佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH ]

 

KINH PHÓNG QUANG BÁT-NHÃ

Hán dịch: Đời Tây Tấn, Tam tạng Vô-la-xoa, người nước Vu Điền.

QUYỂN 18

Phẩm 78: TRỤ NHỊ KHÔNG

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Thế nào là pháp như mộng, như tiếng vang, như huyễn, như hóa, như sóng nắng, như chớp nắng, như bóng? Các pháp ấy đều là không th́ làm sao mà có chỗ tạo tác để nói là đạo, là tục, là vô vi, hữu vi, hữu lậu, vô lậu, quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật, Chánh đẳng giác?

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Người phàm phu ngu si, ít học, dựa vào pháp mộng huyễn mà có những kiến chấp; nhân đó thân, khẩu, ý tạo ra các việc ác, không đúng chánh pháp, hoặc làm việc thiện nên quả báo có tốt, xấu, nhận lấy tội phước trong ba cõi. Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, an trụ ở hai thứ không, từ đầu đến cuối cũng đều là không, v́ giáo hóa chúng sinh nên nói có năm ấm, mười hai xứ, mười tám giới đều là không. Các pháp này như mộng, như tiếng vang, như huyễn, như hóa, như sóng nắng, trong đó không có năm ấm, mười hai xứ, mười tám giới, cũng không có mộng, tiếng vang, huyễn hóa, sóng nắng, tất cả đều không thấy. Các pháp đều không có h́nh tướng, không có sở hữu, không có năm ấm.

Các ông thấy có năm ấm th́ không có mười hai xứ, thấy có các xứ th́ không có mười tám giới. Các ông có các giới là do nhân duyên điên đảo nên thấy có các pháp tùy theo hành động mà có tiếp nhận.

Tại sao các ông đối với các pháp không có mà cho là có h́nh tướng! Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng phương tiện quyền xảo. Đối với các chúng sinh tham lam tật đố th́ dạy cho họ bố thí để được giàu sang. Khi không còn tham lam, tật đố th́ Bồ-tát dạy cho họ tŕ giới, do giữ giới được sinh Thiên, khi đã thành tựu giới th́ làm cho họ trụ vào chánh định, nhờ chánh định được sinh lên cõi Phạm thiên. Nhờ đầy đủ bốn Thiền, bốn Không định, vô số phương tiện từ bố thí, tŕ giới đến Thiền định để đạt đến Niết-bàn.

Bồ-tát lại dùng các pháp không có h́nh tướng như ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, ba môn Giải thoát, tám Giải thoát, chín Thứ đệ thiền, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Tâm vô lượng, mười tám pháp Bất cộng để lập ra ba Thừa, nói đạo Bồ-tát.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Thật là kỳ diệu, chưa từng có! Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật sâu xa, các pháp hoàn toàn là không mà lại phân biệt nói là pháp thiện, pháp ác, pháp đạo, pháp tục, pháp hữu lậu, vô lậu, pháp hữu vi, vô vi.

Phật dạy:

–Đúng vậy!

Này Tu-bồ-đề! Thật là kỳ diệu chưa từng có. Các pháp hoàn toàn là không mà các vị ấy lại làm cho có vị trí. Các ông nên biết, việc làm của Bồ-tát thật kỳ diệu mà các bậc La-hán, Bích-chi-phật không thể sánh kịp. Các ông nên đảnh lễ các vị Đại Bồ-tát.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát làm những việc ǵ chưa từng có mà các bậc La-hán, Bích-chi-phật không thể sánh kịp?

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Nếu ông muốn nghe th́ hãy chú ý, suy nghĩ kỹ, ta sẽ giảng nói. Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, an trụ sáu pháp Ba-la-mật, nội không, ngoại không, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, bốn Vô ngại trí và năm Thần thông, đến khắp mười phương, quán sát chúng sinh. Đối với người nào có thể dùng bố thí để giáo hóa th́ Bồ-tát dùng bố thí; người nào có thể dùng giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ th́ tùy theo đó mà dùng sáu pháp Ba-la-mật để giáo hóa họ; người nào nên dùng bốn Thiền, bốn Không định để được giải thoát th́ dùng thiền định để giáo hóa họ; người nào nên dùng Từ, Bi, Hỷ, Xả để được độ thoát th́ dùng bốn Vô lượng tâm để giáo hóa họ, người nào nên dùng ba mươi bảy phẩm Trợ đạo để được độ thoát th́ dùng năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý để giáo hóa họ; người nào nên dùng ba môn Giải thoát để được độ thoát th́ dùng ba môn Giải thoát để giáo hóa họ.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát dùng bố thí để giáo hóa chúng sinh như thế nào?

Phật dạy:

–Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, tùy theo vật chúng sinh cần dùng mà cung cấp cho họ như là: y phục, thức ăn, thuốc uống, voi, ngựa, xe cộ, vàng bạc châu báu. Bồ-tát cúng dường cho Phật, Bích-chi-phật, A-la-hán, Tu-đà-hoàn cho đến bố thí cho phàm phu, các loại côn trùng nhỏ nhít trong ba đường ác, tùy theo sở thích mà không có phân biệt. V́ sao? V́ các pháp không sai khác nên Bồ-tát b́nh đẳng đối với các pháp, do đó được tuệ trí Nhất thiết không phân biệt.

Phật dạy:

–Thấy người đến xin, nếu Đại Bồ-tát suy nghĩ: “Ta cúng dường cho Phật sẽ được phước đức, còn bố thí cho súc sinh sẽ không có phước đức”, th́ chẳng phải là Bồ-tát. V́ sao? V́ Bồ-tát phát đạo tâm không nghĩ như vầy: “Nếu ta bố thí th́ sẽ được sinh trong bốn dòng họ. Bố thí rồi ta sẽ hướng dẫn chúng sinh đến Vôdư Niết-bàn.”

Bồ-tát xem chúng sinh như bà con thân thuộc, bố thí cho họ mà không chút phân biệt, cũng không nói sẽ cho người này, không cho người kia, không phân biệt người thân, kẻ sơ, bố thí chúng sinh mà không có ǵ ngăn ngại. V́ sao? Bồ-tát v́ chúng sinh mà phát tâm Vô thượng Bồ-đề, nếu có ý phân biệt th́ có lỗi đối với Như Lai Vô Sở Trước Chánh Đẳng Giác, các vị Duyên giác, các bậc Chân nhân. V́ sao? V́ Trời, Người và A-tu-luân không thể thay thế, Bồ-tát đã làm chiếc cầu để cứu độ chúng sinh. Đó là pháp của Bồ-tát.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, nếu có người hoặc phi nhân đến chỗ Bồ-tát, xẻ thân Bồ-tát ra từng đoạn th́ Bồ-tát cũng không phân vân là cho hay không cho. V́ sao? V́ Bồ-tát này muốn cứu độ chúng sinh nên nhận lấy khổ h́nh ấy, dùng thân này làm lợi ích cho tất cả. Bồ-tát nên nghĩ như vầy: “Ta v́ chúng sinh mà thọ thân h́nh này, nay ai cần cứ đến lấy đi.”

Tu-bồ-đề! Nếu thấy người đến xin, Bồ-tát nên suy nghĩ: “Người bố thí là ai, người nhận là ai, vật bố thí là những vật ǵ? Thật ra, các pháp này không thể thấy được, v́ các pháp này thường rỗng không, không có chỗ cho, cũng không có chỗ lấy.”

Tu-bồ-đề! Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật nên học nội ngoại không, hữu vô không. An trụ trong pháp không này mà bố thí th́ đầy đủ Bố thí ba-la-mật. Đã đầy đủ bố thí th́ không phân biệt nội pháp và ngoại pháp, sao lại nói ai là người cắt, ai là người bị cắt.

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Ta dùng Thiên nhãn quán sát vô số quốc độ khắp mười phương, thấy các vị Đại Bồ-tát vào trong địa ngục th́ địa ngục trở nên mát mẻ. Bồ-tát thuyết pháp cho chúng sinh trong địa ngục bằng ba pháp biến hóa: Một là Thần túc, hai là tùy theo phương tiện, ba là bốn Tâm vô lượng cho chúng sinh trong địa ngục. Nghe rồi, họ sinh lòng kính ngưỡng Bồ-tát và được xa ĺa khổ não. Tiếp theo Bồ-tát nói pháp ba thừa làm cho họ đều được thoát khổ.

Tu-bồ-đề! Ta dùng Phật nhãn quán sát vô số quốc độ khắp cả mười phương, thấy các vị Đại Bồ-tát vui vẻ cúng dường chư Phật, không có kiêu mạn, kính mến chư Phật, không sân giận, oán ghét, chư Phật thuyết pháp th́ các vị Bồ-tát đều thọ tŕ cho đến khi thành Chánh đẳng giác, không hề quên mất.

Tu-bồ-đề! Ta dùng Phật nhãn quán sát vô số quốc độ trong khắp mười phương, thấy các vị Bồ-tát v́ chúng sinh mà cắt thân thể làm nhiều đoạn rồi phân tán bốn phía. Các loài chim bay, thú chạy vào ăn thịt Bồ-tát đều sinh lòng Từ. Do có lòng Từ đối với Bồ-tát nên khi súc sinh xả bỏ thân ḿnh, được làm thân người, gặp được chư Phật, nghe giảng kinh pháp, theo đó tu hành, do thực hành pháp ba Thừa nên được giải thoát.

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Các Đại Bồ-tát phát tâm Vô thượng Bồ-đề làm nhiều lợi ích cho chúng sinh, có thể làm cho chúng sinh được Vô-dư Niết-bàn.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Ta dùng Phật nhãn quán sát vô số quốc độ khắp cả mười phương, thấy các Bồ-tát vào trong ngạ quỷ, ngạ quỷ trông thấy Bồ-tát liền sinh lòng Từ bi, cung kính Bồ-tát, do đó được thoát khổ. Nhờ công đức này, chúng không bao giờ xa ĺa chư Phật cho đến khi chứng đắc Niết-bàn.

Tu-bồ-đề! Chư Đại Bồ-tát thực hành đại Từ như vậy làm cho chúng sinh đều chứng đắc Niết-bàn.

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Ta cũng thấy các vị Bồ-tát đến cõi trời Tứ thiên vương và tầng trời Thứ sáu thuyết pháp cho chư Thiên. Nhờ nghe pháp ba thừa, chư Thiên đều được giải thoát, chứng đắc Niết-bàn. Nếu có thiên chúng nào say đắm năm dục lạc th́ Bồ-tát làm cho cung điện trống rỗng, rồi thuyết pháp cho họ: “Này chư Thiên, tất cả vạn vật đều là vô thường, không có tôn quý, không có thấp hèn, đâu có ǵ thường còn an ổn được.”

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Lúc đó, ta dùng Phật nhãn quán sát các quốc độ, thấy Bồ-tát thuyết pháp cho những người ca ngợi cõi Phạm thiên: “Này quý vị! Tại sao đối với pháp hoàn toàn rỗng không này lại cho là có. Các pháp này là không, vô thường, không hiện hữu, bị đoạn diệt, không nên đối với pháp ấy cho là có.”

Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát đã an trú tâm đại Từ cho chúng sinh. Đó là pháp rất đặc biệt, chưa từng có của Bồ-tát.

Tu-bồ-đề! Các Đại Bồ-tát trong vô số quốc độ ở mười phương dùng bốn việc để làm lợi ích cho chúng sinh: Một là bố thí, hai là Nhân ái, ba là Lợi người, bốn là Đồng sự.

Đại Bồ-tát dùng hai thứ bố thí để giáo hóa chúng sinh: Một là Tài thí, hai là Pháp thí. Thế nào là dùng tài thí để giáo hóa chúng sinh? Bồ-tát đem vàng bạc, ngọc bích, châu báu để bố thí; hoặc đem thức ăn, y phục, mùng mền, giường chiếu, hương hoa, đồ trang sức, thuốc men bố thí; hoặc bố thí nô tỳ, voi ngựa, xe cộ, tùy theo chúng sinh cần ǵ, Bồ-tát đều cho, không hề trái ý. Bố thí cho người rồi, Bồ-tát lại dạy họ quy y Tam bảo, hoặc thọ tŕ năm giới hoặc mười điều thiện, hoặc giới Bát quan trai, hoặc dạy họ thực hành bốn Thiền, bốn tâm Vô lượng, bốn Không định, hoặc khuyên họ niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Thiên, niệm Thí. Đối với những người hành động một cách điên đảo, Bồ-tát dạy họ hành động đúng theo Chánh pháp. Đối với những người không chân thật, Bồ-tát dạy họ hành động chân thật, khuyên bảo họ thực hành ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, ba môn Giải thoát, tám Giải thoát, chín Thứ đệ thiền, mười Lực của Phật, bốn Vô sở úy, bốn Vô ngại tuệ, đại Từ, đại Bi, mười tám pháp Bất cộng, tám mươi vẻ đẹp, khuyên người học giáo pháp ba Thừa. Đó là Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng phương tiện quyền xảo là tài thí để giáo hóa chúng sinh, làm cho được an trụ ở địa vị an ổn vô thượng. Đó là pháp đặc biệt chưa từng có của Đại Bồ-tát.

Thế nào là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật dùng Pháp thí để giáo hóa chúng sinh?

Bố thí có hai: Một là Đạo thí, hai là Tục thí.

Thế nào là Tục thí? Sự bố thí theo lời nói thế tục là pháp bất tịnh; dạy cho người có ước muốn đắc được bốn Thiền, bốn Tâm vô lượng, bốn định vô sắc và thực hành các thiện pháp khác của phàm phu, đó là pháp thí thế tục. Thực hành pháp thí thế tục như vậy rồi, Bồ-tát giáo hóa chúng sinh làm cho họ xa ĺa thế tục. Bồ-tát dùng phương tiện quyền xảo hướng dẫn họ thực hành đạo, chứng quả Hiền thánh.

Đạo pháp và quả vị Hiền thánh là ǵ? Pháp của Hiền thánh là ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, ba môn Giải thoát. Quả của Hiền thánh là từ Tu-đà-hoàn cho đến La-hán, Bích-chi-phật.

Phật dạy:

–Đạo pháp của Hiền thánh Bồ-tát là biết trí tuệ của quả Tu-đà-hoàn, La-hán, Bích-chi-phật; trí tuệ ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, mười Lực của Phật; trí tuệ đại Từ, đại Bi và các đạo pháp, tục pháp khác, pháp hữu lậu, vô lậu, hữu vi, vô vi, trí Nhất thiết. Đó là pháp Hiền thánh Bồ-tát.

Quả của Hiền thánh Bồ-tát là ǵ? Đó là dứt trừ tất cả các tập khí phiền não.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bồ-tát đạt đến trí Nhất thiết phải không?

Phật đáp:

–Đúng vậy! Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát đạt đến trí Nhất thiết.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Như vậy Đại Bồ-tát với Như Lai có ǵ khác?

Phật đáp:

–Có khác! Bồ-tát đạt được trí Nhất thiết th́ gọi là Như Lai. V́ sao? V́ tâm Bồ-tát bất khả đắc. Tâm Như Lai cũng không khác. Bồ-tát soi sáng các pháp ở tận nơi tối tăm vô cùng. Nhờ pháp bố thí thế tục đưa đến Bố thí đạo pháp.

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Bồ-tát này không bố thí cho chúng sinh theo pháp thế tục nữa mà dùng phương tiện quyền xảo đưa họ đạt đến trí Nhất thiết.

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Pháp bố thí đạo của Bồ-tát như thế nào mà người phàm phu không thể sánh kịp? Đó là ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, ba môn Giải thoát, tám Giải thoát, chín Thứ đệ thiền, mười Lực của Phật, bốn Vô sở úy, bốn Vô ngại tuệ, mười tám pháp Bất cộng, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của bậc Đại sĩ, các môn Đà-la-ni. Đó là pháp rất đặc biệt, chưa từng có của Bồ-tát.

Bồ-tát dùng Ái ngữ, sáu pháp Ba-la-mật: Bố thí, Tŕ giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ và nhan sắc từ hòa để giáo hóa chúng sinh. V́ sao? V́ sáu pháp Ba-la-mật bao gồm tất cả pháp thiện.

Tại sao Bồ-tát thường dùng sáu pháp Ba-la-mật và bốn pháp làm lợi ích và giáo hóa chúng sinh? Bốn pháp đó là: Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Bồ-tát dùng Bát-nhã ba-la-mật để giáo hóa hàng tân học Bồ-tát: “Này thiện nam, phải khéo học phân biệt các chữ, từ một chữ đến bốn mươi hai chữ. Một chữ bao gồm nghĩa các chữ, nghĩa các chữ bao gồm bốn mươi hai chữ, nghĩa bốn mươi hai chữ đều nằm trong một chữ, đều cùng một nghĩa. V́ vậy Bồ-tát nên thông thạo bốn mươi hai chữ ấy. Như Lai Vô Sở Trước Chánh Đẳng Giác biết hoàn toàn các thiện pháp, biết hoàn toàn văn tự rồi giáo hóa chúng sinh. Như Lai thuyết pháp không ĺa văn tự, các pháp cũng không ĺa văn tự.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Chúng sinh không thể đắc pháp, cũng không thể thấy được, v́ các pháp là không. Tại sao, khi thực hành Ba-la-mật, bốn Thiền, bốn Tâm vô lượng, bốn Không định, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, mười tám Không, Không, Vô tướng, Vô nguyện, tám Giải thoát, chín Thứ đệ thiền, mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng, ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp của Phật, sáu Thần thông, thuyết pháp cho chúng sinh, Bồ-tát không thấy chúng sinh, cũng không thấy chỗ của chúng sinh, cho đến đối với thức cũng không thể thấy được, sáu pháp Ba-la-mật cũng không thể thấy được, cho đến tám mươi vẻ đẹp cũng không thể thấy được cũng không có chỗ được, không có chúng sinh cũng không có chỗ được, không có tám mươi vẻ đẹp, cũng không có chỗ được?

Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, thuyết pháp cho chúng sinh như thế nào?

Tu-bồ-đề lại thưa:

–Bạch Thế Tôn! Có phải Bồ-tát đem việc không có mối manh giúp đỡ chúng sinh để làm cho họ xa ĺa bốn điên đảo, trụ vào Tứ đế hay không? Thực hành Bát-nhã ba-la-mật, Bồ-tát còn không thấy được huống chi thực hành ba mươi bảy phẩm Trợ đạo.

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Đúng vậy! Như lời ông nói, chúng sinh bất khả đắc, nên biết các pháp như là nội, ngoại, hữu, vô, năm ấm, xứ, giới, bốn Đế, mười hai nhân duyên, bốn Không định, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, ba môn Giải thoát, tám Giải thoát, chín Thứ đệ thiền, mười tám pháp Bất cộng, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Vô ngại trí, hai Địa, Bồ-tát, quốc độ Phật, Đạo, đều là không.

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Bồ-tát biết các pháp đều không, thuyết pháp cho tất cả chúng sinh, chúng sinh được nghe pháp này, nhờ đó không bị thoái chuyển. Đối với các pháp không chấp thủ, không xả bỏ, cũng không bị chướng ngại, Bồ-tát nói pháp chân thật, không hư dối.

Ví như vô số người Như Lai hóa ra, hoặc là thành tựu sáu pháp Ba-la-mật hoặc thành tựu bốn Thiền, bốn Tâm vô lượng. 

Tu-bồ-đề! Ý ông thế nào? Những người này có sở đắc ǵ không?

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Không. Những người đó không có đắc ǵ?

Phật dạy:

–Này Tu-bồ-đề! Nên biết Bồ-tát giáo hóa chúng sinh cũng vậy, tùy theo khả năng của họ mà thuyết pháp, làm cho chúng sinh xa ĺa điên đảo, không trói buộc cũng không cởi mở. Nếu năm ấm có trói buộc, có cởi mở th́ chẳng phải là năm ấm, v́ năm ấm tự tánh thường vắng lặng. Cho đến pháp hữu vi, vô vi, tự tánh thường vắng lặng. Bồ-tát thuyết pháp cho chúng sinh, ban đầu không thấy chúng sinh, v́ các pháp không thủ đắc, Bồ-tát trụ vào chỗ không có chỗ trụ, năm ấm rỗng không nên không có chỗ trụ cho đến hữu vi, vô vi cũng không có chỗ trụ. V́ sao? V́ không thật có mà không chỗ trụ, không sở hữu, không trụ nơi không có sở hữu, có sở hữu cũng không trụ nơi có sở hữu. V́ sao? V́ đều không thủ đắc, pháp không thủ đắc th́ không có chỗ trụ.

Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật nói rõ các pháp, phân biệt các không. Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật như vậy đối với Như Lai Vô Sở Trước Chánh Đẳng Giác, các bậc Hiền thánh không có lỗi. V́ sao? V́ chư Phật Thế Tôn, chư Hiền thánh đều đạt được pháp này rồi giáo hóa chúng sinh. Do được pháp này nên không thoái chuyển. V́ sao? V́ pháp tánh, thực tế và chân như không thoái chuyển, cũng không có h́nh tướng có thể thoái chuyển.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Pháp tánh, thực tế và chân như không thoái chuyển th́ năm ấm, như, thực tế, pháp tánh có khác không? Hữu vi, vô vi và đạo, hữu lậu, vô lậu có khác không?

Phật dạy:

–Không! Này Tu-bồ-đề, năm ấm và như thực tế, pháp hữu vi, vô vi và đạo... không có khác.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Giả sử năm ấm và Như cho đến hữu vi, vô vi... Không có khác th́ tại sao có quả báo tốt, xấu và năm đường sinh tử, tại sao có pháp ba Thừa.

Phật dạy:

–Do chúng sinh quen theo thế tục đế nên có danh hiệu đạo, đối với Đệ nhất nghĩa đế th́ không có phân biệt. V́ sao? V́ pháp này thường vắng lặng, không có phân biệt cũng không có ngôn thuyết, năm ấm không sinh diệt cũng không thường, đoạn, v́ từ đầu đến cuối đều không.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Nếu do theo thế tục đế liền có tên đạo th́ tất cả phàm phu đều đạt đạo, chứng quả ba thừa phải không?

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Nếu người phàm phu đều biết Tập đế và Đạo đế th́ lẽ ra người đó chứng được đạo. Còn nếu người phàm phu không biết th́ không thể đắc Đạo đế và Diệt đế.

Tu-bồ-đề thưa:

–Tại sao phàm phu chứng đắc đạo quả?

Phật đáp:

–Các Hiền thánh có tu đạo liền có đạo quả.

Tu-bồ-đề hỏi:

–Do tu đạo được đạo quả không?

Phật bảo:

–Không! Tu-bồ-đề, không phải là do tu đạo mà có thể đạt đạo, cũng không phải là do không tu đạo, không ĺa đạo mà được quả. V́ vậy, Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, v́ chúng sinh nên an trú trong đạo, đạo không có phân biệt pháp hữu vi; pháp vô vi cũng không phân biệt.

Tu-bồ-đề! Lại hỏi:

–Bạch Thế Tôn! Nếu không phân biệt có đạo th́ tại sao Phật nói đoạn được ba kết sử th́ chứng quả Tu-đà-hoàn, làm mỏng tham, sân, si th́ chứng quả Tư-đà-hàm, dứt trừ năm hạ phần kết sử ở cõi Dục th́ chứng quả A-na-hàm, đoạn trừ năm hạ phần kết sử ở cõi Vô sắc th́ chứng quả A-la-hán, đối với những h́nh sắc mà mắt thấy đều là pháp diệt tận th́ chứng được Bích-chi-phật, dứt trừ hết tất cả các nghiệp phiền não th́ chứng được Vô thượng Bồ-đề. Như vậy, làm sao biết được việc này? Nếu đạo không có phân biệt th́ làm sao theo đó thực hành để được đạo?

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Tu-đà-hoàn đạo đến Vô thượng Bồ-đề là pháp hữu vi hay vô vi?

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Chẳng phải là pháp hữu vi.

Phật dạy:

–Pháp vô vi có phạm vi để phân biệt không?

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Không có phạm vi để phân biệt.

Phật dạy:

–Ý ông thế nào? Thiện nam, thiện nữ khi đạt được pháp hữu vi, vô vi và được nhất tướng th́ lúc đó có nói là được pháp hữu vi, vô vi không?

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Không.

Phật dạy:

–Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật thuyết pháp cho chúng sinh không có giới hạn phân biệt, v́ nội ngoại không, hữu vô không. Bồ-tát tự ḿnh không chấp trước và dạy tất cả mọi người cũng không chấp trước, không chấp trước sáu pháp Ba-la-mật, bốn Thiền, bốn Tâm vô lượng, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, trí Nhất thiết, không chấp trước là không sinh chướng ngại.

Như người do Như Lai biến hóa ra, nếu người này có bố thí cũng không được phước báo, chỉ v́ muốn độ người, Bồ-tát không trụ vào Ba-la-mật, hữu lậu, vô lậu, không trụ vào đạo, vào tục, hữu vi, vô vi, v́ không có chỗ trụ. V́ sao? V́ Bồ-tát đã vượt qua tướng các pháp.

Phẩm 79: SIÊU VIỆT PHÁP TƯỚNG

Lúc bấy giờ, Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Thế nào là siêu việt các pháp tướng?

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Ví như người do biến hóa th́ không có dâm dật, phẫn nộ, si mê, cũng không hiện hành năm ấm, không có việc nội ngoại, không có chỗ chướng ngại, không có việc đạo, việc tục, hữu lậu, vô lậu, hữu vi, vô vi, không có đạo và quả báo. Đó là siêu việt các pháp tướng.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Người biến hóa làm sao có tu đạo?

Phật dạy:

–Tu đạo không đoạn cũng không thường, không rơi vào cảnh giới.

–Tu-bồ-đề! Ý ông thế nào? Người do Như Lai biến hóa có h́nh tướng, có đến đi, có đoạn, thường không?

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Người đó không có đến đi cũng không có thường đoạn, cũng không thuộc vào năm cảnh giới.

Phật dạy:

–Tu-bồ-đề! Đó là siêu việt các pháp tướng.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Năm ấm đều như huyễn phải không?

Phật dạy:

–Đúng vậy!

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Nếu các pháp như huyễn hóa, người biến hóa không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức, không thường, không đoạn, cũng không ra khỏi năm cảnh giới th́ Đại Bồ-tát có những ǵ đặc biệt?

Phật dạy:

–Tu-bồ-đề! Ý ông thế nào? Khi ta còn là Bồ-tát có thấy chúng sinh được giải thoát khỏi năm cảnh giới không?

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Không thấy.

Phật dạy:

–Trong ba cõi còn không thấy có chúng sinh được độ thoát huống là trong năm cảnh giới. V́ sao? V́ Bồ-tát quán biết các pháp như huyễn, như hóa.

Tu-bồ-đề thưa:

–Nếu Bồ-tát quán biết các pháp như huyễn hóa th́ do đâu mà thực hành sáu pháp Ba-la-mật, bốn Thiền, bốn Tâm vô lượng, bốn Không định, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo làm thanh tịnh cõi Phật, giáo hóa chúng sinh.

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Nếu chúng sinh tự biết các pháp như huyễn, như hóa th́ Bồ-tát sẽ không chịu khổ trong vô số kiếp thực hành Bồ-tát đạo.

Này Tu-bồ-đề! V́ chúng sinh không thể tự biết các pháp như huyễn, như hóa nên Bồ-tát phải chịu khổ thực hành sáu pháp Ba-la-mật, làm thanh tịnh cõi Phật giáo hóa chúng sinh.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Giả sử các pháp như mộng, như huyễn, như hóa, như tiếng vang, như sóng nắng th́ làm sao có chúng sinh để Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật mà cứu vớt.

Phật dạy:

–Chúng sinh chỉ là danh tự và số lượng kết hợp với nhau, đắm trước vào chỗ không có đầu mối. V́ thế Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật ở trong tướng danh tự mà cứu vớt họ.

Tu-bồ-đề thưa:

–Thế nào là tướng danh tự?

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Danh tự là không chân thật, giả gọi là danh, là năm ấm, là người, là nam, là nữ, là năm cảnh giới, là pháp hữu vi, vô vi là Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật, Chánh đẳng giác.

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Pháp và đạo do ngã, ngã sở tạo ra chỉ là danh tự, pháp số mà thôi. Người phàm phu ngu muội chấp trước pháp hữu vi. V́ thế Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật dùng phương tiện quyền xảo, giáo hóa chúng sinh.

Danh tự này chỉ do tướng mà có. V́ có tướng nên sinh vào bào thai của người mẹ. Vật sở hữu không có đầu mối, vật sở hữu là không có. Người trí không chấp trước vào chỗ rỗng không.

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–V́ vậy, Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng phương tiện quyền xảo, giáo hóa chúng sinh.

–Này Tu-bồ-đề! Thế nào là tướng?

Người phàm phu ngu muội chấp trước vào hai tướng: Một là ́nh tướng; hai là không h́nh tướng.

–Thế nào là h́nh tướng?

Đó là h́nh đẹp, h́nh xấu, h́nh vi tế, tất cả đều suy tàn biến đổi, trong đó có phát sinh tướng, đó gọi là h́nh tướng.

–Thế nào là không h́nh tướng?

Ở trong các pháp không h́nh tướng phát sinh ra phiền não, đó gọi là không h́nh tướng.

Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật, dùng phương tiện quyền xảo, từ chỗ không h́nh tướng giáo hóa chúng sinh, đưa họ vào chỗ vô tướng, không chấp trước vào hai tướng là tướng và vô tướng.

Này Tu-bồ-đề! Đó là Đại Bồ-tát ở trong tướng giáo hóa chúng sinh, đưa họ vào vô tướng.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Giả sử các pháp chỉ có danh tướng th́ làm sao Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, phân biệt các thiện pháp mà lại khuyên dạy người phân biệt các thiện pháp? Do đầy đủ thiện pháp nên hướng dẫn chúng sinh vào ba Thừa.

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Ví như Bồ-tát niệm danh năm ấm, tướng năm ấm, v́ không thực hành Bát-nhã ba-la-mật nên không thể phân biệt các thiện pháp, cũng không thể làm cho người khác phân biệt được.

Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật dùng vô tướng thực hành năm pháp ba-la-mật, do vô tướng, đầy đủ bốn Thiền, bốn Tâm vô lượng, bốn Không định, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, nội ngoại không, hữu vô không, tám Giải thoát, chín Thứ đệ thiền, mười Lực của Phật, mười tám pháp Bất cộng. V́ vô tướng nên Bồ-tát tự ḿnh đầy đủ các thiện pháp và giáo hóa người khác đầy đủ các thiện pháp.

Tu-bồ-đề! Nếu có một chút tướng các pháp th́ Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật sẽ không đạt đến Không, Vô tướng, Vô nguyện; không thể giáo hóa chúng sinh theo ý nguyện của họ và làm cho họ được pháp lậu tận Không, Vô tướng, Vô nguyện; thực hành Bát-nhã ba-la-mật làm lợi ích cho tất cả chúng sinh như vậy.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Giả sử các pháp là Không, Vô tướng, Vô nguyện. Đại Bồ-tát dùng Vô tướng, Vô nguyện th́ làm ǵ có pháp mà nói là hữu lậu, vô lậu, có sở hữu, không có sở hữu, có pháp Thanh văn, pháp Bích-chi-phật, pháp Bồ-tát, pháp Phật?

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Ý ông thế nào? Pháp vô tướng với pháp Thanh văn, pháp Bích-chi-phật, pháp Bồ-tát, pháp Phật có khác nhau không?

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Không khác.

Phật dạy:

–Pháp Thanh văn, Bích-chi-phật, pháp Bồ-tát, pháp Phật không phải là vô tướng hay sao?

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Đó là pháp vô tướng.

Phật dạy:

–V́ vậy, nên biết các pháp đều vô tướng. Bồ-tát học các pháp vô tướng này th́ tăng trưởng công đức căn lành sáu pháp Ba-la-mật, bốn Thiền, bốn Tâm vô lượng, bốn Không định, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, mười tám pháp Bất cộng. V́ sao? V́ Bồ-tát không học những pháp khác, chỉ học pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện. V́ các thiện pháp đều thuộc vào ba môn Giải thoát. Ba môn giải thoát tự tánh là Không. Bồ-tát học Không, Vô tướng, Vô nguyện là học năm ấm, mười hai xứ, mười tám giới, bốn Đế, bốn Duyên khởi, nội ngoại không, hữu vô không, sáu pháp Ba-la-mật, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, mười Lực của Phật, bốn Vô sở úy, bốn Vô ngại tuệ, mười tám pháp Bất cộng.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật học năm ấm như thế nào?

Phật dạy:

–Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật biết tướng của sắc, sinh diệt của sắc, như của sắc.

Thế nào là biết tướng của sắc? Sắc không bền chắc như bọt nước.

Thế nào là biết sinh diệt của sắc? Sắc không đến cũng không đi, không trở lại.

Tu-bồ-đề! Đó là biết sinh diệt của sắc.

Thế nào là biết Như của sắc?

Như không sinh cũng không diệt, không đến cũng không đi, không đoạn cũng không thường, không tăng cũng không giảm, biết như vậy là biết Như của sắc. Nó cũng không biến đổi nên gọi là Như của sắc.

Thế nào là biết sinh diệt của thọ, Như của thọ? Đó là biết thọ như bong bóng nước.

Thế nào là biết Như của tưởng? Đó là biết tưởng như sóng nắng, đến nơi th́ không phải là nước, nó không đến cũng không đi.

Thế nào là biết Như của hành? Ví như thân vây chuối, bóc ra từng bẹ, không có lõi cứng.

Thế nào là biết sinh diệt của hành? Hành không có đến đi. Biết hành như vậy th́ biết Như của hành.

Thế nào là quán thức? Ví như nhà ảo thuật ra bốn binh chủng, không đến cũng không đi. Quán thức cũng như vậy.

Thế nào là quán như của thức? Quán như cũng như thức, là biết về Như của thức.

Thế nào là quán biết tánh của nhãn căn? Đó là quán sở hữu của nhãn là không, nhãn sắc là không, nhãn thức là không, cho đến sở hữu của thức là không.

Thế nào là quán biết mười hai xứ? Đó là biết Như của nội ngoại pháp, biết sở hữu của nội ngoại pháp là không.

Thế nào là quán biết Khổ đế? Đó là biết khổ và sự thật của khổ, biết có ngã, vô ngã, biết sự thật về Tập đế rỗng không.

Thế nào là biết Như của bốn đế? Biết Như của bốn đế cũng Như biết bốn đế. Đó là biết Như của bốn đế.

Thế nào là quán biết Như của mười hai duyên khởi? Mười hai duyên khởi không có chỗ sinh. V́ vậy biết Như của mười hai duyên khởi.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Giả sử Bồ-tát học và hành Bát-nhã ba-la-mật, phân biệt rõ từng phần biết các pháp như vậy th́ không phân biệt pháp tánh sắc thân?

Phật bảo:

–Nếu có pháp nào khác ĺa pháp tánh th́ pháp tánh sắc thân này sẽ bị phân biệt. V́ sao? Này Tu-bồ-đề, Như Lai và đệ tử Như Lai không thấy có pháp nào ĺa pháp tánh và không thấy có pháp nào không ĺa pháp tánh. Tuy không thấy, không chấp như vậy nhưng pháp không có hai, không ĺa pháp tánh.

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật nên học pháp tánh này.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bồ-tát học pháp tánh là không có chỗ nào học?

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Bồ-tát học pháp tánh là học tất cả các pháp. V́ sao? V́ tất cả các pháp đều pháp tánh.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Các pháp đều là pháp tánh, các pháp hữu vi đều là pháp tánh.

Phật dạy:

–Tu-bồ-đề! V́ vậy Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật là học pháp tánh.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Nếu các pháp đều là pháp tánh th́ do đâu Bồ-tát hành sáu pháp Ba-la-mật, bốn Thiền, bốn Tâm vô lượng, bốn Không định, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, ba môn Giải thoát, tám Giải thoát, chín Thứ đệ thiền, mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng, sáu Thần thông, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, sinh trong bốn dòng họ, sinh lên cõi trời Tứ thiên, từ cõi trời tứ thiên cho đến cõi trời ba mươi ba, từ lúc mới phát tâm đến mười Địa, học ba Thừa, làm thanh tịnh cõi Phật, giáo hóa chúng sinh, học các môn Đà-la-ni, học biện tài, học Bồ-tát đạo, học các pháp Như, biết tất cả các pháp.

Bạch Thế Tôn! Trong pháp tánh ấy không có một chút phân biệt, nên không có Bồ-tát nào làm những việc điên đảo. V́ sao? V́ pháp tánh không phải là năm ấm, cũng không ĺa năm ấm. Pháp tánh tức là năm ấm, năm ấm tức là pháp tánh.

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Đúng vậy! Đúng như lời ông nói, pháp tánh tức là năm ấm, năm ấm tức là pháp tánh. Tu-bồ-đề, Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, nếu thấy pháp xa ĺa pháp tánh th́ sẽ không phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật biết tánh các pháp là đạo. V́ thế, Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật biết các pháp tức là pháp tánh. Pháp không có danh tự nhưng Bồ-tát dùng danh tự để chỉ dạy từ năm ấm đến đạo đều dùng danh hiệu, pháp số mà giảng nói.

Này Tu-bồ-đề! Ví như nhà ảo thuật dùng một tấm gương hóa hiện ra vô số h́nh tượng hoặc là người nam, người nữ, hoặc là voi, ngựa, hoặc là biệt thự, ao tắm, trong đó bày biện các thứ tòa ngồi, nệm thảm, mền gối, màn che, trướng phủ... có hương hoa, kỹ nhạc, các thứ ăn uống, ca nhạc để giúp vui mọi người. Nhà ảo thuật lại hóa hiện sáu pháp Ba-la-mật, bốn dòng họ lớn, núi Tu-di, cõi trời ba mươi ba, hóa hiện các Thanh văn, Bích-chi-phật, Bồ-tát mới phát tâm, thực hành sáu pháp Ba-la-mật; lại hiện Bồ-tát Thập trụ, Nhất sinh bổ xứ, Bồ-tát an trụ năm Thần thông, làm thanh tịnh cõi Phật, giáo hóa chúng sinh, thực hành chánh định để tự an vui, thực hành mười Lực của Phật, bốn Vô sở úy, đại Từ, đại Bi lại hiện ra thân tướng tốt đẹp của Phật.

Lúc đó, có kẻ ngu si khen ngợi: “Hay thay! Việc làm của người này thật kỳ diệu, làm cho vô số người xem được vui vẻ. Nhà ảo thuật hiện ra nhiều h́nh tượng, tướng tốt của Thế Tôn.” Nhưng trong đó có người trí cười lớn: “Các việc nhà ảo thuật này làm ra đều không có thật. Ông ấy dùng pháp ảo thuật để làm vui lòng mọi người, làm cho họ trông thấy đều cho là có thật, không có h́nh tướng cho là có h́nh tướng.” Phật dạy:

–Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, không thấy có pháp nào ngoài pháp tánh, dùng phương tiện quyền xảo thuyết pháp cho chúng sinh, không thấy chúng sinh và chỗ của chúng sinh mà tự ḿnh thực hành sáu pháp Ba-la-mật và dạy người thực hành sáu pháp Ba-la-mật, thấy người thực hành th́ vui theo; tự ḿnh thực hành mười điều thiện và khuyên dạy người thực hành, thấy người thực hành th́ khen ngợi và vui theo; tự ḿnh thực hành năm giới và khuyên người thọ tŕ, thấy người thọ tŕ khen ngợi và vui theo; tự ḿnh thực hành bốn Thiền, bốn Tâm vô lượng, bốn Không định và khuyên người thực hành, thấy người thực hành th́ khen ngợi và vui theo; tự ḿnh thực hành ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, ba môn Giải thoát, bốn Vô sở úy, mười Lực, mười tám pháp Bất cộng và khuyên người thực hành, thấy người thực hành th́ khen ngợi và vui theo.

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Pháp tánh trước, sau và giữa đều không tăng, giảm. V́ vậy, Đại Bồ-tát v́ chúng sinh mà chịu khổ thực hành Bồ-tát. Nếu pháp tánh trước, sau và giữa khác nhau th́ Bồ-tát không dùng phương tiện quyền xảo để giảng thuyết pháp tánh, giáo hóa chúng sinh.

Phẩm 80: TIN VÀO BẢN TẾ

Lúc bấy giờ, Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Giả sử lúc đầu không có chúng sinh và ở chỗ của chúng sinh th́ Bồ-tát làm những ǵ để thực hành Bát-nhã ba-la-mật?

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Bồ-tát tin pháp thực tế nên thực hành Bát-nhã ba-la-mật. Thực tế và chúng sinh khác nhau th́ Bồ-tát không thực hành Bát-nhã ba-la-mật nhưng do thực tế và chúng sinh tế không khác nên Bồ-tát v́ muốn làm lợi ích cho chúng sinh mà thực hành Bát-nhã ba-la-mật.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật không phân biệt thực tế mà hướng dẫn chúng sinh vào thực tế.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Nếu hướng dẫn chúng sinh vào thực tế th́ Bồ-tát kiến lập thực tế ở nơi thực tế. Nếu kiến lập thực tế ở nơi thực tế th́ không thể có. V́ sao đem không có sở hữu kiến lập ở nơi không có sở hữu?

–Bạch Thế Tôn! Như vậy làm sao Bồ-tát hướng dẫn chúng sinh vào thực tế.

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Không thể đem thực tế kiến lập ở nơi thực tế, không thể đem sở hữu kiến lập ở nơi sở hữu, cũng không thể đem không sở hữu kiến lập ở nơi không sở hữu.

Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật dùng phương tiện quyền xảo hướng dẫn chúng sinh vào thực tế, thực tế và chúng sinh không hai, không khác.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát dùng những phương tiện quyền xảo nào để thực hành Bát-nhã ba-la-mật, hướng dẫn chúng sinh sinh vào nơi thực tế mà không có biểu hiện phân biệt?

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật dùng phương tiện quyền xảo hướng dẫn chúng sinh bố thí, hướng dẫn rồi Bồ-tát nói bố thí hoàn toàn rỗng không; vật bố thí, người bố thí, người nhận và quả báo bố thí đều không.

Này thiện nam, chớ có tạo ra các tướng. Vật bố thí và người nhận có khác nhau không? Không khác, đều là không, đều đưa đến thực tế. Nếu các người không phân biệt vật thí, người nhận và quả báo bố thí th́ bố thí này có thể đưa đến giải thoát. Chớ nên bố thí chấp trước vào sắc, thọ, tưởng, hành, thức. V́ sao? V́ vật thí, người bố thí, người nhận và quả báo của bố thí đều là không. Do bố thí không có mong cầu nên bố thí không thể thủ đắc. V́ sao? V́ các pháp ấy từ đầu đến cuối, tự tánh là không.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng phương tiện quyền xảo hướng dẫn chúng sinh tŕ giới. Bồ-tát dạy: “Này thiện nam, hãy từ bỏ mười điều ác, các pháp ác này không có thật, nên tự suy nghĩ kỹ, mười việc ác này vốn không có.” Đại Bồ-tát dùng đầy đủ phương tiện quyền xảo giáo hóa chúng sinh, đem bố thí, tŕ giới chỉ dạy cho chúng sinh tự tịnh quả báo của bố thí và tŕ giới đều rỗng không. Do đó chúng sinh đạt được tịch tĩnh, liền sinh trí tuệ, đoạn trừ vô minh, dứt hết khổ não. Dùng Niết-bàn thế tục mà không dùng Đệ nhất nghĩa. V́ sao? V́ trong rỗng không mong cầu Niết-bàn, không có rỗng không chắc chắn không vào Niết-bàn, Niết-bàn tự tánh nó rốt ráo cũng là không.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Bồ-tát thấy chúng sinh tâm tán loạn, không chánh định, tranh cãi, giận hờn liền dạy họ nhẫn nhục và tu tập nhẫn nhục: “Việc làm mê muội đều là rỗng không; ông nên suy nghĩ việc xấu ác rỗng không là ta hay là ai nó từ đâu đến. Pháp không ấy không có lúc nào chẳng rỗng không, pháp không này không phải do Như Lai, Bồ-tát, La-hán, Bích-chi-phật tạo ra. Cũng chẳng phải do chư Thiên ở cõi trời Ba mươi ba, Rồng, A-tu-la, Quỷ, Thần, Chân-đà-la, Ma-hầu-lặc làm ra, mà tự nhiên nó là không.” Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật dùng pháp không này hướng dẫn chúng sinh vào không. Tuy có quả báo nhưng không xa ĺa quả báo Vô thượng Bồ-đề; tuy Bồ-tát khuyên chúng sinh tinh tấn cầu đạo, nhưng đó chỉ là pháp thế tục, không phải Đệ nhất nghĩa. V́ sao? V́ tánh không không có chỗ giác, cũng không có người giác ngộ, cũng không có người đã và sẽ giác ngộ, đó là tánh thật tế rỗng không. Bồ-tát v́ chúng sinh thực hành Bát-nhã ba-la-mật, không thấy chúng sinh cũng không thấy chỗ ở của chúng sinh. V́ sao? V́ chúng sinh vắng lặng như các pháp.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật dùng phương tiện quyền xảo thấy chúng sinh biếng nhác. Bồ-tát khuyên họ thân và tâm phải tinh tấn thực hành pháp không: “Các pháp không có biếng nhác cũng không thấy có biếng nhác. Pháp không ấy không từ chỗ không mà thoái chuyển. Chớ nên biếng nhác đối với thiện pháp, thân tâm chớ nên thoái lui với sáu pháp Ba-la-mật, bốn Thiền, bốn Tâm vô lượng, bốn Không định; chớ nên biếng nhác đối với ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, ba môn Giải thoát, cho đến mười tám pháp Bất cộng của Phật. Chớ có chướng ngại đối với các pháp, hãy quán các pháp không có chướng ngại, không có biếng nhác.”

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật dùng pháp không tánh khuyên dạy chúng sinh hãy tinh tấn an trụ tánh không. Tuy trụ vào pháp không nhưng không rơi vào hai pháp. V́ sao? V́ tánh không là một, không có hai pháp, không hai đó không có chỗ chấp trước.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật đem pháp tánh không giáo hóa chúng sinh làm cho họ tinh tấn.

Bồ-tát dạy: “Này thiện nam! Phải siêng năng tinh tấn tu tập, Bố thí, Tŕ giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo cho đến mười tám pháp Bất cộng của Phật tùy theo khả năng của ḿnh.

Này thiện nam! Đối với pháp ấy chớ có sinh hai niệm, cũng không ĺa hai niệm. V́ sao? V́ các pháp tánh này là không, pháp tánh không hai cũng không phải là không hai.”

Tu-bồ-đề! Đó là Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật dùng phương tiện quyền xảo tu tập hạnh Bồ-tát, giáo hóa chúng sinh, làm thanh tịnh cõi Phật. Kế đến, Bồ-tát hướng dẫn chúng sinh tu tập quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật, cho đến Vô thượng Bồ-đề.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng phương tiện quyền xảo làm lợi ích cho chúng sinh, khuyên bảo rằng: “Hãy nhất tâm Thiền định, chớ có tán loạn, cũng không sinh tưởng về định. V́ sao? V́ các pháp tánh đều không. Trong các pháp rỗng không ấy cũng không loạn cũng không có nhất tâm, nên trụ vào định này, các việc do thân, khẩu, ý tạo ra hoặc sáu pháp Ba-la-mật, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, tám Giải thoát, chín Thứ đệ thiền, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Vô ngại tuệ, đại Từ, đại Bi, mười tám pháp Bất cộng, tám mươi vẻ đẹp hoặc Thanh văn, Bích-chi-phật, Phật đạo, Bồ-tát đạo hoặc quả Thanh văn, quả Bích-chi-phật, quả Phật hoặc trí Nhất thiết, làm thanh tịnh cõi Phật, giáo hóa chúng sinh. Người nào thực hành pháp không liền được các thiện pháp.” Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng phương tiện quyền xảo, làm lợi ích chúng sinh. Từ khi mới phát tâm đến nay, Bồ-tát thường làm lợi lạc cho vô số chúng sinh, từ cõi Phật này đến cõi Phật kia, cúng dường lễ bái chư Phật Thế Tôn, được chư Phật truyền trao giáo pháp cho đến khi thành tựu quả Vô thượng Bồ-đề hoàn toàn không quên mất. Các vị Bồ-tát thường được bảo hộ thân, khẩu, ý đầy đủ không có thiếu sót. V́ sao? V́ Bồ-tát này siêng năng tu tập trí Nhất thiết, do tu tập trí Nhất thiết mà được vào các đạo như Thanh văn, Bích-chi-phật và được thần thông. Bồ-tát không bỏ rơi những chỗ nên hành đạo mà trụ vào thần thông cứu độ chúng sinh khắp trong năm đường sinh tử mà thần thông không bị giảm bớt.

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật trụ vào tánh không, làm lợi ích cho chúng sinh như vậy.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng phương tiện quyền xảo trụ vào tánh không làm lợi ích cho chúng sinh, đem trí tuệ giáo hóa chúng sinh: “Này các Hiền giả, hãy làm thanh tịnh, thân, khẩu, ý để nhận lấy giáo pháp bất tử. Người nhận được giáo pháp bất tử th́ sẽ không xa ĺa pháp tánh không. V́ sao? V́ pháp tánh không chẳng phải là pháp có, cũng chẳng phải là pháp không.”

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, lúc nào cũng tinh tấn dạy bảo chúng sinh thực hành và học như vậy. Bồ-tát tự ḿnh thực hành và dạy người hành mười việc thiện, năm giới, tám giới quan trai, bốn Thiền, bốn Tâm vô lượng, bốn Không định, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, mười Lực, mười tám pháp Bất cộng, tám mươi vẻ đẹp. Tự ḿnh học và dạy cho người học tuệ đạo Tu-đà-hoàn, tuệ Ala-hán, Bích-chi-phật, ở trong đó cũng không mong cầu, tự ḿnh phát tâm Vô thượng Bồ-đề và dạy người học Vô thượng Bồ-đề.

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Đại Bồ-tát tu tập hạnh Bồ-tát, dùng phương tiện quyền xảo, không lúc nào biếng nhác.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Giả sử các pháp tánh không, chúng sinh cũng không thể đắc, không có chánh pháp cũng không có phi pháp th́ tại sao Bồ-tát chứng đắc tuệ trí Nhất thiết.

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Tất cả pháp tánh đều là không. Trong pháp không không có chúng sinh, không có chánh pháp, cũng không có phi pháp. Nếu có pháp tánh không có rỗng không th́ Bồ-tát không ở trong pháp mà thành tựu quả Vô thượng Bồ-đề. V́ tánh không nên Bồ-tát nói pháp năm ấm, tánh cũng là không. Do đó Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, nói tánh năm ấm, mười tám giới, mười hai duyên khởi, bốn Thiền, bốn Tâm vô lượng, bốn Không định, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, ba môn Giải thoát, tám Giải thoát, chín Thứ đệ thiền, bốn Vô ngại tuệ, mười tám pháp Bất cộng của Phật, đại Từ, đại Bi, tám mươi vẻ đẹp đều là không. Do đó, Bồ-tát nói pháp cho chúng sinh như pháp Thanh văn, Bích-chi-phật đạo, trí Nhất thiết, dứt trừ các tập khí. Bồ-tát dùng tánh không này thuyết pháp như nội không, ngoại không, hữu không và vô không. Nếu tánh này không rỗng không th́ Bồ-tát sẽ không dùng tánh không để thuyết pháp; nếu nội không, ngoại không, hữu không và vô không chẳng phải là tánh không th́ tánh không sẽ bị phá hoại. Tánh không thể hoại, cũng không thường. V́ sao? V́ tánh không không có chỗ trụ, cũng không không có chỗ trụ, không đến cũng không đi. V́ vậy, nó là pháp thường trụ, không có tăng, giảm, không có sinh diệt, không có thường đoạn.

Bồ-tát an trụ nơi pháp này để thành tựu quả Chánh đẳng giác, không thấy pháp có chỗ đạt đến, cũng không phải là không có chỗ đạt đến, đó là pháp thường trụ.

Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, thấy các pháp tánh đều là không, nên đối với quả Vô thượng Bồ-đề không thoái chuyển. V́ sao? V́ Bồ-tát không thấy các pháp có chướng ngại th́ do đâu mà nghi ngờ đối với quả Vô thượng Bồ-đề.

Tánh không ấy không có chúng sinh cũng không thấy chỗ ở của chúng sinh, không thấy có ngã, thọ mạng và tri kiến; không thấy năm ấm cho đến tám mươi vẻ đẹp.

Này Tu-bồ-đề! Ví như vị hóa Phật hóa làm Tỳ-kheo, Tỳ-kheoni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, nói pháp cho chúng sinh đến vô số kiếp cũng không dừng.

Này Tu-bồ-đề! Hóa thân ấy có chứng đắc pháp ba thừa không?

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Không. V́ không có h́nh tướng. Các pháp cũng không có h́nh tướng th́ chúng sinh nào được Bồ-tát hướng dẫn chứng đắc Thanh văn, Bích-chi-phật. Chúng sinh bị rơi vào điên đảo th́ Bồ-tát đưa họ ra khỏi nơi điên đảo. Như vậy điên đảo tức là không điên đảo, không có điên đảo và các Niệm xứ, không có chúng sinh, cũng không có ngã, thọ mạng, tri kiến, không có năm ấm, cũng không có đạo. Đó là tánh không. Bồ-tát ở nơi điên đảo, thực hành Bát-nhã ba-la-mật vượt qua điên đảo và có tưởng nhân, tưởng chúng sinh, tưởng hữu sắc, tưởng vô sắc, pháp hữu lậu, do đó vượt qua pháp vô lậu, chẳng phải là đệ nhất nghĩa.

Pháp vô lậu là ǵ? Ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, không có cũng không sinh, không tạo tác, đó gọi là tánh không, là đạo chư Phật, Thế Tôn, đạo của chư Phật không có chúng sinh, cũng không có ngã, nhân, thọ mạng, tri kiến, năm ấm, ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp. Đó là đạo chân thật của Như Lai.

Bồ-tát không v́ Bồ-tát đạo mà phát tâm Vô thượng Bồ-đề, chỉ v́ tánh không từ đầu đến cuối không có lúc nào là không rỗng không, mà thường là tánh không. Bồ-tát thực hành không Ba-la-mật, v́ chúng sinh chấp trước tướng chúng sinh nên hướng dẫn họ cầu đạo trí Nhất thiết. V́ vậy, Bồ-tát thường hành đạo tuệ, do thực hành đạo tuệ nên có thể chứng nhập các đạo và đạo tam Thừa. Bồ-tát chứng nhập đầy đủ các đạo rồi, giáo hóa chúng sinh, làm thanh tịnh cõi Phật, liền trụ trong pháp hữu vi, thành tựu quả Vô thượng Bồ-đề, không mất giống Phật và các tánh không, trụ vào tánh không là đạo nghiệp của chư Phật trong ba đời. Chỗ sinh tử và các pháp thế tục không ĺa tánh không. Các Bồ-tát đều phải học tập các hạnh của chư Phật và thực hành tánh không. Tuy thực hành tánh không nhưng không mất trí Nhất thiết.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát thực là kỳ diệu, thực hành tánh không mà không phân biệt. Những ǵ là không phân biệt tánh không? Bồ-tát không nói sắc, thọ, tưởng, hành, thức là không; cho đến đạo cũng không khác với tánh không. Tánh không tức là đạo, đạo tức là tánh không.

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Giả sử tánh không khác với năm ấm th́ Bồ-tát quyết không thể đạt đến trí Nhất thiết. Tánh không và năm ấm không khác. V́ biết các pháp tánh đều là không, nên Bồ-tát phát tâm Vô thượng Bồ-đề. V́ pháp tánh không bị phá hoại, cũng không tôn trọng mà người đời mê hoặc cho năm ấm là của ta, ta thuộc về năm ấm, nên dựa vào năm ấm làm những việc cho ta, lại dựa vào h́nh tướng bên trong và bên ngoài nên thọ thấy thân năm ấm, liền có sinh, già, bệnh, chết sầu bi khổ não, đọa vào năm đường không được giải thoát. V́ thế Bồ-tát thực hành không Ba-la-mật, không phân biệt năm ấm, năm ấm là không, không quán nó là chẳng phải không, cho đến đạo là không, cũng không quán đạo là chẳng phải không. V́ sao? V́ không cho năm ấm là không mà hiện ra năm ấm, cũng không cho đạo là không mà hiện ra đạo.

Này Tu-bồ-đề! Ví như hư không không phân biệt hư không, cũng không phân biệt bên trong và bên ngoài hư không. Như vậy, Tu-bồ-đề, không cho năm ấm là không nên hiện ra năm ấm, cũng không cho đạo là không nên hiện ra đạo. V́ sao? V́ không là không có, cũng không phân biệt là không hay là chẳng không, cho đến đạo cũng vậy.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Giả sử các pháp không thể phân biệt, không thể phá hoại th́ tại sao Bồ-tát phát tâm Vô thượng Bồ-đề, đối với đạo có hai th́ không thể phát tâm Vô thượng Bồ-đề?

Phật dạy:

–Đúng vậy. Tu-bồ-đề! Hành hai tướng th́ không có đạo. Đạo là không có hai. Bồ-tát và đạo không phân biệt hai. Bồ-tát tức là đạo, đạo tức là Bồ-tát. Đạo không thực hành trong sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cũng không thực hành trong đạo. V́ sao? V́ đạo không nói được. Ông nên thực hành năm ấm và thực hành đạo, Bồ-tát thực hành đạo không có chấp thủ.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bồ-tát hành đạo không có chấp thủ cũng không có xả bỏ. Như vậy làm những ǵ và hành đạo chỗ nào?

Phật dạy:

–Ý ông thế nào? Như những vị do Như Lai hóa ra hành đạo ở chỗ nào, có chấp thủ, có xả bỏ không?

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Không. Không chấp thủ cũng không xả bỏ.

Phật hỏi:

–Ở trong mộng, La-hán có chấp thủ, có xả bỏ không?

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Không. La-hán không có chấp thủ th́ làm sao có mộng.

Phật dạy:

–Đúng vậy, Tu-bồ-đề! Bồ-tát thực hành không chấp thủ cũng không xả bỏ.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Ý của Bồ-tát không chấp thủ, không xả bỏ năm ấm và đạo Bồ-tát không thực hành các pháp như: mười Trụ, mười Địa, sáu pháp Ba-la-mật, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, bốn Thiền, bốn Tâm vô lượng, bốn Không định, tám Giải thoát, chín Thứ đệ thiền, mười Lực, bốn Vô sở úy, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, năm Thần thông, làm thanh tịnh cõi Phật, giáo hóa chúng sinh, không đạt đến trí Nhất thiết, như vậy Bồ-tát có thể thành tựu quả Vô thượng Bồ-đề không?

Phật dạy:

–Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát không thực hành đầy đủ mười Địa, sáu pháp Ba-la-mật, bốn Thiền, bốn Tâm vô lượng, bốn Không định, tám Giải thoát, chín Thứ đệ thiền, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, cho đến tám mươi vẻ đẹp th́ quyết sẽ không chứng được quả Vô thượng Bồ-đề. Bồ-tát không thực hành đầy đủ sẽ không đạt đến Nhất thiết trí, diệt trừ tướng không của năm ấm và tánh không của đạo. Diệt tánh này rồi th́ trụ vào tánh diệt, không làm cho pháp tổn giảm, không sinh không diệt, không chấp trước, không xả bỏ, cũng không chứng đắc.

Tu-bồ-đề! Nhờ pháp thế tục mà Bồ-tát chứng đắc Chánh đẳng giác; năm ấm và đạo cũng do pháp thế tục chứ không phải do Đệ nhất nghĩa. Từ khi mới phát tâm đến nay. Bồ-tát tuy hành đạo nhưng ý không diệt, chúng sinh cũng không diệt, đạo không diệt, Bồ-tát cũng không diệt.

Tu-bồ-đề! Ý ông thế nào? Nếu các ông trừ bỏ năm ấm, được vô lượng Tam-muội, Tu-đà-hoàn cho đến A-la-hán th́ lúc đó có thấy ý, đạo quả không?

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Không thấy.

Phật dạy:

–Tại sao các ông nói có chỗ chứng đắc?

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Đó chỉ là pháp thế tục thôi.

Phật dạy:

–Do pháp thế tục nên nói năm ấm, có Bồ-tát, có trí Nhất thiết. Đối với đạo, Bồ-tát không có pháp được chứng, không có pháp tăng giảm. Do pháp tánh cho nên không thể đắc được. Các pháp tánh còn không chứng đắc các pháp tánh, huống là sẽ chứng đắc mười Trụ địa và sáu pháp Ba-la-mật, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, ba môn Giải thoát cho đến mười tám pháp Bất cộng. Do vậy, có sở đắc là điều không thể được.

Này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát thực hành Vô thượng Chánh đẳng giác, chứng đắc Phật trí, làm lợi ích chúng sinh.

KINH PHÓNG QUANG BÁT-NHÃ

 Mục Lục

Quyển-1   Quyển-2   Quyển-3   Quyển-4   Quyển-5   Quyển-6   Quyển-7   Quyển-8   Quyển-9   Quyển-10   Quyển-11   Quyển-12   Quyển-13   Quyển-14   Quyển-15   Quyển-16   Quyển-17   Quyển-18   Quyển-19   Quyển-20

 

previous.png         back_to_top.png         next.png

 

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH ]

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0