佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

Số 2022 4Quyển            Quyển 1  Quyển 2  Quyển 3  Quyển 4

Thiền Lâm Bảo Huấn

Sa môn Tịnh Thiên đất Đông Ngô trùng tập. 
Sa môn Thích Thanh Kiểm, dịch và chú thích. 

-o0o-

Quyển Thứ Hai   

79.- CHỮ HÁN: Trạm Đường Chuẩn Ḥa thượng sơ tham Chân Tịnh, thường chích đăng trướng trung khán độc. Chân Tịnh ha viết: "Sở vị học giả cầu trị tâm dă. Học tuy đa nhi tâm bất trị, túng học nhi hề ích. Nhi huống bách gia dị học, như sơn chi cao, hải chi thâm, tử nhược vi tận chi, kim khí bản trục mạt, như tiện sử quí, khủng phương đạo nghiệp. Trực tu đỗ tuyệt chư duyên, đương cầu diệu ngộ, tha nhật quan chi, như suy môn nhập cữu, cố bất nan hỹ". Trạm Đường tức thời b́nh khứ sở tập, chuyên trú thiền quán. Nhất nhật văn nột tử độc Gia Cát Khổng Minh xuất sư biểu, khoát nhiên khai ngộ, ngưng trệ đốn thích, biện tài vô ngại, tại lưu bối trung tiển hữu quá giả. 

79.- DỊCH NGHĨA: Trạm Đường Chuẩn Ḥa thượng, lúc đầu tham thiền ở Chân Tịnh, thường thắp đèn trong trướng đọc kinh sách. Chân Tịnh liền mắng rằng: "Điểm chính của người học là ở chỗ trị tâm. Nếu học dẫu nhiều mà tâm chẳng sửa trị, th́ ví có học nhiều cũng chẳng có ích ǵ. Hơn nữa, lại c̣n rất nhiều môn học khác của hàng trăm nhà khác nhau, nhiều như núi cao biển sâu. Vậy ông dù có học hết được tất cả, nhưng đó chỉ là sự việc bỏ gốc theo ngọn, đem cái hèn dùng vào chỗ quí, sợ nó ngăn ngại mất đạo nghiệp. Vậy nên phải chấm dứt mọi duyên, để cầu diệu ngộ. Nếu ở một ngày khác ông xem các môn học ấy, th́ dễ dàng cũng như người chỉ việc đẩy chốt cửa mà vào, chẳng gặp chi khó khăn". Trạm Đường tức thời dẹp bỏ chỗ ḿnh đang tập, rồi chuyên tu thiền quán. Vào một ngày, ông nghe thấy kẻ nột tử đọc biểu xuất sư của Gia Cát Khổng Minh (1) bừng dậy khai ngộ, gỡ hết các chỗ ngưng trệ, có biện tài vô ngại, trong hàng lưu bối ít ai hay vượt được ông. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Biểu xuất sư: Trạm Đường khai ngộ nhờ được nghe câu: "Cung trung phủ trung câu vi nhất thể" (trong cung trong phủ đều là một thể), trong bài xuất sư biểu của Gia Cát Lượng. 

80.- CHỮ HÁN: Trạm Đường viết: Hữu đạo đức giả lạc ư chúng, vô đạo đức giả lạc ư thân. Lạc ư chúng giả trường, lạc ư thân giả vong. Kim xưng trụ tŕ giả, đa dĩ hiếu ố lâm chúng, cố chúng nhật phật chi. Cầu kỳ hiếu nhi tri kỳ ố, ố nhi tri kỳ hiếu giả tiển hỹ. Cố viết: "Dữ chúng đồng ưu lạc, đồng hiếu ố giả nghĩa dă. Nghĩa chi sở tại, thiên hạ thục bất qui yên". 
Nhị sư Lại Khả Chuế Vưu Tập. 

80.- DỊCH NGHĨA: Trạm Đường nói: Người có đạo đức thời vui với chúng, người không có đạo đức thời vui với ḿnh, Cái vui cùng chúng thời lâu dài, cái vui ở riêng ḿnh thời dễ mất. Ngày nay người xưng là trụ tŕ, phần nhiều lấy sự ưa ghét để xét chúng, nên chúng nhân đều uất ức. T́m cái ưa đó để biết chỗ ghét, t́m cái ghét để biết chỗ ưa đó th́ ít vậy. Cho nên nói: "Cùng chúng cùng dự phần lo hay vui, cùng dự phần ưa hay ghét là nghĩa vậy. Đă có nghĩa thời thiên hạ ai mà chẳng phục". 
Hai việc trên trong Lại Khả Chuế Vưu Tập. 

81.- CHỮ HÁN: Trạm Đường viết: Đạo giả cổ kim chính quyền. Thiện hoằng đạo giả yếu tại biến thông. Bất tri biến giả câu văn, chấp giáo, trệ tướng, thế t́nh, thử giai bất đạt biến quyền cố. Tăng vấn Triệu Châu: "Vạn pháp qui nhất, nhất qui hà xứ?" Châu vân: "Ngă tại Thanh Châu, tố lĩnh bố sam, trọng thất cân". Vị, cổ nhân bất đạt quyền biến, năng nhược thị chi thù tạc. Thánh nhân vân: "U cốc vô tư, toại chí tư tưởng, hồng chung cự thụ, khẩu vô bất ứng". Thị tri, thông phương thượng sĩ,tương phản thường hợp đạo, bất thủ nhất nhi bất ưng biến dă. 
Dữ Lư Thương Lăo thư. 

81.- DỊCH NGHĨA: Trạm Đường nói: Đạo là chính (1) và quyền(2) của xưa và nay. Người khéo hoằng đạo, cần ở chỗ biến thông. Người chẳng biến thông, cứ câu nệ vào văn, chấp vào giáo, trệ ở tướng, khốn ở t́nh, th́ đó đều là người không đạt được quyền biến. Vị Tăng hỏi Triệu Châu: "Vạn pháp qui về một, một qui về chốn nào?" Triệu Châu nói: "Ta ở Thanh Châu làm một chiếc áo lót bằng vải, nặng bảy cân". Nghĩa là, cổ nhân nếu chẳng đạt được quyền biến, th́ sao hay thù đáp được như thế đó. Thánh nhân nói (3): "Hang sâu thẳm th́ vô tư,, nên phát được âm hưởng ấy, chuông lớn v́ chịu được sà ngang, nên khi đánh mới ứng được âm thanh ấy". Thế nên biết, bậc thượng sĩ khắp nơi, dùng chỗ trái lẽ thường mà vẫn hợp đạo. Chẳng giữ một chiều mà không ứng biến vậy. 
Thư gởi Lư Thương Lăo. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Chính: là con đường ngay thẳng. 
(2) Quyền: là con đường tắt, con đường bất thường, tạm đạt ra trong lúc cần dùng, xong rồi bỏ đi. 
(3) Triệu Châu: tức Triệu Châu Quan Âm Viện tên là Ṭng Thẩm thiền sư, pháp tự của Nam Tuyền Phổ Nguyện thiền sư, ngài nóira công án này, thuộc tắc thứ 45 trong sách Bích Nham Tập và Triệu Châu Lục. 
(4): Câu này trích trong văn bia chùa Gian Thê Đầu Đà. 

82.- CHỮ HÁN: Trạm Đưuờng viết: Học giả cầu hữu, tu thị khả vi sư giả. Thời trung trường hoài tôn kính, tác sự thủ pháp, kư hữu sở ích. Hoặc trí thức sai thắng ư ngă diệc khả tương ṭng, cảnh sở vị đăi. Vạn nhất dữ ngă, tương tự, tắc bất như vô dă. 
Bảo Phong Thực Lục. 

82.- DỊCH NGHĨA: Trạm Đường nói: Người học t́m bạn, phải nên t́m người đáng bậc làm thầy, luôn luôn mang ḷng tôn kính, nếu làm việc ǵ cũng nên lấy đó mà bắt chước, bạn như thế mới mong có ich. Hoặc giả, trí thức của họ cách xa với ta, cũng có thể y theo đó mà làm bạn, để cảnh sách chỗ của ta chưa theo kịp. Vạn nhất, họ cùng với ta ngang nhau, thời chẳng bằng không có là hơn vậy. 
Bảo Phong Thực Lục. 

83.- CHỮ HÁN: Trạm Đường viết: Tổ đ́nh thu văn lâm hạ nhân, bất vi hiếu phù giả, cố tự nan đắc. Tích Chân Như trụ Tri Hải, thường ngôn: "Tại Tương Tây Đạo Ngô thời, chúng tuy bất đa, do hữu lăo nột sổ bối, lư tiển thử đạo. Tự Đại Qui lai thử, bất hạ cửu bách Tăng, vô thất ngũ nhân, hội ngă thuyết thoại. Dư dĩ thị tri, đắc nhân bất tại chúng đa dă". 
Thực Lục. 

83.- DỊCH NGHĨA: Trạm Đường nói: Đương lúc Tổ đ́nh thu văn(1), trong chốn tùng lâm những người không làm chuyện bôn tẩu ồn ào, quả thật là rất khó có được. Xưa Chân Như trụ tŕ chùa Trí Hải, thường nói: "Khi ta trụ tŕ chùa Đạo Ngô ở Tương Tây, chúng tuy không nhiều, nhưng cũng c̣n có vài bậc Trưởng lăo, noi theo cái đạo ấy. Từ khi ta từ chùa Đại Qui trở lại chùa Trí Hải, th́ số Tăng chúng thường thường rất đông đảo không bao giờ con số dưới 900 người, nhưng không có được lấy năm bảy người, lănh hội được chỗ nói đạo của ta. Bởi thế ta biết, chọn được người hiền không phải cứ nơi đông chúng vậy". 
Thực Lục. 

CHÚ THÍCH: 

(1): Câu này ư nói đạo đang lúc suy vi trong thời mạt pháp. 

84.- CHỮ HÁN: Trạm Đường viết: Duy nhân lư hành, bất khả dĩ nhất thù nhất cật cố năng tận tri. Cái khẩu thiệt biện lợi giả, sự hoặc vị khả tín, từ ngữ chuyết nột giả, lư hoặc bất khả cùng. Tuy cùng kỳ từ, khủng vị cùng kỳ lư, năng phục kỳ khẩu, khủng vị phục kỳ tâm, duy nhân nan tri, thánh nhân sở bệnh. Huống cận thế nột tử thông minh, bất vụ thông vật t́nh, thị thính đa chỉ tứ quá khích, dữ chúng vi dục, dữ đạo quai phương, tương thượng dĩ khi, tương mạo dĩ trá. Sử Phật Tổ chi đạo my my nhi du bạc, đăi bất khả cứu hỹ. 
Đáp Lỗ Trực thư. 

84.- DỊCH NGHĨA: Trạm Đường nói: Duy chỗ lư lịch và hành vi của con người, ta không thể đem một lời cật vấn hay một câu trả lời mà hay biết được hết. V́ lẽ, ngoài miệng lưỡi của họ tuy biện bạch lanh lợi, nhưng hoặc việc làm của họ chưa có thể tin được. Kẻ nói năng tuy vụng về, nhưng đối với lư của họ hoặc có thể là khôn cùng. Tuy lời của họ cùng, nhưng sợ cái lư của họ chưa cùng. Hay phục về miệng lưỡi của họ, nhưng sợ chưa phục cái tâm của họ. Duy cái khó biết người, Thánh nhân cũng c̣n cho đó là việc đáng lo. Huống hồ kẻ nột tử gần đây, chỗ thông minh của họ th́ không thông suốt được vật t́nh, chỗ thấy nghe nhiều của họ, cũng chỉ như nh́n qua lỗ hổng. Đối với chúng th́ trái với ư muốn, đối với đạo th́ trái với đường lối. Cùng sùng chuộng nhau ở chỗ dối, cùng che đây nhau ở chỗ trá. Khiến cho cái đạo của Phật Tổ bời bời mà càng ngày càng mỏng manh, thực không thể cứu văn được. 
Thư đáp Lỗ Trực. 

85.- CHỮ HÁN: Trạm Đường vị Diệu Hỷ viết: Tượng quí Tỳ khưu, ngoại đa tuẫn vật, nội bất minh tâm, túng hữu hoằng vi, giai phi cứu kính. Cái sở phu ty ổi nhi sử nhiên. Như đoàn ngưu chi manh, phi chỉ sổ bộ, nhuợc phu kư vĩ, tiện hữu truy phong trục nhật chi năng, năi ư thác chi thắng dă. Thị cố học giả, cư tất trạch xứ, du tất tựu sĩ, toại năng tuyệt xà tích, cận trung chính văn chính ngôn dă. Tích Phúc Nghiêm Nhă Ḥa thượng, mỗi ái Chân Như Triết, tiêu trí khả thượng, đăn vị tri sở phụ giả hà nhân. Nhất nhật kiến dữ Đại Ninh Khoan, Tưởng Sơn Nguyên, Thúy Nham Chân giai hành. Nhă hỷ bất tự thắng, thung dung vị Triết viết: "Chư đại sĩ pháp môn long tượng, tử đắc ṭng chi du, dị nhật chi ngô đạo chi khuynh đồi, chương tổ giáo chi lợi tế, cố bất tại dư chi đa chúc dă" 
Nhất Thiệp Kư. 

85.- DỊCH NGHĨA: Trạm Đường bảo Diệu Hỷ rằng (1): Tỳ khưu thời Tượng quí (2), bề ngoài phần nhiều chạy theo vật chất, bên trong chẳng minh được tâm tính, ví có hoằng dương đạo pháp, đều chẳng phải là cứu cánh. Bởi lẽ v́ nương vào chỗ thấp kém mà khiến đến thế. Cũng ví như con nhặng (ve) trâu, bay chỉ được vài bước, nhưng nếu nương vào đuôi con ngựa kư th́ nó có khả năng lướt gió đuổi ngày. Đó là lẽ hơn của sự nương cậy vậy. Thế nên người học, ở ắt phải chọn nơi, chơi tất phải t́m bạn, liền hay dứt được tà vạy, gần được chỗ trung chính, và nghe được chính ngôn. Xưa kia Phúc Nghiêm Nhă (3) Ḥa thượng chỉ yêu chuộng phần tiêu biểu cao vút của mỗi Chân Như Triết, nhưng chưa biết chỗ Triết nương tựa vào người nào. Nhân một ngày thấy Triết cùng Đại Ninh Khoan (4), Tưởng Sơn Nguyên (5), Thúy Nham Chân (6) cùng đi với nhau. Nhă vui mừng khôn xiết, liền thung dung bảo Triết rằng: "Chư đại sĩ (7) là những bậc long tượng (8) trong pháp môn, ông được đi theo với các ngài du hành, ngày khác sẽ chống giữ cái suy đồi của đạo ta, làm rực rỡ chỗ lợi tế của Tổ giáo, thật không cần ở chỗ di chúc nhiều của ta vậy". 
Nhất Thiệp Kư. 

CHÚ THÍCH: 

(1): Đoạn này ư nói các Tỳ khưu thời Mạt pháp không kịp được cái đức độ của cổ nhân, và răn dạy phải chọn bạn tốt để giao tế. 
(2) Tượng quí: Thời Tượng pháp và Mạt pháp. 
(3) Phúc Nghiêm Nhă: Phúc Nghiêm Lương Nhă thiền sư, pháp tự của Đỗng Sơn Thủ Sơ, đời thứ 8 phái Thanh Nguyên. 
(4) Đại Ninh Khoan: Đại Ninh Khoan Đạo thiền sư, pháp tự của Thạch Sương Sở thiền sư, đời thứ 11 phái Nam Nhạc. 
(5) Tưởng Sơn Nguyên: Tán Nguyên Giác Hải thiền sư, pháp tự của Thạch Sương. 
(6) Thúy Nham Chân: Thúy Nham Khả Chân thiền sư. 
(7) Đại sĩ: Người có tâm quảng đại hay đảm được được Phật sự. 
(8) Long tượng: Long là ḍng vua loài thủy tộc, tượng là voi vua loài thú trên cạn, dụ cho người có tài xuất chúng. 

86.- CHỮ HÁN: Trạm Đường vị Diệu Hỷ viết: Tham thiền tu yếu, thức lự cao viễn, chí khí siêu mại, xuất ngôn hành sự, tŕ tín ư nhân, vật tùy thế lợi cẩu uổng, tự nhiên bất vi bằng bối miêu mô, thời sở thượng hạ dă. 
Bảo Phong Kư Văn. 

86.- DỊCH NGHĨA: Trạm Đường bảo Diệu Hỷ rằng (1): Người tham thiền cần phải có trí thức cao xa, chí khí vượt mức, lời nói và việc làm phải giữ ḷng tin với người, chớ có theo thế lợi mà cẩu thả làm càn. Như thế tự nhiên chẳng bị mô tả bởi bè bạn, chẳng bị cao thấp bởi nơi chốn vậy. 
Bảo Phong Kư Văn. 

CHÚ THÍCH: 

(1): Đoạn này ư nói sự siêu việt của nột tử không phải là mục tiêu của người thường. 

87.- CHỮ HÁN: Trạm Đường viết: Dư tích đồng Linh Nguyên thị Hối Đường ư Chương Giang tự. Linh Nguyên nhất nhật dữ nhị Tăng nhập thành, chí văn phương qui. Hối Đường nhân vấn: "Kim nhật hà văng?" Linh Nguyên viết: "Thích văng Đại Ninh lai". Thời Tử Tâm tại bàng lệ thanh ha viết: "Tham thiền dục thoát sanh tử, phát ngôn tiên yếu thành thực, thanh huynh hà đắc vọng ngữ". Linh Nguyên nhiệt diện bất cảm đối. Tự nhĩ bất nhập thành quách, bất vọng phát ngôn. Dư cố tri, Linh Nguyên, Tử Tâm giai lương khí dă. 
Nhất Thiệp Kư. 

87.- DỊCH NGHĨA: Trạm Đường nói: Ta trước cùng với Linh Nguyên cùng thị giả Hối Đường ở chùa Chươong Giang. Linh Nguyên một ngày cùng với hai ông Tăng vào thành măi tối mới trở về. Hối Đường thấy thế hỏi: "Ngày hôm nay đi đâu?" Linh Nguyên nói: "Vừa đi chùa Đại Ninh trở về". Trong lúc đó Tử Tâm (1) ở bên cạnh lớn tiếng mắng rằng: "Tham thiền cần ở chỗ thoát sanh tử, phát ngôn cần phải thành thật, ông anh sao lại được vọng ngữ". Linh Nguyên đỏ mặt chẳng dám đáplại. Từ đó về sau, không dám vào thành quách, và cũng không phát ngôn bừa băi nữa. Nên ta biết Linh Nguyên và Tử Tâm đều là đồ dùng tốt vậy. 
Nhất Thiệp Kư. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Tử Tâm: tức Ngộ Tâm thiền sư, pháp tự của Hoàng Long Tổ Tâm thiền sư, đời thứ 13 phái Nam Nhạc. 

88.- CHỮ HÁN: Trạm Đường viết: Linh Nguyên hiếu duyệt kinh sử, thực tức vị thường thiểu khế, cận năng bối phúng năi chỉ. Hối Đường nhân ha chi. Linh Nguyên viết: "Thường văn, dụng lực chi giả, thu công viễn". Cố Hoàng Thái Sử Lỗ Trực viết: "Thanh huynh hiếu học như cơ khát chi thị ẩm thực, thị lợi dưỡng phân hoa nhược ố xú. Cái kỳ thành tâm tự nhiên phi đặc nhĩ dă". 
Chế Vưu Tập. 

88.- DỊCH NGHĨA: Trạm Đường nói (1): Linh Nguyên thích xem kinh sử, ăn xong chưa từng nghỉ ngơi một chút nào, vội đọc kinh sử cho tới khi thuộc ḷng mới thôi. Hối Đường thấy thề liền trách mắng. Linh Nguyên nói: "Tôi từng nghe dùng sức nhiều th́ thu công cũng xa". Nên Hoàng Thái Sử Lỗ Trực nói: "Ông anh hiếu học, như đói thích ăn, như khát thích uống, coi lợi dưỡng phồn hoa như phân rác". Đó có lẽ là chỗ tự nhiên của tâm thành thật nên mới được như thế. 
Cửu Phong Tập. 

CHÚ THÍCH: 

(1): Đoạn này ư nói cổ nhân hiếu học là tự nơi đáy ḷng thành thật phát ra. 

89.- CHỮ HÁN: Linh Nguyên Thanh Ḥa thượng trụ Thư Châu Thái B́nh. Mỗi kiến Phật Nhăn, lâm chúng chu mật, bất thậm thất sự. Nhân vấn kỳ yếu, Phật Nhăn viết: "Dụng sự ninh thất ư khoan, vật thất ư cấp, ninh thất ư lược, vật thất ư tường. Cấp tắc bất khả cứu, tường tắc vô sở dung, đương tŕ chi ư trung đạo, đăi ch́ hàm hoăn, thứ cơ vi lâm chúng hành sự chi pháp dă". 
Thập Di. 

89.- DỊCH NGHĨA: Linh Nguyên Thanh Ḥa thượng trụ tŕ chùa Thái B́nh ở Thư Châu, thường thấy Phật Nhăn (1) khi làm chúng rất chu đáo tế mật, chẳng phạm việc lầm lỗi. Nhân hỏi cái yếu chỉ đó. Phật Nhăn nói: "Dùng việc thà mất ở chỗ khoan, chớ nên mất ở chỗ cấp. Thà mất ở chỗ lược, chớ nên mất ở chỗ tường. Cấp thời chẳng thề cứu được, tường thời không thể dung được. Nên phải giữ nó ở phần trung đạo, dùng cách khoan thai chậm chạp để đối xử với mọi công việc. Có như thế, ngơ hầu mới làm cái pháp tắc cho cách tới chúng làm việc vậy" (2). 
Thập Di. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Phật Nhăn: tức Thanh Viễn thiền sư ở chùa Long Môn thuộc Thư Châu. 
(2): Câu này đại ư nói người tiếp chúng phải thích nghi cả vội và khoan để khỏi mất đạo trung dung. 

90.- CHỮ HÁN: Linh Nguyên vị Trường Linh Trác Ḥa thượng viết: Đạo chi hành cố tự hữu thời. Tích Từ Minh phóng ư ư Kinh Sở gian, hàm sỉ nhẫn cấu, kiến giả hốt chi. Từ Minh tiếu nhi dĩ. Hữu vấn ḱ cố, đối viết: "Liên thành dữ ngơa lịch tương xúc dư cố tri bất thắng hỹ". Đăi kiến Thần Đỉnh hậu, dự bá tùng lâm, chung khởi Lâm Tế chi đạo. Ta hồ, đạo dữ thời dă, cẩu khả cưỡng hồ. 
Bút Thiếp. 

90.- DỊCH NGHĨA: Linh Nguyên bảo Trường Linh Trác (1) Ḥa thượng rằng: Làm việc đạo, cố nhiên tự nó cũng có thời. Xưa kia Từ Minh, khi tham học ở đất Kinh Sở, phải ngậm ngùi những điều sĩ nhục, nhẫn những việc nhơ nhuốc, có kẻ thấy thế coi thường ngài. Từ Minh chỉ mỉm cười mà thôi. Nhân có người hỏi về nguyên cớ. Ngài đáp: "Ngọc Liên thành (2) cùng ngơa lịch cùng lẫn với nhau, cố nhiên ta biết chẳng thế hơn vậy". Kịp sau khi thấy Thần Đỉnh (3) th́ Từ Minh được tiếng khen khắp chốn tùng lâm, làm nổi bậc cái đạo của Lâm Tế (4). Than ôi! Đạo cũng phải cùng với thời vậy, người ta sao có thể miễn cưỡng được vậy ư". 
Bút Thiếp. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Trường Linh Trác: Trường Linh Thủ Trách thiền sư, pháp tự của Linh Nguyên Thanh thiền sư, trụ tŕ chùa Thiên Ninh ở Đông Kinh, đời thứ 14 phái Nam Nhạc. 
(2) Liên thành: Nước Triệu có viên ngọc Bích Biện Ḥa. Chiêu Vương nhà Tần muốn đem mười lăm thành tŕ liền nhau để đổi lấy viên ngọc quí. Nước Triệu bèn phái Tương Như đem ngọc Bích vào nhà Tần. Tương Như nhận thấy Tần Vương duy chỉ có tâm yêu thích viên ngọc Bích, không có ư định cắt thành để đổi. Tương Như bèn nói dối rằng: "Viên ngọc Bích có t́ vết, xin cho thần xem lại". Vua trao ngọc Bích cho Tương Như. Tương Như liền cầm ngọc Bích tựa vào cột mà đứng, khí giận xung thiên mà nói rằng: "Thần nghe những kẻ áo vải giao kết với nhau cũng c̣n chẳng nỡ dối nhau nữa là mang danh một đại quốc vậy ư? Vua nếu cấp bức thần, th́ đầu thần cùng với viên ngọc Bích này đều vỡ nát ở bên cột". Vua sợ ngọc Bích vỡ, liền khiến người đỡ Tương Như ra khỏi cột, và trả ngọc Bích về cho nước Triệu. 
(3) Thần Đỉnh: Thần Đỉnh Hồng Đàm thiền sư, người Đàm Châu, pháp tự của Thủ Sơn Niệm thiền sư, đời thứ 9 phái Nam Nhạc, trụ tŕ chùa Thần Đỉnh, người đă làm cho chốn tông môn được hưng thịnh, các môn đệ của ngài đều lỗi lạc hơn các môn phái khác. Do thế, Từ Minh để tóc dài không cắt, mặc áo rách tới tham đạo ở Thần Đỉnh. Thần Đỉnh nói: "Ta nghe nói đất Phần Dương có Tây Hà Sư Tử phải hay không?" Từ Minh nhờ thế mà lănh ngộ, sau tên tuổi ngài được vang lừng bốn phương. 
(4) Lâm Tế: Lâm Tế Nghĩa Huyền thiền sư, thủy tổ của Lâm Tế tông, pháp tự của Hoàng Nghiệt Hy Vận. 

91.- CHỮ HÁN: Linh Nguyên vị Hoàng Thái Sử viết: Cổ nhân vân: "Băo hỏa thố vu tích tân chi hạ, nhi tẩm kỳ thượng, hoả vị cập nhiên, cố dĩ vi an". Thử thành dụ an nguy chi cơ, tử sinh chi lư, minh như cảo nhật, gián bất dụng phát. Phù nhân b́nh cư yến xứ, hăn dĩ sinh tử họa hoạn vi lự. Nhất đán sự xuất bất trắc, phương đốn túc ách uyển nhi cứu chi, chung mạc năng tế hỹ. 
Bút Thiếp. 

91.- DỊCH NGHĨA: Linh Nguyên bảo Hoàng Thái Sử rằng: Cổ nhân nói: "Gấp lửa để vào đống củi khô mà ngủ ở trên đó, lửa khi chưa cháy tới, dĩ nhiên c̣n lấy làm yên" (1). Đó chính là lời dụ về cái cơ an nguy, cái lư sinh tử, sáng tỏ như ban ngày, chẳng sót đường tơ kẻ tóc. Ôi! Con người khi ở lúc b́nh thường ít ai biết lấy việc họa hoạn của sinh tử làm lo lắng. Nhất đán, nếu sự việc bất trắc xảy ra, lúc ấy mới nhanh chân xốc cánh tay mà cứu đấy, kết cục cũng chẳng hay cứu được vậy (2). 
Bút Thiếp. 

CHÚ THÍCH: 

(1): Đoạn này ư nói, sinhtử là việc lớn, ngườitu đạo cần phải cảnh giới cái tâm ở lúc b́nh thường. 
(2): Câu này ư nói, ba cơi không yên, ví như nhà lửa. Đoạn này trích trong văn sớ của Lương Thái Phó Cổ Nghi dâng vua Hán Minh Đế ở năm thứ sáu, trong đó có câu: "Phù bảo hỏa thố vu tích tán chi hạ, nhi tẩm kỳ thượng, hỏa vị cập nhiên, cố vị chi an". 

92.- CHỮ HÁN: Linh Nguyên vị Phật Giám viết: Phàm tiếp Đông Sơn sư huynh thư vị thường ngôn thế đế sự, duy đinh ninh vong khu hoằng đạo, dụ địch hậu lai nhi dĩ. Cận đắc thư vân: "Chư trang hạn tổn, ngă tổng bất ưu, chỉ ưu thiền gia vô nhăn". Kim hạ bách dư nhân, thất trung cử cá cẩu tử vô Phật tính thoại, vô nhất nhân hội đắc, thử khả vi ưu. Chí tai tư ngôn. Dữ ưu viện môn bất tiện, phạ quan nhân hiềm trách, lự thanh vị bất đương, khủng đồ thuộc bất thịnh giả, thực tiêu nhương hỹ. Mỗi niệm thử xứng thực chi ngôn, khởi phục đắc văn. Ngô diệt vi đích tự, năng lực chấn gia phong, đương úy tông thuộc chi vọng, thị sở thiết đảo. 
Thiêm Thị Giả Nhật Lục. 

92.- DỊCH NGHĨA: Linh Nguyên bảo Phật Giám rằng: Phàm tiếp được thư của Đông Sơn sư huynh, chưa từng bao giờ nói tới chuyện thế đế, duy khắn đáu về việc quên ḿnh hoằng đạo để d́u dắt kẻ lại sau mà thôi. Gần đây c̣n nhận được thư thấy chép rằng: "Các nơi đại hạn mất mùa, ta vốn chẳng lo, chỉ lo người trong thiền gia không mắt". Hiện nay ngồi hạ có tất cả hơn một trăm người. Trong chốn trượng đường, ta nhắc tới câu cẩu tử không có Phật tính (1), mà không có một người nào lănh hội được, đó có thể mới là mối lo vậy. Lời nói ấy thật là chí lư. Mối lo này đem so sánh với lo cho công việc trong tự viện chẳng được chu đáo, sợ sự hiềm trách của quan nha, lo phần thanh danh chẳng được lừng lẫy, lo trong tông đồ quyến thuộc chẳng được thịnh đạt, th́ quả thật là xa cách nhau một trời một vực vậy. Mỗi khi ta nghĩ đến những lời đúng lẽ thật đó, nay đâu c̣n được nghe thấy nữa. Con cháu ta muốn nối dơi sự nghiệp của ta, thời phải tận lực làm hưng thịnh gia phong, phải an úy chỗ mong muốn của tông tộc, đó là điều ta tha thiết kỳ vọng. 
Thiềm Thị Giả Nhật Lục. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Cẩu tử không có Phật tính: Trong Triệu Châu Lục chép: Có vị Tăng hỏi Triệu Châu: "Con chó có Phật tính hay không?" Ngài trả lời: "Không". Vị Tăng lại hỏi: "Trên từ chư Phật dưới đến các loài hàm thức, đều có Phật tính, tại sao con chó lại không có Phật tính?" Ngài đáp: "V́ nghiệp thức nên mới có tính". 

93.- CHỮ HÁN: Linh Nguyên viết: Ma lung chỉ lệ, bất kiến ḱ tổn, hũu thời nhi tận. Chủng thụ súc dưỡng, bất kiến ḱ ích, hữu thời nhi đại. Tích đức lũy hành, bất tri ḱ thiện, hữu thời nhi dụng. Khí nghĩa bội lư, bất tri ḱ ác, hữu thời nhi vong. Học giả quả thục kế nhi tiễn chi, thành đại khí, bá mỹ danh. Tư kim cổ bất dịch chi đạo dă. 
Bút Thiếp. 

93.- DỊCH NGHĨA: Linh Nguyên nói (1): Cối xay đá mài ta chẳng nhận thấy chỗ tổn của nó, mà có lúc hết. Trồng vây vun tưới, ta chẳng thấy chỗ ích của nó, mà có lúc lớn. Tích đức làm măi, chẳng biết đó là thiện, nhưng có lúc đắc dụng. Bỏ nghĩa trái đạo, chẳng biết đó là ác, nhưng có lúc phải mất. Người học nếu nương vào cái kế thành thục của kết quả mà bền chí noi theo, th́ có thể thành đạt được đại khí, lừng lẫy được tiếng thơm. Đó là con đường bất di bất dịch của xưa và nay. 
Bút Thiếp. 

CHÚ THÍCH: 

(1): Toàn thể đoạn này là trích lời can vua nước Ngô trong Mai Thừa Truyện sách Hán.

94.- CHỮ HÁN: Linh Nguyên vị Cổ Ḥa thượng viết: Họa phúc tương ỷ, cát hung đồng vực, duy nhân tự triệu, an khả bất tư. Hoặc nguyên kỷ chi hỷ nộ, nhi ải ư hàm dung, hoặc tam tư mi phí, nhi ṭng nhân chi sở dục, giai phi trụ tŕ chi cấp. Tư thực tứ tứ chi du tiệm, họa hại chi cơ nguyên dă. 
Bút Thiếp. 

94.- DỊCH NGHĨA: Linh Nguyên bảo Cổ Ḥa thượng(1) rằng: Họa phúc cùng dựa nhau, tốt xấu cùng lănh vực, duy con người tự vời lấy sao lại chẳng suy nghĩ (2). Hoặc chỉ nương vào chỗ mừng giận của ḿnh mà hẹp ở chỗ khoan dung nhẫn nại, hoặc tự tâm xa xỉ hoang phí mà theo chỗ mong muốn của người, đều chẳng phải là việc khẩn cấp của người trụ tŕ. Đó quả thật là mầm móng của dông dỡ, là nền móng của họa hoạn vậy. 
Bút Thiếp. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Cổ Ḥa thượng: Linh Phong Tuệ Cổ thiền sư, pháp tự của Linh Nguyên Thanh thiền sư, đời 14 phái Nam Nhạc. 
(2): Câu này ư nói tốt xấu, đại họa phúc là đều do con người tự rước lấy. Lăo Tử nói: "Họa là chỗ dựa của phúc, phúc là chỗ núp của họa, dễ ai hay biết được tới chỗ cùng cực đó vậy". 

95.- CHỮ HÁN: Linh Nguyên vị Y Xuyên Tiên sinh viết: Họa năng sinh phúc, phúc năng sinh họa. Họa sinh ư phúc dă, duyên xử tai ách chi tế, thiết ư tư an, thâm ư cầu lư, toại năng ḱ uư kính cẩn, cố phúc chi sinh dă nghi hỹ. Phúc sinh ư họa giả, duyên cư an thái chi thời, túng ḱ xa dục, tứ ḱ kiêu đăi vưu đa, khinh hốt vũ nạm cố, họa chi sinh dă nghi hỹ. Thánh nhân vân: "Đa nạn thành ḱ chí, vô nạn táng ḱ thân, đắc năi táng chi đoan, táng năi đắc chi lư". Thị tri, phúc bất khả lũ kiêu hănh, đắc bất khả thường kí du. Cư phúc dĩ lự họa, tắc ḱ phúc khả bảo, kiến đắc nhi lự táng, tắc ḱ đắc tất trăn. Cố quân tử an bất vong nguy, lư bất vong loạn giả dă. 
Bút Thiếp. 

95.- DỊCH NGHĨA: Linh Nguyên bảo Y Xuyên (1) Tiên sinh rằng: Họa hay sinh phúc, phúc hay sinh họa. Họa hay sinh phúc là v́ ngoại duyên tuy gặp tai ách, nhưng vẫn tha thiết nghĩ đến chốn an vui, thâm khắc ư mong cầu đạo lư, bèn hay run sợ kính cẩn, do thế nên phúc mới sanh. Phúc sinh ra họa là do ngoại duyên tuy sống an lành, nhưng v́ lại phóng túng xa hoa, ham muốn dông dỡ, lười biếng ngày càng nhiều, rồi trở nên khinh nhờn lừa gạt, do thế nên họa mới sanh. Thánh nhân nói: "Nếu gặp nhiều gian nan th́ chí người đó thành, nếu không có gian nan th́ thân người đó mất. Được tức là đầu mối của mất, mất tức là nguyên lư của được". Thế nên biết, có phúc thời không nên kiêu hănh, đă được thời không nên mong mỏi hoài. Lúc đang yên ở phúc th́ phải lo tới khi mắc họa, thời cái phúc đó mới có thể giữ được bền. Lúc được mà lo đến khi bi mất, thời cái được đó tất nhiên đến. Cho nên người quân tử lúc yên chẳng quên lúc nguy, lúc trị chẳng quên lúc loạn là thế vậy. 
Bút Thiếp. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Y Xuyên Tiên sinh: Tiên sinh đây không có nghĩa là sinh trước hay sinh sau mà có nghĩa là tiên giác hậu giác. Y Xuyên họ Tŕnh, tên là Hạo, tên chữ là Chính Thúc, người đất Hà Nam, đời gọi là Y Xuyên Tiên sinh. 

96.- CHỮ HÁN: Linh Nguyên vị Y Xuyên tiên sinh viết: Phù nhân hữu ố ḱ tích, nhi húy kỉ ảnh, khước bối nhi tẩu giả, nhiên tẩu du cấp, tích du đa, nhi ảnh du tật, bất như tữu ấm nhi chỉ, ảnh tự diệt nhi tích tự tuyệt hỹ. Nhật dụng minh thử, khả tọa tiến tư đạo. 
Bút Thiếp. 

96.- DỊCH NGHĨA: Linh Nguyên bảo Y Xuyên tiên sinh rằng: (1) Ôi! Có người ghét cái dấu chân mà sợ cái bóng của ḿnh, rồi giật lùi mà chạy, song càng chạy gấp, th́ dấu càng nhiều mà bóng lại càng nhanh, chẳng bằng tới chỗ bóng rợp mà ngừng lại, thời bóng chẳng tự diệt mà dấu cũng tuyệt vậy. Việc dùng thường ngày mà rơ được như thế thời có thể an tọa mà tiến được đạo này vậy. 
Bút Thiếp. 

CHÚ THÍCH: 

(1): Đoạn này đại ư nói về cái yếu điểm bỏ vọng t́m chân, tức là xả vọng qui chân, cầu tới chỗ tâm không sinh diệt. 

97.- CHỮ HÁN: Linh Nguyên viết: Phàm trụ tŕ vị, quá ḱ nhậm giả, tiển khắc hữu chung. Cái phúc đức thiển bạc, độ lượng hiệp ải, văn kiến bỉ lậu, hựu bất năng ṭng thiện vụ nghĩa, dĩ tự quảng nhi chí nhiên dă. 
Nhật Lục. 

97.- DỊCH NGHĨA: Linh Nguyên nói (1): Phàm ngôi trụ tŕ, nếu người ta ra gánh vác mà vượt quá cái khả năng của ḿnh th́ ít hay được trọn vẹn. Bởi lẽ, phúc đức nông cạn, độ lượng hẹp ḥi, thấy nghe vụng về, lại chẳng hay theo điều thiện làm việc nghĩa, để tự rộng cái đức độ mà đưa đến thế vậy. 
Nhật Lục. 

CHÚ THÍCH: 

(1): Đoạn này ư nói, ra gánh vác công việc cần phải thích hợp với khả năng của ḿnh, không được vượt mức. 

98.- CHỮ HÁN: Linh Nguyên văn Giác Phạm biếm thoái lĩnh hải, thán viết: Lan thực trung đồ, tất vô kinh thời chi thúy quế sinh u hác, chung băo di niên chi đan. Cổ kim tài chí táng thân, sàm báng lụy họa giả đa, cầu ḱ dữ thế phù trầm, năng bảo ḱ thân giả thiểu. Cố thánh nhân ngôn: "Đương thế thông minh thâm sát, nhi cận ư tử giả, hiếu nghị nhân giả dă. Bác biện hoằng đại, nhi nguy ḱ thán giả, hiếu phát nhân chi ác dă". Tại Giác Phạm hữu chi hỹ. 
Chương Giang Tập. 

98.- DỊCH NGHĨA: Linh Nguyên nghe biết Giác Phạm (1) phải giam ngoài lĩnh hải, bèn than rằng: Lan trồng giữa đường, tất nhiên không thể xanh tốt thường xuyên được. Quế sinh trong hang núi âm u, chỉ quanh năm là tể thuốc kinh niên. Xưa nay những người có tài năng trí tuệ, họ phải táng thân mệnh rất nhiều, chỉ v́ sự phỉ báng dèm pha của người đời mà mắc họa. T́m những người cố công cùng với đời ch́m nổi, mà hay bảo toàn được thân mạng cũng rất ít. Cho nên, Thánh nhân (2) nói: "Người thông minh sáng suốt ở đương thời, lại hay gần kề với cái chết, là v́ họ thích nghị luận về người. Người biện bác cao rộng, mà hay nguy đến thân, là v́ họ hay bới cái xấu của người". Giác Phạm (3) chính cũng ở trường hợp đó vậy. 
Chương Giang Tập. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Giác Phạm: tức Đức Hồng thiền sư, tên chữ là Giác Phạm, ở chùa Thanh Nguyên thuộc Thụy Châu, pháp tự của Chân Tịnh Văn thiền sư, đờithứ 14 phái Nam Nhạc. Ngài là người quảng học đa văn, có biện tài vô ngại, và là tác giả cuốn "Lâm Gian Lục Tăng Bảo Truyện". 
(2) Thánh nhân: Thánh nhân đây chỉ vào Lăo Tử. Theo sử kư, ngài Khổng Tử đến nước Chu, thấy Lăo Tử. Lăo Tử nói: "Ta nghe người giàu sang tiển người bằng của cải, người nhân đưa tiển bằng lời nói. Ta tuy chẳng giàu sang, mà cũng lạm dụng cái hiệu của nhân giả, nay tiển ngài bằng lời nói: Kẻ sĩ đương thời thông minh sáng suốt, mà lại gần kề với cái chết, là v́ họ hay nghị luận về người. Kẻ có tài biện bác cao rộng, mà lại hay nguy đến thân. là v́ họ hay bới cái xấu của người. Người làm thần tử, há lại chẳng cẩn thận vậy ư?" 
(3) Giác Phạm: là người đả phá cái thuyết Cổ tháp chủ biện trái của Thần Tú, phá bỏ chỗ trái của Nhị Tổ... nên Linh Nguyên chỉ Giác Phạm là người hay bới cái xấu của người. 

99.- CHỮ HÁN: Linh nguyên vị Giác Phạm viết: Văn tại Nam Trung thời, cứu Lăng Nghiêm đặc gia tiên thích, phi bất tiếu sở vọng. Cái văn tự chi học bất năng đổng đương nhân chi tính nguyên, đồ dữ hậu học chướng tiên Phật, tri chí nhăn. Bệnh tai y tha tác giải, tắc tự ngô môn, tư khẩu thiệt tắc khả thắng thiển văn, khuếch thần cơ chung, nan cực diệu chứng. Cố ư hành giải đa chi Xam xi, nhi nhật dụng kiến văn vưu tăng ẩn muội giả. 
Chương Giang Tập. 

99.- DỊCH NGHĨA: Linh Nguyên bảo Giác Phạm rằng: Ta nghe khi ngài ở Nam Trung, nghiên cứu kinh Lăng Nghiêm, đặc biệt lại thêm phần chú thích. Đó thật chẳng phải là chỗ mong muốn của kẻ hèn này. Vi lẽ, cái học của văn tự, không hay thông suốt được cái tính nguyên của người đương thời, c̣n để kẻ hậu học ngăn mất con mắt tuệ của tiền Phật. V́ sự trở ngại y vào chỗ giải thích của người, mà lấp mất cái cửa tự ngộ. Nhờ phần khẩu thiệt thời họ có thể hơn được kẻ thiển học, nhưng phần mở rộng thần cơ thời trọn khó chứng được cực diệu. Cho nên chỗ thực hành và hiểu biết th́ so le nhau quá xa, mà chỗ thấy nghe thường ngày lại càng thêm lờ mờ vậy. 
Chương Giang Tập. 

100.- CHỮ HÁN: Linh Nguyên viết: Học giả cử thố bất khả bất thẩm, ngôn hành bất khả bất kê. Quả ngôn giả vị tất ngu, lợi khẩu giả vị tất trí. Bỉ phác giả vị tất bội, thừa thuận giả vị tất trung. Cố thiện trí thức bất dĩ từ tận nhân t́nh, bất dĩ ư tuyển học giả. Phù hồ hải nột tử, thùy bất dục cầu đạo, ư trung ngô minh kiến lư giả, thiên bách vô nhất. Kỳ gian tu thân lệ hành, tụ học thụ đức, phi tam thập niên nhi bất năng trí, ngẫu nhất sự quá sai nhi tùng lâm khí chi tắc chung thân bất khả lập. Phù Diệu thặng chi châu, bất năng vô lỗi, liên thành chi bích, bất miễn vô hà. Phàm tại hữu t́nh, an đắc vô cữu. Phu Tử Thánh nhân dă, do dĩ ngữ thập học Dịch, vô đại quá vi ngôn. Khế kinh tắc viết: " Bất phạ niệm khởi, duy khủng giác tŕ". Huống tự Thánh hiền dĩ giáng, thục vô quá thất tai. Tại thiện trí thức khúc thành, tắc phẩm vật bất di hỹ. Cố viết, sảo tử thuận luân giác chi dụng, uổng trực vô phế tài. Lương ngự thích hiểm dị chi nghi, nô kư vô thất tính. Vật kí như thử, nhân diệc nghi nhiên. Nhược tiến thoái tùy ái tăng chi t́nh, ly hợp hệ dị đồng chi thú, thị do xả thằng mặc nhi tài khúc trực, khí quyền hành nhi giảo trọng khinh. Tuy viết tinh vi, bất năng vô mậu hỹ. 

100.- DỊCH NGHĨA: Linh Nguyên nói: Người học khi động khi tĩnh không thể xem xét kỹ lưỡng, nói và làm không thể không kê cứu tinh tường. Người nói ít chưa ắt là kẻ ngu, kẻ lợi khẩu chưa ắt đă là trí. Người quê mùa chất phác chưa hẳn đă là trái lư, kẻ vâng thuận chưa ắt đă là trung thực. Nên người thiện trí thức chẳng lấy lời mà biết hết được t́nh người(1), chẳng lấy ư để tuyển chọn người học. Ôi! Kẻ nột tử trong chốn hồ hải, ai lại chẳng muốn cầu đạo, nhưng ở trong số đó, những người biết rơ thấy lư, th́ trong ngàn người không được một. Trong đó, những người tu thân, gắng gỏi thực hành, tụ họp sự học, tài bồi cây đức, nếu không tốn công phu trong ba mươi năm trời, thời sao hay đến được. Nếu chợt gặp một việc quá sai lầm th́ chốn tùng lâm sẽ bỏ họ, trọn đời không thể lập thân được. Ôi! Ngọc châu Diệu Thặng (2) không thể không có dấu, ngọc Bích Liên thành sao tránh được không vết. Phàm là loài hữu t́nh, làm thế nào mà tránh khỏi lầm lỗi. Phu Tử là Thánh nhân, cũng c̣n năm mươi năm học Dịch (3) không phải là lời nói thái quá. Khế kinh(4) thời nói: "Chẳng sợ vọng niệm khởi, chỉ sợ giác ngộ chậm". Huống hồ, từ bậc Thánh hiền trở xuống, ai lại không có lỗi lầm vậy thay. Nếu có bậc thiện trí thức uốn nắn, thời phẩm vật (5) chẳng bỏ sót vậy. Cho nên nói người thợ khéo tùy chỗ xử dụng mà làm bánh xe hay càng xe, th́ phần cong phần thẳng của gỗ không uổng phí (6). Người khéo cưỡi ngựa, biết thích nghi với con đường nguy hiểm hay dễ dàng, nên không mất cái tính của ngựa nô ngựa kư (7). Vật đă như thế, người cũng nên thế vậy. Nếu tiến thoái theo cái t́nh yêu ghét, ly hợp liên hệ ở chốn đồng hay di thế là do nơi bỏ dây mực mà cắt đường cong, thẳng, bỏ cân lường mà so sánh nặng nhẹ, dầu nói rằng tinh vi, nhưng sao tránh khỏi lầm lẫn vậy. 

CHÚ THÍCH: 

(1): Thời vua Đức Tôn, niên hiệu Chính Nguyên đời Tống, Binh Bộ Thị Lang Lục Chí can vua rằng: "Minh Vương không thể lấy lờ́ mà hết được t́nh, không lấy ư mà tuyển chọn tiến sĩ. Tiến thoái theo cái t́nh yêu ghét, ly hợp lệ ở chỗ dị đồng, thế là bỏ chỗ dây mực mà cắt đường cong, thẳng, bỏ cân lường mà lấy tay nhắc nặng nhẹ, tuy nói rằng tinh mật, nhưng sao tránh khỏi không lầm lỗi". 
(2) Ngọc châu Diệu thặng: Ngụy Huệ Vương bảo Tề Vương rằng: "Quả nhân có một ngọc châu rất nhỏ mà hay soi sáng được tất cả đằng trước đằng sau trong phạm vi mười hai cỗ xe. 
(3) Học Dịch: Thánh nhân tuy sanh ra đă biết, nhưng chưa từng tự ḿnh nói là ta không có lầm lỗi. Tuy là lời nói khiêm tốn, mà đạo lư thật không cùng tận vậy. Học Dịch thời minh được cái lư cát hung tiêu trưởng, cái đạo tiến thoái tồn vong. Nên Thánh nhân phải nhiều năm để nghiên cứu cho cùng tận nghĩa kinh, ngơ hầu để chỗ thực hành mới không phạm lỗi lầm. 
(4) Khế kinh: Tiếng Phạn gọi là Tu Đa La, Tàu dịch là Khế kinh, có nghĩa là khế lư hợp cơ, tức là pháp của Phật nói ra thích hợp với lư và cơ của chúng sinh. 
(5) Phẩm vật: Nói gom cả những người cao thấp, lớn nhỏ, thông minh, ám độn, kl hông bỏ sót một ai. 
(6) Theo Thiên Thiên Đạo sách Trang Tử: Xưa kia Tề Hoàn Công đọc sách ở trên nhà, Luân Biển đẽo bánh xe ở dưới nhà. Luân Biển buông ŕu hỏi: "Thần dám mạo muội hỏi vua, vua đang đọc sách đó là sách ǵ?" Vua nói: "Lời Thánh nhân". Biển tâu: "Thánh nhân ở đâu?" Vua nói: "Thánh nhân đă chết rồi". Biển tâu: "Vậy th́ vua đang đọc sách đó, đó chỉ là cái bă giả của Thánh nhân vậy". Vua cả giận nói: "Quả nhân đọc sách, ngươi là ngườithợ đẽo bánh xe, sao được xen bàn tới, nếu nói được ta tha, không nói được ta chém đầu". Biển thưa: "Đem ngay việc của thần làm mà xét, thần đây đẽo bánh xe, đẽo từ từ thời trơn tru mà chẳng chắc, đẽo nhanh thời chối tay mà chẳng vào, đẽo chẳng chậm chẳng nhanh đó là việc phải thích nghi ở tâm rồi ứng ra tay. Miệng chẳng hay nói được, mà có hiệu quả thần diệu vậy, thần chẳng hay dạy được người con của thần, người con của thần chẳng hay lănh thụ được cái diệu dụng của thần, thần tuổi đă bảy mươi, mà vẫn là người già đẽo bánh xe. Những người đẽo bánh xe ở thời xưa, v́ không thể truyền được nghề cho người mà chết rất nhiều vậy. Cho nên chỗ đọc sách của nhà vua cũng chỉ là cái bă giả của thánh nhân thôi vậy. Tề Hoàn Công nghe nói rất vui mừng 
(7) Ngựa nô, ngựa kư: Nô là con ngựa hèn, Kư là con ngựa hay, giỏi. 

101.- CHỮ HÁN: Linh Nguyên viết: Thiện trụ tŕ giả, dĩ chúng nhân tâm vi tâm, vị thường tư kỳ tâm. Dĩ chúng nhân nhĩ mục vi nhĩ mục, vị thường tư kỳ mục, toại năng chúng thông chúng nhân chi chí, tận chúng nhân chi t́nh. Phù dụng chúng nhân chi tâm vi tâm, tắc ngă chi hiếu ố, năi chúng nhân chi hiếu ố. Cố hiếu giả bất tà ố giả bất mậu. Hựu an dụng tư thác phúc tâm, nhi cam phục kỳ xiểm mị tai. Kí dụng chúng nhân nhĩ mục vi nhĩ mục, tắc chúng nhân thông minh giai ngă thông minh, cố minh vô bất giám, thông vô bất văn, hựu an dụng tư thác nhĩ mục, nhi cố chiêu kỳ tế hoặc da. Phù bố phúc tâm, thác nhĩ mục, duy hiền đạt chi sĩ, vụ cầu kỷ quá, dữ chúng đồng dục vô sở thiên tư, cổ chúng nhân mạc bất qui tâm, sở dĩ đạo đức nhân nghĩa lư bố hà viễn giả, nghi kỳ nhiên dă. Nhi ngu bất tiếu chi ư, vụ cầu nhân chi quá, dữ chúng vi dục, nịch ư thiên tư, cố chúng nhân mạc bất ly tâm, sở dĩ ác danh hiểm hạnh, truyền bá hà viễn giả, diệc nghi kỳ nhiên dă. Thị tri, trụ tŕ nhân, dữ chúng đồng dục vị chi hiền triết, dự chúng vi dục, vị chi dong lưu. Đại xuất bố phúc tâm, thác nhĩ mục chi ư hữu thù, nhi thiện ác thành bại tương phản như thử, đắc phi cầu quá chi t́nh hữu dị, nhậm nhân chi đạo bất đồng giả tai. 

101.- DỊCH NGHĨA: Linh Nguyên nói: Người khéo trụ tŕ, lấy tâm chúng nhân làm tâm, chưa từng theo ư riêng tâm ḿnh. Lấy tai mắt chúng nhân làm tai mắt, chưa từng ỷ vào tai mắt của riêng ḿnh. Như thế liền hay thông được cái chí của chúng nhân, hết được cái t́nh của chúng nhân. Ôi! khi dùng cái tâm của chúng nhân làm tâm, thời sự yêu ghét của ta là yêu ghét của chúng nhân, nên chỗ yêu không lỗi, chỗ ghét chẳng lầm. Sao lại ỷ lại dùng chỗ tâm phúc riêng của ḿnh mà cam chịu điều xiểm nịnh đó vậy thay. Khi đă dùng tai mắt của chúng nhân làm tai mắt, thời cái thông minh của chúng nhân,đều là cái thông minh của ta, nên soi sáng được khắp nơi, nghe suốt được mọi chốn. Sao lại dùng chỗ ỷ thác vào tai mắt riêng của ḿnh, mà phải mắc vào chỗ che lấp đó vậy thay. Ôi! Việc bày răi nơi tâm phúc, nhờ cậy nơi tai mắt, duy có kẻ hiền đạt, mới chuyên t́m cái lỗi của ḿnh, cùng với chúng đồng một ư muốn không thiên tư, nên tâm chúng nhân ai mà chẳng qui thuận. Sở dĩ đạo đức nhân nghĩa được lưu bố gần xa, là phải làm như thế vậy. Cái lư của kẻ ngu người bất tiếu, th́ chuyên t́m cái lỗi của người, cùng trái với ư muốn của chúng, đắm ch́m vào chỗ thiên tư, nên tâm chúng nhân ai mà chẳng xa lánh. Sở dĩ tiếng xấu hạnh hiểm độc nó truyền bá sâu rộng, mà đưa đến như thế vậy. Thế nên biết, người trụ tŕ cùng chung với ư muốn của chúng, th́ bảo đó là người hiền triết, cùng trái với ư muốn của chúng, th́ bảo đó là hạng thấp hèn. Đại để cái ư bày răi tâm phúc, nương cậy vào tai mắt có khác nhau, mà thiện ác thành bại cũng phản nhau như thế. Đó chính là cái tâm t́m lỗi có khác nhau, cái đạo dùng người chẳng cùng nhau mà thôi vậy (1). 

CHÚ THÍCH: 

(1): Nguyên đoạn này đại ư nói về cái yếu chỉ của người trụ tŕ. 

102.- CHỮ HÁN: Linh Nguyên viết: Cận thế các Trưởng lăo, thiệp nhị chủng duyên, đa kiến trí thức bất minh, vi nhị phong sở xúc táng ư pháp thể. Nhất ứng nghịch duyên, đa xúc suy phong, nhị ứng thuận duyên, đa xúc lợi phong. Kí vi nhị phong sở xúc, tắc hỷ nộ chi khí giao ư tâm, uất bột chi sắc phù ư diện, thị chí thủ nhục pháp môn, cơ tiếu hiền đạt. Duy trí giả thiện năng chuyển vi nhiếp hóa chi phương, mỹ đạo hậu lai. Như Lang Gia Ḥa thượng, văng Tô Châu khán Phạm Hy Văn, nhân thụ tín thí cập thiên dư mân, toại khiển nhân âm kế tại thành chư tự tăng số, giai mật tống tiền, đồng nhật vị chúng đàn thiết trai cụ, tức dự từ Phạm Công, thị nhật xâm tảo phát thuyền, đăi thiên minh, chúng tri dĩ khứ. Hữu truy chí Thường Châu nhi đắc kiến giả, thụ pháp lợi nhi hồi. Quan thử lăo nhất cử, sử Cô Tô đạo tục, tất khởi tín tâm, tăng thâm đạo chủng. Thử sở vị chuyển vi nhiếp hóa chi phương. Dữ phù thiết pháp vị cẩu lợi dưỡng, vi nhật thân chi mưu giả, thực tiêu nhương dă. 
Dữ Đức Hoà Thượng thư. 

102.- DỊCH NGHĨA: Linh Nguyên nói (1): Gần đây người nhậm chức Trưởng lăo, đắm vào hai thứ duyên, nên phần nhiều kiến thức trí tuệ chẳng minh, bị hai thứ gió (2) nó lôi cuốn làm mất pháp thể. Một là ứng với nghịch duyên nên đụng chạm nhiều với suy phong (3). Hai là ứng với thuận duyên nên đụng chạm nhiều với lợi phong (4). Một khi đă bị hai thứ gió đó làm lay động th́ sự mừng giận giao nhau ở tâm, sắc uất hận hiện trên nơi mặt, nên đến nỗi pháp môn bị chuốc nhục, kẻ hiền đạt bị chê hiềm. Duy người trí giả mới hay chuyển nó làm cái phương tiện nhiếp hóa, để dạy cái đẹp cái tốt cho kẻ hậu lai. Như Lang Gia Hoà thượng (5) đi Tô Châu thăm Phạm Hy Văn (6), nhân thế nhận được của tín thí cúng dường hơn ngàn quan tiền, ngài liền bí mật khiến người đi tính Tăng số ở các chùa trong thành, rồi chia đều tiền tới các vị Tăng ở các chùa đó. Cũng ngày hôm ấy, ngài cho đặt tiệc chay cúng dường chúng Tăng và đàn việt và cũng chính là ngay để từ giả Phạm Công, nhưng rồi ngay vào lúc tảng sáng ngày đó, ngài đă đáp thuyền đi sớm, măi tới lúc trời sáng, mọi người mới biết ngài đă đi, có người chạy theo ngài đến măi Thường Châu mới được gặp, được ngài thuyết pháp cho nghe mới chịu quay về. Chỉ đơn cử một việc làm của một bậc Trưởng lăo như thế, mà khiến tất cả kẻ đạo người tục ở khắp Cô Tô đều khởi ḷng tin tưởng, tăng tiến mầm đạo. Đó chính là nghĩa phương tiện chuyển nhiếp hóa. Ôi! Đem việc này mà so sánh với những người chỉ lạm dụng vào ngôi vị, đắm ch́m vào lợi dưỡng, để mưu đồ cho riêng thân ḿnh, th́ thật xa cách nhau như trời vực vậy. 
Thư gởi Đức Ḥa Thương (7). 

CHÚ THÍCH: 

(1): Đại ư đoạn này nói rơ về địa vị người tu hành chân chính, phải thích ứng với hoàn cảnh thuận nghịch, để làm phương tiện khéo léo cho sự giáo hóa. 
(2) Hai thứ gió: Dịch ở chữ nhị phong, tức là suy phong và lợi phong. Theo phẩm Phật Quốc kinh Duy Ma Cật: "Lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc là tám thứ gió không làm lay động được như Lai, cũng như bốn thứ gió thổi núi Tu Di vậy". 
(3) Suy phong: Thứ gió suy diệt. 
(4) Lợi phong: Thứ gió danh lợi. 
(5) Lang Gia Ḥa Thượng: tức Lang Gia Sơn Tuệ Giác Quảng Chiếu thiền sư, pháp tự của Phần Dương Chiếu thiền sư, người Từ Châu, đời thứ 10 phái Nam Nhạc. 
(6) Phạm Hy Văn: Họ Phạm, tên Trịnh Yên, tên chữ là Hy Văn, tên hèm là Văn Chính Công, người đất Nhă Nam, làm quan Tham Tri Chính Sự đời Tống Nhân Tông. 
(7) Đức Hoà Thượng: tức Khâm Sơn Nguyễn Đức thiền sư, người Nùng Châu, pháp tự của Hoàng Long Linh Nguyên Tính Thắng thiền sư. 

103.- CHỮ HÁN: Văn Chính Công vị Lang Gia viết: Khứ niên đáo thử tư đắc lâm hạ nhân khả ngữ giả. Thường vấn nhất lại: "Chư sơ hữu hảo Tăng phủ?". Lại xưng: "Bắc Tự Thụy Quang, Hy Mậu nhị Tăng vi giai". Dư viết: "Thử ngoại chư thuyền luật trung biệt vô gia?" Lại đối dư viết: "Nho tôn sĩ hạnh, tăng luận đức nghiệp. Như Hy Mậu nhị nhân giả, tam thập niên đạp bất việt khổn, y duy bố tố, thanh danh lợi dưỡng, liễu vô sở trệ, cố bang nhân cao kỳ tháo lư nhi sư kính chi. Nhược kỳ đăng tọa thuyết pháp, đại Phật dương hóa, cơ biện tự tại, xưng thiện trí thức giả, phi ngoan lại năng hiểu". Đăi hạ nhật phỏng Hy Mậu nhị thượng nhân, thị kỳ tố hạnh, nhất như lại ngôn. Dư thoái tư, cựu xung Tô tú hảo phong tục, kim quan lăo lại, thượng năng phân quân tử tiểu nhân ưu liệt, huống kỳ thức giả da! Lang Gia viết: "Nhược lại sở ngôn, thành vi cao nghị, thỉnh kư chi dĩ hiểu vị văn". 
Lăng Gia Biệt Lục. 

103.- DỊCH NGHĨA: Văn Chính Công bảo Lang Gia rằng: Năm ngoái đến đây, ta muốn có được người ở trong chốn thiền lâm, để cùng người đó có thể cùng nói chuyện. Ta thường hỏi một viên quan lại: "Có các vị Tăng tốt trong các sơn môn không?" Viên quan lại nói: "Có hai vị Tăng là Hy và Mậu ở chùa Bắc Tự và Thụy Quang (1) được gọi là tốt vậy". Ta lại hỏi: "Ngoài ra, c̣n trong các tôn Thiền và Luật khác không có ai nữa vậy ư?". Quan lại thưa: "Nhà Nho th́ tôn về sĩ hạnh, hàng Tăng th́ bàn về đức nghiệp. Như hai vị Tăng Hy và Mậu đă từng ba mươi năm trời chân không bước ra khỏi cổng, chỉ mặc áo vải thô sơ, không màn chi đến thanh danh lợi dưỡng. Nên người từng chuộng cái tiết tháo đó mà kính trọng như bậc thầy. Nếu đăng ṭa thuyết pháp, đại Phật tuyên giáo hóa, th́ cơ biện tự tại, c̣n như gọi là bậc thiện trí thức, th́ chẳng phải kẻ hèn ngu dại này hay hiểu được". Tới một ngày nhàn hạ, ta đă tới thăm hai bậc thượng nhân Hy và Mậu, được coi cái hạnh thanh bạch của các ngài, nhất nhất đúng lời viên quan lại đă nói. Ta bất giác và nhớ lại, đất Tô Tú (2) cũ này, được mệnh danh là nơi có phong tục tốt đẹp, nay xem quan lại già nua này mà c̣n hay phân biệt được chỗ ưu liệt giữa quân tử và tiểu nhân, nữa là người thức giả vậy ư? Lang Gia nói: "Nếu như chỗ viên quan lại nói, th́ thật là lời bàn cao quí, xin ghi lại đây để bảo cho những người chưa được nghe biết". 
Lăng Gia Biệt Lục. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Thụy Quang: Chùa Thụy Quang nằm trong thành Tô Châu. V́ chùa này có nhiều điềm lạ nên gọi là Thụy Quang: 

a. Chuông trống không người đánh tự nhiên kêu. 
b. Bảo tháp phóng ra hào quang rực rỡ. 
c. Trúc xanh giao nhau. 
d. Rùa trắng biết nghe pháp. 

(2) Tô Tú: Tú tức là phủ Gia Hưng thuộc Tô Châu. 

104.- CHỮ HÁN: Linh Nguyên viết: Chung Sơn Nguyên Ḥa thượng, b́nh sinh bất giao công khanh, bất cầu lợi dưỡng, dị ti tực mục, dĩ đạo tự lạc. Sĩ Đại Phu sơ miễn kỳ ứng thế. Nguyên viết: "Cẩu hữu lương điền, hà ưu văn thành, đệ khủng phạp tài cụ nhĩ". Kinh Công văn chi viết: "Sắc tư cử hỹ, tường nhi hậu tập". Tại Nguyên Công đắc chi hỹ. 
Chế Vưu Tập. 

104.- DỊCH NGHĨA: Linh Nguyên nói: Chung Sơn Nguyên Ḥa thượng, b́nh sinh không giao thiệp với công khanh, không ham danh lợi, lấy chỗ khiêm để tự xử, lấy đạo để tự vui. Kẻ sĩ đại phu lúc đầu khuyên ngài nên ra ứng thế. Nguyên Ḥa thượng nói: "Nếu có phần ruộng tốt, lo ǵ thành quả muộn, chỉ sợ thiếu tài năng mà thôi". Kinh Công nghe thế liền nói: "Thấy sắc mặt người mà bay liệng đi rồi sau mới t́m chỗ đậu". Nguyên Công ứng ở trường hợp này vậy (1). 
Chế Vưu Tập. 

CHÚ THÍCH: 

(1): Chim là loài vật, nhưng nếu nó nh́n thấy sắc mặt hung ác của con người, th́ nó liền tung cánh bay đi, rồi bay liệng quan sát tới chỗ nào không có súng đạn cung tên mới đậu. Con người nếu biết ứng cơ mà làm việc cũng tương tự như thế. 

105.- CHỮ HÁN: Linh Nguyên viết: Tiên triết ngôn: "Học đạo ngộ chi vi nan, kư ngộ thủ chi vi nan, kư thủ hành chi vi nan. Kim đương hành thời, kỳ nan hựu quá ư ngộ thủ. Cái ngộ thủ giả, tinh tiến kiên trác, miễn tại kỷ cung nhi dĩ. Duy hành giả tất đẳng tâm, tử thệ dĩ tổn kỷ, ích tha vi nhậm. Nhược tâm bất đẳng, thệ bất kiên, tắc tổn ích đảo trí, tiện đọa vi lưu tục a sự, thị nghi kỳ úy". 

105.- DỊCH NGHĨA: Linh Nguyên nói (1): Tiên triết nói rằng: "Học đạo tới chỗ ngộ là khó, đă ngộ rồi mà giữ được lại là khó, đă giữ được mà thực hành theo cũng là khó. Nay đương lúc thực hành đạo th́ cái khó lại hơn cả khi ngộ đạo và giữ đạo. V́ lẽ ngộ đạo và giữ đạo th́ chỉ tinh tiến và kiên tŕ, gắng gỏi ở chỗ hết sức ḿnh mà thôi. Duy việc thực hành đạo th́ tất phải bằng đẳng ở nơi tâm, thề chết để quên ḿnh đem lợi ích cho người làm nhiện vụ. Nếu tâm chẳng bằng đẳng, lời thề không vững chẳng th́ tổn và ích bị đảo ngược, liền sa ngă vào a sự của thế tục đó là điều đáng nên sợ hăi". 

CHÚ THÍCH: 

(1): Đoạn này đại ư nói đạo học phải chú trọng ở chỗ thực hành và thệ nguyện độ sinh. 

106.- CHỮ HÁN: Linh Nguyên viết: Đông Sơn sư huynh, thiênutư dị đặc, ngữ mặc trung độ. Tầm thường xuất thị ngữ cú, kư lư tự thắng. Chư phương dục hiệu chi bất quỷ tục tắc dâm lậu, chung mạc năng cập, cầu ư cổ nhân trung diệc bất khả đắc. Nhiên do khiêm quang đạo vật, bất thí cơ khát. Thường viết: "Ngă vô Pháp Ninh Khắc Cần chư tử, chân pháp môn trung tội nhân hỹ". 

106.- DỊCH NGHĨA: Linh Nguyên nói (1): Sư huynh chùa Đông Sơn, có thiên tư đặc biệt, khi nói lúc lặng thinh đều giữ trung độ. Tuy chỉ nói những câu chuyện tầm thường, nhưng có lư do rất xác đáng. Người các nơi muốn bắt chước sư huynh, nhưng nếu chẳng dối trá thời vụng về, trọn chẳng hay kịp được. T́m ngay cả trong những con người xưa cũng không thể có được. Tuy vậy, nhưng sư huynh vẫn khiêm nhượng, để dạy đời rất tha thiết, chẳng khác ǵ như đói được ăn, khát được uống. Và thường nói: "Ta không có các ông Pháp Ninh (2) và Khắc Cần th́ thật là kẻ tội nhân trong pháp môn vậy. 

CHÚ THÍCH: 

(1): Đại ư đoạn này chỉ cách dùng lời khiêm nhượng để khen ngợi tán dương các bậc sư tượng trong các tông phái khác. 

107.- CHỮ HÁN: Linh Nguyên đạo học hạnh nghĩa, thuần thành hậu đức, hữu cổ nhân chi phong, an trọng quả ngôn. Vưu vi sĩ phu đại tôn kính. Thường viết: "Chúng nhân chi sở hốt, thánh nhân chi sở cẩn. Huống vi tùng lâm chủ, trợ tuyên Phật hóa, phi hành giải tương ứng, cự khả vi chi. Yếu tại thời thời kiểm trách, vật sự thanh danh lợi dưỡng hữu manh ư tâm, thảng pháp lệnh hữu sở vị phu, nột tử hữu sở vị phục, đương thoái tư tu đức, dĩ đăi phương lai, vi kiến hữu thân chính nhi tùng lâm bất trị giả. Sở vị quan đức nhân chi dung, sử nhân chi ư tiêu, thành thực tại tư!". 
Kư Văn. 

107.- DỊCH NGHĨA: Đạo học và hạnh nghĩa của Linh Nguyên th́ thuần thành (1), có phong độ của cổ nhân, trọng nơi yên tĩnh và ít nói, rất được kẻ sĩ phu đại tôn kính. Ngài thường nói: "Chỗ khinh hốt (không lưu tâm) của mọi người là ở chỗ cẫn thận của Thánh nhân, huống chi người làm chủ một tùng lâm thay Phật tuyên hóa, nếu chẳng phải là bậc hành giải tương ứng, đâu hay lại làm được như vậy ư! Điều cốt yếu là phải tự kiểm trách từng giờ từng phút, chớ để cho thanh danh lợi dưỡng nó manh nha nơi tâm. Hoặc giả pháp lệnh có chỗ chưa được người tin, kẻ nột tử có chỗ chưa qui phục, th́ phải thoái lui để tư duy và tu đức, chờ đợi ở ngày mai. Ta chưa từng thấy người giữ ḿnh chính đính mà chốn tùng lâm lại chẳng thịnh trị. Chính chỗ bảo rằng, xem cái h́nh dáng của người có đức, mà có thể khiến tiêu tan được cái ư nghĩ của người, thật là nghĩa đó vậy". 
Kư Văn. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Thuần thành: Tinh nhất không tạp gọi là thuần, chân thật không dối trá gọi là thành. 

108.- CHỮ HÁN: Linh Nguyên vị Viên Ngộ viết: Nột tử tuy hữu kiến đạo chi tư, nhược bất thâm súc hậu dưỡng, phát dụng tất tuấn bạo, phi đặc vô bổ giáo môn, tương khủng hưu chiêu họa nhục. 

108.- DỊCH NGHĨA: Linh Nguyên bảo Viên Ngộ rằng: Kẻ nột tử tuy có cái tư chất thấy đạo, nếu họ chẳng súc tích nuôi dưỡng, một khi đem ra dùng, tất nhiên sẽ không tránh khỏi nhiều thô bạo, như vậy chẳng những vô bổ cho giáo môn, mà c̣n chuốc lấy họa nhục nữa(1). 

CHÚ THÍCH: 

(1): Đoạn này ư nói, cần phải nuôi dưỡng pháp thai, dù cả khi ngộ đạo rồi cũng c̣n phải ẩn náu nơi núi rừng để rèn luyện thêm định lực. 

109.- CHỮ HÁN: Viên Ngộ thiền sư viết: Học đạo tồn hồ tín, lập tín tại hồ thành. Tồn thành ư trung nhiên hậu tỉ chúng vô hoặc. Tồn tín ư kỉ, khả dĩ giáo nhân vô khi. Duy tín dữ thành, hữu bổ vô thất. Thị tri, thành bất nhất, tắc tâm mạc năng bảo, tín bất nhất, tắc ngôn mạc năng hành. Cổ nhân vân: "Y thực khả thử, thành tín bất khả thất". Duy thiện trí thức, đương giáo nhân dĩ thành tín. Thả tâm kư bất thành, sự kư bất tín, xưng thiện trí thức khả hồ. Dịch viết: "Duy thiên hạ chí thành, toại năng tận kỳ tính. Năng tận kỳ tính, tắc năng tận nhân tính". Nhi tự kư bất năng tận ư kỷ, dục vọng tận ư nhân, chúng tất đăi nhi bất ṭng. Tự kư bất thành ư tiền, nhi viết thành ư hậu, chúng tất nghi nhi bất tín. Sở vị cát phát nghi cập phu, tiễn trảo nghi xâm thể. Lương dĩ, thành bất chí tắc vật bất cảm, tổn bất chí, tắc ích bất trăn. Cái thành dữ tín bất khả tư tu khứ kỷ dă minh hỹ". 
Dữ Ngu Sát Viện thư. 

109.- DỊCH NGHĨA: Viên Ngộ thiền sư nói: Người học đạo cần giữ ḷng tin, gây niềm tin ở chỗ thành. Giữ ḷng thành ở trong, vậy sau mới khiến chúng không nghi hoặc. Giữ ḷng tin ở ḿnh, mới có thể dạy người không dối trá. Duy tín cùng với thành hai bên hỗ trợ cho nhau, mới đưa đến chỗ không lỗi lầm. Thế nên biết, nếu thành mà bất nhất thời tâm chẳng hay giữ, tín mà bất nhất thời nói chẳng hay làm. Cổ nhân nói: "(1) Áo mặc cơm ăn c̣n có thể bỏ được, nhưng thành và tín th́ không thể để cho mất" Duy bậc thiện trí thức đáng đem thành tín để dạy người. Vă lại, tâm đă chẳng có thành thật, việc đă chẳng giữ ḷng tin, th́ sao gọi được là bậc thiện trí thức vậy ư! Kinh Dịch nói: "Duy cái chí thành của thiên hạ mới hay hết được cái tính (2) đó, hay hết được cái tính đó, mới hay hết được cái tính của con người". Nếu tự ḿnh đă chẳng hay hết ở ḿnh, mà muốn mong hết ở người, thời chúng tất khinh nhờn mà chẳng theo. Tự ḿnh đă chẳng thành thật ở trước, mà nói rằng thành thật ở sau, chúng tất ngờ mà chẳng tin. Chính là nghĩa, cạo tóc nên cạo sát da, cắt móng nên cắt sát thịt. Bởi nếu thành mà chẳng chí thiết thời vật chẳng cảm, tổn chẳng đến thời ích chẳng tới. Đúng là "thành" và "tín" không thể giây phút cách xa ḿnh thật rơ ràng vậy. 
Thư gởi Ngu Sát (3) Viện. 

CHÚ THÍCH: 

(1): Câu này trích trong sách Luận Ngữ. 
(2): Tính đức vẹn toàn, lư luận đầy đủ, không có cái riêng tư về nhân dục. 
(3) Ngu Sát Viện: tên chữ là Kỉnh Thần, người đất Tiền Đường thuộc Hàng Châu, năm Nguyên Hựu thứ năm được vời làm quan Giám Sát Ngự Sử (theo Tống Sử Liệt Truyện). 

110.- CHỮ HÁN: Viên Ngộ viết: Nhân thùy vô quá, quá năng nhi cải, thiện mạc đại yên. Ṭng thượng giai xưng cải quá vi hiền, bất dĩ vô quá vi mỹ. Cố nhân chi hành sự, đa hữu quá sai, thượng trí hạ ngu câu sở bất miễn. Duy trí giả năng cải quá thiên thiện, nhi ngu giả đa tế quá sức phi. Thiên thiện tắc kỳ đức nhật tân, thị xưng quân tử. Sức quá tắc kỳ ác di trứ, tư vị tiểu nhân. Thị dĩ văn nghĩa năng tỉ, thường t́nh sở nan. Kiến thiện lạc ṭng, hiền đức sở thượng. Vọng công tương vong ư ngôn ngoại khả dă. 
Dữ Văn Chủ Bạ. 

110.- DỊCH NGHĨA: Viên Ngộ nói: Con người ai không có lỗi, lỗi mà biết hối cải, thời tất cả chẳng ǵ lớn hơn vậy. Từ thượng cổ đều nhận biết nếu cải quá là người hiền, chẳng lấy việc không có lỗi làm người tốt. Cho nên, việc làm của con người có quá nhiều sự sai lầm. Bậc thượng trí kẻ hạ ngu, đều không thể tránh khỏi điều đó được. Duy có người trí hay đổi lỗi để sửa lại nết hay, c̣n kẻ ngu phần nhiều lại trang sức để che đậy lỗi lầm. Đổi lỗi để sửa lại nết hay thời đức đó ngày một mới, nên gọi là quân tử. Trang sức để che đậy chỗ sai lầm, thời ác đó ngày càng dầy, nên bảo đó là tiểu nhân. Bởi thế, thấy việc nghĩa mà lại dời bỏ, đó là cái nạn thường t́nh, thấy điều thiện vui theo, là chỗ chuộng của người hiền đức. Vậy mong ông (1) hăy cùng quên đi ở ngoài lời nói (2) là hơn vậy. 
Thư gởi Văn Chủ Bạ. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Ông: đây là chỉ vào Văn Chủ Bạ. 
(2) Quên đi ở ngoài lời nói: Ư nói, nên quên đi những dấu vết của ngôn ngữ để đạt tới chỗ tự chứng đắc. 

111.- CHỮ HÁN: Viên Ngộ viết: Tiên sư ngôn: "Tố trưởng lăo hữu đạo đức cảm nhân giả, hữu thế lực phục nhân giả, do như loan phương chi phi, bách cầm ái chi, hổ lang chi hành, bách thú uư chi. Kỳ cảm phục tắc nhất, kỳ phẩm loại cố tiêu nhương hỹ. 
Chế Vưu Tập. 

111.- DỊCH NGHĨA: Viên Ngộ nói: Tiên sư nói: "Bậc trưởng lăo có đạo đức th́ cảm đựợc người, có thế lực th́ phục được người. Cũng ví như chim Loan chim Phượng tung bay, trăm lài chim đều yêu mến, loài hổ loài lang cất bước, trăm loài thú đều khiếp sợ. Tuy chỗ cảm phục đó là một, nhưng về phẩm loại của chúng th́ khác nhau như trời cao vực thẳm. 
Chế Vưu Tập. 

112.- CHỮ HÁN: Viên Ngộ vi Long Tạng Chủ viết: Dục lư tùng lâm nhi bất vụ đắc nhân chi t́nh, tắc tùng lâm bất khả lư. Vụ đắc nhân chi t́nh, nhi bất cần ư tiếp hạ, tắc nhân t́nh bất khả đắc. Vụ cần tiếp hạ nhi bất biện hiền bất tiếu, tắc hạ bất khả tiếp. Vụ biện hiền bất tiếu, nhi ố ngôn kỳ quá, duyệt thuận kỳ kỷ, tắc hiền bất tiếu bất khả biện. Duy hiền đạt chi sĩ, bất ố ngôn quá, bất duyệt thuận kỷ, vị đạo thị ṭng, sở dĩ đắc nhân t́nh nhi tùng lâm lư hỹ. 
Quảng Lục. 

112.- DỊCH NGHĨA: Viên Ngộ bảo Long Tạng Chủ (1) rằng: Người muốn sửa trị tùng lâm mà chẳng lo việc được t́nh người, th́ chốn tùng lâm không thể sửa trị được. Muốn được t́nh người mà chẳng lo việc tiếp dẫn kẻ dưới, thời t́nh người không thể thu được. Chuyên cần tiếp kẻ dưới mà chẳng biện biệt được người hiền kẻ bất tiếu, thời kẻ dưới không thể tiếp được. Lo việc biện biệt người người hiền kẻ bất tiếu, nếu lại ghét kẻ hay nói lỗi, ưa kẻ thuận theo ḿnh, thời không thể phân biệt được người hiền kẻ bất tiếu. Duy kẻ sĩ hiển đạt th́ chẳng ghét kẻ hay nói lỗi, chẳng ưa kẻ thường thuận ḿnh, mà chỉ lấy cái đạo lư để noi theo, nên không những thu được t́nh người mà chốn tùng lâm cũng sửa trị vậy. 
Quảng Lục. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Long Tạng Chủ: tức Hổ Kỳ Thiệu Long thiền sư, pháp tự của Viên Ngộ thiền sư đời thứ 15 phái Nam Nhạc. 

113.- CHỮ HÁN: Viên Ngộ viết: Trụ tŕ dĩ chúng trí vi trí, chúng tâm vi tâm. Hằng khủng nhất vât bất tận kỳ t́nh, nhất vật bất đắc kỳ lư. Tư tư phỏng nạp, duy thiện thị cầu. Đương vấn lư chi thị phi, cự luận sự chi đại tiểu. Nhược lư chi thị, tuy my phí đại, nhi tác chi hà thương. Nhược sự chi phi, tuy dụng độ tiểu nhi trừ chi hà hại. Cái tiểu giả đại chi tiệm, vi giả trứ chi manh. Cố hiền giả thận sơ, thánh nhân tồn giới, quyên quyên bất át, chung biến tang điền. Viêm viêm my trừ, tốt liệu nguyên dă. Lưu phiến kư thịnh, họa tai dĩ thành. Tuy dục cứu chi, cố vô cập hỹ. Cổ vân: "Bất căng tế hạnh, chung lụy đại đức" thử chi vị dă. 
Dữ Phật Trí thư. 

113.- DỊCH NGHĨA: Viên Ngộ nói: Người trụ tŕ lấy chỗ hiểu biết của chúng làm chỗ hiểu biết của ḿnh. Thường sợ chẳng suốt được t́nh của mỗi vật. Chẳng hiểu được lư của mỗi việc. Phải luôn luôn lo lắng t́m nhận những điều hay, hỏi cho xác đáng những điều phải trái của nghĩa lư ở bất cứ những việc lớn hay nhỏ. Nếu đúng với lư th́ dẫu có hao phí lớn lao, mà phải làm theo cũng chẳng tổn hại ǵ. Nếu là trái với sự việc, th́ dẫu là chỗ dùng sức rất nhỏ để trừ bỏ đi th́ đâu có trở ngại chi. Bởi lẽ nhỏ là cái đầu mối của lớn dần, thầm kín là mầm móng của sự sáng tỏ. Vậy nên, người hiền th́ cẩn thận ngay từ lúc đầu, Thánh nhân th́ giữ ǵn ở điều răn cấm. Ḍng nước tuy nhỏ, nhưng nếu chẳng ngăn chận, thời sẽ biến ruộng dâu thành bể cả; ngọn lửa tuy nhỏ, nhưng nếu chẳng dập tắt, tất sẽ cháy cả vùng đồng rộng. Nước chảy lửa cháy đă thịnh, tai họa đă thành, th́ dù có muốn cứu văn cũng không sao kịp được. Cổ nhân nói (1): "Chẳng giữ ǵn hạnh nhỏ, tất lụy đến đức lớn", chính là nghĩa thế vậy. 
Thư gởi Phật Trí (2). 

CHÚ THÍCH: 

(1): Câu này trích trong Kinh Thư. 
(2) Phật Trí: Phật Trí Đoạn Dụ thiền sư, chùa dục Vương thuộc Minh Châu, pháp tự của Viên Ngộ Cần thiền sư. 

114.- CHỮ HÁN: Viên Ngộ vị Nguyên Bá Đại viết: Phàm xưng trưởng lăo chi chức, trợ tuyên Phật hóa, thường tư dĩ lợi tế vi tâm, hành chi vô căng tắc sở cập giả quảng, sở tế giả chúng. Nhiên nhất hữu căng kỷ sính năng chi tâm, tắc kiêu hănh chi niệm khởi, nhi bất tiếu chi tâm sinh hỹ. 
Song Lâm Thạch Khắc. 

114.- DỊCH NGHĨA: Viên Ngộ bảo Nguyên Bá Đại (1) rằng: Phàm gọi là chức Trưởng lăo, thay Phật tuyên dương giáo hóa, thường phải nghĩ tới việc lợi ích tế độ làm ḷng. Nếu khi thực hành công việc đó mà không khoe khoang thời chỗ phổ cập mới rộng, nơi tế độ mới đông. Song le, nếu vạn nhất có cái tâm khoe khoang tài năng của ḿnh thời cái niềm kiêu hănh dấy lên, mà cái tâm bất tiếu cũng hiện ra vậy. 
Khắc ở bia đá chùa Song lâm. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Nguyễn Bá Đại: tức Cảnh Nguyễn thiền sư, trụ tŕ chùa Hộ Quốc, pháp tự của Viên Ngộ thiền sư, đời thứ 13 phái Nam Nhạc. 

115.- CHỮ HÁN: Viên Ngộ vị Diệu Hỷ viết: Đại phàm cử thố đương cẩn thủy chung. Cố thiện tác giả tất thiện thành, thiện thủy giả tất thiện chung, cẩn chung như thủy tắc vô bại sự. Cổ viết: "Tích hồ! Y vị thành nhi chuyển vi thường, hành bách lư chi bán ư cửu thập. Tư giai thán hữu thủy nhi vô chung dă". Cố viết: "Mỹ bất hữu sơ, tiển khắc hữu chung". Tích Hối Đường lăo thúc viết: "Hoàng Nghiệt Thắng Ḥa thượng diệc kỳ nột tử, đăn văn niên mậu nhĩ. Quan kỳ thủy, đắc bất vị chi hiền". 
Vân Môn Am Tập. 

115.- DỊCH NGĨA: Viên Ngộ(1) bảo Diệu Hỷ rằng: Đại phàm lúc động hay tĩnh đều phải giữ ǵn trước sau. V́ thế nếu làm được điều tốt tất nhiên việc tốt sẽ thành tựu, điều tốt đă có ở trước tất nhiên phải có ở sau, giữ ǵn sau cũng như trước thời sự việc không thất bại. Người xưa nói: "Tiếc vậy thay! Áo chưa thành mà lại chuyển thành xiêm, đường trường một trăm dặm mới đi được chín mươi dặm đă ngừng". Đó đều là câu than tiếc cho những sự việc chỉ có ở trước mà không có ở sau. Cho nên nói rằng: "Đều có ở trước mà ít có ở sau". Xưa kia Hối Đường lăo thúc nói: "Hoàng Nghiệt Thắng (2) Ḥa thượng cũng là một nột tử kỳ tài, nhưng lại bị sai lầm ở lúc tuổi già. Như vậy nếu chỉ xem người ở phần trước sao được bảo đó là người hiền". 
Vân Môn Am Tập. 

CHÚ THÍCH: 

(1): Đoạn này đại ư chỉ cho người nột tử cách xử sự phải thủy chung nhất quán, trước sau như một. 
(2) Hoàng Nghiệt Thắng: tức Duy Thắng thiền sư núi Hoàng Nghiệt, thuộc Thụy Châu, pháp tự của Hoàng Long Nam thiền sư, đời thứ 12 phái Nam Nhạc. 

116.- CHỮ HÁN: Viên Ngộ vị Phật Giám viết: Bạch Vân sư ông động dụng cử thố tất kê văng cổ. Thường viết: "Sự bất kê cổ vị chi bất pháp". Dư đa thức tiền ngôn văng hành toại thành kỳ chí. Nhiên phi đặc hiếu cổ, cái chi kim nhân bất túc pháp. Tiên sư mỗi ngôn: "Sư ông chấp cổ bất chi thời biến". Sư ông viết: "Biến cố dịch thường năi kim nhân chi đại hoạn. Dư chung bất vi dă". 
Thiềm Ḥa Thượng Nhật Lục. 

116.- DỊCH NGHĨA: Viên Ngộ thiền sư bảo Phật Giám rằng: Sư ông chùa Bạch Vân, mỗi khi hành động cất nhắc một việc ǵ, cũng đều khảo xét những hành động của cổ nhân xưa. Sư ông thường nói: "Sự việc mà chẳng khảo xét của tiền nhân th́ bảo đó là chẳng đúng phép". Ta chỉ v́ ghi nhiều được lời nói và việc làm của cổ nhân, mà đạt thành được chí khí. Nhưng, ta không phải là đặc biệt hiếu cổ, mà chỉ v́ người đời nay chẳng đủ pháp qui để ta bắt chước. Tiên sư thường nói: "Sư ông v́ chấp cổ nên chẳng biết thay đổi theo thời". Sư ông nói: "Thay đổi thói cũ, biến đổi đạo thường, chính là mối đại họa cho người đời nay". Đó là điều mà ta trọn chẳng làm vậy. 
Thiềm Ḥa Thượng Nhật Lục. 

117.- CHỮ HÁN: Phật Giám Cần Ḥa thượng tự Thái B́nh thiên Trí Hải. Quận Thú Tằng Công Nguyên Lễ vấn: "Thục khả kế trụ tŕ". Phật Giám cử Bính Thủ Tọa. Công dục đắc nhất kiến. Phật Giám viết: "Bính vi nhân cương chính, ư thế mạc nhiên vô sở thị hiếu, thỉnh chi do khủng phất ṭng, cự khẳng tự lai da!". Công cố yêu chi. Bính viết: "Thử sở vị tŕnh thân trưởng lăo dă". Kính đào vu Tư Không sơn. Công cố vị Phật Giám viết: "Tri tử mạc nhược phụ". Tức mệnh chư sơn kiên thỉnh, ức bất đắc dĩ nhi ứng mệnh. 
Thiền Thị Giả Nhật Lục. 

117.- DỊCH NGHĨA: Phật Giám (1) Cần Ḥa thượng từ chùa Thái B́nh dời về chùa Trí Hải, quan Quận Thú Tằng Công Nguyên Lễ hỏi: "Ai là người có thể kế vị ngôi trụ tŕ". Phật Giám đề cử Bính Thủ Tọa(2). Ông muốn được một lần yết kiến. Phật Giám nói: "Bính là người cương chính, xa lánh với đời không tham thị hiếu, nay thỉnh làm trụ tŕ, cũng sợ người chẳng thuận theo, có lẽ đâu lại chịu tự động tới vậy ư". Nhưng Tằng Công cố ư thỉnh Bính Thủ Tọa. Bính nói: "Đó chính là nghĩa tŕnh thân (3) Trưởng lăo vậy". Đoạn ngài trốn vào núi Tư Không (4). Ông đoái bảo Phật Giám rằng: "Biết con chẳng ai rơ bằng cha". Thế rồi liền truyền lệnh cho chư sơn cố thỉnh, vạn bất đắc dĩ ngài phải ứng mệnh. 
Thiền Thị Giả Nhật Lục. 

CHÚ THÍCH: 

(1): Đoạn này ư nói, công việc ứng thế của cổ đức là việc bất đắc dĩ, nhưng công việc trụ tŕ cũng là một việc rất thiết yếu. 
(2) Bính Thủ Tọa: Trí Bính thiền sư chùa Nam Hoa ở Thiều Châu, pháp tự của Phật Giám Cần thiền sư, đời thứ 15 phái Nam Nhạc. 
(3) Tŕnh thân: Ư nói cần phải thấy rơ thân thế của người đó ra sao, rồi sau hăy mời nhậm chức trụ tŕ. 
(4) Tư không: Núi Tư Không thuộc Thư Châu, cách chừng 160 dặm phía Tây Bắc huyện Thái Hồ, nơi truyền y bát của đệ Tam Tổ. 

118.- CHỮ HÁN: Phật Giám vị Tuân Phật đăng viết: "Cao thượng chi sĩ bất dĩ danh vị vi vinh. Đạt lư chi nhân bất vi ức tỏa sở khổn. Kỳ hữu thừa ân nhi hiệu lực kiến lợi nhi thâu thành. Gian trung nhân dĩ hạ chi sở vi. 
Nhật Lục. 

118.- DỊCH NGHĨA: Phật Giám bảo Tuân Phật Đăng (1) rằng: "Kẻ sĩ cao thượng chẳng lấy danh vị làm vinh. Con người đạt lư chẳng v́ chỗ ức tỏa mà khốn cùng. C̣n như kẻ mang âm mà dốc hết sức lực, thấy lợi mà dốc hết ḷng thành, đều là những việc làm của hạng người trung lưu trở xuống. 
Nhật Lục. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Tuân Phật Đăng: Phật Đăng Thủ Tuân thiền sư, pháp tự của Phật Giám Cần thiền sư, đời thứ 15 phái Nam Nhạc. 

119.- CHỮ HÁN: Phật Giám vị Bính Thủ Tọa viết: Phàm xưng Trưởng lăo yếu tu nhất vật vô sở hiếu. Nhất hữu sở hiếu tắc bị ngoại vật tặc hỹ. Hiếu thị dục tắc tham ái chi tâm sinh. Hiếu lợi dưỡng tắc bôn cạnh chi niệm khởi. Hiếu thuận ṭng tắc a du tiểu nhân hợp. Hiếu thắng phụ tắc nhân ngă chi sơn cao. Hiếu bồi khắc tắc ta oán chi thanh tác. Tổng nhi cùng chi bất ly nhất tâm. Tâm nhược bất sinh vạn pháp tự dẫn. B́nh sinh sở đắc mạc viết ư tư. Nhữ nghi miễm chiên, qui chính lai học. 
Nam Hoa Thạch Khắc. 

119.- DỊCH NGHĨA: Phật Giám bảo Bính Thủ Tọa rằng: Phàm gọi là Trưởng lăo, phải nên đừng ham thích bất cứ một vật ǵ. Nếu một khi đă ham thích một vật ǵ thời bị giặc ngoại vật nó làm trở ngại. Ham thị dục thời tâm tham ái sinh. Ham lợi dưỡng th́ niệm bôn tẩu cạnh tranh dấy. Ham thuận theo thời kẻ tiểu nhân a dua họp. Ham thắng phú thời núi nhân ngả cao. Ham vơ vét của dân thời tiếng ta oán phát khởi. Tóm lại, xét cho cùng đều không ngoài ở một cái tâm. Tâm chẳng sanh thời muôn pháp tự nhiên hết. Chỗ sở đắc thường ngày đừng nên vượt qua điều răn dạy này. Ông phải gắng sức làm khuôn phép chánh đáng cho kẻ hậu học. 
Bài khắc ở bia đá chùa Nam Hoa (1). 

CHÚ THÍCH: 

(1): Bài khắc bia đá chùa Nam Hoa. Tô Hàn Lâm Tử Chiêm, nhân vào mùa thu năm đầu niên hiệu Thiệu Thánh đi qua chùa Nam Hoa có làm bài Minh khắc vào bia đá của chùa. 

120.- CHỮ HÁN: Phật Giám viết: Tiên sư tiết kiệm nhất bát nang hài đại. Bách chuế thiên bổ do bất nhẫn khí tri. Thường viết: "Thử vị vật tương ṭng xuất quan, cận ngũ thập niên hỹ. Cự khẳng trung đạo khí chi". Hữu Tuyền Nam Ngộ Thượng Tọa tống cát bá chuyết. Tự ngôn: " Đắc chi hải ngoại. Đông phục tắc ôn hạ phục tắc lương". Tiên sư viết: "Lăo Tăng hàn hữu sài thán chỉ khâm, nhiệt hữu tùng phong thủy thạch, súc thử hề vi chung khước chi". 
Nhật Lục. 

120.- DỊCH NGHĨA: Phật Giám nói: Tiên sư rất tiết kiệm, một túi đựng bát, một đôi giày vải, có hàng trăm mụn khâu, hàng ngàn miếng vá, cũng chẳng nỡ vất bỏ. Ngài thường nói: "Hai thứ vật này ta đem cùng theo từ khi mới bước chân ra khỏi cửa, tới nay đă gần năm muơi năm rồi, sao nay nỡ vất bỏ giữa đường". Ngộ Thượng Tọa (1) chùa Nam Tuyền có gởi biếu chiếc áo vải lông (2) và nói: "Chiếc áo này được từ nơi hải ngoại, mùa Đông mặc vào th́ ấm, mùa Hạ mặc vào lại mát". Tiên sư nói: "Lăo Tăng khi rét đă có than củi, chân giầy, khi nóng lại có thông reo nước suối. Nay tích trữ vật này để làm chi". Cuối cùng ngài khước từ không chịu nhận chiếc áo đó. 
Nhật Lục. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Ngộ Thượng Tọa: Có lẽ là Cao Am Thiện Ngộ thiền sư. 
(2) Áo vải lông: Thứ áo dệt bằng hai thứ lông chuột, mùa Đông mặc th́ ấm, mùa Hạ mặc th́ mát. 

121.- CHỮ HÁN: Phật Giám viết: Tiên sư văn Chân Tịnh thiên hóa. Thiết vị biện cúng ai khốc quá lễ. Thán viết: "Tư nhân nan đắc, kiến đạo căn để bất đới chi diệp, tích kỳ tảo vong. Thù vị văn hữu kế kỳ đạo giả, Giang Tây tùng lâm, tự thử tịch liêu hỹ". 
Nhật Lục. 

121.- DỊCH NGHĨA: Phật Giám nói: Tiên sư khi nghe biết Chân tịnh thiên hóa, liền thiết bài vị đặt đồ cúng, thương khóc quá ư là nghi lễ. Than rằng: "Con người như thế thật khó kiếm được. V́ đă thấy được chỗ căn để của đạo, lại không vướng mắc ở cành và lá, rất tiếc người đă mất quá sớm. Nhưng vẫn chưa được nghe có người nối tiếp đạo ấy, tùng lâm ở Giang Tây sẽ trở nên tịch liêu từ đây vậy". 
Nhật Lục. 
 

122.- CHỮ HÁN: Phật Giám viết: Tiên sư ngôn: "Bạch Vân sư ông b́nh sinh sơ thông vô thành phủ. Cố nghĩa hữu khả vi giả, dũng rược dĩ thân tiên chi. Hảo dẫn bạt hiền năng, bất hỷ phụ ly cẩu hợp. Nhất tháp tiêu nhiên, nguy tọa chung nhật. Thường vị Ngưng thị giả viết: Thủ đạo an bần, nột tử tố phận. Dĩ cùng đạt đắc táng di kỳ sở thủ giả, vị khả ngử đạo dă". 
Nhật Lục. 

122.- DỊCH NGHĨA: Phật Giám nói: Tiên sư nói: "Sư ông chùa Bạch Văn, thường ngày tâm hồn rất phóng khoáng thông suốt, không có sự ngăn cách trong ngoài. Thấy việc nghĩa có thể làm được thời hăng hái dấn thân trước. Hay dẫn dắt người hiền đức tài năng, không ưa thích kẻ phụ họa tạm bợ kết giao cẩu thả. Duy một chiếc chơng nhỏ ngồi tiêu diêu tự tại trọn ngày. Thường bảo Ngưng Thị Giả (1) rằng: "Giữ đạo an phận nghèo là bản phận của kẻ nột tử. Nếu con người v́ lẽ cùng, đạt, được, mất mà bỏ chỗ giữ đạo thời chưa có thể nói được đạo vậy". (10). 
Nhật Lục. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Ngưng Thị Giả: Thiền Trụ Độ Ngưng thiền sư, pháp tự của Bạch Vân Đoan thiền sư. 

123.- CHỮ HÁN: Phật Giám viết: Vị đạo bất ưu tắc tháo tâm bất viễn. Xử thân thường dật tắc dụng chí bất đại. Cổ nhân lịch gian nan thường hiểm trở, nhiên hậu hưởng chung thân chi an. Cái sự nan tắc chí nhuệ, khắc khổ tắc lự thâm. Toại năng chuyển họa vi phúc chuyển vật vi đạo. Đa kiến học giả, trục vật nhi vong đạo, bối minh nhi đầu ám. Ư thị sức kỷ chi bất năng, nhi khi nhân dĩ vi trí. Cưỡng nhân chi bất đăi, nhi vũ nhân dĩ vi cao. Dĩ thử khi nhân, nhi bất tri hữu bất khả khi chi tiên giác. Dĩ thử yểm nhân, nhi bất tri hữu bất khả yểm chi công luận. Cố tự trí giả nhân ngu chi, tự cao giả nhận hạ chi. Duy hiền giả bất nhiên. Vị sự tán nhi vô cùng, năng nhai nhi hựu tận. Dục dĩ hữu tận chi trí, nhi chu vô cùng chi sự. Tắc thức hữu sở thiên thần hữu sở khốn. Cố ư đại đạo tất hữu sở khuyết yên. 
Dữ Tú Tử Chi thư. 

123.- DỊCH NGHĨA: Phật Giám nói:(1) Nếu chẳng lo v́ đạo thời tâm tiết tháo chẳng cao xa, xử thân thường nhàn rỗi th́ chí dùng việc chẳng to lớn. Cổ nhân v́ từng trải những việc gian nan, từng nếm những mùi hiểm trở, vậy sau mới được hưởng chung thân an nhàn. V́ lẽ, việc khó thời chí khí sắc bén, khắc khổ thời lo nghĩ sâu xa. Rồi mới hay chuyển họa hoạn làm phúc, chuyển sự vật làm đạo. Phần nhiều thấy người học, v́ đuổi theo sự vật mà quên mất đạo, trái chỗ sáng mà đi vào chỗ tối. Bởi thế liền trang sức chỗ bất tài của ḿnh, lấy đó làm trí mà dối người. Cưỡng chế chỗ chẳng kịp của người mà khinh người, lấy đó làm cao. Làm như vậy để dối người mà chẳng biết đâu có thể dối trá được bậc tiên giác, đem như vậy để che đậy người mà chẳng biết đâu có thể che đậy được phần công luận. Cho nên, nếu người tự gán cho ḿnh là trí giả, th́ người cho đó là kẻ ngu, kẻ tự cho ḿnh là cao, th́ người lại cho đó là thấp. Duy người hiền th́ không làm như thế. V́ lẽ, chỗ tản mát của sự việc th́ không cùng, bờ bến của tài năng th́ có hạn. Nếu muốn đem cái trí tuệ có hạn mà bao trùm sự việc không cùng, thời phần hiểu biết có chỗ thiên lệch, thần khí có chỗ khốn quẫn. Vậy nên đối với đại đạo tất sẽ bị ngăn cách vậy. 
Thư gởi Tú Tử Chi (2). 

CHÚ THÍCH: 

(1): Đại ư đoạn này là nói rơ phần tầm đạo của cổ nhân th́ khắc khổ, phần đắc đạo th́ tôn quư. 
(2) Tú Tử Chi: tức Tổ Tú, tên chữ là Tử Chi, Tăng người đất Thục. 

124.- CHỮ HÁN: Phật Giám vi Long Nha Tài Ḥa thượng viết: Dục cách tiền nhân chi tệ bất khả cức khứ. Tu nhân sự chi cách chi. Sử tiểu nhân bất nghi tắc thứ vô oán hận. Dư thường ngôn: "Trụ tŕ hữu tam quyết: kiến sự, năng hành, quả đoán. Tam khả khuyết nhất tắc kiến sự bất minh. Chung vi tiểu nhân hốt mạn. Trụ tŕ bất chấn hỹ". 

124.- DỊCH NGHĨA: Phật Giám bảo Long Nha Tài (1) Ḥa thượng rằng: Muốn thay đổi cái tệ của tiền nhân, không thể bỏ ngay một lúc được. Nên phải nương vào từng việc nào đó mà thay đổi, để kẻ tiểu nhân chẳng ngờ vực, thời mọi người không oán hận. Ta thường nói: "Người trụ tŕ có ba bí quyết: 

[*[Thấy rơ sự việc. 
[*}Hay thực hành theo. 
a. Quả cảm quyết đoán. 

Ba điều này mà để thiếu một, thời thấy sự việc không được rơ ràng. lại bị kẻ tiểu nhân khinh nhờn, tất ngôi trụ tŕ sẽ không được chỉnh đốn vậy". 

CHÚ THÍCH: 

(1) Long Nha Tài: Trí Tài thiền sư, chùa Long Nha, pháp tự của Phật Giám Cần thiền sư, đời thứ 15 phái Nam Nhạc. 

125.- CHỮ HÁN: Phật Giám viết: Phàm vi nhất tự chi chủ, sở quí tháo lư thanh tịnh. Tŕ đại tín dĩ đăi tứ phương nột tử. Sai hữu hào phát ổi tiết chi sự ư kỷ bất khứ, toại bị tiểu nhân khuy khứ, tuy hữu đạo đức như cổ nhân, tắc học giả nghi nhi bất tín hỹ. 
Sơn Đường Tiểu Xam. 

125.- DỊCH NGHĨA: Phật Giám nói: Phàm làm chủ một ngôi chùa, quí ở chỗ noi chí tiết tháo, làm hạnh thanh tịnh. Giữ ḷng tin lớn để tiếp đăi bốn phương nột tử. Nếu có một mảy may ư nghĩ hẹp ḥi lệch lạc tự dối ḿnh mà không chịu bỏ, tuy có đạo đức như cổ nhân, thời người học cũng ngờ mà chẳng tin vậy. 
Sơn Đường Tiểu Xam. 

126.- CHỮ HÁN: Phật Giám viết: Phật Nhăn đệ tử duy Cao Am kính đĩnh bất cận nhân t́nh, vi nhân vô thị hiếu, tắc sự vô thảng viện, thanh nghiêm cung cẩn, thủy chung dĩ danh tiết tự lập, hữu cổ nhân chi phong. Cận thế nột tử, hăn hữu luân tỷ. 
Dữ Cảnh Long Học thư. 

126.- DỊCH NGHĨA: Phật Giám nói: Đệ tử của Phật Nhăn duy có Cao Am là người cương trực, thẳng thắng chẳng gần với thế thái nhân t́nh, làm người không thị hiếu, làm việc không thảng thốt có đủ viện chứng, thanh tịnh trang nghiêm cung cẩn, trước như sau đều lấy danh tiết để tự lập, có tác phong của cổ nhân. Kẻ nột tử ở thời nay ít ai sánh kịp. 
Thơ gởi Cảnh Long Học. 

127.- CHỮ HÁN: Phật Nhăn Viễn Ḥa thượng viết: Dị chúng chi dong tất túc ư nhàn hạ chi nhật. Đối tân chi ngữ đương nghiêm ư tư mật chi thời. Lâm hạ chi nhân phát ngôn dụng sự cử thố thi vi. Tiên tu trù lự, nhiên hậu hành chi. Vật thương hốt bạo dụng. Hoặc tự bất năng dự quyết, ưng tu tư tuân kỳ cựu, bác vấn tiên hiền dĩ quảng kiến văn, bổ kỳ vị năng chúc kỳ vị hiểu. Khởi khả hư tác khí thế chuyên sính cống cao tư chương kỳ xú. Cẩu nhất hạnh thất chi vu tiền, tuy bách thiện bất khả đắc nhi yểm ư hậu hỹ. 
Dữ Chân Mục thư. 

127.- DỊCH NGHĨA: Phật Nhăn Viễn Ḥa thượng nói: Cái dáng dấp của chúng tất phải nghiêm nghị như ngày nhàn hạ, lời nói tiếp khách phải trang trọng như lúc riêng một ḿnh. Đối với người trong chốn thiền lâm, mỗi khi phát ngôn làm việc, trù biện thi hành tất phải tính toán suy nghĩ trước rồi sau mới thực hành, chớ có hấp tấp làm càn. Hoặc có việc tự ḿnh không thể dự biết và quyết đoán được, phải nên thỉnh vấn ở hàng kỳ cựu, hỏi ư kiến ở bậc tiên hiền, để rộng phần thấy nghe, bổ khuyết cho việc làm chưa thể tỏ rơ, ở chỗ chưa thể hiểu biết. Có đâu lại chỉ phô bày khí thế hăo huyền, khoe khoang hành vi dối trá, để phô bày cái chân tướng xấu xa của chính ḿnh. Nếu một hạnh đă bị hỏng ở trước, thời trăm điều hay không thể tới được mà c̣n bị che lấp ở sau vậy. 
Thư gởi Chân Mục (1). 

CHÚ THÍCH: 

(1) Chân Mục: Chân Mục Chính Hiền thiền sư, pháp tự của Phật Nhăn Viễn thiền sư. 

128.- CHỮ HÁN: Phật Nhăn viết: Nhân sinh thiên địa gian. Bẩm âm dương chi khí nhi thành h́nh. Tự phi ứng chân thừa bi nguyện lực, xuất hiện thế gian. Kỳ lợi dục chi tâm tự bất khả thốt khử. Duy thánh nhân tri bất khả khử nhân chi lợi dục. Cố tiên dĩ đạo đức chính kỳ tâm. Nhiên hậu dĩ nhân nghĩa lễ trí giáo hóa đề pḥng chi. Nhật tựu nguyệt tương, sử kỳ lợi dục bất thắng kỳ nhân nghĩa lễ trí, nhi toàn kỳ đạo đức hỹ. 
Dữ Cảnh Long Học thư. 

128.- DỊCH NGHĨA: Phật Nhăn nói: Con người sanh trong khoảng trời đất, bẩm cái khí của âm dương mà thành h́nh. Nếu tự ḿnh không phải là bậc ứng chân (1) nương vào sức từ bi hạnh nguyện mà xuất hiện ở thế gian, th́ cái tâm danh lợi và dục vọng tựa hồ như không thể gột bỏ được. Duy Thánh nhân biết con người chẳng thể trừ khử được cái danh lợi dục vọng, nên trước hết phải lấy đạo đức để uốn nắn cái tâm đó cho chính, vậy sau mới lấy nhân, nghĩa, lễ, trí mà giáo hóa để đề pḥng, rèn luyện trong ngày qua tháng lại, khiến cho cái tâm lợi dục đó không thắng được đạo đức vậy. 
Thư gởi Cảnh Long Học. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Ứng chân: Theo phiên dịch danh nghĩa, A La Hán dịch là Ứng chân. 

129.- CHỮ HÁN: Phật Nhăn viết: Học giả bất khả nệ ư văn tự ngữ ngôn. Cái văn tự ngữ ngôn, y tha tác giải chướng tự ngộ môn, bất năng xuất ngôn tượng chi biểu. Tích Đạt Quan Dĩnh sơ kiến Thạch Môn Thông Ḥa thượng. Thất trung tŕ sính khẩu thiệt chi biện. Thông viết: "Tử chi sở thuyết năi chỉ thượng ngữ, nhược kỳ tâm chi tinh vi, tắc vị đổ kỳ áo, đương cầu diệu ngộ". Ngộ tắc siêu trác kiệt lập, bất thừa ngôn bất trệ cú. Như sư tử vương hống hao bách thú chấn hăi. Hồi quan văn tự chi học, hà thí dĩ thập giảo bách dĩ thiên giảo vạn dă. 
Long Gian Kư Văn. 

129.- DỊCH NGHĨA: Phật Nhăn nói: Người học không nên câu nệ ở văn tự ngữ ngôn. Bởi lẽ văn tự ngữ ngôn là phần y tha tác giải nhờ vào sách vở mà hiểu nên ngăn che mất cửa tự ngộ, v́ nó chỉ tiêu biểu được trạng thái của tiếng nói. Xưa kia Đạt Quan Dĩnh (1) lúc mới gặp Thạch Môn Thông Ḥa thượng, trong nơi thiền thất ông hay dong ruỗi phần biện luận ngoài đầu lưỡi. Thông Ḥa thượng nói: "Chỗ nói năng của ông, chỉ là lời lẽ trên giấy, nếu xét tinh vi về phần tâm của ông, thời vẫn chưa thấy được áo diệu". Nếu khi đă diệu ngộ thời siêu việt hết thảy, chẳng nương vào ngôn ngữ, chẳng vướng vào danh cú. Cũng như sư tử vương một khi đă gầm thết lên, thời trăm loài thú đều phải giật ḿnh kinh hăi. Nếu quay trở lại xem cái học về văn tự mà so sánh th́ sao có thể ví được mười với trăm ngàn vạn vậy ư. 
Long Gian Kư Văn. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Đạt Quan Dĩnh: Kim Sơn Đàm Dĩnh thiền sư, pháp tự của Thạch Môn Thông thiền sư. 

130.- CHỮ HÁN: Phật Nhăn vi Cao Am viết: Bách Trương Thanh Qui, đại khái tiêu chính kiểm tà quĩ vật tề chúng, năi nhân thời dĩ chế hậu nhân chi t́nh. Phù nhân chi t́nh do thủy dă. Qui củ lễ pháp vi đê phong. Đê pḥng bất cố tất chí bôn đột. Nhân chi t́nh bất chế tắc tứ loạn. Cố khứ t́nh tức vọng cấm ác chỉ tà, bất khả nhất thời vong qui củ. Nhiên tắc qui củ lễ pháp, khởi năng tận pḥng chi nhân t́nh, tư diệc trợ nhập đạo chi giai tŕ dă. Qui củ chi lập, chiêu nhiên như nhật nguyệt. Vọng chi giả bất mê. Khoáng hồ như đạo đạo, hành chi giả bất hoặc. Tiên thánh kiến lập tuy thù, qui nguyên vô dị. Cận đại tùng lâm hữu lực dịch qui củ giả, hữu tử thủ qui củ giả, hữu miệt thị qui củ giả, tư giai bối đạo thất lư, túng t́nh trục ác nhi chi nhiên. Tằng bất niệm tiên thánh cứu mạt pháp chi tệ, cấm phóng dật chi t́nh, tắc thị dục chi đoan, tuyệt tà tích chi lộ. Cố sở dĩ kiến lập dă. 
Đông Hồ Tập. 

130.- DỊCH NGHĨA: Phật Nhăn bảo Cao Am rằng: (1) Bách Trượng Thanh Qui (2), đại khái để tiêu chính kiểm tà, làm khuôn cho vật, chỉnh tề đại chúng, cũng đều nương vào thời mà chế ngự cái t́nh của người sau. Ôi cái t́nh của con người cũng như nước, qui củ và lễ pháp là bờ đê để đề pḥng. Bờ đê không vững chắc, tất nhiên phải đưa đến chỗ vỡ lở. T́nh của con người nếu chẳng chế ngự thời rông rỡ rối loạn. Cho nên muốn trừ t́nh bỏ vọng, cấm ác ngăn tà, thời không thể một thời khắc dời bỏ qui củ. Song le, qui củ và lễ pháp đâu hay đề pḥng hết được cái t́nh của con người. Đó chẳng qua chỉ là cái thềm bậc giúp con người được vào đạo vậy. Việc lập ra qui củ th́ tỏ rơ như mặt trời mặt trăng, để người nh́n vào chẳng mê muội, thênh thang như con đường rộng lớn, để người đi chẳng nghi hoặc. Bậc Tiên thánh kiến lập ra qui củ dù khác nhau, nhưng mục đích về nguồn chỉ là một. Chốn tùng lâm thời gần đây, có nơi tận lực noi theo qui củ, có nơi lại giữ chặt lấy qui củ, có nơi khinh miệt cả qui củ. Đó đều là trái với đạo bỏ mất lư, rông rỡ tâm t́nh, theo đuổi điều ác mà đưa đến như thế. Sao lại chẳng nghĩ, bậc Tiên thánh muốn cứu cái tệ ở đời mạt pháp, cấm tâm t́nh phóng dật, lấp cái đầu mối thị dục, duyệt con đường tà tích, v́ thế nên mới kiến lập ra qui củ vậy. 
Đông Hồ Tập. 

CHÚ THÍCH: 

(1): Đoạn này nói về cách áp dụng qui củ. Qui củ chỉ có mục đích để ngự chế t́nh người mà chế lập vậy. 
(2) Bách Trượng Thanh Qui: Bách Trượng thiền sư, lần đầu tiên ngài muốn chỉnh lư về qui củ trong chốn tùng lâm, tu chỉnh lại mọi việc trong Thiền Tăng và Thiền viện, nên ngài mới soạn ra bộ sách Bách Trượng Thanh Qui để qui định cái qui củ của Thiền tông. 

131.- CHỮ HÁN: Phật Nhăn vị Cao Am viết: Kiến thu hào chi mạt giả, bất tự kiến kỳ tiệp. Cử thiên quân chi trọng giả, bất tự cử kỳ thân. Do học giả minh ư trách nhân, muội ư thứ kư giả, bất thiểu dị dă. 
Chân Mục Tập. 

131.- DỊCH NGHĨA: Phật Nhăn (1) bảo Cao Am (2) rằng: Tuy những người thấy được đầu lông nhỏ ở mùa Thu (3) nhưng lại không thể nh́n thấy lông my của chính ḿnh. Tuy nhắc được sức nặng ngàn quân (4), nhưng lại không thể tự nhắc nổi thân ḿnh. Cũng như người học chỉ sáng suốt ở chỗ trách người mà lại mờ mịt ở phần tha thứ lỗi ḿnh, thật chẳng sai khác chút nào vậy. 
Châu Mục Tập. 

CHÚ THÍCH: 

(1): Đại ư đoạn này nói rơ con người chỉ biết trách cái lỗi của người mà không đoái biết đến cái lỗi của chính ḿnh. 
(2) Cao Am: Cao Am Thiện Ngộ thiền sư, pháp tự của Phật Nhăn thiền sư, đời thứ 15 phái Nam Nhạc. 
(3) Lông nhỏ ở mùa Thu: Dịch ở chữ thu hào. Hào có nghĩa là lông dài và nhọn. Lông loài vật cứ đến mùa Thu th́ lại mọc đợt mới nên gọi là Thu hào. Trang Tử nói: "Loài thú ở mùa Thu thường mọc thứ lông rất nhỏ". 
(4) Quân: Ngày xưa cứ ba mươi cân ta gọi là một Quân. 

132.- CHỮ HÁN: Cao Am Ngộ Ḥa thượng viết: Dư sơ du Tổ Sơn kiến Phật Giám tiểu xam. Vị tham dục sân khuể quá như oan tặc. Đương dĩ trí địch chi. Trí do thủy dă. Bất dụng tắc trệ, trệ tắc bất lưu, bất lưu tắc trí bất hành hỹ. Kỳ như tham dục sân khuể hà?". Dư thị thời tuy niên thiếu. Tâm tri kỳ vi thiện tri thức dă, toại cầu quải tháp. 
Văn Cư Thực Lục. 

132.- DỊCH NGHĨA: Cao Am Ngộ Ḥa thượng nói: Ta lúc mới du hành tới chùa Tổ Sơn, thấy Phật Giám tiểu xam (1), ngài bảo: "Tham dục và hờn giận c̣n tệ hơn là quân giặc thù nghịch, nên cần phải đem trí tuệ để đối địch với chúng. Trí tuệ cũng như nước. Nếu nước chẳng dùng thời nó đọng lại, đă đọng lại thời không lưu thông, không lưu thông thời trí tuệ cũng chẳng đem ra dùng gi được. C̣n như tham dục và hờn giận th́ phải làm như thế nào?". Ta khi ấy tuổi tuy c̣n nhỏ, nhưng thâm tâm cũng biết đó là bậc thiện trí thức, do đó liền cầu ngài xin làm đệ tử (2). 
Vân Cư Thực Lục. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Tiểu xam: Tiểu xam tương đối với đại xam, thượng đường diễn đại pháp gọi là đại xam, bất thường khai thị thuyết pháp gọi là tiểu xam. 
(2) Đệ tử: Dịch ở chữ quải tháp. Nghĩa là khoác túi đựng áo bát tức là nghĩa tùy tùng tham thiền nhập đạo. 

133.- CHỮ HÁN: Cao Am viết: Học giả sở tồn trung chính. Tuy bách triết tỏa nhi hạo nhiên vô ưu. Kỳ hoặc sở hướng thiên tà, triêu tịch khu khu vị lợi thị kế. Dư khủng đường đường chi khu, tương vô thố ư thiên địa chi gian hỹ. 
Châu Mục Tập. 

133.- DỊCH NGHĨA: Cao Am nói: Điểm giữ ǵn của người học là ở chỗ trung chính. Dù có bị hàng trăm lần đổ găy mà vẫn điềm nhiên không lo lắng. Nếu hoặc giả kẻ ấy hướng vào chỗ thiên tà, sớm tối chỉ bo bo mưu kế vị lợi, ta sợ rằng, cái thân h́nh to lớn chửng chạc ấy sẽ không có chỗ đặt chân trong khoảng trời đất vậy. 
Châu Mục Tập. 

134.- CHỮ HÁN: Cao Am viết: Đạo đức nhân nghĩa bất độc cổ nhân hữu chi, kim nhân diệc hữu chi. Dĩ kỳ trí thức bất minh, học vấn bất quảng, căn khí bất tịnh, chí khí hiệp liệt, hành chi bất lực. Toại bị thanh sắc sở di, sử bất tự giác. Cái nhân vọng tưởng t́nh niệm, tích tập nung hậu, bất năng đốn trừ. Sở dĩ bất đáo cổ nhân địa vị nhĩ. 
Dữ Cảnh Long Học thư. 

134.- DỊCH NGHĨA: Cao Am nói: (1) Đạo đức nhân nghĩa không phải để dành riêng cho cổ nhân, mà người đời nay cũng vẫn có phần. Nhưng v́ trí thức của họ chẳng sáng tỏ, học vấn của họ chẳng sâu rộng, căn khí không thanh tịnh, chí khí lại hẹp kém, thực hành th́ bất lực. Lại bị thanh sắc nó di chuyển, nên họ chẳng tự giác được đó vậy. Bởi lẽ, nếu họ chỉ nương vào vọng tưởng t́nh niệm, tích tụ ngày một đặc dày, nay đem trừ khử ngay một lúc tất không phải dễ. V́ thế nên họ chẳng tới được cái địa vị của cổ nhân. 
Thư gởi Cảnh Long Học. 

CHÚ THÍCH: 

(1): Đoạn này đại ư nói tâm nhân nghĩa đạo đức th́ Thánh hay phàm cũng vẫn đầy đủ không khác, mà chỉ khác nhau ở chỗ đạt được hay không mà thôi. 

135.- CHỮ HÁN: Cao Am văn Thành Khô Mộc trụ Kim Sơn thụ dụng xỉ mỹ. Thán tức cửu chi viết: "Tỳ khưu chi pháp sở quư thanh kiệm, khởi nghi như thử. Đồ dữ hậu sinh, bối tập khinh ph́ giả, tăng vô yếm chi cầu, đắc bất quư cổ nhân hồ". 
Châu Mục Tập. 

135.- DỊCH NGHĨA: Cao Am nghe biết Thành Khô Mộc (1) trụ tŕ chùa Kim Sơn, thụ dụng quá xa xỉ, liền than thở giờ lâu rồi nói: "Cái pháp của Tỳ khưu, quư ở chỗ thanh kiệm, đâu nên hoang phí như thế. Để lũ hậu sinh tập theo thói quen xa hoa(2) đó, tăng thêm cái tâm mong cầu không chán, sao được không hổ thẹn với cổ nhân vậy". 
Châu Mục Tập. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Thành Khô Mộc: Khô Mộc Pháp Thành thiền sư, pháp tự của Phù Dung Giai thiền sư, đời thứ 12 phái Thanh Nguyên. 
(2) Xa hoa: Dịch ở chữ khinh ph́. Khinh là nhẹ, nghĩa là mặc áo lông cừu nhẹ; Ph́ là béo, tức là cưỡi ngựa béo, ư nói xa hoa. 

136.- CHỮ HÁN: Cao Am viết: Trụ tŕ đại thể dĩ tùng lâm vi gia. Khu biệt đắc nghi, phó dụng đương khí. Cử thố hệ an nguy chi lư, đắc thất quan giáo hóa chi nguyên. Vi nhân phạm mô an khả dung dị. Vị kiến trụ tŕ thỉ túng nhi năng sử nột tử phục ṭng. Pháp độ lăng tŕ nhi dục cấm tùng lâm bạo mạn. Tích Dục Vương Kham khiển Thủ Tọa. Ngưỡng Sơn Vĩ biếm Thị Tăng. Tải ư điển văn, túc vi lệnh phạm. Kim tắc các tuẫn tư dục, đại huy Bách Trượng qui thằng. Giải ư túc hưng, đa khuyết tham hội lễ pháp. Hoặc túng tham thao nhi vô kỵ đạn. Hoặc duyên lợi dưỡng nhĩ chí huyên tranh. Chí ư tiện tích xú ác mỹ sở bất hữu. Ô hô! Vọng pháp môn chi hưng, tôn giáo chi thịnh, cự khả đắc da. 
Long Xương Tập. 

136.- DỊCH NGHĨA: Cao Am nói: Đại thể của người trụ tŕ phải lấy tùng lâm làm nhà. Khu biệt (1) nên phải thích nghi, trao phó (2) nên phải hợp căn cơ lớn nhỏ. Cất nhắc đều can hệ ở lư an nguy, được mất đều liên can đến nguồn giáo hóa. Làm người mô phạm đâu phải dễ dàng. Chưa từng thấy người trụ tŕ phóng túng mà hay khiến được sự phục tùng của các nột tử, chưa từng thấy khuôn pháp thối nát (3) mà muốn ngăn cấm được tật kiêu mạn trong chốn tùng lâm. Xưa kia Kham Thiền sư chùa Dục Vương (4) cách chức vị Thủ Tọa, Vĩ Thiền sư chùa Ngưỡng Sơn xuất viện Thị Tăng (5). Các trường hợp này c̣n ghi chép trong văn điển, đủ để làm khuôn mẫu. Người đời nay thường thuận theo tư dục, phá hủy tan nát cái quy củ thẳng mặc của Bách Trượng. Lười biếng lại thích ngủ trưa (6) phần nhiều thiếu sót cả phần tham hội lễ pháp. Hoặc có người lại rông rỡ tham lam không kiêng sợ, hoặc lại nương theo lợi dưỡng mà đưa đến việc tranh cải, ngay cả đến những chuyện ti tiện, hẹp ḥi, nhơ nhuốc, hiểm ác cũng chẳng có từ. Than ôi! Như thế mà mong muốn cho pháp môn hưng thịnh, tôn giáo phát triển đâu thể được vậy ư. 
Long Xương Tập. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Khu biệt: Khu biệt căn cơ. 
(2) Trao phó: Trao phó y bát tâm ấn. 
(3) Thối nát: Dịch ở chữ Lăng tŕ. Lăng tŕ là h́nh phạt xử tội xẻo thịt ra từng mảnh, ư nói thối nát. 
(4) Kham Thiền sư chùa Dục Vương: Vô Thị Giới Kham thiền sư, pháp tự của Linh Trường Trác thiền sư. Thiền sư là người cương nghị, tới chỗ đại chúng đều hợp với pháp tắc xưa, đương thời đặt cho tên là Kham Thiết Diện. 
(5) Vĩ Thiền sư chùa Ngưỡng Sơn: Hành Vĩ thiền sư, pháp tự của Hoàng Long Nam thiền sư. Thiền sư là người tánh khí cương trực, làm việc theo đúng khuôn phép. Sai người nào làm việc ǵ th́ không ai dám trái lệnh. Như việc từng đem mười hai người giao cho Duy Na, tới ngày mai những người này phải có mặt ở Phương trượng đường. Kịp tới giờ hội họp, lúc điểm danh lại thiếu một người. Vĩ thiền sư hỏi, người đó là ai? Thị giả thưa: "Đó là Tùy Châu Vĩnh Thái". Thủ Tọa nói: "Thái đi chơi núi chưa trở về, xin thỉnh vị Tăng khác sung vào cho đủ". Vĩ thiền sư bừng sắc mặt không vui. Chợt có người nói rằng: "Vĩnh Thái hiện c̣n ở nhà, đó là Thủ Tọa đem dấu đi một nơi". Vĩ thiền sư nghiêm sắc mặt, rồi khiến người t́m bằng được Vĩnh Thái, Vĩnh Thái lúc đó mới tự tŕnh bày t́nh thực là v́ ḿnh vụng về và yếu đuối, sợ hỏng mất việc được giao phó nên tự lẫn tránh, c̣n Thủ Tọa quả thật chẳng biết chi về việc này. Vĩ thiền sư liền cho đánh chuông triệu tập chúng và nói: "Mờ tâm dối chúng là điều người khác chẳng dám làm, nữa là ngôi Thủ Tọa là chức chia ṭa ngồi trao đạo pháp, đó là cái chức Tiên sư đă ban cho mà lại tự phá hoại vậy ư". Thế rồi cả hai người đều bị tội xuất viện, bởi thế mà chúng nhân đều phục cái lẽ công bằng đó. Thái về sau nối pháp Hoàng Long thiền sư. Thủ Tọa ở núi Qui Sơn, nối pháp Hoàng Long thiền sư (Theo Tăng Bảo truyện). 
(6) Lại thích ngủ trưa: Dịch ở chữ túc hưng. Túc hưng có nghĩa là dậy sớm. 

137.- CHỮ HÁN: Cao Am trụ Vân Cư, mỗi kiến nột tử thất trung bất khế kỳ cơ giả, tức bả kỳ mệ chính sắc trách chi viết: "Phụ mẫu dưỡng nhữ thân, sư hữu thành nhữ chí. Vô cơ hàn chi bách, vô chính dịch chi lao. Ư thử bất kiên xác tinh tiến, thành biện đạo nghiệp, tha nhật hà diện mục kiến phụ mẫu sư hữu hồ". Nột tử văn kỳ ngữ khấp thế nhi bất dĩ giả. Kỳ hiệu lệnh chỉnh nghiêm như thử. 
Thả Am Dật Sự. 

137.- DỊCH NGHĨA: Cao Am khi ở chùa Vân Cư, thường thấy các nột tử trong chốn thiền thất, có người chẳng hợp với cơ (1) của họ, liền nắm tay áo, nghiêm sắc mặt mắng rằng: "Cha mẹ nuôi dưỡng thân các người, thầy bạn gây thành chí các người. Các người không lo lắng về bức bách của đói rét, không phải gánh vác về công việc lao khổ của chinh chiến phu phen. Ở nơi đây, nếu chẳng bền chí xác thực tinh tiến để thành biện đạo nghiệp, thời ngày kia c̣n mặt mũi nào nh́n thấy cha mẹ thầy bạn vậy ư". Kẻ nột tử nghe lời nói đó, có người bất giác rơi lệ măi không thôi. Hiệu lệnh của người thật nghiêm chỉnh như thế đó. 
Thả Am Dật Sự (2). 

CHÚ THÍCH: 

(1) Cơ: Chỗ khế hợp giữa tâm năng hóa và sở hóa. 
(2) Thả Am Dật Sự: Thả Am Thủ Nhân thiền sư, pháp tự của Ô Cự Hành thiền sư. Dật sự là sự việc ghi chép trong lúc nhàn rỗi thư thả. 

138.- CHỮ HÁN: Cao Am trụ Vân Cư văn nột tử bệnh di Diên Thọ đường. Tư ta thán tức như xuất chư kỷ. Triêu tích vấn hậu. Dĩ chí cung tự tiên chử bất thường bất dữ thực. Hoặc ngộ thiên khí sảo hàn phụ kỳ bối viết: "Y bất đan hồ". Hoặc trị thời thử sát kỳ sắc viết: "Mạc thái nhiệt hồ". Bất hạnh bất cứu, bất vấn bỉ chi hữu vô, thường trụ tận lễ tân tống. Tri sự hoặc tha từ Cao Am sất chi viết: "Tích Bách Trượng vị lăo bệnh giả lập thường trụ, nhĩ bất bệnh bất tử dă". Tứ phương thức giả cao kỳ vi nhân. Cập thoái Vân Cư quá Thiên Thai. Nột tử tương ṭng giả cận ngũ thập bối. Gián hữu bất năng văng giả khấp thế nhi biệt. Cái kỳ đức cảm nhân như thử. 
Sơn Đường Tiểu Xam. 

138.- DỊCH NGHĨA: Cao Am ở chùa Vân Cư, mỗi khi nghe thấy kẻ nột tử có bệnh, di chuyển tới nhà Diên Thọ (1), ngài thân tới hỏi han an ủi, coi như chính ḿnh. Ngài thường sớm tối trông nom săn sóc, dĩ chí tự tay sắc thuốc nấu cơm, nếu chẳng nếm trước thời không cho người bệnh ăn. Hoặc gặp khi trời rét, thời vỗ vào lưng họ mà nói: "Áo mặc chẳng đơn chiếc vậy ư?" Hoặc gặp thời tiết nóng bức, th́ quan sát sắc mặt họ và nói: "Có nóng nực quá chăng?" Bất hạnh mà không thể cứu sống được thời chẳng hỏi bệnh nhân có của riêng hay không, hết thảy chỉ dùng của thường trụ để làm lễ tống táng. Vị Trị sự nếu hoặc có lời ta thán, th́ Cao Am quở mắng và nói: "Xưa kia Bách Trượng v́ những người bệnh già mà lập ra thường trụ, c̣n người sẽ không bệnh không chết hay sao". Thức giả khắp bốn phương cho Cao Am là người cao quí. Kịp tới lúc lui gót chùa Vân Cư về chùa Thiên Thai, nột tử cùng theo ngài có tất cả năm mươi người. Hoặc giả có người không thể đi theo ngài được, đều phải rơi lệ từ biệt. Đó chính là do cái đức của con người mà cảm phục được ḷng người vậy. 
Sơn Đường Tiểu Xam. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Nhà Diên Thọ: Nhà để nuôi dưỡng người già ca3 và bệnh. Xưa kia mỗi tùng lâm đều có lập "An Lạc Đường" để dành riêng cho các lăo Tăng, và "Diên Thọ Đường" dành cho các bệnh Tăng. 

139.- CHỮ HÁN: Cao Am thoái Vân Cư. Viên Ngộ dục trị Phật Ấn Ngọa Long am vi yến hưu chi sở. Cao Am viết: "Lâm hạ nhân cẩu hữu đạo nghĩa chi lạc h́nh hài khả ngoại. Dư dĩ ṭng lâm chi niên, chính như trường canh hiểu nguyệt. Quang ảnh năng kỷ thời. Thả Tây Sơn lư phụ lâm truyền tương thuộc, giai dư dật lăo chi địa. Hà tất hữu chư kỷ nhiên hậu khả lạc da". Vị kỷ tức duệ trượng quá Thiên Thai. Hậu chung vu Hoa Đính Phong. 
Châu Mục Tập. 

139.- DỊCH NGHĨA: Cao Am khi thôi ở chùa Vân Cư. Viên Ngộ muốn sửa lại am Ngoạ Long của Phật Ấn (1) làm nơi nghỉ ngơi tĩnh dưỡng (2). Cao Am nói: "Người trong chốn thiền lâm, nếu đă có cái vui đạo nghĩa, th́ cần chi đến h́nh hài bên ngoài. Ta nay đă đến tuổi ṭng lâm (3), chính cũng như sao Trường Canh (4) và Hiểu Nguyệt (5), bóng sáng c̣n được bao lâu. Lều đống ở núi Tây, suối rừng quen thuộc đều là những nơi chốn ta vui về tuổi già, hà tất phải có chỗ riêng cho ḿnh rồi sau mới có thể vui vậy ư?". Chưa được bao lâu ngài chống gậy qua chùa Thiên Thai, sau mất ở núi Hoa Đính. 
Châu Mục Tập. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Phật Ấn: Liễu Nguyên Phật Ấn thiền sư núi Vân Cư, pháp tự của Khai Thiên Kiêm thiền sư. 
(2) Nơi nghỉ ngơi tĩnh dưỡng: Dịch ở chữ Yến hưu. 
(3) Tuổi ṭng lâm: Tuổi 70, tức là đến tuổi muốn làm công việc ǵ đều theo tâm ḿnh muốn mà không vượt ra ngoài phép tắc qui củ. Sách Luận Ngữ chép: "Ta mười lăm tuổi mà chí ở việc học, ba mươi tuổi mà tự lập, bốn mươi tuổi th́ không hoặc, năm mươi tuổi biết được thiên mệnh, sáu mươi tuổi tới chỗ nhĩ thuận, bảy mươi tuổi th́ ṭng lâm, chỗ muốn không vượt ngoài qui củ". 
(4) Trường Canh: Sao buổi sớm, phía Đông có sao Khai Minh gọi là Kim Tinh, phía Tây có sao Trường Canh gọi là Thủy Tinh. Kim Tinh ở phía Tây th́ mặt trời mọc, Thủy Tinh ở phía Đông th́ mặt trời lặn. 
(5) Hiểu Nguyệt: Trăng mọc khoảng ngày 27, 28 trong tháng, khi trăng vừa mọc th́ trời đă sáng, ư nói ánh sáng chẳng được là bao. 

140.- CHỮ HÁN: Cao Am viết: Nột tử vô hiền ngu. Duy tại thiện tri thức ủy khúc dĩ sùng kỳ đức nghiệp. Lịch thí dĩ phát kỳ khí năng. Tinh tưởng dĩ trọng kỳ ngôn. Ưu ái dĩ toàn kỳ tháo. Tuế nguyệt tích cửu thanh thực tịnh phong. Cái nhân giai hàm linh duy cần dụ chí. Như ngọc chi tại phác, để trịch tắc ngơa thạch, trắc ma tắc khuê chương. Như thủy chi phát nguyên, ủng át tắc ứ nê, sơ tuấn tắc xuyên trạch. Năi tri tượng quí, phi độc di hiền nhi bất dụng. Kỳ ư dưỡng dục khuyến tưởng chi đạo, diệc sở hữu vị chí hỹ. Đương tùng lâm ân thịnh chi thời, giai thị quí đại khí tài. Tại quí tắc ngu, đương hưng tắc trí. Cố viết: "Nhân giai hàm linh, duy cần dụ chí". Thị tri học giả tài năng dữ thời thăng giáng. Hiếu chi tắc chí, tưởng chi tắc sùng, ức chi tắc suy, xích chi tắc tuyệt. Thử học giả đạo đức tài năng tiêu trưởng chi sở do dă. 
Dữ Lư Đô Vận thư. 

140.- DỊCH NGHĨA: Cao Am nói: Người nột tử không có hiền hay ngu, mà chỉ căn cứ ở chỗ uốn nắn của bậc thiện trí thức để họ biết tôn sùng đức nghiệp, đem chỗ từng thí nghiệm để họ phát huy khí năng, đem chỗ tưởng lệ khuyến khích để họ tôn trọng lời nói, đem chỗ ưu ái để họ bảo toàn tiết tháo, cứ tích góp như thế qua năm này tháng khác, th́ tất nhiên thanh danh và thể chất của họ cũng sẽ được phong phú. Bởi lẽ, con người ai nấy đều hàm chứa cái tính thiêng liêng, duy ở chỗ siêng năng dẫn dụ mà tới được. Ví như viên ngọc c̣n nằm trong quặng, nếu đem liệng đi th́ nó là sỏi đá, nếu đem mài giũa th́ nó thành ngọc Khuê Chương (1). Cũng như chỗ bắt nguồn của nước, nếu nguồn bị úng tắc ứ đọng thời thành śnh lầy, nếu đem khơi thông cho sâu thời tất thành sông ng̣i hào lạch. Liền biết, trong đời Tượng quí này (2) chẳng những chỉ bỏ sót mất người hiền chẳng dùng, mà ngay đến con đường dưỡng dục khuyến tưởng cũng c̣n có chỗ chưa đến được vậy. Ngay cả lúc đương thời chốn tùng lâm cả thịnh cũng đều là những nhân tài bị bỏ rơi ở đời Tượng quí này. Nên con người ở thời mạt pháp thời gọi là ngu, ở thời hưng thịnh lại gọi là trí. Cho nên nói: "Con người đều hàm chứa cái tính thiêng liêng, duy ở chỗ siêng năng dẫn dụ mà tới được". Thế nên biết, tài năng của người học cũng theo thời mà lên hay xuống. Nếu khi thích thời nó sẽ đến, khen thưởng thời nó được tôn sùng, đè nến thời nó phải suy, chê trách thời nó sẽ tuyệt diệt. Đó là lư do của lẽ tiêu diệt hay tăng trưởng về đạo đức cũng như tài năng của người học đạo vậy. 
Thư gởi Lư Đô Úy Vận. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Ngọc Khuê Chương: Thứ ngọc đẽo phẳng gọi là Khuê, xẻ đôi lấy một nửa gọi là Chương. 
(2) Tượng quí: Tượng pháp và quí pháp hay mạt pháp. 
(3) Lư Đô Úy Vận: Lư sĩ Hành, tên chữ là Thiên Quân, đỗ Tiến sĩ, làm chức Đô Chuyển Vận Sứ ở Hà Bắc. 

141.- CHỮ HÁN: Cao Am viết: Giáo hóa chi đại mạc tiên đạo đức lễ nghĩa. Trụ tŕ nhân tôn đạo đức học giả thượng cung kính. Hành lễ nghĩa tắc học giả xỉ tham cạnh. Trụ tŕ hữu thất dung chi mạn, tắc học giả hữu lăng bạo chi tệ. Trụ tŕ hữu động sắc chi tránh, tắc học giả hữu công đấu chi họa. Tiên thánh tri ư vị nhiên, toại tuyển minh triết chi sĩ chủ ư tùng lâm. Sử nhân cụ chiêm bất dụ nhi hóa. Cố Thạch Đầu Mă Tổ đạo hóa thịnh hạnh chi thời. Anh kiệt chi sĩ xuất, uy nghi nhu gia, ung ung túc túc phát ngôn cử lệnh, thuấn mục dương mi, giai khả dĩ vi hậu thế chi phạm mô giả nghi kỳ nhiên hỹ. 
Dữ Tử Tâm thư. 

141.- DỊCH NGHĨA: Cao Am nói: Việc lớn của giáo hóa không ǵ lớn bằng đạo đức nhân nghĩa. Người trụ tri tôn đạo đức thời người học đạo sùng chuộng cung kính, thực hành lễ nghĩa thời người học hổ thẹn về tham muốn cạnh tranh. Nếu một khi người trụ tŕ tỏ vẻ ở dáng mặt khinh nhờn, thời người học có cái tệ lấn át thô bạo. Người trụ tŕ lộ vẻ tranh luận mà biến đổi sắc mặt, thời người học có cái vạ đấu tranh. Bậc Tiên thánh biết lúc chưa xảy ra, nên mới tuyển lựa kẻ sĩ minh triết làm chủ chốn tùng lâm, khiến cho mọi người đầy đủ phần quan chiêm, chẳng cần phải dạy bảo mà vẫn theo chỗ giáo hóa. Nên, đương thời ngài Thạch Đầu (1), Mă Tổ đạo hóa thịnh hành, th́ các bậc anh kiệt đua nhau xuất hiện. Các cử chỉ như uy nghi nhu ḥa, nghiêm trang kính cẩn, phát ngôn ra lệnh, chớp mắt dương lông mày, đều có thể lấy đây làm mô phạm cho đời sau, nên mới làm như thế vậy. 
Thư gởi Tử Tâm. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Thạch Đầu: Thạch Đầu Hy Thiên thiền sư, pháp tự của Thanh Nguyên Hành Tư thiền sư. 

142.- CHỮ HÁN: Cao Am viết: Tiên sư thường ngôn: "Hành cước xuất quan, sở chí tiểu viện đa hữu bất như ư sự. Nhân tư Pháp Nhăn xam Địa Tạng, Minh Giáo kiến Thần Đỉnh thời, tiện bất kiến hữu phiền năo dă". 
Kư Văn. 

142.- DỊCH NGHĨA: Cao Am nói: (1) Tiên sư thường nói: "Đi hành cước khi bước ra khỏi cửa, đến các tự viện nhỏ, phần nhiu gặp những việc không như ư. Nhân khi nghĩ đến việc Pháp Nhăn (2) tham thiền ở Địa Tạng, Minh Giáo (3) yết kiến Thần Đỉnh, liền chẳng thấy vướng bận chuyện phiền năo vậy". 
Kư Văn. 

CHÚ THÍCH: 

(1): Đại ư đoạn này nói sự tu hành của người đi hành cước, lúc nào cũng phải giữ phần chính niệm, không để cho mối nghĩ cẩu thả xen vào. 
(2) Pháp Nhăn: Pháp Nhăn Văn Ích thiền sư đi hành cước bị mưa, tới nghĩ ở viện Địa Tạng thuộc Thạch Sơn, nhân thế được gặp vị lăo Tăng hiệu là Sâm thiền sư, do chỗ trao đổi một vài câu chuyện đạo mà Pháp Nhăn đại ngộ. 
(3) Minh Giáo: Khi Minh Giáo Tung thiền sư yết kiến Thần Đỉnh, Đỉnh đang ngồi trên thiền đường. Tung trải tọa cụ kính lễ. Đỉnh chỉ lên hai cái hũ nhỏ trên nhà thiền và nói: "Ông tới đây rất đúng lúc, trong chùa năm nay bắt đầu có tương ăn". Đến sáng, khi ăn cháo, Tung thấy một tịnh nhân cắp một cái sọt vuông, lấy đồ vật trong đó để vào trong bát của chúng Tăng, Tung đưa mắt nh́n trên dưới, có người th́ nhai nhấm chút ít, có người th́ để đấy không ăn. Tung không ăn liền để vật đó trong tay áo xuống dưới nhà bửa ra xem, th́ đó là một thứ bánh làm bằng cơm khô. Tung mới hỏi bậc kỳ túc th́ được biết, chùa này không bao giờ nấu cháo buổi sáng, nếu ngày nào có đàn việt thỉnh trai, th́ lần lượt phải khiến chư Tăng đi, nếu ăn c̣n thừa th́ thức ăn đem về phơi khô để trong kho, tới ngày nào không có người thỉnh trai, phần đó đem ra chia đều để ăn. Đó là tiêu biểu cho sự cam khổ dữ đồng vậy. 

143.- CHỮ HÁN: Cao Am biểu lư đoan kính phong cách lẫm nhiên. Động tĩnh bất vong lễ pháp. Tại chúng nhật lữ kiến xâm hại thù bất giới ư. Chung thân dĩ giản ước tự phụng. Thất trung bất vọng hứa khả. Sảo bất tương khế, tất chính sắc trực từ dĩ tài chi. Nột tử giai tín phục. Thường viết: "Ngă đạo học vô quá nhân giả. Đăn b́nh sinh vi sự vô quí ư tâm nhĩ". 

[b]143.- DỊCH NGHĨA: Cao Am là người đoan nghiêm cương trực ở cả trong tâm cũng như h́nh thức bề ngoài, phong cách lẫm liệt, động tĩnh không quên lễ pháp. Ngày c̣n ở trong chúng thường thấy có việc ǵ xâm hại, ngài cũng chẳng để ư tới. Trọn đời chỉ lấy chỗ giản ước để tự xử. Trong chốn thiền thất chẳng bao giờ ngài hứa khả (1). Không có lư do chánh đáng, nếu hơi có điều ǵ chẳng cùng khế hợp, tất nhiên ngài nghiêm sắc mặt và nói thẳng để ngăn cản, nên trong đám nột tử ai nấy đều tin phục. Ngài thường nói: "Ta là người học đạo không hơn người, nhưng b́nh sinh làm việc không để hổ thẹn với lương tâm". 

CHÚ THÍCH: 

(1) Hứa khả: Tham thiền cốt yếu ở chỗ thực chứng ngộ, nên người nào có chứng ngộ xác thực mới được thầy hứa khả cho, tức chứng nhận. 

144.- CHỮ HÁN: Cao Am trụ Vân Cư, kiến nột tử hữu công nhân ẩn ác giả, tức thung dung dụ chi viết: "Sự bất như thử, lâm hạ nhân đạo vi cấp vụ, ḥa năi tu thân. Khởi khả cẩu túng ái tăng, hoại nhân hành chỉ". Kỳ uỷ khúc như thử. Sư sơ bất phó Vân Cư mệnh. Phật Nhăn di thư miễn văn: "Vân Cư giáp ư Giảng Tả, khả dĩ an chúng hành đạo, tự bất tu cố nhượng". Sư viết: "Tự hữu tùng lâm dĩ lai, học giả bị giá ban danh mục, hoại liễu tiết nghĩa giả, bất vi bất thiểu". Phật Giám văn chi viết: "Cao Am khứ tựu nột tử sở bất cập". 
Kư Văn. 

144.- DỊCH NGHĨA: Cao Am ở chùa Vân Cư, thấy nột tử kẻ nào hay soi bói cái lỗi xấu bí ẩn của người, ngài liền ung dung bảo họ rằng: "Sự việc chẳng nên như thế. Người trong chốn thiền lâm, phải lấy tu đạo làm việc cấp bách, lấy ḥa hoăn làm đích sửa ḿnh. Đâu lại buông bỏ ở ḷng yêu ghét, để phá hoại chỗ tiến thoái của người". Ngài dạy cặn kẻ như thế đó. Cao Am lúc đầu không vâng mệnh trụ tŕ chùa Vân Cư, Phật Nhăn có gởi thư khuyên rằng: "Chùa Vân Cư là danh lam bậc nhất ở Giang Tả (1), nơi ấy có thể an chúng hành đạo vậy ngài không nên khiêm nhường mà cố từ". Cao Am nói: "Từ khi có tùng lâm trở lại đây, người học đạo bị cái danh mục ấy, nó làm bại hoại mất tiếc nghĩa của con người không phải là ít". Phật Giám nghe thấy thế liền nói: "Chỗ đi và chỗ tới của Cao Am, người nột tử ít ai sánh kịp". 
Kư Văn. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Bậc nhất: Dịch ở chữ giáp, có nghĩa thứ nhất, đứng đầu. 

145.- CHỮ HÁN: Cao Am khuyến an lăo bệnh Tăng viết: Bần đạo thường duyệt Tạng giáo để thẩm Phật ư. Bất hứa Tỳ khưu tọa thụ vô công chi thực, sinh lăn nọa tâm, khởi ngô kiến giả. Mỗi chí thần triêu Phật cập đệ tử, tŕ bát khất thực, bất trạch quí tiện, tâm vô cao hạ. Tỉ đắc phúc giả nhất thiết quân đoàn. Hậu sở xung thường trụ giả, bản vị lăo bệnh Tỳ khưu bất năng hành khất giả thiết, phi thiếu tráng chi đồ khả đắc nhi thực. Đăi Phật diệt hậu, chính pháp thế trung diệc phục như thị. Tượng quí dĩ lai Trung quốc thiền lâm bất phế khất thực, đăn suy năng giả vi chi. Sở đắc lợi dưỡng tụ vi chiêu đề dĩ an quảng chúng, toại chiếp trục nhật hành khất chi qui dă. Kim văn sổ sát, trụ tŕ bất thức nhân quả, bất an lăo Tăng, bối lệ Phật chỉ, tước nhược pháp môn. Cẩu bất trụ viện, lăo tương an quí. Cảnh bất phản tư, thường trụ tài vật, bản vi thủy trí. Đương suy hà tâm dĩ hợp Phật tâm. Đương suy hà hạnh dĩ hợp Phật hạnh. Tích Phật tại nhật, hoặc bất phó thỉnh, lưu thân tịnh xá, biến tuần Tăng pḥng, khán thị lăo bệnh, nhất nhất chi vấn, nhất nhất biện trí. Nhưng khuyến thỉnh chư Tỳ khưu, đệ tương cung kính. Tùy thuận phương tiện, khử kỳ sân hiềm. Thử Điều Ngự Sư thống lư đại chúng khải mô dă. Kim chi đương đại tứ dụng thường trụ, tư cấp khẩu thể, kết thác quyền quí. Nhưng cánh tuyệt lăo giả bệnh giả. Chúng Tăng chi vật yểm vi kỷ hữu. Phật tâm Phật hạnh hồn vô thất dă. Bỉ phù! Bỉ phù! Cổ đức vân: " Lăo Tăng năi sơn môn chi tiêu bảng dă". Kim chi thiền lâm, bách Tăng chi trung, vô nhất lăo giả. Lăo nhi bất nạp ích chi thọ khảo chi vô bổ, phản bất như yểu tử. Nguyện kim đương đại các tuân Phật ngữ Thiệu Long Tổ vị, an phú lăo bệnh. Thường trụ hữu vô, tùy nghi cung cấp, vô sử ngu muội, chuyên quyền diệt liệt,chi chiêu lai thế, đoản súc chi bảo, thiết nghi gia sát. 

145.- DỊCH NGHĨA: Văn khuyên nhũ an ủi các lăo bệnh Tăng của Cao Am có chép: Bần đạo thường xem Tạng giáo, xét kỹ ư Phật, không cho phép các Tỳ khưu ngồi hưởng thụ những món ăn mà họ không dự phần công lao, để họ sinh tâm lười biếng, dấy kiến nhân ngă. Nên cứ mỗi buổi sáng, Phật và các đệ tử mang bát đi khất thực, chẳng lựa chọn nhà sang hèn, không phân biệt kẻ cao thấp, để khiến cho mọi người đều được phúc b́nh đẳng như nhau. Măi về sau này mới có cái tên gọi là thường trụ là cốt v́ các lăo bệnh Tỳ khưu không thể đi khất thực được mới lập ra, thật sự không phải là những người trẻ khỏe được dự phần ăn dùng trong đó. Kể từ khi đức Phật diệt độ trở về sau, trong thời chánh pháp các Tỳ khưu vẫn c̣n theo lề lối khất thực như trước, nhưng từ thời Tượng quí trở lại đây, khắp chốn tùng lâm tại Trung quốc, tuy chưa bỏ hẳn hạnh khất thực, nhưng chỉ suy cử những người có đầy đủ tài đức ra thực hiện việc đó. Về sau những lợi dưỡng đă xin được, tích góp lại làm của chiêu đề (1) để cúng dường đại chúng, rồi dần dần bỏ mất cái quy luật khất thực hàng ngày. Nay nghe thấy một số ít các chùa, người trụ tŕ lại chẳng biết đến nhân quả, chẳng cung dưỡng lăo Tăng, trái ngược với ư Phật, thương tổn đến pháp môn. Nếu chẳng trụ tŕ ở tu viện, th́ các lăo Tăng sẽ an trụ ở đâu? Sao họ không nghĩ lại, của cải của thường trụ vốn dĩ v́ ai mà đặt ra. Nên phải xét dùng tâm như thế nào để hợp với tâm Phật, làm hạnh như thế nào để hợp với hạnh Phật. Xưa kia, ngày đức Phật c̣n tại thế, hoặc có ngày Phật không tới dự thỉnh trai ở nhà đàn việt, giam ḿnh nơi tịnh xá, th́ ngài đi khắp các Tăng pḥng, thăm hỏi người già bệnh, nhất nhất đều an ủi, nhất nhất đều chu biện, lại c̣n khuyên bảo các Tỳ khưu nên cung kính lẫn nhau, tùy thuận những phương tiện, để gạt bỏ mọi hiềm thù sân hận. Đó là cái khuôn phép mẫu mực của đấng Điều Ngự Sư (2) thống lư tất cả đại chúng vậy. Người thời nay, lại phóng túng tiêu dùng của thường trụ, tư cấp cho miệng lưỡi xác thân, giao kết với kẻ quyền qúi, làm cách tuyệt người già và người bệnh. Thậm chí c̣n lấy của cải của Tăng chúng dấu làm của riêng ḿnh. Tâm Phật và hạnh Phật không c̣n được lấy một vậy. Thật thương thay! Bi đát thay! Cổ đức nói: "Lăo Tăng là tiêu bảng của sơn môn". Chốn thiền môn đời nay, trong số Tăng sĩ hàng một trăm người, không có lấy một người là bậc lăo thành. Già mà không được thu nạp, thấy rơ rằng sống lâu là vô bổ, chi bằng chết non c̣n hơn. Vậy tôi mong các Tăng sĩ trong chốn thiền lâm đương thời, hăy tuân theo lời Phật, nối dơi ngôi Tổ, nuôi dưỡng an ủi người già bệnh, tùy theo tài vật của thường trụ có hay không mà cung cấp cho thích nghi, đừng để cho kẻ ngu muội chuyên quyền làm tiêu diệt qui củ giáo pháp, mà vời lấy cái quả báo chết non ở đời sau. Rất tha thiết mong các hàng Tăng sĩ nhận xét thêm cho kỹ. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Chiêu đề: Chiêu đề là chữ phiên âm của tiếng Phạn, Tàu dịch là tứ phương Tăng, hoặc gọi là chiêu đề Tăng, hay gọi là của thập phương thường trụ Tăng. 
(2) Điều Ngự Sư: Chỉ đức Phật Thích Ca, giáo chủ đạo Phật. 

146.- CHỮ HÁN: Giác Phạm Ḥa thượng đề Linh Môn bảng viết: Linh nguyên sơ bất nguyện xuất thế đê ngạn thậm lao. Trương Vô Tận phụng sứ Giang Tây, lũ chí chi bất khả. Cửu chi phiên nhiên cải viết: "Thiền lâm hạ suy hoằng pháp giả đa. Giả ngả thâu an, bất cập sanh trụ chi kỳ băng đồi khuể khả tu dă". Ư thị khai pháp ư Hoài Thượng chi Thái B́nh. Dư thời Đông du đăng kỳ môn. Tùng lâm chi chỉnh tề, tông phong chi đại chấn, nghi Bách Trượng vô dạng thời bất giảm dă. Hậu thập ngũ niên kiến thử bảng vu Phùng Nguyên chi thất. Độc chi lẫm nhiên như kiến kỳ đạo cốt. Sơn cốc vi phách kḥa đại thư. Kỳ hữu kích vân: "Ô hô sử thiên hạ vi pháp thí giả giai tuân Linh Nguyên chi ngữ dĩ trụ tŕ tắc thượng hà ưu hồ Tổ đạo bất chấn dă tai". Truyện viết: "Nhân năng hoằng đạo, phi đạo hoằng nhân". Linh nguyên dĩ chi. 
Thạch Môn Tập. 

146.- DỊCH NGHĨA: Giác Phạm Ḥa thượng đề vào cổng chùa Linh Nguyên rằng: Linh Nguyên lúc đầu không nguyện ra đời hoằng đạo, chí nguyện đó vững chắc như bờ đê kiên cố. Trương Vô Tận (1) lúc ấy phụng sứ mạng đang làm quan đất Giang Tây, thường thường đến chùa mời ngài ra ứng thế, nhưng ngài không thuận. Thời gian sau tự nhiên ngài thay đổi ư kiến và nói: "Chốn thiền lâm suy vi, người hoằng pháp tuy nhiều, nhưng phần nhiều lại mượn cớ trốn tránh trách nhiệm để hưởng an nhàn, nếu ta không gấp ra tay chống đỡ, th́ nó sẽ đổ nát trong gang tấc vậy". Bởi thế nên ngài mới khai pháp ở chùa Thái B́nh đất Hoài Thượng. Khi bấy giờ ta (Giác Phâm) Đông du tới chùa đó, thấy chốn tùng lâm đă được chấn chỉnh, tông phong cũng được hưng thịnh, mà ngờ rằng như thời hưng thịnh của Bách Trượng vẫn c̣n không suy giảm. Sau đó mười lăm năm ta lại thấy tấm bảng đó nơi trượng thất của Phùng Nguyên, đọc xong rồi, bỗng nhiên ta sửng sốt như thấy vẻ đạo cốt của Linh Nguyên vậy. Hơn thế nữa, Sơn Cốc c̣n đem bảng này viết bằng lối chữ vuông thật lớn, trong đó có thêm lời kích kệ rằng: "Than ôi! Nếu khiến những người trong thiên hạ làm hạnh pháp thí, mà đều tuân theo lời của Linh Nguyên để trụ tŕ, thời lo ǵ Tổ đạo chẳng hưng thịnh vậy thay!". Truyện có chép: "Người hay hoằng truyền đạo, không phải đạo hay hoằng truyền người". Linh Nguyên đă ứng dụng đựợc điều này. 
Thạch Môn Tập. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Trương Vô Tận: Thừa Tướng Trương Thương Anh, tên chữ là Thiên Giác, hiệu là Vô Tận, năm 19 tuổi thi đậu, sau thâm tín Phật pháp. Năm Nguyên Hựu thứ 6 đời vua Tống Triết Tôn, làm chức Tào Vận Sứ ở Giang Tay, sau đắc pháp ở Đâu Xuất Duyệt thiền sư. 

147.- CHỮ HÁN: Qui Vân Bản Ḥa thượng biện nịnh thiên viết: Bản triều Phú Trịnh Công (Bật), vấn đạo ư Đầu Tử Ngung thiền sư. Thư xích kệ tụng phàm nhất thập tứ chỉ. Bi ư Thai châu Hồng Phúc lưỡng lang bích gian. Chước kiến tiền bối chủ pháp chi nghiêm, vương công quí nhân tín đạo chi đốc dă. Trịnh Quốc Công xă tắc trọng thần, văn niên chi hướng chi như thử. Nhi Ngung tất hữu đại quá nhân giả. Tự vị ư Ngung hữu sở cảnh phát. Sĩ phu trung đế tín thử đạo, năng vong xỉ khuất thế, phấn phát mănh lợi, kỳ ư triệt chúng nhi hậu dĩ. Như Dương Đại Niên Thị Lang Lư, Ḥa Văn Đô Úy, kiến Quảng Tuệ Liên. Thạch Môn Thông tinh Từ Minh chư đại lăo kích dương thù xướng, ban ban kiến chư thiền thư. Dương Vô Vi chi ư Bạch Vân Đoan, Trương Vô Tận chi ư Đâu Xuất Duyệt. Giai khấu quan kích tiết, triệt chứng nguyên để, phi cẩu nhiên giả dă. Cận thế Trương Vô Cấu Thị Lang, Lư Hán Lăo Tham Chánh, Lă Cư Nhân học sĩ, giai kiến Diệu Hỷ lăo nhân. Đăng đường nhập thất, vị chi phương ngoại đạo hữu. Ái tăng nghịch thuận lôi huy điện tảo, thoát lược thế tục câu kị. Quan giả liễm nhẫm tịch dịch vơng khuy nhai sĩ. Nhiên sĩ quân tử tương cầu ư không nhàn tịch mịch chi tân, nghĩ thê tâm thiền tịch phát huy bản hữu nhi dĩ. Hậu thế bất kiến tiên đức giai mộ, chuyên sự du mị, khúc cầu tiến hiển. Phàm dĩ trụ tŕ tiến danh vi Trưởng lăo giả. Văng văng thư thích, dĩ xưng môn Tăng. Phụng tiền nhân vị ân phủ, thủ chiêu đề chi vật bao tư hiến nịnh. Thức giả mẫn tiếu nhi điềm bất tri xĩ. Ô hô ngô sa môn thích tử, nhất b́nh nhất bát, vân hành điểu phi, phi hữu đống nỗi chi bách, tử nữ ngọc bạch chi luyến, nhi dục triết yêu ủng tuệ toan hàn cục tích, tự thủ nhục tiện chi như thử dă. Xưng ân phủ giả xuất nhất kỷ tư vô sở y cứ, nhất vọng dong xướng chi ư kỳ tiền, bách vọng dong họa chi ư kỳ hậu. Nghĩ tranh phụng chi chân ty tiểu nhĩ. Tước nhược phong giáo mạc thậm ư nịnh nhân. Thực gian tà khi ngụy chi tiệm, tuy đoan nhân chính sĩ sảo vi ḱ sở nhập, tắc hăm thân ư bất nghĩa, thất đức ư vô cứu, khả bất ai dư! Phá pháp Tỳ khưu, ma khí sở chung, cuồng đản tự nhược. Trá hiện trí thức thân tướng, chỉ thiền lâm đại lăo vi chi sư thừa, mi đương lộ quí nhân vi chi tông thuộc. Thân bất thỉnh chi kính, khải hoại pháp chi đoan. Bạch y đăng sàng mô bái kỳ hạ. Khúc vi Thánh chế, đại nhục tông phong. Ngô đạo chi suy cực chí như thử. Ô hô! Thiên chủ qui lục, vạn tử hề thục. Phi nịnh giă dư. Tung thiền sư Nguyên giáo hữu vân: "Cố chi cao Tăng giả, kiến thiên tử bất thần. Dự chế thư tắc viết công viết sư. Chung Sơn Tăng Viễn loan dư cập môn nhi sàng tọa bất nghinh. Hổ Khê Tuệ Viễn. Thiên tử lâm Tầm Dương nhi chiếu bất xuất sơn". Đưong thế đăi ḱ nhân tôn ḱ đức, thị cố Thánh nhân chi đạo chấn. Hậu thế chi mô kỳ cao Tăng giả, giao khanh đại phu bất đắc dự hạ si chi lễ. Kỳ xuất kỳ xử bất nhược dong nhan chi tự đắc dă. Huống như Tăng Viễn chi kiến thiên tử hồ. Huống như Tuệ Viễn chi tự nhược hồ. Vọng ngô đạo hưng ngô nhân chi tu, kỳ khả đắc hồ. Tồn kỳ giáo nhi nhất tu kỳ nhân, tồn chư hà dĩ ích hồ. Duy thử vi thường bất thế há, Thuần Hy Đinh Dậu. Dư tạ sự Hiển Ân. Ngụ cư B́nh Điền Tây Sơn tiểu ổ. Dĩ nhật cận kiến văn sự đa kiểu ngụy cổ phong điêu lạc. Ngô ngôn bất túc vi chi trọng khinh. Liêu thư dĩ tận cảnh vân. 
Tùng Lâm Thịnh Sự. 

147.- DỊCH NGHĨA: Trong Biện Nịnh thiên của Qui Vân Bản (1) Ḥa thượng chép: Bản triều có Phú Trịnh Công Bật (2) hỏi đạo ở Đầu Tử Ngung (3) thiền sư, viết thư đi lại bằng những bài kệ tụng, gồm mười bốn trang giấy được khắc vào bia đá ở tả hữu hai bên hành lang chùa Hồng Phúc thuộc Thai Châu, để được thấy rơ ràng chỗ trang nghiêm rực rỡ về chủ pháp của tiền bối, và nhận thấy sự tin đạo sâu xa của hàng vương công quí nhân. Trịnh Quốc Công là một trọng thần của xă tắc tới lúc tuổi già c̣n biết xu hướng tin đạo như thế, th́ Ngung thiền sư phải có tư tưởng đặc sắc hơn người. Quốc Công tự bảo rằng chính ông đă được chỗ dạy bảo cảnh sách của Ngung thiền sư mà phát sinh liễu ngộ. Trong đám sĩ phu thâm tín Phật đạo, hay quên cả tuổi tác thế vị, phát khởi tâm tinh tiến mạnh mẽ, chỉ mong đạt tới chỗ chứng ngộ triệt để rồi sau mới thôi. Như Dương Đại Niên Thị Lang (4) Lư Ḥa Văn (5) Đô Úy được gặp Quảng Tuệ Liễn (6), Thạch Môn Thông và Từ Minh chư đại lăo. Những các cơ duyên như kích dương thủ xướng (7) c̣n thấy chép nhan nhăn trong các thiền thư. Như Dương Vô Vi tham thiền nơi Bạch Vân Đoan, Trương Vô Tận nơi ngài Đâu Xuất Duyệt (8) đều từ chỗ gơ cửa đánh xênh (9) mà đưa tới phần chứng ngộ triệt để được gốc nguồn. Chẳng phải chỉ những như thế mà thôi. Thời cận đại lại có Trương Vô Cấu (10) Thị Lang, Lư Hán Lăo (11) Tham chánh, Lă Cư Nhân (12) học sĩ, đều hỏi đạo ở Diệu Hỷ Lăo nhân. Khi đăng đường lúc nhập thất (13) đều bảo là những ban đao xuất trần. Hành động yêu ghét thuận nghịch, mạnh như chớp giựt sấm vang, không câu nệ chỗ kiêng kỵ của thế gian, khiến người thấy phải khép nép lo sợ mà chẳng lường được bờ bến. Song le, những người hiền sĩ quân tử là cốt cùng nhau t́m đến không nhàn tịch mịch, ngưng tâm nơi thiền tịch, để phát huy cái phần chân tâm sẵn có của ḿnh mà thôi. Người đời sau đă chẳng bắt chước được cái khuôn phép mẫu mực của tiên đức, tại chuyên việc ton hót nịnh bợ, để mong cầu tiến thân hiển đạt. Phàm người lấy chức vị trụ tŕ để dương lên làm bậc Trưởng lăo, th́ thường thường viết tên trên thư thiếp để xưng ḿnh là Tăng trong môn hạ. Cung phụng người th́ chủ trước kia lấy đó làm ân phủ, rồi đem của thường trụ Tăng đùm bọc nịnh bợ hiến dâng, làm tṛ cười cho kẻ thức giả mà vẫn điểm nhiên chẳng biết hổ. Than ôi! Sa môn Thích tử của đạo ta, một b́nh một bát như mây chạy chim bay, không lo sợ phần đói rét bức bách, chẳng luyến ái về con cái, tơ lụa ngọc ngà, mà lại muốn khom lưng uốn ḿnh, rón rén run sợ để tự chuốc lấy sự việc ti tiện nhục nhă như thế vậy ư! Người được gọi là ân phủ (ân hậu sâu dầy), chỉ là điểm xuất phát phần riêng biệt của một ḿnh, không có chỗ y cứ, nhưng v́ một người càn bậy tầm thường xướng xuất việc đó ở trước, nên trăm kẻ càn bậy tầm thường lại phụ họa theo ở sau, rồi phỏng theo mà tranh nhau cung phụng lại họ, th́ quả thật là việc thấp hèn nhỏ mọn vậy. Người làm cho phong giáo suy đồi chẳng ǵ tệ hại hơn bằng kẻ nịnh bợ. Quả thật chỗ tiêm nhiễm gian tà dối trá, tuy là đoan nhân chính sĩ, nếu một khi đă bị nó xâm nhập, thời tất phải hăm ḿnh vào chỗ bất nghĩa, thất đức mà không thể cứu được. Thật đáng thương thay! Tỳ khưu phá pháp, bị ma khí ám ảnh, nói láo nói sằng tự đắc, giả hiện thân tướng người trí thức, nhận đại lăo chốn thiền lâm bảo đó là sư thừa, nịnh người sang trọng ở giữa đường bảo đó là tông thuộc, tỏ thái độ cung kính chẳng đợi mời, mở đầu mối phá hoại nơi chánh pháp. Người bạch y để ngồi ngạo nghễ trên giường, c̣n ḿnh quỳ lạy dưới đất, bẻ cong điều cấm chế của đức Phật, làm nhơ nhuốc thậm tệ tới tông phong. Sự suy đồi của đạo ta đến như thế là cùng cực vậy. Than ôi! Trời ghi quỷ chép những tội trạng, đáng muôn phần chết làm thế nào chuộc lại được. Đó chẳng phải đều từ tội trạng của con người nịnh bợ mà ra vậy ư? Luận Nguyên Giáo của Minh Giáo Tung thiền sư chép: "Bậc cao Tăng thời xưa, khi yết kiến Thiên tử cũng c̣n chẳng chịu lễ bầy tôi. Dụ thảo chế thư thời gọi rằng quốc sĩ, rằng vương sư. Tăng Viễn (14) ở Chung Sơn, khi xe loan nhà vua tới cửa, vẫn ngồi trên giường klhông nghinh tiếp. Tuệ Viễn (15) ở Hổ Khê, lúc Thiên tử tới đất Tầm Dương có chiếu mời, cũng chẳng chịu ra khỏi núi". Đương thời đó, sự đăi người như thế, tôn đức như vậy, nên cái đạo của Thánh nhân được hưng thịnh. Đời sau, những người hâm mộ cao Tăng th́ khi giao thiệp với công khanh đại phu, c̣n không được đối đăi với phần lễ nghi của hạ sĩ. Xét phần xuất xứ của họ, đă chẳng bằng chỗ tự đắc của người thường, đâu được như thái độ yết kiến thiên tử của Tăng Viễn vậy ư? Đâu được như thái độ tự tại của Tuệ Viễn vậy ư? Như vậy mà mong đạo ta hưng thịnh, sự tu của chúng ta tiến đạt, đâu có thể vậy ư? Cũng v́ thế mà ta không thể không rơi lệ. Niên hiệu Thuần Hy năm Đinh Dậu, ta thôi công việc chùa Kiến Ân, ngụ tại một làng xóm nhỏ tại Tây Sơn đất B́nh Điền, nhân chỗ mắt thấy tai nghe ở những ngày gần đây, nhận xét thấy những sự việc phần nhiều là giả trá, làm suy tàn mất thói xưa. Lời nói của ta chẳng đủ để cân nhắc nặng nhẹ liền vội viết ra đây để tự cảnh sách ḿnh. 
Tùng Lâm Thịnh Sự. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Qui Vân Bản: Như Bản thiền sư chùa Qui Vân núi Sơ Sơn thuộc Hàng Châu, pháp tự của Linh Ân Tuệ Viễn thiền sư, đời thứ 16 phái Nam Nhạc. 
(2) Phú Trịnh Công: Thừa Tướng Phú Bật, tên chữ là Ngạn Quốc. Đời Tống Nhân Tôn được phong làm Trịnh Quốc Công, tên hèm là Văn Trung Định Công, đắc pháp ở Đầu Tử Ngung thiền sư. 
(3) Đầu Tử Ngung: Đầu Tử Ngô Chứng Tử Ngung thiền sư, pháp tự của Tuệ Lam Tông Bản thiền sư, đời thứ 12 phái Thanh Nguyên. 
(4) Dương Đại Niên: Dương Ức đời Tống, tên chữ là Đại Niên, người Kiến Châu, húy là Văn Chinh Công làm quan đến Hàn Lâm, đắc pháp ở Quảng Tuệ Nguyên Liễn thiền sư, sau tham đạo với Từ Minh thiền sư. 
(5) Lư Ḥa Văn: Pḥ Mă Đô Úy Lư Tuân Húc, hiệu là Ḥa Văn cư sĩ, đắc pháp ở Cốc Ân Uẩn Thông thiền sư. 
(6) Quảng Tuệ Liễn: Quảng Tuệ Viễn, Nguyên Liễn thiền sư pháp tự của Thủ Sơn Niệm, đời thứ 9 phái Nam Nhạc. 
(7) Kích dương thủ xướng: Chận lại, khuấy lên, hỏi và trả lời, đó dều là những động cơ trong thiền tông, nhờ đó ngộ nhập. 
(8) Đâu Xuất Duyệt: Ṭng Duyệt thiền sư chùa Đâu Xuất, pháp tự của Chân Tịnh Văn, đời thứ 13 phái Nam Nhạc. 
(9) Gơ cửa đánh xênh: dịch ở chữ khấu quan kích tiết, có nghĩa là nhắc nhở người tham thiền thông qua chỗ hiểm yếu khó khăn để tỏ lộ chân cơ. 
(10) Trương Vô Cấu: Quan Thị Lang Trương Cửu Thành, tên chữ là Tử Thiều, hiệu là Vô Cấu cư sĩ, đắc đạo ở Diệu Hỷ Cảo thiền sư. 
(11) Lư Hán Lăo: Tham chánh Lư Bính, tên chữ là Hán Lăo, đắc pháp ở Diệu Hỷ thiền sư. 
(12) Lă Cư Nhân: Họ Lă, tên là Bản Trung, tên chữ là Cư Nhân, hỏi đạo ở Diệu Hỷ Cảo thiền sư, chức quan tới Hàn Lâm. 
(13) Đăng đường nhập thất: Nơi để các người tham học, thỉnh thầy hỏi đạo, quyết đoán chỗ tâm c̣n nghi ngờ. 
(14) Tăng Viễn: Khoảng tháng tám năm đầu niên hiệu Kiến Nguyên đời Tề Cao Tổ, vua ngự giá tới núi Chung Sơn, nhân thế muốn gặp bậc cao Tăng Tăng Viễn. Khi vua ngự giá tới chùa, Tăng Viễn lấy cớ bệnh già nên không thể nghinh tiếp, ngồi ngay trên giường cùng vua tiếp chuyện. 
(15) Tuệ Viễn: Tuệ Viễn thiền sư, chùa Hổ Khê ở Đông Lâm Sơn. Ngài lập hội Liên Xă tu pháp môn Tịnh Độ đầu tiên ở núi này để thâu nạp mọi bậc hiền nho và sa môn Thích tử gồm hơn 1000 người, chuyên cầu văng sinh Tịnh Độ. Vua An Đế đời Đông Tấn, xa giá đến đất Tầm Dương, chiếu chỉ mời Tuệ Viễn hạ sơn, Tuệ Viễn lấy cớ v́ bệnh già mà từ chối. Do đó, vua bèn sắc cho quan Thái Thú đất Cửu Giang, hằng năm, phải đưa đồ dùng cần thiết tới cung cấp. Ngài ở núi nầy ba mươi năm không bao giờ ra khỏi núi, nếu một khi có đưa khách th́ chỉ đưa tới cầu Hổ Khê làm giới hạn. 

148.- CHỮ HÁN: Viên Cực Sầm Ḥa thượng bạt vân: Phật thế chi viễn, chính tông đạm bạc. Kiêu li phong hạnh vô sở bất chí. Tiền bối điêu tạ hậu sanh vô văn. Tùng lâm điển h́nh kư chí tạo địa. Túng hữu phù cứu chi dă, phản dĩ vi vương măn tử dă. Kim quan Sơ Sơn Bản thiền sư, Biện Nịnh từ viễn nhi quảng, thâm thiết trứ minh cực năng châm kỳ bệnh. Đệ vọng dong bối trí thức ám đoản, túy tâm ư tà nịnh chi vực, tất dĩ đề hồ vi độc dược dă. 
Tùng Lâm Thịnh Sự. 

148.- DỊCH NGHĨA: Viên Cực Sầm Ḥa thượng (1) làm bài bạt rằng: Đời Phật cách xa, chính tông đạm bạc, phong hạnh phai mờ, đến chỗ cùng cực. Bậc tiền bối th́ tàn tạ, kẻ hậu sinh chưa nghe tên. Khuôn phép sẵn có của tùng lâm, gần tới lúc hoàn toàn sụp đổ. Ví có người đứng ra phù tŕ, trái lại làm người nô bộc (2). Nay xem thiên Biện Nịnh của Bản thiền sư núi Sơ Sơn, lời th́ xa mà ư lại rộng, thật là thâm thiết rơ ràng, rất có thể là những liều thuốc hay để chửa bệnh hiểm nghèo. Nhưng những kẻ b́nh thường xăng bậy, trí thức kém cỏi đen tối, ch́m đắm trong lănh vực tà nịnh th́ tất lấy vị đề hồ làm độc dược vậy. 
Tùng Lâm Thịnh Sự. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Viên Cực Sầm: Viên Cực Ngạn Sầm thiền sư chùa Ẩn Tỉnh châu Thái B́nh, pháp tự của Vân Cư Pháp Như thiền sư, đời thứ 16 phái Nam Nhạc. 
(2) Nô bộc: dịch ở chữ vương man tử, lời tục ngữ địa phương, có ư nghĩa là nô bộc. 

149.- CHỮ HÁN: Đông Sơn Không Ḥa thượng đáp Dư Tài Mậu tá cước phu thư vân: Hướng nhục uổng cố hạ ái chi hậu. Biệt hậu hựu thừa huệ thư ích tự cảm quí. Mỗ bản nham huyệt nhàn nhân, dữ thế mịch nhiên, Tài Mậu tự tri chi. Kim tuy tác Trưởng lăo, cư phương trượng, chỉ thị tiền nhật Không Thượng Tọa. Thường trụ hữu vô, nhất phó chủ sự. Xuất nhập chi tịch tịnh bất kinh nhăn. Bất súc y bát bất dụng thường trụ, bất phó ngoại thỉnh, bất cầu ngoại viện. Nhậm duyên nhi trụ, sơ bất tác minh nhật kế. Tài Mậu kư dĩ đạo cựu kiến xưng, cố đương tương vong ư đạo kim thư trung tựu mịch sổ cước phu. Bất tri thử cước xuất ư thường trụ gia. Không Thượng Tọa gia. Nhược xuất ư Không, không diệc hà hữu. Nhược xuất thường trụ, thị tư dụng thường trụ. Nhất thiệp tư tắc vi đạo, khởi hữu thiện tri thức nhi đạo dụng thường trụ hồ. Công kư nhập đế hương cầu hảo sự, bất nghi ư tự viện doanh thử đẳng sự. Công Mân nhân, sở kiến sở tri, giai Mân chi Trưởng lăo. Nhất trụ trược viện, tất thường trụ tận đạo vi kỷ hữu, hoặc dụng kết hảo quí nhân, hoặc dụng tư cấp tục gia, hoặc dụng tiết bồi kỷ tri. Thù bất niệm kỳ vi thập phương thường trụ chiêu đề tăng vật dă. Kim chi đới giác phi mao, thường sở phụ giả, đa thử đẳng nhân. Tiên Phật minh ngôn, khả bất cụ tai. Tỷ niên dĩ lai, tự xá tàn phế, tăng đồ liêu lạc, giai thử đẳng cữu. Nguyện công vật trí ngă ư thử đẳng bối trung. Công quả kiến tín, tắc tha tự sở hứa giả, giai tạ nhi mạc thủ, tắc công chi tiền tŕnh, vị khả lượng dă. Nghịch nhĩ chi ngôn, bất tri dĩ vi như hà. Thời hàn đồ trung bảo ái. 
Ngữ Lục. 

149.- DỊCH NGHĨA: Thư của Đông Sơn Không (1) Ḥa thượng trả lời Dư Tài Mậu hỏi mượn tiền rằng: Trước đây hân hạnh được ông hạ cố rất nồng hậu. Sau thời gian cách biệt, lại tiếp được huệ thư, tôi tự rất lấy làm hổ thẹn. Tôi vốn là người an phận nơi núi rừng, cùng với đời xa cách, Tài Mậu h́nh như đă biết rơ. Nay tôi tuy làm ngôi Trưởng lăo trong chốn phương trượng, cũng chỉ là Không Thượng Tọa như ngày xưa không khác. V́ của cải của thường trụ có hay không, nhất nhất đều giao phó cho người chủ sự, sổ chi thu xuất nhập cũng đều chẳng hề để mắt tới, chẳng chứa chấp áo bát không dùng của thường trụ, chẳng theo lời mời ở bên ngoài, không cầu cạnh ở ngoại viện, chỉ tùy theo duyên mà ở, chẳng hề tính kế ngày mai. Tài Mậu đă lấy chỗ đạo t́nh quen biết cũ mà nhắc tới, thế nên cùng nhau hăy cùng quên "vật" và "ngă" để cùng vui với đạo. Nay thấy trong thư gởi tới, ông cậy tôi mượn chút tiền, không biết ông muốn mượn tiền đó, là tiền ở nơi thường trụ hay ở Không Thượng Tọa vậy ư? Nếu xuất tiền ở nơi Không này, th́ Không cũng chẳng có ǵ, nếu từ nơi thường trụ th́ là lạm dụng của riêng thường trụ. Một khi đă lạm dụng của thường trụ, dùng vào việc riêng thời phạm tội ăn trộm. Lẽ đâu bậc thiện trí thức mà lại trộm dùng của thường trụ vậy ư? Ông đă dự định vào chốn Đế Hương (Kinh đô) để t́m việc tốt, th́ không nên làm những việc như thế ở nơi tự viện. Ông là người đất Mân, chỗ thấy chỗ biết của ông đều là chỗ thấy biết về Trưởng lăo của đất Mân. V́, khi một Trưởng lăo đó trụ tŕ một tự viện nào, th́ trộm cắp của thường trụ làm của riêng ḿnh, hoặc dùng để kết bạn với quí nhân, hoặc dùng tư cấp kẻ thế tục, hoặc dùng để tiếp đăi người ḿnh quen biết, mà chẳng nghĩ những của cải đó là của thập phương thường trụ chiêu đề Tăng. Đời nay những loài mang lông đeo sừng để đền bù những món nợ trước đó, phần nhiều là những bọn người ấy vậy. Đức Phật đă nói rơ, thật đáng run sợ! Những năm gần đây, tự viện tinh xá bị tàn phế, Tăng đồ th́ vắng vẻ, đều là lỗi ở bọn ấy mà ra. Vậy xin ông chớ để tôi nằm trong hàng ngủ của bọn ấy. Quả thật ông thấy thế mà tin lời nói của tôi, th́ dù chùa khác có nhận lời hứa cho ông mượn tiền, ông cũng nên từ chối đừng nhận, nếu không, trên đường hành tŕnh tới Kinh đô của ông, chưa thể lường được, lời nói tuy trái tai, chẳng biết ư ông thế nào? Thời tiết giá lạnh, ông nên giữ ǵn ngọc thể trên bước đường dài. 
Ngữ Lục. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Đông Sơn Không: Tuyết Phong Đông Sơn Huệ Không, pháp tự của Lặc Đàm Thiện Thanh thiền sư, đời thứ 14 phái Nam Nhạc. 

150.- CHỮ HÁN: Triết Ông Diễm Ḥa thượng vân: Thử thư chân Diêm Lăo Tử điện tiền, nhất bản xá thư đă. Kim chi chư phương đạo nhăn, bất tri nhược hà, quả năng thụ tŕ thử thư, tắc tha nhật đại hữu đắc lực xứ. Triết Ông mỗi dĩ cử tự ư nhân. Xán Ẩn Sơn diệc vân: "Thường trụ kim cốc, trừ cung chúng chi ngoại, kỷ như chậm độc. Trụ tŕ nhân dữ tư kỳ xuất nhập giả tàitriêm trược, tắc thông thân hội lạn. Luật bộ tải chi tường hỹ". Cổ nhân tương tiền tựu khố hạ, măi sinh khương tiên dược, cái khả kiến. Kim chi cử phuơng trượng giả, phi đặc quát chúng nhân bát vu trung vật, dĩ tứ khẩu phúc, thả tương dĩ truy bồi tự kỷ, phi phiếm nhân t́nh, hựu kỳ thậm, tắc oan khứ, sưu măi trân kỳ, quảng tác nhân t́nh, kư thiên đại sát, chỉ khủng tha nhật, thiết diện Diêm Lăo Tử, dữ kế toán tai. 
Niêm Nhai Mạn Lục. 

THIỀN LÂM BẢO HUẤN 
Quyển Đệ Nhị 
CHUNG 

150.- DỊCH NGHĨA: Triết Ông Diễm (1) Ḥa thượng nói: Bức thư này quả thật là một bức thư xá tội trước điện Diêm Lăo Tử (Diêm Vương). Các bậc cao nhân ở khắp nơi hiện nay, chẳng biết các ngài sẽ nghĩ như thế nào? Nếu các ngài quả quyết giữ ǵn được như lời nóitrong thư này, thời một ngày kia tất có nhiều sức lực. Triết Ông thường lấy sự việc trong thư này để nhắc nhở ở người. Xán Ẩn Sơn cũng nói: "Tiền bạc thóc lúa của thường trụ, ngoại trừ việc cung chúng ra, c̣n nếu ai lấy đó đem dùng vào việc riêng tư, cũng như người dùng chất độc loài chim chậm. Người trụ tŕ cũng như người coi việc xuất nhập của cải của thường trụ, nếu họ hơi có tâm tham đắm cắt xén của cải đó, tất nhiên khắp ḿnh da thịt sẽ bị lở loét thối nát. Trong bộ Luật đă ghi chép rơ ràng như vậy". Cổ nhân (2) đem tiền tới người thủ kho mua gừng để sắc thuốc, việc này c̣n có minh chứng. Người đời nay ngồi chễm chệ nơi phương trượng, chẳng những chỉ vơ vét những vật trong chén bát của chúng nhân để thỏa thích bụng miệng, mà c̣n dùng để truy tùy cho phần riêng ḿnh, phù phiếm thuận theo t́nh người. Tệ hơn nữa, họ c̣n cắt xén của thường trụ để sưu tầm mua bán những đồ vật trân kỳ, để quảng bá nhân t́nh, mong sao được thuyên chuyển tới một ngôi chùa lớn. Những con người như thế, ta sợ rằng Thiết Diện Diêm Lăo Tử kế toán làm sao hết được tội lỗi của họ vậy. 
Niêm Nhai Mạn Lục. 

CHÚ THÍCH: 

(1) Triết Ông Diễm: Như Diễm thiền sư, hiệu là Triêt Ông, chưa tường về nguồn gốc pháp phái. 
(2) Cổ nhân: tức Đông Sơn Tụ Bảo thiền sư, pháp tự của Ngũ Tổ Giới thiền sư, đời thứ 9 phái Thanh Nguyên. Thiền sư là người rất nghiêm cẩn, khi ở với Ngũ Tổ đă từng làm chức coi kho. Nhân khi Giới thiền sư có bệnh, ngài sai thị giả tới kho lấy gừng để sắc thuốc. Bảo thiền sư liền trách mắng thị giả. Thị giả đem chuyện này bạch lại với Giới thiền sư, rồi thiền sư phải đưa tiền để mua. Bảo mới chịu lấy gừng cho thị giả. Về sau Bảo có tên là "Mại Sinh Khương Hán" (người bán gừng}. 

THIỀN LÂM BẢO HUẤN 
Quyển thứ hai 

HẾT
 

 

 

previous.png   back_to_top.png   next.png

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

 

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0