佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

Số 1723 10 Quyển   KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA HUYỀN TÁN

[ Mục Lục | Quyển 1 | Quyển 2 | Quyển 3 | Quyển 4 | Quyển 5 | Quyển 6 | Quyển 7 | Quyển 8 | Quyển 9 | Quyển 10 ]


KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA HUYỀN TÁN

Đại Sư Khuy Cơ biên soạn –  Việt dịch: Cố Ḥa thượng Thích Chân Thường

Biên soạn: Giáo sư Trương Đ́nh Nguyên – Tu chỉnh và hiệu đính: T kheo: Thích Đồng Bổn

-o0o-

QUYỂN 4

Nghĩa của NHẤT THỪA chính là
tông chỉ của kinh.

 Nay tạm phân biệt sơ qua năm môn :

 I.  XUẤT THỂ TÍNH (chỉ ra thể tính)
 II.  THÍCH DANH TỰ (giải thích danh tự)
 III.  MINH THUYẾT Y.
 IV.  CHƯƠNG SAI BIỆT 
 V.  VẤN ĐÁP BIỆN

I. XUẤT THỂ TÍNH.

Đại khái có ba loại :
1. Tổng hàm thể.
2. Tùy  thắng thể .
3. Chân thực thể.

Một là Tổng hàm thể : 

Hết thảy vô lậu dù là Chủng hay là Hiện, hữu vi hay vô vi, dù nhân hay quả, căn bản hay phương tiện, có khả năng thành tựu được Phật đức th́ đều gọi là nhất thừa. Nhất thừa tức đại thừa. Đại thừa tức Vô thượng thừa. 
Cho nên Kinh Thắng Man nói rằng : “nhất thừa đó tức là đại thừa”.
Bản luận này nói : Khai là nghĩa Vô thượng này.
Biện Trung Biên luận, Vô Thượng Thừa phẩm nói có ba Vô thượng :
1) Chính hành vô thượng : chỉ Thập độ tùy tu sai biệt có 6 chính hành.
2) Sở duyên vô thượng : có 12 loại sở duyên.
3) Tu chứng vô thượng : Chỉ 10 loại tu chứng như Chủng tính tu chứng v.v… , bao quát hết thảy mọi Cảnh hành quả của Bồ tát. 
Nên Kinh Thắng Man nói rằng : “A la hán, Bích chi Phật v́ sợ hăi nên quy y. Bốn trí chẳng cứu cánh th́ gọi là Hướng Niết bàn giới”.
Lại nói rằng : “Chính pháp trụ, Chính pháp diệt, Ba la đề mộc xoa, Tỳ ni, xuất gia, thụ cụ túc giới. Sáu pháp này được nói v́ mục đích đại thừa”. 
Cho nên biết rằng : hết thảy mọi căn bản phương tiện, hết thảy vô lậu dù là Chủng hay là Hiện, hữu vi hay vô vi, dù nhân hay quả, có khả năng thành được Phật đức th́ đều gọi là nhất thừa, v́ ba loại Ư sinh thân đều nhập Sơ địa.

Hai là Tùy thắng thể :

 Loại này có sáu loại :
1) Nhiếp sự qui lư thể : 
Trong các Kinh Niết Bàn, Thắng Man v.v… phần nhiều gọi Pháp thân, chân lư, Phật tính là nhất thừa.
Kinh Thắng Man nói : “Nhất thừa tức là đại thừa. Đại thừa tức là Phật thừa. Phật thừa tức Niết bàn giới (cơi Niết bàn)”.
Kinh Thắng Man c̣n nói : “Trong hằng sa kiếp, tu hành sáu pháp Ba la mật chẳng bằng có người nghe nhận, đọc tụng thậm chí chấp tŕ kinh quyển, huống hồ c̣n có người v́ người khác mà diễn thuyết rộng răi”. Đây là đem Hữu vi hạnh so với Vô vi thừa. 
Kinh Niết Bàn nói : “Nhất thừa tức là Phật tính”. Đây (chỉ Kinh Pháp Hoa) diệt Hóa thành, tới Bảo sở, chỉ coi Chân như Pháp thân b́nh đẳng là nhất thừa.
2) Lăm dư qui trí thể (thể gom các thứ khác qui về trí) : 
Cũng coi Chân trí là nhất thừa. Đoạn văn kinh trước nói : “Phương tiện tri kiến đều đầy đủ. Các Bồ tát bất thoái có số lượng nhiều như cát sông Hằng, dù có nhất tâm cùng nhau suy lường cũng chẳng thể lường được Phật trí”.
Trí thể chỉ là Chính thể, Hậu đắc. Bởi v́ :
- Nếu tại Nhân vị th́ Trí yếu Thức mạnh.
- Nếu ở Quả vị th́ Trí mạnh Thức yếu.
3) Ẩn liệt ṭng thắng thể (thể giấu cái kém đi theo cái hơn) : 
Phần dưới của kinh tụng rằng : 
       “Để thuyết Phật trí tuệ,
Chư Phật hiện thế gian.
Chỉ một sự này Thực,
Hai thứ chẳng phải Chân”.
và :   “Pháp đó trụ ngôi phápï,
Tướng thế gian thường c̣n.
Nơi đạo tràng biết rồi,
Đạo sư phương tiện thuyết”.
Phẩm Phân Biệt Công Đức nói : “Có người v́ Vô thượng Chính đẳng Bồ đề, ở 80 vạn ưcù na do tha kiếp, tu hành 5 pháp Ba la mật th́ công đức này chẳng bằng công đức của người có một niệm sinh tín, v́ công đức đạt được của một niệm sinh tín th́ chẳng thể ví dụ được”. 
Do coi Phật quả Lư Trí hai loại là nhất  thừa. Lư ngưng bản hữu, ĺa Triền th́ gọi là Niết bàn. Trí chiếu mới sanh, Quả viên th́ xưng là Chính giác.
Đó chính là nguồn lớn của bốn Đức, diệu bản của ba Minh. Cho nên nói chư Phật v́ tri kiến đó (tức Phật tri kiến) mà xuất hiện ở thế gian. 
Coi hai thứ Lư Trí là thể của nhất thừa.
Trí tính Trí tướng gọi gộp là Trí.
4) Nhị vận dụng quảng thể (thể hai thứ vận dụng rộng) : 
Chỉ coi Nhân trí là nhất thừa. V́ trong ví dụ về nhà lửa, cho các Bồ tát cùng Thanh văn dùng Bảo thừa này tới đạo tràng, đó là Nhân hạnh vậy.
5) Thắng xuất Phân đoạn thể (thể ưu thắng xuất ly Phân đoạn tử) :
Lấy cả Lư Trí của Nhân quả xuất ly Phân đoạn tử, coi đó là nhất thừa.
Trong bốn nghĩa Khai Thị Ngộ Nhập, ba nghĩa đầu là hai Quả, một nghĩa sau là hai Nhân. Như trên đă nói, nên lướt qua chẳng bàn.
Kinh Thắng Man nói : “như Thủ là duyên, nghiệp Hữu lậu là nhân, nối với Hậu hữu nên sinh ra Tam hữu. Cũng vậy, vô minh tập địa là duyên, nghiệp vô lậu là nhân, mà sinh ra ba loại Ư sinh thân của A la hán, Độc giác và Bồ tát đă được tự tại”.
Cho nên Thừa mà Ư sinh thân sử dụng gọi là Nhân trung nhị.
Nhiếp Đại thừa luận nói : “Vạn hạnh, Chân như đều gọi là đại thừa”.
6) Dẫn nhiếp thù thắng thể. 
Coi hai môn Thuyên chỉ là nhất thừa.
Giáo tùy theo căn cơ mà đặt ra, ư thú thâm diệu khó biết. Lư giả trí minh (Lư nhờ Trí để đạt tới, nhưng khó biết), Thể sâu khôn ḍ. Cho nên phẩm Phương Tiện thoạt tiên coi Trí tuệ sở thuyên và Giáo môn năng thuyên là nhất thừa. Trong 17 danh của Kinh Vô Lượng Nghĩa, danh thứ 14 cũng gọi là nhất thừa.
Do đó mà luận về Liên hoa (hoa sen) của kinh này cũng có hai nghĩa :
a) Thể xuất thủy. 
b) Năng khai phô.
Nghĩa đầu ví với Trí tuệ, nghĩa sau ứng với Tuệ môn. Nếu chỉ coi Chân như là nhất thừa th́ mới được một nghĩa Xuất thủy mà mất đi nghĩa thứ hai Năng khai phô. Song nay Liên hoa đă có đủ bốn nghĩa, lẽ nào riêng Pháp lại chỉ có hai loại ?

Ba là Chân thực thể : 

Căn bản đại thừa Giáo, Lư, Hạnh, Quả, cùng Năng nhập đại thừa, Phương tiện, Tứ pháp đều gọi là nhất thừa, v́ đều có công năng vận tải.
1) Căn bản giáo :
 Phần đầu phẩm này nói : “Trí tuệ môn ấy khó hiểu, khó nhập”. Bản luận giải thích nói : A Hàm rất sâu. Nghĩa Hoa khai phô để ví với Diệu Pháp. Đoạn kinh sau cũng nói : “Pháp Hoa kinh tạng sâu bền xa kín v.v…”
Nhiếp Đại thừa luận nói : đó là các kinh như Đại Thừa A Tỳ Đạt Mạ v.v…
2) Phương tiện giáo :
Phẩm này nói : “Hoặc thuyết Tu đa la, Già đà cùng Bản sự, Bản sinh, Vị tằng hữu. Cũng thuyết về Nhân duyên, Thí dụ cùng Kỳ dạ, Ưu ba đề xá kinh. Chín bộ pháp này của ta lấy việc Nhập đại thừa làm gốc, tùy thuận chúng sinh mà thuyết, vậy nên thuyết kinh này”.
Kinh Thắng Man nói rằng : “Chính pháp trụ v.v… Sáu xứ này được thuyết v́ mục đích đại thừa”. Cho nên tiểu thừa tam tạng đều là đại thừa phương tiẹân.
3) Căn bản lư : 
Chỉ Pháp tính chân như. Các Hạnh như Lục độ v.v… nhờ vận dụng chân lư này mà có thể đi tới đích, nên gọi là đại thừa.
Phần trên kinh này nói : “chư Phật trí tuệ rất sâu vô lượng”. Bài tụng ở dưới tụng rằng :
“Pháp đó trụ ngôi pháp, 
Tướng Thế gian thường c̣n. 
Nơi đạo tràng biết rồi, 
Đạo sư phương tiện thuyết”. 
Bản luận nói : Quán niệm có nghĩa là người tu đại thừa, quán pháp vô ngă, Chân như pháp giới v.v… .
Vô Tính luận nói : Hoặc Thừa ấy tính lớn, nên gọi là đại thừa.
Biện Trung Biên nói : Chân như pháp giới gọi là Sở duyên vô thượng.
4) Phương tiện lư : 
Chỉ lư Tứ đế. Nhị thừa sở quán đều là Phương tiẹân lư.
Kinh Thắng Man nói rằng : “Thanh văn biết Bốn thánh đế Hữu tác. Phật biết Bốn thánh đế Vô tác”.
Kinh Niết Bàn cũng nói : “Thanh văn có  Khổ, có Đế mà không có Thực. Bồ tát th́ đủ cả”.
Bản luận nói : Quán niệm có nghĩa là Thanh văn quán Nhân vô ngă v.v…
Do đó, hai lư này đều là Lư nhất thừa.
5) Căn bản hạnh :
Chỉ Lục độ vạn hạnh của Bồ tát.
Bồ tát Địa luận nói : Thất địa tu bốn Bồ tát hạnh.
Phẩm An Lạc Hạnh nêu các hạnh đều là Bồ tát hạnh. Lại nói : “dùng Bảo thừa ấy tới thẳng Đạo tràng, đó tức là Hạnh đại thừa”.
 Nhiếp Đại Thừa luận nói : “vừa là Thừa, lại vừa là lớn, nên gọi là đại thừa”. 
Biện Trung Biên nói : “mười Ba la mật, đó gọi là Hạnh vô thượng”.
6) Phương tiện hạnh :
 Kinh Thắng Man nói : “Chính pháp trụ v.v… Sáu xứ này được thuyết v́ mục đích đại thừa”. Y vào Tam tạng giáo mà tiến Thiện, diệt Ác, tu Vô lậu hạnh, đều là Hạnh đại thừa.
Pháp Hoa luận nói : “gọi là Phương tiện là v́ Thanh văn th́ quán Ấm, Giới, Nhập, chán khổ ĺa khổ. C̣n Bồ tát th́ tu Sáu độ, Bốn nhiếp, Hai lợi hành”. 
Do đó hai loại hạnh trên đều là Hạnh nhất thừa.
7) Căn bản quả : 
Là Bồ đề Niết bàn của Phật thân, tức là hai thân Pháp - Báo, hai kiến Lư - Trí đă nói ở trên .
Phần dưới của kinh tụng rằng : 
“ Để thuyết Phật trí tuệ,
 Chư Phật hiện thế gian.
 Chỉ mộtù sự này Thực,
 Hai thứ chẳng phải Chân”. 
C̣n nói : “ Pháp đó trụ ngôi Pháp,
 Tướng thế gian thường c̣n. 
 Nơi đạo tràng biết rồi,
 Đạo sư phương tiện thuyết”.
Thêm nữa, Pháp thân, Báo thân, Hóa thân được thuyết ở phẩm Thọ Lượng đều là Quả nhất thừa.
 Biện Trung Biên nói : trong 10 Tu chứng th́ thứ bảy là Tịnh độ, thứ chín là Phật địa, thứ mười là Thị hiện Bồ đề.
8) Phương tiện quả : 
Là Bồ đề, Niết bàn của nhị thừa.
Phần dưới kinh này nói : “Sở hành của các ngươi là đạo Bồ tát. Phương tiện bày đặt ra xe dê, xe hươu là nhằm cầu được xe trâu để thoát ra nhà lửa. Hóa  thành ở giữa đường chỉ là chỗ nghỉ chân để đi tới Bảo sở, v́ vậy mà thuyết về nhị thừa. Thực ra chỉ có nhất thừa, chẳng c̣n Thừa nào khác”. 
Kinh Thắng Man cũng nói : “Thanh văn, Duyên Giác Bốn trí chẳng cứu cánh th́ gọi là hướng Niết bàn giới (hướng tới cơi Niết bàn). Nói là được Tô tức xứ (chỗ sống lại, thở b́nh thường, chỗ nghỉ ngơi), Bốn trí cứu cánh, đắc Niết bàn rồi th́ đó là phương tiện của Phật”.
Cho nên Quả nhị thừa cũng là nhất thừa.
Do đó, người đốn ngộ th́ chủ yếu học căn bản Giáo, Lư, Hạnh, Quả; và để điều phục giáo hóa nhị thừa, cho nên cũng học thêm cả phương tiện Giáo Lư Hạnh Quả.
Người tiệm ngộ th́ thoạt đầu học phương tiện, sau hồi tâm rồi mới học căn bản. 
Pháp sở học của hai hạng này giống nhau, nhưng tŕnh tự học trước sau hoàn toàn khác nhau.
Cho nên biết rằng chỉ có hai loại Phật tính Lư Trí ; hai Nhân vô lậu Hiện Chủng, hữu vi vô vi, Giáo Lư Hạnh Quả của căn bản và của phương tiện khiến có thể thành Phật được, đó đều là Thể của nhất thừa.
Thêm nữa, kể cả công đức hữu lậu Địa tiền cùng trợ hạnh của Thập địa cũng là nhất thừa.
Như vậy cũng chẳng trái với Chính lư.
Pháp Hoa kinh luận và các giáo khác, chỉ y theo một môn trong ba loại Thể này mà xuất, th́ chưa hẳn đă bao quát hết. Nếu y theo các lời văn giải thích về Tổng Hàm ở đây th́ không thứ ǵ không bao quát hết.
Song Thể tính này tất cả có năm môn :
1/  Thuyên Chỉ phân biệt, thông Giáo và Lư.
2/  Nhân Quả phân biệt, thông Hạnh và Quả.
3/  Trí  Phúc phân biệt, thông Phúc và Trí.
4/  Giác Tịch phân biệt, thông Diệt Đạo đế và Bồ đề Niết bàn.
5/ Hai Lợi phân biệt, thông Tự lợi và Lợi  tha.
Đây thuyết nhất thừa, nên nghĩa thông suốt. Nếu nói Phật thừa, th́ nêu Quả mà bao gồm cả cái danh của Nhân. Nếu gọi là Bồ tát thừa, th́ nêu Nhân mà hàm chứa cả cái hiệu  của Quả. Danh tuy chẳng chung, mà nghĩa có thể gồm cả.
Lại nữa, do hành giả tu tập hai trí Chính thể Hậu đắc, quán hai lư Sinh không Pháp không, đoạn hai chướng Phiền năo Sở tri, trừ hai tử Phân đoạn Biến dịch, chứng hai quả Bồ đề Niết bàn; viên đắc hai Diệt Vô dư Vô trụ, hành hai lợi Tự lợi Lợi tha, xứng đáng th́ Quả măn.
Thế th́ :
Hai chướng sở đoạn gồm trong Tập đế.
Hai tử sở trừ gồm trong Khổ đế.
Hai trí sở tu, Bồ đề sở chứng gồm trong Đạo đế.
Hai lư sở quán, hai Diệt sở đắc, Niết bàn sở chứng gồm trong Diệt đế.
Hai lợi sở hành gồm trong Diệt Đạo đế.
Gộp Diệt Đạo này gọi là nhất thừa.
Cho nên bản luận này trong mục giải thích về Già nói rằng : không có nhị thừa th́ không có Niết bàn của nhị thừa. Chỉ có Phật Như Lai chứng đại Bồ đề, cứu cánh đầy đủ hết thảy trí tuệ th́ gọi là đại Niết bàn, v́ chỉ có một Phật thừa.
Trong Kinh Niết bàn đă coi Ma ha Bát nhă, Pháp thân và Giải thoát, ba sự đó viên măn, là đại Niết bàn. Cho nên nhất thừa này, hai đế là Thể.

II. GIẢI THÍCH DANH TỰ.

 Thừa : có nghĩa là vận tải (chuyên chở). Nên sách Quảng Nhă nói rằng : Thừa nghĩa là Giá (xe, đi xe). Sách Chu Lễ nói : Thừa có nghĩa là Tải, v́ có nghĩa là vận tải hành giả sang bờ bên kia.
Cho nên kinh nói rằng : “Dùng bảo thừa (xe báu) này thẳng tới đạo tràng”. 
Nhiếp Luận cũng nói : Lục độ vạn hạnh vừa là Thừa lại vừa Lớn. Pháp tính chân như chuyên chở đại tính. Sự Lư đều có khả năng chuyên chở được hành giả, chở ḿnh chở người tới bờ bên kia, đều gọi là Thừa.
Hỏi : Nhân hành có khả năng tự vận tới Quả mới
 đáng gọi là Thừa. Phật quả tự vận ngừng, lẽ ra chẳng là Thừa thể ?
Đáp : có năm nghĩa:

1) Vận tải, đó gọi là Thừa. Trong Nhân thông cả Nhị vận (tự vận, vận tha). Tới Quả rồi, quảng vận tha (chở rộng khắp cho người, chỉ việc phổ độ quần sinh của Phật thừa), do đó cũng gọi là Thừa.
2) Thể Năng thông nhị vận. Năng Thể đều gọi là Thừa. Thể có sẵn trong Quả, Năng chẳng phải là không, cũng bao gồm ở trong Thừa. Như danh tự Cắt v́ Dao mà có. Thế th́ cái khả năng cắt ấy đă chứa sẵn trong Dao rồi, chẳng phải là cần phải thị hiện rộng rải ra cái khả năng Cắt ấy mới là Dao, nếu không chẳng phải là Dao. Phật quả đức Thể Năng là Nhị vận, chẳng cần phải vận dụng rộng răi mới gọi là Thừa.
3) Nhị thừa chỉ tự vận, là hạng Tiểu mà c̣n được gọi tên là Thừa, Phật quảng Vận tha, lẽ nào chẳng phải là Thừa.
4) Lư Trí trong Nhân có khả năng song vận (Tự vận Vậân tha). Nhị dụng thù thắng nên gọi là Thừa. Lư Trí trong Quả nhân tu mà thành. Chủng loại Nhân thừa cũng thuộc về Thừa.
5) Nhị vận trong Nhân thường tăng tiến. Tác dụng hiện thắng được gọi tên là Thừa. Tự vận trong Quả đến tận cùng thời vị lai, khiến Tha tăng tiến th́ được gọi tên là Thừa.
Bốn nghĩa đầu là Tùy tha Bất chính đáp.
Một nghĩa sau là Tùy tự Chính nghĩa đáp.
Cho nên Đối Pháp luận nói : nhất thừa là chỗ y chỉ của Tự Tha song lợi.
 Nhất có ba nghĩa :

• Giản biệt nên gọi là Nhất. 
• Phá biệt nên gọi là Nhất. 
• Hội  biệt nên gọi là Nhất. 
 1) Giản biệt, nên gọi là Nhất :
Ngày xưa thuyết tam thừa, ngày nay thuyết nhất thừa. Cho nên biết rằng Lư sở thuyên cực nhất  mà là Thực. C̣n Giáo năng thuyên nhị thừa tức là Quyền (thừa). Không có hai lư khác, đó là Cực. Vô ngă, giải thoát tuy thảy đều b́nh đẳng, nhưng tới Phật quả mới gọi là Cực. Cho nên Lư sở thuyên - Phật trí gọi là Nhất. Chẳng phải là biệt giản Tam, chỉ v́ không có hai cực.
Luận giải thích về Già nói : không có nhị thừa có nghĩa là không có nhị Niết bàn thể. Song kinh nói : “Ta đặt ra phương tiện này để cho chúng sinh được nhập Phật tuệ”. Lại nói : “Trong nhà lửa, hứa cho ba xe. Sau khi ra khỏi cửa rồi, th́ chỉ cho xe trâu”, “lại thuê nó hốt phân, suốt 20 năm giả danh làm con”. Nên nhị thừa đó là cái Nhân để sau này được làm con thật và được giao phó việc nhà.
Thêm nữa, dùng quả Nhất để giản biệt nhân Tam, tức có hai thứ giản :
a) Lư giản Giáo.
b) Quả giản Nhân.
V́ “sở hành của các ngươi là đạo Bồ tát”.
 2. Phá biệt, nên gọi là Nhất:
Nhị thừa chẳng biết Nhị là phương tiện, chấp quả nhị thừa cho rằng đó là Chân cực. Nay thuyết nhị Niết bàn chỉ là Hóa thành, thuyết nhị Bồ đề chỉ là quyền giáo được bày đặt ra như chuyện xe dê, xe hươu. Chẳng phải Bồ đề Niết bàn sở đắc sở chứng của nhị quả (quả nhị thừa) là Chân thắng cực.
Để phá mê t́nh của họ chấp là có Nhị quả cực, nên mới thuyết Nhất. Đó tức là điều trong kinh đă nói: “Những người cầu tam  thừa có kẻ ôm mối nghi ngờ, Phật sẽ giúp họ đoạn trừ hết sạch không sót ǵ nữa”. Thu Tử cũng nói : “Song chúng con chẳng hiểu phương tiện, tùy nghi sở thuyết, mới nghe Phật pháp, gặp liền tín thụ. Thậm chí đoạn trừ được các điều nghi hối”. Ca Diếp cũng nói : “Hơn nữa ngày nay chúng con đắc Niết bàn chứng, đối với Bồ tát pháp chẳng sinh tâm ưa thích”. 
Nhiếp Luận cũng nói : Đoạn trừ Tứ xứ chướng, nhị thừa tác ư v.v… tức là Chấp này.
Phần cuối bản luận cũng nói phẩm Phương Tiện có năm phần thị hiện : phá nhị, minh nhất, chẳng nói phá tam v.v… 
Hoặc có người nói rằng : v́ phá tam chấp, nên chẳng phải chỉ là phá nhị. Như Tát Bà Đa chấp hóa thân Phật là chân Phật. Nay thuyết là Hóa, nên phá tam chấp.
 Ở đây chẳng thế. Pháp Hoa chỉ coi nhất thừa mà tự ḿnh tu được là Tông, hội phá các thừa kia khiến nhập Nhất, chứ chẳng phải coi một thân sở tri là Tông hội phá các thân kia khiến nhập một thân.
Thêm nữa, không chấp Hóa thân đó là Cực, không cầu cạnh tới đó, mà cũng chẳng cầu cạnh thân khác. Nay phá chấp đó khiến cầu một thân, nên chỉ phá chấp nhị thừa là Cực, chẳng phá chấp hai thân kia là Cực. 
Cũng có người giải thích rằng : xưa nghe thuyết Tam, chấp Tam đều là cực. Nay thuyết Nhất cực, nên phá Tam chấp. V́ đó là Bồ tát Địa tiền khởi lên, nếu phá chấp Đại cực mà c̣n thuyết cho họ về nhất thừa th́ càng tăng thêm bệnh của họ, thế sao gọi được là Phá ? 
Thêm nữa, khi chưa xuất trạch (chỉ việc ra khỏi nhà lửa) th́ hứa cho xe trâu, sau khi xuất trạch rồi cũng phá cả đại thừa ư ? Thế th́ c̣n ǵ là xe nữa ? 
Nếu nói rằng : v́ cho trâu trắng, bỏ ḅ vàng cũ đi. Đă thế th́ phải bỏ Đốn học Tiệm. Tướng ḅ vàng, trâu trắng là Nhân hạnh, hỏi có ǵ khác ? Đă trả lại ḅ cũ, chứng tỏ là chẳng phá Đại. Nếu chấp Nhất cực, cũng chẳng trái với việc cầu Đại, cần ǵ phải phá.
Chính v́ chấp nhị là Cực, chẳng cầu Đại nữa, nên mới cần phải phá.
Nếu đắc quả vị nào liền chấp đó là Cực, th́ chưa thấy trong Nhân cầu đại thừa có loại chấp này. Giả thử có thế, rồi cũng cho phá th́ sẽ cần phải phá đến vô cùng. Do đó chỉ phá chấp nhị là Cực.
Lại nữa, chẳng phải phá chấp tứ thừa là Cực, v́ thuyết Nhân thiên thừa cho loại vô chủng tính hiểu có tứ thừa chẳng chấp Cực. Chấp nhị là Cực chẳng khác phá nhị.
Không chấp  Nhân thiên thừa  là  Cực,  v́ người chấp th́ chẳng hiểu Thừa, đă hiểu Thừa th́ chẳng chấp. V́ nhất đối với tứ, nếu nhất là phương tiện th́ cần phá chấp nhất mà qui tứ thừa. Cũng chẳng phải là phá ngũ, v́ chấp Bất định thừa cũng giống chấp tam.
Do đó, Kinh Thắng Man chỉ nói : “A la hán, Bích chi Phật v́ sợ hăi, nên qui y” và “Nói là được Bốn trí và Niết bàn, đó là phương tiện  của Phật”. 
Kinh này nói :
“ Chỉ một sự này thực,
 Hai thứ chẳng phải chân”.
V́ ngầm khiến hạng nhị thừa có chỗ nghỉ chân nên thuyết nhị thừa chẳng thuyết tam thừa, chứ thực ra nhị thừa (dương xa, lộc xa) chẳng phải là chân thừa.
Tính từ loại hơn đến loại kém th́ Phật thừa là đệ nhất, Độc giác là đệ nhị, Thanh văn là đệ tam. Không có đệ nhị là Độc giác, đệ tam là Thanh văn, chứ chẳng phải là không có đại thừa thể Cực trong ba thừa. 
Xét bản tiếng Phạm nói rằng : “Không có đệ nhị, đệ tam”. Nay bản dịch gọi tắt, nên nói rằng: “Không nhị cũng không tam”.
Ở đây có người hỏi vặn rằng : Kinh thuyết biệt thể Tam bảo, chẳng phá biệt thể để mà qui về nhất thể, cớ sao lại phá nhị thừa qui về nhất thừa ?
Đây th́ chẳng thế. Nếu chấp biệt thể là Cực th́ cũng giống như phá chấp này. V́ nếu là biệt tướng Tam bảo thể th́ cũng không có ba cực. Tuy thế, cũng không cần trụ biệt thể. Song có thể khiến nó hội nhập vào đồng thể. 
Rộng ra th́ như kinh nói : “Chẳng phải là Quyền Thực tông”.
 3. Hội biệt, nên gọi là Nhất.
Giáo Lư Hạnh Quả đều có căn bản và phương tiện. 
Hội biệt này có hai thứ : Hội tiệm ngộ và Hội nhất.
• Hội tiệm ngộ : 
Có nghĩa là hạng nhị thừa thoạt tiên dùng Giáo Lư Hạnh Quả làm Đại phương tiện để tu tập thành tựu. 
Theo bản luận này, th́ Bồ tát Sơ địa trở lên ĺa Phân đoạn tử, trước Kiến đạo, tu tập Giáo Lư Hạnh Quả là căn bản Nhân của Bất thoái địa.
• Hội nhất. 
Y chung vào các kinh văn th́ Hội nhất có 4 thứ :
1/ Hội giáo :
Kinh Vô Cấu Xưng nói : “Phật dùng một âm mà diễn thuyết pháp, chúng sinh ai nấy đều tùy theo căn cơ của ḿnh mà lư giải”. 
Phần dưới kinh này nói : “Một mưa tưới khắp ba cỏ hai cây, sinh trưởng khác nhau”. 
Đây là Hội Giáo đồng Cơ dị, v́ ba thừa về Giáo có Thiên (chỉ thiên về một đối tượng), có Phổ (chung cho mọi đối tượng).
2/ Hội lư :
Bảo Tính Luận nói : Như thỏ, ngựa, voi ba loài thú ấy cùng lội qua sông, tính sông không khác, nhưng loài lội được nông, loài lội được sâu có sự khác nhau. 
Phần dưới kinh này nói : “Ví như ở trên cao nguyên, đào để lấy nước. Nếu thấy đất khô, biết nước c̣n xa. Nếu thấy đất ẩm, biết nước chẳng xa. Nếu nh́n thấy bùn, biết nước rất gần”. Tính nước không khác. Mức được có khác.
Đây là Hội Lư đồng Chứng dị, v́ ba thừa Chứng Lư có viên, có khuyết khác nhau.
3/ Hội hạnh : 
Thu Tử nói : “Là pháp cứu cánh này, là đạo sở hành này”. Phật cũng nói : Ta đặt ra phương tiện này để khiến chúng sinh đắc nhập Phật tuệ”. 
Kinh Thắng Man nói : “Sáu xứ này được thuyết v́ mục đích đại thừa”.
Nên biết rằng Hạnh đồng nhưng Tu dị, v́ ba thừa tu hành có Phận (chỉ bộ phận) có Toàn (chỉ Toàn thể).
4) Hội quả :
Phần dưới kinh này nói :
V́ là chỗ nghỉ, nên thuyết nhị thừa. Giữa đường đặt ra Hóa thành để dẫn tới Bảo sở mới là chỗ cứu cánh. Để cầu xe trâu ra khỏi nhà lửa, nên quyền nghi bày đặt ra chuyện xe dê, xe hươu (chỉ nhị thừa), nhưng sau đều cho xe trâu (chỉ đại thừa).
 Kinh Thắng Man nói : “Thanh văn, Duyên giác bốn trí chẳng cứu cánh, gọi là Hướng Niết bàn giới”. Tức là hội Bồ đề Niết bàn nhị thừa dù là Lư hay Trí đều qui về nhất thừa.
Cho nên biết rằng Quả đồng mà Chứng dị, v́ ba thừa về quả có trước, có sau khác nhau.
Tuy y vào các kinh văn, hội chung bốn thứ này, nhưng trong Pháp Hoa th́ hiển hội Giáo Lư, mật hội Hạnh Quả.
a) Hiển hội Giáo Lư : tức là chư Phật Trí tuệ cùng Trí tuệ môn đă nêu ở trên. 
“Một mưa tưới khắp” : đó là hội Giáo.
“Ngưu xa, Bảo sở” : đó là hội Lư.
Đây lấy Sở thuyên gọi đó là Lư, chứ chẳng cứ phải là chân như. Muốn tỏ sở đắc rất sâu khó hiểu, có nói ra th́ ư chỉ cũng khó biết, pháp sở đắc ở đạo tràng không ai có thể phát vấn được, cho nên Phật nói : “Ư ta khó thể ḍ, cũng không ai có thể hỏi được”.
Cũng tỏ rơ Pháp Hoa khai Phương tiện môn, hiển Chân thực tướng, tức là Pháp Hoa khai phô, tú xuất.
 b) Mật hội Hạnh Quả : nhị đồng. 
“Ta bày đặt ra phương tiện này để khiến chúng sinh đắc nhập Phật tuệ, cưỡi bảo thừa này thẳng tới đạo tràng” : tức là hội Hạnh.
“Giữa đường đặt ra Hóa thành để tới Bảo sở” : tức là hội Quả.
Nhưng Kinh Thắng Man th́ hiển hội Hạnh Quả : 
 “Sáu xứ này được thuyết v́ mục đích đại thừa” : chính là hội
Hạnh.
 “Bốn trí nhị thừa chẳng phải là cứu cánh, gọi là
Hướng Niết bàn giới” : tức là hội Quả. 
V́ Kinh Thắng Man chủ yếu thuyết về nhân quả nhất thừa, cho nên hiển hội Hạnh Quả, mật hội Giáo Lư. 
Kinh Pháp Hoa chủ yếu nói rơ xưa là Quyền, nay là Thực, cho nên hiển hội Giáo Lư; và để khiến tu chứng, cho nên mật hội Hạnh Quả. 
Do đó nhất thừa cứ Thực thông hội Giáo Lư Hạnh Quả, tổng giải các kinh văn về Lư, và Danh rồi.
Cho nên nói rằng : Hội biệt, gọi đó là Nhất.
Kinh này chủ yếu lấy nhân quả nhất thừa làm Thể chân thừa, Giáo làm phương tiện, nên chẳng trái ngược nhau.
Nay một chút nghĩa này tuy chưa động biển Trí,  nhưng cứ như điều tôi biết th́ cũng là tuyệt ở xưa nay rồi. Bậc trí sâu thức rộng ắt tự ḿnh thấy rơ.
Trong ba nghĩa, hai nghĩa đầu giải thông cả Định tính và Bất định tính. Nghĩa sau phần nhiều chỉ y vào Bất định tính. Đại thừa vô thượng tuy tức nhất thừa nhưng chẳng phải là điều Kinh cần bàn tới, nên lược qua chẳng nói.

III. MINH THUYẾT Ư.

(nói rơ dụng ư thuyết pháp)
Nhiếp Đại Thừa luận nói :
Để dẫn nhiếp một loại,
Và nhậm tŕ loại khác,
Do Bất định chủng tính,
Chư Phật thuyết nhất thừa.
Pháp vô ngă giải thoát,
V́ chủng tính khác nhau,
Đắc nhị ư lạc hóa,
Cứu cánh thuyết nhất thừa.
Trong này có 10 nhân :

1) Để dẫn nhiếp một loại Bất định chủng tính Thanh văn Duyên Giác, khiến họ y vào đại thừa Bát Niết bàn, nên một hội Pháp Hoa phần nhiều v́ loại này mà thuyết về nhất thừa. Pháp Hoa luận gọi là thoái rồi lại phát đại Bồ đề tâm. Do bọn các ông Thu Tử v.v… xưa đều cầu đại, thoái tu tiểu quả, gọi là thoái rồi lại phát, chứ chẳng phải là các Bất định tính đều thoái rồi lại phát tâm. Loại này nên gọi là Bất định chủng tính.

2) Để nhậm tŕ loại khác : Bồ tát địa tiền Bất định chủng tính trước Đệ lục trụ vẫn tại thoái vị, v́ sợ ở đại thừa tinh tiến sẽ hoại, thoái nương Bát Niết bàn nhị thừa. Nên kinh này nói : “Bồ tát nghe pháp này, lưới nghi đều đă trừ”. 
Bản luận cũng nói : Như Lai chính là đă v́ hai loại người mà giải thích. Hai loại này đều là Bất định chủng tính, v́ hai loại này, nên thuyết nhất thừa.

3) V́ Pháp v.v… : Hạnh thừa tuy khác, chân như hướng tới không hề sai biệt. Nên Pháp Hoa luận thuyết phần nhiều giống với ở đây.

4) V́ Vô ngă v.v…. : nếu có chân thực Bổ Đặc Già La, th́ có thể có sự phân biệt về thừa. Ngă đă không khác, cho nên thuyết nhất thừa.

5) V́ giải thoát v.v… : v́ ba thừa đều cùng ở trong phiền năo chướng mà được giải thoát, nên giải thoát không có sự sai biệt.

6) V́ tính khác nhau : v́ Bất định tính trong nhị thừa có sự khác biệt. Thân Thanh văn này có đủ Thanh văn tính và Phật tính. Do có tính này, nên thuyết nhất thừa.

7) V́ Phật đối với hữu t́nh đă có được Đồng tự thể ư lạc, nên nói “ta tức là họ, họ tức là ta. Ta đă thành Phật, họ cũng thành Phật”.

8) V́ nhị thừa từ ở Phật mà đắc Đồng tự thể ư lạc, cùng gọi là Bồ tát được Thụ kư biệt. V́ ở hội này Phật biệt kư cho nhị thừa, để khiến họ thụ được ư lạc như vầy : “chúng ta và Phật b́nh đẳng không khác”. 
Hơn nữa ở trong hội này có các Bồ tát đồng danh với họ, do đắc thụ kư biệt. 
Một lời của Phật chứa hai loại ích : đó là hạng nhị thừa th́ đắc Đồng Phật tự thể ư lạc, và các Bồ tát th́ được thụ kư biệt.

9) V́ Hóa. Như Thế tôn nói : “Này các ông Bật sô! Ta nhớ xưa kia đă hàng vô lượng trăm ngàn lần quay trở lại y vào Thanh văn thừa mà Bát Niết bàn. 
V́ sao đă thành Phật rồi, sau lại y vào nhị thừa để Bát Niết bàn ? Đó chính là v́ muốn điều phục Thanh văn sở hóa mà Phật Bồ tát v.v… đă tự hóa thân ḿnh thành ra đồng loại của họ, ở Vô dư y, hiện Bát Niết bàn, trải trăm ngàn kiếp ham rượu Tịch diệt, say sưa mà nằm, sau từ đó dậy hiện thụ Phật kư, khiến các nhị thừa Bất định chủng tính thảy đều nghĩ rằng : Các bậc kỳ túc xưa kia nhập Niết bàn, nay đều lại trở dậy, hiện thụ Phật kư. Lẽ nào ta nay chẳng mong làm Phật mà nhập Niết bàn ? Các ông Phú Lâu Na v.v… ở trong hội này ngày nay chính là loại ấy”. 
Trong Pháp Hoa luận, “để hóa Thanh văn thụ kư” tức là chuyện này. Và cũng là để hạ bớt cái thói kiêu mạn của hạng nhị thừa đó, v́ ta cũng đắc Niết bàn của ngươi. 
Rộng ra th́ như Kinh Lăng Già nói rằng : “A la hán nhập Vô dư Niết bàn trải trăm ngàn kiếp ham rượu Tam muội, say sưa mà nằm, sau từ đó dậy mới phát đại tâm. Đó đều là sự hóa tác của Phật Bồ tát”. 
Nếu chẳng thế th́ thực nhập Vô dư, thân trí đều tận, sau từ đó dậy, pháp sinh từ đâu ? Cho nên biết đó là Hóa.

10) V́ cứu cánh. V́ ngoài thừa này ra không có thừa nào khác hơn được. Theo lư cứu cánh, thừa này là tối thù thắng. Nên nói là Nhất.

 Nay trong hội này, theo luận th́ chỉ Kư biệt cho hai hạng người :
a) Hạng Bất định tính.
b) Hạng ứng hóa.
V́ hạng Bất định tính : tức các nghĩa thứ nhất, thứ nh́, ít phần nghĩa thứ tám. 
V́ hạng ứng hóa : tức nghĩa thứ chín cùng một ít các nghĩa khác, mà thuyết về nhất thừa, chứ chẳng phải hoàn toàn v́ hạng Vô định tính. 
Cho nên nhất thừa này là mật ư thuyết.
 Kinh Giải Thâm Mật nói : “Tướng, Sinh Thắng nghĩa,
Vô tự tính, ta đều đă hiển thị như vậy. Nếu chẳng biết mật ư này của Phật th́ sẽ thất hoại chính đạo, chẳng thể đi theo các tịnh đạo thanh tịnh”. 
Chỉ theo nhất thừa này, v́ không có đệ nhị. Ở trong đó lập nhất thừa chẳng phải là hữu t́nh tính không có sự khác biệt. Đối với các loại Định tính, Bất định tính, Hữu tính, Vô tính đều thuyết nhất. 
Kinh Niết Bàn nói : “Nhất thừa một đạo bốn quả, thánh nhân đều được làm Phật. Chẳng hiểu ư ta, cho nên chỉ nên thuyết như vậy là tốt”. 
Nay 10 nghĩa này thuyết về nhất thừa.
Trong Pháp Hoa luận không đầy đủ như vậy. Bộ Hiển Dương th́ thuyết sáu nhân, Trang Nghiêm luận th́ nói 8 nghĩa về nhất thừa, chẳng qua được 10 nghĩa này, nên chẳng thuật lại. 

IV. CHƯƠNG SAI BIỆT. 
(Nêu rơ sự sai biệt)

Kinh này thuyết về nhất thừa có tướng sai biệt với các Kinh Thắng Man, Niết Bàn. 
Đây (chỉ Kinh Pháp Hoa) th́ thông cả Lư và Trí. Đó (chỉ các Kinh Thắng Man, Niết bàn) th́ chỉ thuyết Phật tính. 
Đây chỉ Nhiếp nhập. Đó thông Xuất sinh.
Đây chỉ Hữu tính. Đó thông Vô tính.
Đây chỉ riêng Bất định tính. Đó thông cả Định tính.
Đây nói nhiều về Giáo lư. Đó nói nhiều về Hạnh Quả.
Đây nói nhất thừa là Thực, nhị thừa là Quyền. Đó nói nhất thừa là Quyền, tứ thừa là Thực.
Nên Kinh Thắng Man nói rằng : “Nếu Như Lai tùy theo ư muốn của họ mà phương tiện thuyết, th́ chỉ có nhất thừa, không có thừa khác”. 
Phân tích sự sai biệt với nhiều kinh sách khác thuyết về nhất thừa th́ như trong mục Thích danh đă giải thích rộng. 
Tướng sai biệt này cùng với mục thứ năm là Vấn đáp biện v.v… th́ đều như chương khác, chẳng cần nêu ra.
*
-Kinh văn : “Này Xá Lợi Phất”  tới  “hoặc nhị hoặc tam”. 
Tán rằng : đây là mục thứ tư : khiến trụ nhất thừa trong phần Dữ kư (thụ kư cho). 
Đem nhất thừa này mà thuyết pháp cho chúng sinh v́ không có các thừa đệ nhị, đệ tam là Độc giác, Thanh văn v́ theo thứ tự từ hơn đến kém, chứ chẳng theo thứ tự tu tập nông sâu khó dễ. 
Nên trong kinh này :
 Lượt thứ nhất nói: “Hai
thứ chẳng phải chân” .
 Lượt thứ hai nói: “Mật khiến người tu nhị
thừa”. 
Lượt thứ ba nói : “v́ là chỗ nghỉ chân, nên thuyết
 nhị thừa, chẳng thuyết tam thừa”.
Cho nên biết rằng chẳng phải là nói chung không có tam thừa. Chỉ nên nói nghĩa sở thuyết như ngày nay, hội cả Giáo Lư Hạnh Quả sở tu của họ làm đại nhân (nhân lớn - nhân đại thừa) ngày nay, khuyên họ trụ ở đại thừa.
*
-Kinh văn : “Xá Lợi Phất”  tới  “pháp cũng như vậy”. 
Tán rằng : dưới đây là mục thứ năm : hiển thị theo Pháp.
Nay Phật Thích Ca y vào hết thảy Phật thuyết pháp quĩ tắc, đầu tiên thuyết về phương tiện, sau đó thuyết về chân thực, khuyên họ sinh tín, dẫn họ thành đạo. 
Đại văn có ba phần :
• Phần đầu : nói rơ mười phương Phật pháp thức là như vậy.
• Phần thứ hai : thuyết minh pháp thức ba đời của Phật là như vậy. 
• Phần cuối : nói rơ pháp thức này của ta cũng như vậy.
+ Đây là phần đầu : tuy ĺa ba đời th́ không c̣n có mười phương, ĺa mười phương cũng không c̣n có ba đời, v́ ngang (đồng đại) dọc (lịch đại) khác nhau, nên có sự phân biệt khác nhau.
Nhiếp Đại Thừa luận nói : “số chốn của các hữu t́nh thuộc nẻo người là vô lượng, niệm niệm chứng Đẳng giác, v́ vậy chớ nên thoái nhụt, v́ mười phương Phật hiện tại này pháp thức nhiều vô cùng và cũng đều giống nhau”.
*
-Kinh văn : “Xá Lợi Phất”  tới  “v́ một Phật thừa”. 
Tán rằng : dưới đây là thuyết minh về pháp thức  của Phật ba đời. 
Có hai phần : đầu tiên là thuyết minh về pháp thức ba đời, sau đó là kết luận : sở vi (chỉ việc tu tập, việc tu hành) đều giống nhau.
Trong phần đầu tiên có ba phần : đầu là quá khứ, thứ đến vị lai, cuối cùng là hiện tại.
Trong ba phần đó, mỗi phần đều có hai bước : đầu tiên nói rơ Phật thuyết pháp thức giống nhau. Sau đó thuyết minh cho chúng sinh được độ đắc đạo giống nhau. 
Đây nói rơ pháp thức Phật quá khứ giống nhau, và là phần đầu tiên :
Dùng nhiều thứ nhân duyên v.v… thuyết pháp làm phương tiện, đó đều là Hậu đắc nhất Phật thừa. 
Bản luận nói rằng : 
 Phương tiện, có nghĩa
là : 
+ Tiểu thừa : th́ quán Ấm Giới Nhập, chán khổ ĺa khổ, đắc giải thoát.
+ Đại thừa : th́ là các Ba la mật, Bốn nhiếp pháp, nhiếp thủ Tự thân Tha thân lợi ích, đối trị pháp. 
+ Nhân duyên : th́ Bản luận đă giải thích trong thuyết thứ hai về sáu nghĩa rồi. Đó là chỉ các loại nhân duyên mà trên kia đă nói rằng : “như thuyết trước kia”. Tức là chỉ pháp tam thừa. Tam thừa đó chỉ là thuyết bằng danh tự chương cú, không phải là có thực nghĩa, nên thực nghĩa ấy là bất khả thuyết.
+ Thí dụ : có nghĩa là ví như dựa vào trâu ḅ th́ có Nhũ (sữa tươi), Lạc, Sanh tô, Thục tô cho đến Đề hồ. Đề hồ là đệ nhất. Tiểu thừa như Nhũ, đại thừa như Đề hồ. Nên thí dụ này thuyết minh đại thừa vô thượng, các Thanh văn v.v… cũng đồng đại thừa vô thượng. 
Thanh văn đồng, tức là tỏ rơ tính của Thanh văn đồng với tính của Pháp thân chư Phật Như Lai,  Pháp thân của các phàm phu, Thanh văn, Bích chi Phật là b́nh đẳng, không sai biệt, được thị hiện trong thí dụ này.
Trong này ư nói : phàm phu như trâu, Thanh văn như Nhũ, Bích chi như Lạc, tiểu Bồ tát như Sanh tô, đại Bồ tát như Thục tô, Phật như Đề hồ, Đề hồ là đệ nhất. Phật thừa cũng thế. Vốn do cùng một nhũ tính từ trong bụng trâu biến chuyển tốt hơn lên mà được tới đề hồ. Cũng vậy, từ phàm phu cho tới thành Phật, tướng mạo có sai biệt, nhưng thể tính th́ b́nh đẳng, v́ vốn không hai. 
Nay văn kinh này chỉ có ba mục này. 
Bản luận giải kinh, c̣n có thêm mục Quán niệm. 
+ Quán niệm tức là : 
Tiểu thừa : th́ quán Nhân vô ngă v.v… 
Đại thừa : th́ quán chân như, pháp giới, thực tế, Nhân vô ngă, Pháp vô ngă v.v… 
Kinh này xếp thứ tự từ Phương tiện, Nhân duyên, Thí dụ đến Ngôn từ. Bản luận giải thích kinh th́ lấy Thí dụ, Nhân duyên, Quán niệm, Phương tiện làm thứ tự sắp xếp. Nay dẫn Kinh và Luận khác nhau, người học cần thấy rơ.
*
-Kinh văn : “Các chúng sinh này”  tới  “nhất thiết chủng trí”. 
Tán rằng : đoạn này nói rơ chúng sinh đă độ trước kia đắc đạo đều giống nhau, lúc đầu tuy làm nhị thừa, nhưng sau đều thành Phật, đắc Nhất thiết chủng trí. Nhất thiết chủng trí tức Phật Chính trí, v́ chủng biệt năng tri Nhất thiết pháp, chính là Ngưu xa.
*
-Kinh văn : “Xá Lợi Phất”  tới  “là một Phật thừa”. 
Tán rằng : đoạn này chỉ rơ vị lai Phật pháp thức đồng.
*
-Kinh văn : “Các chúng sinh này”  tới  “nhất thiết chủng trí”. 
Tán rằng : đoạn này chỉ rơ chúng sinh sẽ độ trong thời vị lai đắc đạo giống nhau.
*
-Kinh văn : “Xá Lợi Phất”  tới  “v́ một Phật thừa”. 
Tán rằng : đoạn này chỉ rơ hiện tại Phật pháp thức đồng.
 Nhiêu ích : có nghĩa là làm cho được lợi ích.
An lạc : có nghĩa là làm cho được yên vui.
Cứu khổ cho vui, cho Trí và Phúc, cho quả Thế gian và quả Xuất thế gian, cho Tiểu quả Đại quả, cứ theo như thứ tự ấy mà ghép vào.
*
-Kinh văn : “Các chúng sinh này”  tới  “nhất thiết chủng trí”. 
Tán rằng : đoạn này chỉ rơ chúng sinh được độ trong thời hiện tại đắc đạo giống nhau.
*
-Kinh văn : “Xá Lợi Phất”  tới  “nhập Phật tri kiến đạo”. 
Tán rằng : đây là kết về sở vi. Chúng sinh sở vi tới lúc cứu cánh chỉ là Bồ tát v́ sẽ làm Phật. V́ xưa nhân phát tâm, các hạnh sở tu đều hướng Đại quả, nên đều gọi là Bồ tát; pháp sở vi đều là nhất thừa. “V́ đem Phật tri kiến mà thị cho chúng sinh đó, giác ngộ chúng sinh đó, muốn khiến chúng sinh nhập Phật tri kiến đạo”.
Kinh văn không có từ “Khai”, v́ đă bao hàm trong nghĩa chung.
Nghĩa “Thị” như trên, luận không giải thích thêm. 
Lại giải “Ngộ” là khiến chúng sinh ngoại đạo giác ngộ, bỏ tà nhập chính.
Lại giải “Nhập” : có nghĩa là khiến người đă đắc quả Thanh văn nhập đại Bồ đề, bỏ Tiểu theo Đại.
Bản luận nói rằng : phen thứ nhất giải nghĩa Khai là vô thượng; phen thứ hai giải nghĩa Thị là đồng, có nghi tu hành; phen thứ ba giải nghĩa Ngộ là bất tri, chưa phát tâm th́ khiến phát tâm, khiến cho ngoại đạo sinh giác ngộ; phen thứ tư giải nghĩa Nhập là nhập Bất thoái vị, đă phát tâm rồi th́ khiến nhập pháp, khiến người đắc Thanh văn nhập đại Bồ đề. 
Cứ theo văn, mà phen thứ nhất ghép vào trong phần chính giải về đại sự, phen thứ hai ghép vào trong phần kết về đại sự, phen thứ ba ghép vào trong phần y pháp. Luận văn đều giải ở trong mục đại sự, về lư cũng không sai.
*
-Kinh văn : “Xá Lợi Phất”  tới  “nhất thiết chủng trí”. 
Tán rằng : đây chỉ rơ : ta do pháp thức này cũng như vậy. V́ chỉ có Phật mới có mọi thứ Thắng giải trí lực, nên biết mọi loại dục của các chúng sinh.
V́ Phật có Biến thú hành trí lực nên biết rơ điều chấp trước trong thâm tâm của chúng sinh. 
“Trước” ở đây chỉ những điều ưa thích chấp trước trong việc tu hành, hoặc là những điều ưa thích chấp trước do t́nh thức ham muốn khởi lên. Có nghĩa là chúng sinh chỗ nào cũng chấp trước, Phật dẫn dắt họ ra khỏi sự chấp trước đó. Đó đều là những điều mà Thắng giải trí lực biết được. Phật có các loại Giới trí lực, nên biết bản tính chúng sinh, và đă biết các ham muốn trong việc tu của hạng Bất định chủng tính. 
Đầu tiên thuyết tam thừa là phương tiện, nay thuyết nhất thừa là cứu cánh đều là cốt để cho chúng sinh đắc Nhất thiết chủng trí của một Phật thừa. Văn trên đều nói đắc một Phật thừa Nhất thiết chủng trí, cho nên biết rằng Chủng trí tức là một Phật thừa.
*
-Kinh văn : “Xá Lợi Phất”   tới   “huống chi là có Ba”. 
Tán rằng : đây là mục Già – mục thứ sáu.
Thừa thứ hai là Độc giác c̣n không có, huống chi là thừa thứ ba Thanh văn.
Do kinh này nói rằng : xe dê, xe hươu là cốt để cầu xe trâu đặng ra khỏi nhà lửa, nên chỉ phá nhị thừa chẳng nói c̣n phá thêm cả xe trâu. Đây là không có Niết bàn thể cứu kính của nhị thừa. 
Luận nói rằng : không có nhị thừa, có nghĩa là không có Niết bàn của nhị thừa, chỉ có Phật Như Lai mới chứng đại Niết bàn. Rốt ráo đầy đủ Nhất thiết trí tuệ th́ gọi là đại Niết bàn, v́ ba sự thể nghĩa đều đầy đủ. 
Nhị thừa chẳng thế, chỉ là Giả trạch diệt, không có pháp thân đại trí. Chẳng phải là Thanh văn, Duyên Giác v.v… có đại Niết bàn pháp, v́ chỉ có một Phật thừa.
Một Phật thừa có nghĩa là y vào bốn loại nghĩa như trên đă nói. 
Luận dùng sáu nghĩa trong mục Thụ kư cho mà phối hợp với năm nghĩa từ “Những pháp ǵ ?” cho tới “Pháp thể ǵ ?” như đă nói trên.
1. “Những pháp ǵ” : chỉ nghĩa thứ nhất “Chưa được nghe th́ khiến được nghe” có nghĩa là thuyết pháp Vị tằng hữu cho mà nghe.
2. “Pháp như thế nào ?” : chỉ điều nói trong nghĩa thứ hai. Đầu tiên thuyết bằng phương tiện, các loại ngôn từ, thí dụ.
 3. “Pháp tựa như ǵ ?” : chỉ nghĩa thứ ba đă nói ở trên : căn cứ vào những nghĩa ǵ ? Chỉ v́ một đại sự !
4. “Pháp tướng thế nào ?” : chỉ nghĩa thứ tư “khiến trụ nhất thừa”, có nghĩa là tùy theo căn khí của chúng sinh, thảy đều có Phật tính mà khiến họ trụ ở chư Phật pháp.
5. “Pháp thể ǵ ?” : chỉ mục Già – mục thứ sáu. 
Già (ngăn lại), không có hai thể, chỉ có một nhất thừa thể, tức là pháp thân b́nh đẳng của chư Phật Như Lai. Nhân quả, Quán hạnh của ba thừa khác nhau, có thể có sự sai biệt, đó chẳng phải là đối tượng của Già ở đây.
Nay đối tượng của Già ở đây là “Già, không có hai loại Thể của pháp thân”, v́ pháp thân chân như của ba thừa giống nhau, chứ chẳng phải có nghĩa là “Già, không có Thể nhị thừa”.
 Hết thảy đều là Không, cứ căn cứ vào lư này mà suy luận th́ có thể hiểu được. Nếu chẳng thế th́ lời văn của Luận hơi tối nghĩa, khó hiểu. Chỉ không có nghĩa thứ năm nói về chư Phật pháp thức. Nên dùng năm nghĩa khác mà lần lượt phối hợp th́ lập tức có thể hiểu được !
*
-Kinh văn : “Xá Lợi Phất”   tùới   “mệnh trược”.
Tán rằng : tới đoạn thứ ba khơi đây là Thực tướng, gợi đó là Quyền môn, trong đó có hai : 
• Trên đă giải thích về hai kư : Thủ kư và Dữ kư
• Dưới phá bốn loại nghi.
Trong năm phần mà Luận phân tích, phần thứ năm dưới đây là Đoạn nghi. 
Luận nói về bốn loại nghi :
1. Thuyết thời nào ?
2. Làm sao mà biết là Tăng thượng mạn ?
3. Thế nào th́ kham thuyết ?
4. Thế nào mà chẳng thành vọng ngữ ?
Đây phá nghi đầu. 
Luận rằng : chư Phật Như Lai khởi phương tiện thuyết pháp ở trong những thời nào ? Có nghĩa là Phật đầu tiên thuyết nhị thừa là quyền, sau đó nói rơ nhất thừa là thực ở trong thời nào ? 
Trong lời giải đáp dưới đây có hai ư : đầu tiên nêu lên việc “Phật xuất hiện vào thời Ngũ trược”, sau đó nói rơ nguyên do. Đây là phần đầu.
•Nghĩa Ngũ trược được phân biệt bằng năm môn:
1. Thích danh 2. Xuất thể    3. Đối trị
4. Phế lập  5. Tương nhiếp.
1. Thích danh (giải thích danh tự) :
• Trược : có nghĩa là cặn bă uế tạp. Như ăn các thứ cặn bă uế tạp thấp kém xấu xa có thể bị ô nhiễm, đó gọi là Trược (đục). Câu này ư nói : Lúc kiếp tăng, ba tai giảm nhẹ, phiền năo thành nhẹ, chúng sinh hướng hảo, ố kiến nhỏ dần, mệnh căn thành dài, dần dần tới chỗ tốt đẹp. V́ thượng hảo đáng ưa, nên gọi là Thanh (trong). Chúng sinh không khổ th́ Hóa Phật chẳng ra đời. 
Hóa Phật xuất thế ắt vào lúc kiếp giảm, tai nhỏ khởi lên dần dần, phiền năo trở thành nặng nề, chúng sinh hướng ác, nhiễm kiến thịnh dần, mệnh căn trở nên ngắn ngủi, dần dần tới chỗ kém cỏi xấu xa đáng chán, cho nên đặt ra tên gọi là Trược.
• Ngũ : được giải thích là Số kèm thêm số.
Về Thích biệt danh (giải thích danh riêng) th́ đều là Tŕ nghiệp thích. Hoặc dùng Biệt để giản (chọn lựa) Tổng, cũng theo Y chủ thích (phần giải thích chủ yếu).
2. Xuất thể (chỉ ra thể tính) :
Địa Tŕ Luận nói : Nói rằng người đời nay phần nhiều đoản thọ, dài nhất là 100 tuổi, đó gọi là Mệnh trược. 
Ở đây gọi Bản thức là chủng tử, coi mệnh căn có công năng khác nhau bởi nghiệp dẫn là Thể. Lực thiện nghiệp yếu, mệnh căn ngắn dần, v́ sự cảm ứng của nghiệp sát sinh. Nếu các chúng sinh chẳng biết cha mẹ, chẳng biết Sa môn, Bà la môn cùng tôn trưởng tông tộc, chẳng tu nghĩa lư, chẳng sợ chẳng hăi quả báo ác nghiệp đời nay đời sau, chẳng tu huệ thí, chẳng làm công đức, chẳng tu trai pháp, chẳng giữ cấm  giới, thế th́ gọi là Hữu t́nh trược. 
Tuy thức thứ tám gọi là hữu t́nh, nay nói do gần ác ngoại duyên nên cái ngũ uẩn giả hợp ấy làm ác, không lành, nên gọi đó là Hữu t́nh trược. 
Gộp thức thứ tám cùng năm uẩn lại gọi là Tính. 
Nếu chúng sinh đó tăng Phi pháp tham, hoặc cho dao kiếm hoặc thí khí trượng, tranh tụng, đấu loạn, xiểm khúc, vọng ngữ, nhiếp thụ tà pháp cùng ác pháp, bất thiện pháp khác th́ đó gọi là Phiền năo trược.
Ngoài năm kiến ra, hết thảy phiền năo, tùy phiền năo khác đều là Thể của Phiền năo trược.
Phi pháp tham đó như cho dao kiếm v.v… sai làm việc giết hại, hoặc bủn xỉn hám của chỉ bỏ dao kiếm, nhân v́ Phi pháp tham mà gây ra việc tranh tụng cho tới ác pháp, bất thiện pháp khác, bao gồm hết trong mọi phiền năo, phiền năo chướng.
Do Tính tập luôn, gặp ác cảnh lôi cuốn phiền năo càng nặng, như ở đời nay pháp hoại, chính pháp bị mai một, tượng pháp dần khởi, tà pháp nảy sinh, thế th́ gọi là Kiến trược. Loại này lấy năm kiến làm thể tính, hay gần ngoại đạo, ác kiến thường sinh.
Nếu kiếp đói khát khởi lên, kiếp tật bệnh khởi lên, kiếp binh đao khởi lên th́ gọi là Kiếp trược. Loại này lấy sắc uẩn tứ trần làm thể, hoặc thông năm uẩn nhưng lấy Bất tương ưng thời  làm thể, v́ y vào Tứ ngũ uẩn mà kiến lập. Phiền năo tăng nhiều, ác nghiệp càng tăng th́ sẽ chuốc ác quả, ba tai sẽ nảy sinh.
3. Đối trị : 
Có nghĩa là tùy theo tướng nó mà thuyết pháp đối trị. Trong Trí Độ Luận lập ra bốn Tất đàn, Tất đàn là tông :
1) Thế giới Tất đàn.
2) Các các vị nhân Tất đàn.
3) Đối trị Tất đàn.
4) Đệ nhất nghĩa Tất đàn.
Kiếp trược, Chúng sinh trược th́ đối trị bằng Thế giới Tất đàn, v́ biết Khí thế gian, chúng sinh thế gian đều là hư huyễn, nếu chán sợ mà tu đạo th́ sẽ vĩnh ly.
 Mệnh trược th́ dùng Các các vị nhân Tất đàn mà đối trị, v́ người do thiện nghiệp có được nhờ sự tu tŕ tịnh giới, thực hành Bất sát v.v… th́ mệnh căn tự nhiên sẽ lâu dài. Hoặc đối với người ở ba thừa th́ tùy thừa nào thuyết pháp thừa ấy cho họ, khiến họ đắc quả Niết bàn của thừa ḿnh, sẽ trừ được mọi Mệnh trược của sinh tử.
Phiền năo trược, Kiến trược th́ dùng Đối trị Tất đàn mà trị, v́ tu tập đạo đối trị tương ứng th́ khiến chúng chẳng khởi lên. Do ba Tất đàn phá ngũ trược, nên nhập Đệ nhất nghĩa, chứng hội chân tông.
4. Phế lập : 
Hỏi 1 : v́ sao chỉ lập
 ngũ trược, chẳng tăng 
giảm ? 
Đáp : chúng sinh có hai
 :
a) Ác hạnh chỉ hạng bạch y tại gia.
b) Tà hạnh chỉ hạng người ngoại đạo xuất gia.
Bạch y không có tuệ, khi phiền năo tăng, gọi là Phiền năo trược. 
Ngoại đạo tà giải, khi suy nghĩ lung tung, gọi là Kiến trược. 
Những hạng ngu độn mê hoặc gọi là Phiền năo trược. 
Các hạng Lợi hoặc khác gọi là Kiến trược.
Do hai nhân này lúc đắc đương quả, ly hợp khác nhau, lại chia làm hai thứ trược :
• Gộp hai nội quả, gọi là Chúng sinh trược, v́ chúng sinh ác.
• Gộp hai ngoại quả, gọi chung là Kiếp trược, v́ khí cụ ác.
Kiếp : chỉ thời phận. Thời : không có thời nào khác, v́ y vào pháp mà phân biệt. 
Kiếp trược th́ lấy ác khí làm thể. Ác chúng sinh đó cùng với ngoại quả tuy đă nói chung đó là hai Trược  quả, nhưng chưa phân tích cái ǵ là thể của chính Ác quả. 
Nay nói rơ căn bản, nên lập ra Mệnh trược. Nội ác quả th́ gọi là Mệnh trược. Ngoại ác quả th́ gọi là Kiếp trược. 
Ác nhân quả này do ai mà có ? Đó là chỉ ác chúng sinh, nên gọi là Chúng sinh trược. Do ngũ trược này căn cứ vào Tăng hành tướng, muốn khiến chúng sinh, sinh ra chán ghét, nên thuyết thiên về Ngũ (năm thứ).
Hỏi 2 : cớ sao hoặc khổ gọi là chướng, nay tách
 ĺa ra gọi đó là trược. Nghiệp cũng bao gồm ở chướng này, chẳng lập ở trược ?
Đáp : chướng có nghĩa là ngại, cả ba đều là ngại, v́ trở ngại cho thánh
 giáo. Trược có nghĩa là cặn bă ô uế, trong nghiệp nghĩa trược rất nhỏ, nên chẳng lập làm trược. Hơn nữa đao binh trong kiếp cũng tức là Nghiệp trược.
Kiếp trược nghĩa rộng, nên đặt tên theo nghĩa rộng.
Nếu lập, cũng không sai.

 5.  Tương nhiếp : 
 KinhTát Già Ni Kiền Tử đặt ra 12 trược :
1)  Thị hiện Kiếp trược.
2)  Thị hiện Thời trược.
3)  Thị hiện Chúng sinh trược.
4)  Thị hiện Phiền năo trược.
5)  Thị hiện Mệnh trược.
6)  Thị hiện Tam thừa sai biệt trược.
7)  Thị hiện Bất tịnh quốc độ trược.
8)  Thị hiện Nan hóa chúng sinh trược.
9) Thị hiện Thuyết chủng chủng phiền năo trược.
10)  Thị hiện Ngoại đạo loạn trược.
11)  Thị hiện Ma trược.
12)  Thị hiện Ma nghiệp trược.
“Này Thiện nam tử ! Quốc độ chư Phật đều là xuất thế, công đức trang nghiêm, cụ túc thanh tịnh, không có các trược. Lỗi lầm như vậy đều là chư Phật phương tiện thị hiện để làm lợi lạc cho chúng sinh”. 
Chỉ nói thị hiện, cho nên biết rằng Nghiệp v.v… cũng có thể lập làm trược. Mười hai trược này chỉ đại thừa có. Tùy theo hai pháp hơn kém của cơi mà Phật giáo hóa mà thị hiện lập ra khai hợp khác nhau. Ngũ trược chỉ căn cứ vào tướng uế độ. Tăng nghĩa môn : nói chung cho cả tiểu thừa đại thừa cũng có.
Kiếp trược và Thời trược ở đây tức là Kiếp trược. 
Chúng sinh trược và Nan hóa chúng sinh trược tức là Chúng sinh trược. 
Phiền năo và Thuyết chủng chủng phiền năo tức Phiền năo trược. 
Mệnh  tức mệnh trược. 
Ngoại đạo loạn trược tức là Kiến trược.
Tám trược này tức là Ngũ trược. C̣n bốn loại khác tức Tam thừa sai biệt trược, Bất tịnh quốc độ trược, Ma trược và Ma nghiệp trược chẳng phải là bao gồm trong ngũ trược. 
Ngũ trược căn cứ vào sự hơn trội, đó quả thực là tạp nhiễm. Mười hai trược th́ chung cho cả Năng hóa và Năng chướng, v́ đó là Phật thị hiện. 
Nếu theo kinh Tỳ Ni Mẫu th́ trong ngũ trược không có Kiến trược, nhưng lại đặt ra Nghiệp trược. Nếu theo kinh này th́ Phiền năo và Nghiệp, mỗi thứ là một trược. Trong quả th́ chia làm ba :
1/ Chính báo thể, đó gọi là Mệnh trược.
2/ Nội báo thể, đó gọi là Chúng sinh trược.
3/ Ngoại quả thể, đó là Kiếp trược.
Chướng căn cứ vào loại giống nhau, hợp lại lập thành ba chướng, hoặc gộp thêm Pháp chướng nữa. Trược th́ căn cứ vào cặn bă uế tạp hoặc gộp lại hoặc tách ra, tùy cơ mà khác nhau, khiến sinh chán sợ, chẳng thể bắt bẻ. 
Thập Địa luận, quyển thứ nhất nói rằng : Thanh tịnh có nghĩa là Bất trược. Trược có sáu loại, ĺa các trược đó nên gọi là thanh tịnh :
1) Bất dục trược.
2) Uy nghi trược.
3) Cái trược.
4) Dị tưởng trược, v́ khởi tâm đố thắng, tâm phá hoại.
5) Bất túc công đức trược, v́ thiện căn bé nhỏ, tâm chẳng thích trụ ở trong thuyết  ấy.
6) Si trược, chỉ ngu si v.v…
Đây chỉ căn cứ vào Hành trược, chứ chẳng phải căn cứ chung vào các pháp, v́ có sáu thứ đối trị là : ĺa giải đăi, nghiêm, tịnh, kiên cố, công đức cụ túc, trí cụ túc. Có sáu thứ sở trị này nên lập ra sáu trược, chẳng cần ḥa hội. C̣n lại th́ như chương khác, v́ sợ rườm nên dừng.
Theo phép th́ Phật xuất hiện, ắt phải vào thời Ngũ trược. Cho nên nói rằng Phật xuất ở thời Ngũ trược Ác thế.
Hỏi 1 : v́ nguyên nhân ǵ mà Phật Di Lặc sinh vào lúc chúng sinh thọ tám vạn tuổi, c̣n Phật Thích Ca lại xuất hiện vào lúc chúng sinh thọ một trăm 
tuổi ?
Đáp : v́ nguyện lực khác nhau. V́ đều là trược thế, cùng hóa tam thừa, trước quyền sau thực, đều là hóa thân. 
Nếu các Báo Phật và Hóa Phật chẳng hóa nhị thừa đúng cách trước quyền sau thực, th́ chưa hẳn là trược thời Phật mới xuất thế. 
Nếu hóa nhị thừa, trước quyền sau thực, ắt trược thời xuất thế, v́ ác sinh khó hóa, dần dần mới nhập đạo. 
Đây nói trược, có nghĩa là vào trong kiếp giảm dần sinh năm thứ này, th́ gọi là Trược thời (thời ô trược). Cho nên Phật Di Lặc, lúc kiếp bắt đầu giảm tới tám vạn tuổi, dần dần hướng tới ngũ trược, mới xuất thế.
Cho nên chẳng cứ phải tới lúc người chỉ thọ hai ba mươi tuổi, tai vạ nhỏ khởi lên mới gọi là Kiếp trược. Nên các Luận nói rằng : kiếp giảm, Phật ra đời, kiếp tăng thời Chuyển luân vương.
Hỏi 2 : nếu lúc kiếp giảm Phật mới ra đời, kiếp tăng thời là Chuyển luân vương, thế sao Tương Khư và Di Lặc lại cùng thời ? Lại nữa, Phật chẳng xuất gia th́ hẳn sẽ làm Luân vương. Tám con của Nhật Nguyệt Đăng Minh đều thống trị Tứ thiên hạ. Thế sao gọi là kiếp giảm ?
Đáp : Vua Tương Khư xuất thế lúc kiếp tăng, thọ mệnh dài nên gặp Phật Di Lặc, chứ chẳng phải là Phật Di Lặc xuất thế vào thời chẳng giảm. Thêm nữa Phật nếu chẳng xuất gia th́ hẳn là ở ngôi vị Kim luân vương, nhưng chẳng phải Ngài định làm. Nghĩa lư chuyện tám con của Phật Đăng Minh cũng giống như thế, v́ đó là báo thân, nên cũng chẳng sai. Đây nói Kim Luân ắt kiếp tăng mới xuất, c̣n lúc Ngân, Đồng Thiết luân vương xuất thế th́ chẳng nhất định. Bởi vậy không lo thời Luân vương th́ Phật diệt. Tuổi thọ con người một trăm năm là thời Thiết luân vương vậy.
*
-Kinh văn : “Như vậy Xá Lợi Phất” tới “phân biệt thuyết tam”. 
Tán rằng : dưới là giải thích về ngũ trược, lư do đă khiến Phật ra đời, nhắc lại ngũ trược đă được thuyết minh, được nêu ra trước đây, cho nên nói là “Như vậy”.
 “Thời loạn kiếp trược” : giải thích kiếp trược nói trên : thời đói rét, dịch bệnh, binh đao”.
“Chúng sinh cấu trọng” : Cấu, chỉ Lục cấu (sáu thứ dơ dáy nhơ bẩn). Ô nhiễm thân tâm, điểm nhiễm bất tịnh th́ gọi là Cấu. Tăng cường khó phá th́ gọi là Trọng. 
Lục cấu gồm : 
 1) Hại          2) Hận 3)Năo
 4) Xiểm       5) Cuống      6) Kiêu.
 Thích làm tổn năo đối với hữu t́nh th́ gọi là Hại. 
Trước th́ do tức giận, rồi kết thành thù oán dai dẳng chẳng bỏ th́ gọi là Hận. 
Nhớ điều ác xưa, chạm nghịch duyên nay, tâm liền hằn học, hay thốt ra những lời ầm ỹ, hung bạo, thô bỉ, châm chọc sói móc th́ gọi là Năo. 
Ba thứ này lấy Sân làm thể.
Cạm bẫy người khác, hoặc giấu lỗi ḿnh, hoặc lấy ư người, giả bày vẻ khác, thâm hiểm quắt quéo th́ gọi là Xiểm. 
Để kiếm lợi danh, giả vờ biểu hiện là có đức, quỉ quyệt dối trá th́ gọi là Cuống (lừa dối, bịp bợm). 
Ư nói kẻ kiểu cuống là kẻ trong tâm chứa mưu mô khác, v́ thường hay thể hiện ra sự tà mệnh chẳng thật.
Hai thứ này lấy hai pháp Tham Si làm thể.
Nhiễm trước rất sâu đối với sự thịnh đạt của bản thân, say sưa ngạo mạn th́ gọi là Kiêu. Kiêu lấy Tham làm thể.
Do các chúng sinh sáu cấu nghiêm trọng, chẳng biết Sa môn, chẳng tu thiện pháp, nên gọi là Chúng sinh trược.
“Xan, tham, tật, đố ” : tức là Phiền năo trược.
Đam mê chấp trước đối với tài pháp đă có được, chẳng thể huệ xả, bủn xỉn giấu kín th́ gọi là Xan (keo kiệt, bủn xỉn). 
Đối với những thứ ḿnh chưa có được, hoặc đă có đủ mà c̣n mong muốn thêm nhiều th́ gọi là Tham. 
Xan dẫu tức là tham, nhưng v́ tham là đối với những thứ đă được hoặc chưa được đều nhiễm trước, mong muốn được các thứ khác, nên chia làm hai môn.
* Chữ Tật [
] có ba âm Tất, Tuất, Tật (nay đọc âm Tật) có khi viết là [       ] , có nghĩa là độc hại (Tật: có nghĩa là ghét). 
Liều chết v́ danh lợi của bản thân ḿnh, chẳng chịu nổi trước sự thịnh đạt của người khác, đố kỵ buồn bực th́ gọi là Tật đố (ghen ghét). 
Tật tuy tức  là Đố, song duyên tha chính pháp danh thể th́ gọi là Tật, c̣n duyên tha vinh lạc danh lợi th́ gọi là Đố. 
* Sách Thuyết Văn, Ngọc Thiên giải thích rằng : hại hiền th́ gọi là Tật, hại sắc th́ gọi là Đố.
“Thành tựu các bất thiện căn” : Bất thiện căn có ba thứ, đó là Tham, Sân, Si. Do đủ hai nghĩa mà lập ra Bất thiện căn :
a) Đó là Căn bản phiền năo có thể sinh ra những thứ khác. Loại các Tùy hoặc ra, chẳng được đặt vào đây.
b) Khắp sáu thức đều có lỗi lầm sâu rộng. C̣n Mạn, Kiến, Nghi chẳng phải là Bất thiện căn, v́ chỉ Ư căn mới có.
Do đủ hai nghĩa này, nên chỉ có ba thứ trên mới gọi là Bất thiện căn. Căn đây có nghĩa là xuất sinh, v́ sinh ra ác duyên cũng là Phiền năo trược. Chỉ nói tam trược, chẳng thuyết Kiến, Mệnh trược, v́ Kiếp trược bao gồm cả Mệnh trược bởi lẽ khi đói khát, binh đao, tật bệnh th́ mệnh phần nhiều đoản. C̣n Phiền năo trược th́ bao gồm cả Kiến trược rồi và khi nêu ra cái gốc là Bất thiện căn phiền năo th́ đă bao gồm hết thảy phiền năo rồi. 
Do ở thời ấy nhân thiên giảm thiểu, ác đạo thêm nhiều, chúng sinh rốt cuộc khó thể giáo hóa bằng đại thừa, nên đă phải dùng Trí phương tiện đem một Phật thừa phân biệt nói thành ba thừa để khiến chúng sinh dần dần nhập đạo.
Cho nên kinh nói rằng, chỉ tán thán Phật thừa, th́ chúng sinh không khổ chẳng thể tín thụ, nên dùng phương tiện mà thuyết.
*
-Kinh văn : “Xá Lợi Phất”  tới  “chẳng phải Bích chi Phật”.
Tán rằng : dưới đây là giải thích điều nghi thứ hai. 
Điều nghi thứ hai nói : Như Lai đă chẳng thuyết cho kẻ Tăng thượng mạn. Làm sao mà  biết đó là Tăng thượng mạn ?
Trong văn có 3 phần :
- Phần đầu nói rơ về tướng chẳng phải là chân thánh nhị thừa.
- Phần sau nói rơ về tướng kẻ Tăng thượng mạn.
- Phần cuối kết luận về tướng chân thánh nhị thừa.
Đây là phần đầu. 
Thanh văn, Bích chi chân thánh Thú tịch nếu gặp Phật th́ phần nhiều sẽ chẳng ngu về pháp, số Bất định tính trong bọn họ có thể hồi tâm, chẳng kể gần xa ắt có thể nghe biết việc Phật chỉ giáo hóa Bồ tát. 
C̣n hạng tự cho ḿnh là chân thánh nhị thừa mà được gặp Phật th́ lại chẳng nghe biết về việc Phật chỉ giáo hóa Bồ tát. Đó chẳng phải là hạng thánh đệ tử của Phật, cũng chẳng phải là chân thánh nhị thừa. 
*
-Kinh văn : “Lại nữa Xá Lợi Phất”  tới  “đều là người Tăng thượng mạn”. 
Tán rằng : đây là nói rơ về tướng của kẻ Tăng thượng mạn. 
Phàm phu được Đệ tứ thiền chưa ĺa tam giới nhiễm mà đă tự cho là bậc chân thánh nhị thừa là A la hán, là thân cuối cùng cứu cánh Niết bàn, chẳng cầu chính giác, tâm chẳng tin theo, đó là Tăng thượng mạn.
*
-Kinh văn : “V́ sao vậy?”  tới  “không có xứ đó”. 
Tán rằng : đây là kết luận về tướng  chân thánh nhị thừa. 
Chỉ có hàng chân thánh mà gặp ta th́ mới phát ư Thú tịch, phần nhiều là hạng người chẳng ngu về pháp, tuy chẳng thể thực hành, nhưng nghe cũng tin. V́ là Bất định chủng tính về lư th́ tin, nếu tu th́ giác, nên là bậc chân thánh nhị thừa. Nếu chẳng tin th́ không có xứ ấy, v́ đó là phi đạo lư.
C̣n “Thú tịch” có nghĩa là chẳng thể chứng nhập, ban đầu vẫn chưa tin gọi là tổn hao kinh sợ, quay về với đạo th́ sinh nghi, sau mới tin và trở thành chẳng ngu về pháp. Cho nên, ở đây mới kết luận rằng : Chẳng tin nhất thừa, không có xứ ấy.
*
-Kinh văn : “Trừ sau khi Phật diệt độ, hiện tiền không Phật”. 
Tán rằng : dưới đây giải thích về mối nghi thứ ba : thế nào th́ kham thuyết ? 
V́ có kẻ nghi ngờ, theo Phật nghe pháp mà sinh báng tâm : Như  Lai lẽ nào là người chẳng kham thuyết pháp ? V́ sao ?
Câu này ư nói rằng : cũng có bậc thánh nhị thừa chân thực thú tịch mà ngu về pháp, nghe pháp lại phỉ báng, cũng chẳng nghe biết việc Phật chỉ giáo hóa Bồ tát. Thế tức là Thế tôn chẳng thể hóa được. Vậy th́ Phật lẽ nào là người chẳng kham thuyết pháp ? Mà lại đă là người chẳng kham thuyết pháp th́ là cớ 
sao ?
Nói cách khác th́ : v́ sao Thế tôn có thể kham nổi việc thuyết pháp cho chúng sinh và được gọi là Chủng trí ? 
Phật đáp rằng : “Trừ sau Phật diệt độ, hiện tiền không có Phật. Tuy chân Thú tịch mà gặp ta th́ phần nhiều chẳng ngu về pháp, đều nhất định nghe biết việc Phật giáo hóa Bồ tát. Nếu chẳng gặp ta mà Thú tịch, th́ có kẻ ngu về pháp mà chẳng thể biết rằng Phật chỉ giáo hóa Bồ tát”.
Đoạn văn này có ba phần : ban đầu là nêu, kế là giải thích, sau cùng là kết thành. Trên đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “V́ sao vậy ?”  tới  “người ấy khó được”.
Tán rằng : đây là giải thích phần nêu lên ở trước. 
Sau khi ta diệt độ rồi, v́ không có duyên lành, phương tiện thiện xảo để dẫn dụ, cho nên các thú tịch phần nhiều ngu về pháp, đối với việc thụ tŕ giải nghĩa những kinh này sẽ khó mà được, v́ chẳng hiểu ư. Nên sau khi ta diệt độ sẽ có chân thánh nhị thừa chẳng nghe chẳng biết việc Phật chỉ giáo hóa Bồ tát.
*
-Kinh văn : “Nếu gặp Phật khác”   tới   “liền được hiểu rơ”. 
Tán rằng : đây kết thành nghĩa trước.
Hạng ngu pháp này nếu sau khi ta diệt độ mà gặp được Phật khác phương tiện thuyết hóa th́ sẽ được hiểu rơ pháp này, nên cũng có thể biết được là Phật chỉ giáo hóa Bồ tát. Nếu chẳng gặp Phật th́ có kẻ chẳng biết. Cho nên ta nay chẳng phải là chẳng kham thuyết v.v…
Nên Du Già nói : Nếu đă kiến lập A lại da thức, y vào Vô sắc giới th́ cũng nhập diệt định, v́ tin có tạng thức chẳng đoạn tuyệt. 
Hoặc nghi này chẳng phải là nghi Thú tịch, mà tức là nghi Phật v́ sao đă chẳng hóa được hạng Tăng thượng mạn, Thế tôn lẽ nào là người chẳng kham thuyết pháp ? V́ sao ? Đây giải thích nói: Ta tại thế ắt giáo hóa được, trừ sau khi ta diệt độ v.v…
*
-Kinh văn : “Xá Lợi Phất”  tới  “chỉ một Phật thừa”.
Tán rằng : dưới đây là giải thích về mối nghi thứ tư,  nghi rằng : trước thuyết ba thừa, nay thuyết là một. Trước thuyết pháp khác, nay thuyết pháp khác, v́ sao Thế tôn chẳng thành vọng ngữ ? 
Phật đáp rằng : “Ta đă chứng giải c̣n ngươi hoàn toàn chưa biết, hạnh vị chưa tới, chỉ nên nhất tâm tin điều ta nói, v́ ngươi mới phát tâm bước đầu hăy cứ tin tưởng”. 
A la hán hồi tâm, trải hai vạn kiếp mới tới được địa vị bắt đầu tín tâm trong ba đại A tăng kỳ kiếp. Chỉ nên tin tưởng, chớ nên nghi hoặc, lời Phật không dối, lư chỉ nhất thừa. V́ bất định chủng tính cứu cánh thành quả trí cũng chỉ có nhất thừa, không có nhị thừa. 
Bát Nhă luận nói rằng : Phật thuyết bốn sự, không hề hư vọng : Bồ đề, thụ kư, tiểu thừa, đại thừa. Nay tức đại thừa và thụ kư, nên thành Bất vọng ngữ.
Phẩm này thoạt tiên tán thán Pháp diệu và Pháp sư diệu. Đă có phần Định nghi. Ở phần Định kư có bốn mối nghi này. 
Mối nghi đầu tiên nảy sinh ở mục Dữ kư (thụ kư cho) : ở trong thời nào, đầu nói phương tiện, về sau lại thuyết chân thực ?
 Mối nghi thứ hai nảy sinh ở phần Thủ kư (nhận lấy sự thụ kư) : v́ có kẻ Tăng thượng mạn từ trong cử tọa đứng dậy bỏ đi. Làm sao mà biết điều  đó ? 
Nếu căn cứ vào cách giải thích ban đầu, th́ mối ngờ thứ ba ở phần Nhân kư mà sinh. Tâm Phật vốn định thuyết cho người nhị thừa chẳng phải là hạng ngu về pháp, nên sinh ra mối nghi này : v́ sao mà kham thuyết ? Nếu căn cứ vào cách giải thích sau th́ cũng nảy sinh từ việc Thủ kư. 
Mối nghi thứ tư nảy sinh ở tất cả, nghi rằng : v́ lần thuyết đầu và lần thuyết sau trái ngược nhau, cớ sao chẳng thành vọng ngữ ?
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Thế tôn”  tới  “Ưu bà di chẳng tin”. 
Tán rằng : dưới đây có 121 tụng, trong đó :
+ 3 tụng cuối nhập phẩm đệ tứ, đoạn “khuyến phát hỷ tâm, khiến biết làm Phật”.
+ 118 tụng đầu, tụng trường hàng đoạn thứ ba “khơi thực tướng này, gợi quyền môn kia” và chia làm hai phần : 
 115 tụng đầu tụng về hai kư (Thủ kư và Dữ kư) đă   nói ở trên.
 3 tụng cuối tụng về phá bốn   nghi. 
Trong phần đầu lại chia làm hai phần : 
a) 4 tụng đầu, tụng về trong việc Thủ kư, kẻ ác rút lui.
b) 111 tụng sau, tụng về việc thụ kư cho (Dữ kư).
 Trong 4 tụng đầu :
 1 tụng, tụng về hạng   Tăng thượng mạn.
 3 tụng sau, tụng về tội căn sâu  nặng. 
 Bốn tụng này theo thứ tự, tụng về Mạn, Phạm, Phú, Chướng (chỉ Tăng thượng mạn, phạm giới, phú tội, chướng pháp).
Đây là tụng về mạn : người xuất gia lấy việc chứng được đạo làm đầu. Mới được ít đă cho là được nhiều, th́ chỉ là khởi Tăng thượng mạn. 
Nam tử tại tục (tức Ưu bà tắc) thường hay chấp ngă, có tâm lư cậy ḿnh, tự cao, nên sinh ra ngă mạn. 
Nữ nhân tại tục (tức Ưu bà di) phần nhiều hay sinh ra ti mạn, không nương dựa vào thắng đạo, ít chấp ngă nhưng hay tùy thuận chồng và bè bạn, cũng hoài nghi chẳng tin.
*
-Kinh văn : “Hàng bốn chúng như vậy”  tới  “có khuyết lậu về giới”. 
Tán rằng : dưới đây là 3 tụng, tụng về tội căn sâu nặng, phân biệt ba thứ : phạm giới, phú tội (che giấu tội lỗi) và pháp chướng. 
Đây là nói về phạm giới : 
Nếu phạm ít th́ gọi là khuyết, nếu phạm nhiều th́ gọi là lậu, v́ đáng chê trách. 
Hoại giới th́ gọi là khuyết. Hoại kiến th́ gọi là lậu, có phiền năo lậu khởi mà vẫn chẳng thấy chẳng biết, cậy ḿnh tự cao. 
Trong giới đă nói : trừ Tăng thượng mạn, tự xưng đắc thánh mới phạm tội nặng. Cho nên lỗi lầm này chẳng phải Thi la, chẳng thanh tịnh, nên Tam muội chẳng hiện tiền nhiếp.
Nay nói tướng chung của việc phạm giới và thuyết về tướng chẳng biết phạm giới.
*
-Kinh văn : “Che giữ t́ vết ḿnh”  tới  “uy đức Phật phải đi”. 
Tán rằng : đây là phú tội (che giấu tội lỗi).
Trong ngọc có gợn th́ gọi là vết (Hà). Ngoài ngọc có tật th́ gọi là t́, Phạm giới cũng giống như thế, bị đời chê như t́, trong có lỗi như vết. 
Lỗi về thân ngữ th́ như t́, tức là khuyết. Lỗi trong nội tâm th́ như vết, tức là lậu nói ở trên.
Phạm Tính tội, gọi là vết (Hà). Phạm Già tội, gọi là t́. 
Tật ở bề ngoài của ngọc lẽ ra nên dùng chữ T́ thuọâc bộ Ngọc, nay dùng chữ T́ chỉ tật bệnh, chỉ người trong pháp có bệnh phiền năo cũng giống như ngọc có vết. Dụ và Pháp kết hợp với nhau mà thuyết. T́ là bệnh, nên bao che giữ ǵn chẳng phơi bày ra, đây ví với việc che giấu tội lỗi của ḿnh.
Bă rượu th́ gọi là Tao, là thứ cực kỳ trầm trược. Màng gạo th́ gọi là Khang (cám), là thứ rẻ mạt vô dụng (ví với hạng Tăng thượng mạn), chẳng những là hạng Tiểu trí, mà c̣n là hạng tự ư hành động trái với đạo pháp. Phật đă dùng uy mà gạt chúng ra, khiến chúng phải rút lui bỏ đi. E rằng chúng nghe diệu pháp rồi sẽ phỉ báng lại càng thêm tội, vô ích cho chúng, nên Phật đă uy bức chúng khiến chúng đứng dậy bỏ ra đi.
*
-Kinh văn : “Người này ít phúc đức” tới “chỉ có thứ chân thực”. 
Tán rằng : đây là pháp chướng. V́ xưa gây nghiệp thiếu pháp, pháp chướng tại thân, nên chẳng kham nổi việc nghe pháp. 
* Tiển : có nghĩa là ít. Hai chữ Thiểu [
  ,      ], dùng chữ nào cũng đều được cả.
*
-Kinh văn : “Xá Lợi Phất khéo nghe !”  tới  “mà thuyết cho chúng sinh”. 
Tán rằng : dưới là đoạn thứ hai gồm 111 tụng, tụng về việc thụ kư cho. 
Trường hàng ở trước có 6 phần, cho nên ở đây cũng chia 111 bài tụng làm 6 phần :
1/- 6 tụng, tụng về Thuyết.
2/- 7 tụng rưỡi, tụng về Khiến trụ lại.
3/- 1 tụng rưỡi, tụng về Già.
4/- 18 tụng rưỡi, tụng về “Y vào những nghĩa nào”
5/- 70 tụng rưỡi, tụng về Y pháp .
6/- 7 tụng, tụng về ư “chưa nghe th́ khiến được nghe”.
 Ở trong sáu điều trên có sự bất đồng. Cho nên có tụng rằng :
Sáu Thuyết, bảy rưỡi Trụ,
Đến một tụng rưỡi Già,
Mười tám rưỡi Những ǵ,
Bảy mươi rưỡi, Bảy hai.
Trong 6 tụng đầu về Thuyết, chia làm hai phần :
• 4 tụng rưỡi, tụng về ư “V́ sao vậy ?” Dưới là văn giải thích.
• 1 tụng rưỡi, tụng về ư “Tùy nghi mà thuyết, ư thú khó hiểu” đă nêu ra ở trên.
Trong phần đầu lại chia làm ba :
- 1 tụng, tụng về vô số phương tiện.
- 2 tụng, tụng về vô vàn nhân duyên, thí dụ, ngôn từ. Tức là thí dụ, nhân duyên, quán niệm, phương tiện vậy. 
- 1 tụng rưỡi, tụng về diễn thuyết các pháp.
Đây là phần đầu. 
Trong trường hàng ở trước đă nêu lên rằng : “chư Phật tùy nghi mà thuyết”. Trong giải thích nói : “Ta dùng vô số phương tiện”.  Nay tụng này giải thích rằng : “chư Phật sở đắc pháp vô lượng phương tiện lực”.
Thế là trước sau làm rơ nghĩa  cho nhau, tự tha nêu bật cho nhau, cũng chẳng trái ngược nhau.
*
-Kinh văn : “Điều chúng sinh tâm niệm” tới “khiến thảy đều hoan hỉ”. 
Tán rằng : đây là 2 tụng, tụng về nhiều loại nhân duyên v.v… . Trong này có hai :
• Tụng đầu, tụng về tri cơ (biết cơ).
• Tụng sau tụng về nhân duyên, thí dụ.
Tâm sở niệm, sở hành đạo, đó là biến thú hành. 
Chư dục là chủng chủng thắng giải. 
Chư tính là chủng chủng thắng giới.
Nghiệp thiện ác đời trước là Xứ, Phi xứ và Tự nghiệp. 
Nói Phật có ngũ trí lực, đó là chủng chủng quán niệm, v́ có khả năng  biết được năm loại này của chúng sinh, dùng nhân duyên, thí dụ, ngôn từ, phương tiện thuyết pháp khiến cho họ đều hoan hỉ.
Đây là giải thích nguyên do các loại ngôn từ đă nói ở trên.
*
-Kinh văn : “Hoặc thuyết Tu đa la”  tới  “Kinh Ưu ba đề xá”. 
Tán rằng : một tụng rưỡi tụng về diễn thuyết chư pháp. Căn cứ về các chỗ nói về mười hai bộ kinh, th́ có thứ tự như  sau :
1. Khế kinh : kinh gọi là Tu đa la.
2. Ứng tụng : kinh gọi là Kỳ dạ.
3. Kư biệt : trong đây không có.
4. Phúng tụng : kinh gọi là Già đà.
5. Tự thuyết : trong đây không có.
6. Duyên khởi : kinh gọi là nhân duyên.
7. Thí dụ :
 Ba tên8. Bản sự :     gọi này giống ở đây.
9. Bản sinh : 
     10. Phương quảng : ở đây không có.
     11. Hi pháp : kinh gọi là Vị tằng hữu.
     12. Luận nghị : kinh gọi là Ưu ba đề xá kinh.
Ở đây, dùng ba môn phân biệt :
 A. Biện tướng B. Thích danh. C. Sai biệt.
A. Biện tướng :
1. Khế kinh  có hai tướng :
a) Thông;   b) Biệt. 
Kinh Niết Bàn nói rằng : Từ “tôi nghe như vầy” cho tới “hoan hỉ phụng hành”, hết thảy như vậy gọi là Tu đa la, thu nhiếp hết 12 thứ th́ gọi là Thông tướng, v́ dùng giáo mà quán thông cả lư và việc Nhiếp sinh. 
Đối Pháp Luận nói rằng : dùng trường hàng tổ chức thành văn để nói qua về nghĩa cần phải thuyết th́ gọi là Khế kinh. 
Đây chỉ là trường hàng th́ gọi là Biệt tướng, Kệ tụng th́ chẳng bao gồm trong loại Khế kinh biệt tướng.
2. Ứng tụng có hai tướng:
1) Để làm lợi ích cho sau này.
2) Nói rơ nghĩa chưa trọn trước đó.
 Đối Pháp v.v… nói rằng : trong các kinh hoặc ở giữa hoặc ở cuối, dùng tụng tụng lại nghĩa trường hàng phía trước, th́ gọi là Ích hậu lai (làm lợi ích cho sau này). 
Lại nói rằng : nếu là kinh chẳng liễu nghĩa th́ phải dùng tụng để giải thích thêm, v́ tuy trường hàng đă thuyết, nhưng nghĩa chưa trọn, cho nên gọi là “Nói rơ nghĩa chưa trọn trước đó”. 
Kinh Niết Bàn chỉ thuyết về một nghĩa đầu.
3. Kư biệt có ba tướng:
1) Kư nhân quả sinh tử của đệ tử.
2) Phân minh kư nghĩa thâm mật.
3) Kư sự Bồ tát sẽ thành Phật.
 Đối Trị luận v.v… nói rằng : Đó là chỉ ở chốn này, các thánh đệ tử đă giă từ quá khứ th́ ghi nhận, phân biệt sự khác biệt ở nơi sinh do đạo đức hoặc lỗi lầm của họ. Đó là kư về nhân quả sinh tử của đệ tử. 
 Lại nói : Thêm nữa, kinh liễu nghĩa gọi là Kư biệt, v́ kư biệt khai thị nghĩa thâm mật. Tức là loại thứ hai kư nghĩa thâm mật. Nên bản luận này nói rằng : Thụ kư có bốn thứ, đó là Quyết định tâm, Nhân, Thủ kư và Dữ kư v.v…
 Kinh Niết Bàn nói : Như  Lai thụ kư cho bậc đại nhân : Này ông A Dật Đa ! Tới thời vị lai có vị vua Tương Khư, ông sẽ ở vào đời ấy mà được thành Phật và gọi là Di Lặc. Đó là Kư biệt kinh. Đó là loại thứ ba : kư sẽ thành Phật.
4. Phúng tụng :
Về tướng của Phúng tụng, th́ Hiển Dương luận v.v… nói rằng : Đó là chỉ trong các kinh chẳng phải là dùng trường hàng nói thẳng ra, mà là dùng một câu mà kết thành, hoặc thuyết bằng hai, ba, bốn, năm, sáu câu v.v… . Đó đều là Phúng tụng.
5. Tự thuyết :
Về tướng Tự thuyết, Du Già v.v… nói : Đó là chỉ trong này không nói rơ người thỉnh, để khiến cho sau này chính pháp được trụ lâu dài, để chính giáo trụ lâu dài, nên chẳng thỉnh mà vẫn thuyết, đó đều gọi là Tự thuyết.
6. Duyên khởi : có ba tướng :
• Nhân thỉnh mà thuyết.
• Nhân phạm mà chế giới.
• Nhân sự mà thuyết pháp.
 Đối Trị luận nói : Nhân duyên có nghĩa là Nhân thỉnh mà thuyết. Lại có Nhân duyên chế lập học xứ, tức là nghĩa thứ hai gọi là Duyên khởi. 
Kinh Niết Bàn nói : Đó là các nguyên nhân căn bản mà các kinh kệ dựa vào, như chuyện nước Xá Vệ có một đấng trượng phu giăng lưới bắt chim, bắt được rồi lại thả ra, Thế tôn biết nhân duyên gốc ngọn chuyện đó bèn thuyết kệ rằng :
Chớ khinh tội nhỏ ,
Cho là không vạ,
Giọt nước tuy nhỏ,
Dần đầy chum cả.
Đó gọi là Duyên khởi, tức là loại thứ ba : Nhân sự  mà thuyết pháp.
7. Thí dụ :
Về tướng của Thí dụ, Du Già luận nói : Đó là chỉ tất cả các thí dụ dùng để thuyết pháp ở trong các kinh luật.
8. Bản sự :
Về tướng của Bản sự Du Già luận nói : Đó là tất cả các sự hoặc là về người hoặc là về pháp thời trước, trừ phần bản sinh mà Phật tuyên thuyết.
Trong Kinh Niết Bàn chỉ thuyết Văng pháp (pháp thời quá khứ) như “Pháp mà ta có thể nói khi xuất thế gọi là Giới kinh, Phật Câu Lâu Tần có tên gọi là Cam Lộ Cổ (trống cam lộ), Phật Câu Na Hàm Mâu Ni có tên gọi là Pháp Kính (gương pháp), Phật Ca Diếp lúc đó gọi là Phân Biệt Không”. Chẳng thuyết về Văng nhân (người thời quá khứ). Đó là căn cứ vào sự thực mà quán thông vậy.
9. Bản sinh :
Về tướng của Bản sinh, th́ Hiển Dương luận nói : Có nghĩa là ở trong này tuyên thuyết về Thế tôn vào đời quá khứ  ở những nơi chốn đó hoặc tử hoặc sinh, đă tu hành hạnh Bồ tát, tu hành hạnh khó tu hành, đó gọi là Bản sinh. Nói về thân hay hạnh lúc Phật là Bồ tát, đó đều là Bản sinh.
 Trong Kinh Niết Bàn chỉ nói về thân thời quá khứ của Bồ tát, chẳng thuyết về hạnh thời quá khứ của Bồ tát : làm hươu, làm gấu, làm nai, làm thỏ thậm chí nói rộng ra làm chim Kim Xí v.v…
10. Phương quảng:  có hai tướng :
1) Thuyết về đạo Bồ tát.
2) Pháp rộng và nhiều, v́ cực kỳ cao cả, v́ thời gian lâu dài xa xôi.
Đây chung với Thanh văn, cũng có Phương quảng. Nay lấy Niết bàn có đủ cả hai tướng trên làm chính.
11. Hi pháp :
Tướng của Hi pháp chỉ trong các kinh tuyên thuyết tất cả các Cộng đức, bất Cộng đức của chư Phật cùng thánh đệ tử tám chúng và các pháp tối thù thắng, đặc biệt kinh dị khác. Đó là Hi pháp.
Trong Kinh Niết Bàn chỉ thuyết về sự tích của Phật : như chuyện lúc Phật mới giáng sinh liền bước bảy bước, phóng đại quang minh chiếu khắp 10 phương, khỉ dâng mật, chó trắng nghe pháp, ma biến thành trâu xanh đi trong bát sành, khiến đụng vào cây hải đường mà không hề thương tổn. Chỉ thuyết về các sự hiếm có của đệ tử và những người chẳng phải là đệ tử, đó đều gọi là Hi pháp.
12. Luận nghị : có hai tướng :
• Một là Phật tự thuyết.
• Hai là đệ tử thuyết.
Du Già luận nói : Đó là chỉ việc tuần hoàn nghiên cứu khảo hạch Ma Đát Lư Ca trong các kinh điển. Mọi Liễu nghĩa kinh đều gọi là Ma Đát Lư Ca. Có nghĩa là ở chỗ đó, Thế tôn tự ḿnh phân biệt rộng pháp tướng.
Thêm nữa, thánh đệ tử đă thấy được đế tích (dấu vết của chân lư) rồi, căn cứ vào điều tự ḿnh chứng được, không điên đảo phân biệt thể tính các pháp. Đó cũng gọi là Ma Đát Lư Ca, cũng gọi là A T́ Đạt Mạ. Nay đây tạm dẫn nghĩa bao quát trọn theo kinh văn. C̣n giáo riêng khác, sợ rườm, chẳng dẫn.
B. Thích danh (giải thích danh tự).
B.1. Giải thích tổng danh (tên chung). 
Tiên đức (chỉ các vị cao tăng thời xưa) dịch là Thập Nhị bộ kinh. 
Bộ bao gồm hai nghĩa : 
1. Bộ trật (chỉ Bộ của sách vở, ví dụ bộ luận Du Già).
2. Bộ loại (tức chủng loại). Đây là Bộ loại, v́ mười hai nghĩa loại, có sự khác biệt nhau.
 Người xưa nghi ngờ nói rằng đó là chỉ 12 bộ sách kinh điển. Do đó mà Đạo sĩ thuyết 36 bộ. Bọn Trang Lăo mỗi hạng có một bộ. 
Nay nói là 12 phần giáo, phần là phân đoạn, v́ văn nghĩa sai biệt có 12 phần đoạn.
Lại nói : gọi là Kinh th́ lầm với Khế kinh. Nay dịch là Giáo thập nhị (12 phần giáo) th́ không c̣n lẫn nữa, đó là cách giải thích kèm theo số.
B.2. Giải thích biệt danh (giải thích tên riêng) : 
Tổng loại chia làm ba loại :
1) Ứng tụng, Phúng tụng, Tự thuyết, Duyên khởi, Hi pháp, Phương quảng : sáu danh từ này chỉ là Y chủ thích, v́ là “ứng trùng thuật tụng” cho tới “phương lư chi quảng”.
2) Riêng một loại Nghị luận chỉ là Tŕ nghiệp thích, v́ thể của luận tức là nghị. Hoặc Phúng tụng cũng là Tŕ nghiệp thích, v́ là khả phúng khả tụng, khác với Ứng tụng v́ tụng kia là giáo, tụng này là ngôn.
3) Khế kinh, Kư biệt, Thí dụ, Bản sự, Bản sinh : năm danh từ này thông dụng cả hai cách giải thích : Y chủ thích và Tŕ nghiệp thích, v́ có khả năng khế hợp tức là kinh, mà kinh khế hợp với lư bản thể tức sinh bản thế chi sinh.
C. Sai biệt :
1.  Thể sai biệt.          2. Giáo sai biệt.
1. Thể sai biệt :
“Thể sai biệt” có nghĩa là trong Ứng tụng nhất định không có Phúng tụng. Trong Phúng tụng nhất định không có Ứng tụng, v́ trước sau khác nhau, đơn kép khác nhau. Trong Bản sự nhất định không có Bản sinh, trong Bản sinh nhất định không có Bản sự, v́ thầy tṛ khác nhau.
Bốn bộ này chỉ có 11, c̣n tám bộ khác đều đủ 12, v́ tùy theo sở ứng mà có tướng sai biệt nói trên. Kinh Niết Bàn nói : Bắt đầu từ “như vầy” tới “phụng hành” ở cuối đều là Tu đa la, nên thông cả 12, v́ đă không có biệt tướng và chỉ lấy trường hàng làm Khế kinh, hai Kệ th́ chẳng phải. Ngoài ra bảy giáo khác đều đủ 12. 
Căn cứ vào đây th́ có thể biết được : trong Ứng tụng có 11. Phẩm Thí Dụ nói rằng : “Xá Lợi Phất đời sau sẽ thành Phật Phổ Trí, tôn hiệu là Hoa Quang, sẽ độ vô lượng chúng” tức là có Ứng tụng của Kư biệt. 
Trong Ứng tụng cũng có Tự thuyết.  Phẩm Phương Tiện nói : “Thế Hùng chẳng thể lường, chư thiên và người đời, hết thảy loài chúng sinh, đều không thể biết Phật”  đó tức là Ứng tụng của Tự thuyết.
Trong Ứng tụng cũng có Duyên khởi. Phẩm Phương Tiện nói : “Này Xá Lợi Phất hăy lắng nghe, chư Phật được vô lượng pháp dùng lực phương tiện mà thuyết cho chúng sinh”. Đó tức là Ứng tụng của Nhân duyên, v́ nhân Thu Tử thỉnh mà thuyết pháp. 
Trong Ứng tụng cũng có Thí dụ, ví như trưởng giả có một ngôi nhà lớn, v́ nhà ấy lâu ngày nên lại đổ nát v.v… . Đó tức là Ứng tụng của Thí dụ.
Trong Ứng tụng cũng có Bản sự. Phẩm  Tựa nói : “Sau khi Phật đó diệt độ, kẻ lười nhác là ngươi. Pháp sư  Diệu Quang là thân ta ngày nay”. Đó tức là Ứng tụng Bản sựï. 
Trong Ứng tụng cũng có Bản sinh. Phẩm Thường Bất Khinh nói : “Bất Khinh thời đó tức là thân ta”. Đó tức là Ứng tụng bản sinh.
Trong Ứng tụng cũng có Phương quảng. Phẩm Phương Tiện nói rằng : “Trong cơi Phật ở mười phương, chỉ có pháp nhất thừa, không có nhị, cũng không có tam, trừ khi Phật phương tiện thuyết”. Đó tức là Ứng tụng của Phương quảng. 
Trong Ứng tụng cũng có Hi pháp. Phẩm Hóa Thành nói : “Đại Thông Trí Thắng Phật mười kiếp ngồi ở đạo tràng, Phật pháp chẳng hiện tiền, chẳng được thành Phật đạo”. Đó tức là Ứng tụng của Hi pháp.
Trong Ứng tụng cũng có Nghị luận. Phẩm Thọ Lượng nói rằng : chúng sinh đă tín phục, chất trực, ư đă nhu nhuyễn, nhất tâm muốn thấy Phật, chẳng tiếc thân mạng. Bấy giờ ta cùng chúng tăng đều ra núi Linh Thứu. Bấy giờ ta bảo với chúng sinh rằng : thường tại đây, chẳng diệt. Nhờ sức phương tiện nên thị hiện thành có diệt, không diệt”. Đây tức là Ứng tụng của Nghị luận.
C̣n ba giáo khác đều có 11, cứ theo đây th́ có thể biết được. Song trong kinh này có đủ 12 phần, cả bộ đều là thông tướng Khế kinh. Nói lại chỗ nghĩa đó th́ đều là Ứng tụng. Các chỗ thụ kư, giải nghĩa thâm mật đều là Kư biệt. Trong phẩm Hóa Thành, Đông phương Phạm Thiên dùng kệ tụng mà nói rằng : 
Thế tôn rất hiếm có,
Khó có thể được gặp,
Đủ vô lượng công đức,
Cứu hộ được hết thảy v.v…
Đây đều là Phúng tụng. Phần đầu phẩm Phương Tiện đều là Tự thuyết, cho nên bài kệ trước đă nói :
Chẳng hỏi mà tự thuyết,
Ca ngợi đạo sở hành.
Thu Tử ba lần thỉnh, Di Lặc ba lần thỉnh v.v… , các chỗ nói về quyền, thực đều là Duyên khởi. 
Phẩm Thí Dụ v.v…  đều là Thí dụ. 
Các chỗ thuyết về sự quá khứ của các đệ tử đều là Bản sự. 
Các chỗ Phật tự nói về các sự trong quá khứ của bản thân Phật đều là Bản sinh. 
Các chỗ thuyết về nhất thừa đều là Phương quảng. 
Các chỗ nói về thị hiện thần thông đều là Hi pháp. 
Trong phẩm Thọ Lượng, Phật tự nói đi nói lại về tướng ba thân, có thể gọi là Luận nghị.
2. Giáo sai biệt :
Giáo sai biệt có nghĩa là :
1) Đại thừa đủ cả 12, tiểu thừa chỉ có 9 phần giáo. Đó tức là kinh văn này. Tiểu thừa chỉ không có ba loại Thụ kư, Tự thuyết và Phương quảng. Bất già đại thừa có 12 phần.
2) Tiểu thừa đủ cả 12 phần, đại thừa chỉ có 9. 
Kinh Niết Bàn, quyển thứ ba nói : “Hộ đại thừa th́ thụ tŕ 9 bộ, ở đó chừa ra Nhân duyên, Thí dụ và Nghị luận”. Bất già tiểu thừa có 12 phần.
3) Đại thừa đủ cả, Tiểu thừa chỉ có 11. Du Già, quyển 38 nói : “một phần Phương quảng chỉ có Bồ tát tạng mới có, c̣n các phần khác th́ Thanh văn tạng cũng có”.
4) Đại thừa 1, tiểu thừa 11. Du Già quyển 85 nói : “trừ một giáo phần Phương quảng, các phần khác gọi là Thanh văn thừa tương ứng Khế kinh”.
V́ sao văn này (chỉ kinh Pháp Hoa), về đại thừa th́ đủ cả 12 phần giáo, đối tiểu thừa th́ chỉ có 9 giáo phần ? 
V́ căn cứ vào việc thụ kư cho đệ tử được thành Phật th́ gọi là Kư biệt. Nói Thanh văn không có Kư biệt, v́ họ trước tiên chưa cầu đại Bồ đề, ví như đem của báu mà phô cho người ngu xem th́ người ngu sẽ chê cười. Thanh văn nghe kư cũng giống y như thế, cho nên nói là không có (Kư biệt), chứ chẳng phải là Kư biệt về các sự sinh tử thời quá khứ của đệ tử cũng không có nốt.
Lại nữa, Thanh văn thừa phần nhiều nghe pháp nông, nếu chẳng đợi họ thỉnh mà đă thuyết ngay th́ họ sẽ sinh ra kiêu mạn. Nói là không có Tự thuyết, kỳ thực vẫn có.
 Lại nữa, người Thanh văn chỉ chứng tiểu quả chẳng được chính giác, về Lư chẳng phải là chí cực, về Hạnh chẳng rộng răi bao la, nên nói là không  có Phương quảng, nhưng kỳ thực vẫn có, đó là Phương quảng của chính pháp quảng trần (chính pháp được tŕnh bày rộng răi). Cho nên trong tụng này chỉ thuyết cho Thanh văn 9 bộ nhưng Lư thông cả 12 bộ.
• Trong kinh Niết Bàn “Tiểu thừa đủ cả, đại thừa chỉ chín”: nhân phạm mà chế giới, thuyết là Nhân duyên, Bồ tát không phạm, nên lược đi mà nói là không có. Chẳng phải là không có Duyên khởi nhân thỉnh, nhân sự mà thuyết pháp. 
Xét ra việc nói thí dụ là để khai thị cho các hạng trung và hạ căn, c̣n như Thu Tử là bậc thượng phẩm lợi căn phần nhiều chẳng đợi phải thí dụ, huống hồ là các Bồ tát đa phần chẳng cần, cho nên nói là không có, nhưng về lư mà nói cũng vẫn có. 
Lại nữa đại Bồ tát tính đều lợi căn, chỉ nêu tông chỉ là hiểu ngay, chẳng cần phải hỏi mới sinh Tuệ tâm. Cho nên nói là không có Luận nghị nhưng theo lư thực ra chẳng phải là không có. 
Lại nữa Hộ pháp th́ hay tụng Tố Đát Lăm tạng. Duyên khởi, Thí dụ phần nhiều là Điều phục tạng. Luận nghị phần nhiều là gồm trong Đối pháp tạng. Cho nên nói đại thừa chỉ 9, nhưng theo lư chẳng phải là không có đủ 12 phần giáo. 
• Du Già quyển 38 “Đại thừa đủ cả, tiểu thừa chỉ 11” : đối với tiểu thừa, cũng kư biệt các sự thời quá khứ của đệ tử và cũng chẳng đợi phải thỉnh, v́ Phật bi thâm, cho nên có đủ cả Kư biệt và Tự thuyết v.v… do vậy mà có 11 phần, không có Phương quảng v́ chẳng cầu chính giác. Thuyết lư thô thiển th́ gọi là không có, chứ thực ra th́ vẫn có.
• Văn Du Già quyển 85 không khác ǵ trên đây. Song dùng 11 phần giáo thuyết cho Thanh văn, đối lại dùng Phương quảng thuyết cho Bồ tát, chẳng phải là Bồ tát tạng không có 11 phần giáo khác. Đó đều là tùy ở nghĩa một sự khác biệt mà thuyết về số khác nhau. Theo lư th́ thực ra hai tạng Thanh văn và Bồ tát đều đủ cả 12 phần giáo. 
Nay tùy theo sự cần thiết mà phân biệt qua. C̣n sự giải thích rộng khác th́ như chương. Đó là điều cần biết.
*
-Kinh văn : “Độn căn ưa tiểu pháp”  tới  “thuyết Niết bàn cho họ”.
Tán rằng : đây là một tụng rưỡi, tụng về việc tùy nghi sở thuyết, ư thú khó hiểu trong phần đă nêu ra ở trên. 
Nếu nói sơ qua th́ do năm nghĩa :
1) Độn căn khó ngộ.
2) Thích Tiểu sợ Đại.
3) Đam mê sinh tử, chẳng mong xuất thế. 
4) Gặp duyên chẳng tu. 
5) Hiện bị các nỗi khỗ bức bách.
 Do năm nghĩa này mà thuyết về Niết bàn cho họ. V́ độn căn nên đắm trước sinh tử, dẫu gặp chư Phật ngày xưa đă giáo hóa cho, nhưng chẳng tu hành đạo thâm diệu là đại thừa. Do họ làm ác nên lùi về bị khổ. Do khuyên ĺa khổ nên đầu tiên thuyết cho họ về Niết bàn nhị thừa.
Cho nên phẩm Tín Giải nói thoạt đầu gặp Phật, rồi lùi về lưu chuyển trong ṿng sinh tử, sau đó được hóa độ bằng nhị thừa. Đó chính là giống với ở đây.
*
-Kinh văn : “Ta bày phương tiện này”  tới  “sẽ được thành Phật đạo”.
Tán rằng : dưới đây là đoạn thứ hai nói về mục Khiến trụ, là mục thứ tư, gồm có 7 tụng rưỡi, trong đó chia ra làm 4 phần :
- 1 tụng là phần nêu.
- 1 tụng là giải thích.
- 4 tụng rưỡi là phần hội.
- 1 tụng là khuyên trụ.
Đây là phần nêu.
Đầu tiên đặt ra nhị thừa là quyền thừa, cốt là để khiến họ cứu cánh nhập vào Phật tuệ, trụ ở nhất thừa.
*
-Kinh văn : “Bởi vậy chưa từng thuyết” tới   “quyết định thuyết đại thừa”. 
Tán rằng : đây là giải thích về Hội nêu lên trước đây : “Trước đây, căn ngươi chưa chín chưa ngộ đại thừa, chẳng đáng để thuyết cho. Nay ngươi căn cơ đă chín, chính đă đến lúc, nên mới thuyết cho”. Giống như phẩm Hóa Thành nói : “Này các Tỳ kheo ! Nếu Như Lai tự biết đă tới lúc Niết bàn, chúng lại thanh tịnh tín giải, kiên cố liễu đạt Không pháp, thâm nhập thiền định, th́ sẽ triệu tập các Bồ tát cùng Thanh văn chúng mà thuyết cho họ kinh này”. 
Thế gian không có chuyện nhị thừa mà được diệt độ. Chỉ có nhất thừa được diệt độ mà thôi.
-Kinh văn : “Chín bộ pháp của ta”  tới  “bởi thế thuyết kinh này”. 
Tán rằng : dưới đây là phần Hội, gồm 4 tụng rưỡi, chia làm ba phần :
a) 1 tụng rưỡi nói rơ về Tiểu pháp (chỉ pháp tiểu thừa) chẳng phải là chân thừa, thuyết v́ đại bản (căn bản của đại thừa).
b) 1 tụng rưỡi nói rơ Đại pháp thắng diệu, thuyết cho thắng nhân.
c) 2 tụng kết luận về Nhân pháp thắng diệu, khuyên bỏ Nhân pháp phi diệu; tùy thuận sơ cơ, thuyết 9 bộ này để nhập đại bản, chứ chẳng phải là cứu cánh. Bởi thế, nên trụ ở đại thừa.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Có Phật tử tâm tịnh”  tới  “thuyết kinh đại thừa này”. 
Tán rằng : nói rơ Đại pháp thắng diệu thuyết cho thắng nhân (người hơn), khuyên bỏ pháp kém chớ làm kẻ ác. 
Hết thảy Bồ tát dù là đốn ngộ hay tiệm ngộ đều gọi là Phật tử. Loại này có 5 đức : 
1) Tâm tịnh, chuyên cầu đại thừa cầu trí tuệ Phật, chẳng ưa thứ kém cỏi, v́ đă trừ được hai chướng. 
2) Nhu nhuyễn, nhún ḷng nhẫn nại chịu đựng được vất vả, có thể làm được đại nghiệp, v́ tinh tiến cần cù không ngừng. 
3) Lợi căn, tính hay cứu khổ, cho người khác vui, muốn hết thảy b́nh đẳng nghe pháp chóng ngộ nhập. 
4) Từ lâu gặp được duyên lành ở nơi vô lượng chư Phật, hằng tự trau giồi cho được sáng láng. 
5) Tu hành đạo thâm diệu, đồng thời tu cả phúc lẫn tuệ, cả bảo qui lẫn chân giác.
Phát Bồ Đề Tâm Kinh nói rằng có đủ 10 loại pháp có thể phát tâm Bồ đề : 
1) Thân cận thiện hữu.
2) Cúng dàng chư Phật.
3) Tu tập thiện căn.
4) Chí cầu thắng pháp.
5) Tâm thường nhu ḥa.
6) Gặp khổ, nhẫn được.
7) Từ bi thuần hậu.
8) Thâm tâm b́nh đẳng.
9) Yêu thích đại thừa.
10) Cầu Phật trí tuệ.
Tất cả 10 pháp này đều bao gồm trong năm đức trên :
• Tâm tịnh, bao gồm hai câu “Yêu thích đại thừa, Cầu Phật trí tuệ”. 
• Nhu nhuyễn, bao gồm hai câu “Tâm thường nhu ḥa, Gặp khổ nhẫn được”.
• Lợi căn, bao gồm hai câu “Từ bi thuần hậu, Thâm tâm b́nh đẳng”.
• Gặp được duyên lành nơi vô lượng Phật sở, bao gồm hai câu “Thân cận thiện hữu, Cúng dàng chư  Phật”.
• Hành đạo thâm diệu, bao gồm hai câu “Tu tập thiện căn, Chí cầu thắng pháp”.
 Người nào có đủ năm đức này, thành đệ tử có 10 pháp này, th́ mới thuyết đại thừa cho người đó để khiến họ phát thú (phát tâm hướng theo).
*
-Kinh văn : “Ta kư người như vậy”  tới  “nên thuyết cho đại thừa”. 
Tán rằng : kết luận phải thành tựu hai thứ Thắng diệu (tức nhân pháp), khuyên hăy xả bỏ hai thứ Phi diệu (cũng chỉ nhân pháp). 
Kư (ghi nhận) người có năm đức tới đời sau sẽ thành Phật, v́ thâm tâm niệm Phật, tu tŕ tịnh giới.
Niệm Phật có hai cách :
a) Ngữ niệm (dùng ngôn ngữ mà niệm).
b) Tâm niệm (niệm thầm trong tâm).
Hoặc tâm duyên sự Phật, cầu nguyện Phật cứu độ, hy vọng thành Phật đạo, trí niệm lư thân (tức pháp thân) cầu chứng, diệt chướng. Định tuệ đă như thế, lại tŕ tịnh giới, ba học đă thành, nên Phật kư cho. Những người như thế nghe thấy được Phật thuận ḷng nên hoan hỉ. Phật đă biết rơ tâm tư của họ, nên thuyết về đại thừa cho họ.
*
-Kinh văn : “Thanh văn hay Bồ tát”  tới  “đều thành Phật chớ nghi”. 
Tán rằng : đây là khuyên hăy trụ lại (khuyến trụ). Tán thán lợi ích của việc nghe pháp, khuyên hăy trụ ở đại thừa.
*
-Kinh văn : “Trong mười phương cơi Phật”  tới  “dẫn đạo cho chúng sinh”. 
Tán rằng : đây là đoạn thứ ba, gồm 1 tụng rưỡi, tụng về mục thứ sáu là Già.
“Không hai” có nghĩa là không có thừa thứ hai là thừa Độc giác.
“Không ba” có nghĩa là không có thừa thứ ba là thừa Thanh văn. 
Tính từ hơn đến kém th́ Phật thừa là thừa đầu (tức thừa thứ nhất). Đây là căn cứ vào chân lư không có hai Cực thừa, trừ phương tiện thuyết. Trong phương tiện thuyết có thể có ba, v́ mượn ba danh để dẫn đạo chúng sinh.
Dùng giả danh là xe hươu, xe dê để dẫn dắt chúng sinh ra khỏi nhà lửa, chứ chẳng phải thật sự có hai thứ đó. Để độ chúng sinh, ở đây thuyết về Niết bàn Bồ đề nhị thừa, các thứ ấy đều không có thực thể, đều gọi là giả danh. Song Niết bàn có thể chứng được và Phược trừ được. Nhưng Chủng trí chẳng thành là v́ không giác ngộ. Cho họ nhập Hóa thành để họ khỏi khổ. C̣n xe hươu, xe dê có danh mà chẳng có thu hoạch.
Hỏi : ba sự gọi là Đại Bát. Chỉ được giải thoát mà gọi là nhập Hóa thành. Nhị Không trí gọi là xe trâu, chỉ được Sinh Không trí mà lại thượng lên xe hươu, xe dê ư ?
Đáp : giải thoát khỏi các nỗi khổ, mới gọi là nhập Hóa thành. Nhị thừa không có Chủng trí, nên chẳng “thượng” xe hươu, xe dê. Thêm nữa về giải thoát th́ ba thừa đều cùng diệt khổ. Họ (chỉ nhị thừa) cũng được dự phần mang danh là Nhập. Song Chân trí chủng loại chỉ riêng Phật mới viên măn. Cho nên tuy họ cũng được dự phần giải thoát nhưng chẳng gọi là “thượng”. Xét về lư, thực ra không có ǵ khác cả. Thêm nữa, nhân quả, Hoặc chướng họ đều trừ cả, nên giải thoát Hóa thành gọi là tạm nhập. Nhưng nhân quả Trí chướng họ chẳng diệt, nên chẳng nói là được Chủng trí.
*
-Kinh văn : “V́ thuyết Phật trí tuệ”  tới   “mà tế độ chúng sinh !”. 
Tán rằng : dưới đây là đoạn thứ tư gồm 18 tụng rưỡi, tụng về mục thứ ba “Y vào những nghĩa ǵ”. Trong đó có hai phần :
• 1 tụng rưỡi, tụng về việc nêu lên một đại sự. 
• 17 tụng, tụng về Khai Thị Ngộ Nhập đă nói ở trên. 
Đây là phần đầu. 
Trí tuệ của Phật như trên đă nói tổng cộng có 5 loại. Nay đây chỉ thuyết về Phật quả nhị pháp Bồ đề, Niết bàn. Trí tính, Tuệ dụng gộp lại gọi là Trí tuệ. 
Hoặc chỉ là chân trí, chẳng chấp chân như.  Phật xuất thế là để nói rơ một thứ này, khiến chúng sinh hăm hở đi theo. Chỉ có một Thực này là cứu cánh cực quả Thắng diệu vô thượng. C̣n nhị thừa th́ thể chẳng phải là chân cực cứu cánh Thắng diệu. Nên phần hạ văn của kinh này dùng năm độ trước kia để so đọ với kinh này, v́ chẳng thuyết về Bát nhă, nên rốt cuộc chẳng dùng Tiểu thừa để tế độ chúng sinh.
Hoặc là một sự này chỉ nói về Trí tính. Trong Kinh Niết Bàn phẩm Sư Tử Hống nói : “ Phật tính tức Không, Không tức Trí tuệ. Do đó Trí tính cũng gọi là Trí tuệ”. Nay ở đây phần nhiều lấy cách giải thích đầu tiên làm chính, v́ nhị thừa không có, nên đă nói là “ c̣n nhị thừa th́ chẳng phải là chân cực...” 
Cho nên biết rằng “chẳng phải là phá Tam”, mà là “hội Tam quy Nhất”, nghĩa là gom cả ba cái lại để quy về một cái. 
*
-Kinh văn : “Phật tự trụ đại thừa”  tới  “lấy đó  độ chúng sinh”. 
Tán rằng : 17 tụng ở dưới là tụng về Khai Thị Ngộ Nhập, chia làm bốn :
a. 1 tụng về Khai. b. 5 tụng về Ngộ.
c. 1 tụng về Nhập. d. 10 tụng về Thị.
Đây là phần đầu. 
Đại thừa gom cả chân lư Chánh trí, nhờ đó Phật thân hằng an xử ở Niết bàn Bồ đề này, gọi là Trụ. 
Trụ có nghĩa là y chỉ an xử. 
Sở đắc chỉ là Pháp thân chân lư. 
Hoặc là đại thừa chỉ lấy chân lư Chánh trí chứng hội, đó gọi là Trụ, v́ Pháp thân đó muôn đức đầy đủ chân đức tính. Cho nên Báo thân Phật đă từng dùng vô lượng Định Tuệ để trang nghiêm đúng như Pháp thân lư mà Phật đă chứng được.
Định tức là Phúc. Tuệ tức là Trí vậy. Nhiếp tŕ hết thảy mọi đức hữu vi, trong tỏ chân lư Niết bàn đă măn, chân trí bèn sinh, đầy đủ Phúc Tuệ trang nghiêm, Bồ đề lại măn, đức của bản thân đă vẹn. Nên dùng hai pháp mà khơi gợi cho chúng sinh, đó gọi là Độ. Nói rơ hai thể tính là vô thượng, nên khiến cho chúng sinh ưa thích.
*
-Kinh văn : “Tự chứng đạo vô thượng”  tới  “sự này ø chẳng thể được!”. 
Tán rằng : dưới có 5 tụng, tụng về Ngộ. Trong đó chia làm ba : 
- 1 tụng rưỡi nói rơ lư B́nh đẳng. 
- 2 tụng rưỡi nói rơ Thắng đức. 
- 1 tụng, tụng về khiến cho giác ngộ.
 Đây là phần đầu. 
Đạo vô thượng, đó là chánh trí, v́ là thù thắng. 
Vô thượng đại thừa, đó là chân lư, v́ là thù thắng. 
Ở đây có hai ư :
a) Từ “Vô thượng” quán thông cả hai xứ (đạo và thừa).
b) Đều b́nh đẳng, không chấp Năng, Sở, v́ không có sự khác biệt Tự và Tha, Vật và Ngă.
Thêm nữa, đại thừa tức là Đạo vô thượng, v́ vận dụng thắng. Phật đă chứng lư trí b́nh đẳng đó th́ làm ǵ c̣n có Tự, Tha, Vật, Ngă hai loại khác biệt. 
Nội trí nếu chẳng b́nh đẳng th́ tự ḿnh chấp lấy đại thừa. Ngoại trí nếu chẳng b́nh đẳng th́ khiến người khác chấp lấy tiểu thừa. Thế th́ đoạ vào tội Xan pháp (bủn xỉn về pháp), tham cầu danh lợi, Hoặc vẫn chưa hết, làm sao có thể gọi là chứng được Chính giác đại thừa chở rộng hết thảy. Thế là chẳng được.
*
Kinh văn : “Nếu người nào tin Phật” tới “mà riêng không có sợ”. 
Tán rằng : dưới đây là 2 tụng rưỡi nói rơ Thắng đức, có hai phần : 
• 1 tụng rưỡi đầu nói rơ cái đức trong th́ ĺa nhiễm không có điều ǵ sợ sệt.
• 1 tụng sau nói rơ cái đức ngoài th́ trang nghiêm, thuyết Thực pháp.
Đây là phần đầu. 
Nếu người nào tin Phật, đó là bắt đầu phát tâm.
Qui Phật có nghĩa là sau đó tu chính hạnh. Như Lai chẳng phải v́ kẻ kia xúc phạm  dối nạt khinh rẻ mà chẳng truyền thụ pháp đại thừa, chỉ giáo hóa cho họ bằng pháp tiểu thừa, cũng chẳng lừa phỉnh họ, ban đầu hứa cho họ pháp đại thừa mà sau lại chẳng cho.
V́ sao vậy ? V́ Phật không tham lam tiếc rẻ đại thừa mà lừa dối chẳng cho, cũng không ghen ghét sợ họ chứng Đại mà dối lừa họ, v́ Phật đă đoạn được điều ác trong mọi pháp. Ác đây là phiền năo, nghiệp, khổ v́ sinh tử ác pháp đều đă đoạn hẳn. Đă không có các sự như đă nói trên, chính trí viên măn, nên ở mười phương đều không có điều ǵ sợ sệt, làm Sư tử gầm : “Ta là bậc Nhất thiết trí, Nhất thiết kiến, B́nh đẳng hóa”. 
Nếu có các sự nói trên, ác đă chưa hết, trí quả chưa tṛn, th́ làm sao mà có thể cất tiếng gầm vô úy ở mười phương được ? Cho nên trong tục ngữ có câu : “Cha thấy con giỏi, tiếc chẳng có nhiều con”. Tự ngoài nào tiếc, nên không tham lam ghen ghét.
*
-Kinh văn : “Ta dùng tướng nghiêm thân”  tới  “v́ thuyết Thực tướng ấn”.
Tán rằng : đây là nói rơ đức ngoài trang nghiêm, thuyết Thực pháp. 
H́nh hài tướng hảo đoan nghiêm thân ḿnh. Thân quang, trí quang lại có thể soi sáng hai loại thế gian : Khí thế gian và Chúng sinh thế gian. Do đó mà người thế gian đều tôn kính ta, gọi ta là Thế Gian Giải. 
Nếu trong có nhiễm, th́ ngoài không có tướng này. Ngoài hiện tướng này, chứng tỏ trong không có nhiễm. Cho nên nay ta thuyết Thực tướng ấn. 
Thực tướng ấn là chỉ cái lư Nhị Không của đại thừa, v́ Lư ấn này ấn Đại giáo. Đại thừa dứt khoát là thắng thực, chứ chẳng phải là quyền như trong tiểu thừa thuyết ba pháp ấn, ấn định giáo pháp.
*
-Kinh văn : “Xá Lợi Phất nên biết”  tới  “bằng như ta không khác”. 
Tán rằng : một tụng này ,tụng về khiến Ngộ.
“Ngươi nên như ta ngộ chân trí đại thừa mà trước kia ngươi chẳng biết, ta xưa đă đặt lời thệ nguyện sao cho hết thảy chúng sinh được như ta không khác, ta nguyện khiến họ tỏ ngộ”. 
Nguyện đây có nghĩa là lấy Tín Dục thắng giải làm Tính.
*
-Kinh văn : “Như ta xưa đă nguyện”  tới  “đều khiến nhập Phật đạo”. 
Tán rằng : một tụng này, tụng về khiến Nhập. 
Nay quả đă măn, đă toại nguyện xưa, nên hóa độ cho chúng sinh nhập vào Phật đạo. 
Đạo đây có nghĩa là Nhân. V́ khiến nhập vị Bát địa hoặc Sơ địa chẳng thoái chuyển, đó là Nhân để thành quả Phật.
*
-Kinh văn : “Nếu ta gặp chúng sinh” tới “mê hoặc, chẳng thụ giáo”. 
Tán rằng : dưới có 10 tụng, tụng về Thị. Có hai phần :
• Đầu tiên là 8 tụng, tụng về Thị, ư ban đầu bất đồng.
• Sau đó là 2 tụng, tụng về Thị, ư sau lại tương đồng.
 Phần đầu lại có ba : 
- 1 tụng biểu thị ư bất đồng.
- 6 tụng biểu thị tướng bất đồng.
- 1 tụng kết luận về bất đồng.
 Đây là phần đầu. 
Nếu chỉ dùng đại thừa để giáo hóa hết thảy chúng sinh th́ : 
- Đối với hạng trí giả th́ có thể như thế được.
- Nhưng hạng ngu si vô trí th́ sẽ học sai làm bậy, tâm mê muội chẳng tin, nghi hoặc phỉ báng, hoạt bát ngược lại càng tăng thêm điều ác, không thể tiếp nhận được, cũng ví như đổ chén nước vào chỗ lơm trên đường rồi thả cái chén vào th́ chén sẽ bị mắc cạn vậy, do đó lại càng tăng thêm cái lỗi của người ngu.
Cho nên chẳng giáo hóa thuần bằng đại thừa.
*
-Kinh văn : “Ta biết chúng sinh này” tới “v́ si ái sinh năo”. 
Tán rằng : dưới có 6 tụng chỉ rơ tướng bất đồng. Trong chia làm hai phần :
• Phần đầu là 1 tụng nêu rơ v́ không thiện có ác, cho nên bất đồng.
• Phần sau là 5 tụng giải thích v́ có ác không thiện, nên bất đồng.
 Đây là phần đầu.
Chưa từng tu thiện bản : tức là thiện căn phương tiện xuất thế, từ vô thủy tuy có khởi lên nhưng phần nhiều là tăm tối hèn kém, chỉ sinh được thiện mà không có nhân vô lậu, do đắm trước năm cảnh, kiên chấp chẳng chịu xả bỏ, lấy đó làm duyên, Si liền phát nghiệp, Ái liền nhuận sinh. Cho nên mọi khổ năo, khổ thụ thuộc các chi sinh, lăo, bệnh, tử trong các lần sinh tử càng thêm tăng trưởng.
Do không có thiện bản làm phương tiện xuất thế, nhưng lại có hai thứ Si Ái làm nhân khiến đắm trước năm Dục cảnh chẳng chịu xả bỏ. Phát nghiệp vô minh phần nhiều do mê ở trong mà phát. Nhuận sinh tham ái phần nhiều do năm Dục mà sinh. 
Nay căn cứ vào Dục giới, vô minh phát nghiệp, gọi chung là Trước Dục, v́ nhấn mạnh vào  chỗ nghiêm trọng vậy.
*
-Kinh văn : “V́ nhân duyên các dục”  tới  “đời đời thường tăng trưởng”. 
Tán rằng : dưới là 5 tụng giải thích v́ có ác không thiện nên bất đồng. 
Trong có hai phần : 
-  Phần đầu là 4 tụng nói về có ác nên bất   đồng. 
- Phần sau là 1 tụng nói về không thiện nên bất đồng. 
Trong phần đầu lại chia làm hai :
a) Đầu tiên là 1 tụng rưỡi, nói rơ do ở trong ṿng trần tục, đắm đuối năm Dục, cho nên bất đồng. 
b) Sau đến 2 tụng rưỡi, nói rơ v́ cầu tà xuất ly, hành sai học nhảm, nên bất đồng.
Phần đầu này do các Dục nên toàn khởi nghiệp bất thiện, sa đọa vào nẻo ác ; do tạp nghiệp nên luân hồi trong sáu nẻo, chịu đủ mọi nỗi khổ, v́ bốn loài sinh trưởng đều có nghiệp, v́ ba khổ, năm khổ, tám khổ bức bách.
Chỉ riêng về các nỗi khổ hiện tại trong một lần sinh mà bàn, cho nên nói rằng Vi h́nh thụ thai đời đời thường tăng trưởng. 
Vi : đây có nghĩa là bé nhỏ kém cỏi yếu ớt.
Thai : chỉ thai tạng, bất tịnh, bị quấn bọc đáng chán đáng ghét v́ sinh ra bé nhỏ kém cỏi.
 Du Già luận nói rằng : Mới thụ sinh th́ ở Trung hữu. Trung hữu dài nhất là bảy ngày sẽ mệnh chung.  Nhiều nhất chẳng qua chỉ trụ bảy lần bảy ngày (tức 7 x 7 = 49 ngày). 
Tạo nghiệp ác th́ Trung hữu như ánh dê đen hoặc như đêm tối. Tạo thiện nghiệp th́ như ánh áo trắng hoặc như đêm sáng. Tùy tướng sẽ sinh, sở trụ vô ngại, thấy đồng loại và nơi sẽ sinh của ḿnh.
 Kẻ tạo ác th́ mắt phải nh́n các thứ bất tịnh, sấp mặt mà đi. Nếu được sinh thiên th́ ngửa mặt hướng lên trên. Sinh vào cơi người th́ mặt nh́n ngang mà đi. Nếu gây tội bất luật nghi, phải sinh trong địa ngục, th́ nh́n thấy đồng loại cũ, mừng rỡ chạy đến rồi bị níu giữ mắc mớ. Cơi quỉ, loài bàng sinh chỉ toàn là khổ cũng thế. 
Nếu là tạp nghiệp khác, th́ tùy theo nghiệp thiện hay ác sinh trưởng chốn nào, đối với cha mẹ, tùy nam tùy nữ mà sinh ưu sinh hỷ. V́ nhuận đương sinh, nắm di thể của mẹ cha, lúc mê say liền bị níu giữ vướng mắc.
Trong ṿng bảy ngày th́ gọi là Kiết Thích Lam, ở phương đây gọi là Tạp uế. V́ cha mẹ bất tịnh ḥa hợp cùng nhau nên gọi là Tạp. Rất đáng chán ghét nên gọi là Uế – v́ đă ngưng kết như mũi tên nhưng trong c̣n lỗng.
Trong ṿng hai lần bảy ngày th́ gọi là Án Bộ Đàm, ở phương đây gọi là Bào (nốt phổng, nốt rộp, bọng nước), giống như mụn đậu, nốt phổng, trong ngoài chỉ như sữa đặc chưa thành thịt. 
Trong ṿng ba lần bảy ngày gọi là Bế Thi, ở phương đây gọi là Ngưng kết, v́ giống như  máu hơi đông. Tây Vực gọi máu là Bế Thi,  như đă thành thịt, nhưng c̣n rất mềm nhũn.
 Trong ṿng bốn lần bảy ngày th́ gọi là Kiện Nam, ở phương đây gọi là Ngưng hậu, v́ dần dần đông cứng, như đă rắn chắc hơi đụng chạm được.
 Trong ṿng năm lần bảy ngày th́ gọi là Bát La Xa Khư, ở phương đây gọi là H́nh vị, v́ giống như cục đất nhăo có tướng năm phần : một thân liền với tứ chi (chỉ chân tay), Phong đại ở trong đánh ra bên ngoài mà sinh căn h́nh có tướng sai biệt, tức là cục thịt trước kia tăng trưởng, hiện thành tướng các chi phần.
 Trong ṿng sáu lần bảy ngày th́ gọi là Phát Trảo Vị, v́ lông tóc mọc.
 Trong ṿng bảy lần bảy ngày th́ gọi là Cụ Căn Vị, v́ năm căn đă hiển hiện viên măn minh thịnh.
 Sau đây chừng ba tháng nữa, mọi thứ thành tựu dường chẳng tăng giảm. Cứ như vậy cả thảy trải qua ba mươi tám lần bảy ngày th́ viên măn ở trong bụng. Lại qua bốn ngày nữa th́ đầu quay chúc xuống dưới, hai chân hướng lên trên. Nhau bị rách ra, bức xuống lỗ đẻ, mọi nỗi khổ sở bấy giờ bức bách.
 Hoặc do nghiệp trước mẹ ăn tro ăn muối, con sinh ra lông tóc lơ thơ. Hoặc do nghiệp trước mẹ ăn thứ nóng sốt, con sinh ra đen đủi hoặc màu đỏ hỏn. Hoặc do nghiệp trước mẹ ăn thứ lạnh hoặc gần pḥng lạnh, con phần nhiều trắng bệch. Nếu mẹ quen thói dâm dục th́ con sinh ra bị nhiều nhọt, sảy, chốc, lở. Nếu mẹ hay nhảy nhót, uy nghi chẳng tốt, th́ chi của con khuyết giảm, quấn quắp chẳng yên. Nam th́ ở  bên lườn phải dựa vào bụng, hướng vào xương sống. Nữ th́ ở bên lườn trái dựa vào cột sống, hướng vào bụng.
 Tùy ở cha mẹ sinh ái nhiễm mà lúc đầu vơ lấy thứ bất tịnh của cha mẹ để làm thân, sau đó lấy thứ bất tịnh của mẹ để giúp cho sự tăng trưởng. Hiện duyên đă thế, nên nghiệp chẳng thiện, cảm thụ trăm ác, lấy 36 vật bất tịnh làm Thể. Thân ác như thế chẳng đáng yêu thích, luân chuyển không cùng, gọi là đời đời tăng trưởng.
*
-Kinh văn : “Người ít phúc đức mỏng”  tới  “xiểm nịnh tâm chẳng thực”. 
Tán rằng : đây là 2 tụng rưỡi, nói về việc cầu tà xuất ly, làm sai học bậy, nên bất đồng. 
Ở đây có hai cách phân chia :
- Cách đầu :
• 1 tụng rưỡi đầu, thuyết minh về việc khởi Thân kiến, Biên kiến, Tà kiến, thành 62 kiến.
• 1 tụng sau, nói về việc nhân khởi kiến giới thủ, mà các hoặc khác nảy sinh.
- Cách sau : 
•1 tụng đầu, thuyết minh chung về khởi năm kiến. 
•1 tụng rưỡi sau, thuyết minh riêng về khởi năm kiến.
 Các chúng sinh kia từ thời vô thủy tới nay v́ đức mỏng phúc ít nên bị khổ bức bách, tuy cầu xuất ly, nhưng chẳng ngộ tà chính, lầm nhập bất chính kiến ngoại đạo. Hành sai học sai th́ gọi là Tà kiến, năm kiến đều tà. Đây y vào cách phân chia sau.
Chẳng phải cứ Bát vô (trừ bỏ không c̣n ǵ nữa) mới gọi là Tà kiến. Tà kiến phiền năo níu giữ ngăn ngại chúng sinh, khiến họ khó thể xuất ly, chẳng thể giải thoát, đó gọi là Trù lâm (rừng rậm). Đây là Tổng kiến, sau mới nêu riêng.
 “Dù hữu, vô, vân vân” : câu này có hai cách giải thích : 
- Nếu căn cứ vào cách phân chia sau th́ :
•Bốn kiến trong 5 kiến, là Hữu, v́ đều chấp hữu.
•Tà kiến là Vô, v́ phần  nhiều Bát vô.
 “Vân vân” : chỉ rơ nhiều loại phiền năo.
Nếu căn cứ vào cách phân chia đầu th́ :
•Tà kiến trù lâm là Tà kiến Bát vô. 
•Nếu là chấp Hữu, th́ chấp thân sau của ta là có, đó là Thường kiến. Nếu là chấp Vô, th́ chấp thân sau của ta là không, đó là Đoạn kiến. Hai thứ này là Biên kiến. 
“Vân vân” là chấp thủ Thân kiến, Kiến thủ, Giới thủ. 
Do 62 kiến lấy hai thứ Tà kiến Biên kiến làm tự thể, nên nêu riêng ra, lấy hai kiến c̣n lại làm quyến thuộc, y ở Thân kiến làm căn bản. Nói rộng ra th́ như chương 62 kiến đă nói. 
62 Kiến là những ǵ ? Tụng rằng :
Hai, bốn, tám mươi kiếp  Thấy sinh tử biến thường
Phạm dư Đại chủng tâm  Hí Phẫn Nhuế, nhất phần
Hữu sắc, Hữu biên đều  Ở sinh tử tưởng địa
Một loại, Tiểu, Vô lượng  Hữu tưởng gồm Thuần lạc
Tức Hữu sắc, Hữu biên  Sinh Vô tưởng đều phi 
Nhân dục, Thiên sắc giới  Bốn Vô sắc đoạn diệt 
Lặn từ Vô tưởng thiên  Tầm Tứ, chấp vô nhân
Nhớ trên dưới, cạnh đủ  Cùng Hoại kiếp, Hữu biên
Sợ, vô tri, xiểm nịnh  Lo sợ, sinh kiểu loạn
Nhân dục, Thiên dục lạc  Bốn tĩnh lự Niết bàn.
Trong các kiến này, mấy thứ thuộc về quá khứ cơi trước, mấy thứ thuộc về vị lai cơi sau, mấy thứ hiện tại thông với cả hai cơi khắp cả một phần. Vô nhân, biên, kiểu loạn thuộc cơi trước. C̣n 44 thứ khác đều là các kiến thuộc cơi sau.
62 kiến này, kinh luận đều nói là bao gồm trong hai loại Tà kiến và Biên kiến.
 Mỗi loại bao gồm những kiến nào ? 
Biến, Nhất phần mỗi loại 4; Hữu tưởng thành 16; Vô câu phi mỗi loại 8;  7 Đoạn, đó đều là Biên kiến. 
C̣n nhị Vô nhân, Biên, Tà, Loạn mỗi thứ 4 và 5 hiện Niết bàn luận đều thuộc về Tà kiến. 
Do chấp Thần ngă, khởi ngă kiến rồi th́ khởi 62 kiến như vậy.
 Sau khởi các pháp Kiến thủ chấp kiến v.v… , v́ thắng trội làm nhân, lại khởi các pháp Giới thủ chấp giới làm nhân thắng trội, chấp trước các vọng pháp đó chẳng hề chịu bỏ, ngă mạn tự thị khoe khoang tự cao mà lấn lướt khinh miệt người khác, đối với người ḿnh coi là thầy th́ xiểm nịnh, tán thán lẫn nhau, giả dối để cầu danh lợi, tâm không hề thật. V́ đắm Dục trước Tà như vậy, nên chẳng thể đáng được giáo hóa bằng Đại pháp ngay.
*
-Kinh văn : “Trong ngàn vạn ức kiếp”  tới   “người như vậy khó độ”.
Tán rằng : một tụng này, tụng về “V́ không thiện, nên bất đồng”. 
Người thiện đều tu hành bốn thân cận :
1) Thân cận thiện hữu. 
2) Chịu nghe chính pháp.
3) Như lư tư duy. 
4) Tu hành như thuyết.
C̣n hạng ác nhân này ngàn vạn ức kiếp chẳng nghe danh Phật th́ làm sao mà được thân cận hết thảy thiện hữu, v́ đă chẳng thấy Phật, cũng chẳng nghe Pháp. Đă không có nhân ban đầu văn Tuệ nhập Pháp th́ lẽ nào lại có thể tư duy tu tập được ! Người như vậy rất là khó độ, làm sao mà ngay từ đầu đă giáo hóa cho họ bằng đại thừa được.
*
-Kinh văn : “Vậy nên ! Xá Lợi Phất”  tới  “bày cho họ Niết bàn”. 
Tán rằng : đây là kết về bất đồng. 
Do những nguyên nhân như vậy nên đặt ra phương tiện, đầu tiên khai thị cho họ về Niết bàn để khiến họ hết khổ.
*
-Kinh văn : “Ta tuy thuyết Niết bàn”  tới  “khai thị tam thừa pháp”. 
Tán rằng : trên đă nói rơ : thoạt đầu th́ bất đồng. Hai tụng này chỉ rơ sau th́ khiến đồng, khuyên bỏ thân giải thoát, lấy thân Phật pháp. Niết bàn nhị thừa đă thuyết giống như Hóa thành, đó chẳng phải là chân diệt, v́ Pháp từ vô thủy, tính đă thường tịch, tức là Niết bàn tự tính thanh tịnh.
Tính ĺa ngôn thuyết, Pháp chẳng phải là nay mới có. Như Bảo sở kia, đó mới chính là chân diệt. Chân diệt đă thế. Nên chi, hành đạo rồi đời sau chứng pháp bản tính diệt này, được thành Phật đạo. Ta vốn trí tuệ, khéo dùng phương tiện, đầu tiên mở ra hai quyền, sau mới chỉ ra một thực, gọi chung là Khai thị Pháp ba thừa.

-Kinh văn : “Tất cả các Thế tôn” tới “chỉ nhất không nhị thừa”. 
Tán rằng : dưới là đoạn thứ năm gồm 70 tụng rưỡi, tụng về Y pháp, đó là mục thứ năm, có ba phần :
- 1 tụng rưỡi, tụng về mười phương Phật pháp.
- 38 tụng rưỡi, tụng về ba đời Phật pháp.
- 30 tụng rưỡi, tụng về ta cũng như  vậy.
Đây là phần đầu : đă chỉ có nhất thừa, không có nhị thừa th́ làm sao mà phá tam để quy nhất nữa ! 
*
-Kinh văn : “Quá khứ vô số kiếp”  tới  “số ấy chẳng thể lường”. 
Tán rằng : dưới là 38 tụng rưỡi, tụng về ba đời, trong chia làm ba :
- 27 tụng rưỡi, tụng về quá khứ.
- 6 tụng rưỡi, tụng về vị lai.
- 4 tụng rưỡi, tụng về hiện tại.
Trong phần đầu lại có hai : 
a) 4 tụng rưỡi đầu tụng về Phật thuyết pháp, trước quyền sau thực.
b) 23 tụng sau, tụng về chúng sinh nghe pháp, cứu cánh đều được nhất thiết chủng trí.
Trong phần đầu này lại chia làm bốn :
+ 1 tụng :  Phật nhiều.
+ 1 tụng :  khai Quyền.
+ 1 tụng :  hiển Thực.
+ 1 tụng rưỡi : giải thích dụng ư khai quyền hiển thực.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Các Thế tôn như vậy”  tới  “diễn thuyết tướng các pháp”. 
Tán rằng : đây là thuyết minh về khai quyền nói trong phần đầu.
*
-Kinh văn : “Các đức Thế tôn đó”  tới  “khiến đều nhập Phật đạo”. 
Tán rằng : đây là thuyết minh về hiển thực nói trong phần sau.
*
-Kinh văn : “Và các đại Thánh chúa”  tới  “giúp bày đệ nhất nghĩa”. 
Tán rằng : đây là giải thích nghĩa của khai quyền hiển thực. V́ biết rơ các chúng sinh chưa thể học ngay giáo pháp nhất thừa, biết rơ căn dục của họ, cho nên đầu tiên dùng Quyền phương tiện để giúp cho việc nói rơ về nhất thừa, sau đó mới khiến họ nhập Thực. 
Thêm nữa, Bồ tát căn tính có hai loại : một là Bất định tính, hai là Định tính. 
Thuyết cho hạng Bất định tính, th́ trước quyền sau thực, nêu rơ nhất thừa. Đó là hai tụng trên. 
Đối với hạng Định tính th́ thuyết cho họ Đốn giáo nhất thừa. Đó là đoạn văn này. 
Có nghĩa là biết rơ tâm tính chúng sinh muốn ngay, nên dùng phương tiện khác, chẳng từ quyền lấy thực, mà giúp ngay nhất thừa. Nhất thừa tức là Đệ nhất nghĩa đế chân như v.v…
Trước ba sau một là phương tiện quyền thực. Thuyết ngay nhất thừa, nên gọi là phương tiện khác.
*
-Kinh văn : “Nếu có loài chúng sinh”  tới  “đều đă thành Phật đạo”. 
Tán rằng : dưới là 23 tụng, tụng về chúng sinh nghe pháp, cứu cánh đều được Nhất thiết chủng trí. Chia làm ba :
• Phần đầu là 2 tụng, tụng về Phật tại.
• Sau 20 tụng, tụng về sau khi Phật diệt.
• Cuối cùng là 1 tụng : kết luận.
Đây là phần đầu : gặp Phật nghe pháp, tu hành Lục độ, Tứ nhiếp, Vô lượng v.v… gọi là chủng chủng phúc đức. V́ tu hạnh Bồ tát là nhân để thành quả Phật, nên đều đă thành đạo.
*
-Kinh văn : “Chư Phật diệt độ rồi”  tới  “đều đă thành Phật đạo”.
Tán rằng : dưới là 20 tụng, tụng về sau khi Phật diệt độ. Chia làm năm phần :
a) 1 tụng về từ tâm.
b) 4 tụng rưỡi nói về việc xây tháp.
c) 6 tụng rưỡi nói về việc tạc tượng.
d) 7 tụng nói việc cúng dàng.
e) 1 tụng về xưng tán Phật.
Đây là phần đầu : có thiện mà cương cường th́ cũng chẳng phải là Bồ tát. Tâm nhu nhuyễn nhưng chẳng thiện cũng chẳng phải là Bồ tát. Cần phải vừa thiện vừa nhu nhuyễn, mới là tâm Bồ tát. Cho nên thuận theo lư, làm lợi cho ngoại vật, cực kỳ nhu ḥa là đă gây được nhân Phật để thành Phật đạo. 
Đoạn văn sau là căn cứ vào sự tu hành sau khi Phật diệt độ, v́ là khó làm, là biệt hành. Chứ chẳng phải là khi Phật tại thế th́ làm các hành này và chẳng phải là nhân Phật, chỉ cốt ở chỗ dễ tu.
Theo Lục độ ở trên th́ hành sau khi Phật diệt độ là tổng hành, nên cũng thành Phật đạo.
*
-Kinh văn : “Chư Phật diệt độ rồi”  tới  “trang nghiêm nơi các tháp”. 
Tán rằng : dưới là 4 tụng rưỡi, nói về tạo tháp thành Phật. Chia làm hai :
a) 4 tụng đầu nói rơ việc xây tháp.
b)  Nửa tụng sau là kết luận.
Phần đầu lại chia làm ba :
- 2 tụng đầu nói về việc xây tháp, số lượng nhiều, trang hoàng bằng bát trân (tám thứ quư) lộng lẫy.
- 1 tụng nói về dùng chín vật mà làm tháp.
- 1 tụng nói tới mức thấp nhất là cười đùa dùng vật kém cỏi để làm tháp.
Đây là phần đầu.
Phật Địa luận đếm bảy thứ báu, không có mai khôi. Nhưng pha lê khác với hạt châu.
Châu : chỉ trân châu đỏ. Nay đây nếu coi lưu ly là châu, th́ là thất bảo. Nếu không thế th́ là bát trân, v́ lưu ly khác với châu. 
Pha lê phần nhiều màu trắng hồng. Xà cừ th́ màu xanh màu trắng xen lẫn nhau. Mă năo th́ nhiều màu, hoặc thuần trắng, hoặc thuần xanh vàng, hoặc nhiều màu xen nhau. Mai khôi th́ màu đỏ.
Theo sách Thuyết Văn, th́ đó gọi là Hoả tề châu. Có thuyết nói rằng : đá quư đẹp th́ gọi là mai; c̣n tṛn và đẹp th́ gọi là khôi. C̣n các thứ khác, có thể biết được. 
Trong Kinh Tăng Nhất A Hàm, Phật bảo : “Này các Tỳ kheo ! Ta nay sẽ thuyết về bốn Phạm phúc : một là nếu có các thiện nam tử tín tâm, xây được tháp ở nơi chưa từng dựng tháp. Hai là tu bổ giữ ǵn chùa cũ. Ba là ḥa hợp thánh chúng. Bốn là khi Phật mới thành đạo th́ các trời, người v.v… thỉnh Phật chuyển Pháp luân. Đó gọi là bốn Phạm phúc”. Tỳ kheo hỏi Phật Phạm phúc nhiều ít thế nào ? Phật dạy : “tất cả phúc đức của Tứ thiên hạ và Lục dục thiên cũng chẳng bằng được phúc của một Phạm vương. Đặc biệt khuyên hăy dựng tháp, sẽ được Bồ đề”.
*
-Kinh văn : “Hoặc có dựng miếu đá”  tới  “gạch ngói, và bùn đất v.v…” 
Tán rằng : đây là 1 tụng nói về việc dùng chín vật để làm tháp. 
Miếu đá : chỉ Phật đường bằng đá. Thời cổ gọi là Chi đề, nay gọi là Chế đa, dịch nghĩa là Linh miếu (miếu thiêng). Phải là chữ Miếu, tức là Miếu mạo vậy. 
Sách Bạch Hổ Thông Ngọc Thiên nói : là nơi sở tại của tôn mạo tổ tiên, nên gọi là miếu.
 * “Mộc mật” : theo Tự Lâm, đó là loại gỗ thơm. Chữ Mật, sách Thiết Vận viết là [            ], Ngọc Thiên viết là [          ]. Loại cây này giống như cây hoè nhưng mùi hương cực thơm. Chặt rồi để 5 năm mới dùng. Nếu lấy hương th́ phải nghiền ra, để lâu th́ mùi thơm mới toả ra.
*
-Kinh văn : “Nếu ở trong đồng rộng”  tới  “đều đă thành Phật đạo”.
Tán rằng : đầu là 1 tụng nói về việc cười đùa dùng các vật kém cỏi mà làm tháp, đó là mức thấp nhất. Sau là nửa tụng dùng làm kết luận. 
Luận rằng : người vun cát lại thành tháp Phật đă thành Phật đạo, đó là chỉ người phát tâm Bồ đề, tu hành hạnh Bồ tát, thiện căn đă làm có thể chứng được Bồ đề. Chứ chẳng phải là chỉ các phàm phu cùng hạng quyết định chủng tính Thanh văn  chưa phát tâm Bồ đề mà có thể chứng được. Như vậy cho đến “cùng mức thấp là hơi cuối đầu v.v…” ở đoạn văn trên cũng như thế.
*
-Kinh văn : “Nếu như người v́ Phật”  tới  “đều đă thành Phật đạo”. 
Tán rằng : dưới là 6 tụng rưỡi, thuyết minh về việc tạo tượng. Trong có hai :
• 5 tụng đầu nói về tạo.
• 1 tụng rưỡi cuối là kết. 
Phần đầu lại chia làm bốn :
- 1 tụng về việc điêu khắc.
- 2 tụng về mười vật để trang sức..
- 1 tụng về việc vẽ lụa màu (làm tượng Phật).
- 1 tụng về việc đùa làm (tượng Phật). 
Đây là phần đầu : nói rơ là làm tượng Phật chứ chẳng phải làm tượng khác. Cho nên nói là v́ Phật. V́ cầu làm Phật, v́ kính nhớ Phật nên gọi là v́ Phật. Lại nói : v́ Phật mà làm các tượng, để trang nghiêm Phật, đó gọi là v́ Phật. 
Kinh Tạo Tượng Công Đức nói tạc tượng được 11 loại quả :
1) Đời đời sinh ra hai mắt tinh khiết, mặt mũi ngay ngắn.
2) Sinh xứ không ác.
3) Thường sinh ở quư gia.
4) Thân thể đẹp đẽ màu vàng tía.
5) Thường có nhiều đồ chơi quư báu.
6) Sinh ở nhà hiền thiện.
7) Sau sinh làm vua thắng trội nhất trong các vua. 
8) Làm Kim luân hoá vương.
9) Sau sinh ở Phạm thiên thọ mệnh một kiếp.
10)  Chẳng theo đường ác.
11)  Trong lần sinh sau vẫn trọng Tam bảo, thích đem vật tốt lại làm công đức tạo tượng nữa.
Một Phạm phúc nhiều gấp mười lần biển lớn của Tứ thiên hạ.
*
-Kinh văn : “Hoặc dùng bảy báu làm”  tới  “đều đă thành Phật đạo”. 
Tán rằng : 2 tụng này nói về việc dùng mười vật trang sức để làm tượng.
* Sách Thiết Vận nói : Diên (ch́) tức là Tích (thiếc). Có thuyết nói : thiếc là loại ở giữa bạc và ch́,  Ngọc Thiên nói : đó là loại thanh kim (kim loại màu xanh).
*
-Kinh văn : “Vẽ vời làm tượng Phật”  tới  “đều đă thành Phật đạo”. 
Tán rằng : đây là tụng về vẽ tượng Phật.
*
-Kinh văn : “Cho đến trẻ con đùa” tới “mà vẽ thành tượng Phật”. 
Tán rằng : đây là tụng về đùa mà làm (tượng Phật).
*
-Kinh văn : “Những hạng người như vậy”  tới “độ thoát vô lượng chúng”. 
Tán rằng : đây là kết. Người có đầy đủ tâm Đại bi, làm bất cứ việc thiện ǵ, cũng ắt phải mang Bi tâm mới thành “tới bờ bên kia”, cho nên thành Phật đạo.
*
-Kinh văn : “Nếu người nơi tháp miếu” tới “ḷng kính mà cúng dàng”. 
Tán rằng : dưới có 7 tụng thuyết minh về cúng dàng. Có hai phần :
 Phần đầu là 5 tụng rưỡi thuyết minh về cúng dàng.
 Phần cuối là 1 tụng rưỡi, đó là kết luận.
Trong phần đầu lại chia làm 5 :
+ 1 tụng về sự cúng dàng bằng 4 vật.
+ 1 tụng rưỡi nói về sự cúng dàng bằng âm nhạc.
+ 1 tụng nói về sự cúng dàng bằng ca bối (chỉ việc tụng niệm kinh kệ).
+ 1 tụng nói về việc cúng dàng bằng hoa.
+ 1 tụng về cúng dàng bằng thân nghiệp (thực hành cung kính). 
Đây là 1 tụng phần đầu :
Phát Bồ Đề Tâm Kinh nói rằng : “Nếu bố thí bằng hoa th́ được hoa Thất giác, bố thí bằng hương th́ được hương Năm phần pháp thân, bố thí bằng phướn th́ được Đà la ni chuyển các điều ác, bố thí bằng lọng th́ được Bốn vô lượng che cho chúng sinh”. 
Nghiệp Báo Sai Biệt Kinh nói : “Mỗi loại bố thí đều được mười đức”.
*
-Kinh văn : “Nếu sai người tấu nhạc”  tới  “đem hết để cúng dàng”. 
Tán rằng : đây là cúng dàng bằng âm nhạc. 
* Chữ “Nhạc” [
]  có âm đọc là Nhạo, v́ làm cho người ta sinh ra vui thích. C̣n có âm đọc là Lạc. Thời hoàng đế Linh Luân làm lấy chữ này làm Nhạc. 
Sách Thuyết Văn nói đó là tên gọi chung của năm thanh tám âm. 
Sách Lễ Kư nói rằng : Can thích vũ mao (chỉ giáo mộc lông vũ lông mao dùng để múa) đó gọi là Nhạc. 
Trịnh Huyền nói : Tám  âm hài ḥa th́ gọi là Nhạc.
“Cổ” (trống) : có nghĩa là động, là khua vang. Phàm phát ra tiếng th́ gọi là Cổ. Nay tang gỗ bịt da, động vào là kêu (đó gọi là Cổ) 
“Giác” (tù và) : là (nhạc cụ) h́nh cong giống như sừng thú. 
“Bối” : tức là loa (ốc biển). Kinh Niết Bàn nói : thổi loa để biết thời giờ.
 “Tiêu” : là ống quản (tức ống sáo). 
* Sách  Ngọc Thiên nói : ghép ống nhỏ lại để mà thổi. Chữ Tiêu c̣n viết là [      ].
“Địch” : có bảy lỗ. C̣n gọi là “Thược”, tục gọi là Trực. 
* Sách Ngọc Thiên có nói tới Trúc địch năm lỗ. Khương địch có ba lỗ.
 “Cầm” (đàn cầm) : có nghĩa là cấm, người quân tử giữ nếp chính đính, tự răn cấm ḿnh. Đàn cầm là do vua Thần Nông chế tác ra.
“Không hầu”: h́nh dáng như đàn tỳ bà, có thể biết được. 
“Kiểng” : cũng như cái Lệnh nhưng to hơn. 
* Sách Ngọc Thiên nói : đó là loại chiêng nhỏ.
Theo quân pháp, thập Lưởng cầm năo bạt. Năm người là một Ngũ, năm Ngũ tức 25 người là một Lưỡng. Quan Lưỡng tư mă cầm mơ. Năo bạt bằng đồng có hai mảnh đánh vào nhau thành tiếng. 
* Chữ Bạt có khi viết là [
], không biết nguồn gốc từ đâu, hoặc viết là [ ]. 
Kinh Phát Bồ Đề Tâm nói rằng : “Âm nhạc và nữ sắc không thể đem bố thí cho người, v́ sẽ làm loạn chúng sinh”. Đây đem cúng Phật, nên cũng chẳng sai trái, như việc cúng dàng âm nhạc của Kim Tạng (dân tộc Tạng ở nước Kim).
*
-Kinh văn : “Hoặc bằng tâm hoan hỷ”  tới  “đều đă thành Phật đạo”. 
Tán rằng : đây là chỉ việc cúng dàng bằng ca ngâm chúc tán, sẽ được giọng nói âm thanh của bậc Đại sĩ. 
Tiếng Phạm gọi là Bà Trắc. Ở phương đây gọi là tán thán. Phiên âm là Bối Nặc là phiên sai. 
Xưa Trần Tư  vương lên núi Ngư Sơn nghe tiếng tụng kinh từ động đá vang ra, âm thanh thánh thót ngân nga vang tận hang xa, bèn bắt chước âm thanh đó mà chế định ra Phạm Bối. Cho nên nay tục gọi đó là Ngư Phạm, ngầm hợp với tam khế thất thanh của Tây vực do Văn Câu Đê Nhĩ v.v… đặt ra.
*
-Kinh văn : “Nếu người tâm tán loạn”  tới  “dần thấy vô số Phật”. 
Tán rằng : đây là cúng dàng bằng hoa.
Cúng hoa có ǵ khác với bốn sự trên ? Đằng kia th́ chuyên thiện tâm, đằng này th́ với tán tâm. Cho nên chẳng trái ǵ nhau. Chỉ nói qua việc cúng tượng vẽ, cúng dàng tượng khác cũng được.
*
Kinh văn : “Hoặc có người lễ bái”   tới  “hoặc chỉ hơi cúi đầu”. 
Tán rằng : đây thuyết minh về sự cúng dàng bằng thân nghiệp : thực hành cung kính. Ca ngâm chúc tán nói trên là ngữ nghiệp. C̣n năng phát tâm tức là ư nghiệp. Ngoài ra đều là ngoại tài cúng dàng, Tam nghiệp hạnh cúng dàng.
*
-Kinh văn : “Lấy đó cúng dàng tượng”  tới  “như củi hết lửa tắt”. 
Tán rằng : đây là kết luận về cúng dàng.
*
-Kinh văn : “Nếu người tâm tán loạn”  tới  “đều đă thành Phật đạo”.
Tán rằng : đây nói về xưng tụng Phật, được làm Phật. Chỉ cử một lần xưng tụng c̣n được làm Phật huống hồ là xưng tụng nhiều. Như Kinh Dược Vương Dược Thượng nói rằng : “Ta thường xưng tụng năm mươi ba danh Phật, nên nay được làm Phật” tức là sự này. 
*
-Kinh văn : “Nơi các Phật quá khứ” tới “đều được thành Phật đạo”. 
Tán rằng : trong phần tụng về chúng sinh nghe pháp đắc chủng trí, đây là phần thứ ba kết : thành Phật đạo.
*
-Kinh văn : “Các Thế tôn vị lai” tới  “cũng phương tiện thuyết pháp” .
Tán rằng : dưới là 6 tụng rưỡi, nói về pháp thời vị lai, trong đó chia làm hai :
- Đầu tiên là 3 tụng rưỡi, nêu rơ pháp thời vị lai cũng giống như ngày nay : thuyết Thực.
- Sau đó là 3 tụng giải thích lại nghĩa trên.
Trong phần đầu lại chia làm ba :
+ 1 tụng nêu rơ : cũng giống như ngày nay, đầu 
 tiên là phương tiện.
+  1 tụng rưỡi nêu rơ : sau thành thuyết Thực.
+  1 tụng giải thích nguyên do trên. 
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Tất cả các Như Lai”  tới  “không ai  không thành Phật”. 
Tán rằng : tụng này nêu rơ : sau thành thuyết Thực, khiến người nghe pháp đều được thành Phật. Phật và chúng sinh cả hai gộp lại mà thuyết.
*
-Kinh văn : “Chư Phật vốn thệ nguyện” tới “cũng cùng được đạo này”. 
Tán rằng : đây là giải thích về nguyên do trên : do bản nguyện.
*
-Kinh văn : “Chư Phật đời vị lai”  tới  “kỳ thực là nhất thừa”. 
Tán rằng : dưới là 3 tụng giải thích lại nghĩa trước, chia làm hai :
• Đầu tiên là 1 tụng, nói rơ phương tiện lúc đầu đều v́ nhất thừa.
• Sau đến 2 tụng, nói rơ v́ liễu ngộ được xu hướng của các pháp ba tính, cho nên như vậy. 
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Chư Phật lưỡng túc tôn”  tới  “Đạo sư phương tiện thuyết”. 
Tán rằng : đây nói rơ do ngộ được xu hướng của các pháp ba tính, cho nên đầu tiên thuyết về quyền thừa, sau đó mới thuyết về nhất thừa. Phật chứng tri được chân như diệu lư, thể tính thường trụ.
 Biến kế sở chấp sinh pháp nhị ngă, Thể tính là vô. V́ Phật đă chứng được lư Vô ngă, nên cũng biết rằng cái Vô này là phàm hư vọng chấp.
“Phật chủng từ duyên khởi” : có nghĩa là chủng tử Báo Phật, vô lậu y tha, do nhân duyên mà sinh ra, từ duyên mà khởi lên, nhân tu tác mà thành. Do chứng được chân lư, đoạn trừ được Nhiễm phần y tha của cái tâm năng chấp, biết rơ cái sở chấp là vô, từ ở Tịnh phần y tha nhân duyên mà tu Phật chủng, đó là nhất thừa. V́ sao vậy ? V́ nhất thừa nhiều lần tỏ rơ Thường pháp tức là Viên thành thực.
“Pháp trụ pháp vị”: chân như trụ trong các pháp, Thể tính thường hữu, đó gọi là pháp trụ. Pháp có nhiễm tịnh, ĺa nhiễm được tịnh, phần vị hiển lộ, đó gọi là pháp vị.
“Tướng” : đây là chỉ thể tính thế gian bản thể, tức là Thường trụ chân như thực tính. Đó là thể của nhất thừa.
“Nơi đạo tràng biết rồi, Đạo sư phương tiện thuyết” : nghĩa là ở ṭa kim cương nơi đạo tràng biết được bản thể tính các pháp đó rồi, các pháp vốn không có danh tướng, nhưng Đạo sư phương tiện dùng danh tướng mà thuyết pháp.
Hết thảy các pháp, tóm lại đều có hai loại : một là Không, hai là Hữu. 
Không pháp không có sự sai biệt, đặt chung một tính gọi là Biến kế sở chấp. 
Hữu pháp có sự sai biệt, chia làm hai loại : một là thường, hai là vô thường. Thường th́ gọi là Viên thành thực tính. Vô thường th́ là Y tha khởi tính. 
Y tha khởi tính lại chia làm hai : một là Hữu lậu, hai là Vô lậu. Hữu lậu là Y tha khởi tính. Vô lậu là Viên thành thực tính. 
Nay y vào môn trước, vô thường là Y tha. Y tha hữu lậu thảy đều trừ đoạn, tựu trung chỉ lấy Vô lậu vô thường Tịnh phần y tha, cứu cánh măn vị thành Bồ đề. 
Cho nên nói rằng : “Phật chủng từ duyên khởi”. Ư nói có khả năng chứng được Thường trụ pháp tính chân như, chứng được lư Vô ngă, th́ mới có thể biết rơ nhị ngă là không, y ở thiện hữu, tu tập trí tuệ, theo pháp Duyên khởi, Bồ đề giác măn để chứng Diệu lư chân như nhất thừa.
Diệu lư tức là : “Thị pháp trụ pháp vị, thế gian tướng thường trụ”. Ở ngay đạo tràng đă chứng tri Đại bát Niết bàn rồi, nay v́ chúng sinh mà phương tiện thuyết pháp đó khiến họ cũng muốn chứng được. 
Nay Y tha đây tức là Bồ đề, Viên thành tức là Niết bàn, hợp thành nhất thừa. Viên thành thắng trội, nên gọi riêng là nhất thừa.
 Do đoạn được Hữu lậu Y tha khởi tính, trừ được Biến kế sở chấp, chứng được hai quả này.
Do liễu ngộ Y tha sở chấp tính, cho nên trước tiên thuyết về A hàm, sau đó thuyết về Bát nhă, thuần Hữu Không giáo, đó gọi là phương tiện. 
Nay cả ba đều thuyết, nên gọi là chân thực. Nghĩa của ba tính (tam tính) th́ như chương khác đă nói.
*
-Kinh văn : “Được trời người cúng dàng” tới  “cũng thuyết pháp như vầy”. 
Tán rằng : dưới có 4 tụng rưỡi, tụng về hiện tại. Chia làm ba :
• Đầu là 1 tụng rưỡi để nêu.
• Sau đến 1 tụng khai quyền hiển thực.
• Cuối cùng là 2 tụng nêu rơ ư. 
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Biết đệ nhất tịch diệt”  tới  “kỳ thực là nhất thừa”.
Tán rằng : đây là phần đầu khai quyền, sau đó lại hiển thực.
*
-Kinh văn : “Biết các hành chúng sinh”  tới  “tùy ứng phương tiện thuyết”. 
Tán rằng : đây nói rơ cái ư trước quyền sau thực. 
“Các hành của chúng sinh” : đó là tổng cú, là tâm hành tướng vậy.
 Dưới là biệt cú, hoặc là thắng giải vậy.
“Tâm sở niệm” : đó là Biến thú hành.
“Nghiệp lực” : đó là Tự nghiệp. 
“Dục lực” : chỉ thắng giải. 
“Tính lực” : chỉ chủng chủng giới. 
“Tinh tiến lực” : chỉ xứ, phi xứ v.v… 
Hoặc thể của tinh tiến v.v… tức là Tính lực, v́ thể của chủng tính tức là ngũ căn. Chữ Lực ở dưới quán thông cả ở trên (Kinh văn : “Dục, Tính, Tinh tiến lực”). 
“Căn lợi độn” : có nghĩa là căn có lực hơn kém khác nhau. Phật có trí lực này, biết được những điều ấy, bởi vậy trước là quyền, sau lại chân thực. 
Ở phần trước nói chư Phật đời vị lai Phật do ngộ ba tính, ở đây nói Phật hiện tại do biết chúng sinh b́nh đẳng, ảnh hưởng lẫn nhau, cho nên đầu tiên là phương tiện, sau đó thuyết chân thực.
*
-Kinh văn : “Nay ta cũng như vậy”  tới  “đều khiến được hoan hỷ”. 
Tán rằng : dưới là 30 tụng rưỡi nói về Thích Ca cũng giống : “Nay ta cũng giống như vậy” . 
Chia làm hai : 
• 2 tụng đầu, nêu lên.
• 28 tụng rưỡi sau, giải thích rộng.
Đây là phần đầu : tụng đầu nói rơ nay là thực, tụng sau nói rơ xưa là quyền, đều khiến hoan hỷ dần dần nhập đạo.
*
-Kinh văn : “Xá Lợi Phất nên biết”  tới  “nghèo túng không phúc tuệ” .
Tán rằng : dưới là giải thích rộng. Chia làm hai:
- 21 tụng rưỡi nói về thoạt đầu dùng tam thừa phương tiện để dẫn dụ, tức là đoạn văn trường hàng nói rằng : “Biết các chúng sinh có nhiều dục vọng mà thâm tâm họ đắm trước, cho nên tùy theo bản tính của họ mà dùng nhiều thứ nhân duyên, thí dụ, ngôn từ, phương tiện lực mà thuyết pháp cho họ”.
- 7 tụng, tụng về ư nay thuyết chân thực, tức là đoạn văn trường hàng nói rằng : “Như vậy đều là để được Nhất thiết chủng trí của một Phật thừa. Tức là tụng về nghĩa trước quyền sau thực.”
Trong đoạn văn đầu lại chia làm bốn phần :
a) 3 tụng rưỡi đầu : nói về thấy sinh xứ nguy nan.
b) 3 tụng tiếp theo : muốn cứu chẳng thể được.
c) 11 tụng rưỡi kế tiếp : thỉnh niệm thiết phương tiện quyền thừa.
d) 3 tụng rưỡi cuối : chính thuyết tam thừa hóa.
Trong phần đầu lại có hai :
+  1 tụng : không thiện.
+  2 tụng rưỡi : có ác.
Đây là phần đầu.
 •Kinh Bát Nhă nói Phật có năm loại mắt :
1) Nhục nhăn : chẳng phải do tu định mà sinh ra, mà là do tứ đại tạo nên, hoặc trưởng dưỡng hoặc dị thục, tịnh sắc là tính.
2) Thiên nhăn : đoạn với định chướng, đă tu tập mà thành, chỉ là trưởng dưỡng, do tứ đại tạo ra, tịnh sắc là tính.
3) Pháp nhăn : quán sự Hữu tuệ.
4) Tuệ nhăn : quán Không lư tuệ.
5) Phật nhăn : nhân tích mà quả viên, lấy cả bốn loại trên làm thể.
• Long Thụ giải thích rằng : Bốn sông lớn chảy tới ao trời gọi tên chung là biển cả. Cũng giống như vậy, bốn mắt chảy tới quả Phật, gọi chung là Phật nhăn. 
Hai loại đầu là thể sắc, hai loại sau là thể trí. Một loại cuối thông với cả hai.
• Lại nói : Người v.v… th́ có nhục nhăn. Trời v.v… th́ có thiên nhăn. Nhị thừa có tuệ nhăn. Bồ tát có pháp nhăn. Phật có Phật nhăn. Do đó mà nói là năm.
• Du Già, quyển 14 nói có ba loại mắt :
1) Nhục nhăn : soi được các sắc hiển lộ không có chướng ngại.
2) Thiên nhăn : soi được các sắc ẩn tàng cũng như hiển lộ, có chướng cũng như không chướng.
3) Tuệ nhăn : soi được mọi thứ sắc cũng như phi sắc.
Pháp nhăn thể tuệ, hợp tuệ làm một, sắc khác nhau, nhăn cảnh có ẩn có hiển, ở đây lược đi chẳng nói.
Phật nhăn tức là bốn loại mắt trước, chỉ bàn về nhân, chứ chẳng phải quả, nên lược đi chẳng bàn.
• Kinh Hoa Nghiêm nói về mười loại mắt :
1) Nhục nhăn : thấy được mọi sắc.
2) Thiên nhăn : thấy được chết ở đây sinh ở kia.
3) Tuệ nhăn : thấy các chúng sinh các căn sai biệt.
4) Pháp nhăn : thấy được đệ nhất nghĩa của mọi pháp.
5) Phật nhăn : thấy được mười lực của Phật.
6) Trí nhăn : phân biệt rơ được mọi loại pháp.
7) Quang minh nhăn : thấy được ánh quang minh của Phật.
8) Xuất sinh tử nhăn : thấy được pháp Niết bàn.
9) Vô ngại nhăn : thấy được mọi pháp, không có trở ngại.
10) Phổ nhăn : có nghĩa là thấy được Pháp giới b́nh đẳng pháp môn.
- Loại thứ nhất trong mười mắt này là loại thứ nhất trong năm mắt trước, v́ thấy được các sắc.
- Loại thứ hai này là loại thứ hai trước.
- Năm mắt :  thứ ba, thứ năm, thứ sáu, thứ bảy, thứ chín ở đây, là Pháp nhăn trước.
- Các loại thứ tư, thứ tám trong này là Tuệ nhăn trước, v́ thấy được chân đế. 
- Hoặc ba mắt : thứ tư, thứ tám, thứ chín ở đây  là Tuệ nhăn trước, v́ đều thấy được lư.
- Mắt thứ mười Phổ nhăn : là Phật nhăn trước, v́ khắp thấy Pháp giới b́nh đẳng tính.
“Quán bằng Phật nhăn” : có nghĩa là quán bằng Phật nhăn trong Ngũ nhăn, v́ Phật nhăn trong Thập nhăn chẳng thấy chúng sinh, chỉ thấy Thập lực.
Chúng sinh sáu đường từ vô thủy chẳng tu hai nhân Phúc Trí, chưa được bảy loại Thánh tài và bảy Pháp tài của nhân thiên. Đó là : Thí, Giới, Nhẫn, Cần, Định, Tuệ, Phương tiện, cho nên không có phúc và tuệ.
*
-Kinh văn : “Vào đường hiểm sinh tử”  tới  “mù loà chẳng thấy ǵ”. 
Tán rằng : 2 tụng rưỡi ở dưới nói về có ác. 
Chia làm hai :
• 1 tụng rưỡi đầu : hiện khổ ch́m đắm, phiền năo thêm nhiều.
• 1 tụng sau : muốn cầu xuất ly, nhưng hành tà hạnh.
Đây là phần đầu.
Con Ly ngưu (trâu mao) ở thế gian do tự yêu cái đuôi của nó, nên náu ḿnh giữ đuôi. Người ta tham hám đuôi nó, cho nên đă giết thân nó. Chúng sinh cũng thế, do tham trước năm dục cho nên tự giấu thân ḿnh, rồi v́ tham ái mà tự bại hoại, bị hư hỏng khốn đốn sa đọa vào đường ác.
“Tự tệ”: tự làm hại ḿnh, có bản viết là “Tự tế” . Tế là yểm chướng (che lấp)
Như con ly ngưu yêu đuôi mà làm hại tâm, đến nỗi mất mạng. Chúng sinh cũng thế, tham ái che lấp mất tâm.
* “Ly ngưu”: sách Thuyết Văn giải thích là loại trâu có râu dài của Tây Nam Di. 
Chữ Ngưu có chỗ viết là [
] Miêu (mèo), đó là loài bắt chuột trong nhân gian, chẳng đúng với nghĩa ở đây. Có chỗ viết là Miêu miêu [ ], chả biết xuất xứ từ đâu.
*
-Kinh văn : “Chẳng cầu Đại Thế Phật”  tới  “v́ khổ muốn xả khổ”. 
Tán rằng : muốn cầu xuất ly, mà lại hành tà hạnh. Phật có thần thông uy thế và pháp dùng trí tuệ để đoạn trừ  khổ mà lại chẳng cầu tới, lại sa vào lưới tà kiến ngoại đạo. Tu hành các hạnh khổ hạnh về thân để xả bỏ nỗi khổ sinh tử, thế là chưa được. 
Bởi vậy mà sáu năm chỉ ăn vừng ăn mạch vẫn chẳng chứng được Bồ đề, ngồi nằm trên gai góc đâu có chứng được đạo quả ! Như chó đuổi ḥn đất, ḥn đất càng lăn thêm, đâu có giống với sư tử đuổi người chẳng đuổi ḥn đất.
*
-Kinh văn : “Phật v́ chúng sinh này, mà khởi tâm Đại bi”. 
Tán rằng : dưới đây là 3 tụng nói về tư duy muốn cứu mà chẳng thể được. Chia làm ba :
a) Nửa tụng đầu, là tư duy muốn khởi nhân hành.
b) 1 tụng ,chỉ đắc quả đă tư duy.
c) 1 tụng rưỡi, chỉ tư duy muốn cứu mà chẳng thể được.
Đây là phần đầu : thấy các chúng sinh có hai duyên này, nên khởi bi tâm, phát tâm tu hành, tư duy muốn cứu.
*
-Kinh văn : “Ta xưa ngồi đạo tràng”  tới  “tư duy sự như vầy”. 
Tán rằng : đây là đắc quả rồi tư duy. 
Phật thành đạo rồi, kinh hành dưới cây, ngắm cây, mừng rằng đạo của ḿnh đă viên thành, kinh hành tư duy (đi lại ngẫm nghĩ) muốn làm lợi cho ngoại vật. 
Lại nh́n cây, tâm ngưng tụ diệu lư, kinh hành nghĩ muốn giáo hóa cho các chúng sinh.
Lại ngắm cây, muốn làm bóng mát che cho chúng sinh, kinh hành nghĩ đến bố thí phúc và tuệ cho chúng sinh. 
Các kinh nói về thời điểm thuyết pháp của Phật sau khi thành đạo, mỗi kinh mỗi khác :
- Kinh này nói là (sau) 3 lần 7 ngày. 
- Di Sa Tắc luật nói rằng : “Tam muội bảy ngày”, giống như Thập Địa kinh, 7 ngày chẳng thuyết pháp để chỉ rơ tự ḿnh thụ pháp lạc, để khiến chúng sinh càng thêm yêu kính.
- Luật và Tát Bà Đa truyện th́ nói là sau 6 lần 7 ngày, tức là sau 42 ngày mới thuyết pháp, v́ Phạm thiên đến thỉnh và bọn các ông Kiền Trần Như căn cơ đă chín. 
- Lại có thuyết nói rằng : sau Hạ an cư mới độ cho 5 người. 
- Thập Nhị Do kinh th́ nói là sau khi thành đạo đă 2 năm mới độ cho 5 người. 
- Trí Độ luận nói là: 50 lần 7 ngày chẳng thuyết pháp. 
Đó đều là do ư kiến các bộ bất đồng chưa thể ḥa hợp. Song những nhà giải thích ngày nay theo đại thừa th́ lấy Pháp Hoa làm chính.
Thuyết này thông hành Tứ đế Pháp luân nên là 3 lần 7 ngày. Nếu chỉ thuyết đại thừa Pháp luân, Thập địa là chính, th́ sang tuần 7 ngày thứ hai mới thuyết Thập địa.
*
-Kinh văn : “Trí tuệ mà ta được”  tới  “làm sao mà độ được ? ”.
Tán rằng : đây là tư duy muốn cứu mà chẳng thể được, v́ có bốn nguyên nhân : 
1. Pháp sâu khó hiểu. 2. Căn độn khó cứu.
3. Trước lạc khó xả.  4. Ngu mù khó ngộ.
 Thế th́ làm sao mà độ được ?
*
-Kinh văn : “Bấy giờ các Phạm vương” tới “thỉnh ta chuyển Pháp luân”.
Tán rằng : dưới là 11 tụng rưỡi xin Phật hộ niệm, đặt ra phương tiện quyền nghi. 
Trong chia làm bốn phần :
- 2 tụng : chư thiên thỉnh thuyết.
- 3 tụng : thị tướng tư duy.
- 4 tụng rưỡi : hoá độ gặp duyên lành.
- 2 tụng cuối : xót thương dẫn dụ theo cách quyền nghi. 
Đây là phần đầu.
Đại Tự Tại thiên : tức là Sắc giới thiên. Nay đối với tam thừa, thuyết pháp đúng phép v́ đều đợi phải thỉnh mới thuyết. 
Trí Độ luận nói rằng : Tịnh Cư thiên khuyên (Phật) xuất gia. Tứ Thiên vương dâng bát. Đế Thích dâng ṭa báu. Phạm thiên thỉnh chuyển Pháp luân. Lúc đầu Phật chẳng ưng thuận. Phạm vương nói có ba căn, tha thiết nài thỉnh, Phật mới ưng thuận, đầu tiên thuyết về tam thừa. 
Thắng Thiên Vương Bát Nhă nói : các Tứ Thiên vương dâng bát. Thiên Đế Thích dâng ṭa. Phật bèn nhận. Ai nấy thấy chỉ riêng ḿnh được (Phật) nhận, cho nên đều phát tâm thắng trội.
Song ở đọan kinh dưới th́ chỉ có Phạm vương thỉnh Phật Đại Thông Trí Thắng. Ở đây th́ nói chung cả chư thiên. Ở đó nêu loại thắng trội, chẳng phải là không có thiên khác thỉnh Phật đó.
*
-Kinh văn : “Ta liền tự tư duy”  tới  “vội nhập vào Niết bàn”. 
Tán rằng : dưới là 3 tụng Thị tướng tư duy, chia làm hai :
- 2 tụng đầu : nếu thuyết ngay đại thừa th́ sẽ có sự tổn hại cho chúng sinh.
- 1 tụng cuối : tạm thuyết tam thừa th́ có lợi ích cho chúng sinh.
Phần đầu này, v́ các chúng sinh hiện đang ở trong cảnh khổ của cơi tục, nếu xuất gia th́ tu xằng theo pháp khổ hạnh, không c̣n có lúc nào rảnh mà có thể tin ngay pháp đại thừa. Nếu thuyết cho họ (về đại thừa ngay) th́ ngược lại họ sẽ sinh ra phỉ báng, nghi hoặc, phá hoại. Nếu sinh bất tín th́ lại sa vào đường ác. 
C̣n hạng tại tục không khổ th́ chẳng tin. Kẻ xuất gia ngoại đạo th́ phá pháp nên chẳng tin.
Đă có sự tổn hại đó th́ thà chẳng thuyết pháp mà vội nhập Niết bàn. Sao lại gây tổn hại cho các chúng sinh được ! Tức giống như Trí Độ luận, lúc đầu chẳng ưng thuận.
*
-Kinh văn : “Nhớ tới Phật quá khứ”  tới  “cũng nên thuyết tam thừa”. 
Tán rằng : đây là nói về tạm thuyết tam thừa, chúng sinh được ích lợi, v́ giống với chư Phật. 
Đây giống như Trí Độ luận : thỉnh nhiều lần mới ưng thuận.
*
-Kinh văn : “Lúc tư duy như vậy”   tới   “mà dùng lực  phương tiện”.
Tán rằng : dưới có 4 tụng rưỡi nói về việc hóa độ gặp duyên lành. Chia làm ba :
- 2 tụng đầu : Phật hiện tán dương.
- 1 tụng sau : khuyên giống chư Phật.
- 1 tụng rưỡi cuối : dẫn bản thân ḿnh ra làm chứng : sau thực trước quyền. 
Đây là 2 tụng đầu : mười phương Phật hiện ca ngợi Phật lành thay, ca ngợi người thày giỏi nhất đắc pháp vô thượng, khuyên nên giống như chư Phật: sau thực, trước quyền.
Thích Ca là họ, nghĩa là Năng.
Mâu Ni là hiệu,nghĩa là Tịch. 
Nay nói qua về lời văn, như âm mà giải thuyết. Đúng theo phép mà tùy hỉ, đều nói là :  “Lành thay !”.
*
-Kinh văn : “Chúng tôi cũng đều được”  tới  “phân biệt thuyết tam thừa”. 
Tán rằng : dưới là 2 tụng rưỡi dẫn bản thân ḿnh ra làm chứng, sau thực trước quyền. Trong này có ba phần : 
- 1 tụng đầu dẫn bản thân ḿnh ra làm chứng.
- 1 tụng giải thích nguyên do chuyện này.
- Nửa tụng kết luận qui về chân thực.
 Đây là phần đầu : dẫn chứng bản thân lúc đầu thuyết tam thừa.
*
-Kinh văn : “Trí kém thích tiểu pháp”  tới  “chỉ dạy cho Bồ tát”. 
Tán rằng : đây giải thích về nguyên do và kết luận qui về chân thực. 
V́ người bất định (tính) lúc đầu c̣n là phàm phu trí thấp, ưa tiểu pháp, không có ư thích pháp đại thừa, chẳng tin tưởng ḿnh sẽ được thành Phật, cho nên đầu tiên thuyết về tam thừa.
Dẫu rằng đầu tiên là quyền, sau đó ắt phải là chân thực, song chỉ hóa độ cho Bồ tát.
*
Kinh văn :
 “Xá Lợi Phất nên biết”  tới  “hỉ xưng Nam mô Phật”. 
Tán rằng : dưới là 2 tụng, nghĩ theo quyền thừa mà dẫn dụ. Chia làm hai :
a) Tụng đầu : nghe xong tôn kính tán thán.
b) Tụng sau : tư duy muốn thuận theo hạnh của họ.
Đây là phần đầu.
Có bản viết là “xưng Nam mô chư Phật”. Nên theo “hỉ xưng Nam mô Phật” (mừng niệm Nam mô Phật), đó mới là (văn bản) đúng.
Đúng ra phải phiên âm là Nạp Mô, có chỗ phiên là Nạp Mạc, phương đây gọi là Kính lễ. Nếu nói Bạn Đàm hoặc Bạn Đề th́ ở phương đây gọi là Lễ bái. Cách nói cũ gọi là Ḥa Nam, đó là dịch vừa sai vừa tỉnh lược.
*
-Kinh văn : “Lại có ư như vầy”  tới  “ta cũng tùy thuận hạnh”.
Tán rằng : tư duy muốn thuận theo hạnh của họ. 
Duyên lành đă gặp, khuyến khích ta dùng quyền thừa mà giáo hóa. Ta nghĩ sinh ở kiếp trược, phải nên tùy thuận theo hạnh của họ.
*
-Kinh văn : “Tư duy sự này rồi”  tới  “thuyết cho năm Tỳ kheo”. 
Tán rằng : 3 tụng rưỡi dưới đây, là chính thuyết tam thừa hóa, chia làm ba :
- 1 tụng rưỡi đầu : chính khởi quyền hóa.
- 1 tụng sau : Tam bảo dấy lên.
- 1 tụng cuối : hội thành kim cổ.
Đây là phần đầu. 
Tiếng Phạm gọi là Bà La Ni Tư, hoặc gọi là Ba La Nại (đây là phiên sai). (Thành này) thuộc xứ trung Ấn Độ. 
Xưa kia ở đất này có hai đàn hươu mỗi đàn có hơn 500 con. Phật là Lộc vương của một đàn. Đề Bà Đạt Đa làm vua một đàn. Bấy giờ vua nước này đi săn bắn ở đồng nội. 
Bồ tát Lộc vương bèn đến trước nhà vua mà thỉnh rằng : Đại vương săn bắn ở trung nguyên, thả chó bắn tên, chỉ trong sáng sớm hôm nay tất cả thuộc hạ của tôi ắt sẽ mệnh tận. Thế th́ ngay trong ngày sẽ thối rữa, không c̣n có thịt hươu tươi làm thức ăn cho vua nữa. Vậy xin đại vương cho chúng tôi mỗi ngày dâng nộp một con hươu, như vậy th́ đại vương có món ăn bằng thịt tươi, mà chúng tôi cũng được kéo dài mệnh ḿnh thêm một sớm một tối. 
Vua cho lời tâu ấy là phải, bèn quay xa giá trở về. Từ đó hai đàn hươu lần lượt theo thứ tự tới nộp mạng.
Trong đàn của Đề Bà có con hươu chửa đến lượt phải chết, bèn bạch với chúa ḿnh rằng : “bản thân tuy đáng phải chết, nhưng (hươu) con (trong bụng) chưa đến lượt, xin tạm cử hươu khác thay. Sinh đẻ xong, sẽ đi nộp mạng.” 
Lộc vương Đề Bà nổi giận nói : “Ai mà chẳng quí mạng ḿnh.” Hươu cái nghe xong than rằng : “Vua ta bất nhân, không mấy nữa ắt sẽ chết !” .
Thế rồi vội báo Bồ tát Lộc vương. Bồ tát Lộc vương nói : “Thương thay ! Tấm ḷng của mẹ hiền thương tới cả đứa con chưa thành h́nh ! Ta nay sẽ thay ngươi !”.
Rồi ngài tới cửa vua. Người đi đường (thấy vậy) kháo nhau nói : “Đại Lộc vương ấy nay tới vào trong đô ấp”. Nhân dân kinh đô ai nấy đều đổ đến xem. Vua nghe tin ấy cho là chẳng thực. Người canh cửa tâu với vua, vua mới tin là đúng. Vua hỏi : “Lộc vương sao mà đă vội đến đây thế ?”. Lộc vương nói : “Có con hươu cái đến  lượt phải chết, nhưng con nó trong thai chưa sinh. Tâm tôi chẳng nỡ, dám xin đem thân đến chết thay !”.
Vua nghe xong than rằng : “Ta là hươu mang thân người, không có tâm từ bi dưỡng dục. C̣n ngươi chính là người mang thân hươu, v́ có đức thế mạng”. Thế rồi tha cho hết thảy các hươu chẳng c̣n phải nộp mạng nữa. Liền lấy rừng đó làm nơi hội tụ cho loài hươu, nhân đó mà gọi là Thí lộc lâm. Danh hiệu Lộc Dă phát sinh từ đó.
 Ban đầu sau khi thái tử Tát Phọc Hát Lạt Tha Tất Đà (theo tiếng Đường, có nghĩa là Nhất Thiết Nghĩa Thành, xưa phiên là Tất Đạt Đa, vừa sai vừa tỉnh lược) đă nương thân ở núi, ẩn ḿnh trong hang, quên ḿnh v́ đạo pháp. Tịnh Phạn vương bèn sai ba người trong gia tộc và hai người cậu đi và nói rằng : “Nhất Thiết Nghĩa Thành con ta bỏ nhà đi tu học một ḿnh nơi chốn núi đầm, một thân ở nơi rừng rú, cho nên sai các ngươi đi theo để biết chỗ nó dừng lại ở đâu. Các ngươi trong th́ là chú là bác là cậu, ngoài th́ là nghĩa vua tôi, mọi động tĩnh của con ta các ngươi cần phải biết để khuyên nhủ can ngăn”.
Năm người vâng lệnh, cùng nhau bảo vệ. Nhân đó cũng tha thiết cầu mong được xuất ly. Họ thường bảo nhau rằng : “Người tu đạo do khổ mà chứng được hay sướng mà chứng được ?” Hai người nói : “An lạc v́ đạo”. Ba người nói : “Cần khổ v́ đạo”. Hai, ba lần tranh căi với nhau mà vẫn chưa có ǵ để chứng minh được.
Bấy giờ thái tử suy ngẫm về điều chí lư, tu theo lối khổ hạnh của ngoại đạo, tức là dùng vừng, lúa mạch để duy tŕ sắc thân. 
Hai người kia thấy vậy liền nói : “Lối tu hành của thái tử chẳng phải là pháp chân thực. Xét ra cái gọi là đạo phải sướng mới chứng được. Nay là cần khổ như vậy, th́ đó chẳng phải người bọn ta”. Bèn bỏ mà trốn đi xa, nghĩ cách để chứng quả.
Thái tử tu khổ hạnh sáu năm vẫn chưa chứng Bồ đề, muốn nghiệm xem khổ hạnh chẳng phải là chân thực pháp, liền nhận sữa, thế mà lại chứng quả. Ba người nọ nghe chuyện bèn nói : “Công sắp thành rồi mà nay lại lùi. Sáu năm khổ hạnh, một sớm vứt công”. Rồi cũng bỏ đi, bèn cùng nhau đi t́m hai người kia.
Bọn họ gặp nhau rồi ba người nọ bèn ngồi ngay ngắn, lớn tiếng nghị luận rằng : “Xưa thấy thái tử Nhất Thiết Nghĩa Thành ra khỏi cung vua tới nơi hang vắng, bỏ quần áo đẹp, khoác mảnh da hươu, siêng năng gắng chí, trinh tiết khổ tâm cầu pháp thâm diệu, mong quả Vô thượng thế mà nay lại nhận sữa của cô gái chăn ḅ, bại đạo nhụt chí. Tôi biết chắc chắn thái tử chẳng thể làm lên tṛ trống ǵ đâu !” .
Hai người kia nói : “Ôâng sao thấy muộn làm vậy ! Con người này chỉ là người điên rồ mà thôi. Đang ở trong thâm cung, yên ổn tại địa vị tôn quư, thế mà chẳng chịu tĩnh chí, lại đi lẩn lút trong chốn núi rừng. Bỏ ngôi Chuyển luân vương mà hành động như người quê mùa hèn hạ ! Thế th́ đâu đáng để quan tâm nữa!” Càng nói càng gay gắt. 
Bồ tát tắm ở sông Ni Liên xong, lên ngồi dưới cây Bồ đề, thành Đẳng chính giác, được danh hiệu là bậc thày của trời người, lặng lẽ điềm nhiên, chỉ quan sát xem ai là kẻ đáng độ.
Ngài ngẫm nghĩ nói : “ Ôâng Uất Đầu Lam Tửû kia đă chứng được Phi tưởng định, đáng thụ pháp của ta”. Chư thiên trong không trung nghe tiếng liền báo rằng: “Uất Đầu Lam Tử mệnh chung đến nay đă bảy ngày rồi !”. Như Lai than tiếc : Người này sao mà chẳng gặp, sắp được nghe diệu pháp th́ vội theo đà biến hóa”. 
Rồi ngài lại quan sát thấy có A Lam Ca Lam đă chứng đắc Vô sở hữu xứ định, là người đáng được truyền thụ cho chí lư. Chư thiên lại mách : Người này mệnh chung đă năm ngày rồi. Như Lai lại than thở xót thương cho sự bạc phúc của người này. 
Thế rồi ngài lại quan sát thật kỹ xem ai là người đáng được thụ giáo, th́ thấy chỉ có bọn năm người ở rừng Thí Lộc  là đáng được dẫn thụ trước. 
Bấy giờ Như Lai từ dưới cây Bồ đề đứng dậy, đi đến vườn Lộc dă, uy nghi tịnh tĩnh, thần quang sáng ngời, mày chứa vẻ ngọc, thân rực sắc vàng, ung dung tới trước năm người để d́u dắt họ. Năm người này xa xa trông thấy Như Lai bèn bảo nhau rằng :
“Nhất Thiết Nghĩa Thành từ đó đến nay tháng ngày lần lữa, thánh quả chẳng chứng, tâm muốn quay về, nên mới t́m đến bọn ta. Chúng ta ai nấy đều nên lặng im, chớ đứng lên làm lễ nghênh đón”. Như Lai dần dần càng đến gần, oai thần tác động đến ngoại vật. Năm người quên cả điều đă giao ước, bèn lạy rước chào hỏi, theo hầu đúng như nghi thức. Như  Lai bèn dẫn dụ dần dần, chỉ cho họ rơ diệu lư.
Tương truyền giải rằng : năm người đó gồm : 
1) Trần Như. 
2) Thập Lực Ca Diếp. 
3) Át Bề, tức Mă Thắng Tỳ kheo.
4) Bạt Đề. 
5) Ma Ha Nam Câu Lợi. 
Đáng nghe thuyết pháp, cớ sao lại chỉ có năm người này ? Có người nói rằng : thời Phật Ca Diếp có chín người cùng học, bốn người lợi căn đă đắc đạo trước, năm người độn căn nên đến nay mới ngộ, v́ nguyện được gặp Phật Thích Ca xuất thế thành đạo. 
Lại nữa, kinh nói rằng : “Thời quá khứ Thích Ca làm thân cá lớn, có nguyện rằng ai ăn thịt ta trước th́ sẽ được độ trước, năm người này ăn trước nên được Phật độ trước”. 
Thêm nữa, kinh c̣n nói rằng : “Sáu người cúng dàng Phật, năm người lấy hoa lúa cúng dàng, một người chờ lúa chín. Cho nên năm người ngộ ngay từ đầu, một người sau này mới ngộ, đó tức là Tu Bạt Đà La”.
Ngoài ra, đó tức là năm Dạ xoa ăn thịt Từ Lực Vương vậy. Trong năm người này, Trần Như đắc Sơ quả. C̣n bốn người th́ tại Tứ  thiện căn, tới đầu Hạ mới đắc đạo. 
Tây Vực Kư nói rằng : Hạ an cư xong mới đắc đạo tích. 
Pháp tịch diệt tướng tức là chân như, chẳng thể dùng ngôn ngữ mà tuyên thuyết, v́ tính ĺa ngôn thuyết. Pháp không có danh tướng mà lại dùng danh tướng để diễn thuyết th́ đó gọi là Phương tiện lực. Tới Ba La Nại là để thuyết cho năm người.
*
-Kinh văn : “Đó gọi chuyển Pháp luân”  tới   “tên Pháp, Tăng sai khác”.
Tán rằng : thế là Tam bảo được lập ra vậy. 
Nghĩa từ “Pháp luân” này, đại để dùng 5 môn để phân biệt : 
1. Xuất thể. 4. Sai biệt.
2. Thích danh. 5. Tam thừa.
3. Chuyển tướng. 
1. Xuất thể :
 Câu Xá luận quyển 24 nói rằng : 
Cái gọi là Sa môn tính cũng gọi là Bà la môn, cũng gọi tên là Phạm luân, v́ là chân Phạm sở chuyển.
Trong đó chỉ có Kiến đạo gọi tên là Pháp luân, v́ nhanh như bánh xe, v́ có nan hoa như bánh xe. Tức là ở trong này, y vào Kiến đạo. Có chỗ gọi Thế tôn tên là Pháp luân. Như bánh xe thế gian có các tướng như nhanh chóng v.v… Kiến đạo tựa như thế, nên gọi là Pháp luân. Có nghĩa là chứng ngộ chân lư th́ vận hành đạo nhanh chóng, có lấy có bỏ, hàng phục thứ chưa phục, trấn áp thứ đă phục, trên dưới chuyển, có đủ năm tướng ấy tựa như bánh xe ở thế gian.
Cho nên Hiển Tông luận nói rằng : như bánh xe của thánh vương lấy trước bỏ sau, Kiến đạo cũng thế : bỏ cảnh Khổ v.v… lấy Tập v.v… Ư này tỏ rơ việc thấy lư Tứ đế ắt chẳng đồng thời.
Như bánh xe của thánh vương bắt hàng kẻ chưa phục, tôn giả Diệu Âm thuyết như vậy.
Cũng như bánh xe thế gian có các nan hoa v.v…, các chi phần của Tám thánh đạo tựa như đó, gọi là Luân. Có nghĩa là :
Chính kiến, Chính tư duy, Chính cần, Chính niệm : tựa như nan hoa bánh xe thế gian. 
Chính ngữ, Chính mệnh, Chính nghiệp : tựa như ổ trục.
Chính định như vành bánh. 
Cho nên gọi là Pháp luân. 
Thế nên biết, Pháp luân đâu chỉ là Kiến đạo ? Và khi nhóm các ông Kiều Trần Na Kiến đạo, th́ đó gọi là đă chuyển Chính Pháp luân. 
Thiên Thân Luận chủ căn cứ vào tông chỉ của phái Kinh bộ, đă đả phá Tát Bà Đa bộ, nói : Hành tướng ba chuyển chẳng phải chỉ là Kiến đạo !
Làm sao mà có thể nói rằng : đặt ra danh từ Pháp luân chỉ là để chỉ Kiến đạo ? Bởi vậy chỉ nên coi tất cả pháp môn gồm 3 chuyển 12 hành tướng này là Pháp luân mới có thể đúng với chính lư. 
Thế nào gọi là chuyển ? 
Có nghĩa là do pháp môn này tới Tha tương tục (tha nhân, người khác) khiến họ hiểu nghĩa vậy.
Hoặc là đạo của chư Thánh đều gọi là Pháp luân, v́ ở ngay nơi muốn hóa độ mà sinh thân để chuyển đúng pháp.
Đối với Tha tương tục, từ lúc Kiến đạo cho tới lúc bắt đầu chuyển, th́ gọi là đă chuyển.
Đây có sự giải thích, nói rằng :
Thoạt tiên thuyết về Kiến đạo, gọi tên là Pháp luân, chẳng phải là Tát Bà Đa chính nghĩa. 
Tạp Tâm luận cũng kể bất chính nghĩa,  nói : Mâu Ni thuyết Kiến đạo mau chóng, gọi là Pháp luân. 
Câu Xá luận lại nói : hoặc đạo của chư Thánh đều là Pháp luân v.v… Đó là bản ư của Tát Bà Đa sư. 
Cho nên Hiển Tông luận nói rằng : đó là bản ư của Tỳ Bà Sa sư. Nói chung mọi Thánh đạo đều gọi là Pháp luân, cho nên nói ba chuyển bao gồm ba đạo. 
Lúc Tha tương tục Kiến đạo, gọi là đă chuyển. Chẳng phải chỉ có Kiến đạo với tám Thánh đạo mới được riêng gọi là Pháp luân.
Cho nên điều mà tôn giả Diệu Âm thuyết, chẳng phải là nghĩa chính.
Thành Thực luận nói : 
- Chuyển lần đầu sinh ra Văn tuệ.
- Chuyển lần hai sinh ra Tư tuệ.
- Chuyển lần ba sinh ra Tu tuệ.
Cũng không có 12 hành tướng, chỉ có một Không hành. 
Nay đại thừa quán xuyến chung ư các văn bản. 
Nói về Pháp luân, thấy có năm ư :
1/ Luân tự tính : chỉ Trạch pháp giác chi, Chính kiến, Chính trí. v.v… 
Du Già luận, quyển thứ 95 nói rằng : Chính kiến v.v… là tính do pháp tạo thành, nên gọi là Pháp luân, v́ tự tha ba chuyển thông suốt cả Kiến đạo cùng Tu đạo và Vô học đạo. V́ tuệ nhăn chư thánh có khả năng phá hủy phiền năo, nên gọi là Pháp luân. 
Câu Xá luận cũng nói rằng mọi Thánh đạo đều là Pháp luân. 
Hoặc v́ Thể chỉ lấy tám Thánh đạo chi, như bánh xe có đủ ổ trục, vành bánh, nan hoa với nghĩa viên măn :
Chính kiến, Chính tư duy : gọi là ổ trục, v́ đó là căn bản.
Chính ngữ, Chính nghiệp, Chính mệnh : gọi tên là nan hoa, nhân ổ trục mà có. 
Chính niệm, Chính cần, Chính định : gọi tên là vành bánh v́ nó thâu tóm các thứ c̣n lại của bánh xe. 
Khác với tiểu thừa, hành tướng tu riêng biệt của tám Thánh đạo này tuy tại Tu đạo, nhưng thực ra Thể của chúng thông với Kiến đạo và Vô học đạo.
Thế tôn ưng vô tám Thánh đạo (ư nói Phật không c̣n phải tu tám Thánh đạo chi).
2/ Pháp luân nhân : chỉ các giáo pháp  Văn, Tư, Tu v.v… có khả năng sinh ra Thánh đạo sau này. Trong 17 danh của Kinh Vô Lượng Nghĩa cũng có tên là Pháp luân. Trong các kinh luạân đều nói rằng giáo pháp của Phật gọi tên là Pháp luân.
Câu Xá luận cũng nói : đó tức là tất cả pháp môn 3 chuyển 12 hành tướng gọi là Pháp luân.
Du Già cũng nói : 3 ṿng 12 hành tướng gọi là phương tiện để đắc cái sở đắc.
Cái trước làm nhân cho cái sau, gộp lại làm nhân quả, nên gọi là phương tiện.
Lại nói : 3 ṿng chính chuyển Kiến, Tu, Vô học theo thứ tự của chúng. Trí kiến hiện quán, gọi là phương tiện.
3/ Luân quyến thuộc : chỉ các Thánh đạo trợ giúp cho năm uẩn. 
Du Già v.v… nói rằng : đó là các pháp Giới và Tín v.v… mà bậc Thánh ưa thích. Những pháp này giúp cho việc quán thêm sáng suốt, giúp đạo trừ hoặc, nhưng chẳng phải là chính đoạn.
4/ Pháp luân cảnh : chỉ các pháp bốn Thánh đế, mười hai nhân duyên, ba tính v.v…
Du Già nói : cảnh sở duyên để đắc cái sở đắc, đó là chỉ bốn Thánh đế. Kinh này cũng nói : Đại Thông Trí Thắng chuyển mười hai nhân duyên. 
Kinh Giải Thâm Mật thuyết Y hiển liễu tướng, nói : ba vô tính đều y vào biến kế sở chấp, đó gọi là Pháp luân.
5/ Pháp luân quả : Du Già nói : “để đắc cái sở đắc, đó là đại Bồ đề”. Văn sau c̣n nói : đó là quả bao gồm trong bốn quả Sa môn. Bồ đề của Thanh văn của Độc giác và Vô thượng Bồ đề của các vị Như Lai, đó là Pháp luân quả. 
Du Già lại nói : 3 ṿng 12 hành tướng, đó gọi là phương tiện để đắc cái sở đắc. 
Lại nói : 3 ṿng chủ yếu chuyển Kiến, Tu, Vô học theo thứ tự của chúng. Trí kiến hiện quán gọi là đắc phương tiện. Cho nên Bồ đề Niết bàn gọi là quả sở đắc. 
Song năm thể này chẳng qua chỉ là bốn loại :
 1) Giáo 3) Hạnh 
 2) Lư 4) Quả
2. Thích danh (giải thích tên gọi) :
• Gọi là Phạm luân : Như Lai Ứng cúng là Phạm. Chuyển pháp bằng thứ ngôn ngữ tăng thượng, nên gọi là Phạm luân.
• Gọi là Pháp luân : Pháp có nghĩa là đáng để quỹ tŕ (làm khuôn phép để giữ ǵn). Là tính do các pháp như Chính kiến v.v… h́nh thành, nên gọi là Pháp luân. 
Luân (bánh xe) có bốn nghĩa :
a) Nghĩa Viên măn (tṛn trặn đầy đủ); có đủ ổ trục, vành bánh, nan hoa. Hoặc Trạch pháp giác v.v… thể dụng đầy đủ th́ gọi là Luân.
b) Nghĩa tồi hoại (phá hủy trừ diệt) : bốn loại pháp này dù phục, hay đoạn, dù trợ hay chính đều có khả năng tồi hoại được các phiền năo chưa đoạn.
c) Nghĩa trấn át : v́ khiến cho các phiền năo đă hàng phục được chẳng thể tái hiện.
d) Nghĩa bất định : từ tự Kiến tới tự Tu, từ tự Tu tới tự Vô học, từ tự Vô học trí phát ra ngôn giáo. 
Tha từ ngôn Giáo mà hiểu đế Lư, tha từ đế Lư mà khởi chính Hạnh, tha từ chính Hạnh mà khởi Quả trí , xoay vần như vậy lại v́ tha mà thuyết. 
Như luân bảo của Chuyển luân vương, có khả năng hàng phục được phiền năo chưa phục, trấn át được phiền năo đă phục, qua rồi lại qua.
Du Già luận nói : “Cần phải biết rằng Thế tôn chuyển pháp sở giải đặt vào ngay nơi thân A Nhă Kiều Trần Như”. 
Đây lại tùy căn cơ mà đặt vào thân khác. Đó lại tùy duyên mà chuyển đặt vào thân khác.
V́ nghĩa xoay vần tùy chuyển này, cho nên gọi tên là Pháp luân. Pháp tức là luân, đó là Tŕ nghiệp thích. 
Chuyển : có nghĩa là Động, là Hiển, là Vận, là Khởi : 
Động tuyên ngôn giáo.
Hiển dương diệu lư.
Vận thánh giáo trước âm thanh.
Khởi chân trí sau ngôn ngữ.
Trừ diệt hoàn toàn mọi chướng năo, gọi là chuyển Pháp luân.
Sở chuyển : tức là Pháp luân, hoặc là sự chuyển động của Pháp luân. Hai cách giải thích đều được.
3. Chuyển tướng : 
Du Già quyển 95 nói rằng do năm loại tướng chuyển Pháp luân, cần phải biết rằng đó gọi là khéo chuyển Pháp luân :
1/ Khi Thế tôn c̣n là Bồ tát th́ là cảnh giới sở duyên để đắc sở  đắc.
2/ Đắc sở đắc phương tiện.
3/ Chứng đắc điều tự ḿnh cần phải chứng.
4/ Chứng rồi th́ gây dựng cho người khác, khiến họ sinh tín giải sâu sắc đối với điều ḿnh tự chứng được.
5/  Khiến người khác sinh ra tín giải sâu sắc đối với điều mà người khác chứng.
Ư này nói chung về hóa thân hóa tướng lúc tự chứng quả cũng khiến hạng Thanh văn v.v… có điều sở chứng, chẳng y vào báo thân Bồ tát mà thành nghĩa. Hoặc cũng y vào thực Bồ tát mà chuyển nghĩa, y chung vào thủy chung cứu cánh mà thành luận, chẳng y vào một hội mà thành ba chuyển.
• Cảnh sở duyên : chỉ bốn Thánh đế, v́ y vào An lập đế, Phi an lập đế, y vào ba tính đều bao gồm cả ở đây.
• Đắc phương tiện : chỉ 3 ṿng 12 hành tướng trí ở ngay trong bốn Thánh đế này. Đây là từ tướng ba ṿng chuyển Pháp luân để được cái nhân của Bồ đề vô thượng. 
 Ba ṿng chuyển : 

• Ṿng chuyển đầu : chỉ xưa kia lúc Bồ tát nhập hiện quán đă biết rơ như thực rằng đây là Khổ thánh đế, nói rộng ra cho đến đây là Đạo thánh đế, trong đó tất cả hiện lượng thánh trí có khả năng đoạn trừ được các phiền năo mà Kiến đạo đoạn trừ, bấy giờ được gọi là Chân thánh tuệ nhăn.
V́ căn cứ vào ba đời quá khứ, vị lai, hiện tại mà có sự sai biệt theo thứ tự các đời đó mà gọi là Trí minh giác. Đây là nói về một trí có tên chung gọi là Pháp nhăn, có ba hành tướng gọi là Trí minh giác, chứ chẳng phải ở một đế mà biệt khởi bốn trí.
Do chân Kiến đạo chỉ một sát na, chẳng giống với tiểu thừa trên dưới biệt quán. Căn cứ vào ư nghĩa của việc chứng Diệt mà thuyết chung cho cả ba đời, chứ chẳng phải ba đời đều có Diệt đế.
• Ṿng chuyển thứ hai, đó là nói rằng : đây là hạng Hữu học, nhờ diệu tuệ mà thông đạt được đúng như thật rằng : “sau này ta vẫn c̣n việc phải làm, đó là cần phải biết hết Khổ đế (mà ta) chưa biết, cần phải đoạn hẳn Tập đế mà ta chưa đoạn, cần phải chứng được Diệt đế (mà ta) chưa chứng, cần phải tu tập Đạo đế (mà ta) chưa tu”. Như vậy th́ cũng có bốn hành tướng như trên nên biết.
• Ṿng chuyển thứ ba, đó là nói rằng : đây là hạng Vô học, v́ đă được Tận trí Vô sinh trí.
Nói rằng “các việc cần làm ta đều đă làm”, có nghĩa là “ta đă biết hết Khổ đế chưa biết”, nói rộng ra cho tới “ta đă tu tập Đạo đế chưa tu”. Cũng có bốn loại hành tướng như trên nên biết.
4. Sai biệt : 
Chỗ sai biệt ở đây là ở chỗ bốn hành tướng của hai ṿng chuyển đầu là Chân thánh tuệ nhăn của hạng Hữu học, c̣n của ṿng chuyển cuối cùng là Chân thánh tuệ nhăn của hạng Vô học.
Xem ư văn này th́ lúc chuyển ṿng đầu, ở địa vị Gia hạnh trí trước Kiến đạo tuy biết bốn đế, nhưng chỉ là chuyển nhân, vẫn chưa phải là chính chuyển, v́ chưa tồi phá. Do đó  chỉ gọi là “tổn lực ích”, bao gồm trong năng chuyển vị.
Nhập chân Vô gián đạo trong Kiến đạo mới chính thức được gọi là chuyển, v́ thực sự đoạn được Hoặc. 
Giải thoát đạo cùng Tương kiến đạo cũng gọi là sơ chuyển, (v́) tuy chưa đoạn Hoặc nhưng đoạn thô trọng, trấn át được (các thứ) đă hàng phục, cho nên cũng chẳng phải là biệt tri tướng bốn đế. 
Sau đó các hành tướng mà Tu đạo khởi lên như Ứng biến tri v.v… trước khi đoạn Hoặc th́ gọi là chính chuyển tướng. 
Chính khởi chân trí cho đến tâm kim cương đoạn các phiền năo cũng thuộc chuyển này, v́ khởi Biệt hành tướng chỉ muốn hướng tới cách đoạn trừ các Hoặc.
Chiết phục, chính đoạn đều gọi là Chuyển cả.
 C̣n như trí cho rằng “ta đă làm việâc cần phải làm” của hạng Vô học khởi lên sau Giải thoát đạo, sau này chẳng đoạn nữa, chỉ trấn át các Hoặc đă chịu hàng phục, không hàng phục các Hoặc chưa bị hàng phục. Trước Kiến đạo tuy có cách hàng phục các Hoặc, vẫn chẳng gọi là chuyển, v́ chẳng phải vô lậu. V́ trước không có vô lậu nên chẳng đồng Tu. 
Như vậy th́ Bồ tát tự làm ba chuyển :
- Chuyển đầu : tại Kiến đạo, gọi là Ấn tướng chuyển. 
- Chuyển sau : tại Tu đạo gọi là Ứng tu chuyển. 
- Chuyển cuối : tại Vô học đạo gọi là Dĩ tác chuyển.
 Cứ mỗi một lần chuyển, ở mỗi đế đều sinh bốn hành tướng, như vậy trong ba chuyển mỗi đế sẽ có 12 tướng, bốn đế cả thảy sẽ có 48 tướng. Chẳng qua 12 là số hành tướng của mỗi đế trong cả ba chuyển, nên gọi chung là 3 chuyển 12 hành tướng.
Câu Xá cũng nói về nhăn, trí, minh, giác, v́ quán riêng từng đế. Luận đó theo như thứ tự mà chia làm bốn thứ pháp nhẫn, pháp trí, loại nhẫn, loại trí. Nếu giải thích chẳng thành 8 đế như cách giải thích này, th́ quán ở mỗi một đế sẽ không có bốn hành tướng. Hoặc nhẫn và trí mỗi thứ có bốn hành tướng.
- Chiếu cảnh phân minh, th́ gọi là nhăn (mắt). 
- Đối trị vô tri, đó gọi là trí. 
- Đối trị vô minh th́ gọi là minh. 
- Đối trị tà giác, th́ gọi là giác. 
Chẳng giống với đây, chứng được điều tự ḿnh cần chứng đắc th́ gọi là “đắc Vô thượng chính đẳng Bồ đề”, có nghĩa là được cả hai Bồ đề và Niết bàn. Cái trước là nhân của cái sau. Cái trước là Vô gián đạo làm nhân cho Giải thoát đạo sau. Đây là nói cái quả của Bồ tát tự chuyển ba ṿng Pháp luân. 
Hoặc nói Pháp thân Niết bàn Chân lư gọi là Vô thượng Bồ đề, v́ khởi lên cái trí của Báo thân Bồ đề, ở địa vị Vô học đă làm đặng chứng Pháp thân. 
Câu Xá luận v.v… không có mục Phật tự chuyển, gây dựng cho người khác, khiến họ sinh ra tín giải đối với điều tự chứng. Có nghĩa là như trưởng lăo A Nhă Kiều Trần Như nghe được chính pháp từ nơi Thế tôn rồi, thoạt đầu th́ ngộ giải pháp tứ Thánh đế, khi Phật hỏi, th́ trả lời rằng : “tôi đă hiểu pháp”. Từ đó về sau là hành tướng cứu cánh như trên đă nói. 
“Năm người đều chứng được quả A la hán, sinh giải thoát xứ ”ù. Đây nói Thế tôn tự ḿnh đắc đạo, lại ba lần chuyển Pháp luân cho người khác. Giống như Câu Xá luận nói về ba ṿng xoay quanh bốn Thánh đế: 
- Rằng “đây là Khổ” cho đến “đây là Đạo” : đó gọi là Sơ chuyển (chuyển ṿng đầu). 
- Rằng đây là “điều cần phải biết khắp” cho đến “đây là điều cần phải tu tập” : đó gọi là chuyển ṿng hai (đệ nhị chuyển). 
- Rằng “đây là điều đă biết khắp” cho đến “đây là điều đă tu tập” : đó là chuyển ṿng ba (đệ tam chuyển).
Ba ṿng lần lượt theo như thứ tự đă chỉ rơ ba thứ Kiến đạo, Tu đạo và Vô học đạo.
Đó là ba chuyển của Phật đối với người khác :
• Đầu tiên gọi là Thị tướng, v́ chỉ rơ tướng Tứ đế.
• Thứ hai gọi là Khuyến tu, v́ khuyên tu Đế hạnh.
• Cuối cùng gọi là Tác chứng, v́ biết rơ vị đó đă măn.
Do ông Kiều Trần đó đầu tiên ngộ giải, nhập Kiến đạo rồi, Phật mới hỏi ông rằng : “ngươi đă ngộ giải chưa ?” Đáp : “đă ngộ giải”, nên được tên là Giải. 
Ṿng hai, ṿng ba chuyển xong, đắc A la hán, sinh Giải thoát trí xứ, chứng đắc quả Vô vi. Đó gọi là chuyển tại thân người khác thâm sinh tín giải đối với điều Phật đă chứng.
Cuối cùng khiến người khác sinh tín giải đối với điều người khác đă chứng. Có nghĩa là như trưởng lăo A Nhă Kiều Trần Na, khởi tâm thế gian : “ta đă ngộ giải được pháp”. Phật biết rồi, khởi tâm thế gian “A Nhă Kiều Trần Na đă chứng được pháp của ta ”. Thần đất biết rồi, liền cất tiếng loan tin chỉ trong một sát na, một chớp mắt, một chốc lát mà tiếng ấy vọng tới tận Phạm thế (các cơi trời Sắc giới). 
Tâm thế gian : đây tức là tâm duyên sự, chẳng phải là tâm bị tán loạn. 
Đây là tướng thứ tư đă nói ở trên : gây dựng thánh đạo ở ngay nơi thân năm người khác, khiến họ thâm sinh tín giải đối với điều mà Phật đă  tự ḿnh chứng được.
Tướng thứ năm là khiến người khác, như thần đất v.v... biết điều A Nhă Kiều Trần đă chứng được, thâm sinh tín giải.
Sự khác biệt là ở chỗ tuy chuyển Tứ đế, pháp tướng chẳng khác, song người của ba thừa ai chứng quả nấy. 
- Hạng Thanh văn nếu trước kia ở trong ba đời hoặc 60 kiếp đă tu tập rồi, th́ nghe điều Phật thuyết sẽ y vào Uẩn, Xứ, Giớiù mà chứng lư Tứ đế ; đó gọi là Thanh văn Pháp luân.
- Hạng Độc giác nếu trước kia ở trong bốn đời hoặc một 100 kiếp đă tu tập rồi, th́ nghe điều Phật thuyết sẽ y vào mười hai Duyên khởi mà tu chứng Tứ đế, đó gọi là Độc giác Pháp luân. 
- Hàng Bồ tát nếu trước kia trong một Đại A tăng kỳ kiếp đă tu tập rồi, th́ nghe điều Phật thuyết sẽ y vào ba tính mà chứng được lư Tứ đế, đó gọi là Bồ tát Pháp luân.
Chẳng thế th́ ba thừa cùng quán Tứ đế cùng đồng thời chứng thánh, như vậy c̣n có ǵ khác biệt nữa ?
Kinh Đại Bát Nhă nói : “Lúc ban đầu khi Thế tôn chuyển Pháp luân Tứ đế ở nước Ba La Nại, vô lượng chúng sinh phát tâm Thanh văn, chứng quả Thanh văn; vô lượng chúng sinh phát tâm Độc giác, vô lượng chúng sinh phát khởi tâm Vô thượng chính đẳng giác chứng ở Sơ địa, Nhị địa, Tam địa … cho đến một đời sẽ được Bồ đềà”. 
Cho nên biết rằng khi ở Lộc dă mới bắt đầu chuyển Pháp luân chung cho cả ba thừa. Nếu chẳng thế th́ tới tuần 7 ngày thứ hai đă thuyết về Thập địa, cớ sao chẳng gọi là chuyển  Pháp luân ? V́ đó chẳng phải là pháp mà cả ba thừa cùng tu, nên chẳng gọi Sơ chuyển Pháp luân. 
Nhưng thực ra nếu trí ba thời của tha thân phát khởi th́ cũng có người chỉ trong một đời đă chứng được thánh quả gọi là tam chuyển, như Giải Kiều Trần v.v…, Phật ở Lộc uyển chỉ trong một thời đă khiến ông ấy lần lượt chứng được ba quả này, đó gọi là tam chuyển.
Kinh Vô Cấu Xưng nói :
“Tam chuyển Pháp luân ở đại thiên.
Luân ấy năng tịch, bản tính tịch.
Hi hữu pháp trí, trời người chứng.
Thế là Tam bảo hiện thế gian”.
Tức như kinh này nói rằng : 
“ Bèn có tiếng Niết bàn, 
 Cùng với A la hán, 
 Tên Pháp, Tăng sai khác”.
Tam bảo xuất hiện vậy : 
- Phật là Phật bảo. 
- Niết bàn và ngôn âm, Quả pháp và Giáo pháp đó gọi là Pháp bảo. 
- A Nhă Đa v.v… , đó gọi là Tăng bảo. 
A la hán đây là Kiều Trần Như. 
Lại nói : Tăng đây là chỉ bốn người khác, v́ c̣n trụ ở địa vị Hữu học. 
Trí năng chứng, Đế sở chứng tức Hạnh Lư pháp bảo. Bốn pháp đă đủ. 
Cùng với Phật và Tăng. Năng hóa, sở hóa, đă có Thể (tướng) xuất hiện, nên gọi gộp lại là Tam bảo xuất hiện ở thế gian.
5. Tam thừa : 
Ba thừa đây là chỉ Phật và Bồ tát cùng với Thanh văn thuyết pháp khiến người khác đắc trí đoạn Hoặc, th́ đáng gọi là chuyển Pháp luân. Độc giác th́ chẳng thế.
Kinh Niết Bàn nói rằng : Duyên giác thuyết pháp  chẳng thể khiến người ta đắc pháp nhu nhuyễn v.v… . Do hạng Thanh văn chẳng biết đâu là thuốc, đâu là bệnh, nên chẳng cho Thanh văn cái danh là chuyển Pháp luân. Như vậy xét về lư mà nói cũng chẳng sai.
*
-Kinh văn : “Từ kiếp xưa tới nay” tới “vẫn thường thuyết như vậy”. 
Tán rằng : đó là kết : hội cổ kim.
Chẳng phải là chỉ đến ngày nay mới tán thán Niết bàn hết hẳn mọi khổ, mà xưa nay thường vẫn nói thế. Cho nên xưa giống với nay.
*
-Kinh văn : “Xá Lợi Phất nên biết”  tới  “nghe thuyết pháp phương tiện”.
Tán rằng : dưới có 7 tụng nói rơ : nay thuyết chân Thực. 
Tụng rằng : như vậy đều để được Nhất thiết chủng trí. Trong chia làm bốn :
- 2 tụng đầu nói rơ : căn chín, tới gặp.
- 1 tụng nói rơ : nghĩ rằng họ đáng độ.
- 3 tụng : chính thuyết chân Thực.
- 1 tụng : kết thành pháp nghi.
Đây là phần đầu : Ta thấy người trước đây được độ bằng quyền giáo, đă từng nghe quyền giáo ở nơi Phật, v́ thiện căn đă chín, nay đến gặp Phật. Cho nên văn trên nói : chúng sinh hội này đă từng thấy Phật, cũng đă từng thấy Thích Ca, nay gọi chung là chư Phật.
*
-Kinh văn : “Ta liền nghĩ như vầy” tới “nay chính là đúng lúc” .
Tán rằng : nghĩ rằng họ đáng độ bèn thuyết Phật tuệ cho họ, khiến họ thích tu học, nay căn đă chín chẳng dạy sao được !
*
-Kinh văn : “Xá Lợi Phất nên biết”  tới  “chẳng thể tin pháp này”.
Tán rằng : dưới là 3 tụng chính thuyết chân Thực. Chia làm hai :
• 1 tụng đầu nói rơ : độn chẳng đáng truyền thụ.
• 2 tụng sau nói rơ : lợi th́ đáng truyền thụ.
Đây là phần đầu.
Loại độn này gồm năm hạng có nhược điểm chẳng thể thụ nổi pháp đại thừa :
1/ Loại độn căn nghe pháp chẳng hiểu hoặc loại A Điên Để Ca.
2/ Loại tiểu trí tuy thông minh, nhưng t́nh kiến chẳng rộng. Hoặc là loại thú tịch.
3/ Loại chấp tướng, có nghĩa là khởi kế chấp hai tướng Không Hữu, học sai hành bậy. Hoặc là loại Bất định chủng tính chấp hữu phi không, v́ căn chưa chín.
4/ Hạng kiêu cậy sự thịnh của ḿnh, các hạng giàu sang say sưa phóng túng. Hoặc hạng phàm phu hữu tính căn chưa chín, bẩm tính say sưa phóng dật.
5/ Hạng mạn cậy ḿnh lấn lướt người khác, như bọn năm ngàn người. Hoặc hạng c̣n khởi lên các phiền năo như bảy loại mạn v.v…
Các hạng trên chẳng thể tin đại thừa, chẳng nên truyền thụ cho họ.
*
-Kinh văn : “Nay ta hỷ, vô úy”   tới   “đều cũng sẽ thành Phật” .
Tán rằng : đây là 2 tụng thuyết minh về hạng đáng được truyền thụ. 
- Tụng đầu thuyết minh về bỏ quyền theo thực.
- Tụng sau nói rơ việc trừ nghi. Đă được hỷ th́ hỷ vô lượng, chẳng ghen với việc chúng sinh thành Phật. 
Vô úy : đây có nghĩa là quyết định làm sư tử gầm, v́ lư quyết định, v́ ở giữa các Bồ tát đứng trước những người thắng trội, v́ nhị thừa đều phát tâm Bồ tát. 
Căn cứ vào lư chân Thực mà thuyết về đạo nhất thừa th́ gọi là chính trực, chẳng tùy cơ quyền mà thuyết có ba, nên gọi là xả phương tiện. Chỉ thuyết về đạo nhất thừa vô thượng, tức là tỏ rơ nay chính trực, chỉ thuyết một đạo, chẳng c̣n có các đạo khác. 
Bồ tát địa tiền đốn ngộ nghi rằng riêng ḿnh được Bồ đề, c̣n Thanh văn th́ không có phần. 
Bồ tát bất định chủng tính nghi rằng đối với quả Phật ḿnh cũng không có phần, cho nên muốn thoái chuyển theo tiểu thừa. 
Nay các loại Bồ tát này nghe pháp, các mối nghi đó đều trừ hết.
Hiện tiền 1.200 vị Thanh văn danh cao nghi rằng ḿnh chẳng được làm Phật. Nay chính đang thuyết cho họ rằng : “cũng đều sẽ làm Phật”.
Kinh Niết Bàn do đó nói : “Tu đà hoàn tám vạn kiếp cho đến Bích chi mười ngàn kiếp th́ tới”. 
Tới : là tới ở địa vị Sơ phát tâm trong Thập tín. Những hạng này tu hành cực kỳ chậm chạp đần độn, chẳng như Bồ tát sơ tu thủy nghiệp. Đây là căn cứ vào hạng bất định, chẳng phải là các hạng nhị thừa đều định làm Phật. 
Cho nên Kinh Niết Bàn, quyển thứ 34 nói rằng: “Ta ở một thời thuyết về một thừa, một đạo, một hạnh, một duyên có thể làm đại tịch tĩnh cho chúng sinh đoạn hẳn mọi kết phược sầu khổ. Khổ và khổ nhân, khiến hết thảy chúng sinh tới ở một Hữu. Các đệ tử của ta chẳng hiểu ư ta, nên đă nói những lời như vầy ở giữa đại chúng : Như Lai nói Tu đà hoàn cho tới A la hán đều đắc Phật đạo v.v…”.
*
-Kinh văn : “Như chư Phật ba đời”  tới  “thuyết pháp không phân biệt” .
Tán rằng : đây là kết thành pháp nghi.
Diệu lư đại thừa, thể không phân biệt. Ba thừa chẳng khác, thảy đều làm Phật. Cho nên thuyết pháp đó.
*
-Kinh văn : “Các đức Phật ra đời” tới “người này cũng vẫn khó” .
Tán rằng : dưới là đoạn thứ sáu có 7 tụng, tụng về mục thứ nhất đă nói ở trên, tức là mục chưa nghe pháp th́ khiến nghe pháp. 
Chia làm bốn phần :
• 2 tụng : pháp thuyết bốn hiếm.
• 2 tụng rưỡi : thí dụ nêu bật hai hiếm.
• 1 tụng rưỡi : khuyến tín.
• 1 tụng : thán kết.
Phần đầu này gồm bốn cái hiếm : 
1) Phật ra đời, hiếm. 
2) Thuyết pháp, hiếm. 
3) Khó mà được nghe, hiếm. 
4) Có thể nghe được, hiếm.
- Phật ra đời, hiếm : như ngàn Phật thời Hiền kiếp, nay đến kiếp trụ thứ 9 rồi mà mới có bốn Phật ra đời. Sau này đến kiếp thứ 10 mới có Phật Di Lặc ra. Tới kiếp thứ 15 có 994 Phật ra. Kiếp này hoại rồi, Phật Cốt Lô Chi một ḿnh làm vua một kiếp. Trải qua 12 kiếp nữa, mới đến kiếp Tinh Tú. Có Phật Sơ Tịnh Quang Xưng Vương trong một ngàn Phật của kiếp đó ra đời. Sau đó trải qua 300 kiếp uổng qua đi không hề có Phật. Nên Phật ra đời, hiếm vậy.
- Thuyết pháp này, hiếm : như Phật Ca Diếp trụ dưới cây 7 ngày chẳng thuyết pháp này. Tới nay Thích Ca thành Phật 40 năm mới thuyết kinh này. Nên thuyết pháp này, hiếm.
- Khó mà được nghe, hiếm : chúng sinh thường ở trong tám nạn, làm sao mà gặp được Phật, nên khó mà được nghe, thế là hiếm. 
- Có thể nghe được, hiếm : tuy gặp ngày Phật ra, nhưng lại nghe tiểu thừa, chẳng ḥng đại pháp, cho nên có thể nghe được là hiếm.
*
-Kinh văn : “Ví như hoa Ưu đàm”  tới  “hơn cả hoa Ưu đàm”. 
Tán rằng : đây là ví dụ để nêu bật hai hiếm : 
- 1 tụng, nói rơ pháp xuất hiếm. 
- 1 tụng rưỡi, tụng về nghe tán hiếm, v́ nghe pháp và tán thán, c̣n hiếm hơn là hoa Ưu đàm. 
Hành chân pháp hạnh là để cúng dàng Phật ba đời :
- Tự ḿnh nghe, bảo người khác nghe đều gọi gộp là nghe pháp. 
- Vui mừng mà nghe, đây gọi là hoan hỷ. Nghe mà tán thán, đây gọi là tán. 
Hành bốn thứ đó đều là chân hành.
*
-Kinh văn : “Các ngươi chớ nghi ngờ”  tới   “không ù đệ tử Thanh văn”.
Tán rằng : khuyến tín chớ nghi.
*
-Kinh văn : “Các ngươi Xá Lợi Phất”  tới   “bí yếu của chư Phật”.
Tán rằng : kết luận tán thán pháp thâm diệu. Đây là thắng đạo mật tạng của chư Phật.
*
-Kinh văn : “V́ đời ác năm trược” tới “thảy chẳng cầu Phật đạo”. 
Tán rằng : dưới là đoạn lớn thứ hai, có 3 tụng, tụng về phá bốn nghi.
Chia làm ba phần :
a) 1 tụng đầu nói về Phật ra đời vào thời nào để giáo hóa bằng ba thừa : ra đời vào thời ngũ trược ác thế !
b) Thứ đến 1 tụng, nói về làm sao mà biết là Tăng thượng mạn ?  Nếu đệ tử ta, tự cho rằng ḿnh là A la hán mà chẳng tin pháp này, th́ thật là phi lư.
c) 1 tụng nói về thế nào th́ đáng để thuyết ? Trừ sau khi Phật diệt rồi th́ hiện tiền không Phật.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Người ác đời vị lai”   tới   “phá pháp, đọa ác đạo”. 
Tán rằng : đây là tụng giải thích làm sao mà biết là Tăng thượng mạn ? 
Người ác đời sau chẳng tin pháp này, phần nhiều là Tăng thượng mạn. Chẳng những là hạng Tăng thượng mạn mà các người ác khác cũng chẳng thể tin. Khi Phật c̣n tại thế, ngài đă thuyết về tướng của mạn. Sau khi Phật diệt độ rồi khó mà biết được, nên nêu riêng ra ở đây.
*
-Kinh văn : “Người tàm, quư, thanh tịnh”  tới    “rộng khen đạo nhất thừa”. 
Tán rằng : đây là tụng về thế nào th́ đáng thuyết ? 
Có đủ bốn đức :
• Một là tàm, sùng trọng bậc hiền thiện, lại tự xét bản thân thấy xấu hổ về tội lỗi.
• Hai là quư, khinh cự kẻ bạo ác, lại xét thế gian, thấy xấu hổ về tội lỗi.
• Ba là thanh tịnh, trong ngoài đều không có tỳ vết, vứt bỏ danh lợi thế gian.
• Bốn là chí cầu Phật đạo, chẳng thèm nhị thừa, có thể tin được kinh này. 
Loại bất ngu pháp mới đáng để thuyết kinh này cho nghe. Giả sử là hạng ngu pháp, nếu gặp Phật khác th́ sẽ được quyết định liễu ngộ đạo nhất thừa.

-Kinh văn : “Xá Lợi Phất nên biết”   tới   “tự biết sẽ thành Phật”. 
Tán rằng : trong này có 3 tụng, tụng đoạn lớn thứ tư trong phẩm : khuyên phát hỷ tâm, khiến thích thành Phật :
• 1 tụng rưỡi đầu, nói rơ Phật pháp đều giống nhau, chẳng học th́ chẳng liễu ngộ.
• 1 tụng rưỡi sau, khuyên phát hỷ tâm, thích cầu thành Phật.
Cứ như lời văn, có thể hiểu được.  

 

HẾT QUYỂN 4

 

previous.png       back_to_top.png       next.png

 

 

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0