Trang Chủ      Hình ảnh      Kinh điển      Thần Chú      Liên lạc
 
t068-162-192x144.jpg 

Kinh Giáo huấn vắn tắt của Phật lúc sắp niết bàn

(cũng gọi là kinh Giáo huấn để lại của Phật)

HT. Thích Trí Quang dịch 

Phần Kính Phụng Di Giáo

 Nhất tâm đảnh lễ Bổn sư Thích ca mâu ni phật, cùng Phật bảo khắp cả pháp giới. Nhất tâm đảnh lễ kinh Giáo huấn vắn tắt của Phật lúc sắp niết bàn, cùng Pháp bảo khắp cả pháp giới. Nhất tâm đảnh lễ đại chúng Tỷ kheo trong đêm Phật sắp niết bàn, cùng Tăng bảo khắp cả pháp giới. 

        Kính lạy đức Thế tôn,

        biển công đức vô thượng,

        thương xót độ chúng sinh,

        nên con xin qui mạng.

        Pháp tạng sâu và sạch,

        tăng tiến cho hành giả

        bằng pháp thế xuất thế,

        con xin lạy tất cả.

        Nay con nguyện thọ tŕ

        Pháp tạng ấy của Phật,

        để biết đạo phương tiện

        của Bồ tát tu tập.

        Biết đạo phương tiện ấy

        th́ Phật pháp trường tồn,

        diệt trừ lỗi phàm thánh,

        thành tựu lợi tự tha.

        Nam mô Bổn sư Thích ca mâu ni Phật. 

Kinh Giáo huấn vắn tắt của Phật lúc sắp niết bàn

 Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, chuyển đẩy bánh xe chánh pháp lần đầu tiên hóa độ tôn giả Kiều trần như, thuyết pháp lần cuối cùng hóa độ tôn giả Tu bạt đàla. Những người có thể hóa độ, Ngài đă hóa độ tất cả. Hôm nay, trong rừng Sa la, giữa cây song thọ, Ngài sắp niết bàn. Bấy giờ là lúc giữa đêm, hoàn toàn yên lặng, không một tiếng động, Ngài đăv́ các đệ tử mà nói tóm tắt những điều cốt yếu của chánh pháp.

 Các thầy Tỷ kheo, sau khi Như lai diệt độ, các thầy phải trân trọng tôn kính tịnh giới, như mù tối mà được mắt sáng, nghèo nàn mà được vàng ngọc. Phải biết tịnh giới là đức thầy cao cả của các thầy. Nếu Như lai ở đời th́ cũng không khác ǵ tịnh giới ấy.

 Giữ tịnh giới th́ các thầy không được buôn, bán, đổi chác, sắm sửa đất nhà, nuôi người, tôi tớ và súc vật, lo việc gieo trồng, kinh doanh tài bảo. Tất cả việc này, hăy tránh như tránh hố lửa. Kể cả việc chặt phá cỏ cây và đào cuốc đất đai. Những việc chế thuốc thang, coi bói tướng, coi thiên văn, đoán thời tiết, tính lịch số, đều không thích hợp với các thầy. Các thầy hăy tiết chế cơ thể, ăn đúng th́ giờ, sống bằng cách sống trong sạch, không được tham dự thế sự, lănh sứ mạng liên lạc. Chú thuật, thuốc tiên, giao hảo quyền quí, và thân thiết với họ, rồi hèn hạ, ngạo mạn, tất cả đều không được làm. Phải tự đoan tâm, chánh niệm cầu độ. Không được che giấu lầm lỗi, tỏ ra kỳ dị để mê hoặc quần chúng. Đối với bốn sự hiến cúng th́ phải biết tự lượng và biết vừa đủ. Hễ được hiến cúng th́ không nên tích trữ.

 Đó là Như lai nói tóm tắt về sự giữ giới. Giới th́ chính thuận với căn bản của sự giải thoát, nên Như lai mệnh danh Ba la đề mộc xoa. Nhờ giới mà phát sinh thiền định, và trí tuệ có năng lực hủy diệt thống khổ. 

Thế nên, các thầy Tỷ kheo, hăy giữ tịnh giới, đừng cho vi phạm, thiếu sót. Ai giữ tịnh giới th́ người đó có thiện pháp. Không có tịnh giới th́ mọi thứ công đức không thể phát sinh. Do đó mà biết tịnh giới là chỗ yên ổn nhất, làm nơi trú ẩn cho mọi thứ công đức.

 Các thầy Tỷ kheo, đă ở trong tịnh giới th́ phải chế ngự năm thứ giác quan, không cho phóng túng vào trong năm thứ dục lạc. Như kẻ chăn trâu, cầm gậy mà coi giữ, không cho phóng túng, phạm vào lúa má của người. Phóng túng năm thứ giác quan, th́ không những chỉ có năm thứ dục lạc, mà có thể sẽ không c̣n giới hạn nào nữa, không thể cấm chế. Như con ngựa hung hăn mà không được chế ngự bằng giây cương, th́ sẽ mang người lao xuống hầm hố. Giặc cướp làm hại, khổ chỉ một đời, c̣n giặc giác quan họa đến nhiều kiếp: tai hại rất nặng, các thầy không thể không cẩn thận. Thế nên người có trí th́ chế ngự mà không theo, giữ như giữ giặc, không cho phóng túng. Giả sử phóng túng năm thứ giác quan, th́ cũng không bao lâu ta sẽ thấy chúng tàn diệt tất cả.

 Các thầy Tỷ kheo, năm thứ giác quan do tâm chủ động, v́ vậy mà các thầy lại phải thận trọng chế ngự tâm ḿnh. Tâm c̣n đáng sợ hơn cả rắn độc, thú dữ, giặc thù, lửa dữ bùng cháy lan tràn cũng chưa đủ để ví dụ cho tâm. Như một kẻ tay bưng bát mật mà chuyển động chạy nhảy, chỉ thấy bát mật chứ không thấy hố sâu, như thế không khác ǵ voi điên mà không có móc sắt, vượn khỉ mà được cây rừng, th́ sẽ hung hăng nhảy vọt, khó mà ngăn cản; các thầy phải cấp tốc tỏa chiết, đừng cho phóng túng. Phóng túng tâm ra th́ làm tan nát việc thiện của người. Chế ngự tâm lại một chỗ th́ không việc ǵ không thành. Thế nên, các thầy Tỷ kheo, hăy nỗ lực tinh tiến mà chiết phục tâm ḿnh.

 Các thầy Tỷ kheo, thọ dụng đồ ăn thức uống, hăy coi như việc uống thuốc, ngon không ham, dở không bỏ, vừa đủ duy tŕ cơ thể cho khỏi đói khát. Như ong lấy hoa, chỉ lấy mùi vị mà không tổn thương hương sắc, người xuất gia cũng vậy. Thọ dụng cúng phẩm của người vừa khỏi đói khát th́ thôi, không được ham cầu cho nhiều, phá vỡ thiện niệm của họ. Hăy bắt chước kẻ khôn ngoan, biết lượng sức lực con trâu của ḿnh chịu đựng nhiều ít, không dùng quá sức đến nỗi kiệt lực. 

Các thầy Tỷ kheo, ban ngày th́ nỗ lực thực tập thiện pháp, không để th́ giờ lướt mất, đầu đêm cuối đêm cũng đừng phế bỏ, giữa đêm lại phải tụng niệm để tự tiêu trừ điều ác, sinh trưởng điều thiện. Đừng v́ lư do ngủ nghỉ mà để đời ḿnh trôi đi, không được một chút ích lợi. Hăy nhớ ngọn lửa vô thường đốt cháy thế gian, để sớm cầu tự độ, đừng ham ngủ nghỉ. Giặc phiền năo thường ŕnh giết ta, dữ hơn kẻ thù, tại sao ta có thể ngủ nghỉ mà không tự cảnh giác? Phiền năo ngủ trong tâm, cũng như rắn hổ mang màu đen nằm ngủ trong nhà, các thầy phải dùng móc sắt giữ giới mà cấp tốc móc kéo nó ra. Rắn ngủ ra rồi mới nên yên tâm ngủ nghỉ. Không ra mà ngủ th́ thật là kẻ không biết hổ thẹn.- Sự hổ thẹn là phục sức đẹp nhất trong mọi thứ phục sức. Như cái móc sắt, sự hổ thẹn có năng lực chế ngự mọi thứ phi pháp của con người. Thế nên, các thầy Tỷ kheo, hăy luôn luôn biết hổ thẹn, sỉ nhục, đừng bao giờ, dầu chỉ tạm thời mà thôi, được phép quên mất đức tính ấy. Mất hổ thẹn là mất công đức. Có hổ thẹn là có thiện pháp, không hổ thẹn th́ không khác ǵ cầm thú.

 Các thầy Tỷ kheo, nếu ai cắt xả thân thể các thầy ra từng đốt, các thầy cũng phải tự kềm chế tâm ḿnh, đừng cho giận dữ. Lại phải giữ lấy miệng lưỡi, đừng để phát ra lời tiếng không tốt. Tâm giận dữ nổi lên là tự hại đạo nghiệp, hư mất công đức. Đức tính của Nhẫn, giữ giới và khổ hạnh không thể sánh bằng. Thực hành đức Nhẫn mới được mệnh danh là bậc thượng nhân có sức mạnh. Kẻ nào không thể tiếp nhận cái độc nhục mạ một cách hoan hỷ như uống nước cam lộ, kẻ ấy không thể được ca tụng là người nhập đạo có trí. Tại sao, v́ giận dữ th́ phá hủy hết thảy thiện pháp và danh tiếng đáng quí, hiện tại vị lai không ai muốn nh́n. Sự giận dữ hơn cả ngọn lửa ác liệt, v́ thế mà các thầy phải đề pḥng một cách thường trực, đừng cho xâm nhập tâm trí. Giặc cướp công đức không chi hơn giận dữ. Thế gian hưởng thụ dục lạc, không phải là kẻ hành đạo, không có phương pháp để tự khống chế, thế nên giận dữ th́ c̣n có thể tha thứ được. C̣n người xuất gia hành đạo là kẻ loại bỏ dục vọng, vậy mà giận dữ th́ thật bất đáng ; không khác ǵ giữa bầu trời mây trong mát mà sấm sét lóe lửa là điều không thích hợp. 

Các thầy Tỷ kheo, hăy tự xoa đầu ḿnh, đă bỏ sự trang sức và đồ tốt đẹp, ḿnh mặc áo hoại sắc, tay cầm đồ thích ứng, khất thực để sống; tự thấy như vậy mà kiêu ngạo c̣n nổi lên, th́ phải cấp tốc tỏa chiết. Tăng thêm kiêu ngạo là điều mà thế nhân c̣n không nên có, huống chi người xuất gia nhập đạo là kẻ v́ giải thoát, tự giáng ḿnh xuống mà đi khất thực?

 Các thầy Tỷ kheo, tâm lư dua nịnh quanh co trái ngược đạo pháp, thế nên các thầy phải chất trực tâm ḿnh. Phải ư thức dua nịnh quanh co chỉ để dối trá, mà người nhập đạo th́ không thể như vậy. V́ thế mà các thầy cần phải ngay thẳng tâm ḿnh, lấy đức tính chất trực làm căn bản.

 Các thầy Tỷ kheo, phải biết kẻ ham muốn nhiều, th́ v́ nhiều sự cầu lợi nên khổ năo cũng nhiều. C̣n ít ham muốn th́ không cầu hồ, không dục vọng, nên không có cái họa đó. Chỉ có như thế mà thôi, sự ít ham muốn cũng đă phải thực tập, huống chi sự ấy c̣n đem lại đủ các công đức. Người ít ham muốn th́ không dua nịnh quanh co để cầu được ḷng người, cũng không bị các giác quan lôi kéo. Thực hành đức tính ít ham muốn th́ ḷng b́nh thản, không lo sợ, gặp cảnh ngộ nào cũng thấy thừa thải, không bao giờ có cảm giác thiếu thốn. Có ít ham muốn là có niết bàn. Đó là hạnh ít ham muốn. 

Các thầy Tỷ kheo, muốn giải thoát khổ năo th́ các thầy hăy cứu xét sự biết vừa đủ. Chính sự biết vừa đủ là giàu sang, vui thú và yên ổn. Biết vừa đủ th́ nằm trên đất cũng thấy vui thích, không biết vừa đủ th́ ở thiên đường cũng vẫn bất măn. Không biết vừa đủ th́ giàu mà nghèo, biết vừa đủ th́ nghèo mà giàu. Không biết vừa đủ th́ luôn luôn bị cả năm thứ dục lạc lôi kéo, làm cho người biết vừa đủ phải xót thương. Đó là hạnh biết vừa đủ.

 Các thầy Tỷ kheo, muốn cầu yên tĩnh, vô vi và an lạc, th́ các thầy hăy thoát ly mọi sự ồn ào và bối rối, ở đơn độc và ở một cách thư thái. Người ở yên tĩnh th́ chúa trời Đế thích và chư thiên đều tôn kính. V́ thế mà các thầy hăy thoát ly đồ chúng của ḿnh, và đồ chúng của người, ở đơn độc, thư thái và thanh vắng, dùng "tư duy tu" mà cắt đứt gốc rễ đau khổ. Nếu thích đồ chúng th́ sẽ bị đồ chúng quấy phá, như cây đại thọ mà cả bầy chim chóc tập hợp lại th́ vẫn bị cái họa khô găy. Thế gian ràng buộc mà ch́m ngập thống khổ, th́ cũng không khác ǵ voi già mà sa xuống bùn lầy, hết mong thoát khỏi. Đó là hạnh siêu thoát.

 Các thầy Tỷ kheo, nỗ lực tinh tiến th́ không có việc ǵ khó khăn. Thế nên các thầy phải thực hành sự nỗ lực tinh tiến. Nước nhỏ mà chảy măi th́ có thể xuyên thủng cả đá. Nếu người hành đạo mà hay biếng nhác phế bỏ, th́ cũng như kéo lửa chưa nóng mà đă ngừng, dầu thiết tha có lửa, lửa cũng khó mà có được. Đó là hạnh tinh tiến.

Các thầy Tỷ kheo, cầu thiện tri thức, cầu thiện hộ tŕ và cầu thiện hỗ trợ, đều không bằng không quên chánh niệm. Không quên chánh niệm th́ giặc phiền năo hết cách xâm nhập tâm trí. Thế nên các thầy hăy luôn luôn tập trung chánh niệm lại nơi tâm trí. Mất chánh niệm là mất công đức. Nếu chánh niệm có sức lực vững mạnh, th́ dẫu phải vào trong đám giặc ngũ dục, cũng không bị chúng sát hại; tựa như tướng sĩ lâm trận mà mặc áo giáp lát đồng, th́ không c̣n sợ hăi ǵ nữa. Đó là hạnh không quên chánh niệm.

 Các thầy Tỷ kheo, tập trung tâm lại th́ tâm sẽ ở trong thiền định. Tâm ở trong thiền định th́ có thể thấu triệt trạng thái chuyển biến của vũ trụ. V́ thế mà các thầy phải luôn luôn tinh tiến, nỗ lực thực tập thiền định. Thiền định được th́ tâm hết tán loạn. Tiếc nước th́ phải đắp đê sửa bờ cho khéo, hành giả cũng vậy, hăy v́ nước trí tuệ mà thực tập thiền định để giữ cho nó khỏi chảy mất. Đó là hạnh thiền định.

 Các thầy Tỷ kheo, có trí tuệ th́ hết đam mê, luôn luôn tự thức tỉnh và tự ḍ xét, không để lầm lỗi có thể có được, như thế là trong chánh pháp của Như lai, người ấy có khả năng thực hiện giải thoát. Không như thế th́ đă không phải xuất gia, lại không phải thế tục, không c̣n biết gọi là ǵ. Trí tuệ chân thật là chiếc thuyền chắc nhất vượt biển sinh lăo bịnh tử, là ngọn đèn sáng nhất đối với hắc ám vô minh, là thần dược cho mọi kẻ bịnh tật, là búa sắc chặt cây phiền năo. V́ thế mà các thầy hăy dùng cái tuệ văn tư tu chứng để tự tăng tiến ích lợi. Có trí tuệ soi chiếu, th́ dẫu mắt thịt, cũng vẫn là kẻ thấy rơ nhất. Đó là hạnh trí tuệ.

 Các thầy Tỷ kheo, nếu hư luận đủ thứ th́ tâm trí rối loạn. Như vậy, tuy đă xuất gia mà chưa được siêu thoát. Thế nên, các thầy Tỷ kheo, hăy từ bỏ tức khắc sự hư luận rối loạn tâm trí. Các thầy muốn thực hiện cái vui tịch diệt, th́ chỉ có cách cấp tốc diệt trừ cái họa hư luận. Đó là hạnh không hư luận. 

Các thầy Tỷ kheo, đối với mọi thứ công đức, các thầy hăy thường xuyên nhất tâm tu tập, tránh sự phóng dật như tránh giặc thù. Thể hiện ḷng đại bi, Như lai đă nói chánh pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ c̣n nỗ lực mà thực hành. Hoặc trong rừng núi, hoặc cạnh đầm vắng, hoặc dưới đại thọ, các thầy hăy ở một cách thư thái, trong tịnh thất nhỏ, nhớ và chiêm nghiệm chánh pháp đă tiếp nhận, đừng để quên mất. Hăy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời ḿnh sẽ chết đi một cách vô ích, vàsau này sẽ phải lo sợ hối hận. Như lai như vị lương y, biết bịnh mà chỉ thuốc, c̣n uống hay không, không phải lỗi của lương y. Lại như người dẫn đường rất tốt,chỉ dẫn đường tốt cho người, nhưng nghe rồi mà không đi, th́ không phải lỗi của người dẫn đường.

 Các thầy Tỷ kheo, đối với bốn chân lư, các thầy c̣n hoài nghi chỗ nào th́ có thể chất vấn tức khắc, không được giữ sự hoài nghi mà không cầu giải đáp. Thế tôn nói lên ba lần như vậy, nhưng không ai chất vấn. V́ lẽ chư Tăng không có ai c̣n hoài nghi ǵ nữa. Bấy giờ tôn giả A nâu lâu đà quán sát tâm trí chư Tăng, rồi thưa với Ngài, bạch đức Thế tôn, mặt trăng có thể làm cho nóng lên, mặt trời có thể làm cho lạnh đi, nhưng bốn chân lư mà đức Thế tôn đă dạy th́ không thể làm cho khác đi được. Ngài dạy khổ th́ thật là khổ, không thể làm cho vui lên; tập là nguyên nhân của khổ, th́ không c̣n có nguyên nhân nào khác nữa; diệt là khổ diệt v́ nguyên nhân đă diệt, mà nguyên nhân diệt th́ kết quả cũng diệt ; đạo là phương pháp diệt khổ nên thật là đạo, không có đạo nào khác hơn. Bạch đức Thế tôn, đối với bốn chân lư,các vị Tỷ kheo đây đă quyết định, không c̣n hoài nghi ǵ nữa.

 Chư Tăng lúc ấy, những người tu học chưa hoàn tất, th́ thấy Phật diệt độ hăy c̣n bi cảm. Những người mới vào chánh pháp, nghe Phật nói liền được hóa độ, như trong đêm tối mà điện chớp sáng là thấy ngay đường đi. C̣n những người tu học đă hoàn tất, đă vượt qua biển khổ, th́ chỉ nghĩ rằng, đức Thế tôn diệt độ sao mà mau chóng như vậy.

 Do đó, tôn giả A nâu lâu đà tuy đă bạch Phật, rằng chư Tăng ai cũng thấu triệt bốn chân lư, nhưng đức Thế tôn muốn làm cho tất cả đều được kiên định, nên vẫn đem tâm đại bi mà huấn dụ thêm nữa. Các thầy Tỷ kheo, không nên buồn rầu ; nếu Như lai ở đời lâu đến một đại kiếp đi nữa, th́ sự kết hợp nào rồi cũng phải tan ră. Kết hợp mà không tan ră là điều không thể có được. Chánh pháp tự lợi lợi tha đă có đầy đủ. Như lai sống cho lâu cũng không c̣n ích lợi ǵ nữa. Ai có khả năng tiếp nhận hóa độ, th́ ở trên chư thiên hay ở trong nhân loại, Như lai đă hóa độ tất cả. Ai chưa thể tiếp nhận hóa độ, th́ Như lai cũng đă tạo yếu tố hóa độ cho họ. Từ nay về sau, đệ tử của Như lai hăy triển chuyển thực hành. Như thế là pháp thân của Như lai thường trú bất diệt.

 Thế nên, các thầy Tỷ kheo, phải ư thức toàn bộ cuộc đời là chuyển biến vô thường, có kết hợp th́ có tan ră, đừng lo buồn ǵ cả. Ngược lại, cuộc đời như thế th́ các thầy phải nỗ lực tinh tiến để sớm cầu tự độ, đem ánh sáng trí tuệ diệt trừ hắc ám vô minh. Vũ trụ quả thật mong manh, không một thứ chi bền bỉ. Như lai được diệt độ th́ cũng như trừ được cơn bịnh khủng khiếp. Đây là vật tội ác và đáng bỏ,giả hiệu là thân thể mà lại ch́m ngập trong biển cả già bịnh sống chết, như thế người có trí tuệai lại không hoan hỷ khi trừ bỏđược thân này như trừ bỏ kẻ thù?

 Các thầy Tỷ kheo, hăy thường nhất tâm, nỗ lực cần cầu tuệ giác giải thoát. Toàn thể vũ trụ, dầu pháp biến động hay pháp bất động, đều là trạng thái bất an và tan ră. Thôi, các thầy hăy yên lặng, không nên nói nữa. Th́ giờ sắp hết, Như lai muốn diệt độ. Trên đây là những lời giáo huấn tối hậu của Như lai. 

Nam mô Bổn sư Thích ca mâu ni phật. 

        Đệ tử chúng con

        kính tụng di giáo

        của đức Thế tôn

        lúc sắp niết bàn.

        Kinh Di giáo này

        là pháp tối thượng

        trong những khả năng

        duy tŕ Phật pháp.

        Đệ tử chúng con

        nhờ phước quá khứ

        mới được xuất gia

        và tụng kinh này.

        Nguyện cầu chúng con

        giới hạnh an toàn,

        lại cầu chư Tăng

        giới pháp thanh tịnh.

        Làm cho Phật pháp

        tồn tại lâu dài,

        tự lợi lợi tha,

        chứng pháp tối thượng. 

Nhất tâm đảnh lễ Bổn sư Thích ca mâu ni phật, cùng Phật bảo khắp cả pháp giới. Nhất tâm đảnh lễ kinh Giáo huấn vắn tắt của Phật lúc sắp niết bàn, cùng Pháp bảo khắp cả pháp giới. Nhất tâm đảnh lễ đại chúng Tỷ kheo trong đêm Phật sắp niết bàn, cùng Tăng bảo khắp cả pháp giới.

---o0o---

 



Trang Chủ      Hình ảnh      Kinh điển      Thần Chú      Liên lạc
 

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0