佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

Số 2022 4Quyển              Quyển 1  Quyển 2  Quyển 3  Quyển 4

Thiền Lâm Bảo Huấn

Sa môn Tịnh Thiên đất Đông Ngô trùng tập. 
Sa môn Thích Thanh Kiểm, dịch và chú thích. 

-o0o- 

Quyển Thứ Tư

228.- CHỮ HÁN: Phật Trí Dụ Ḥa thượng viết: Tuấn mă chi bôn dật, nhi bất cảm tứ túc giả, hàn bí chi ngự dă. Tiểu nhân chi cường hoạnh, bất cảm túng t́nh giả, h́nh pháp chi chế dă. Ư thức chi lưu lăng, bất cảm phan duyên giả, giác chiếu chi lực dă. Ô hô! Học giả vô giác chiếu, do tuấn mă vô hàm bí. Tiểu nhân vô h́nh pháp, tương hà dĩ tuyệt tham dục, trị vọng tưởng hồ. 
Dữ Trịnh Cư Sĩ pháp ngữ. 

228.- DỊCH NGHĨA: Phật Trí Dụ Ḥa thượng nói: Con tuấn mă chạy nhanh như vũ băo mà không dám buông chân tự tại, v́ nó bị chế ngự bởi hàm thiếc dây cương. Kẻ tiểu nhân cường bạo ngang tàng, mà không dám buông ư tung hoành, v́ hắn bị chế ngự bởi h́nh pháp. Ư thức lưu lăng của con người, mà không dám buông lung theo trần duyên, v́ nó bị ngăn cản bởi sức giác chiếu. Than ôi! Người học đạo mà không có sức giác chiếu, cũng như con tuấn mă không có hàm thiếc và dây cương. C̣n kẻ tiểu nhân nếu không có h́nh pháp, th́ đem ǵ để dứt bỏ tham dục, đối trị vọng tưởng. 
Pháp ngữ gởi Trịnh cư sĩ (1). 

CHÚ THÍCH: 

(1) Trịnh cư sĩ: Pháp tự của Đại Tuệ Cảo thiền sư, cũng gọi là Trịnh Ngang cư sĩ. 

229.- CHỮ HÁN: Phật Trí vị Thủy Am viết: Trụ tŕ chi tể hữu tứ yên: nhất đạo đức, nhị ngôn hành, tam nhân nghĩa, tứ lễ pháp. Đạo đức ngôn hành năi giáo chi bản dă, nhân nghĩa lễ pháp năo giáo chi mạt dă. Vô bản bất năng lập, vô mạt bất năng thành. Tiên thánh kiến học giả bất năng tự trị, cố kiến tùng tâm dĩ an chi, lập trụ tŕ dĩ thống chi. Nhiên tắc tùng lâm chi tôn, phi vị trụ tŕ. Tứ sự phong mỹ phi vị học giả. Giai dĩ Phật Tổ chi đạo cố. Thị dĩ thiện vi trụ tŕ giả, tất tiên tôn đạo đức thủ ngôn hành. Năng vi học giả tất tiên tôn nhân nghĩa tuân lễ pháp. Cố trụ tŕ phi học giả bất lập. Học giả phi trụ tŕ bất thành. Trụ tŕ dữ học giả, do thân chi dữ tư, đầu chi dữ túc, đại tiểu bất xứng nhi bất hội, năi tương tu nhi hành dă. Cố viết: "Học giả bảo ư tùng lâm, tùng lâm bảo ư đạo đức!". Trụ tŕ nhân vô đạo đức, tắc tùng lâm tương kiến kư phế hỹ. 
Thực Lục. 

229.- DỊCH NGHĨA: Phật Trí bảo Thủy Am: Thực thể của Trụ tŕ có bốn điều: Đạo đức, ngôn hành, nhân nghĩa và lễ pháp. Đạo đức và ngôn hành là gốc của sự giáo hóa, nhân nghĩa và lễ pháp là ngọn của sự giáo hóa. Không có gốc th́ chẳng hay đứng được, không có ngọn th́ chẳng hay thành được. Bậc Tiên thánh thấy người học đạo không tự trị được, nên mới kiến lập tùng lâm để họ có chỗ an trụ, suy cử người trụ tŕ để thống lĩnh họ, nhưng v́ cái tôn của tùng lâm không phải v́ trụ tŕ. Cơm ăn, áo mặc, đồ dùng, thuốc thang đầy đủ, không phải v́ người học đạo, mà đều là v́ cái đạo của Phật Tổ. Bởi thế, người khéo trụ tŕ trước hết phải tôn đạo đức, giữ ngôn hành, người khéo học đạo, tất nhiên phải giữ nhân nghĩa tuân đạo đức. Cho nên, nếu trụ tŕ không có người học đạo th́ không thể thành lập. Trụ tŕ và người học đạo cũng như thân ḿnh với cánh tay, đầu và chân, lớn nhỏ phải thích ứng mà không trái nhau mới có thể cùng nương vào nhau mà làm việc. Nên nói: "Người học đạo th́ bảo thủ tùng lâm, tùng lâm th́ giữ ǵn đạo đức". Người trụ tŕ nếu không có đạo đức th́ tùng lâm cũng hầu như tàn phế vậy. 
Thực Lục. 

230.- CHỮ HÁN: Thủy Am Nhất Ḥa thượng viết: Dịch ngôn: "Quân tử tư họa nhi dự pḥng chi". Thị cố cổ chi nhân tư sanh tử đại hoạn pḥng chi dĩ đạo. Toại năng kinh đại truyền viễn. Kim chi nhân vị cầu đạo vu khoát, bất nhược cầu lợi chi thiết đáng. Do thị cạnh tập phù hoa kế hiệu hàm mạt. Hy mục tiền chi sự, hoài cẩu thả chi kế. Sở dĩ mạc khẳng vi chu tuế chi qui giả. Huống sinh tử chi lự hồ. Sở dĩ học giả nhật bỉ tùng lâm nhật phế, kỷ cương nhật trụy, dĩ chí lăng di điên bái, đăi bất khả cứu. Ta hồ! Khả bất giảm tai. 
Song Lâm Thực Lục. 

230.- DỊCH NGHĨA: Thủy Am Nhất Ḥa thượng nói: Kinh Dịch có nói: "Người quân tử nghĩ tới tai họa nên phải dự bị đề pḥng". Thế nên người xưa, luôn luôn nghĩ tới cái đại hoạn sanh tử, mà phải đem đạo để pḥng ngừa, nên sự nghiệp mới lớn lao, tiếng thơm mới xa rộng. C̣n người đời nay lại bảo cầu đạo là vu khoát, cầu lợi là thiết đáng. Do thế họ ganh đua nhau tập thói phù hoa, tính kế vụn vặt, chỉ cầu mong những việc trước mắt, hoài bảo những kế cẩu thả, ngay đến cả việc trù liệu kế hoạch cho một năm cũng chẳng chịu làm, nữa là lo đến việc lớn sanh tử. V́ thế, người học đạo ngày càng quê hèn, chốn tùng lâm ngày càng hoang phế, kỷ cương ngày càng trụy lạc. Sở dĩ tùng lâm đi đến chỗ nghiêng ngửa đổ nát hầu như không thể cứu được. Than ôi! Ta phải lấy đó làm gương soi chung vậy. 
Song Lâm Thực Lục. 

231.- CHỮ HÁN: Thủy Am viết: Tích du Vân Cư kiến Cao Am dạ sam vị: "Chí đạo kính đĩnh bất cận nhân t́nh. Yếu tu thành tâm chính ư vật sự kiểu sức thiên tà. Kiểu sức tắc cận trá nịnh. Thiên tà tắc bất trung chính. Dĩ chí giai bất hợp hỹ. Thiết tư kỳ ngôn cận lư. Năi khắc ư tiễn chi. Đăi kiến Phật Trí tiên sư, thủy hạo nhiên đại triệt, phương đắc bất phụ b́nh sinh hành cước chi chí". 
Dữ Nguyệt Đường thư. 

231.- DỊCH NGHĨA: Thủy Am nói: Xưa kia tôi đi hành cước tới chùa Vân cư, thấy Cao Am nói trong buổi dạ sam: "Chí đạo là con đường thẳng tắp xa cách t́nh người, nên phải thành tâm chính ư, chớ chuộng kiểu sức thiên tà. Kiểu sức th́ gần trá nịnh, thiên tà th́ không trung chính, đều không hợp với chí đạo. Tôi trộm nghĩ lời nói của Cao Am rất gần chân lư, nên khắc vào tâm khảm làm theo. Măi đến khi được yết kiến Phật Trí tiên sư, tôi mới bỗng nhiên đại triệt ngộ,v́ thế mà không phụ cái chí b́nh sinh hành cước của tôi". 
Thư gởi Nguyệt Đường (1). 

CHÚ THÍCH: 

(1) Nguyệt Đường: Cũng gọi Nguyệt Đường Đạo Sương thiền sư, pháp tự của Tuyết Phong Tuệ thiền sư. 

232.- CHỮ HÁN: Thủy Am viết: Nguyệt Đường trụ tŕ, sở chí dĩ hành đạo vi kỷ nhậm. Bất phát hóa chủ bất sự đang nghệ. Mỗi tuế thực chỉ tùy thường trụ sở đắc dụng chi. Nột tử hữu chí sung hóa đạo giả đa khước chi. Hoặc viết: "Phật giới Tỳ khưu bát dĩ tư thân mệnh. Sư hà cụ chi phất dung". Nguyệt Đường viết: "Ngă Phật tại nhật tắc khả. Khủng kim nhật vi chi tất hữu hiếu lợi giả, nhi chí ư tự dục hỹ". Nhân tư Nguyệt Đường pḥng vi đỗ tiệm thâm thiết trứ minh. Xứng thực chi ngôn kim do tại nhĩ. Dĩ kim nhật quan chi, hựu khởi chỉ tự dục nhi dĩ hỹ. 
Pháp ngữ. 

232.- DỊCH NGHĨA: Thủy Am nói: Cách trụ tŕ của Nguyệt Đường, ở nơi nào ngài cũng lấy việc hành đạo làm nhiệm vụ của ḿnh, không cần người hóa chủ, không chuộng đồ cúng dường. Sự ăn uống mỗi năm chỉ tùy theo nơi thường trụ có bao nhiêu dùng vậy. Kẻ nột tử có chí muốn sung vào việc khất thực hóa đạo, ngài đều từ khước. Hoặc có kẻ nói: "Phật răn các Tỳ khưu tŕ bát khất thực để nuôi thân mệnh, sao ngài chống đối chẳng cho". Nguyệt Đường nói: "Khi đức Phật c̣n tại thế th́ được, nhưng ngày nay làm hạnh đó tất sẽ có người ham lợi mà đưa đến chỗ tự bán cả thân ḿnh". Nhân thế tôi ngĩ ngài Nguyệt Đường, ngài pḥng ngừa tội lỗi từ lúc c̣n nhỏ nhiệm, ngăn chặn không cho chúng lớn dần, thật là thấm thiết rơ ràng. Những lời nói xứng thực đó nay c̣n văng vẳng bên tai. Ngày nay đem lời nói ấy mà quan sát, há lại chỉ có sự bán ḿnh mà thôi đâu. 
Pháp ngữ. 

233.- CHỮ HÁN: Thủy Am vị Thị Lang Vưu Diên Chi viết: Tích Đại Ngu, Từ Minh, Cốc Tuyền, Lang Gia kết bạn sam Phần Dương. Hà Đông khổ hàn chúng nhân đạn chi. Duy Từ Minh chí tại ư đạo. Hiểu tịch bất đăi, dạ tọa dục thụy, dẫn chùy tự thích. Thán viết: "Cổ nhân vị sinh tử sự đại, bất thực bất tẩm, ngă hà nhân tai nhi túng hoang dật, sinh vô ích ư thời, tử vô văn ư hậu, thị tự khí dă". Nhất đán từ quy. Phần Dương thán viết: "Sở Viên kim khứ, ngô đạo Đông hỹ". 
Tây Hồ Kư Văn. 

233.- DỊCH NGHĨA: Thủy Am bảo quan Thị Lang Vưu Diên Chi (1): Xưa kia các ngài Đại Ngu, Từ Minh, Cốc Tuyền và Lang Gia cùng kết bạn tham học ở ngài Phần Dương. Nơi đây là vùng đất thuộc Hà Đông quá đỗi rét lạnh, mọi người đều ghê sợ. Duy có Từ Minh có chí hướng với đạo, sớm tối tu hành không lười biếng, ban đêm ngồi thiền, mỗi khi buồn ngủ, ngài lấy chiếc dùi tự đâm vào ḿnh mà than: "Cổ nhân v́ sinh tử sự đại nên không ăn không ngủ, ta đây là người thế nào mà lại buông lung biếng nhác để lúc sống th́ vô ích với đời, khi chết không một tiếng vang để lại, như thế là tự bỏ ḿnh vậy". Nhân một ngày, ngài Từ Minh tới cáo biệt, Phần Dương than rằng: "Nay Sở Viên đi, đạo của ta trở về Đông vậy".(2) 
Tây Hồ Kư Văn. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Vưu Diên Chi: Họ Vưu tên Mậu, tự là Diên Chi, hiệu là Toại Sơ cư sĩ, tham đạo ở ngài Thủy Am Nhất thiền sư. 
(2) Đạo của ta trở về Đông: Trịnh Huyền đời nhà Hán thờ Mă Dong làm thầy, khi từ biệt thầy trở về nhà, Mă Dong nói: "Ngô đạo Đông hỹ". 

234.- CHỮ HÁN: Thủy Am viết: Cổ đức trụ tŕ xuất kỷ hành đạo, vị thường cẩu giản tự tứ. Tích Phần Dương mỗi thán: "Tượng quư kiêu ly học giả nan hóa". Từ Minh viết: "Thậm dị. Sở hoạn chủ pháp giả bất năng thiện đạo nhĩ". Phần Dương viết: "Cổ nhân thuần thành thượng thả tam nhị thập niên phương đắc thành biện". Từ Minh viết: "Thử phi Thánh triết chi luận. Thiện tạo đạo giả thiên nhật chi công". Hoặc vị Từ Minh vọng đản bất thính. Nhi Phần Dương địa đa lănh nhân băi dạ sam. Hữu dị Tỳ kheo vị Phần Dương viết: "Bất tam niên quá hữu lục nhân thành đạo giả". Phần Dương thuờng hữu tụng viết: "Hồ Tăng kim tích quang, thỉnh pháp đáo Phần Dương. Lục nhân thành đại khí, khuyến thỉnh vị phu dương". 
Tây Hồ Kư Văn. 

234.- DỊCH NGHĨA: Thủy Am nói: Cổ đức trụ tŕ, dấn ḿnh để hành đạo, chưa từng tự ḿnh phóng túng cẩu thả. Xưa kia Phần Dương thường than thở: "Đời Tượng quư mỏng manh bội bạc, người học đạo khó giáo hóa". Từ Minh nói: "Việc đó rất dễ, chỉ là người chủ pháp không khéo dạy bảo mà thôi". Phần Dương nói: "Người đời xưa thuần thành cũng c̣n phải hai ba mươi năm trời mới thành biện được". Từ Minh nói: "Đó không phải là lời bàn về Thánh triết, người khéo đi tới đạo là công lao của cả ngàn ngày". Hoặc có người bảo lời nói của Từ Minh là quái đản không nghe theo. Nhân v́ đất Phần Dương quá lạnh nên băi buổi dạ sam, bỗng có một Tỳ khư lạ bảo Phần Dương: "Trong pháp hội có sáu bậc đại sĩ (1) tai sao không ra đời thuyết pháp". Sau quả nhiên chưa tới ba năm đă có sáu vị thành đạo, nên ngài Phần Dương thường có bài tụng rằng: 

Hồ Tăng dung tích trượng, 
Thỉnh pháp tới Phần Dương. 
Khuyên ta nói pháp bảo, 
Sáu người liễu đạo vàng. 
Tây Hồ Kư Văn.

CHÚ THÍCH: 

(1) Sáu bậc đại sĩ: Từ Minh Viên, Đại Ngu Chi, Lang Gia Giảo, Cốc Tuyền Đạo, Pháp Hoa Cử và Thiên Thắng Thái. 

235.- CHỮ HÁN: Đầu Tử Thanh Ḥa thượng họa Thủy Am tượng cầu tán viết: "Tự thanh thiền nhân, cô ngạnh vô địch. Thần hôn nhất trai, hiếp bất chí tịch. Thâm nhập thiền định, ly xuất nhập tức. Danh đạt cửu trùng, đàm thiền tuyển đức. Long nhan đại duyệt, tứ dĩ kim bạch. Lực từ giả tam, thượng năi gia thán. Chân đạo nhân dă, thảo mộc đằng khoán. Truyền dư lậu chất, chú hương thỉnh tán. Thị sở vị thanh xuất ư lam nhi thanh ư lam giả dă". 
Kiến Họa tượng. 

235.- DỊCH NGHĨA: Đầu Tử Thanh (1) Hoà thượng khi vẻ tượng Thủy Am, có xin ngài làm bài tán để vào bức tranh như sau: 

Thanh thiền nối pháp, 
Cao vút vô song. 
Ngày ăn một bữa, 
Tối chẳng ngả lưng. 
Thâm nhập thiền định, 
Hơi thở chẳng vương. 
Tên vang chín bệ, (2) 
Tuyển đức bàn thiền. 
Long nhan vui đẹp, 
Ban bố lụa vàng. 
Ba lần từ chối, 
Vua càng tán dương. 
Đáng bậc chân đạo, 
Cây cỏ vui mừng. 
Truyền lậu chất ta, 
Đốt hương khấn nguyện, 
Quả thật rơ ràng: 
Màu xanh sinh bởi màu lam, 
Màu xanh lại đậm hơn lam bội phần. (3) 
Trong tập Họa tượng.

CHÚ THÍCH: 

(1) Đầu Tử Thanh: Pháp tự của Thủy Am Nhất thiền sư, đời thứ 17 phái Nam Nhạc . 
(2) Chín bệ: Dịch ở chữ cửu trùng, chỉ vào nhà vua. 
(3): Hai câu này nói tṛ giỏi hơn thầy. 

236.- CHỮ HÁN: Thủy Am viết: Phật Trí tiên sư ngôn Đông Sơn Diễn Tổ thường vị Cảnh Long Học viết: "Sơn Tăng hữu Viên Ngộ, như ngư chi hữu thủy, điểu chi hữu dực". Cố Thừa tướng Tử Nham cư sĩ tán viết: "Sư tư tương khả, hy ngộ nhất thời. Thủy chung chi phận, thùy năng gián chi". Tử Nham cư sĩ, khả vị tri ngôn hỹ. Tỷ kiến chư phương tôn túc, hoài tâm thuật dĩ ngữ nột tử. Nột tử hiệp thế lợi dĩ sự tôn túc. Chủ tân giao lợi thượng hạ khi vũ. An đắc pháp môn chi hưng, tùng lâm chi thịnh hồ. 
Dữ Mai Sơn Nhuận thư. 

236.- DỊCH NGHĨA: Thủy Am nói: Phật Trí tiên sư nói Đông Sơn Diễn Tổ thường bảo Cảnh Long Học: "Sơn Tăng có Viên Ngộ cũng như cá có nước, như chim có cánh". Nên Thừa tướng Tử Nhan cư sĩ tán rằng: "Thầy tṛ cùng tương đắc, thật ít gặp gở thời nay, cùng giữ phần thủy chung như một, không ai có thể làm ngăn cách được". Tử Nham cư sĩ thật là người biết suy luận vậy. Gần đây thấy bậc tôn túc ở khắp nơi, đem tâm thuật để ràng buộc kẻ nột tử. Người nột tử lấy thế lợi để tôn thờ bậc tôn túc. Chủ khách giao với nhau bằng lợi, trên dưới khinh nhờn, dối trá lẫn nhau, như thế hỏi làm sao chốn pháp môn được hưng đạt, nơi tùng lâm được thịnh vượng vậy ư". 
Thư viết cho Mai sơn Nhuận. 

237.- CHỮ HÁN: Thủy Am viết: Động nhân dĩ ngôn duy yếu chân thiết, ngôn bất chân thiết sở cảm tất thiển, nhân thùy khẳng hoài. Tích Bạch Vân Sư Tổ tống Sư Ông trụ Tứ Diện. Đinh ninh viết: "Tổ đạo lăng tŕ nguy như lũy noăn. Vô tứ hoang dật, hư táng quang âm, phục bại trí đức. Đương khoan dung lượng độ, lợi vật tồn chúng, đề tŕ thử sự báo Phật Tổ ân". Đương thời văn giả, thục bất cảm động. Nhĩ tạc lai, triệu đối thần đ́nh, thành vi pháp môn chi hạnh. Thiết nghi hạ thân tôn đạo dĩ lợi tế vi tâm. Bất khả căng kỷ tự phạt. Ṭng thượng tiên triết khiêm nhu kính úy bản thân toàn đức, bất dĩ thế vị vi vinh, toại năng thanh chấn nhất thời mỹ lưu vạn thế. Dư lự quang cảnh bất trường vô phục diện hội, cố thử thiết chúc. 
Kiến Đầu Tử thư. 

237.- DỊCH NGHĨA: Thủy Am nói: Nếu đem lời nói để lay chuyển ḷng người, chỉ cần ở chỗ chân thiết. Lời nói không chân thiết, chỗ cảm động tất sẽ ít, và ai là người chịu thống khắc ở đáy ḷng. Xưa kia Bạch Vân Sư Tổ, đưa Sư Ông trụ tŕ chùa Tử Diện, đinh ninh dặn ḍ: "Tổ đạo tan nát, nguy như xếp trứng, chớ nên buông lung phóng túng, uổng phí quang âm, hoại mất trí đức. Phải nên có độ lượng khoan dung, cung chúng lợi người. Giữ ǵn được như thế tức là báo ơn Phật Tổ". Đương thời những người nghe biết lời nói ấy ai nấy đều cảm động. Ông (Đầu Tử) từ trước tới nay được mời vào chốn cung đ́nh giảng đạo, quả thật là điều may mắn cho pháp môn, cần phải nhún ḿnh tôn đạo lấy việc lợi tế làm ḷng, không nên cậy ḿnh khoe khoan, phải theo chỗ khiêm nhường nhu ḥa, kính úy các bậc tiên triết để giữ ḿnh cho toàn đức, đừng lấy thế vị làm vinh th́ tiếng trong sạch mới có thể vang dội một thời, vẻ tốt đẹp mới có thể lưu thơm muôn thuở. Ta lo bóng sáng chẳng c̣n lâu dài, không c̣n được gặp lại ông lần nữa, nên đem những lời tha thiết để dặn ḍ. 
Thư gởi Đầu Tử. 

238.- CHỮ HÁN: Thủy Am thiếu thích thảng hữu đại chí. Thượng khí tiết bất sự phù mỹ bất tuần tế kiểm. Hung thứ ngạn cốc tuẫn thân dĩ nghĩa. Tuy họa hại giao tiền, bất kiến hữu vẫn hoạch chi sắc. Trụ tŕ bát viện kinh lịch tứ quận. Sở chí, căng căng nghiệp nghiệp dĩ hành đạo kiến lập vi tâm. Thuần Hy ngũ niên thoái Tây Hồ Tịnh Từ. Hữu kệ viết: "Lục niên sái tảo hoàng đô tự, ngoă lịch phiên thành Thích Phạm cung. Kim nhật công thành quy khứ dă, trượng đầu bát diện khởi thanh phong". Sĩ thứ giả lưu bất chỉ, tiểu chu chí Tú chi Thiên Ninh. Vi kỷ thi tật biệt chúng cáo chung. 
Hành Thực. 

238.- DỊCH NGHĨA: Thủy Am khi c̣n ít tuổi cũng đă tỏ ra lỗi lạc có chí lớn chuộng khí tiết, không thích phù hoa xa xỉ, không noi theo sự việc nhỏ nhặt, ḷng dạ rộng răi, dấn thân làm việc nghĩa, tuy họa hại bày ngay trước mắt cũng không thấy sắc mặt biến đổi. Ngài trụ tŕ với tám ngôi chùa tại khắp bốn quận huyện, đến nơi nào ngài cũng chỉ khắn đáu tha thiết đem tâm hành đạo và kiến lập làm nhiệm vụ. Niên hiệu Thuần Hy năm thứ năm, ngài lui gót về trụ tŕ chùa Tịnh Từ đất Tây Hồ có làm bài kệ rằng: 

Sáu năm quét dọn cảnh chùa chiền, 
Ngói sỏi biến thành Thích Phạm Thiên. 
Quả phúc viên thành nay để lại, 
Gió rung gậy tích khắp mọi miền. 

Quan dân ở đây cố thỉnh ngài lưu lại nhưng không được. Ngài ra đi trên một con thuyền nhỏ đến chùa Thiên Ninh huyện Tú Thủy, chẳng được bao lâu bị bệnh rồi thị tịch. 
Hành Thực. 

239.- CHỮ HÁN: Nguyệt Đường Sương Ḥa thượng viết: Tích Đại Trí thiền sư lự mạt thế Tỳ khưu kiêu nọa. Đặc chế qui củ dĩ pḥng chi tùy khí năng các thiết du ty. Chủ cư trượng thất, chúng cư thông đường. Liệt thập cục đầu thủ chi, nghiêm túc như quan phủ. Cư thượng giả đề kỳ đại cương, tại hạ giả, lư ky chúng mục. Xử thượng hạ tương thừa như thân chi xử tư, tư chi xử chỉ, mạc bất xuất ṭng. Thị dĩ tiền bối tuân thừa dực đới, quyền quyền phụng hành giả, dĩ Tiên thánh chi di phong vị dẫn cố dă. Tỷ kiến tùng lâm suy thế, học giả quư thông tài tiện thủ tiết. Thượng phù hoa bạc chân tố, nhật tư nguyệt sâm tiệm nhập kiêu ly. Thủy tắc thâu an nhất thời, cập ngoạn tập kư cửu, vị kỳ lư chi đương nhiên, bất vị chi phi nghĩa. bất vị chi phi lư. Tại thượng giả chủy chủy yên úy kỳ hạ, tại hạ giả khuê khuê yên tứ kỳ thượng. B́nh cư tắc cam ngôn khuất thể dĩ tương my duyệt. Đdắc gián tắc lang tâm quỷ kế dĩ tương đồ quái. Thành giả vi hiền, bại giả vi ngu, bất phục vấn tôn ti chi tự, thị phi chi lư. Bỉ kư vi chi thử tắc hiệu chi. Hạ kư ngôn chi, thượng tắc ṭng chi. Tiền kư hành chi, hậu tắc tập chi. Ô hô! Phi ngạn thánh chi sư thừa nguyện lực, tích bách niên chi công, kỳ tệ cố tắc mạc năng cách hỹ. 
Dữ Thuấn Ḥa Thượng thư. 

239.- DỊCH NGHĨA: Nguyệt Đường Sương Ḥa thượng nói: Xưa kia Đại Trí thiền sư, lo Tỳ khưu đời mạt pháp kiêu mạn lười biếng, nên đặc biệt chế định quy củ để ngăn ngừa, tùy theo khả năng mà đặt ra từng chức vụ cho mỗi người coi sóc. Vị chủ ở nhà Phương trượng, chúng Tăng ở chốn Tăng đường, chia thành mười chức vụ đứng đầu (1). Người đứng đầu th́ nghiêm túc như quan phủ, nắm phần đại cương ở trên, kẻ ở dưới th́ sửa sang trông coi các việc, khiến cho trên dưới cùng nối tiếp nhau như thân sai khiến cánh tay, cánh tay sai khiến ngón tay, ai nấy đều tuân theo mệnh lệnh làm công việc. Bởi thế, bậc tiền bối cung kính noi theo, khắn đáu phụng hành, khiến cho di phong của Tiên thánh chưa tuyệt diệt. Gần đây thấy chốn tùng lâm suy đồi, người học đạo quư trọng chỗ tài ba, khinh miệt sự giữ ǵn tiết nghĩa, ưa chuộng vẻ phù hoa, khinh bạc niềm chân thật, ngày qua tháng lại, dần dần đưa đến chỗ suy vi. Lúc đầu th́ họ trốn tránh an phận một thời, kịp tới lúc huân tập đă lâu th́ lại bảo đó là lư đương nhiên, chứ không bảo đó là phi nghĩa, chẳng bảo đó là phi lư. Người ở trên th́ hồi họp lo sợ kẻ ở dưới, kẻ ở dưới th́ duơng mắt nh́n lại người trên. Lúc b́nh thường th́ buông lời ngọt ngào, khuất thân giữ lễ để cùng xu nịnh làm đẹp ḷng lẫn nhau, nhưng được ít lâu thời lại đem lang tâm quỷ kế để chém giết lẫn nhau. Nếu kẻ thắng đó là người hiền, kẻ bại hóa ra người ngu, không c̣n để ư đến tôn ty trật tự, lỳ lẽ phải trái. Kẻ kia đă làm thế, người này bắt chước theo, kẻ dưới nói thế nào, người trên cũng làm thế, người trước làm thế nào, người sau cũng noi theo làm như vậy. Than ôi! Nếu không phải là bậc Hiền thánh nương theo nguyện lực xuất hiện chứa góp công nghiệp hàng trăm năm, th́ sao có thể lay chuyển nổi cái tệ hại kiên cố kia, bằng không th́ không thể thay đổi được. 
Thư gởi Thuấn Ḥa thượng (2). 

CHÚ THÍCH: 

(1) Mười chức vụ đứng đầu: 
a.- Tiền Đường Thủ tọa. 
b.- Hậu Đường Thủ tọa. 
c.- Thư kư. 
d.- Tạng chủ. 
e.- Tri khách. 
f.- Đô quản. 
g.- Giám tự. 
h.- Phó tự. 
i.- Duy na. 
j.- Điền tọa. 
(2) Thuấn Ḥa thượng: Cũng gọi là Tây Thiên Tưệ Thuấn, pháp tụ của Thuyết Phong Diễn thiền sư. 

240.- CHỮ HÁN: Nguyệt Đường trụ Tịnh Từ tối cửu. Hoặc vị: "Ḥa thượng hành đạo kinh niên, môn hạ vị văn hữu đệ tử, đắc bất cô Diệu Trạm hồ". Nguyệt Đường bất đối. Tha nhật tái ngôn chi. Nguyệt Đường viết: "Tử bất văn tích nhân chủng qua nhi ái thậm giả, thịnh hạ chi nhật, phương trung nhi quán chi, qua bất toàn sủng nhi ứ bại hà giả. Kỳ ái chi phi bất cần, nhiên quán chi bất dĩ thời, thích sở dĩ băi chi dă. Chư phương lăo túc đề khế nột tử, bất quan kỳ đạo nghiệp nội sung tài khí hoành viễn, chỉ dục tốc kỳ vi nhân, đăi thẩm kỳ đạo đức tắc dâm ô, sát kỳ ngôn hạnh tắc quai lệ, vị kỳ công chính tắc tà nịnh, đắc phi ái chi quá kỳ phận hồ. Thị chính do nhật trung chi quán qua dă. Dư thâm khủng thức giả tiếu, cố bất vi dă. 
Bắc Sơn Kư Văn. 

240.- DỊCH NGHĨA: Nguyệt Đường trụ tŕ chùa Tịnh Từ rất lâu. Hoặc có người nói: "Sự hành đạo của Ḥa thượng đă nhiều năm, nay trong đám môn hạ của ngài chưa nghe thấy có người đệ tử nào xuất chúng, như vậy há lại không cô phụ môn phái của Diệu Trạm (1) Tiên sư vậy ư?". Nguyệt Đường không trả lời. Ngày khác họ lại nói với ngài. Nguyệt Đường nói: "Ngươi không nghe thấy người đời xưa trồng hạt dưa mà yêu nó quá mức, đền nỗi những ngày nắng gắt ở mùa Hạ, mà cũng cố tưới ngay lúc giữa trưa, th́ dưa chẳng những không tươi tốt được mà lại úa nát. Tại sao? Bởi lẽ, người mến trồng dưa, không phải là không siêng, nhưng v́ tưới nó không đúng thời, nên dưa kia hoá thành úa nát. Các bậc lăo túc ở các nơi cung ứng đề bạt kẻ nột tử, lại không xem đạo nghiệp sung thực và tài khí rộng xa của họ, mà chỉ muốn họ chóng nên người, nhưng xét tới đạo đức của họ th́ nhơ bẩn, xét tới ngôn hạnh của họ th́ trái ngang, như bảo họ là công chính th́ chính họ là kẻ tà nịnh. Những việc như thế có lẽ cũng v́ yêu họ quá mức vậy chăng? Như thế cũng chẳng khác ǵ kẻ tưới dưa ở giữa buổi trưa nắng. Ta v́ sợ hăi kẻ thức giả chê cười, nên không dám giao phó công việc trọng đại cho họ". 
Bắc Sơn Kư Văn. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Diệu Trạm: Tuyết Phong Tư Tuệ Diệu Trạm thiền sư, pháp tự của Pháp Vân Thiện Bản thiền sư. 

241.- CHỮ HÁN: Nguyệt Đường viết: Hoàng Long cư Tích Thúy. Nhân bệnh tam nguyệt bất xuất. Chân Tịnh tiêu dạ khẩn đảo. Dĩ chí nhiên đính luyện tư ngưỡng kỳ âm tướng. Hoàng Long văn chi trách viết: "Sinh tử cố ngô phận giả. Nhĩ sam thiền bất đạt lư nhược thị". Chân Tịnh thung dung viết: "Tùng lâm khả vô Khắc Vân, bất khả vô Ḥa thượng". Thức giả vị: "Chân Tịnh kính sư trọng pháp, kỳ thành chi thứ, tha nhật tất thành đại khí". 
Bắc Sơn Kư Văn. 

241.- DỊCH NGHĨA: Nguyệt Đường nói: Hoàng Long khi ở chùa Tích Thúy, nhân v́ bệnh ba tháng không ra khỏi nhà Phương trượng. Chân Tịnh lấy làm lo lắng suốt đêm khấn nguyện cầu đảo, dĩ chí đốt hương trên đỉnh đầu, thắp đèn trên cánh tay, ngửa mong thần lực âm trợ. Hoàng Long nghe biết việc đó liền trách rằng: "Lẽ sống chết là phần cố nhiên của ta, ông là người tham thiền mà không đạt được lư đó sau?". Chân tịnh thong thả thưa: "Tùng lâm có thể không có Khắc Vân (Chân Tịnh), chứ không thể không có Ḥa thượng". Kẻ thức giả bảo: "Chân Tịnh là kẻ kính thầy trọng pháp một cách chân thành đến thế, tất sẽ thành người đại khí sau này". 
Bắc Sơn Kư Văn. 

242.- CHỮ HÁN: Nguyệt Đường viết: Hoàng Thái Sử Lỗ Trực thường ngôn: "Hoàng Long Nam thiền sư, khí lượng thâm hậu, bất vi sự vật sở thiên. B́nh sinh vô kiểu sức. Môn đệ hữu chung thân bất kiến kỳ hỷ nộ giả. Tuy tẩu sử chí lực chi bối nhất dĩ thành đăi chi. Cố năng bất động thanh khí, nhi khởi Từ Minh chi đạo, phi cẩu nhiên dă". 
Kiến Hoàng Long Thạch khắc. 

242.- DỊCH NGHĨA: Nguyệt Đường nói: Hoàng Thái Sử Lỗ Trực thường nói: "Hoàng Long Nam thiền sư là bậc khí lượng sâu dày, không bị sự vật lay chuyển, b́nh sinh không ưa trang sức, môn hạ đệ tử suốt đời cũng không thấy ngài có nét mặt mừng giận. Tuy là những kẻ hầu hạ sai khiến, ngài đều lấy tâm thành thật để đối đăi. Thế nên ngài chẳng động đến thanh khí, mà làm hưng thịnh được đạo của Từ Minh. Như vậy không phải là không lo lắng mà thành đạt được". 
Khắc ở bia đá chùa Hoàng Long. 

243.- CHỮ HÁN: Nguyệt Đường viết: Kiến Viêm Kỷ Dậu thượng tỵ nhật. Chung Tương bạn ư Phong Dương. Văn Thù Đạo thiền sư ách ư nạn. Tặc thế kư thịnh, kỳ đồ đào khứ. Sư viết: "Họa khả tỵ hồ". Tức nghị nhiên sử ư trượng thất, kính vi tặc sở hại. Vô Cấu cư sĩ bạt kỳ Pháp ngữ viết: "Phù ái sinh úy tử sanh chi thường t́nh. Duy chí nhân ngộ kỳ bản bất sinh, tuy sinh nhi vô sở ái. Đạt kỳ vị thường diệt, tuy tử nhi vô sở úy. Cố năng lâm sanh tử họa hoạn chi tế, nhi bất di kỳ sở thú. Sư kỳ nhân hồ". Dĩ sư đạo đức tiết nghĩa, túc dĩ giáo hóa tùng lâm, thùy phạm hậu thế. Sư danh Chính Đạo, Mỵ Châu Đan Lăng nhân, Phật Giám chi tự giả. 
Tuệ Đại Sư Kư Văn. 

243.- DỊCH NGHĨA: Nguyệt Đường nói: Niên hiệu Kiến Viêm (1) ngày mồng 3 tháng 3 (2) năm kỷ Dậu. Chung Tương làm phản ở Phong Dương. Văn Thù Đạo thiền sư mắc nạn ở dịp này. Thế giặc rất mạnh, đồ chúng của ngài đều bỏ chạy. Thiền sư nói: "Tai vạ có thể tránh được ư?". Ngài cương quyết ở lại nhà Phương trượng, rồi sau bị quân giặc sát hại. Vô Cấu cư sĩ làm bài bạt trong tập Pháp ngữ của ngài rằng : "Ôi! Ham sống sợ chết là thường t́nh của con người, duy có bậc chí nhân hiểu cái lẽ đó là bất sinh, nên tuy có sinh ra mà không ham thích thân ḿnh, đạt được lẽ sanh tử là bất diệt, nên tuy chết mà không sợ hăi. Cho nên, khi tới lúc tử sinh họa nạn mà không thay đổi được những điều ḿnh vẫn giữ. Thiền sư là bậc chí nhân vậy". Nếu đem phần đạo đức tiết nghĩa của thiền sư cũng đủ để giáo hóa tùng lâm, làm khuôn mẫu cho hậu thế. Thiền sư tên là Chính Đạo, người đất Đan Lăng thuộc Mỵ Châu, pháp tự của ngài Phật Giám. 
Tưẹ Đại Sư Kư Văn. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Mồng 3 tháng 3: Dịch ở chữ Thượng Tỵ nhật. 
(3) Văn Thù Đạo: Văn Thù Tâm Đạo thiền sư, pháp tự của Phật Giám Cần thiền sư. 

244.- CHỮ HÁN: Tâm Văn Bí Ḥa thượng viết: Nột tử nhân thiền chí giả đa. Hữu bệnh tại nhi mục giả, dĩ xanh my nổ mục trắc nhỉ điểm đầu vi thiền. Hữu bệnh tại khẩu thiệt giả, dĩ điên ngôn đảo ngữ ḥ hát loạn hát vi thiền. Hữu bệnh tại thủ túc giả, dĩ tiến tiền thoái hậu, chỉ đông hoạch tây vi thiền. Hữu bệnh tại tâm phục giả, dĩ cùng huyền cứ diệu siêu t́nh ly kiến vi thiền. Cứ thực nhi luận vô phi thị bệnh. Duy bản sắc tôn sư minh sát cơ vi, mục kích nhi tri kỳ hội bất hội. Nhập môn nhi biện kỳ đáo bất đáo, nhiên hậu dụng nhất chùy nhất thích, thoát kỳ liêm tiêm công kỳ đáp trệ, nghiệm kỳ chân giả định kỳ hư thực, nhi bất thủ nhất phương, tiện muội hồ biến thông tỷ chung đạp ư an lạc vô sự chi cảnh, nhi hậu dĩ hỹ. 
Thực Lục. 

244.- DỊCH NGHĨA: Tam Văn Bí Ḥa thượng nói: Kẻ nột tử nhân v́ tham thiền đến nỗi mắc bệnh quá nhiều. Có người bị bệnh ở tai mắt, chỉ lấy dương mày, trừng mắt, ghé tai, gật đầu làm thiền. Có người mắc bệnh ở miệng và lưỡi, chỉ v́ lấy lời nói điên đảo, quát mắng loạn xạ làm thiền. Có người mắc bệnh ở tay chân, chỉ v́ lấy tiến trước lùi sau, chỉ đông trỏ tây làm thiền. Có người bệnh ở tâm phúc, chỉ v́ lấy việc tới chỗ cùng tận huyền diệu vượt ngoài t́nh kiến làm thiền. Cứ thật mà bàn th́ tất cả đó đều là bệnh. Duy có bậc tôn sư đă nhận chân được bản lai diện mục mới xét được rơ căn cơ vi tế, khi mục kích đă biết được chỗ lănh hội hay chưa lănh hội của họ. Khi nhập môn đă phân biệt được chỗ đến đích hay chưa đến đích của họ. Rồi sau đó ngài mới dùng một chiếc dùi, một móc nhọn, lột trần chỗ khuất tất nhỏ nhiệm, phá tan nơi ngưng trệ, nghiệm xét chỗ chân giả của họ mà không giữ chịt ở một chiều, làm mờ mịt mất chỗ biến thông, khiến cho họ bước tới được cảnh an lạc vô sự rồi sau mới thôi. 
Thực Lục. 

245.- CHỮ HÁN: Tâm Văn viết: Cổ nhân: "Thiên nhân chi tú viết Anh, vạn nhân chi anh viết Kiệt". Nột tử hữu trí hạnh văn ư tùng lâm giả, khởi phi cận anh kiệt chi sĩ. Đăn năng cần nhi tham cứu khử hư thủ thực, các đắc kỳ dụng, tắc viện vô đại tiểu, chúng vô đa quả, giai ṭng kỳ hóa hỹ. Tích Phong Huyệt chi Bạch Đinh, Dược Sơn chi Ngưu Lạn, Thường Công chi Đại Mai, Từ Minh chi Kinh Sở, đương thử chi thời, du du chi đồ, nhược dĩ vị mặo tương cầu, tất kiến nhi di chi. Nhất đán cứ sư tịch đăng hoa tọa, vạn chỉ vi nhiễu phát huy Phật Tổ thúc thế chi quang minh. Tùng lâm thực bất vọng phong nhi mỹ, thẩn tiền bối giai phụ hoàn vỹ chi tài anh kiệt chi khí, thượng năng khu khu ư vị ngộ chi tế, hàm sĩ nhẫn cấu, hỗn thế đồng ba nhi nhược thị, huống giáng tư giả ư. Ô hô! Cổ do kim dă, thử do bỉ dă, nhược tất đăi Dược Sơn, Phong Huyệt, nhi sư chi, thiên tải nhất ngộ dă. Nhược tất đăi Đại Mai, Từ Minh nhi hữu chi, bách thế nhất xuất dă. Cái sự hữu ṭng vi nhi chí trứ, công hữu tích tiểu nhi thành đại. Vị kiến bất học nhi hữu thành, bất tu nhi tiên đạt giả. Nhược ngộ thử lư sự khả cầu hữu khả trạch, đạo khả học, đức khả tu, tắc thiên hạ chi sự hà thi nhi bất khả. Cổ văn: "Tri nhân thành nan. Thánh nhân sở bệnh, huống kỳ tha hồ"
Dữ Trúc Am thư. 

245.- DỊCH NGHĨA: Tam Văn nói: Cổ nhân nói (1): "Cái tốt gấp ngàn người gọi là Anh, cái mạnh gấp muôn người gọi là Kiệt". Kẻ nột tử có trí tuệ hạnh kiểm tiếng khen lừng lẫy trong chốn tùng lâm, người đó há không phải là anh kiệt sao? Kẻ nột tử nếu hay siêng năng tham cứu, bỏ hư lấy thực, để thích ứng với chỗ dùng của nó, th́ tự viện không cứ lớn hay nhỏ, chúng bất luận nhiều hay ít, đều theo đó mà giáo hóa được vậy. Xưa kia, ngài Phong Huyệt (2) đến chùa Bạch Đinh, Dược Sơn (3) đến chùa Ngưu Lạn, Thường Công (4) đến núi Đại Mai, Từ Minh (5) đất Kinh Sở, đương thời đó những kẻ ngù ngờ đều chỉ chuộng địa vị và dung mạo để t́m hiểu, khi thấy các ngài, tất nhiên họ phảiđem tâm chê bai. Nhưng một ngày kia các vị ấy ngồi vào chiếu Pháp tịch, bước lên ṭa sư tọa, có hàng vạn người vây quanh, làm rực rỡ ánh quang minh của Phật Tổ trong đời mạt pháp, th́ khi đó trong chốn tùng lâm ai ai cũng phục tùng, ví như gió lướt trên cỏ vậy. Huống hồ, các bậc tiền bối đều sẵn có tài năng hoàn vỹ, chí khí anh kiệt, các ngài cũng c̣n phải ấp ủ ở chỗ lúc chưa gặp thời cơ, phải ngậm đắng nuốt cay, ngụp lặn cùng với làn sóng đời mà ch́m nổi đó thôi, đâu có phải là các ngài kém tài xuất chúng vậy. Than ôi! Người đời xưa cũng như đời nay, người này cũng như người kia, nếu phải đợi các ngài Dược Son, Phong Huyệt làm thầy, th́ ngàn năm mới gặp một lần được. Nếu phải đợi các ngài Đại Mai, Từ Minh làm bạn, th́ hàng trăm năm mới có một vị ra đời. Bởi lẽ, sự việc có từ ở chỗ vi tế đến rơ rệt, công lao có từ chỗ góp nhỏ mà thành lớn, chưa từng thấy ai không học mà thành tài, không tu mà thành đạt. Nếu hiểu được lư này, th́ họ có thể t́m được thầy, chọn được bạn, học được đạo, tu được đức, và cũng có thể thi thố được bất cứ việc ǵ trong thiên hạ. Cổ nhân nói: "Biết người thật là khó. Thánh nhân c̣n lo, huống là người khác vậy ư". 
Thư gởi Trúc Am. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Cổ nhân nói: Người có tài gấp mười người gọi là Tuyến, gấp trăm người gọi là Tuấn, gấp ngàn người gọi là Anh, gấp vạn người gọi là Kiệt. 
(2) Phong Huyệt: Phong Huyệt Diên Chiếu thiền sư, pháp tự của Nam Viễn Tuệ Ngu thiền sư, ngài đến đất Bạch Đinh giáo nơi này chỉ trong bảy năm trời, mà nơi đây đă trở thành chốn tùng lâm có tên tuổi. 
(3) Dược Sơn: Dược Sơn Ḥa thượng khi ngài đến đất Phong Dương, thấy một miếng đất ở chân núi rất đẹp, liền khuyến hóa chủ đất xin lập một đạo tràng để tọa thiền, nhưng v́ những người quanh vùng không ưa, ngài liền vào chuồng ḅ ở nhà người khác tọa thiền, người chủ bất đắc dĩ đưổi ḅ ra ngoài, rồi phóng hỏa đất chuồng ḅ đó, nhưng sau ngài lại ngồi tọa thiền ở trên nền chuồng ḅ. Quan Thái Thú nghe biết liền bán quả núi đó, và dành cho ngài một miếng đất để kiến thiết am, sau cái am đó trở thành chùa Ngưu Lạn và biến thành một tùng lâm lớn. 
(4) Thường Công: Pháp Thường thiền sư núi Đại Mai. Lúc đầu ngài tham thiền ở Đại Tịch thiền sư và hỏi ngài Đại Tịch: "Thế nào là Phật?". Đại Tịch trả lời: "Tâm tức là Phật". Thiền sư liền đại ngộ và sau hoằng hóa ở núi Đại Mai, đồ chúng theo học rất đông đảo. 
(5) Từ Minh: Ngài Từ Minh chỉ lưu ngụ ở đất Kinh sở một thời gian, mà đồ chúng các nơi kéo về tham học rất đông. 

246.- CHỮ HÁN: Tâm Văn viết: Giáo ngoại biệt truyền chi đạo, chi giản chí yếu, sơ vô tha thuyết. Tiền bối hành chi bất nghi, thư chi bất dịch. Thiên Hỷ gian Tuyết Đậu dĩ biện bác chi tài, mỹ ư biến lộng cầu tân trác sảo, kế Phần Dương vi Tụng cổ, lung lạc đương thế học giả, tông phong do thử nhất biến hỹ. Đăi Tuyên Chính gian, Viên Ngộ hựu xuất kỷ ư ly chi vi Bích Nham Tập. Bỉ thời mại cổ thuần toàn chi sĩ, như Ninh Đạo giả, Tử Tâm, Linh Nguyên, Phật Giám chư lăo, giai mạc năng hồi kỳ thuyết. Ư thị tân tiến hậu sinh, chân trọng kỳ ngữ. Chiêu tụng mộ tập vi chi chí học. Mạc hữu ngộ kỳ phi giả. Thống tai! Học giả chi tâm thuật hoại hỹ. Thiệu Hưng sơ, Phật Nhật nhập Mân kiến học giả khiên chi bất phản. Nhật tŕ nguyệt vụ tẩm tí thành tệ. Tức toái kỳ, bản tịch kỳ thuyết, dĩ chí khử mê viện nịch, thích phồn vát kịch, tồi tà hiển chánh, đặc nhiên nhi chấn chi. Nột tử sảo tri kỳ phi nhi bất phục mộ. Nhi nhiên Phật Nhật cao minh viễn kiến thừa bi nguyện lực cứu mạt pháp chi tệ, tắc tùng lâm đại hữu khả úy giả hỹ. 
Dữ Trương Tử Thiều thư. 

246.- DỊCH NGHĨA: Tâm Văn nói: Đạo của giáo ngoại biệt truyền rất giản dị thiết yếu. Lúc ban đầu ngoài thuyết đó ra không có thuyết nào khác, nên các bậc tiền bối thực hành đạo đó không chút ngờ vực, giữ ǵn đạo đức đó không chi thay đổi. Nhưng vào khoảng niên hiệu Thiên Hỷ (1), có ngài Tuyết Đậu lại dùng tài biện bác, đem ư đẹp để biến đổi thuyết đó, khéo léo t́m thêm ư mới và tiếp nối thêm tư tưởng của Phần Dương, làm thành những bài "Tụng cổ" lung lạc người học đạo đương thời, nên tông phong do đó mà một lần bị biến đổi. Kịp tới khoảng niên hiệu Tuyên Chính (2), ngài Viên Ngộ lại đưa ra ư riêng của ḿnh, tách rời"Tụng cổ" làm thành "Bích Nham Tập". Thời đó lại có những bậc lăo thành hoàn toàn thuần túy hơn cả cổ nhân, như các ngài Ninh Đạo (3), Tử Tâm, Linh Nguyên, Phật Giám, cũng đều không thể kéo lại thuyết đó. Bởi thế những kẻ tân tiến hậu sinh, quư trọng những từ ngữ đó, sớm tụng tối tập, bảo đó là học thuyết chí đạo, chẳng có một ai biết đó là trái. Đau đớn thay! Tâm thuật của người học đạo bị bại hoại vậy. Tới năm đầu niên hiệu Thiệu Hưng (4), có ngài Phật Nhật vào đất Mân, thấy người học đạo ham đắm Bích Nham Tập, mà không sao kéo họ trở lại lối cũ được, ngày qua tháng lại dần dần trở nên tệ hại, ngài liền đem đập nát ván in của Bích Nham Tập, cực lực bài bác học thuyết đó. Dĩ chí, ngài c̣n mở chỗ mê mờ, cứu kẻ đắm đuối, nên ngài cắt bỏ chỗ phiền toái, gạt bỏ ư rườm rà, tồi tà hiển chánh, bỗng nhiên cái đạo của giáo ngoại biệt truyền được chấn hưng trở lại. Lúc này kẻ nột tử mới biết Bích Nham Tập là trái, nên không ái mộ nữa. Nếu ngài Phật Nhật không phải là bậc cao minh thấy xa nh́n rộng, nương theo sức bi nguyện, cứu tệ thời mạt pháp th́ chốn tùng lâm đă xảy ra những việc rất đáng ghê sợ. 
Thư gởi Trương Tử Thiều. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Thiên Hỷ: Niên hiệu đời vua Chân Tôn. 
(2) Tuyên Chính: Niên hiệu đờivua Tống Hưng Tôn, lấy chữ Tuyên Ḥa và Chính Ḥa. 
(3) Ninh Đạo: Khai Phúc Đạo Ninh thiền sư, pháp tự của Ngũ Tổ Diễn thiền sư. 
(4) Thiệu Hưng: Niên hiệu vua Cao Tôn đời Nam Tống. 

247.- CHỮ HÁN: Chuyết Am Phật Chiếu Quang Ḥa thượng, sơ tham Tuyết Đường ư Tiến Phúc. Hữu tướng giả nhất kiến nhi khí chi. Vị Tuyết Đường viết: "Chúng trung Quang Thượng tọa, đầu lô phương chính, quảng tảng phong ghi, thất xứ b́nh măn, tha nhật tất vi Đế vương sư". Hiếu Tôn Hoàng đế Thuần Hy sơ, triệu đối xứng chỉ, lưu Nội Quán Đường thất túc, đăi ngộ ưu dị, độ việt tiền lai, tứ Phật Chiếu chi danh văn vu thiên hạ. 
Kư Văn. 

247.- DỊCH NGHĨA: Chuyết Am (1) Phật Chiếu Quang Ḥa thượng, lúc đầu tham thiền ngài Tuyến Đường ở chùa Tiến Phúc. Có thầy tường chợt thấy ngài, đoán biết ngài là bậc đạo khí, liền bảo với Tuyết Đường: "Trong đại chúng có Quang Thượng tọa, đỉnh đầu vuông thẳng, trán rộng mép đầy, bảy nơi (2) cân đối, ngày kia ắt phải là thầy của Đế vương". Năm đầu niên hiệu Thuần Hy đời vua Hiếu Tôn, ngài được triệu vào kinh hỏi đạo, ứng đối hợp ư nhà vua, được vua lưu lại Nội Quảng Đường bảy ngày đêm đăi ngộ rất ưu ái đặc biết, vượt quá lễ nghi thông thường từ trước tới nay, và ban cho tên hiệu là Phật Chiếu, tiếng của ngài lúc đó được bay khắp thiên hạ. 
Kư Văn. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Chuyết Am: Phật Chiếu Đắc Quang thiền sư, pháp tự của Đại Tuệ Cảo thiền sư. 
(2) Bảy nơi: .Hai tay, hai chân, hai vai và đỉnh đầu. 

248.- CHỮ HÁN: Chuyết Am vị Ngu Doăn Văn Thừa tướng viết: Đạo đại đỗng nhiên bản vô ngu trí, thí như Y Lă khởi canh ngư vi Đế vương sư. Cự khả dĩ trí ngu giai cấp nhi năng nghĩ tai. Tuy nhiên phi đại trượng phu, kỳ thục năng dữ yên. 
Quảng Lục. 

248.- DỊCH NGHĨA: Chuyết Am bảo Thừa tướng Ngu Doăn Văn (1): Đại đạo b́nh đẳng, vốn không phân biệt kẻ ngu người trí, ví như Y Doăn (2), Lă Vọng (3) là người cày ruộng câu cá mà làm thầy Đế vương. Đâu có thể lấy trí ngu giai cấp mà hay phỏng theo được. Tuy vậy, nhưng nếu không phải là bậc đại Trượng phu th́ đâu có thể dự vào đạo lớn đó được. 
Quảng Lục. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Ngu Doăn Văn: Họ Ngu tên Doăn Văn, tên chữ là Bản Phủ, có tài thơ phú, đời vua Hiếu Tôn được phong làm Thừa tướng. 
(2) Y Doăn: Họ Y tên Doăn, ông lo Trung quốc không có đấng vua hiền, than thân trách phận không thi thố được cái đạo của ḿnh, liền ẩn thân cày ruộng ở Hữu Sằn, vua Thang ba lần đến mời, bái phong làm quan Thừa tướng. 
(3) Lă Vọng: Họ Khương, tên Thượng, tên chữ là Tử Nha, ông làm nghề câu cá bến Vị Thủy ở Bàn Khê, huyện Bảo Kê. Sau được Chu Văn Vương phong chức Lă Hầu và ban hiệu là Thái Công Vọng. 

249.- CHỮ HÁN: Chuyết Am viết: Toàn Dă Am thường ngôn: "Hoàng Long Nam thiền sư khoan hậu trung tín, cung nhi từ ái, độ lượng ngưng viễn, bác học hiệp văn. Thường đồng Vân Phong Duyệt du Hồ Tương tỵ vũ thụ hạ. Duyệt ky cứ tương đối. Nam độc nguy tọa". Duyên sân mục thị chi viết: "Phật Tổ diệu đạo bất thị tam gia thôn cổ miếu lư thổ địa tác tử mô dạng". Nam khể thủ tạ chi, nguy tọa du thậm cổ Hoàng Thái Sử Lỗ Trực xung chi viết: "Nam Công động tĩnh bất vong cung kính, chântùng lâm chủ giả". 
Huyễn Am Tập. 

249.- DỊCH NGHĨA: Chuyết Am nói: Toàn Dă Am thường nói: "Hoàng Long Nam thiền sư là người khoan hậu trung tín, cung nghiêm từ ái, độ lượng xâu xa, học rộng nghe nhiều. Thường cùng với Vân Phong Duyệt đi vân du tới đất Hồ Tương. Nhân một hôm hai người tránh mưa dưới gốc cây, Vân Phong duyệt ngồi xổm, Hoàng Long Nam ngồi xếp bằng, cùng đối diện nhau. Duyệt thiền sư quắc mắt nh́n Nam thiền sư nói: "Diệu đạo của Phật Tổ không phải là mô dạng tiêu cực như thần Thổ địa trong cổ muếu của một thôn nhỏ chỉ có ba nóc nhà". Nam thiền sư nghe rồi chỉ cúi đầu tạ lễ và lại ngồi nghiêm chỉnh hơn. V́ vậy Hoàng Thái Sử Lỗ Trực khen rằng: "Nam thiền sư luôn luôn giữ lễ cung kính trong lúc động cũng như tĩnh, thật là vị chủ chốn tùng lâm". 
Huyễn Am Tập. 

250.- CHỮ HÁN: Chuyết Am viết: "Xuất thân lâm chúng, yếu dĩ trí, khiển vọng trừ t́nh tu tiên giác. Bội giác hợp trần tắc tâm mông tế hỹ. Trí ngu bất phân tắc sự vẫn loạn hỹ. 
Hoa Giám Tự thư. 

250.- DỊCH NGHĨA: Chuyết Am nói: Nếu muốn dấn thân tới đại chúng, cần phải dùng đến trí huệ, muốn bỏ vọng trừ t́nh, cần phải dùng đến giác ngộ. Nếu khi đă trái giác hợp trần th́ châm tâm bị lu mờ. Khi không phân trí ngu th́ công việc phải rối loạn. 
Thư gởi Hoa Giám Tự (1). 

CHÚ THÍCH: 

(1) Hoa Giám Tử: tức Linh Nham Hoa thiền sư, pháptự của Thái B́nh Cần thiền sư. 

251.- CHỮ HÁN: Chuyết Am viết: Phật Giám trụ Thái B́nh, Cao Am sung Duy Na. Cao Am xỉ thiếu khí hào, hạ thị chư phương thiểu hữu khả kỳ ư giả. Nhất nhật trai thời minh kiền, kiến hành giả biệt khí trí thực vu Phật Giám tiền. Cao Am xuất đường lệ thanh viết: "Ngũ bách Tăng thiện trí thức tác giá ban khứ tựu, hà dĩ phạm mô hậu học". Phật Giám như bất văn kiến. Đăi hạ đường tuân chi, năi thủy tê thái. Cái Phật Giám tố hữu tỳ tật bất thực du. Cố Cao Am hữu quư. Nghệ phương trượng cáo thoái. Phật Giám viết: "Duy Na sở ngôn thậm đáng. Duyên Huệ Cần bệnh năi nhĩ. Thường văn Thánh nhân ngôn: Dĩ lư thông chư ngại, sở thực kư bất ưu ư chúng, toại bất nghi dă. Duy Na chí khí minh viễn, tha nhật đương trụ thạch tông môn. Hạnh vật dĩ thử giới đới". Đăi Phật Giám thiên Trí Hải. Cao Am quá Long Môn, hậu vi Phật Nhăn chi tự. 

251.- DỊCH NGHĨA: Chuyết Am nói: Phật Giám trụ tŕ chùa Thái B́nh, Cao Am sung chức Duy Na. Cao Am tuổituy c̣n nhỏ, nhưng chí khí anh hào, coi rẻ chư phương tôn túc, ít có người vừa ư ḿnh. Một hôm đánh kiền trùy thụ trai. Cao Am trong thấy thị giả mang một món thức ăn riêng để trước mang Phật Giám. Cao Am liền ra trước Tăng đường nói lớn: "Nơi đây có 500 Tăng chúng mang danh bậc thiện trí thức, lại làm cái việc như thế, c̣n lấy ǵ làm mô phạm cho kẻ hậu học". Phật Giám coi như không nghe thấy. Cao Am vội xuống nhà dưới hỏi đầu đuôi, mới biết rơ món thức ăn đó là rau thủy tê (rau ngổ). V́ lẽ Phật Giám vốn có bệnh đau lá lách, không dùng được dầu. Cao Am có vẻ hổ thẹn, tới trước Phương trượng đường xin cáo lui chức Duy Na. Phật Giám nói: "Duy Na nói rất xác đáng, v́ Huệ Cần này có bệnh nên mới làm thế. Ta thường nghe Thánh nhân nói: Lấy lư để thông suốt mọi chướng ngại. Món ăn ta dùng đă không hơn chúng, th́ c̣n ngờ vực chi nữa. Duy Na là người có chí khí thông minh xa vời, ngày sau sẽ là trụ thạch của tông môn. Ta mong rằng ông chớ nên thắc mắc v́ việc nhỏ mọn này, mà cứ giữ chức Duy Na như cũ". Đến khi Phật Giám dời Trụ tŕ chùa Trí Hải, Cao Am cũng qua ở chùa Long Môn, sau Cao Am được nối pháp ngài Phật Nhăn. 

252.- CHỮ HÁN: Chuyết Am viết: Đại phàm dữ quan viên luận đạo thù tạc. Tu thị sản khứ tri giải vật linh tha tọa tại kḥa quật lư. Trực yếu đan minh hướng thượng nhất trước tử. Diệu Hỷ tiên sư thường ngôn: "Sĩ đại phu tương kiến hữu vấn tức đối, vô vấn tức bất khả. Hựu tu thị cá trung nhân thủy đắc". Thử ngữ hữu bổ ư thời, bất thương trụ tŕ chi thể: "Thiết nghi tư chi". 
Dữ Hưng Hóa Phổ Am thư. 

252.- DỊCH NGHĨA: Chuyết Am nói: Đạiphàm cùng với các quan viên luận đạo thù tạc thi thố, nên phải cắt bỏ chỗ hiểu biết rườm rà, chớ để họ thấu suốt vào tận tâm can mà phải đú ngay ra một vấn đề đan thuần hướng thượng rơ ràng. Diệu Hỷ tiên sư thường nói: "Khi cùng với kẻ đại phu tương kiến, họ có hỏi liền đáp ngay, không hỏi th́ không nên và hơn thế nữa, lăi cần phải biết họ là người cùng một chí hướng v́ đạo mới được". Lời nói đó rất bỏ ích cho thời nay và không phương hại đến đại thể của trụ tŕ: "Cần nên suy nghĩ vậy". 
Thư gởi Hưng Hóa Phổ Am (1). 

CHÚ THÍCH: 

(1) Hưng Hóa Phổ Am: Viễn Châu Từ Hóa Phổ Am Ấp Tức thiền sư, pháp tự của Hoàng Long Trung thiền sư. 

253.- CHỮ HÁN: Chuyết Am viết: Đại chi mỹ giả thiện dưỡng vật, chủ chi nhân giả thiện dưỡng sĩ. Kim xưng trụ tŕ giả, đa bất dĩ chúng nhân vi tâm, cấp kỷ sở dục, ố văn thiện ngôn, hiếu tế quá ác, tứ hành tà hạnh. Đồ khoái nhất thời chi ư, phản bị tiểu nhân tựu kỳ hiếu ố thủ chi, tắc trụ tŕ chi đạo, an đắc bất nguy hồ. 
Dữ Hồng Lăo thư. 

253.- DỊCH NGHĨA: Chuyết Am nói: Vùng đất tốt khéo nuôi được thực vật, người chủ nhân khéo gây được hiền sĩ. Người nay xưng là trụ tŕ, phần nhiều không lấy tâm đại chúng làm tâm ḿnh, mà chỉ vội vă theo ư muốn riêng tư, không thích nghe lời hay, ưa che đậy lỗi xấu, buông lung theo tà hạnh. Luống chỉ thỏa măn cái ư nhất thời, rồi lại bị những kẻ tiểu nhân nhắm vào chỗ ưa ghét đó mà bắt chước làm theo, th́ cái đạo của trụ tŕ há lại không nguy vong vậy ư?". 
Thư gởi Hồng Lăo (1). 

CHÚ THÍCH: 

(1) Hồng Lăo: Tùy Châu Đại Hồng Lăo Nột Tử Chứng thiền sư, pháp tự của Đại Quy Quả thiền sư. 

254.- CHỮ HÁN: Chuyết Am vị Dă Am viết: Thừa Tướng Tử Nham cư sĩ ngôn: "Diệu Hỷ tiên sư, b́nh sinh dĩ đạo đức tiết nghĩa dũng cảm vị tiên. Khả thân bất khả sơ, khả cận bất khả bách, khả sát bất khả nhục, cư xứ bất dâm, ẩm thực bất nhục, lâm sinh tử họa hoạn, thị chi như vô. Chính sở vị Can Tương, Mạc Da nan dữ tranh phong, đăn ngu thường khuyết nhĩ". Hậu như Tử Nham chi ngôn. 
Huyễn Am Kư Văn. 

254.- DỊCH NGHĨA: Chuyết Am bảo Dă Am (1): Thừa Tướng Tử Nham cư sĩ nói: "Diệu Hỷ tiên sư b́nh sinh lúc nào cũng lấy đạo đức tiết nghĩa dũng cảm làm đầu, chỉ ưng thân mà không ưng sơ, ưng gần mà không ưng bức bách, ưng giết mà không ưng nhục. Chốn ở không xa hoa, ăn uống không nồng hậu. Tới lúc sanh tử họa hoạn cũng coi đó như không. Thật đúng với truyện Can Tương, Mạc Da (2) khó cùng tranh phong với nhau được, nhưng đăn hiềm v́ lo có thương tổn lầm lỗi vậy". Về sau quả nhiên đúng như lời của Tử Nham đă nói. 
Huyễn Am Kư Văn. 

CHÚ THÍCH: 

(1): Đoạn này phần đầu có ư tán thán ngài Diệu Hỷ, phần cuối e Diệu Hỷ bị thương khuyết v́ trí tuệ kiến văn của ngài quá sắc bén. 
(2) Can Tương, Mạc Da: Theo Ngô Việt Xuân Thu, Can Tương, Mạc Da là hai danh kiếm. Can Tương người đất Ngô. Mạc Da là vợ của Can Tương. Can Tương làm kiếm, Mạc Da cắt tóc và móng tay của ḿnh cho vào trong ḷ vàng sắt liền chảy thành kiếm. Kiếm dương gọi là Can Tương, kiếm âm gọi là Mạc Da. V́ đương thời Can Tương và Mạc Da là hai vợ chồng, và cùng là người đúc kiếm, nên kiếm hùng gọi là Can Tương, kiếm thư gọi là Mạc Da. 

255.- CHỮ HÁN: Chuyết Am viết: Dă Am trụ tŕ, thông nhân tính chi thủy chung, minh tùng lâm chi đại thể. Thường vị dư ngôn: "Vị nhất phương chủ giả, tu trạch hữu chí hạnh nột tử tương dũ kỳ tán, do phát chi hữu sơ, diện chi hữu giám, tắc lợi bệnh hảo xú bất khả đắc nhi ẩn hỹ. Như Từ Minh đắc Dương Kỳ, Mă Tổ đắc Bách Trượng, dĩ thủy đầu thủy, mạc chi nghịch dă". 
Huyễn Am Tập. 

255.- DỊCH NGHĨA: Chuyết Am nói: Dă Am khi làm trụ tŕ, thông suốt được trước sau của t́nh người, hiểu rọ được đại thể của tùng lâm. Ngài thường bảo vớita rằng: "Người làm chủ một phương, cần phải lựa chọn kẻ nột tử có trí hạnh, để cùng giúp đỡ, cũng như tóc có lược chải và mặt có gương soi, th́ hay dỡ tốt xấu không thể nào dấu được. Cũng như Từ Minh có Dương Kỳ, Mă Tổ được Bách Trượng, chẳng khác ǵ nước ḥa với nước, không có chi phương hại nhau vậy". 
Huyễn Am Tập. 

256.- CHỮ HÁN: Chuyết Am viết: Mạc học phu thụ, đồ quư tiện mục, chung mạc năng cứu kỳ áo diệu. Cố viết: "Sơn bất yếm cao, trung hữu trùng nhan tích thủy, hải bất yếm thâm, nội hữu tứ minh cửu uyên. Dục cứu đại đạo, yếu tại cùng kỳ cao thâm, nhiên hậu khả dĩ chiếu chúc u vi, ứng biến bất cùng hỹ"
Dử Cận Lăo thư. 

256.- DỊCH NGHĨA: Chuyết Am nói: Người học đạo đời mạt pháp chỉ học phần ngọn, hấp thụ phần ngoài da, quư trọng phần tai nghe, khinh rẻ nơi mắt thấy, rốt cục không thể cứu ḿnh được chỗ cao xa nhiệm mầu của đạo. Nên có câu: "Núi càng cao th́ trong đó có tích lũy, chồng chất nhiều hang xanh trùng điệp, động sâu đá lạ. Biển càng sâu th́ trong đó có hàm chứa bốn bể (1), chín nguồn (2). Nếu muốn nghiên cứu đại đạo cần phải cùng tận hết chỗ cao sâu đó, vậy sau mới có thể lấy đó mà chiếu sáng chỗ u huyền vi diệu và ứng biến không cùng. 
Thư gởi Cận Lăo (3). 

CHÚ THÍCH: 

(1) Bốn bể: Dịch ở chữ tứ minh,có nghĩa là bốn bể ở Đông, Tây, Nam, Bắc. 
(2) Chín nguồn: Dịch ở chữ cửu uyên, ḷng sâu nhất dưới đáy biển có chín lần xoáy chuyển, nên gọi là chín nguồn. 
(3) Cận Lăo: Tịnh Không Trí Cận thiền sư, pháp tự của Phật Chiếu Quang thiền sư. 

257.- CHỮ HÁN: Chuyết Am vị Vưu Thị Lang viết: Thánh hiền chi ư hàm hoăn nhi lư minh, ưu du nhi sự hiển. Sở dụng chi sự bất kỳ dĩ tốc hành, nhi hứa dĩ tri cửu, bất hứa dĩ tất tiến, nhi hứa dĩ thứ cơ, dụng thị thôi thánh hiền chi ư, cố năng cận vạn thế nhi tŕ vô quá thất giả năi nhĩ. 
Huyễn Am Tập. 

257.- DỊCH NGHĨA: Chuyết Am bảo Vưu Thị Lang (1): Ư của Thánh hiền th́ hàm súc ḥa hoăn mà lư sáng tỏ, thung dung nhàn nhă mà sự rơ ràng, chỗ dùng việc không mong chóng thành, mà hứa hẹn ở ư chí lâu bền, công việc không mong quyết tiến, mà hứa hẹn ở hy vọng công việc thành tựu. Dùng điều đó để t́m ư của Thánh hiền, cho nên người học đạo có thể giữ ǵn điều đó suốt cả đời mà không lầm lỗi, chính là nghĩa thế vậy. 
Huyễn Am Tập. 

CHÚ THÍCH: 

(1): Đoạn này ư nói bổn phận của người học đạo là phải tiến không lùi bước trước khó khăn, nhưng cũng không nên mong việc tốc thành và cấp tiến sẽ gặp nhiều trở ngại mà có phương hại. 

258.- CHỮ HÁN: Thị Lang Vưu Công viết: Tổ Sư dĩ tiền vô trụ tŕ sự. Kỳ hậu ứng thế hành đạo bách bất đắc dĩ. Nhiên cư tắc hồng tất thủ tế phong vũ, thực tắc thô lệ thủ sung cơ lỗi. Tân khổ tiều tụy hữu bất kham kỳ ưu, nhi vương công đại nhân chi hữu nguyện kiến nhi bất khả đắc giả. Cố kỳ sở kiến tập giai lỗi lỗi lạc lạc kinh thiên động địa. Hậu thế bất nhiên, cao đường quảng hạ, mỹ y phong thực, di chỉ như ư, ư thị ba tuần chi đồ, thủy dương dương nhiên động kỳ tâm, tư thư quyền môn, dao vỹ khất lân, thậm giả sảo thủ hào đoạt, như chính chú quặc kim, bất phục tri thế gian hữu nhân quả sự. Diệu Hỷ thử thư, khởi đặc vị Bác Sơn thiết, kỳ niêm tận chư phương, tự lai tập khí, bất di hào phát, như ẩm Thương Công Thượng tŕ chi thủy, đồng kiến can phủ. Nhược năng tín thụ phụng hành, an dụng biệt cầu Phật pháp. 
Kiến Linh Ẩn Thạch Khắc. 

258.- DỊCH NGHĨA: Thị Lang Vưu Công nói: Các bậc Tổ Sư trở về trước, vốn không có lập chức trụ tŕ. Nhưng sau đó, v́ sự bức bách ứng thế hành đạo nên bất đắc dĩ phải đặt ra. Tuy vậy nhưng chỗ ở của các ngài th́ lợp bằng cỏ lá, đủ để che mưa gió, ăn th́ chỉ dùng cơm gạo thô để đở đói khát. Thật là vất vả tiều tụy, có vẻ như không kham nỗi sự lo âu, thế mà vương công đại nhân tới, mong được yết kiến các ngài mà cũng không được gặp. Cho nên chỗ kiến lập việc ǵ của các ngài đều là những sự tài cán lỗi lạc, kinh thiên động địa. Người đời sau lại không thế, thênh thang ở nhà cao cửa rộng, ăn cơm ngon, mặc áo đẹp, muốn sai khiến việc chi chỉ cần nhếch mép trỏ tay. Bởi thế bọn ma Ba Tuần (1) mới hay dương dương tự đắc, rung động tâm can, nhộn nhịp trước cửa quyền quư, vẫy đuôi xin ban bố t́nh thương. Tệ hơn nữa chúng c̣n dùng chước khéo để chiếm lấy, cậy quyền hành để cướp đoạt, giống như kẻ cắp vàng (2) giữa ban gnày, không biết đến thế gian này cũng có luật nhân quả. Lá thư này của Diệu Hỷ, chẳng những chỉ gởi riêng cho chùa Bác Sơn, mà trong đó ngài c̣n nhắc tới hết tất cả những tập khí của các người trụ tŕ của chư phương từ trước dẫn lại không sót một mảy may, ví như người uống nước Thượng tŕ của Thương Công (3), thông suốt được gan ruột con người. Nếu ai hay tin theo và thực hành lời dặn này th́ hà tất phải cầu đến Phật pháp ở nơi nào khác nữa. 
Khắc ở bia đá chùa Linh Ẩn. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Ba tuần: Tiếng Phạn là Pàpi. Tàu dịch là ác ma. Thứ ma vương luôn luôn mong dứt hại tuệ căn của con người. Chúng xuất hiện ngăn cản đạo nghiệp khi Phật Thích Ca sắp thành đạo. 
(2) Ăn cắp vàng: Truyện Liệt Tử nói: Xưa kia có một người nước Tề thích có vàng. Một buổi sáng nọ, nhân lúc chợ đang đông người, liền đến một tiệm vàng, lén lấy trộm vàng rồi đi. Chủ tiệm vàng bắt giữ người đó lại và nói: "Tại sao trước mặt đám đông người như vậy, mà ngươi dám đánh cắp vàng". Người kia trả lời: "Khi tôi lấy vàng, tôi không thấy người nào cả, mà chỉ lấy vàng thôi". Đại ư đoạn này răn những người tham lợi mà quên hết điều sĩ nhục, chỉ biết có lợi mà quên mất cái hại. 
(3) Nước Thượng tŕ: Sử kư chép: Phía Đông đất Lư Việt, có ông Biển Thước họ Tần tên là Hoàn, người quận Bột Hải. Thiếu thời làm quảng lư một nhà trọ, nhân có người khách tên là Tang Quân, thấy ông Biển Thước có tướng kỳ lạ độc đáo, nên ông thường lui tới gặp gỡ. Sự tới lui như vậy đă hơn mười năm. Nhân lúc hôm Tang Quân mời Biển Thước cùng ngồi một nơi yên tịnh và nói với Biển Thước: "Tôi có một phương thuốc gia truyền, nay tuổi đă già, tôi muốn truyền lại cho ông, nhưng ông không được tiết lậu cho ai". Biển Thước kính cẩn vâng lời. Tang Quân liền lấy phong thuốc ở trong bọc ra trao cho Biển Thước mà bảo: "Ông hăy lấy nước Thượng tŕ mà uống thuốc này, chỉ nội trong 21 ngày ông sẽ thấy được sự vật". Tang Quân liền lấy hết thuốc trao cho Biển Thước rồi bỗng nhiên biến mất. Biển Thước theo đúng như lời dạy và uống trong ṿng 21 ngày, quả nhiên Biển Thước trông thấy rơ được người ngoài bức tường và sau đó ông coi bệnh cho bệnh nhân, ông thấy suốt được cả chỗ trưng kết trong ngũ tạng. V́ thế ông nổi danh về tài chẩn mạch, và là một danh y lúc đương thời. Chú thích: Nước thượng tŕ là thứ nước hạt móc ban đem c̣n đọng ở trên lá trúc cành cây chưa rơi xuống mặt đất. 

259.- CHỮ HÁN: Thị Lang Vưu Công vị Chuyết Am viết: Tích Diệu Hỷ trung hưng Lâm Tế chi đạo ư điêu linh chi thu, nhi tính thượng khiêm hư, vị thường tŕ sính kiến lư, b́nh sinh bất xu quyền thế, bất cẩu lợi dưỡng. Thường viết: "Vạn sự bất khả dật dự vi, bất khả sa thái tŕ. Cái hữu lợi ư thời nhi tiện ư vật giả, hữu kỳ quá nhi vô kỳ công giả. Nhược túng chi sa dật tắc bất tế hỹ". Bất tiếu bội phục tư ngôn, toại vi chung thân chi giới. Lăo sư tạc giả tao ngộ chúa thượng lưu túc Quán Đường, thực vị Phật pháp chi hạnh. Thiết kư bất quyện bi nguyện, sử tiến thiện chi đồ khai minh, nhậm chúng chi đạo ích đại, thứ cơ hậu sinh văn bối, bất mưu cận tập, các hoài viễn đồ, khởi bất vi tùng lâm chi lợi tế hồ. 
Nhiên Thị Giả Kư Văn. 

259.- DỊCH NGHĨA: Thị Lang Vưu Công nói với Chuyết Am: Xưa kia, Diệu Hỷ là người trung hưng đạo pháp của Lâm Tế, giữa lúc cảnh tượng điêu tàn, thế mà ngài rất chuộng sự nhúng nhường, thanh thản, chưa từng theo đuổi về sự tranh biện đấu lư. B́nh sinh ngài không xu phụ kẻ quyền thế, không màng lợi dưỡng. Ngài thường nói: "Mọi việc không thể buông ḷng túng ư mà làm được, không thể xa hoa bừa băi mà giữ được. Bởi lẽ có việc th́ có lợi cho thời mà cũng có ích cho vật, nhưng cũng có việc chỉ có lỗi lần mà không có công lao. Nếu ta cứ phóng túng sự việc ở chỗ túng ư xa hoa th́ không thể thành tựu được". Kẻ bất tiếu này nhớ măi lời nói ấy và lấy đó làm điều răn trọn đời. Lăo sư trước kia đă được gặp chúa thượng và được lưu lại nghỉ ở Quán Đường, thật là cái may cho Phật pháp. Tôi tha thiết mong mỏi ngài không quên tâm bi nguyện, để con đường tiến thiện được khai minh, con đường gánh vác việc chúng càng rộng lớn, ngơ hầu đề pḥng kẻ hậu sinh văn bối không mưu cầu học tập những việc thiển cận mà đều ấp ủ mưu đồ những việc cao xa, th́ đó há không phải là việc lợi tế cho tùng lâm vậy ư?". 
Nhiên Thị Giả (1) Kư Văn. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Nhiên Thị Giả: Khả Am Nhiên thiền sư, pháp tự của Đại Tuệ Cảo thiền sư. 

260.- CHỮ HÁN: Mật Am Kiệt Ḥa thượng viết: Tùng lâm hưng suy tại ư lễ pháp, học giả mỹ tại hồ tục tập. Sử cổ chi nhân sào cư huyệt sử giản ẩm mộc thực hành chi ư kim thời, tắc bất khả dă. Sử kim chi nhân phong y văn thái, phạn lương khiết ph́, hành chi ư cổ thời diệc bất khả dă. An hữu tha tai, tập bất tập cố. Phù nhân triêu tịch kiến giả vi thường, tất vị thiên hạ sự chính nghi như thử. Nhất đán khu chi tựu bỉ khứ thử, phi độc sinh nghi nhi bất tín, tương khủng diệc bất ṭng hỹ. Dụng thị quan chi, nhân t́nh an ư sở tập hài kỳ vị kiến, thị kỳ thướng t́nh, hựu hà túc quái. 
Dữ Thi Ty Gián thư. 

260.- DỊCH NGHĨA: Mật Am Kiệt(1) Ḥa thượng nói: Chốn tùng lâm hưng hay suy yếu đều lệ thuộc ở lễ pháp. Người học đạo tốt hay xấu đều do ỏ tập tục. Cổ nhân ở hang lỗ, uống nước suối, ăn trái cây, nếu đem những việc đó mà ứng dụng cho thời nay th́ không thể được. Người đời nay mặc áo đẹp, ăn cơm gạo tám, dùng thức ăn ngon, nếu đem những việc đó áp dụng cho thời xưa cũng không thể được. Vậy chẵng có chi là khác lạ đâu? Chỉ do tập quên hay không tập quen đó thôi. Ôi! Sự thấy biết của con người từ buổi sớm đến buổi chiều cho đó là việc thường, tất nhiên họ sẽ bảo những công việc trong thiên hạ, chính đều là như thế. Nhưng nhất đán họ phải xê dịch từ chỗ này qua chỗ khác thấy mọi sự vật đổi thay, th́ chẳng những họ chỉ sinh thêm nghi ngờ mà c̣n không tin, và c̣n sợ họ cũng chẳng làm theo là khác. Nếu dùng việc đó quan sát sự việc, nên ta biết t́nh con người v́ an định ở chỗ tập theo thói quen, mà sợ hăi những sự việc chưa thấy biết. Đó cũng là thường t́nh có chi là quái gở. 
Thư gởi Thi Ty Gián (2). 

CHÚ THÍCH: 

(1) Mật Am Kiệt: Tú Minh Thiên Đồng Mật Am Hàm Kiết thiền sư, pháp tự của Ứng Am Ḥa thiền sư, đời thứ 17 phái Nam Nhạc. 
(2) Thi Ty Gián: Hoặc có tên là Thi Sư Mặc, người đời Tống. 

261.- CHỮ HÁN: Mật Am vị Ngộ Thủ Tọa viết: Tùng lâm trung duy Triết nhân khinh nhu thiểu lập. Tử chi tài khí hoành đại, lượng độ uyên dung, chi thượng đoan xác, gia dĩ kiến địa ẩn mật. Tha nhật vị dị ngôn, đản tự thao hối vô lộ khuê các. Hủy phương ngơa hợp tŕ dĩ trung đạo, vật vi thể lợi thiểu uổng. Tức chi bất xuất trần lao nhi tác Phật sự dă. 
Dữ Tiếu Am thư. 

261.- DỊCH NGHĨA: Mật Am bảo Ngộ Thủ Tọa(1): Trong chốn tùng lâm, duy có người đất Triết Giang, phần nhiều khinh bạc hèn yếu, ít ai hay tự lập. Ông tuy cũng là người đất Triết Giang, nhưng có tài khí rộng lớn, lượng độ bao dung, chí hướng ngay thực, thêm vào đó kiến thức lại vững vàng, tương lai ông ra sao chưa tiện nói nhưng ông phải nên tự kín đáo, chớ để lộ khuê dác, bửa h́nh vuông lợp lại làm ngói (2), giữ ǵn đúng trung đạo. Ông chớ v́ thế lợi mà khuất phục mảy may. Làm được như thế tức là ở ngay cơi trần lao này mà vẫn làm Phật sự vậy. 
Thư gởi Tiếu Am. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Ngộ Thủ Tọa: Linh Ẩn Tiểu Am Liễu Ngộ thiền sư, pháp tự của Mật Am Kiệt thiền sư. 
(2): Công việc của người làm ngói, trước hết nặn theo h́nh tṛn, rồi bửa h́nh làm bốn, th́ ngói trở thành vuông, bửa h́nh tṛn mà làm h́nh vuông, hợp h́nh vuông mà làm h́nh tṛn, tượng trưng cho nghĩa hàm dung khoan dụ vậy. 

262.- CHỮ HÁN: Mật Am viết: Ưng Am tiên sư thường ngôn: "Hiền bất tiếu tương phản bất đắc bất trạch. Hiền giả tŕ đạo đức nhân nghĩa dĩ lập thân. Bất tiếu giả chuyên thế lợi trá nịnh dĩ dụng sự. Hiền giả đắc chí tất hành kỳ sở học, bất tiếu giả xử vị đa thiện tự tâm. Đố hiền tật năng thị dục cẩu tài, mỹ sở bất chí. Thị cố đắc hiền tất tùng lâm hưng, dụng bất tiếu tắc phế. Hữu nhất vu tư bất năng an tĩnh". 
Kiến Nhạc Ḥa Thượng thư. 

262.- DỊCH NGHĨA: Mật Am nói: Ưng Am tiên sư thường nói: "Người hiền kẻ bất tiếu tương phản nhau nên cần phải lựa chọn. Người hiền giữ đạo đức nhân nghĩa để lập thân, kẻ bất tiếu ham thế lợi trá nịnh để dụng sự. Người hiền khi đắc chí tất làm theo chỗ đă học của ḿnh, kẻ bất tiếu ở ngôi vị nào cũng chỉ chiếm cứ riêng tư. Ghét kẻ hiền, ghen người tài, ham thị dục, cầu lợi dưỡng, làm bất cứ một việc ǵ họ cũng chẳng từ nan. Thế nên, được người hiền th́ tùng lâm hưng thịnh, dùng kẻ bất tiếu th́ tùng lâm suy vi. Nếu trong tùng lâm có một kẻ bất tiếu xen vào tất nhiên nơi đó không thể an tĩnh được". 
Thư gởi Nhạc Ḥa Thượng (1). 

CHÚ THÍCH: 

(1) Nhạc Ḥa thượng: Linh Ẩn Tùng Nguyên Sùng Nhạc thiền sư, pháp tự của Mật Am Kiệt thiền sư. 
(2) : . 

263.- CHỮ HÁN: Mật Am viết: Trụ tŕ hữu tam mạc, sự phồn mạc cụ, vô sự mạc tầm, thị phi mạc biện. Trụ tŕ nhân đạt thử tam sự, tắc bất bị ngoại vật sở hoặc hỹ. 
Tuệ Thị Giả Kư Văn. 

263.- DỊCH NGHĨA: Mật Am nói: Trụ tŕ có ba việc chớ nên làm: việc nhiều chớ nên sợ, không việc chớ bày đặt, phải trái chớ nên biện. Người trụ tŕ một khi đă thấu suốt được ba điều này th́ không bị ngoại vật làm mê hoặc. 
Tuệ Thị Giả Kư Văn (1). 

CHÚ THÍCH: 

(1) Tuệ Thị Giả: Ngu Cực Tuệ thiền sư, pháp tự của Huân Thạch thiền sư. 

264.- CHỮ HÁN: Mật Am viết: Nột tử lư hành khuynh tà, tố hữu bất thiện chi tích giả. Tùng lâm hỗ tri, thử bất túc tật, duy chúng nhân vị chi hiền, nhi nội thực bất tiếu giả, thành khả tật dă. 
Dữ Phổ Từ thư. 

264.- DỊCH NGHĨA: Mật Am nói: Kẻ nột tử làm theo những lời lệch lạc gian tà, vốn có những dấu vết không hay, trong chốn tùng lâm ai nấy đều biết rơ, th́ người đó chưa đủ để lo. Duy có người mà chúng nhân ai cũng cho là hiền mà trong tâm họ lại mang đ́ều bất tiếu, người đó mới thực đáng lo vậy. 
Thư Gởi Phổ Từ (1). 

CHÚ THÍCH: 

(1) Phổ Từ: Tuyết Phong Sùng Thánh Phổ Từ Uẩn Văn thiền sư, pháp tự của Kính Sơn Cảo thiền sư. 

265.- CHỮ HÁN: Mật Am vị Thủy Am viết: Nhân hữu hủy nhục, đương thuận thụ chi, cự khả khinh thính thanh ngôn vọng trần quản kiến. Đại xuất tiện nịnh hữu loại, tà sảo đa phương, hoài hiểm bí giả hiếu sính tư tâm, khởi sai kỵ giả, thiên phế công nghị. Cái thử bối xu thượng hiệp xúc, sở kiến ám đoản. Cố dĩ tự dị vi bất quần, dĩ trở nghị vi xuất chúng. Nhiên kư tri ngă sỡ dụng thung thị, nhi hủy báng cố tự tại bỉ, cửu nhi tự minh, bất tu biện bạch. Diệc bất tất chủ ngă chi thị nhi kiết xúc ư nhân, tắc thứ khả dĩ vi lâm hạ nhân dă. 
Dữ Thủy Am thư. 

265.- DỊCH NGHĨA: Mật Am nói với Thủy Am (1): Con người có lúc bị hủy nhục, nên phải thuận theo chịu đựng, há lại nông nổi nghe lời người ta nói, vội tŕnh bày bừa băi chỗ quản kiến của ḿnh. Đại để kẻ phỉnh nịnh có nhiều loại, gian dối có nhiều cách. Kẻ mang tâm dối trá bất b́nh th́ thích buông thả tâm tư, kẻ tạo mối nghi ngờ ghen ghét th́ hay bỏ bẵng công nghị. Bởi lẽ, chỗ xu thượng của bọn đó th́ chật hẹp g̣ bó, chỗ thấy nghe của họ th́ mờ tối thiển cận, nhưng mà chúng vẫn đem chỗ tự khác lạ của họ làm bất quân (mọi người không bằng), lấy chỗ ngăn ngừa công luận của họ làm xuất chúng (hơn tất cả mọi người). Nhưng khi ta đă biết chỗ dùng việc của ta là hoàn toàn phải, mà sự huỷ báng lẽ cố nhiên là tự ở kẻ khác, th́ ít lâu sau việc đó tự nó sẽ rơ ràng, không cần phải biện bạch, và cũng bất tất phải chủ trương lẽ phải ở ta mà bới móc đụng chạm đến người khác. Được như thế th́ người đó khả dĩ làm người trong chốn tùng lâm được. 
Thư gởi Thủy Am. 

CHÚ THÍCH: 

(1): Đại ư đoạn này nói, người học đạo giữ được ư chí thuần nhất th́ không quản ngại chi sự khen chê hủy báng. 

266.- CHỮ HÁN: Tự Đắc Huy Ḥa thượng viết: Đại phàm nột tử, thành nhi hướng chính, tuy ngu diệc khả dụng. Nịnh nhi hoài tà, tuy trí chung vi hại. Đăi xuất lâm hạ nhân, tháo tâm bất chính, tuy hữu tài năng nhi bất khả lập hỹ.
Kiến Giản Đường thư. 

266.- DỊCH NGHĨA: Tự Đắc Huy Ḥa thượng nói: Đại phàm kẻ nột tử, ḷng thành thật mà hướng về đường chính, tuy là kẻ ngu si cũng có thể dùng được việc, tâm xiểm nịnh lại theo đường lối tà, tuy là kẻ trí tuệ chung qui cũng chỉ làm hại đạo. Đại để những người trong chốn tùng lâm, nếu mang ḷng bất chính, tuy là kẻ có tài năng nhưng kết cục cũng vẫn không thể lập thân được. 
Kiến Giản Đường. 

267.- CHỮ HÁN: Tự Đắc viết: Đại Trí thiền sư đặc sáng Thanh qui, phù cứu mạt pháp Tỳ khưu bất chính chi tệ. Do thị tiền hiền tuân thừa, quyền quyền phụng hành. Hữu giáo hóa, hữu điều lư, hữu thủy chung. Thiệu Hưng chi bản, tùng lâm thượng hữu lăo thành giả, năng thủ điền h́nh, bất cảm tư tu nhi khứ tả hữu, cận niên dĩ lai, thất kỳ tông tự. Cương bất cương, kỷ bất kỷ. Tuy hữu cương kỷ an đắc nhi chính chư. Cố viết: "Cử nhất cương tắc chúng mục trương, thỉ nhất cơ tắc vạn sự huy". Đăi hồ cương kỷ bất chấn, tùng lâm bất hưng. Duy cổ nhân thể bản dĩ chính mạt. Đăn ưu pháp độ chi bất nghiêm, bất ưu học giả chí thất sở. Kỳ sở chính tại ư công. Kim chư phương chủ giả, dĩ tư hỗn công. Dĩ mạt chính bản. Thượng giả cẩu lợi bất dĩ đạo, hạ giả tắc lợi bất dĩ nghĩa. Thượng hạ mậu loạn, tân chủ hỗn hào. An đắc nột tử hướng chính nhi tùng lâm chi hưng hồ. 
Dữ Vưu Thị Lang thư. 

267.- DỊCH NGHĨA: Tự Đắc nói: Đại Trí thiền sư đặc biệt chế ra Thanh qui, cốt để cứu giúp cái tệ hại bất chính của các Tỳ khưu đời mạt pháp. Bởi thế các bậc tiền hiền noi theo và truyền thừa, răm rắp làm theo, có giáo hóa, có điều lư, có trước sau. Từ cuối niên hiệu Thiệu Hưng trở về sau, trong các chốn tùng lâm c̣n có các bậc lăo thành, vẫn giữ được khuôn mẫu pháp tắc, không dám giây phút nào gạt bỏ những qui điều. Nhưng những năm gần đây, trong chốn tùng lâm làm mất hết cương kỷ đầu mối, cương chẳng ra cương, kỷ chẳng ra kỷ. Tuy có giữ được cương kỷ chăng nữa, nhưng cũng chẳng được đúng đắn như xưa. Cho nên nói: "Nhắc một mối giềng lưới, th́ mọi mắt lưới đều mở rộng, hư một cơ hội th́ muôn việc điều hỏng". Hầu như cương kỷ không đưuợc chấn chỉnh th́ tùng lâm không được hưng thịnh. Duy có cổ nhân, mới xét gốc để chỉnh ngọn, nên các ngài chỉ lo pháp độ không được nghiêm chỉnh, không lo người học đạo không có nơi để tu, mà nơi chốn đó chính phải là nơi công cộng. Nay những người làm chủ ở các nơi, đều lấy việc tư lẫn vào việc công, lấy phần ngọn để chỉnh phần gốc. Người trên chỉ vụ lợi không nghĩ tới đạo, kẻ dưới th́ cướp lợi không đoái đến nghĩa. Trên dưới rối bời, khách chủ hỗn loạn, làm sao các nột tử có thể quay về đường chính mà làm hưng thịnh tùng lâm được vậy ư? 
Thư gởi Vưu Thị Lang. 

268.- CHỮ HÁN: Tự Đắc viết: Lương ngọc vị phẫu, ngơa thạch vô vị. Danh kư vị tŕ, nô đài tương tạp. Đăi kỳ phẫu nhi oánh chi tŕ nhi thí chi, tắc ngọc thạch nô kư phân hỹ. Phù nột tử chi hiền đức nhi vị dụng dă, hỗn ư trù nhân trung kính hà biện diệt. Yếu tại cao minh chi sĩ, dĩ công luận cử chi, nhậm dĩ chức sự, nghiệm dĩ tài năng, trách dĩ thành sự, tắc dữ dong lưu quưnh nhiên bất đồng hỹ. 
Dữ Hoặc Am thư. 

268.- DỊCH NGHĨA: Tự Đắc nói: Ngọc quí khi c̣n nằm trong quặng nào khác chi sỏi đá, ngựa kư khi chưa dong ruổi đường trường th́ lẫn cùng với ngựa nô, ngựa đài (ngựa hèn). Tới khi bửa quặng đá để mài giũa viên ngọc, dong ruổi đường trường để thử con ngựa kư, th́ phân biệt ngay ngọc đá, ngựa nô ngựa kư rơ ràng. Ôi! Kẻ nột tử hiền đức, khi chưa dùng đến th́ họ lẫn lộn ở đám đông người, làm sao mà biện biệt được. Vậy nên, điều cốt yếu là các bậc cao minh phải đem công luận cất nhắc họ, đem họ ra làm các chức vụ, để chiêm nghiệm tài năng trách nhiệm công việc, th́ khác xa hẳn với bọn tầm thường vậy. 
Thư gởi Hoặc Am (1). 

CHÚ THÍCH: 

(1) Hoặc Am: Hoặc Am thiền sư, pháp tự của Hộ Quốc Cảnh Nguyên thiền sư. 

269.- CHỮ HÁN: Hoặc Am Thể Ḥa thượng, sơ sam Thử Am Nguyên Bá Đại, ư Thiên Thai Hộ Quốc. Nhân thượng đường cử Bàng Mă Tuyển Phật tụng. Chí thử thị tuyển Phật tràng chi cú. Thử Am hát chi. Hoặc Am đại ngộ. Hữu đầu cơ tụng viết: "Thương lượng cực xứ kiến đề mục, đồ lộ cùng biên nhập thí tràng. Niêm khởi hào đoan phong vũ khoái, giá hồi bất tác Thám hoa lang" Tự thử nặc tích Thiên Thai, Thừa tướng Tiền Công, mộ kỳ vi nhân, năi dĩ Thiên Phong Chiêu Đề, miễn linh ứng thế. Hoặc Am văn chi viết: "Ngă bất giải huyền dương đầu măi cẩu nhục dă". Tức tiêu độn khứ. 

269.- DỊCH NGHĨA: Hoặc Am Thể (1) Ḥa thượng, khi mới tới tham thiền ngài Thủ Am Nguyên Bá Đại ở chùa Hộ Quốc núi Thiên Thai. Nhân khi lên pháp đường, Hoặc Am đem bài tụng "Mă Bàng Tuyển Phật" (2) ra để hỏi. Khi nhắc đến câu: "Đây là tuyển Phật tràng", ngài Tử Am quát lên một tiếng lớn, Hoặc Am nhân thế đại ngộ, liền trích bài tụng đầu cơ rằng: 

Suy lường thấu triệt thấy tiêu đề, 
Tuyển Phật tràng thi quyết một bề. 
Ngọn bút tung hoành mưa gió cuốn, 
Thám Hoa chức ấy chẳng ham mê. 

Rồi ngay sau đó, ngài ẩn tích ở núi Thiên Thai. Quan Thừa Tướng Tiền Công (3) mến ngài là danh nhân muốn thỉnh ngài về trụ tŕ chùa Chiêu Đề ở Thiên Phong và khuyên ra ứng thế. Hoặc Am nghe biết, ngài nói: (4) "Tôi không biết treo đầu dê bán thịt chó". Ngài liền trốn đi ngay đêm ấy. 

CHÚ THÍCH: 

(1): Đoạn này cốt để minh thị bậc trí thức có đủ tuệ nhăn th́ chỉ cần một lời hay nói nửa câu cũng đủ để làm cơ duyên liễu ngộ. 
(2) Bàng Mă Tuyển Phật: Bàng cư sĩ có tới tham học hai ngài Mă Tổ và Thạch Đầu. Một hôm Bàng cư sĩ hỏi ngài Mă Tổ: "Người không cùng muôn pháp làm bạn là người thế nào?". Mă Tổ trả lời: "Đợi khi nào ông uống một ngụm hết cả nước sông Giang Tây, ta sẽ nói cho ông hay". Bàng cư sĩ đại ngộ, bèn tŕnh bài kệ: 

Mười phương cùng tụ hội, 
Mọi người học vô vi. 
Đây là tuyển Phật tràng, 
Tâm không cập đệ quy. 

(3) Tiền Công: tên là Tiền Tượng Tiên, tên chữ là Tư Nguyên, người đất Tô Châu. 
(4) Treo đầu dê bán thịt chó: Bạch Vân Đoan thiền sư một hôm ở trong trượng thất có nhắc đến bài thị chúng của Vân Môn, trong đại chúng đều không ai khế ngộ, nên đem hỏi ngài Ngũ Tổ Diễn. Ngài trả lời: "Đó là chuyện treo đầu dê bán thịt chó". 

270.- CHỮ HÁN: Càn Đạo sơ, Hạt Đường trụ Quốc Thanh, nhân kiến Hoặc Am tán Viên Thông tượng viết: "Bất y bản phận, năo loạn chúng sanh. Chiêm chi ngưỡng chi, hữu nhăn như manh. Trường An phong nguyệt quán kim tích, na cá nam nhi mô bích hành". Hạt Đường kinh hỷ viết: "Bất vị Thử Am hữu thử nhi". Tức biến sách chi, toại đắc ư Giang Tâm, cố ư trù nhân trung, thỉnh sung đệ nhất tọa. 
Thiên Thai Dă Lục. 

270.- DỊCH NGHĨA: Năm đầu niên hiệu Càn Đạo (1), Hạt Đường (2) trụ tŕ chùa Quốc Thanh, nhân một hôm thấy Hoặc Am làm bài tán khắc vào chân tượng ngài Viên Thông rằng: 

Không y bản phận, năo loạn chúng sanh, 
Ngắm đấy nh́n đấy, có mắt như manh. 
Trường An trăng gió xưa nay tỏ, 
Sờ vách mà đi kẻ lữ hành. 

Hạt Đường vừa kinh ngạc vừa mừng và nói: "Đâu biết Thử Am có đứa trẻ này". Ngài liền t́m kiếm khắp nơi, cuối cùng gặp Hoặc Am ở đất Giang Tam, liền thỉnh sung vào ngôi vị thứ nhất đám đông người. 
Thiên Thai Dă Lục. 

CHÚ THÍCH: 

(1): Đại ư đoạn này chỉ rơ cách trọng vọng người xưa có tài đức. 
(2) Hạt Đường: Linh Ẩn Hạt Đường Tuệ Viễn thiền sư, pháp tự của Viên Ngộ Cần thiền sư. 

271.- CHỮ HÁN: Hoặc Am Càn Đạo sơ, phiên nhiên phỏng Hạt Đường ư Hổ Khâu. Cô Tô đạo tục văn kỳ cao phong, tức nghệ quận cử thỉnh trụ thành trung Giác Báo. Hoặc Am văn chi viết: "Thử Am tiên sư chúc ngă tha nhật phùng Lăo Thọ chỉ, kim nhược hợp phù khế hỹ". Toại hân nhiên ứng mệnh. Cái Giác Báo cựu danh Lăo Thọ am dă. 
Hổ Khâu Kư Văn. 

271.- DỊCH NGHĨA: Năm đầu niên hiệu Càn Đạo (1), Hoặc Am bỗng nhiên tới thăm Hạt Đường ở chùa Hổ Khâu. Kẻ đạo người tục đất Cô Tô, nghe biết phong cách cao qúy của Hoặc Am, liền nô nức tới thăm và thỉnh ngài trụ tŕ chùa Giác Báo ở trong thành. Hoặc Am nhận lời và nói: "Thủ Am tiên sư trước khi tịch, ngài có dặn ta, ngày sau này nếu gặp chùa Lăo Thọ th́ ở, nay h́nh như hợp với sấm kư". Ngài liền vui vẻ ứng mệnh. Bởi lẽ chùa Giác Báo xưa kia có tên là Lăo Thọ Am. 
Hổ Khâu Kư Văn. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Càn Đạo: Niên hiệu đời vua Hiếu Tôn nhà Nam Tống. 

272.- CHỮ HÁN: Hoặc Am nhập viện hậu. Thí chủ thỉnh tiểu sam. Viết: "Đạo thường nhiên nhi bất du. Sự hữu tệ nhi tất biến. Tích Giang Tây, Nam Nhạc chư Tổ. Ngược kê cổ vi huấn, khảo kỳ đáng phủ, tŕ dĩ trung đạo, vụ hợp nhân tâm, dĩ ngộ vi tắc. Sở dĩ tố phong lăng nhiên, đại kim vị dẫn. Nhược ước nột tăng môn hạ, ngôn tiền tiến đắc khuất ngă tông phông, cú hạ phân minh trầm mai Phật Tổ. Tuy nhiên như thị, hành đáo thủy cùng xứ, tọa khán vân khởi thời". Do thị truy tố hỷ sở vị văn, qui giả như thị. 
Ngữ Lục Dị Thử. 

272.- DỊCH NGHĨA: Hoặc Am sau khi đă trụ tŕ chùa Giác Báo, nhân có thí chủ thỉnh ngài tiểu sam (thuyết pháp). Ngài nói: "Đạo vẫn thường trụ vắng lặng mà không biến đổi, sự có cũ mới tốt xấu nên có biến thiên. Xưa kia các Tổ Giang Tây, Nam Nhạc đều thường chiêm nghiệm lời của cổ nhân làm bài học, để xem xét sự việc nên làm, giữ đúng mức trung đạo, cốt hợp với ḷng người, lấy liễu ngộ làm pháp tắc. Vậy nên phong cách thuần phác của các ngài vẫn siêu việt cho đến tận đời nay vẫn chưa mất. Nếu đem ước vào môn hạ của nột tăng đây, th́ những người tuy đă tiến được ở phần đầu của câu nói, đó chỉ là những kẻ làm khuất tông phong ta, những người tuy hiểu rơ được phần cuối của câu nói, th́ đó cũng là những kẻ chôn ch́m Phật Tổ. Tuy thế, những ai đi được tới chỗ cùng tận của bến nước, th́ khi đó cũng có thể ngồi an tĩnh để thưởng thức mây bay". Bởi thế, tăng tục rất mừng rỡ được nghe, và qui tụ về với ngài đông như họp chợ. 
Ngữ Lục Dị Thử. 

273.- CHỮ HÁN: Hoặc Am kư lĩnh trụ tŕ, sĩ thứ hấp nhiên lai khứ. Nột tử truyền chỉ Hổ Khâu. Hạt Đường viết: "Giả cá sơn man đỗ ảo tử, phóng phạ manh thiền trị nễ na, nhất đội dă Hồ tinh". Hoặc Am văn chi dĩ kệ đáp viết: "Sơn man đỗ oảo đắc năng tăng, lĩnh chúng khuông đồ tự bất tằng. Việt cách đảo niêm thiều chửu bính, phạ manh thiền trị dă hồ tăng". Hạt Đường tiếu nhi dĩ. 
Kư Văn. 

273.- DỊCH NGHĨA: Hoặc Am đă nhận lănh chức trụ tŕ (1), kẻ sĩ thứ qui tụ về với ngài rất đông. Các nột tử đưa tin này đến ngài Hạt Đường chùa Hổ Khâu. Ngài thấy vậy liền nói đùa: 

Gă kia ương ngạnh tựa sơn man, 
Víu thứ thiền mù chạy dọc ngang. 
Đánh phách gơ sênh ra vẻ lạ, 
Bảo ban một bọn dă hồ tinh. 

Hoặc Am sau khi nghe biết chuyện, cũng viết bài kệ đáp lại: 

Sơn man ương ngạnh ghét mà chi, 
Lănh chúng khuông đồ mới trụ tŕ. 
Cán chổi ngược chiều như việt cách, 
Thiền mù vịn lấy chữa tăng si. 

Hạt Đường chỉ cười mà thôi. 
Kư Văn. 

CHÚ THÍCH: 

(1): Đại ư đoạn này tŕnh bày về cách dùng chỗ vi diệu của cổ nhân để khen chê hóa độ. 

274.- CHỮ HÁN: Hoặc Am vị Thị Lang Tằng Công Đăi viết: Học đạo chi yếu hành thạch chi định vật, tŕ kỳ b́nh nhi dĩ, thiên trọng khả hồ. Suy tiền cận hậu kỳ thiên nhất dă. Minh thử khả học đạo hỹ. 
Kiến Tằng Công thư. 

274.- DỊCH NGHĨA: Hoặc Am bảo Thị Lang Tằng Công Đăi: Yếu chỉ của sự học đạo, cũng như quả cân để định vật nặng nhẹ, chỉ cần giữ nó cho thăng bằng. Nếu nó nghiêng nặng về một bên nào đó có thể được chăng? Đẩy về phía trước hoặc dịch về phía sau là bị nghiêng về một bên rồi. Người hiểu rơ được nghĩa này mới có thể học đạo được. 
Thư gởi Tằng Công. 

275.- CHỮ HÁN: Hoặc Am viết: Đạo đức năi tùng lâm chi bản, nột tử năi đạo đức chi bản. Trụ tŕ nhân khí yếm nột tử, thị vong đạo đức giả. Đạo đức kư vong, tương hà dĩ tu giáo hóa chỉnh tùng lâm dụ học lai. Cổ nhân thể bản dĩ chính mạt. Ưu đạo đức chi bất hành, bất ưu tùng lâm chi thất sở. Cố viết: "Tùng lâm bảo ư nột tử, nột tử bảo ư đạo đức". Trụ tŕ vô đạo đức tắc tùng lâm phế hỹ. 
Kiến Giản Đường thư. 

275.- DỊCH NGHĨA: Hoặc Am nói: Đạo đức tức là gốc của tùng lâm, nột tử là gốc của đạo đức. Người trụ tŕ chán ghét và bỏ rơi kẻ nột tử tức là quên mất đạo đức. Nếu đă quên mất đạo đức th́ c̣n đem ǵ để sửa sang việc giáo hóa, chỉnh đốn chốn tùng lâm, dụ dẫn kẻ tới học. Cổ nhân xét gốc để chỉnh ngọn, nên chi lo không học hành được phần đạo đức, chứ không lo mất nơi chốn của tùng lâm. Cho nên nói: "Tùng lâm giữ ǵn nột tử, nột tử giữ ǵn đạo đức". Người trụ tŕ mà không có đạo đức,th́ chốn tùng lâm phải hoang phế vậy. 
Thư gởi Giản Đường. 

276.- CHỮ HÁN: Hoặc Am viết: Phù vi thiện tri thức yếu tại tri hiền bất tại tự hiền. Cố thương hiền giả ngu, tế hiền giả ám, tật hiền giả đoản. Đắc nhất thân chi vinh, bất như đắc nhất thế chi danh, đắc nhất thế chi danh, bất như đắc nhất hiền nột tử. Sử hậu học hữu sự, tùng lâm hữu chủ dă. 
Dữ Viên Cực thư. 

276.- DỊCH NGHĨA: Hoặc Am nói: Ôi! Làm sao bậc thiện trí thức, điều cốt yếu là ở chỗ biết người hiền, không phải ở chỗ tự ḿnh là người hiền. Cho nên kẻ hại người hiền là kẻ ngu, che đậy người hiền là kẻ tối, ghét người hiền là kẻ dỡ. Gây được cái vinh hiển cho thân ḿnh, không bằng gây được cái tiếng thơm một đời. Được tiếng thơm một đời không bằng gây được một kẻ nột tử có hiền đức, để kẻ hậu học có thầy, chốn tùng lâm có chủ vậy. 
Thư gởi Viên Cực (1). 

CHÚ THÍCH: 

(1) Viên Cực: Ẩn Tĩnh Viên Cực Ngạn Sầm thiền sư, pháp tự của Vân Cư Như thiền sư. 

277.- CHỮ HÁN: Hoặc Am thiên Tiêu Sơn chi tam tải. Thực Thuần Hy lục niên bát nguyệt tứ nhật dă. Tiên thị vi dạng, tức thủ thư tịnh nghiên nhất chích, biệt quận thú Thị Lang Tằng Công Đăi. Chí trung dạ hóa khứ. Công dĩ kệ điệu chi viết: "Phiên phiên chích lư trực tây phong, nhất vật hồn vô bá đại trung. Lưu hạ Đào hoằng tương để dụng. Lăo phu vô bút phán hư không". 
Hành trạng. 

277.- DỊCH NGHĨA: Hoặc Am dời về trụ tri chùa Tiêu Sơn được ba năm, đến ngày mồng 4 tháng 8, niên hiệu Thuần Hy năm thứ sáu, trước khi nhuốm bệnh, ngài liền viết một lá thư và gởi kèm theo một nghiên mực tới cáo biệt quan Quận thú Thị Lang Tằng Công Đăi, và vào nửa đêm hôm đó ngài thị tịch. Tằng Công Đăi có làm bài kệ truy điệu ngài như sau: 

Gió Tây phơi phới chiếc giày bay, 
Chẳng một vật dung túi vải này. 
Để lại nghiên sành thêm nhớ tiếc, 
Hư không bút tả dễ ai hay.(1) 
Hành Trạng. 

CHÚ THÍCH: 

(1): Câu này ư nói công đức lớn lao của Hoặc Am ví như hư không, khó thể đem bút nào diễn tả hết được. 

278.- CHỮ HÁN: Hạt Đường Viễn Ḥa thượng vị Hoặc Am viết: Nhân chi tài khí tự hữu đại tiểu, thành bất khả giáo. Cổ chử tiểu giả bất khả hoài đại, cánh đoản giả bất khả cập thâm. Si cưu dạ loát tảo sát thu hào. Chú xuất sân mục chi bất kiến khâu sơn, cái phận định dă. Tích Tĩnh Nam Đường truyền Đông Sơn chi đạo. Dĩnh ngộ u áo thâm thiết trứ minh. Đăi ứng thế trụ tŕ, sở chí bất chấn. Viên Ngộ tiên sư qui Thục. Đồng Phạm Ḥa thượng phỏng chi Đại Tùy. Kiến Tĩnh xuất lược phàm bách thỉ phế. Tiên sư chung bất vấn. Hồi chí trung lộ. Phạm viết: "Tĩnh dữ công vi đồng sam đạo hữu, vô nhất ngôn khải địch chi hà dă". Tiên sư viết: "Ứng thế lâm chúng yếu tại pháp lệnh vi tiên. Pháp lệnh chi hành tại kỳ trí năng. Năng dữ bất năng dĩ kỳ tố phận, khởi khả giáo dă". Phạm hạm chi. 
Hổ Khâu Kư Văn. 

278.- DỊCH NGHĨA: Hạt Đường Viễn Ḥa thượng bảo Hoặc Am: Tài khí của con người tự nó có lớn nhỏ, thực không thể do nơi giáo hóa. Cho nên, giấy nhỏ không thể gói được vật lớn, dây ngắn đâu múc được nước nơi giếng sâu. Chim cú mèo t́m ăn ban đêm, mắt nó có thể thấy được con bọ chét, xét được sợi lông tơ ở mùa thu. Nhưng về ban ngày, dù nó có dương mắt lên cũng không thấy được vật lớn như g̣ núi. V́ lẽ chúng đă có sự an bài phân định riêng biệt. Xưa kia Tĩnh Nam Đường (1) truyền bá đạo pháp của phái Nam Sơn, ngài là người thông minh dĩnh ngộ, u áo thâm huyền, thấu đáo khúc triết. Nhưng tới khi ra ứng thế trụ tŕ, ngài đến bất cứ nơi nào cũng không thể làm cho nơi đó chấn hưng được. Một hôm Viên Ngộ thiền sư trở về đất Thục, có ghé thăm chùa Đại Tùy, các ngài thấy Tĩnh Nam Đường là người hốt lược không cẩn thận, phàm trăm việc trong chốn tùng lâm đều bỏ bê. Tuy vậy mà tiên sinh không có một lời hỏi han khuyên nhủ. Khi về tới giữa đường, Phạm Ḥa thượng nói: "Tĩnh Nam Đường cùng với ngài là bạn đạo cùng tham học với nhau, sao ngài không ngỏ một lời mở bảo dắt dẫn". Tiên sư nói: "Ứng thế lănh chúng, điều cần yếu là pháp lệnh làm đầu. Thực hành pháp lệnh là do trí tuệ tài năng. Tài năng và không có tài năng là tố phận của mỗi người, đâu có thể giáo hóa được vậy". Phạm Ḥa thượng gật đầu. 
Hổ Khâu Kư Văn. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Tĩnh Nam Đường: Nam Đường Nguyên Tĩnh thiền sư chùa Đại Tùy, pháp tự của Ngũ Tổ Diễn thiền sư. 

279.- CHỮ HÁN: Hạt Đường viết: Học đạo chi sĩ yếu tiên chính kỳ tâm, nhiên hậu khả dĩ chính kỷ chính vật. Kỳ tâm kư chính tắc vạn vật định hỹ. Vi văn tâm trị nhi thân loạn giả. Phật Tổ chi giáo do nội cập ngoại, tự cận chi viễn. Thanh sắc hoặc ư ngoại, tứ chi chi tật giả. Vị kiến tâm chính nhi bất năng tri vật, thân chính nhi bất năng hóa nhân. Cái nhất tâm vi căn bản, vạn vật di chi diệp. Căn bản trác thực, chi diệp vinh mậu. Căn bản khô tụy, chi diệp yểu triết. Thiện học đạo giả trị nội dĩ dịch ngoại, bất tham ngoại dĩ hại nội. Cố đạo vật yếu tại thanh tâm. Chính nhân cố tiên chính kỷ, tâm chính kỷ lập nhi vạn vật bất ṭng hóa giả vị chi hữu giả. 
Dữ Nhan Thị Lang thư. 

279.- DỊCH NGHĨA: Hạt Đường nói: Kẻ sĩ học đạo cần biết chính tâm làm đầu, vậy sau mới có thể chính ḿnh và chính sự vật. Tâm đă chính th́ an định được vạn vật. Ta chưa hề nghe thấy tâm đă trị mà thân lại loạn. Giáo pháp của Phật Tổ do từ bên trong mà kịp đến bên ngoài, từ gần đến xa. Mê hoặc thanh sắc ở bên ngoài là bệnh của tứ chi, vọng t́nh phát khởi ở trong là bệnh của tâm phúc. Ta chưa bao giờ thấy tâm đă chính mà không hay giáo hóa được người. Bởi lẽ, lấy nhất tâm làm cội gốc, vạn vật làm cành lá, nếu cội gốc khỏe chắc th́ cành lá tốt tươi, cội gốc khô gầy, cành lá tất héo găy. Người khéo học đạo, trước hết phải trị nơi nội tâm để chống lại ngoại vật, đừng có tham ngoại vật để hại nội tâm. Cho nên muốn dẫn đạo được vật, điều cần thiết là ở chỗ tâm thanh tịnh. Muốn chính người tất nhiên trước phải chính ḿnh. Nếu tâm đă chính, ḿnh đă lập mà vạn vật không theo chỗ giáo hóa của ḿnh, th́ việc đó chưa từng có vậy. 
Thư gởi Nhan Thị Lang (1). 

CHÚ THÍCH: 

(1) Nhan Thị Lang: Người triều nhà Tống, tên là Nhan Kỳ Phục, tên chữ là Di Trọng, theo học ở Lă Vinh Công, làm chức quan Thị Lang. 

280.- CHỮ HÁN: Giản Đường Cơ Ḥa thượng, trụ Bà Dương Quản Sơn cận nhị thập tải. Canh lê phạn thử, nhược tuyệt ư ư vinh đạt. Thường hạ sơn văn lộ bàng ai khấp thanh. Giản Đường trắc nhiên đăi tuân chi. Nhất gia hàn tật, cận vong lưỡng khẩu, bần vô liễm cụ đặc tựu thi đại quan táng chi. Hương nhân cảm thán bất dĩ. Thị Lang Lư Công (Thung Niên) vị sĩ đại phu viết: "Ngô hương cơ lăo hữu đạo nột tử dă. Gia dĩ từ huệ cập vật, Quản Sơn an năng cửu xử hồ". Hội Khu Mật Uông (Minh Viễn), Tuyên Phủ chư lộ đạt vu Cửu Giang, Quận thú Lâm Công (Thúc Đạt), hư Viên Thông pháp tịch nghinh chi. Giản Đường văn mệnh năi viết: "Ngô đạo chi hành hỹ". Tức hân nhiên duệ trượng nhi lai. Đang tọa thuyết pháp viết: "Viên Thông bất khai sinh dược phố, đan đan chỉ măi tử miêu đầu. Bất tri na cá vô tư toán, khiết trược thông thân lănh hăn lưu". Chuy tố kinh dị. Pháp tịch nhân tư đại chấn. 
Lại Am Tập. 

280.- DỊCH NGHĨA: Giản Đường Cơ Ḥa thượng, trụ tŕ chùa Quản Sơn huyện Bà Dương đă gần hai mươi năm. Ngài chỉ ăn cơm gạo nếp, canh rau lê, dường như tuyệt ư nghĩ về đường vinh đạt. Một hôm ngài xuống núi, bên đường đi, nghe thấy tiếng khóc ai oán thảm thiết. Ngài động ḷng trắc ẩn, liền t́m tới hỏi đầu đuôi sự việc, mới biết rơ, đó là một gia đ́nh bị bệnh thương hàn, vừa chết mất hai người, nhưng v́ nhà quá nghèo, nên không có tiền sắm đồ liệm. Ngài vội tới chợ mua áo quan để mai táng cho họ. Người trong làng thấy thế ai nấy đều cảm thán nghĩa cử của ngài không ngớt. Quan Thị Lang Lư Công Thung Niên, nói với các sĩ đại phu rằng: "Làng tôi có Giản Đường Cơ lăo sư là người nột tử có đạo, lại thêm ḷng nhân huệ từ ái với mọi người, chùa Quản Sơn đâu phải là nơi cư trụ lâu dài của ngài vậy ư?". Ông liền họp quan Khu Mật Uông Minh Viễn cùng các quan tuần phủ các quận để tŕnh bày sự việc về quan Quận thú đất Cửu Giang là Lâm Công Thúc Đạt, để đón ngài về trụ tŕ chùa Viên Thông, v́ chùa này c̣n vắng ngôi pháp chủ. Ngài Giản Đường nghe biết và thuận mệnh nói: "Đạo của ta sẽ được thực hành vậy". Rồi ngài vui vẻ chống gậy tới nhậm chức trụ tŕ. Khi thăng ṭa thuyết pháp ngài nói: 

Viên Thông chẳng mở thuốc trường sinh, 
Chỉ bán đầu mèo chết lại tanh.(1) 
Vật ấy đâu hay suy tính được, 
Nuốt rồi ḿnh mẩy nhẹ tênh tênh. 

Tất cả hai hàng Tăng tục nghe thấy ai nấy đều kinh dị. Pháp tịch của ngài nhân thế mà vang dội khắp nơi. 
Lại Am Tập (2). 

CHÚ THÍCH: 

(1) Đầu mèo chết: Vật này vốn dĩ khi đă chết th́ tanh hôi lạ thường, nhưng đây lại cốt để tỷ dụ cho sự việc quí báu để hướng thượng. 
(2) Lại Am: Lại Am Dĩnh Nhu thiền sư, pháp tự của Kính Sơn Cảo thiền sư. 

281.- CHỮ HÁN: Giản Đường viết: Cổ giả tu thân trị tâm, tắc dữ nhân cộng kỳ đạo. Hưng sự lập nghiệp, tắc dữ nhân cộng kỳ công. Đạo thành công trứ tắc dữ nhân cộng kỳ danh. Sở dĩ đạo vô bất minh, công vô bất thành, danh vô bất vinh. Kim nhân tắc bất nhiên. Chuyên kỷ chi đạo, duy khủng nhân chí thắng ư kỷ. Hựu bất năng ṭng thiện vụ nghĩa, dĩ tự quảng dă. chuyên kỷ chi công, bất dục tha nhân hữu chi. Hựu bất năng nhậm hiền dữ năng, dĩ tự đại dă. Thị cố đạo bất miễn ư tế, công bất miễn ư tổn. danh bất miễn ư nhục. Thử tam giả năi cổ kim học giả chi đại phân dă. 

[b]281.- DỊCH NGHĨA: Giản Đường nói: Người xưa tu thân trị tâm th́ cùng với người cùng chung cái đạo đó. Dấy việc lập nghiệp th́ cùng với người cùng chung cái công đó. Khi đạo đă thành, công đă hiển th́ cùng với người cùng chung cái danh đó. Vậy nên đạo không có ǵ là chẳng sáng, công không có ǵ là chẳng thành, danh không có ǵ là chẳng vinh. Người đời nay th́ không thế, họ chỉ chuyên cái đạo vị kỷ, chỉ sợ người ta hơn ḿnh. Họ không biết theo điều thiện làm việc nghĩa để tự rộng. Chỉ chuyên đưa cái công về ḿnh, không muốn người khác dự phần vào đó. Họ lại không biết dùng người hiền cùng kẻ tài năng để tự lớn ḿnh. V́ thế, nên đạo không tránh khỏi sự che lấp, công không tránh khỏi sự tổn hại, danh không tránh khỏi sự nhục nhă. Đó là ba điều phân cách giữa người học đạo xưa và nay vậy.

282.- CHỮ HÁN: Giản Đường viết: Học đạo do như chủng thụ, phương vinh nhi phạt chi, khả dĩ cấp tiều tân. Tương thịnh nhi phạt chi, khả dĩ tác suy giác. Sảo tráng nhi phạt chi, khả dĩ sung doanh phương. Lăo đại nhi phạt chi, khả dĩ vi lương đống. Đắc phi thủ công viễn, nhi kỳ lợi đại hồ. Sở dĩ cổ chi nhân, duy kỳ đạo cố đại nhi bất hiệp, kỳ chí viễn áo nhi bất cận, kỳ ngôn sùng cao nhi bất ty. Tuy thích thời chở ngữ, cùng ư cơ hàn, đăi vong khâu hác, dĩ kỳ di phong dư liệt, cắng bách thiên niên hậu, nhân do dĩ vi pháp nhi truyền chi. Hướng sử hiệp đạo cẩu dung, nhĩ chí cầu hợp, ty ngôn sự thế, kỳ lợi chỉ vinh ư nhất thân, an hụu dư trạch, phổ cập ư hậu thế tai. 
Dữ Lư Thị Lang thư. 

282.- DỊCH NGHĨA: Giản Đường nói: Người học đạo cũng như trồng cây. Cây vừa tốt mà đă chặt, chỉ để cung cấp làm củi. Cây sắp lớn mà đă chặt, chỉ có thể cung cấp làm rui mè. Cây hơi lớn mà đă chặt, chỉ có thể sung làm kèo cột. Cây đă già và lớn mới chặt, th́ có thể dùng làm xà nóc. Như vậy, há chẳng phải là dùng công xa rộng th́ lợi đó cũng lớn vậy ư? Sở dĩ người xưa chỉ duy ở cái đạo đó cố nhiên là rộng lớn mà không chật hẹp, cái chí đó xa vời mà không thiển cận, coi lời nói đó cao thượng mà không thấp hèn. Tuy có lúc gặp phải thời thế dở dang, gặp lúc đói rét khốn cùng, hay dù phải vong thân nơi rừng núi, nhưng cái di phong dư liệt đó, cũng vẫn c̣n rạng rỡ suốt hàng trăm năm sau, người ta cũng vẫn c̣n lấy đó làm phép tắc mà truyền tŕ. Trước đây, giả sử những người xưa chỉ coi đạo một cách chật hẹp để cầu chỗ tạm dung, chỉ lập chí một cách thiển cận để cầu hợp, phát ngôn một cách ty tiện để chuộng quyền thế, th́ sự lợi ích đó chỉ vinh đạt ở một ḿnh ḿnh, đâu c̣n có ân huệ thấm nhuần phổ cập tới tận đời sau được. 
Thư gởi Lư Thị Lang. 

283.- CHỮ HÁN: Giản Đường Thuần Hy ngũ niên tứ nguyệt, tự Thiên Thai Cảnh Tinh Nham, tái pḥ Ẩn Tĩnh, Cấp Sự Ngô Công Phất, dật lăo vu Hưu Hưu Đường, họa Uyên Minh thi tập tam thiên tống hành. 

- Kỳ nhất viết: 
Ngă tự qui lâm hạ, 
Dĩ dữ thế tương sơ. 
Lại hữu thiện trí thức, 
Thời năng quá ngă lô. 
Bạn ngă thuyết đạo thoại, 
Ái ngă độc Phật thư. 
Tức vị nham thượng khứ, 
Ngă diệc vị cao sa. 

Tiện dục triển ngă bát, 
Tùy sự đồng phạn sơ. 
Thoát thử trần tục luỵ, 
Trường dữ nham thạch cư. 
Thử nham cố cao hỹ, 
Trác xuất Sơn Hải Đồ. 
Nhược tỷ ngô sư cao, 
Thử nham hoàn bất như. 

- Nhị: 
Ngă sinh sơn quật lư, 
Tứ diện thị sàn nhan. 
Hữu nham hiệu Cảnh Tinh, 
Dục đáo tri kỷ niên. 
Kim thủy tín kỳ tuyệt, 
Nhất lăm tiểu chúng sơn. 
Cánh đắc sư vi chủ, 
Nhị Diêu vị di ngôn. 

- Tam: 
Ngă gia hồ sơn thượng, 
Xúc mục thị lâm khâu. 
Nhược tỷ tư sơn tú, 
Bồi lũ cố nan trù. 
Vân sơn thiên lư biện, 
Tuyền thạch tứ thời lưu. 
Ngă kim tài nhất đáo, 
Dĩ thắng Ngũ hồ du. 

- Tứ: 
Ngă niên thập nhất ngũ, 
Mộc mạt quải tàn dương. 
Túng sử thân vi thệ, 
Diệc năng khởi cửu trường. 
Thượng kư lâm gian trụ, 
Dữ sư công mạt quang. 
Cô vân nga tạm xuất, 
Viễn cận hăi thương hoàng. 

- Ngũ: 
Ái sơn đoan hữu tố, 
Câu tục diệc khả lân. 
Tạc thủ đương đồ quận, 
Bất thức Ẩn Tĩnh Sơn. 
Tiện sư lai hựu khứ, 
Qui ngă phục hà ngôn. 
Thượng kỳ vô cửu trụ, 
Qui tống ngă tàn niên. 

- Lục: 
Sư Tâm như tử khôi, 
H́nh diện như cảo mộc. 
Hồ vi nột tử qui, 
Tự ưởng đáp không cốc. 
Cố ngă trần cấu thân, 
Chính đăi đề hồ dục. 
Cánh nguyện trương Phật đăng, 
Vị ngă đại minh chúc. 

- Thất: 
Phù sơ nham thượng thụ, 
Nhập hạ tổng thành âm. 
Kỷ niên kim cức địa, 
Nhất đán thành tùng lâm. 
Ngă phương dữ nột tử, 
Cộng thính Hải triều âm. 
Nhân sinh đa tụ tán, 
Ly biệt hốt kinh tâm. 

- Bát: 
Ngă dữ sư lai văng, 
Tuế nguyệt tuy vị trường. 
Tương khán hành nhị lăo, 
Phong lưu diệc dị thường. 
Sư yến tọa nham thượng, 
Ngă phương vị tụ lương. 
Thảng sư năng tảo qui, 
Thử lạc do vị ương. 

- Cửu: 
Phân phân học thiền giả, 
Yêu bao cạnh bôn tẩu. 
Tài năng thuyết cát đằng, 
Si ư tiện tự phụ. 
Cầu kỳ đạo đức tôn, 
Như sư cái hy hữu. 
Nguyện truyền thượng thừa nhân, 
Vinh quang Lâm Tế hậu. 

- Thập: 
Ngô ấp đa chuy đồ, 
Hạo hạo nhược vân hải. 
Đại Cơ cửu dĩ vong, 
Lại hữu Tiểu Cơ tại. 
Nhưng cánh dữ Nhất Sầm, 
Thuần toàn lưỡng vô hối. 
Đường đường nhị lăo thiền, 
Hải nội cộng kỷ đăi. 

- Thập nhất: 
Cổ vô trụ tŕ sự, 
Đản chỉ truyền pháp chỉ. 
Hữu năng ngộ sắc không, 
Tiện khả siêu sinh tử. 
Dong năng muội bản lai, 
Khởi thức Tây qui lư. 
Mại thiệp tọa thiền sàng, 
Phật pháp tương hà thị. 

- Thập nhị: 
Tăng trung hữu cao tăng, 
Sĩ diệc hữu cao sĩ. 
Ngă tuy bất vị cao, 
Tâm thô năng tri chỉ. 
Sư thị cá trung nhân, 
Đặc hoạn bất vi nhĩ. 
Hà hạnh ngă dữ sư, 
Câu thị lân gia tử. 

- Thập tam: 
Sư bản cùng Ḥa thượng, 
Ngă diệc tùng Tú Tài. 
Nhẫn cùng tâm dĩ triệt, 
Lăo khẳng bất qui lai. 
Kim sư tuy tạm biệt, 
Tuyền thạch mạc tương sai. 
Ưng duyên liêu phục ngă, 
Sư khởi hữu tâm tai. 
Cảnh Tinh thạch khắc. 

283.- DỊCH NGHĨA: Tháng tư niên hiệu Thuần Hy năm thh1 5, Giản Đường từ Cảnh Tinh Nham núi Thiên Thai trở lại chùa Ẩn Tĩnh. Quan Cấp sự Ngô Công Phất đang ẩn dật di dưỡng tuổi già ở Hưu Hưu Đường, liềnhọa theo vần thơ của Đào Uyên Minh gồn mười ba thiên để tiển chân Giản Đường như sau: 

1.- Từ khi bạn núi rừng, 
Tôi cùng đời cách xa. 
Nhờ có thiện trí thức, 
Đôi lúc tới thăm nhà. 
Thân tôi, nói chuyện đạo, 
Mến tôi, đọc Phật đà. 
Khi quay về trên núi, 
Tôi cũng tiễn chân qua. 

Thầy cho tô thưởng thức, 
Cơm rau vị đậm đà. 
Thoát khỏi lụy trần tục, 
Muốn ở núi ngâm nga. 
Núi này cao cao ngất, 
Vượt cả Sơn Hải Đồ.(1) 
Nhưng sánh cao đức thầy, 
Núi này c̣n kém xa. 

2.- Tôi sinh trong hang núi, 
Bốn mặt cao chênh vênh. 
Có núi gọi Cảnh Tinh, 
Muốn đến đă mấy lần. 
Núi ấy thật kỳ tuyệt, 
Mọi núi nhỏ quanh ḿnh. 
Lại có thầy làm chủ, 
Nhị Diệu (2) khó tả tranh. 

3.- Nhà tôi hồ trên núi, 
Nh́n ra toàn núi rừng. 
So cảnh đẹp của thầy, 
Bên tôi khó sánh cùng. 
Mây tỏa xa ngàn dặm, 
Suối biếc chảy không ngừng. 
Tôi tuy vừa mới tới, 
Ngũ hồ cảnh sao bằng. 

4.- Bảy mươi lăm tuổi lẽ, 
Tàn dương treo ngọn cây. 
Ví rằng thân chưa mất, 
Cũng chẳng được bao ngày. 
C̣n mong ở rừng núi, 
Cùng thầy hưởng dư quang. 
Cô vân vụt biến mất, 
Gần xa thấy bàng hoàng. 

5.- Yêu núi là số phận, 
Nợ tục cũng đáng thương. 
Xưa coi Đương Đồ Quận, 
Núi Ẩn Tĩnh đâu tường. 
Khen thầy nay đi lại, 
Ḷng tôi thấy ngỡ ngàng. 
Mong đừng đi lâu lắm, 
Về thăm tôi năm tàn. 

6.- Tâm thầy như tro lạnh, 
H́nh vóc tựa cây khô. 
Nột tử đều quy tụ, 
Tựa vang dội hư vô. 
Đoái tới thân trần cấu, 
Nước đề hồ gội trong. 
Xin thầy nêu đèn Phật, 
V́ tôi rọi sáng ḷng. 

7.- Lơ thơ cây trên núi, 
Vào hạ bóng rợp trời. 
Bao năm nơi lau sậy, 
Tùng lâm nay sáng ngời. 
Tôi mới cùng nột tử, 
Cùng nghe tiếng hải trào. 
Đời người nhiều tụ tán, 
Ly biệt chạnh ḷng đau. 

8.- Tôi cùng thầy đi lại, 
Năm tháng tuy chưa lâu. 
Coi như hai đại lăo, 
Phong lưu rất một màu. 
Thầy ngồi yên trên núi, 
Tôi góp gạo lo âu. 
Giá thầy về đây sớm, 
Vui này đậm mà sâu. 

9.- Kẻ học thiền nhộn nhàn, 
Khom lưng chạy ngược xuôi. 
Nói toàn chuyện cát đằng,(3) 
Gậy ư si tuyệt vời. 
T́m bậc tôn đạo đức, 
Như thầy được mấy người. 
Nguyện truyền người thượng thặng, 
Phái Lâm Tế sáng ngời. 

10.- Làng ta nhiều Tăng đồ, 
Mông mênh như mây bể. 
Đại Cơ (4) mất đă lâu, 
Tiểu Cơ (5) c̣n tại thế. 
Nhưng c̣n lại Nhất Sầm,(6) 
Hai vị t́m đâu dễ. 
Đường đường hai lăo thiền, 
Người mong trong bốn bể. 

11.- Xưa không chức trụ tŕ, 
Mà chỉ truyền pháp chỉ. 
Ai ngộ được sắc không, 
Liền vượt đường sanh tử. 
Tăng hèn mờ bản lại,(7) 
Há biết Tây qui lư.(8) 
Mua thiếp ngồi giường thiền,(9) 
Phật pháp cậy đâu nhỉ. 

12.- Trong Tăng có cao Tăng, 
Sĩ cũng có cao sĩ. 
Tôi tuy chẳng là cao, 
Tâm thô biết chế chỉ. 
Thầy là người trong ấy, 
Làm cao Tăng phải nghĩ. 
May thay tôi cùng thầy, 
Đều làm người hương lư. 

13.- Thầy ngôi cùng Ḥa thượng, 
Tôi cùng cực Tú Tài. 
Tâm nhẫn đều đă triệt, 
Già rồi trở lại thôi. 
Nay thầy tuy tạm biệt, 
Suối, đá cũng bồi hồi. 
Ung duyên xong trở lại, 
Thầy đâu nỡ bỏ tôi. 
Khắc bia đá chùa Cảnh Tinh. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Sơn Hải Đồ: Đào Uyên Minh sau khi đọc xong Sơn Hải Đồ Kinh, có làm mười ba bài thơ để diễn tả nội dung của kinh đó. Sơn Hải Đồ, là bản đồ vẽ núi và bể phụ thuộc trong Sơn Hải Đồ kinh. Kinh này được thành lập ra đều bởi trí óc không tưởng ở thời đại Thần Tiên. Quách Phát đời Tấn có làm bài tán "Sơn Hải Kinh Đồ". 
(2) Nhị Diệu: Tên là Vệ Quán, tên chữ là Bá Ngọc, người An Ấp tỉnh Hà Đông, học vấn uyên bác, có tài văn nghệ, và có tên hiệu là Nhị Diệu. Tài miêu tả như Nhị Diệu cũng khó mà tả hết được cảnh đẹp của núi Cảnh Tinh. 
(3) Cát đằng: Dây leo, phàm nói đến sự việc ǵ cứ quanh co không rơ ràng th́ gọi đó là chuyện cát đằng. 
(4) Đại Cơ: Cơ Minh Cơ thiền sư, pháp tự của Huyền Sa Bị thiền sư. 
(5) Tiểu Cơ: Giản Đường Hành Cơ thiền sư. 
(6) Nhất Sầm: Viên Cực Ngạn Sầm thiền sư. 
(7) Bản lai: Bản lai diện mục, chỉ cho Phật tánh, chân tâm. 
(8) Tây qui lư: Nhân duyên ngài Đạt Ma xách chiếc giày trở về Tây Trúc. 
(9) Mua thiếp ngồi giường thiền: Như đem thơ mua chùa làm trụ tŕ, hay mua cầu sự vinh hoa quyền quư, hoặc mua chuộc người ngồi trên giường thiền nói chuyện đạo. 

284.- CHỮ HÁN: Cấp Sự Ngô Công vị Giản Đường viết: Cổ nhân khôi tâm dẫn trí vu thiên nham vạn hác chi gian, giản ẩn mộc thực, nhược tuyệt ư ư công danh, nhi nhất đán phụng tử nê chi chiếu, thao quang nặc tích, ư phụ thung tiện dịch chi hạ. Sơ vô niệm ư vinh đạt, nhi thốt đáng truyền đang chi liệt. Cố đắc chi ư vô tâm, tắc kỳ đạo đại, kỳ đức hoành. Kế chi ư hữu cầu, tắc kỳ danh ty, kỳ chí hiệp. duy sư độ lượng ngưng viễn, kế sủng cổ nhân, năi năng thê tŕ ư Quản Sơn, nhất thập thất niên, toại thành tùng lâm lương khí. Kim chi nột tử, nội vô sở thủ, ngoại trục phân hoa, thiểu viễn mưu vô đại thể. Cổ bất năng phù trợ tôn giáo, sở dĩ bất đăi sư viễn hỹ. 
Cao Thị Giả Kư Văn. 

284.- DỊCH NGHĨA: Quan Cấp Sự Ngô Công nói với Giản Đường: Cổ nhân nguội ḷng hết trí ở trong chỗ ngàn núi muôn hang, uống nước suối ăn trái cây, như tuyệt ư về công danh. Nhất đán nhận được chiếu chỉ của nhà vua, các ngài liền che ánh sáng dấu h́nh tích trong những công việc hèn hạ như kiếm củi, giả gạo v.v... V́ không có ư nghĩa về vinh đạt ở buổi đầu, nhưng ngẫu nhiên được liệt vào ngôi truyền đăng. V́ thế, được địa vị ở chỗ vô tâm th́ cái đạo đó lớn, đức đó rộng. Nếu tính toán ở chỗ có mong cầu th́ danh đó thấp, chí đó hẹp. Duy có thầy là người độ lượng xa rộng, nối gót được cổ nhân, nên ngài mới hay kiên tâm trụ tŕ chùa Quản Sơn tới mười bảy năm trường, mà trở thành bậc lương khí trong chốn tùng lâm. Các hàng nột tử ngày nay, trong tâm th́ không có giữ ǵn, bề ngoài lại đua danh trục lợi, ít có mưu xa, không có đại thể. Cho nên họ không hay giúp đỡ được tôn giáo và dĩ nhiên không theo kịp với thầy rất xa vậy. 
Cao Thị Giả Kư Văn (1). 

CHÚ THÍCH: 

(1) Cao Thị Giả: Văn Phong Diệu Cao thiền sư, pháp tự của Văn Yển Khê thiền sư. 

285.- CHỮ HÁN: Giản Đường viết: Phù nhân thường t́nh, hản năng vô hoặc. Đại để tế ư sở tín, trở ư sở nghi, hốt ư sở khinh, nịch ư sở ái. Tin kư thiên tắc thinh ngôn bất khảo kỳ thực, toại hữu quá đáng chi ngôn. Nghi kư thậm, tắc tuy thực nhi bất thính kỳ ngôn, toại hữu thất thực chi thính. Khinh kỳ nhân tắc di kỳ khả trọng chi sự. Ái kỳ sự tắc tồn kỳ khả khí chi nhân. Tư giai cẩu túng tư hoài, bất kê đạo lư, toại vong Phật Tổ chi đạo, thất tùng lâm chi tâm. Cố thường t́nh cho sở khinh năi thánh hiền chi sở trọng. Cổ đức vân: "Mưu viễn giả tiên nghiệm kỳ cận. Vụ đại giả tất cẩn ư vi". Tương tại bác thái nhi thẩm dụng kỳ trung, cố bất tại mộ cao nhi hiếu dị dă. 
Dữ Ngô Cấp Sự thư. 

285.- DỊCH NGHĨA: Giản Đường nói: Thường t́nh của con người, ít có ai là không bị mê hoặc lầm lỗi. Đại để có những việc như bị che lấp ở chỗ cả tin, bị cản trở ở chỗ ngờ vực, bị hốt lược ở chỗ khinh thị, bị trầm nịch ở chỗ ham đắm. Ḷng tin đă thiên lệch, nghe lời nói không xét định sự thật, nên có lời nói quá đáng. Ngờ vực đă nhiều, lời nói tuy đúng sự thật mà chẳng chịu nghe, nên có cái lỗi mất sự thật ở chỗ nghe. Khinh thị người th́ bỏ mất những việc quan trọng. Ham đắm vào sự việc th́ cố giữ những con người đáng bỏ. Đó đều là những việc do chỗ phóng túng theo ḷng riêng của ḿnh, không xét đến đạo lư, quên mất cái đạo của Phật Tổ, mất thiện tâm đối với tùng lâm. Cho nên, chỗ khinh thị của thường t́nh là chỗ trọng của Thánh nhân. Cổ nhân nói: "Kẻ mưu xa phải nghiệm việc gần trước, người chuộng việc lớn, phải cẩn thận ở chỗ vi tế làm đầu". Phàm bất cứ việc chi cần phải đem ra xem cho rộng mà xét chỗ dùng ở trong đó, chứ không phải ở chỗ chuộng cao xa mà thích lạ vậy. 
Thư gởi Ngô Cấp Sự. 

286.- CHỮ HÁN: Giản Đường thanh minh thản di, từ huệ cập vật. Nột tử sảo hữu quái ngộ, tế hộ bảo tích, dĩ thành kỳ đức. Thường ngôn: "Nhân thùy vô quá, tại cải chi vi mỹ". Trù Bà Dương Quản Sơn nhật, thích trị long đông, vũ tuyết liên tác, thiện chúc bất kế. Sư như bất kiến văn. Cố hữu tụng viết: "Địa vô lô hỏa khách lang không, tuyết tự mai hoa lạc tuế cùng. Nột bị mông đầu thiêu cốt đốt, bất tri thân tại tịch liêu trung". B́nh sinh dĩ đạo tự thích, bất cập vu vinh danh. Phó Lô Sơn Viên Thông thỉnh nhật, trụ trượng thảo lư nhi dĩ. Kiến giả sắc trang ư giải. Cửu Giang Quận Thú Lâm Công Thúc Đạt, mục chi viết: "Thử Phật pháp trung tân lương giả". Do thị danh trọng tứ phương. Kỳ khứu tựu chân đắc tiền bối thể cách. Một chi nhật tuy tẩu sử chí lực, vị chi thế há. 

286.- DỊCH NGHĨA: Giản Đường là người thanh bạch sáng suốt, b́nh thản công bằng, có từ tâm ân huệ tới mọi người. Kẻ nột tử nào hơi có chút lỗi lầm, ngài đều che dấu bảo hộ khuyên răn, để mong trở thành nghười có đức. Ngài thường nói: "Người ta ai mà không có lỗi, nhưng cần ở chỗ biết sửa đổi là tốt". Khi ngài trụ tŕ chùa Quản sơn, gặp lúc trời quá rét, mưa tuyết liên miên suốt ngày, cháo cơm không có, mà ngài vẫn coi như không hề nghe biết ǵ. Nên lúc đó có bài tụng rằng: 

Bếp ḷ nguội ngắt khách ngồi không, 
Tuyết tựa hoa Dương rụng năm cùng. 
Áo vá chùm đầu châm thanh củi, 
Biết đâu thân ở chốn tịch không. 

B́nh sinh, ngài lấy đạo làm sở thích, không chạy theo vinh hoa danh lợi. Ngày nhận lời mời tới trụ tŕ chùa Viên Thông ở Lư Sơn, chỉ chống gậy tre, đi dép cỏ mà tới. Những người thấy thế, ai nấy đều tỏ vẻ cung kính vui mừng. Quan Quận Thú đất Cửu Giang là Lâm Công Thúc Đạt khi thấy ngài cũng nói: "Đây là người trụ cột trong Phật pháp". Do đó tên ngài được trọng vọng khắp bốn phương. Chỗ đi hay tới của ngài thật đúng như thể cách của tiền bối. Khi ngài mất, dù là những người hầu hạ sai khiến, cũng đều thương tiếc ngài mà rơi lệ. 

287.- CHỮ HÁN: Thị Lang Trương Công Hiếu Tường, chí thu vị Phong Kiều Diễn Trưởng lăo viết: "Ṭng thượng chư Tổ, vô trụ tŕ sự, khai môn thụ đồ, bách bất đắc dĩ. Tượng pháp suy thế, năi chí hữu thực phong đầu trạng mại viện chi thuyết. Như hướng lai Phong Kiều phân phân, giai thị vật dă. Công chi xuất xứ, nhân cụ tri chi. Thối chác đồng thời, nguyên bất trước lực. Hữu duyên tức trụ, duyên tận tiện hành. Nhược ti phiến chi bối, dục yếu thử địa, tạo địa ngục nghiệp. Bất nhược lưỡng thủ phân phó vi giai nhĩ". 
Hàn Sơn Tự thạch khắc. 

287.- DỊCH NGHĨA: Quan Thị Lang Trương công Hiếu Tường, gởi thư nói với Diễn Trưởng lăo chùa Phong Kiều rằng: "Các Tổ xưa kia, không có việc trụ tŕ, khai tràng nhận môn đồ là một việc cưỡng bách bất đắc dĩ. Trong thời Tượng phápsuy vi, đă phát sinh ra những thuyết thư, Các tăng sĩ đưa đồ châu báu hối lộ quan liên để mua bán chùa viện. Những việc này từ trước tới nay, tại nơi chùa Phong Kiều của ngài cũng thường xảy ra. Nơi xuất xứ của ngài ai ai cũng đều biết. Nhưng c̣n việc tương ứng đồng thời, con hát mẹ khen hay,để không ai chịu cố gắng hết sức ḿnh, mà chỉ là những người có duyên thời ở, hết duyên th́ đi. Nếu ngài để những ngườibuôn bán Phật pháp như thế ở trong chốn ấy, th́ chỉ là gây cho họ cái nghiệp địa ngục mà thôi. Vậy chẳng bằng chia tay nhau là tốt hơn vậy". 
Khắc bia đá chùa Hàn Sơn (1). 

CHÚ THÍCH: 

(1) Hàn Sơn: Chùa Hàn sơn trước kia có tên là Phong Kiều. 

288.- CHỮ HÁN: Từ Thụ Thâm Ḥa thượng vị Kính Sơn Nột Ḥa thượng viết: Nhị tam thập niên lai, thiền môn tiêu xách, đăi bất kham khan. Chư phương Trưởng lăo, bôn Nam tẩu Bắc, bất tri kỳ số. Phân Yên tán hỏa, măn mục giai thị. Duy sư huynh thần t́nh bất động, tọa hưởng an dật. Khởi khả dữ lục lục dă, đồng nhật nhi ngữ dă. Khâm thán, khâm thán! Thử đoạn nhân duyên, tự phi đạo sung đức thực, hành giải tương ứng, khởi đa đắc dă. Cánh kư miễn lực, dụ dẫn hậu côn, sử Tào Nguyên hạc nhi phục trướng, giác thụ điêu nhi tái xuân. Thực khu khu hạ hoài chi vọng dă. 
Bút Thiếp. 

288.- DỊCH NGHĨA: Từ Thụ Thâm (1) Ḥa thượng nói với Kính Sơn Nột (2) Ḥa thượng rằng: Trong hai ba mươi năm trở lại đây, chốn thiền môn trở nên tiêu điều vắng vẻ, đến nỗi tôi không muốn ngó nh́n tới. Bậc trưởng lăo ở các nơi th́ bôn Nam tẩu Bắc, số đó có không biết bao nhiêu mà kể. Việc chia rẽ môn phái cũng đầy rẫy khắp nơi, đâu đâu cũng đều thế. Duy có sư huynh là không động thần t́nh, ngồi hưởng an nhàn, thực khác xa với kẻ hèn mọn hàng ngày. Đáng kính thay, đáng khen thay! Ở vào nhân duyên trường hợp ấy, nếu tự ḿnh không phải là người đạo đức đầy đủ, hành giải tương ưng th́ đâu có thể làm được. Tôi rất mong sư huynh gắng sức, dụ dẫn hậu côn, khiến cho nguồn Tào Khê đang khô cạn, mà trở lại tràn đầy, cây giác ngộ điêu tàn mà trở nên xanh tốt. Tôi thành thật khấu đầu kỳ vọng ở sư huynh rất nhiều vậy. 
Bút Thiếp. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Từ Thụ Thâm: Tuệ Lâm Từ Thụ Hoài Thâm thiền sư, pháp tự của Trường Lư Sùng Tín thiền sư. 
(2) Kính Sơn Nột: Kính Sơn Diệu Không Trí Nột thiền sư, pháp tự của Trường Lư Sùng Tín thiền sư. 

289.- CHỮ HÁN: Linh Chi Chiếu Ḥa thượng viết: "Sàm dữ báng đồng da dị da?". Viết: Sàm tất giả báng nhi thành. Cái hữu báng nhi bất sàm giả, vị kiến sàm nhi bất báng giả dă. Phù sàm chi sanh dă, kỳ thủy nhân ư tăng tật, nhi chung thành ư khinh tín, vi chi giả xiểm nịnh tiểu nhân dă. Cổ chi nhân, hữu thâu trung dĩ phụ quân giả, tận hiếu dĩ sự thân giả, băo nghĩa dĩ kết hữu giả. Tuy quân thần chi tương đắc, phụ tử chi tương ái, bằng hữu chi tương thân, nhất nhật vi nhân sở sàm, tắc phản mục nhương tư, sấn trục ly gián, chí ư tương thị như khấu thù, tuy tại cổ thánh hiền, sở bất năng miễn dă. Nhiên hữu sơ bất năng biện, cửu nhi hậu minh giả. Hữu sinh bất năng biện, tử nhi hậu minh giả. Hữu chí tử bất năng biện, chung cổ bất năng minh giả, bất thả thắng số hỹ. Tử Du viết: "Sự quân xác tư nhục hỹ, bằng hữu xác tư sơ hỹ". Thử sở dĩ giới nhân viễn sàm dă. Ô hô! Sàm dữ báng bất khả bất sát dă. Thả kinh sử tải chi, bất vi bất minh. Học giả lăm chi, mạc bất chi kỳ phi, văng văng thân tụ hăm ư sàm khẩu, ế uất chí tử bất năng tự minh giả. Thị tất nộ thụ sàm giả chi bất sát, vi sàm giả chi xiểm nịnh dă. chí hữu quần tiểu chi kư tiền, phục sàm ư tha nhân, tắc hựu thính chi dĩ vi nhiên, thị khả vị thông minh hồ? Cái thiện vi sàm giả, sảo tiện đấu cấu, nghinh hợp mông tế, sử kỳ măng nhiên, như vi quỷ sở muội, chí hữu chung thân bất năng sát giả. Khổng tử viết: "Sâm nhuận chi tiếm, phu thụ chi tố". Ngôn kỳ Sâm nhuận chi lai, bất sử nhân dự giác. Thị phi lâm tẩu, nhân tất nghi kỳ hữu hổ. Gián hữu bất hành yên giả, tắc vị chi minh đạo quân tử hỹ. Dư dĩ ngu chuyết sơ lai bất hỷ xiểm phụ, vọng duyệt ư nhân, toại đa vị nhân sở sàm báng. Dư văn chi, thiết tự tỉnh viết: "Bỉ ngôn quả thị dư? Ngô đương cải quá bỉ tắc ngă sư dă. Bỉ ngôn quả phi dư? Bỉ diệc đồ vi nhĩ, yên năng mỗi ngă tai. Ư thị nhĩ tuy văn chi, nhi khẩu vị thường biện. Sĩ quân tử sát bất sát, tại bỉ tài thức minh bất minh nhĩ. Ngô thục năng thân kỳ uổng trực, cầu tri ư nhân tai. Nhiên thả bất tri, cửu nhi hậu minh da? Hậu thế nhi hậu minh da? Chung cổ bất minh da? Văn Trung Tử viết: "Hà dĩ tức báng?" Viết: "Vô biện". Ngô đưong sự tư ngữ hỹ. 
Chi Đồ Tập. 

289.- DỊCH NGHĨA: Linh Chi Chiếu (1) Ḥa thượng nói: "Dèm pha và chê bai cùng nghĩa hay khác nghĩa vậy ư?". Đáp: Dèm pha tất phải nhờ vào chê bai mà thành. V́ lẽ, có kẻ chỉ có chê bai mà không có dèm pha, chưa có kẻ dèm pha mà lại không chê bai. Ôi! Nơi phát xuất của sự dèm pha đầu mối là từ chỗ ghen ghét, sau trở thành tâm tin tưởng mỏng manh. Kẻ làm việc ấy tức là kẻ tiểu nhân, xiểm nịnh. Người đời xưa, có kẻ dốc ḷng trung để với vua, hết ḷng hiếu để thờ cha mẹ, mang điều nghĩa để kết bạn bè, tuy có chỗ tương đắc giữa vua tôi, chỗ tương ái giữa cha con, chỗ tương thân giữa bạn bè. Nhưng một ngày nào đó nếu bị người ngoài dèm pha th́ có thể sinh ra những sự việc nh́n nhau bằng hờn giận, sinh ẩu đả lẫn nhau, xua đuổi ly gián nhau, đưa đến chổ coi nhau như quân thù hằn. Những việc này tuy ở ngay địa vị Thánh hiền xưa cũng khó thể tránh được. Song, những việc đó, có việc lúc mới xảy ra không thể biện minh được, nhưng măi tới sau khi chết rồi mới sáng tỏ. cũng có những việc sau khi chết rồi mà vẫn chưa biện minh và cho đến trọn cả những đời sau cũng vẫn không thể làm cho sáng tỏ được. Những việc như thế rất nhiều không thể kể xiết. Thầy Tử Du (2) nói: "Bầy tôi thờ vua mà can gián nhiều, ấy là nguyên nhân đem lại sự nhục nhă. Bạn bè mà khuyên can nhau nhiều, nhân thế cũng đem lại sự xa nhau". Lời nói trên đây cốt để răn người đới tránh xa lời dèm pha thôi vậy. Ôi! Dèm pha cùng với chê bai, không thể không xét cho kỹ. Và như kinh sử cũng đă chép những điều đó rơ ràng. Người học giả xem đến những chỗ ấy, ai cũng biết nó là trái, thường thường chính thân ḿnh cũng tự giam hăm ở miệng lưỡi kẻ dèm pha, uất ức đến chết mà không thể tự làm sáng tỏ được. Người như thế tất sẽ giận những người chấp nhận lời dèm pha là họ không biết xem xét, nên bị kẻ dèm pha xiểm nịnh ton hót! Dĩ chí có những bọn tiểu nhân đến trước mặt ḿnh mà lại nói lời dèm pha ở những người khác, th́ ḿnh lại nghe lời nói ấy cho là phải, như thế sao có thể bảo là người thông minh được ư? V́ lẽ, kẻ giỏi nói lời dèm pha, th́ họ rất khéo léo, họ tranh đấu biện bạch, họ đón hợp ư người, họ ngăn che sự thật, khiến cho người nghe mờ mịt, như bị quỷ ếm, làm cho người ta đến suốt đời cũng không thể xét rơ được. Ngài Khổng Tử nói: "Lời dèm pha cũng như nước thấm nhuần, lời tố giác cũng như da cảm thụ". Nói về sự thấm nhuần, nghĩa là nó lặng lẽ từ từ tới không để cho người ta dự đoán mà biết. Tuy Tăng Sâm (3) là người con chí hiếu, thế nhưng người mẹ vẫn ngờ con ḿnh giết người. Tuy ở quán chợ đông người không phải là rừng rậm, mà người ta vẫn ngờ là trong chợ có hổ (4). V́ khiến có những người họ không tin những việc như thế, th́ đáng gọi họ là minh đạo quân tử vậy. Tôi vốn dĩ lấy sự ngu muội lười biếng, không thích xiểm nịnh xu phụ, để lừa dối làm đẹp ḷng người, nên tôi bị nhiều người sàm báng. Tôi nghe biết chuyện đó, nhưng tôi lại tự trộm nghĩ rằng: Lời nói kẻ kia hẳn là đúng chăng? Nếu đúng th́ ta nên đổi lỗi sửa sai và như vậy người kia là thầy ta. Lời nói của kẻ kia hẳn là trái chăng? Nếu quả là trái th́ cho kẻ kia chỉ là nơi những lời không đâu mà thôi. Sao có thể hay làm nhơ được tâm tôi. Bởi thế tai tôi tuy có nghe mà miệng tôi chưa từng biện minh. C̣n những kẻ sĩ quân tử xét được hay không xét được là do ở tài năng trí thức của họ sáng suốt đó vậy. Tôi cần ǵ phải giải bày phải trái để mong cầu người ta biết rơ. Song nếu họ không biết được, th́ măi về sau này họ mới rơ được vậy ư? Hay ở đời sau mà họ mới rơ được vậy ư? Hay măi đời này qua đời khác mà họ cũng vẫn chẳng được rơ vậy ư? Văn Trung Tử (5) nói: "Đem ǵ để tắt được sàm báng". Đáp rằng: "Không cần biện minh". Tôi rất ưa chuộng lời nói đó vậy. 
Chí Đồ Tập. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Linh Chi Chiếu: Viên Chiếu thiền sư chùa Linh chi, tên chữ là Trạm Nhiên, pháp tự Không Tướng. 
(2) Tử Du: Tử Du là đệ tử ngài Khổng tử, tên là Uyển, tên chữ là Tử Du. 
(3) Tăng Sâm: Họ Tăng tên Sâm, đệ tử ngài Khổng Tử. Cam Mậu đời Tấn nói: "Nước Lỗ cũng có người tên là Tăng Sâm giết người. Có người đến nói với mẹ ngài Tăng Sâm: "Con bà giết người". Mẹ thầy Tăng Sâm nói: "Con ta là người hiếu thảo không bao giờ giết người". Trả lời xong bà vẫn ngồi yên dệt vải. Lát sau lại có người đến bảo: "Tăng Sâm giết người", bà vẫn thản nhiên. Sau đó lại có người thứ ba tới nói với bà. Bà liền quăng con thoi trèo tường mà chạy. 
(4) Trong chợ có hổ: Hàn Tử nói: "Bàng Công Thái Sử Chất ở Hàm Đan, bảo Nguỵ Vương rằng: Hôm nay có một người nói trong chợ có hổ. Đại vương nói: Không có. Người thứ hai nói vua có tin chăng? Vua nói: không tin. Người thứ ba nói có hổ vua có tin chăng? Vua nói: Quả nhân tin lời nói đó. Bàng Công nói: Trong chợ không có hổ th́ rơ lắm vậy. Nhưng ba người nói trong chọ có hổ vua đă tin cậy, vậy lời nói sàm nịnh phải cẩn thận chớ nên tin vội, xin vua phải xét cho rơ. Vua rất mừng". 
(5) Văn Trung Tử: Họ Vương tên Thông, tên chử là Trọng Yêm, người đất Lạc Dương sau khi mất, môn nhân đặt tên hiệu cho ông là Văn Trung Tử. 

290.- CHỮ HÁN: Lại Am Khu Ḥa thượng viết: Học đạo nhân đương dĩ ngô vi kỳ. Cầu chân thiện trí thức quyết trạch chi. Ty đầu t́nh kiến bất tận, tức thị sinh tử căn bản. T́nh kiến tận xứ, tu cứu kỳ tận chi sở dĩ. Như nhân thường tại gia, sầu thập mạ gia trung sự bất thiện. Qui sơn văn: "Kim thời nhân tuy ṭng duyên đắc nhất niệm đốn ngộ tự lư, do hữu vô thủy tập khí vị năng đốn tận. Tu giáo cừ,tịnhtrừ hiện nghiệp lưu thức, tức thị tu dă, bất thị biệt hữu hành môn, linh cừ xung hướng". Qui Sơn cổ Phật, cố năng phát thử ngữ. Như hoặc bất nhiên, nhăn quang lạc địa thời, vị miễn thủ cước mang loạn, y cựu như lạc thang bàng giải dă. 

290.- DỊCH NGHĨA: Lại Am Khu (1)Ḥa thượng nói: Người học đạo phải lấy chỗ liễu ngộ làm kỳ hạn, phải t́m bậc chân thiện trí thức để quyết trạch việc liễu ngộ ấy. Nếu t́nh kiến c̣n vướng vít nhưu đầu sợi tơ chưa gột hết, tức vẫn c̣n là cái cội gốc sanh tử. Khi t́nh kiến đă gột hết rồi, nên phải xét đến nguyên do chỗ hết t́nh kiến đó. Cũng như người ở trong nhà, th́ những việc ở trong nhà, bất cứ diều ǵ đều phải hiểu rơ. Ngài Qui Sơn nói: "Người thời nay, tuy theo cơ duyên đă chứng được một niệm đốn ngộ tư lư, nhưng vẫn c̣n vướng vô thủy tập khí chưa thể gột hết được, c̣n nên phải dạy cho họ trừ sạch hiện nghiệp lưu thức, đó tức là tu vậy. Nếu không làm như thế th́ không có lối đi nào khác để cho họ xu hướng". Qui sơn là bậc cổ Phật, nên mới có thể thốt ra những lời nói ấy, gia hoặc nếu người ta không làm theo như thế, tới khi mắt sáng rơi xuống đất (chết), tất không thế nào tránh khỏi tay chân run rẩy quờ quạng như con cua rớt và vạc nước sôi vậy. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Lại Am Khu: Lại Am Đạo Khu thiền sư chùa Linh Ẩnn, pháp tự của Đạo Tràng Cư Tuệ thiền sư. 

291.- CHỮ HÁN: Lại Am viết: Luật trung văn: "Tăng vật hữu tứ chủng: Nhất giả thường trụ thường trụ, nhị giả thập phương thường trụ, tam giả hiện tiền thường trự, tứ giả thập phương hiện tiền thường trụ. Thả thường trụ chi vật, bất khả ty hào hữu phạm, kỳ tội phi khinh. Tiên thánh hậu thánh, phi bất đinh ninh. Văng văng văn giả, vị tất năng tín, tín giả vị tất năng hành. Sơn Tăng hoặc xuất hoặc xử, vị thường bất dĩ thử, thiết thiết giới ư, do khủng hữu sở vị chí, nhân thuật kệ dĩ tự cảnh vân: "Thập phương Tăng vật trọng như sơn, vạn kiếp thiên sinh khởi dị hoàn. Kim khẩu cộng đàm tằng vị tín, tha niên tranh miễn thiết thành quan. Nhân thân nan đắc hảo tư lường, đầu giác sinh thời tuế nguyệt tràng. Kham tiếu tham tha nhật nạp mễ, đẳng nhàn thất khước bán niên lương". 

291.- DỊCH NGHĨA: Lại Am nói: Trong Luật nói: Tăng vật có bốn thứ: 

a.- Thường trụ thường trụ, 
b.- Thập phương thường trụ. 
c.- Hiện tiền thường trụ. 
d.- Thập phương hiện tiền thường trụ. 

Đă là vật của thường trụ th́ không được xâm phạm vào một mảy may, v́ tội ấy rất nặng. Bậc tiên thánh hậu thánh cũng đều đinh ninh khuyên răn. Thường thường những người nghe biết, nhưng vị tất đă hay tin. V́ người đă tin cũng vị tất chịu làm theo. Sơn Tăng này hoặc đi ra ngoài, hoặc ở trong chùa, lúc nào cũng ghi lời răn ấy trong tâm khảm. Tuy thế c̣n sợ có chỗ chưa tới được, nên thuật bài kệ để tự cảnh rằng: 

Mười phương Tăng vật nặng như sơn, 
Muôn kiếp ngàn đời dễ trả đền. 
Lời Phật nói ra mà chẳng giữ, 
Ngày kia ngục sắt chớ kêu oan. 
Thân người khó được phải suy lường, 
Thú vật sinh vô kiếp số trường. 
Hạt gạo tham chi cho khổ cực, 
Đền bù mất cả nửa năm lương. 

292.- CHỮ HÁN: Lại Am viết: Niết Bàn kinh văn: "Nhược nhân văn thuyết Niết bàn nhất cú nhất tự, bất tác tự tướng, bất tác cú tướng, bất tác văn tướng, bất tác Phật tướng, bất tác thuyết tướng, như thị nghĩa giả danh vô tướng tướng". Đạt Ma đại sư hàng hải nhi lai, bất lập văn tử giả, cái minh vô tớng chi chỉ, phi Đạt Ma tự xuất tân ư, biệt lập môn hộ. Cận thế học giả bất ngộ tư chỉ, ư vị thiền tôn biệt thị nhất chủng pháp môn. Dĩ thiền vi tôn giả, phi kỳ giáo, dĩ giáo vi tôn giả, phi kỳ thiền. Toại thành lưỡng gia chi thuyết, hỗ tương để tí, nao nao bất năng tự dĩ. Y sở văn thiển lậu, nhất chí ư thử. Phi ngu tức cuồng, thậm khả thán tức dă. 
Tâm Địa pháp môn. 

292.- DỊCH NGHĨA: Lại Am nói: Kinh Niết Bàn chép: "Nếu có người nào nghe người nói kinh Đại Niết Bàn một câu hay một chữ, mà người đó không khởi ra tướng của chữ, không khởi ra tướng của câu, không khởi ra tướng nghe, không khởi ra tướng Phật, không khởi ra tướng nói, những người như thế gọi là Vô tướng tướng". Đạt ma đại sư vượt biển tới Đông độ, ngài không lập ra văn tự, đó là làm sáng tỏ ư chỉ của Vô tướng, chứ không phải ngài đặt ra ư mới, hay lập riêng pháp môn nào khác. Đời gần đây, những người học đạo không liễu ngộ được ư đó, nên họ bảo rằng Thiền tôn là một pháp môn riêng biệt. Người lấy môn Thiền làm tôn th́ lại chê môn Giáo. Người lấy môn Giáo làm tôn th́ lại chê môn Thiền. Như vậy liền trở thành học thuyết của hai nhà, rồi trở nên tranh chấp chê bai lẫn nhau, kéo dài liên miên măi không dứt. Ôi! Do nơi nghe hiểu nông cạn mà đưa đến như thế th́ quả thật không phải là ngu cũng tức là cuồng, thật đáng thở dài mà than trách vậy. 
Tâm Địa pháp môn. 

THIỀN LÂM BẢO HUẤN 
Quyển Thứ Tư 
Hết
 
Toàn bộ gồm tất cả là hai trăm chín mươi hai (292) bài.


 

 

previous.png   back_to_top.png

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

 

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0