        -Pháp môn hộ tŕ: Nhàm chán ái dục.

        -Pháp môn phi thường: Có khả năng vượt cơi sắc, Vô sắc.

        -Pháp môn quán khổ: Đoạn trừ những điều đă quán, nguyện.

        -Pháp môn vô ngă: Không nương tựa, dính mắc vào một pháp nào.

        -Pháp môn quán âm. Tiêu trừ điều không chân chánh.

        -Pháp môn quán tàm: Diệt trừ hành bên trong.

        -Pháp môn quán sĩ: Tiêu dứt hành bên ngoài.

        -Pháp môn quán thành: Không khinh dễ trời, người.

        -Pháp môn quán thật: Không thương yêu thân ḿnh.

        -Pháp môn quán hạnh: Dẫn dắt chế ngự hành.

        -Pháp môn quán tam Bảo: Diệt sạch ba đường.

        -Pháp môn quán liễu đạt: Không mất gốc đức.

        -Pháp môn quán tác: Không khinh chê người khác.

        -Pháp môn hiểu kỷ: Không tự hủy nhận xét của ḿnh.

        -Pháp môn hiểu người: Không chống trái người khác.

        -Pháp môn phân biệt: Làm theo đạo pháp.

        -Pháp môn biết thời: Không bao giờ dối láo.

        -Pháp môn bỏ tự đại: Đầy đủ Thánh tuệ.

        -Pháp môn xả hại: Không khinh thường ḿnh và người.

        -Pháp môn bỏ kết: Không có do dự.

        -Pháp môn thích an lạc: Không ôm ấp hồ nghi.

        -Pháp môn bỏ bất tịnh: Vứt tưởng tham dục.

        -Pháp môn không tranh căi: Đoạn trừ ư thức đấu tranh kiện tụng.

        -Pháp môn không dối: Không làm hại người.

        -Pháp môn pháp nghĩa: Quyết rơ các nghĩa.

        -Pháp môn ưa pháp: Mong được pháp sáng suốt.

        -Pháp môn cầu nghe: vắng lặng quán các pháp.

        -Pháp môn ứng chánh: Vâng hành b́nh đẳng.

        -Pháp môn đoạn danh sắc: Vượt các sự chướng ngại.

        -Pháp môn chán vật bảo: Thành lập tuệ giải.

        -Pháp môn bỏ chấp trước: Không nương danh xưng.

        -Pháp môn xuyên suốt tối tăm: Xa ĺa hạnh ác.

        -Pháp môn thân ư: Bản thể yên tịnh.

        -Pháp môn niệm thông: Nhổ các cảm thọ.

        -Pháp môn tâm hướng đến: Xem tâm như mộng.

        -Pháp môn ư chỉ: Tuệ chiếu các tối tăm.

        -Pháp môn ư đoạn: Xả gốc bất thiện.

        -Pháp môn thần túc: Thân tâm nhẹ nhàng.

        -Pháp môn tín căn: Không cầu mong người khác.

        -Pháp môn tấn căn: Khéo chọn tuệ sáng.

        -Pháp môn ư căn: Khéo tạo đạo nghiệp.

        -Pháp môn định ư: Giải thoát các tâm.

        -Pháp môn trí tuệ: Hiện thành minh triết.

        -Pháp môn tín lực: Vượt oai thế của ma.

        -Pháp môn tấn lực: Không hề quay lui.

        -Pháp môn ư lực: Chưa từng quên bỏ.

        -Pháp môn định lực: Diệt các vọng tưởng.

        -Pháp môn trí lực: Qua lại cùng khắp.

        -Pháp môn ư giác: Hiểu pháp chân thật.

        -Pháp môn giác ư: Soi khắp các pháp.

        -Pháp môn tân giác: Chứa hạnh Phật đạo.

        -Pháp môn hỷ giác: Tu hạnh b́nh đẳng.

        -Pháp môn tín giác: Việc làm đă xong.

        -Pháp môn định giác ư: Thông suốt các pháp hạnh.

        -Pháp môn hộ giác: Vượt các chỗ sinh.

        -Pháp môn chánh kiến: Ưa thích vào vắng lặng.

        -Pháp môn chánh niệm: Vứt bỏ vô số tưởng.

        -Pháp môn chánh ngôn: Hiểu rơ tất cả các âm thanh giống như tiếng kêu và tiếng vang.

        -Pháp môn chánh trị: Không trả thù tội.

        -Pháp môn chánh nghiệp: Chấm dứt các chướng ngại.

        -Pháp môn chánh tiện: Tiêu các dục ư.

        -Pháp môn chánh ư: Nhập vào vô tưởng.

        -Pháp môn chánh định: Đạt được Tam-muội, không có sân hận.

        -Pháp môn đạo tâm: Không dứt lời dạy của Tam bảo.

        -Pháp môn tịnh tánh: Không ưa thừa nào khác.

        -Pháp môn Thánh đạt: Phật pháp vi diệu, tâm không ràng buộc.

        -Pháp môn ứng thời: Khắp đủ các pháp.

        -Pháp môn thí độ vô cực: Thành tựu đầy đủ tướng hảo, thanh tịnh cơi Phật, khuyến hóa dứt trừ tật đố xan tham.

        -Pháp môn giới độ vô cực: Vượt hẳn chỗ các ác, tám nạn, nhiếp phục các người phạm, cấm.

        -Pháp môn nhẫn độ vô cực: Tâm ḥa điều nhu, nhiếp phục các người sân hận.

        -Pháp môn tấn độ vô cực: Nuôi lớn các đức lành, nhiếp phục các người biếng nhác.

        -Pháp môn thiền độ vô cực: Phát khởi, hiển bày tất cả.

        -Pháp môn nhất tâm: Thần thông định ư, nhiếp phục các người ư loạn.

        -Pháp môn trí độ vô cực: Xả các mạng lưới vô minh tà kiến, che lấp tối tăm lâu đời, nhiếp phục các người ác trí.

        -Pháp môn thiện quyền: Tùy chỗ chúng Ưa thích mà hiện bày các oai nghi, thâu nhiếp tất cả Thánh tuệ Phật.

        -Pháp môn tứ ân: Nhiếp phục các chúng sinh khiến thành Phật đạo.

        -Pháp môn tứ đẳng, chánh pháp do ḿnh: dùng bốn đẳng tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả để nhiếp phục các bè đảng thiên chấp.

        -Pháp môn hóa chúng: Đă lập thệ nguyện rộng lớn của ḿnh, không mệt mỏi biếng nhác.

        -Pháp môn hộ pháp: Trừ sạch tất cả trần lao cho chúng sinh.

        -Pháp môn tích đức: Chúng sinh ngưỡng mộ.

        -Pháp môn Thánh phẩm: Đầy đủ mười lực.

        -Pháp môn tịch nhiên: Thành Như Lai định.

        -Pháp môn kỳ quán: Dạy bảo tuệ nhăn.

        -Pháp môn phân biệt biện: Thành tựu pháp nhăn.

        -Pháp môn đạo ngự: Đầy đủ Phật nhăn.

        -Pháp môn tổng tŕ: Vâng hành theo lời Phật dạy.

        -Pháp môn biện tài: Những điều tŕnh bày làm vui ḷng chúng sinh.

        -Pháp môn thuận nhẫn: Thuận hóa các pháp không khởi.

        -Pháp môn pháp nhẫn: Quyết nhận được quả vị Bất thoái.

        -Pháp môn chuyển địa: Đầy đủ các pháp Phật.

        -Pháp môn tùng trụ chí trụ: Đạt đến nhất thiết trí nghiệp của quả vị quán đảnh.

        -Pháp môn vô dư: Ở trong thai, xuất gia, cho đến lúc thành Phật dưới gốc cây, chỉ v́ các nhân giả lược nói chỗ cốt yếu.

        Đó là một trăm lẻ tám pháp môn Diệu đạo. Bồ-tát đại sĩ khi sắp giáng thần v́ các Thiên tử giảng dạy pháp này. Khi thuyết phẩm pháp môn này, tám vạn bốn ngàn Thiên tử phát tâm vô lượng chánh chân đạo, ba chục vạn hai ngàn Thiên tử đời trước vun trồng gốc đức, ngay khi đó liền thành pháp nhăn vô sinh, ba mươi sáu ức chư Thiên tử... xa ĺa trần cấu, được các pháp nhăn tịnh. Chư Thiên Đâu-suất thảy đều vui mừng, đều rải Thiên hoa chất cao lên đến tận đầu gối.

        Như vậy, này các Tỳ-kheo, Khi ấy Bồ-tát v́ đại chúng chư Thiên khuyến trợ và tha thiết thuyết kệ:

        Có an vui thanh tịnh

        Cơi trời tâm nghĩ tốt

        Do xưa tạo gốc đức

        Nên đến quả tịnh này

        V́ vậy báo đời trước

        Tạo phẩm hạnh thanh tịnh

        Không đức về nẻo ác

        Chốn thống khổ chẳng lành

        Theo ta nghe pháp này

        Chớ khởi ḷng bất kính

        Nên bỏ tâm kiêu mạn

        Sẽ an ổn vô lượng

        Tội phước không thường tồn

          Không thường, không bền chắc

        Như mộng huyễn, ngựa đồng

        Như lằn chớp giữa không

        Nếu tham đắm năm lạc

        Như khát ốg nước mặn

        Bậc Thánh ĺa trần thế

        Đạt trí luôn đầy đủ

        Các dục, âm nhạc hay

        Tất cả các ngọc nữ

        Nữ nhân, tâm đều khác

        Khi ấy nghiệp b́nh đẳng

        Không dùng bạn lợi dưỡng

        Bạn thân, các quyến thuộc

        Ngoài ra tạo nghiệp tốt

        Không ưa các thói xấu

        Cho nên đều ḥa hợp

        Đều ôm ấp ḷng từ

        Vâng hành pháp chân chánh

        Hạnh lành tự đầy đủ

        Thường tưởng nhớ chư Phật

        Nơi pháp không buông lung

        Ưa giới, thí, học rộng

        Nhẫn nhục, nhân ḥa, an.

        Hiểu rơ khổ, không ngă

        Ṛng chuyên quán sát pháp

        Từ nhân duyên hợp thành

        Thường chuyển, thắng cấu trược

        Xem thấy các biện tài

        Thần túc thật vô cùng

        Tuệ, công huân tự nhiên

        Nghe giới không buông lung

        Tu học hiểu cùng tột

        Nghe rộng không ai b́

        Thí, điều ư, trí tuệ

        V́ chúng sinh hành từ

        Thường tu hạnh thương yêu

        Luôn thành tựu pháp lành

        Lấy yếu hạnh làm gốc

        Nói, làm thường đi đôi

        Chớ làm theo ngươi khác

        Đă vắng lặng tinh tấn

        Đừng cho làm mà được

        Không làm, cũng không an

        Đẳng ư quán nơi gốc

        Sng chết rất khổ nhọc

        V́ không tập ly dục

        Bỏ tà được rốt ráo

        Cho nên được nhàn tịnh

        Tuyên bố thuận ḷng Từ

        Cung kính nghe pháp hội

        Diệt dục, đốt trần lao

        Vứt bỏ đại cống cao

        Giữ ǵn không dua nịnh

        Đúng thời siêng hành đạo

        Đến diệt độ vô vi

        Tiêu các trược u ám

        Trí tuệ sáng giáo hóa

        Bỏ các trần trói buộc

        Phát khởi việc nên làm

        Tuy có các pháp sư,

        Cấc ngươi tu hạnh nghĩa

        Không theo kiến giải họ

        Không trái các pháp huấn

        Nếu khi đắc Phật đạo

        Chuyển pháp, mưa cam lộ

        Tẩy sạch tâm nhơ bẩn

        Học hỏi pháp tối thắng.

Phẩm 3: HIỆN H̀NH VOI

        Phật bảo các thầy Tỳ-kheo:

        Khi ấy, Bồ-tát v́ đại chúng chư Thiên diễn bày kinh pháp, khuyên bảo, giúp đỡ, khai hóa, khiến cho tất cả đều được an vui, rồi hỏi các Thiên tử nên hiện h́nh nào để giáng thần mẫu thai?

        Có người nói hiện h́nh Nho đồng, có người nói h́nh Thích Phạm, có người nói h́nh Đại Thiên vương, có người nói h́nh Tức Ư Thiên vương, có người nói h́nh A-tu-luân, Kiền-đà-la, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc. Có người nói h́nh Đại thần Diệu Thiên Nhật Nguyệt vương, có người nói h́nh Kim sí điểu...

        Có vị Phạm thiên tên là Cường Oai, vốn từ nơi đạo Tiên đến, sau chết sinh lên cơi trời, ở nơi đạo Vô thượng Chánh chân không thoái chuyển, bảo với các Thiên tử:

        -Tôi xem sổ sách Phạm chí ghi chép tán thán, ca ngợi Bồ-tát nên giáng mẫu thai.

        Có người hỏi:

        -Dùng h́nh ǵ để đến đó?

        Đáp:

        -Thứ nhất là h́nh voi. Voi trắng sáu ngà, quư đẹp bậc nhất. H́nh voi đặc biệt xinh đẹp, oai thần rực rỡ. Sách Phạm ghi chép việc đó như vậy. Nhân đây chỉ rơ ba mươi hai tướng tốt. V́ sao? Ở đời có ba loại thú (lội nước)1. Thỏ; 2. Ngựa; 3. Voi.

Khả năng lội nước của thỏ th́ chỉ tự lội. Ngựa tuy có sức mạnh đặc biệt nhưng cũng không biết được chỗ cạn sâu của ḍng nước. Riêng bạch tượng th́ biết tận đáy nguồn.

        Thanh văn, Duyên giác, cấp bậc đó giống như thỏ, ngựa. Tuy vượt sinh tử nhưng không đạt đến gốc pháp. Đại thừa Bồ-tát giống như bạch tượng, hiểu biết thấu suốt ba cơi, mười hai duyên khởi, rơ suốt gốc ngọn, cứu giúp tất cả, không một loài nào là không được nhờ ân cứu giúp.

        Như vậy, này các Tỳ-kheo, bấy giờ Bồ-tát ở cơi trời Đâu-suất quán sát khắp trong thiên hạ, ư muốn giáng thần vào cung vua Bạch Tịnh.

        Lúc ấy nơi cung vua, trước tiên hiện tám điềm lành:

        1. Cỏ rác, ngói, đá, các thứ dơ bẩn thảy đều tiêu sạch, tự nhiên thành sạch sẽ thơm tho, mọc đủ các loại hoa tỏa hương thơm dịu dàng.

        2. Trên triền núi Tuyết đủ các giống chim: Le le, nhạn, uyên ương, các loại chim cắt, chim diêu mỏ đỏ, chim anh vơ, khổng tước, chim loan và đủ các loại chim khác cùng nhau bay đến cung vua đậu trên nóc cung điện, trên các mái hiên, cửa sổ, cửa lớn, tạo thành hàng rào ngăn che, tất cả đều cùng cất tiếng hót với những âm thanh trong trẻo, dịu dàng, thanh thoát.

        3. Nơi khu ngự uyển trong cung vua Bạch Tịnh, các suối nước tuôn chảy, mùa Đông vừa bước sang Xuân sinh đủ các loại hoa, vô số các thứ trân bảo hiếm lạ tốt đẹp xuất hiện.

        4. Hồ ao chứa nước, ao tắm, các vườn, nhà ở thảy đều tự nhiên hiện ra hoa sen xanh, hoa phù dung lớn như bánh xe, có đến trăm ngàn cánh.

        5. Đồ chứa các thức ăn như sữa, dầu mè, đường phèn, luôn luôn tràn đầy không vơi hụt.

        6. Trong cung vua, các loại âm nhạc như trống lớn, trông nhỏ, không hầu, cầm sắt, tranh địch, ống tiêu không đánh không thổi tự kêu, phát ra những âm thanh ḥa nhă.

        7. Trong cung vua chứa các báu vật kỳ trân, minh châu bảy báu, y phục, mùng mền, anh lạc. Những vật báu tàng chứa trong ḷng đất tự nhiên xuất hiện.

        8. Trong cung điện, ánh sáng rực rỡ chiếu khắp trong ngoài, che lấp ánh sáng mặt trời, mặt trăng. Hai vạn hai ngàn thể nữ mừng vui hớn hở, cùng với quyến thuộc vây quanh đồng đi đến chỗ vua. Thấy vua an tọa, họ đứng hầu một bên, rồi ngồi xen lẫn trong màn cùng biểu lộ sự vui thích ra sắc diện, đồng chúc mừng nhà vua:

        -Lành thay Đại vương. Nguyện xin nghe lời bọn thần thiếp thưa:

        Vua đạt nguyện lớn, các báu vật, điềm lành, cùng một lúc tự nhiên đến, thật đáng vui mừng, thời tiết ôn ḥa, quốc độ thái b́nh. Nên tu Bát quan trai, nên nuôi dưỡng ḷng từ, không nên sân giận, kính trọng thương yêu kẻ khác, dứt bỏ tham lam ganh ghét, ái dục, tà kiến. Tiêu sạch sự tự đại, lo buồn, chán ghét, không c̣n các loạn, tất cả đều vui vẻ. Đă nhập chánh chân, không ôm ḷng hận, không nghe mười điều ác, vâng làm các điều lành. Vua thương xót chúng thần, chí thành kiến lập bỏ các ư trần, chẳng nghe lời dèm pha hai lưỡi, bỉ thử. Ưa thích giới cấm, giúp đỡ giữ ǵn nề nếp. Nhớ nghĩ thực hành cộng phước, mến chuộng đạo nghĩa. Bọn thiếp cũng sẽ vâng giữ thuận theo giới cấm, vứt bỏ ngu si tăm tối, ôm ḷng vui vẻ, thường tự giữ ǵn, nhạc hay vây quanh trọn được an ổn, rải hoa đốt hương, xa ĺa các dục, không nghĩ ǵ khác. Trải qua bảy ngày đêm an vui không nạn, nay ḷng bọn thiếp không trụ nơi các pháp sắc, thanh, hương, vị, xúc (tế hoạt). Tâm này ham muốn được nghe âm thanh chân chánh, thấy nam nữ đều xinh đẹp, giống như chư Thiên, vui chơi, ưa bố thí, không màng đến sự vinh hoa của nhà vua, chỉ dùng anh lạc trang sức sàng ṭa, nệm gối, và các loại giường ghế đẹp đẽ vừa ư. Tất cả đều phân khởi, an ổn, không phiền bực. Nay đây đại vương nên xem dân chúng giống như con ruột.

        Khi ấy vua nghe thưa, ḷng rất hoan hỷ, chấp thuận lời thỉnh cầu, không trái ư nguyện của bọn thể nữ.

        Khi ấy nhà vua cho phép cung phi thể nữ được như ư đă nguyện, đều cho trang hoàng, sửa soạn sạch sẽ, rải các thứ hoa, xông đốt trầm hương, treo các vải lụa cùng tràng phan bảo cái, triệu tập hai vạn người, đều cho mặc áo giáp, đều cầm binh trượng đứng hầu tả hữu. Các quyến thuộc đều trổi các bản nhạc hay, âm thanh nhẹ nhàng êm ái, vây quanh bảo vệ vương hậu. Các cung phi thể nữ đều cùng vây quanh, các thiên ngọc nữ đến tắm rửa cho vương hậu. Hương thơm xông ướp y phục, các anh lạc quư báu, tự nhiên đều trổi lên trăm ngàn nhạc hay, âm thanh nhẹ nhàng.

        Phu nhân vừa ngồi, Thiên nữ đến hầu, dùng vô số thiên hoa, kim ngân, sàng ṭa; dùng các thứ hàng tơ lụa mịn màng trơn láng, êm ái trải phủ lên trên. Ngọc báu Minh nguyệt chiếu sáng, chư Thiên ngọc nữ đều mang b́nh hương, rải hoa, đốt hương.

HẾT QUYỂN 1

 

 

back_to_top.png   next.png

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0