佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

 TRANG CHỦ*--KINH ĐIỂN*--ĐẠI TẠNG KINH*--THẦN CHÚ*--HÌNH ẢNH*--中文*--ENGLISH

 VT0268

QUYỂN 1    QUYỂN 2    QUYỂN 3    QUYỂN 4    QUYỂN 5    QUYỂN 6

KINH PHẬT THUYẾT QUẢNG BÁC NGHIÊM TỊNH BẤT THOÁI CHUYỂN LUÂN

Hán dịch: Đời Lưu Tống, Sa-môn Trí Nghiêm và BảoVân, người Lương châu.

QUYỂN 3

Lại nữa, này A-nan! V́ sao Như Lai nói các Đại Bồ-tát được gọi là Tư-đà-hàm?

A-nan nên biết! Các Đại Bồ-tát tu học theo trí tuệ Phật, hiểu rõ là giác ngộ chẳng từ các duyên sinh, v́ trí không duyên mà mong cầu trí Phật, dùng các nhân duyên để mong đạt đến thiền định không có nơi chốn. Mong đạt đến trí tuệ Phật để thiêu đốt các phiền não, nhờ thiêu đốt các phiền não mà đạt được các pháp b́nh đẳng của Phật, mong cầu pháp chưa được như các Đức Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Đại Bồ-tát tuy hóa độ chúng sinh nhưng bất động đối với chúng sinh, mong cầu bất động đối với cõi chúng sinh, có các chúng sinh tâm trí tuệ yếu kém, thường lo buồn khổ não không hiểu được pháp giới, Đại Bồ-tát muốn cho họ trụ trong trí tuệ nên cầu trí Phật.

Đại Bồ-tát luôn tu tập các phẩm Căn, Lực, Giác, Giải thoát, Chánh định, v́ để ḿnh được giác ngộ trước, rồi giác ngộ cho chúng sinh. Mà mong cầu trí tuệ Phật, trí vận dụng này có công năng đưa đến đạo tràng, v́ đạt được trí này mà cầu được mắt Phật, Phật trí, là mắt vô chướng ngại, không thể suy nghĩ bàn luận thường dùng mắt này làm lợi ích cho thế gian. V́ cầu mắt trí này cho nên mong đạt được trí tuệ hơn hết trong các trí tuệ cũng như đối với các lực dụng của nó, từ đó biết tất cả pháp là Như như, cũng gọi là không thật có. Trí tuệ ấy cũng như diệu dụng của nó nhằm khiến cho tất cả chúng sinh an trụ ở trong trí ấy, tức là trí tuệ không chấp tất cả pháp. Do sự việc như vậy nên đến cõi này, đến rồi thấy cõi chúng sinh là cõi chẳng thể nghĩ bàn. Cầu cõi này mà chẳng thấy ḿnh

 

được cõi này, thắc mắc chúng sinh từ đâu mà sinh, không biết chỗ sinh của chúng sinh, từ cõi chúng sinh có những tên gọi khác nhau. Khi quán sát pháp giới và cõi chúng sinh không thấy tướng khác nhau này, thấy cõi chúng sinh đều nhập vào pháp giới, thấy chúng sinh là đạo b́nh đẳng, đạo Phật pháp, là đạo chúng sinh không thật có, là đạo chúng sinh có trí b́nh đẳng. Đại Bồ-tát v́ mong đạt đến trí tuệ không ǵ so sánh này, là thứ trí tuệ thanh tịnh, dứt sạch phiền não. Trí ấy là vô đắc nên không thể mong cầu đạt tới. Phải biết trí ấy là trí vô sở tri.

Các Đại Bồ-tát nhờ trí này mà có khác nhau. V́ chưa đạt được trí tuệ ấy, v́ mong đạt được trí tuệ ấy mà đến cõi này.

Này A-nan! Do những việc ấy mà các Đại Bồ-tát được gọi là Tư-đà-hàm.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa vừa nêu nên nói kệ rằng:

Học theo trí các Phật

Trí ấy không ǵ hơn

V́ mong cầu trí Phật

Đó gọi Tư-đà-hàm.

Các nhân duyên đã nói

Năng sinh ra Bồ-đề

V́ nhân duyên như thế

Cho nên đến cõi này.

Thiền không chỗ đã nói

Đốt cháy các phiền não

Do đó đến cõi này

V́ sinh Thiền này nên

Pháp trước chưa chứng được

Điều Nhất thiết trí hành

Ta cũng muốn mong cầu

Mà đến nơi cõi này.

Bất động các chúng sinh

Pháp giới cũng như vậy

V́ không dời không động

Cho nên đến cõi này.

Khổ não, không trí tuệ

Các chúng sinh lo buồn

Muốn giúp chúng sinh ấy

Trụ vô lượng trí Phật.

Các Căn, Lực, Giác, Đạo

Giải thoát và thiền định

Tự giác và Giác tha

Mà mong đạt trí Phật.

Đến được chốn đạo tràng

Pháp Phật trước đã hành

V́ mong cầu pháp này

Cho nên đến cõi này.

V́ cầu trí như thế

Mắt Phật không nghĩ bàn

V́ cầu mắt như thế

Cho nên đến cõi này.

Các Phật Bậc Đạo Sư

Thực hành phương tiện khéo

V́ nhằm đạt trí ấy

Hơn hết trong các trí.

Cùng dụng lực trí đó

Biết được các pháp như

Trí này không thật có

Làm sao cầu các pháp?

Xin giúp nhiều chúng sinh

An trụ trí vô thượng

Cũng khiến người khác biết

Cho nên đến cõi này.

Đến rồi thấy chúng sinh

Cõi ấy chẳng nghĩ bàn

Là bậc Tư-đà-hàm

Đến đây cầu chúng sinh

V́ cầu cõi chúng sinh

Chúng sinh không thật có

Cho nên tuy đến cầu

Cũng lại không thể biết.

Không biết các chúng sinh

Và cõi của chúng sinh

Nếu biết được cõi này

Biết chúng sinh khác nhau.

Quán sát tất cả pháp

Quán rồi không thật thấy

An trụ trong tâm định

Mà cầu các Phật pháp.

Nếu đạt trí tịnh này

Tánh không nhơ, thanh tịnh

Cũng không đạt trí này

Mà biết rõ sở tri.

V́ các chúng sinh này

Chứng đạt được trí này

Gọi Bồ-tát không nương

Cho nên đến cõi này.

A-nan! Do lẽ đó

Gọi là Tư-đà-hàm.

Chúng sinh không trí tuệ

Phân biệt lầm việc này.

A-nan! Do lẽ đó

Gọi là Tư-đà-hàm.

Chúng sinh siêng tinh tấn

Th́ biết được việc ấy.

Người trí hiểu sâu xa

Quyết định đối pháp sâu

Hiểu được nghĩa như thế

Mau sinh ra Bồ-đề.

Như thế, này A-nan! Như Lai Đẳng Chánh Giác dùng năng lực phương tiện v́ hàng Thanh văn mà nói các Đại Bồ-tát là Tư-đà-hàm.

Lại nữa, này A-nan! V́ sao Như Lai nói các Đại Bồ-tát là A-na-hàm?

A-nan nên biết! Các Đại Bồ-tát đã vượt khỏi tạo tác phân biệt để đạt được các công hạnh của Phật, xa ĺa tất cả các pháp đã thực hành, biết pháp không đến đi, của các pháp, đối với các pháp không có nương tựa, không có chấp đắm, do đó không đến cõi này. V́ sao? V́ cũng không thấy tướng đến đi của các pháp.

Đại Bồ-tát đã vượt qua phàm phu, ĺa khỏi ý tưởng phàm phu. Cũng ĺa Phật tưởng, vượt cả pháp Vô sở trụ, không có nhân duyên có khả năng khiến ḿnh phải trở lại con đường sinh tử. V́ sao? V́ đã đạt đến cõi vắng lặng.

Đại Bồ-tát luôn xem các Đức Phật là Bậc Thầy dẫn dắt thế gian, nói pháp Thiền phàm phu không vãng sinh, ĺa tất cả nơi chốn sinh tử, dứt hẳn ái dục, không tham đắm ăn uống, ĺa các ý tưởng về vị trần, đạt tới giác ngộ, thấy rõ các nẻo tà kiến, không còn tham đắm, rõ sáu mươi hai kiến chấp tánh đồng với Niết-bàn nên ĺa các phiền não che lấp.

Đại Bồ-tát xa ĺa tất cả lỗi lầm đối với các pháp, thanh tịnh không còn cấu nhiễm. Chế phục kiêu mạn, nhổ mũi tên vô minh, dứt bỏ ái dục, không còn ham thích ái dục, đốt cháy các phiền não, ĺa bỏ tất cả vọng tưởng, nhổ mũi tên lo buồn, ĺa mạn, đại mạn, khéo nhận rõ các ấm nên được sự thông tỏ sáng suốt, nương theo Phật thừa không thể suy nghĩ bàn luận, đạt được thể tánh của Đại Bồ-tát. Ĺa khỏi bùn lầy ái dục, đạt đến nơi kho tàng sâu xa của các Đức Phật quá khứ, đó là kho tàng trí tuệ trên hết, không thêm không bớt, đạt được Phật thừa trên hết trong các thừa của tất cả chúng sinh, ĺa tất cả h́nh tướng hữu vô, dứt bỏ tất cả nghi ngờ.

Đại Bồ-tát thành tựu các pháp như vậy, không còn đến cõi này nên được gọi là A-na-hàm.

Lại nữa, này A-nan! Đại Bồ-tát có nhân duyên đối với chúng sinh, khiến họ an trụ trong Bồ-đề. Làm thế nào để trụ? Đó là coi chúng sinh chính là Bồ-đề, Bồ-đề chính là chúng sinh, có khả năng giác ngộ tư tưởng của chúng sinh. V́ sao? V́ đã thông tỏ được tánh các pháp là không, đã rõ cảnh giới chúng sinh tức là cảnh giới không thể suy nghĩ bàn luận cho nên có khả năng giác ngộ tư tưởng này, biết rõ cõi chúng sinh chính là cõi hư không, v́ cõi hư không là không nên xa ĺa cảnh giới chúng sinh. Cõi hư không ĺa tánh hư không, không có dừng trụ, cõi hư không cùng thể tánh của hư không là không.

Đại Bồ-tát đem các pháp như vậy khiến cho các chúng sinh hồi hướng về Bồ-đề. V́ sao? V́ đã rõ chúng sinh là cõi hư không, cõi chúng sinh đều nhập vào cõi hư không. V́ sao? V́ thể tánh của chúng sinh, thể tánh của các pháp đều nhập vào nhau. V́ sao? V́ tất cả đều là không thật có. Do không thật có cho nên không đến cõi này, v́ thế gọi là A-na-hàm. Đối với tất cả các pháp không có h́nh tướng, số lượng, các Đức Phật đã vượt khỏi tất cả h́nh tướng, số lượng. Do những sự việc như vậy mà Đại Bồ-tát được gọi là A-na-hàm.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa vừa nêu nên nói kệ rằng:

Đã ĺa, chẳng trở lại

Cũng chẳng tu phần hạnh

Đã ĺa những phần hạnh

Nên gọi A-na-hàm.

Khéo biết tướng đến đi

Chẳng nương tất cả pháp

Không được thiếu nơi chốn

Có thể đến cõi này

Các Phật, Thầy dẫn đường

Giảng nói thiền phàm phu

Không còn đến cõi này

Đó là A-na-hàm.

Các pháp không tướng đến

Tướng đi chẳng thật có

Được tướng không đến, đi

Đó là A-na-hàm.

Bậc ấy không bao giờ

Trở lại ba đường ác

Đã được các pháp Phật

Đó là A-na-hàm.

Dứt hẳn tất cả dục

Chẳng tham đắm ăn uống

Đạt được đạo Bồ-đề

Đó là A-na-hàm.

Các kiến chấp đã nói

Gồm sáu mươi hai thứ

Lại chẳng trụ kiến chấp

Nên gọi A-na-hàm.

Các pháp không tánh tướng

Đã xa ĺa tánh tướng

V́ biết rõ như thật

Chẳng trở lại cõi này

Nêu Niết-bàn vắng lặng

Đốt cháy các phiền não

Xa ĺa được các tưởng

Chẳng trở lại cõi này

Đã bỏ các chỗ nạn

Ĺa bỏ các phiền não

Đạt Niết-bàn an ổn

Đó gọi A-na-hàm.

Đã hàng phục ma ác

Và quyến thuộc của chúng

Không bị chúng làm động

Đó gọi A-na-hàm.

Đã nhổ tên vô minh

Loại trừ các mối buộc

Cùng dứt các ái kiết

Đã tỏ rõ hỷ ái

Đó gọi A-na-hàm.

Đốt cháy các phiền não

Cũng ĺa tưởng ba cõi

Quyết đạt quả Thắng diệu

Đó gọi A-na-hàm.

Đã nhổ tên lo buồn

Dứt bỏ các kiêu mạn

Khéo biết tướng năm ấm

Đó gọi A-na-hàm.

Đạt được sự sáng tỏ

Phật thừa chẳng nghĩ bàn

Xa ĺa bùn ái dục

Đó gọi A-na-hàm.

Đạt được kho trí lớn

Kho tàng của Phật trước

Trên hết trong các kho

Đó gọi A-na-hàm.

Đã an trụ Vô thượng

Đại thừa của các Phật

Dứt hẳn các tâm nghi

Đó gọi A-na-hàm.

Duyên khắp các chúng sinh

Đều giúp trụ Bồ-đề

V́ kia trụ Bồ-đề

Nên chẳng lại cõi này.

Biết được các cõi không

Cõi chúng sinh khó nghĩ

Ĺa các tưởng như vậy

Đó gọi A-na-hàm.

Biết được cõi chúng sinh

Và v́ pháp giới không

Mọi chúng sinh không thật

Đó gọi A-na-hàm.

Tâm ấy lại chẳng cầu

Chấp đắm tưởng ba cõi

Đã đến chỗ vô tướng

Đó gọi A-na-hàm.

A-nan! Do lẽ ấy

Gọi là A-na-hàm.

Đem pháp không chỗ trụ

Nên trụ trong Phật pháp.

Cho nên, này A-nan! Như Lai Đẳng Chánh Giác dùng năng lực phương tiện v́ hàng Thanh văn nói các Đại Bồ-tát là A-na-hàm.

Lại nữa, này A-nan! V́ sao Như Lai nói các Đại Bồ-tát là A-la-hán?

A-nan nên biết! Đại Bồ-tát ĺa những tạo tác phân biệt mà tu tập theo hạnh Phật, cứu giúp tất cả chúng sinh, dứt bỏ các phiền não, nên v́ các chúng sinh bị phiền não làm khổ mà cởi mở sự trói buộc của phiền não cho họ, nhưng chúng sinh không thật có nên cũng không bị phiền não trói buộc. Đạt đến như vậy gọi là A-la-hán. Ĺa bỏ sở đắc trụ trong vô sở đắc, rõ tất cả là không, mà cái không ấy cũng là không nên thông đạt vô tướng, ĺa bỏ các tướng, ĺa bỏ các tưởng. Biết tưởng chúng sinh là pháp lỗi lầm, nên bỏ vô trí để đạt được pháp vô tâm, hiểu rõ pháp không nên được Bồ-đề, nên sinh Bồ-đề Phật không thể suy nghĩ bàn luận do đạt được như thế nên gọi là A-la-hán.

Đại Bồ-tát nên giảng nói pháp như các Phật ba đời đã nói, đang nói sẽ nói. Pháp được giảng nói thảy đều vắng lặng, không có đùa bỡn, thanh tịnh không nhơ. Người thông đạt việc ấy gọi là A-la-hán. Nên giúp cho chúng sinh an trụ trong Bồ-đề, rõ tất cả pháp và Bồ-đề là không thật có mà cũng không đáng chấp, nên tu theo tâm Từ bi của Phật, không mê đắm lòng Từ bi đối với chúng sinh, đem tinh thần từ bi ấy duyên khắp các chúng sinh, nhưng chúng sinh không thật có, đã được lòng Từ đối với chúng sinh không thật có, nên gọi là A-la-hán.

Đại Bồ-tát nên nói các pháp lợi ích cho chúng sinh, mà cũng không dấy tưởng về pháp và phi pháp, đối với các pháp ấy nên thực hành trước, đó gọi là A-la-hán. Nên v́ chúng sinh mà nói về các phẩm Căn, Lực, Giác, Đạo, nhưng đối với pháp ấy không nhiễm, không đắm, nên gọi là A-la-hán. Nên giúp cho chúng sinh nhận biết nẻo giác ngộ thanh tịnh, khiến chúng sinh ấy sinh khởi sự giác ngộ, như thế nên gọi là A-la-hán. Không nên tham đắm lợi dưỡng của chúng sinh ở thế gian, nên v́ chúng sinh nói không tham đắm pháp lợi dưỡng, v́ nói pháp này nên gọi là A-la-hán.

Đại Bồ-tát nên đến thế giới của các Đức Phật, nên thấy các Đức Phật như Phật thấy Phật, thấy thế giới Phật như thế rồi th́ nên phát tâm dốc cầu đạt được thế giới như thế. Đó chính là thế giới không thể suy nghĩ bàn luận, thế giới không thể tính lường, thế giới không ǵ so sánh được, thế giới vô biên, thế giới không đùa bỡn, thế giới không thể dùng lời để diễn tả, thế giới không, thế giới vô tướng, thế giới vô tác, thế giới không thoái chuyển, thế giới ĺa người nữ, thế giới không có dâm dục, thế giới không có phiền não, thế giới biện tài vô ngại của Phật, thế giới Bồ-tát, thế giới không chướng ngại, thế giới vô nhiễm, thế giới hàng ma, thế giới không có kẻ thù, thế giới Niết-bàn rốt ráo.

Những thế giới này là trên hết trong tất cả các thế giới. Cầu được thế giới như thế, gọi là A-la-hán. Các pháp chưa sinh th́ nên sinh khởi, nên gọi là A-la-hán.

Đối với cảnh dục không nhiễm, đối với trường hợp đáng sinh giận tức mà không sinh giận tức, nên gọi là A-la-hán.

Đối với trí Tập và trí Diệt vô thượng mau chóng thông đạt nên gọi là A-la-hán. V́ là A-la-hán nên gọi là giác ngộ và do đã giác ngộ nên gọi là A-la-hán. Bồ-đề là bất động, v́ cõi chúng sinh bất động khiến cho trăm ngàn muôn ức chúng sinh an trụ trong đạo Bồ-đề, v́ trụ trong đạo Bồ-đề nên gọi là A-la-hán. Tất cả chúng sinh và Bồ-đề đều sinh ra từ chỗ không phân biệt, nên dùng pháp b́nh đẳng này giáo hóa các chúng sinh, pháp b́nh đẳng này trong tất cả pháp không ǵ sánh được. Bồ-đề b́nh đẳng này từ không phân biệt sinh ra. Nên thông tỏ pháp ấy, đã được thông tỏ th́ giảng nói cho chúng sinh nghe không thêm, không bớt, thành tựu pháp không thêm không bớt nên gọi là A-la-hán. Nên nói như thế, ĺa pháp âm thanh nên gọi là A-la-hán.

Đại Bồ-tát nên cởi mở sự chấp đắm của nhiều chúng sinh như thế. Đó là chấp đắm về chúng sinh không thật có. Chấp đắm chúng sinh đoạn, thường. Chấp đắm về thân kiến của chúng sinh. Chấp đắm về pháp không ai hơn. Chấp đắm về nhận thức các pháp là bất sinh bất diệt, vô vi vô tác. Chấp đắm về sắc không bị hủy hoại. Chấp đắm về thọ, tưởng, hành, thức không bị hủy hoại. Chấp đắm về pháp ĺa bỏ pháp phàm phu. Chấp đắm về việc xây dựng pháp Phật. Chấp đắm về tưởng đối với bốn quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán. Chấp đắm ý tưởng đối với quả Bích-chi-phật. Chấp đắm về tưởng đối với Như Lai Đẳng Chánh Giác. Chấp đắm về tưởng đối với tâm Bồ-đề. Chấp đắm về thực hành bố thí v́ Bồđề. Chấp đắm về tưởng giữ giới v́ Bồ-đề. Chấp đắm tưởng thực hành Nhẫn nhục. V́ Bồ-đề chấp đắm về tưởng dứt bỏ biếng nhác thực hành Tinh tấn. Chấp đắm về tưởng đối với việc dứt tâm loạn tu tập Thiền định. Chấp đắm về tưởng đối với việc dứt trừ tuệ xấu ác, tu tập Trí tuệ. Chấp đắm đối với những người thân thương yêu mến như cha mẹ, vợ con, gái trai, anh chị em. Chấp đắm về việc muốn thấy những người thân yêu mến. Chấp đắm về việc thích bàn luận. Chấp đắm về việc phân biệt giữa pháp phiền não và pháp giải thoát. Chấp đắm về tham đắm lợi dưỡng. Chấp đắm về nhận thức tại gia, xuất gia. Chấp đắm các pháp hơn thua. Chấp đắm về xa ĺa pháp phàm phu. Chấp đắm về việc duyên theo Phật pháp. Chấp đắm về việc thấy các pháp có trên dưới. Chấp đắm về đầy đủ các tướng phương tiện; chấp đắm về tưởng đối với thế giới của Phật và chúng sinh.

Dứt trừ tất cả mọi thứ chấp đắm của chúng sinh như vậy nên gọi là A-la-hán, cũng không phân biệt chúng sinh này là pháp Niết-bàn, hay chúng sinh này chẳng phải pháp Niết-bàn, chúng sinh này có khả năng tạo ra các pháp, chúng sinh này không có khả năng tạo ra các pháp. Chúng sinh này thực hành Bồ-đề, chúng sinh này chẳng có khả năng thực hành Bồ-đề. Chúng sinh này giữ giới, chúng sinh này phá giới. Chúng sinh này phước nhiều, chúng sinh này phước ít. Không sinh hai kiến chấp như vậy nên gọi là A-la-hán.

Cũng không phân biệt: chúng sinh này là ruộng phước, chúng sinh này chẳng phải là ruộng phước; chúng sinh này tinh tấn, chúng sinh này chẳng tinh tấn; chúng sinh này thấp kém, chúng sinh này thông minh, đây là người nữ, đây là người nam, đây là chẳng phải nam chẳng phải nữ, đây là pháp, đây là phi pháp. Không sinh hai kiến chấp như vậy gọi là A-la-hán.

Cũng không phân biệt: chúng sinh này lui sụt Bồ-đề chúng sinh này không lui sụt Bồ-đề, chúng sinh này tự tại đối với Bồ-đề, chúng sinh này không được tự tại đối với Bồ-đề, chúng sinh này gần gũi Bồ-đề, chúng sinh này xa ĺa Bồ-đề. Phát tâm như vầy: “Ta sẽ đạt đến Bồ-đề, nhập vào Niết-bàn vô dư. Tóm lại, v́ bỏ tất cả các chấp đắm của chúng sinh nên gọi là A-la-hán.”

Này A-nan! Bậc A-la-hán dứt bỏ các chấp đắm của chúng sinh như thế, lại v́ chúng sinh mà nói thật tánh của chúng sinh. V́ nói pháp như thế nên các vị Đại Bồ-tát được gọi là A-la-hán.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa vừa nêu nên nói kệ rằng:

Đã bỏ được tất cả

Tất cả các phân biệt

V́ bỏ được phân biệt

Nên gọi A-la-hán.

Dứt được các phiền não

Trói buộc chúng sinh khổ

Đều giúp được giải thoát

Đó gọi A-la-hán.

Xa ĺa có sở tắc

Trụ pháp Vô sở đắc

Biết tất cả pháp không

Đó là A-la-hán.

Đã nhận rõ pháp không

Cũng thông đạt vô tướng

Xa ĺa tất cả tướng

Đó gọi A-la-hán.

Nên hành hạnh tối thắng

Là việc làm các Phật

Độ thoát các chúng sinh

Sinh tử hiểm nạn lớn

Đã ĺa tất cả tướng

Biết lỗi tưởng chúng sinh

V́ bỏ được các tưởng

Đó gọi A-la-hán.

Bỏ các tưởng vô tri

Thông đạt pháp vô tâm

Nhờ đã biết pháp không

Đó gọi A-la-hán.

Nên đạt được Bồ-đề

Chẳng nghĩ bàn của Phật

Nên siêng hành tinh tấn

Đó gọi A-la-hán.

Nên giảng nói các pháp

Thanh tịnh không đùa bỡn

Giúp chúng sinh trụ đạo

Đó gọi A-la-hán.

Nên dùng từ duyên khắp

Giúp chúng sinh an vui

Nhưng chúng sinh không thật

Đó gọi A-la-hán.

Nên giảng nói các pháp

Là bậc nhất trong chúng

Không tưởng pháp, phi pháp

Đó là A-la-hán.

Nên v́ các chúng sinh

Nói Căn, Lực, Giác, Đạo

Chẳng nhiễm đắm pháp này

Đó là A-la-hán.

Nên giúp chúng sinh khác

Tỏ ngộ pháp thanh tịnh

Cũng sinh được Bồ-đề

Đó là A-la-hán.

Chẳng nên sinh tham đắm

Mọi lợi dưỡng ở đời

V́ không tham lợi dưỡng

Đó là A-la-hán.

Nên đến các thế giới

Nghiêm tịnh của các Phật

Nơi các Phật an trụ

Nói pháp cho chúng sinh.

Phải nên phát tâm này

Cầu cõi trang nghiêm này

Phải nên cầu cõi này

Đó là A-la-hán.

Đối dục chẳng đắm nhiễm

Đáng giận cũng chẳng giận

Rõ Bồ-đề b́nh đẳng

Đó là A-la-hán.

Đối trí diệt, trí tập

Thông đạt tướng vắng lặng

V́ được đạo Bồ-đề

Đó gọi A-la-hán.

Đối cõi các chúng sinh

Không dời động chúng sinh

Khiến nhiều ức chúng sinh

Đều trụ đạo Bồ-đề

Chúng sinh và Bồ-đề

Từ không phân biệt sinh

Biết được b́nh đẳng này

Đó gọi A-la-hán.

Trong mọi pháp b́nh đẳng

Pháp này là trên hết

B́nh đẳng và Bồ-đề

Từ không phân biệt sinh.

Biết rồi, giảng người nghe

Mà chẳng hề thêm, bớt

Cũng từ pháp này sinh

Đó là A-la-hán.

Nên v́ chúng sinh này

Nói pháp không âm thanh

Giải thoát nhiều chúng sinh

Mà vẫn luôn bất động.

Chúng sinh không thật có

Và hai bên thường đoạn

V́ trừ các tà kiến

Khiến thoát mọi nỗi khổ.

Chấp các pháp sinh, diệt

Tướng vô vi, vô tác

Các chúng sinh khổ não

Do tưởng mà phân biệt.

Không hủy hoại sắc ấm

Đối thọ ấm cũng vậy

Tưởng, hành cùng với thức

Khiến ĺa các chấp này

Đối pháp phàm phu này

Mà thấy có dời đổi

Trụ Phật pháp, bất trụ

Đều khiến được giải thoát.

Chấp tưởng về các quả

Tưởng Duyên giác cũng thế

Nói pháp cho chúng sinh

Khiến ĺa tưởng chấp Phật.

Chấp đắm tâm Bồ-đề

Chấp về thí cũng thế

Người chấp về giới, nhẫn

Giảng nói pháp không đắm

Chấp thủ tưởng biếng nhác

Phân biệt hành tinh tấn

Tâm định với tâm loạn

Tuệ sai và tuệ đúng

Không phân biệt pháp này

Biết không có các tướng

Phải nên nói như thế

Đó gọi A-la-hán.

Đắm chặt đối ngã tưởng

Thanh văn nhiều phân biệt

V́ dứt bỏ phân biệt

Nên nói pháp cho nghe.

Cha mẹ và vợ con

Vô trí nên tham đắm

Chẳng phải đạo Bồ-đề

Là đi trong sinh tử

Đó là anh em ta

Chị em, tâm thương nhớ

Dứt bỏ tham ái đó

Nên gọi A-la-hán.

Do v́ khéo bàn nói

Tâm kẻ khác dấy vui

Phát tâm vui mạnh mẽ

Ý khởi mong được thấy

Trước sau các người thân

Nếu lúc được gặp gỡ

Xoay vần sinh ái chấp

V́ vô trí điên đảo

Thuộc ma, chẳng tự tại

Xa ĺa các lợi dưỡng

Biết lỗi lầm lợi dưỡng

Nên v́ các chúng sinh

Nói tội lỗi lợi dưỡng.

Đây là pháp phiền não

Đây là pháp giải thoát

Chẳng chấp hai chấp này

Đó là A-la-hán.

Tham đắm các lợi dưỡng

Không thể tự hiểu biết

Dứt bỏ chấp đắm kia

Đó gọi A-la-hán.

Đây là pháp tại gia

Đây là pháp xuất gia

Phàm phu sinh phân biệt

Nên cởi bỏ chấp kia

Đối với tất cả pháp

Mà thấy có thấp, cao

Chấp là khí, chẳng khí

Nên cởi bỏ chấp ấy.

Xa ĺa pháp phàm phu

Mà duyên theo Phật pháp

Nên nói pháp họ nghe

Ĺa chấp được, chẳng được

Pháp lớn nhỏ chẳng bền

Người như thế rất nhiều

Nên cởi mở cho họ

Chúng sinh tướng như thế

Sinh ra các tướng tốt

Việc ấy cũng rất nhiều

Chỉ có người nhu hòa

Dứt bỏ được tưởng kia

Thế giới mầu các Phật

Sinh khởi tâm tu tịnh

Chấp tưởng thế giới ấy

Phải nên dứt bỏ hết.

Niết-bàn, chẳng Niết-bàn

Sinh ra, chẳng thể sinh

Đây hành đạo Bồ-đề

Đấy chẳng cầu Bồ-đề.

Giới tốt và giới xấu

Có phước và không phước

Mọi chúng sinh ngu, trí

Sinh ra các thứ tưởng

Các chúng sinh như thế

Thường có rất nhiều tưởng

V́ dứt bỏ tưởng này

Nên nói pháp họ nghe

Đó là ruộng phước tốt

Đây chẳng phải ruộng phước

Phân biệt pháp ngu, trí

Việc ấy cũng rất nhiều.

Chấp thủ tưởng về nữ

Nên cũng phân biệt nam

Là Thánh, là chẳng Thánh

Phân biệt sinh nhị kiến

Chúng sinh không tâm tuệ

Sinh khởi hai kiến này

Lại chấp trước vào đó

Người chấp hai kiến này

Nên phải mau dứt bỏ.

Thoái chuyển, không thoái chuyển

Hữu ký và vô ký

Đó gần với Bồ-đề

Đó chẳng gần Bồ-đề

Đạt đến nẻo Bồ-đề

Rốt ráo nhập Niết-bàn

Hành các tướng như thế

Phân biệt đối Niết-bàn.

Chỉ có người nhu hòa

Dứt bỏ tưởng chúng sinh

Đó gọi A-la-hán.

Cũng gọi bậc trừ tưởng

Đó là pháp Bồ-tát

Thuyết gọi A-la-hán

Nếu thấy bản duyên này

Biết là A-la-hán.

Như thế, này A-nan! Như Lai Đẳng Chánh Giác dùng năng lực phương tiện v́ hàng Thanh văn mà nói các Đại Bồ-tát là A-la-hán.

Lại nữa, này A-nan! V́ sao Như Lai nói các Đại Bồ-tát đều là Thanh văn?

A-nan nên biết! Các Đại Bồ-tát dùng âm thanh pháp Phật, dùng âm thanh pháp chẳng thể nghĩ bàn, dùng âm thanh pháp vắng lặng Bồ-đề, dùng âm thanh pháp không đùa bỡn, dùng âm thanh pháp thanh tịnh vô cấu, khiến cho vô lượng, vô biên không thể tính kể chúng sinh đều được nghe, nên gọi là Thanh văn, lại dùng âm thanh pháp Niết-bàn an vui không ǵ sánh bằng, âm thanh pháp Niệm xứ, Chánh cần, Thần túc, Căn lực, Giác, Đạo... khiến cho nhiều chúng sinh mau siêng năng cần cầu, nên gọi là Thanh văn. Nói thân này là không, chẳng phải pháp bền chắc, bền chắc không thật có, kẻ phàm phu si mê căn trí thấp kém nên tham đắm thân này, v́ họ mà nói âm thanh giải thoát.

Lại nói về cái mà nhãn nhập thấy đều là luống dối, ứng theo mắt của sinh Phật, mắt pháp chẳng thể suy nghĩ bàn luận, dùng mắt Phật khiến cho nhiều chúng sinh không có âm thanh mê lầm.

Lại nói âm thanh các pháp không có tướng sinh, nên gọi là Thanh văn.

Lại nói âm thanh được dụ như tiếng vang, chẳng nên đối với âm thanh mà sinh đắm nhiễm, không có người nghe, cũng không có người nói. Đối với mùi không có ý tưởng về ngửi, không có người ngửi mùi. Như người trong mộng thấy ḿnh ngửi nhiều mùi hương, nhưng thật ra không có mùi hương, cũng chẳng có người ngửi mùi hương, v́ điên đảo nên nghĩ là có ngửi mùi, mùi hương này cũng như việc trong mộng, không đáng tin, cũng không bền chắc. Âm thanh để nói pháp này gọi là Thanh văn.

Lại nói thiệt nhập cũng như cục thịt, không biết được về vị. Cục thịt này giống như chùm bọt nước không có thực. Tưởng về vị như thế không thể suy nghĩ bàn luận cảnh giới của vị là vô tâm, ĺa các tâm pháp không nên sinh tâm, biết tâm là tướng không trụ. Âm thanh nói pháp như vậy khiến chúng sinh nghe, gọi là Thanh văn.

Lại đối với pháp này biểu hiện rõ ràng, âm thanh thấy như thế nào th́ có khả năng giảng nói.

Lại nói thân này là không, vô tướng, vô tánh, do vô tướng cho nên không sinh, cũng không có pháp sinh ra. V́ nhiều chúng sinh mà nói tiếng pháp Bồ-đề này gọi là Thanh văn.

Lại nói ý nhập là không, không thật có, cũng không tự tánh, giống như cảnh huyễn, chẳng sinh chẳng diệt. Nói ra pháp thanh ấy gọi là Thanh văn.

Lại nói pháp thí chẳng thể suy nghĩ bàn luận, pháp này có công năng chứng được Bồ-đề, Bồ-đề không thể suy nghĩ bàn luận, Pháp thí cũng không thể suy nghĩ luận bàn. V́ sao? V́ như hạt giống, quả trái cũng như thế, trong đó không có quả, chỉ dùng âm thanh mà nói có quả.

Lại nói về thí tài thấp hèn, thí pháp cao thượng dứt bỏ tâm keo lận, không hề phân biệt, không sinh ý tưởng về bố thí. Giống như nhà ảo thuật đối với vật huyễn hóa ra không có phân biệt. Như vậy, v́ không có tâm phân biệt mà thực hành bố thí có công năng sinh ra Bồ-đề.

Thuyết giảng về pháp thanh như vậy gọi là Thanh văn. Pháp thanh ấy ĺa tất cả lời nói, dứt hẳn các phiền não, vượt qua mọi lời nói, ĺa các đắm nhiễm, dùng âm thanh ấy v́ các chúng sinh giảng nói Phật pháp. V́ sao? V́ đó là âm thanh trên hết trong tất cả các thứ âm thanh nên dùng âm thanh này để giảng nói Phật pháp. Âm thanh ấy không thể phá hoại, cũng không hề nương tựa, v́ được sinh ra từ không hai, không khác. Như chỗ sinh ra mà nói Phật pháp không hai không khác. Cho nên A-nan! Các vị Đại Bồ-tát dùng pháp thanh như thế khiến cho các chúng sinh nghe gọi là Thanh văn.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa vừa nêu nên nói kệ rằng:

Dùng âm thanh của Phật

Trên hết, chẳng nghĩ bàn

Khiến nhiều chúng sinh nghe

Bồ-tát là Thanh văn

Nên v́ nhiều chúng sinh

Nói Bồ-đề vắng lặng

Thanh tịnh không đùa bỡn

Đó gọi là Thanh văn.

Giảng nói Niết-bàn vui

Vui ấy không ǵ sánh

Cũng nói tướng vắng lặng

Đó gọi là Thanh văn.

Giảng Niệm xứ, Chánh cần

Căn, Lực và Giác, Đạo

Mau sinh ra pháp này

Đó gọi là Thanh văn

Nói thân này là không

Chẳng thể nào bền chắc

V́ những kẻ phàm ngu

Nói rõ tướng thân này,

Lại nói về nhãn nhập

Thấy ǵ đều luống dối

Các chúng sinh vô trí

Thấy ǵ cũng đắm nhiễm.

Nên sinh khởi mắt Phật

Mắt b́nh đẳng khó lường

Đối với pháp vô sinh

Cũng chẳng sinh mê đắm

Như âm thanh tiếng vang

Biết tai cũng như vậy

Trong đó, không người nghe

Cũng lại không người nói.

Do dứt mọi tướng ấy

Không người nghe, người nói

Chẳng nên sinh đắm nhiễm

Chỉ bày các chúng sinh

Đó gọi là Thanh văn.

Như người đang nằm mộng

Mũi ngửi các mùi hương

Chỉ do điên đảo sinh

Kỳ thực chẳng thật có

Nên biết mũi như thế

Không thể ngửi huơng kia

V́ chúng sinh điên đảo

Bồ-tát nói như thế

Nói thiệt là không, vô

Cục thịt chẳng biết vị

Nếu thịt mà biết vị

Th́ tay đụng nên biết.

Giảng nói về tưởng ấy

Tưởng vị nhiều lỗi lầm

Nên biết cảnh giới vị

Là chẳng thể nghĩ bàn

Bồ-tát chẳng nương tựa

Mà hiện thấy rõ ràng

Giảng nói pháp hiện thấy

Đó gọi là Thanh văn.

Giảng về thân như vậy

Là không, không tánh tướng

V́ không, không tánh tướng

Không sinh, không pháp sinh

Bồ-đề cũng như thế

Không sinh, không pháp sinh

V́ nhiều chúng sinh nói

Nên gọi là Thanh văn.

Nói tánh tướng ý nhập

Kỳ thật không thật có

Nói pháp không thật có

Nên gọi là Thanh văn.

Giảng nói pháp bố thí

Pháp thí khó nghĩ bàn

Thí này sẽ sinh ra

Bồ-đề Phật vô thượng.

Thí tài là thấp kém

Pháp thí là cao thượng

Dứt bỏ tâm keo lận

Đạt đến quả Bồ-đề.

Ĺa âm thanh nói năng

Dứt các thanh phiền não

Ĺa các thanh đắm nhiễm

Thanh không nhơ, thanh tịnh.

Thanh nhiệm mầu trên hết

Tánh thanh ấy vắng lặng

Dùng thanh vắng lặng này

Nói pháp Phật khó nghĩ

Thanh này chẳng thể hoại

Cũng không chỗ nương tựa

Nói không hai không khác

Nên gọi là Thanh văn.

Dùng âm thanh như thế

Giảng pháp các Phật nói

Tùy âm thanh mà nói

Mà cầu đạo Bồ-đề.

Thường giảng nói người nghe

Nghiêm tịnh thế giới

Phật Bậc Đạo Sư vô thượng

Nơi các Phật an trụ.

Nói cõi tam thiên này

Như hư không mà trụ

Các chúng sinh như không

Đều đồng tướng Niết-bàn.

Nói ra bốn mươi bốn

Khiến chúng sinh khác nhau

Thảy đều như hư không

Không nghĩ, không phân biệt.

Cõi này cũng như vậy

Chớ nghĩ là bền chắc

Trong đó, không sinh tử

Không phiền não để dứt.

Trong sinh, không pháp sinh

Cũng không có chúng sinh

V́ đều là vắng lặng

Nên không người sinh ra

Thường nói chúng sinh nghe

Đêm ngày không đoạn dứt

Mà không dấy niệm này:

“Ta v́ chúng sinh nói.”

Thanh văn biết như vậy

Cũng v́ chúng sinh nói

Không nghe, không người nghe

Đó gọi là Thanh văn.

Tâm ý luôn mạnh mẽ

Giảng nói pháp trên hết

Nếu biết rõ pháp này

Cũng biết các pháp như.

Thanh văn nói như vậy

Không nhiễm, không hữu lậu

Cũng v́ nhiều chúng sinh

Nói pháp không đắm nhiễm

Nếu biết pháp dứt nhiễm

Thanh tịnh, không đùa bỡn

Ở trong pháp các Phật

Muốn thấy không thấy được

Pháp do các Phật nói

Xa th́ không thấy được

Gần cũng lại không có

Mà người lại thấy được.

Thanh văn nói pháp này

Khiến nhiều chúng sinh tin

An trụ trong pháp này

Nên gọi là Thanh văn.

A-nan do lẽ ấy

Ta nói là Thanh văn

Nên biết Thanh văn đó

Là Bồ-tát không nương.

Cho nên, này A-nan! Như Lai Đẳng Chánh Giác dùng năng lực phương tiện v́ hàng Thanh văn nói các Đại Bồ-tát được gọi là Thanh văn.

Lại nữa, này A-nan! V́ sao Như Lai nói các Đại Bồ-tát là Bíchchi-phật?

A-nan nên biết! Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp đều hiện thấy rõ ràng, v́ hiện thấy rõ ràng nên biết được pháp Phật. Đối với các pháp không thêm không bớt, tỏ ngộ tất cả pháp không có thêm bớt. Hiện thấy rõ ràng các pháp được gọi là Bích-chi-phật. Tức là tỏ ngộ tất cả các pháp không thể nghĩ bàn, tỏ ngộ tất cả chúng sinh đều đồng với Niết-bàn, đều không thật có, chẳng sinh chẳng diệt, v́ chẳng sinh chẳng diệt nên đó chính là cảnh giới thật, cảnh giới Niết-bàn, cảnh giới chúng sinh, tất cả các pháp không thật có cảnh giới, tuy gọi là cảnh giới nhưng không thể nói về cảnh giới, không dựa vào lời nói, không thể dùng lời nói để diễn đạt. V́ sao? V́ lời nói là không, không được tự tại. Lời nói không thể biết cảnh giới chúng sinh và cảnh giới của các pháp, hiện thấy rõ ràng, tỏ ngộ cảnh giới này gọi là Bích-chi-phật.

Hiện thấy sắc ấm, v́ dùng lời nói nên gọi là sắc ấm. Mà sắc ấm này vốn không có nói năng, v́ ĺa nói năng nên chỉ dùng lời nói để gọi là sắc ấm, trong đó không có ngã và cái của ngã. V́ sao? V́ lời nói và người nói, cả hai đều không, không được tự tại, chẳng sinh chẳng diệt.

Lời nói là vô tri th́ làm sao có thể nói đây là sắc ấm, thọ, tưởng, hành, thức ấm? Cũng nên hiện thấy rõ ràng như vậy.

Hiện thấy về thức ấm, v́ dùng lời nói nên gọi là thức ấm, nhưng thức ấm này không có nói năng, v́ ĺa nói năng nên, chỉ dùng lời nói mà gọi là thức ấm, trong đó ngã và cái của ngã đều không có. V́ sao? V́ lời nói và người nói cả hai đều không, không được tự tại, chẳng sinh chẳng diệt, lời nói là vô tri th́ làm sao có thể nói đây là thức ấm?

Đối với năm ấm này, lời nói các duyên đều hiện thấy rõ ràng gọi là Bích-chi-phật. V́ sao? V́ ấm, lời nói, các duyên này th́ duyên này vô duyên, chẳng phải duyên ấy có thể biết được.

Này A-nan! Các Đại Bồ-tát này gọi là Bích-chi-phật.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa vừa nêu nên nói kệ rằng:

Hiện thấy tất cả pháp

Biết pháp Phật cũng thế

Dứt tranh, chẳng thể hoại

Rốt ráo không có tướng.

Hiện thấy tất cả pháp

Tánh, tướng thảy đều không

Nếu biết tánh, tướng ấy

Rốt ráo không thật có

Đã được nhận thức ấy

Không khác với pháp ấy

Đó gọi là Chánh giác

Bích-chi-phật khó lường.

Chúng sinh như Niết-bàn

Khởi đầu không thật có

Chỗ vô thủy vô chung

Đó gọi cảnh giới thật

Chúng sinh như Niết-bàn

Rốt ráo là không sinh

Nếu pháp không có sinh

Gọi đó là Niết-bàn.

Chúng sinh như Niết-bàn

Cũng có các chiếu dụng

Chiếu dụng không có ngã

Nên gọi là Niết-bàn

Chúng sinh như Niết-bàn

Đặt ra nhiều tên gọi

Không sinh cũng không diệt

Dùng lời nói diễn đạt.

Tánh lời nói là không

Lời nói không biết ǵ

V́ không biết ǵ nên

Chúng sinh là Niết-bàn.

Lời nói không tự tại

Vô ngã, không có tâm

Do ngôn thuyết vô tánh

Rốt ráo không thật có.

Lời nói không mé nương

Cũng lại không chỗ trụ

Điều lời nói tŕnh bày

Khó nghĩ cõi chúng sinh

Cõi chúng sinh, Niết-bàn

Chẳng nghĩ bàn cõi thật

An ổn, không đùa bỡn

Chỗ nương tựa trên hết.

Giống như cảnh điện chớp

Chính là cõi chúng sinh

Không duyên, không nơi chốn

Cõi thật chẳng nghĩ bàn.

Ranh giới tất cả pháp

Không có các tên gọi

Dùng tên gọi để gọi

Chốn ấy không thật có.

Cõi thật không thể gọi

Cũng không thể biết được

Cõi chúng sinh vô ngã

Nên biết cõi ấy không.

Lời nói không chốn nương

Lời nói không chỗ nêu

Nếu biết được điều ấy

Không có cõi chúng sinh

Lời chẳng tự tại, không

Lời chẳng biết các cõi

Lời được người nói ra

Khó nghĩ cõi chúng sinh.

Các cõi như vậy thảy

Thông tỏ thảy như như

Tự nhiên biết rõ được

Đó gọi là Chánh giác

Bích-chi-phật khó lường.

Hiện thấy về năm ấm

Dùng tên gọi để gọi

Ấm này không nói năng

V́ thường ĺa lời nói

Xa ĺa sự hiểu biết

Hiểu biết là tính lường

Bỏ được hiểu biết này

Là không có chỗ trụ.

Cái gọi là sắc ấm

Sắc ấm không có ngã

Lời chẳng tự tại, không

Rốt ráo chẳng sinh diệt.

Tánh lời nói đã nói

Rốt ráo không thật có

V́ không thật có nên

Gọi tên là sắc ấm.

Thọ, tưởng cũng như vậy

Hành, thức cũng như thế

V́ không có, lời nói

Gọi tên là năm ấm.

Ấm này chẳng thể nói

Cũng lại chẳng thể đoạn

Chẳng sinh cũng chẳng diệt

Không chỗ, chẳng vô thường.

Chẳng phiền não, giải thoát

Chẳng báo, cũng chẳng nghiệp

Chẳng giữ cũng chẳng bỏ

Chẳng đùa bỡn, vắng lặng.

Cũng chẳng Xa-ma-tha

Chẳng Tỳ-bà-xa-na

Chẳng ham nhiều, biết đủ

Chẳng tinh tấn, biếng nhác.

Chẳng động cũng chẳng hối

Cũng không có thêm, bớt

Không được pháp sinh ra

Có thể dùng làm giới

Không tu, không phân biệt

Giảng nói không phân biệt

Không sợ, không tranh chấp

Không buộc, cũng không mở.

Do đó vào lời nói

Lời nói không chỗ nhập

Lời nói và nói pháp

Không lời nói mà nói.

Tự ḿnh hiện thấy được

Nói pháp vô cùng tận

Nương pháp chánh định ấy

Chẳng đắm mọi lời nói.

Có trí hiện thấy này

Biết lời nói b́nh đẳng

Như nói năng các pháp

Dùng không lời để nói

Đã được hiện thấy này

Nên đạt được tự tại

Không còn theo người khác

Đó gọi là Chánh giác

Bích-chi-phật khó nghĩ.

Lại nữa, này A-nan! Các Đại Bồ-tát hiện thấy vô minh và vô minh hành, không dấy tưởng chấp, biết tự tánh của thức, biết tự tánh của danh sắc, biết tự tánh của lục nhập, biết tự tánh của xúc, biết tự tánh của thọ, biết tự tánh của ái, biết tự tánh của thủ, biết tự tánh của hữu, biết tự tánh của sinh, biết tự tánh của già chết. Đối với các pháp này hiện thấy rõ ràng gọi là Bích-chi-phật.

Lúc này, Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa vừa nêu nên nói bài kệ sau đây:

Nhận thức về vô minh

Rốt ráo chẳng hề sinh

Như bóng dưới đáy nước

Đầu, cuối không thật có

Thấy rõ tất cả pháp

Không có tướng dao động

Nếu thấy pháp như vậy

Nên gọi là thông sáng.

Tánh sáng như hư không

Tất cả pháp đều thế

Nếu nhận thức được vậy

Đó gọi Bích-chi-phật.

Như nói hành thân này

Là không ở bên trong

Cũng không ở bên ngoài

Hành thân này không sinh.

Hành thân như cây chuối.

Rốt ráo không bền chắc

Chẳng sinh cũng chẳng diệt

Tánh ấy như hư không.

Các Bồ-tát không sợ

Nếu được nhận thức ấy

Đó gọi là Chánh giác

Bích-chi-phật khó lường.

Biết rõ tất cả pháp

Tánh chất là như huyễn

Cũng tin hiểu sâu xa

Biết tánh không thật có.

Quán sát thức như vậy

Mọi tạo tác đều vọng

Do rõ được như thế

Biết tánh thức là không.

Đã biết trí, chẳng trí

Tất cả chỗ không nhiễm

Nếu biết pháp như vậy

Nên thức đồng với huyễn.

Như nói các danh sắc

Vô thọ, không thể nói

Biết rõ tánh, tướng ấy

Rốt ráo không thật có

Nói được tánh các nhập

Mà không có tướng chấp

Biết nhập được như vậy

V́ đó là tánh không.

Tánh xúc đâu cũng có

Có mặt trong các nhập

Khi quán sát lúc này

Như huyễn, không thật có.

Tánh xúc vốn tự không

V́ phân biệt nên biết

Nhưng tánh các xúc này

Chỗ trụ không nơi chốn.

Nếu hiện thấy được xúc

Người trí xa ĺa được

Có tuệ xa ĺa xúc

Đó gọi Bích-chi-phật.

Biết tướng thọ là không

Thọ cũng không tự tánh

Như bọt không bền chắc

Rốt ráo không thật có

Đã đoạn tất cả ái

Thông đạt pháp vô ái

Đã đến chỗ ái hết

Đó gọi Bích-chi-phật.

Biết thủ không chỗ thủ

Cũng biết thủ là không

Chẳng sinh, không thật có

Như trời nóng lửa nóng

Xưa nay các tưởng hữu

Và vốn có tưởng sinh

Nếu rõ tánh tưởng này

Rốt ráo không thật có.

Đã ĺa tất cả già

Th́ không còn phải chết

Ở mọi nơi mọi chốn

Không còn thọ thân nữa.

Đã được nhận thức ấy

Nên không có chỗ nương

Gọi là Bích-chi-phật

Giảng nói các Bồ-tát.

Như thế, này A-nan! Như Lai Đẳng Chánh Giác dùng năng lực phương tiện v́ hàng Thanh văn nói các Đại Bồ-tát được gọi là Bíchchi-phật.

Như thế, này A-nan! Các Đức Phật Như Lai nói các Đại Bồ-tát được gọi là Kiên tín, Kiên pháp, tám bậc, Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Thanh văn, Bích-chi-phật.

Bấy giờ, Tôn giả A-nan nói kệ rằng:

Bậc Đạo Sư tự tại

Chẳng thể nói mà nói

Trong không trung tạo buộc

Cũng trong không mà mở.

Phật có phương tiện lớn

Giảng nói pháp không đắm

Đối pháp không thể nói

Mà phân biệt giảng nói.

KINH PHẬT THUYẾT QUẢNG BÁC NGHIÊM TỊNH BẤT THOÁICHUYỂN LUÂN

<<-- --ĐẦU TRANG-- -->>

 

-

TRANG CHỦ*--KINH ĐIỂN*--ĐẠI TẠNG KINH*--THẦN CHÚ*--HÌNH ẢNH*--中文*--ENGLISH

Uploaded / Updated on 2020-01-20

 

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0