佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH ]

 

KINH PHÓNG QUANG BÁT-NHÃ

Hán dịch: Đời Tây Tấn, Tam tạng Vô-la-xoa, người nước Vu Điền.

QUYỂN 9

Phẩm 41: CHIẾU MINH

Xá-lợi-phất bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn! Đây là Bát-nhã ba-la-mật phải không?

Phật nói:

–Đúng vậy Xá-lợi-phất!

Xá-lợi-phất thưa:

–Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật làm chiếu sáng vậy.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật làm cho đạt đến rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật làm có danh tự.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật là ở trong ba cõi không có ô nhiễm.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật là trừ các trần cấu vô minh.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật là bậc tôn quý nhất trong ba mươi bảy phẩm Trợ đạo.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật làm an ổn thoát tai họa lo sợ.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật làm soi sáng năm kiến chấp tối tăm.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật là hướng dẫn chúng sinh đi đến con đường chân chánh, không đưa vào đường tà.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật là trí Nhất thiết có thể trừ các tập khí.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật là mẹ của các Bồ-tát, sinh ra các pháp Phật.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật là không sinh không diệt từ khi có danh tự cho đến rốt ráo không.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật là xa ĺa các sinh tử, không có chỗ diệt tận cũng không tạo ra chỗ bắt đầu.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật là tiếp nhận những người nghèo khổ, làm trân bảo để bố thí cho họ.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật là đầy đủ không ǵ chinh phục được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật là Tam chuyển, mười hai hành pháp luân, cũng không có người chuyển, sự chuyển, hoàn toàn không lưu chuyển hoàn diệt.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật là hiện ra căn bản của tất cả các pháp và không của sở hữu, vô sở hữu. Cúi xin Thế Tôn nên làm thế nào để trụ nơi Bát-nhã ba-la-mật?

Thế Tôn dạy:

–Nên trụ như Thế Tôn, này Xá-lợi-phất! Đảnh lễ Bát-nhã ba-la-mật như đảnh lễ Thế Tôn. V́ sao vậy? V́ Bát-nhã ba-la-mật là Thế Tôn, Thế Tôn với Bát-nhã ba-la-mật không sai khác. Bát-nhã ba-la-mật là Thế Tôn, Thế Tôn là Bát-nhã ba-la-mật.

Chư Phật Thế Tôn từ nơi Bát-nhã ba-la-mật mà có danh hiệu; từ Tu-đà-hoàn, La-hán, Bích-chi-phật cho đến Bồ-tát nhân nơi Bát-nhã ba-la-mật mà có danh hiệu. Mười pháp thiện, bốn Thiền, bốn Đẳng, bốn Không định, năm Thần thông, nội ngoại không và hữu vô không, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, mười Lực và mười tám pháp Bất cộng của Phật, cho đến trí Nhất thiết đều từ nơi Bát-nhã ba-la-mật mà ra.

Lúc đó Thích Đề-hoàn Nhân suy nghĩ: “Do nhân duyên ǵ Xálợi-phất hỏi như vậy.” 

Thích Đề-hoàn Nhân liền hỏi Xá-lợi-phất:

–Thưa Tôn giả, v́ sao Ngài hỏi câu này?

Xá-lợi-phất nói:

–Này Câu-dực! Vị Đại Bồ-tát với phương tiện quyền xảo được Bát-nhã ba-la-mật hộ tŕ, trong ba đời chư Phật Thế Tôn từ khi mới phát tâm cho đến Pháp cuối cùng, trong thời gian đó đã gieo nhân lành, hết sức hộ tŕ trí Nhất thiết.

Này Câu-dực! V́ thế Bồ-tát hộ tŕ Bát-nhã ba-la-mật hơn cả năm pháp Ba-la-mật. Ví như những người bẩm sinh bị mù lòa, đến cả trăm, ngàn, vạn người; nếu như muốn đi đây đó, hoặc muốn vào thành mà không có người dẫn th́ không đi đến được.

Này Câu-dực! Năm pháp Ba-la-mật như là người mù xa ĺa Bát-nhã ba-la-mật, như người mù không ai dẫn đường th́ không đạt đến chí đạo, cũng không thể thành tựu trí Nhất thiết, năm pháp Ba-la-mật đã được Tŕ tuệ độ hộ tŕ như người mù được mắt sáng. Bát-nhã ba-la-mật hộ tŕ năm pháp Ba-la-mật, làm cho năm pháp Ba-la-mật đều có danh hiệu.

Thích Đề-hoàn Nhân nói với Xá-lợi-phất:

–Như đã nói năm pháp Ba-la-mật nhân nơi Bát-nhã ba-la-mật mà có danh hiệu, năm pháp Ba-la-mật chỉ có danh mà không có sự hóa độ.

Xá-lợi-phất nói:

–Như vậy Câu-dực! Năm pháp Ba-la-mật từ nơi Bát-nhã ba-la-mật mà có danh hiệu, năm pháp Ba-la-mật chỉ có danh mà không có sự hóa độ. Bồ-tát trụ ở Bát-nhã ba-la-mật đó, v́ đầy đủ năm pháp Ba-la-mật này nên Bát-nhã ba-la-mật đối với năm pháp Ba-la-mật là sự hóa độ tối thượng, hóa độ vi diệu, hóa độ không thể so sánh.

Xá-lợi-phất bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn! Nên làm cách nào để vào trong Bát-nhã ba-la-mật?

Phật dạy:

–Như vào năm ấm là sẽ vào Bát-nhã ba-la-mật, như vào năm pháp Ba-la-mật sẽ vào Bát-nhã ba-la-mật, vào nội ngoại không và hữu vô không, vào ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, mười Lực và mười tám pháp Bất cộng của Phật, như vào trí Nhất thiết, vào các pháp là sẽ vào Bát-nhã ba-la-mật như vậy.

Xá-lợi-phất thưa:

–Bạch Thế Tôn! Tại sao vào năm ấm như vào Bát-nhã ba-la-mật? Tại sao vào các pháp như vào Bát-nhã ba-la-mật?

Phật dạy:

–Đối với năm ấm không chỗ sinh, không chỗ nắm bắt được, không lấy, không bỏ, không phá hoại nên vào Bát-nhã ba-la-mật như vậy.

Đối với các pháp không có chỗ sinh, nếu không nắm bắt được, không lấy, không bỏ cũng không phá hoại. Đó là vào Bát-nhã ba-la-mật.

Xá-lợi-phất thưa:

–Bạch Thế Tôn! Vào Bát-nhã ba-la-mật như vậy là cùng với pháp nào?

Phật dạy:

–Đối với các pháp không có cùng với, mới là danh hiệu Bát-nhã ba-la-mật.

Xá-lợi-phất thưa:

–Bạch Thế Tôn! Không đắc pháp nào?

Phật dạy:

–Không đắc pháp thiện cũng không đắc pháp ác, không đắc pháp đạo cũng không đắc pháp tục; không đắc pháp hữu lậu, vô lậu; không đắc pháp hữu vi, vô vi. V́ sao? V́ sự phát sinh Bát-nhã ba-la-mật cũng không do hy vọng mà có. V́ vậy, đối với các pháp không có cùng với và không có chỗ đắc.

Thích Đề-hoàn Nhân bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn! V́ sao Bát-nhã ba-la-mật này không đắc trí Nhất thiết?

Phật dạy:

–Như vầy Câu-dực! Bát-nhã ba-la-mật không đắc trí Nhất thiết, cũng không có sự đạt đến cũng không có chỗ đạt đến.

Thích Đề-hoàn Nhân hỏi:

–Bạch Thế Tôn! Tại sao không có sự đạt đến cũng không có chỗ đạt đến?

Phật dạy:

–Bát-nhã ba-la-mật không do danh tự, không do tưởng cũng không do hành.

Thích Đề-hoàn Nhân thưa:

–Bạch Thế Tôn! Không do danh tự, không do tưởng cũng không do hành, tại sao mà chứng đắc?

Phật dạy:

–Như không nhập vào, không thọ nhận, không xả bỏ, không an trụ, làm như vậy đạt được hay không đạt được!

Này Câu-dực! Bát-nhã ba-la-mật đắc các pháp không có chỗ đạt được như vậy.

Thích Đề-hoàn Nhân bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn! Sự phát sinh của trí tuệ kỳ lạ đặc biệt, nên đối với các pháp, không chỗ sinh, không chỗ có, không ỷ lại, không phá hoại.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Nếu Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật là đắc các pháp hay không đắc các pháp? Bồ-tát nghe việc này rồi lo sợ liền xa ĺa Bát-nhã ba-la-mật.

Phật dạy:

–Bồ-tát nghe như vậy có thể lo sợ, hoặc có Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật suy nghĩ: Bát-nhã ba-la-mật là không, Bát-nhã ba-la-mật không có kiên cố. Bát-nhã ba-la-mật xâm phạm người. Người suy nghĩ như vậy liền xa ĺa Bát-nhã ba-la-mật. Do sự kiện này Bồ-tát xa ĺa Bát-nhã ba-la-mật.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Tin Bát-nhã ba-la-mật là không tin những pháp nào?

Phật dạy:

–Tin Bát-nhã ba-la-mật là không tin sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không tin lục t́nh sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không tin mười tám giới và mười hai nhân duyên cho đến năm pháp Ba-la-mật; không tin nội ngoại không, hữu vô không; không tin ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, mười tám pháp Bất cộng và mười Lực của Phật; không tin Tu-đà-hoàn cho đến A-la-hán, Bích-chi-phật; không tin Vô thượng Chánh đẳng giác cũng không tin trí Nhất thiết.

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Nếu không có năm ấm và trí Nhất thiết là không tin Bát-nhã ba-la-mật. Do đó, Tu-bồ-đề, tin Bát-nhã ba-la-mật là không tin năm ấm, các pháp và trí Nhất thiết. Nếu không có năm ấm và các pháp là không tin Bát-nhã ba-la-mật. Người tin Bát-nhã ba-la-mật là không tin các pháp.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật là Đại ba-la-mật.

Phật bảo:

–Ý ông thế nào? Lấy cái ǵ để biết Bát-nhã ba-la-mật là Đại ba-la-mật?

Tu-bồ-đề thưa:

–Bát-nhã ba-la-mật không làm cho năm ấm lớn hơn, không làm năm ấm nhỏ đi; không làm năm pháp Ba-la-mật lớn hơn, cũng không làm năm pháp Ba-la-mật nhỏ đi. Từ nội ngoại không và hữu vô không cũng không làm cho lớn hoặc làm cho nhỏ; ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, mười tám pháp Bất cộng của Phật cũng không làm cho lớn hoặc làm cho nhỏ; chí đạo và Phật pháp cũng không làm cho lớn hoặc làm cho nhỏ; không làm năm ấm tụ lại cũng không làm năm ấm tan mất. Cho đến Phật pháp cũng không làm tụ lại cũng không làm tan mất, cũng không có tướng b́nh đẳng, năm ấm cũng không có tướng b́nh đẳng. Cho đến Phật pháp cũng không có tướng b́nh đẳng, cũng không không có tướng b́nh đẳng, năm ấm không rộng cũng không hẹp. Cho đến Phật pháp cũng không rộng cũng không hẹp, cũng hông làm cho năm ấm yếu. Cho đến Phật pháp cũng không làm cho mạnh cũng không làm cho Phật pháp yếu. Bạch Thế Tôn, v́ Bát-nhã ba-la-mật là Đại độ của Bồ-tát. Nếu người phát tâm Bồ-tát mà chưa tu tập sáu pháp Ba-la-mật, nghe năm ấm và sáu pháp Ba-la-mật này không có tăng giảm, không có rộng hẹp. Nghe người nói như vậy, hoặc có thể không tu hành Bát-nhã ba-la-mật. V́ sao? V́ không do Bát-nhã ba-la-mật mà có năm ấm và Phật pháp có lớn, có nhỏ; không do Bát-nhã ba-la-mật mà có năm ấm và Phật pháp có mạnh có yếu.

Bạch Thế Tôn! Cho nên Bát-nhã ba-la-mật là Đại độ của Bồ-tát.

Bạch Thế Tôn! Thực hành Bát-nhã ba-la-mật, muốn cầu năm ấm lớn nhỏ, muốn cầu Phật pháp mạnh yếu, đây là lệ thuộc lớn. V́ sao? V́ bắt đầu của đạo không có tướng lệ thuộc, v́ chúng sinh không sinh, Bát-nhã ba-la-mật cũng không sinh nên thấy như vậy, nên biết như vậy. Năm ấm cũng không sinh, Phật pháp cũng không sinh nên quán như vậy; quán sự có của Bát-nhã ba-la-mật, cũng như quán sự có của chúng sinh; quán sự có của Bát-nhã ba-la-mật cũng như quán sự có của năm ấm; quán sự có của Phật cũng như quán sự có của Bát-nhã ba-la-mật; quán không có sự có của Bát-nhã ba-la-mật cũng như quán không có sự có của năm ấm; quán không có sự có của Bát-nhã ba-la-mật cũng như quán không có sự có của Phật; quán không có sự có của Bát-nhã ba-la-mật cũng như quán không có sự có của chúng sinh; quán sự vắng lặng của Bát-nhã ba-la-mật cũng như quán sự vắng lặng của chúng sinh; quán sự vắng lặng của Bát-nhã ba-la-mật cũng như quán sự vắng lặng của Phật pháp; quán sự vắng lặng của năm ấm, quán sự vắng lặng của Bát-nhã ba-la-mật, nên quán Bát-nhã ba-la-mật không đầu mối nên biết chúng sinh cũng không có đầu mối, năm ấm và Phật pháp không có đầu mối nên Bát-nhã ba-la-mật không có đầu mối. Bát-nhã ba-la-mật không thể suy lường nên biết chúng sinh không thể suy lường; năm ấm không thể suy lường và Phật pháp không thể suy lường; chúng sinh không bị bại hoại, nên biết Bát-nhã ba-la-mật không bị bại hoại; chúng sinh không đắc Chánh đẳng giác, nên biết Bát-nhã ba-la-mật không đắc Chánh đẳng giác, năm ấm cũng không đắc Chánh đẳng giác, Phật cũng không đắc Chánh đẳng giác; sức mạnh của chúng sinh không đầy đủ, sức mạnh của Bát-nhã ba-la-mật không đầy đủ, sức mạnh của năm ấm không đầy đủ, sức mạnh của Phật không đầy đủ. Do vậy, Thế Tôn, Đại Bát-nhã ba-la-mật là Đại độ của Bồ-tát.

Phẩm 42: ĐỊA NGỤC

Xá-lợi-phất bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn! Bồ-tát hiểu Bát-nhã ba-la-mật từ đâu đến sinh ở thế gian này mà phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, có thời gian bao nhiêu? Cúng dường bao nhiêu Đức Phật Như Lai? Tu hành sáu pháp Ba-la-mật bao nhiêu thời gian? V́ sao hiểu rõ Bát-nhã ba-la-mật đến chỗ nghĩa lý sâu xa?

Phật bảo Xá-lợi-phất:

–Đại Bồ-tát đã cúng dường mười phương chư Như Lai Vô Sở Trước Chánh Đẳng Giác, từ đó đến thế gian này. Đại Bồ-tát này từ khi phát tâm cho đến nay trải qua vô số kiếp không thể đếm được, tu hành sáu pháp Ba-la-mật cũng không thể đếm được, đến ở thế gian này, từ đó đến nay không thể đếm được, thường cúng dường chư Phật mà sinh đến thế gian này. Khi các vị Bồ-tát này thấy Bát-nhã ba-la-mật như thấy Thế Tôn, hoặc khi nghe Bát-nhã ba-la-mật như nghe lời nói của Thế Tôn. Vị Đại Bồ-tát này hiểu rõ Bát-nhã ba-la-mật đến chỗ sâu xa, không dùng tưởng để nhập vào, không dùng hai để nhập vào mà không có ỷ lại.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật có thể thấy nghe được không?

Phật dạy:

–Không có thể thấy nghe được. V́ sao vậy? Này Tu-bồ-đề, Bát-nhã ba-la-mật cũng không phải sự thấy, cũng không phải sự nghe. Bát-nhã ba-la-mật không có chỗ nghe cũng không có chỗ thấy. V́ các pháp đâu có thể nghe, thấy. Năm ấm cũng không thấy, không nghe; v́ các pháp đâu có thể thấy, nghe. Nội ngoại không và hữu vô không không có chỗ nghe cũng không có chỗ thấy; v́ các pháp đâu có thể nghe, thấy. Ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, mười Lực và mười tám pháp Bất cộng của Phật không có chỗ thấy cũng không có chỗ nghe; v́ các pháp đâu có thể nghe thấy.

Này Tu-bồ-đề! Đạo và Phật cũng không có chỗ thấy, cũng không có chỗ nghe; v́ các pháp đâu có thể nghe thấy.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn! Vị Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật đến bao lâu mới tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật?

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Việc này phải nên phân biệt.

Này Tu-bồ-đề! Có sự kiện này làm cho Bồ-tát vừa phát tâm liền hiểu rõ vào Bát-nhã ba-la-mật: Dùng phương tiện quyền xảo không thấy các pháp có thịnh và suy, hoàn toàn không phỉ báng các pháp, hoàn toàn không xa ĺa sáu pháp Ba-la-mật, không xa ĺa chư Phật Thế Tôn. Người muốn trồng các căn lành như cúng dường mười phương chư Phật Thế Tôn liền được ý nguyện, từ cõi này sang cõi khác, nhưng không bị thọ sinh trong bào thai mẹ, luôn luôn không xa ĺa năm Thần thông, không gần gũi các trần cấu, cũng không thân cận Thanh văn, Bích-chi-phật mà giáo hóa chúng sinh làm thanh tịnh cõi Phật. Bồ-tát hành như vậy là đi sâu vào Bát-nhã ba-la-mật.

Này Tu-bồ-đề! Lại có thiện nam, thiện nữ hành đạo Bồ-tát được vô số a-tăng-kỳ chư Phật ủng hộ, thực hành sáu pháp Ba-la-mật mà có ỷ lại nên nghe nói đến sự sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật th́ liền xả bỏ. Những Bồ-tát ấy lại sinh tâm kiêu ngạo nên xa ĺa chư Phật Thế Tôn th́ không được nghe pháp Bát-nhã ba-la-mật sâu xa.

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Người không thích nghe Bát-nhã ba-la-mật sâu xa nay cũng đang ngồi trong hội này. V́ sao? V́ thiện nam, thiện nữ này khi nghe hành Bồ-tát đạo, từ xưa nghe Bát-nhã ba-la-mật sâu xa mà không thích rồi bỏ đi, nhờ vậy nên hiện nay được nghe sâu xa vào Bát-nhã ba-la-mật, không thích lại muốn bỏ đi; cùng thân, khẩu, ý không hòa; tích chứa tội không trí tuệ. Do tội nặng này làm ngược lại Bát-nhã ba-la-mật sâu xa. Người làm ngược lại Bát-nhã ba-la-mật sâu xa là chống cự lại trí Nhất thiết của chư Phật trong ba đời. Do tội nghịch lại trí Nhất thiết nên đoạn trí Nhất thiết; v́ tội đoạn trí Nhất thiết nên đọa vào địa ngục nung nấu đến vô số trăm ngàn năm, từ địa ngục này ra đến địa ngục khác. Khi lửa đốt vào thời kiếp tận, lại đọa trong đại ngục lớn ở phương này hết kiếp, sẽ từ trong địa ngục này lại đến địa ngục ở phương khác, hết kiếp, sẽ bị từ trong địa ngục này lại đến ở trong địa ngục khác nữa, đi khắp địa ngục ở các phương như vậy. V́ tội đoạn pháp này nên sinh đến địa ngục ở đây, chịu tội trong địa ngục rất đau đớn, đến kiếp tận lại đọa trong loài súc sinh ở phương khác, lần lượt đọa trong loài súc sinh khắp mười phương như vậy. Từ trong loài súc sinh ra lại đọa vào nhà lửa, mang thân quỷ đói rất cực h́nh. Như vậy mãi rất lâu sau đó mới được sinh làm người. Sinh đến chốn nào luôn luôn sinh trong nhà mù tối, hoặc sinh trong nhà giết người, hoặc sinh nhà bắt cá, sinh nhà làm đồ tể, nhà hạ tiện, nhà ăn xin, hoặc mù, hoặc điếc, hoặc không tay chân, hoặc câm ngọng không nói được, hết chịu tội này rồi lại sinh chỗ biên địa hạ tiện, nơi không có Phật, không có Pháp, không có Tăng. Người đoạn trừ pháp này đều phải chịu tội đầy đủ như trên.

Xá-lợi-phất bạch Phật:

–Người đoạn trừ pháp này là thuộc về tội ngũ vô gián?

Phật dạy:

–Tội đoạn pháp như vậy không nói hết được. Khi người khác thuyết Bát-nhã ba-la-mật này, lại ngăn bằng lời: Đây chẳng phải luật, chẳng phải giáo lý tôn kính của Thế Tôn dạy. Đây chẳng phải lời của Như Lai Vô Sở Trước Chánh Đẳng Giác.

Tự ḿnh không tu học lại ngăn cấm làm cho người khác xa ĺa; tự hại ý ḿnh, lại hại ý người khác; tự ḿnh làm tâm ý bị khổ, lại làm cho tâm ý người khác khổ; tự ḿnh mất đi, lại làm người khác mất đi; tự ḿnh không hiểu sâu vào Bát-nhã ba-la-mật mà bỏ đi, lại dạy cho người khác làm cho họ xa ĺa.

Này Xá-lợi-phất! Với những người này còn không nghe âm thanh của họ huống chi cùng làm việc, cùng ở chung. V́ sao? Nên biết những người này là kẻ rất nguy hiểm ở trong Phật pháp, nên biết người này đọa ở chốn tối tăm. Nếu ai nghe bọn người này nói mà tin theo, cũng bị tội không lường được.

Này Xá-lợi-phất! Người đoạn trừ Bát-nhã ba-la-mật nên biết là bị bệnh nặng trong Phật pháp.

Xá-lợi-phất thưa:

–Bạch Thế Tôn! Những người phỉ báng pháp, sinh ở chốn nào mà chịu thân h́nh ra sao, xin Ngài nói cho biết?

Phật dạy:

–Hãy để sự việc thọ thân h́nh của những người hủy báng qua một bên. V́ sao? V́ người này vừa nghe việc ấy th́ thân họ bị chết ngất. Người ấy ưu sầu, hoặc bệnh, hoặc chết, hoặc bị dày vò dằn vặt mà chịu tội đau đớn đến chết. Nếu giả sử không có tội ấy th́ Thế Tôn không bảo Xá-lợi-phất hỏi câu hỏi đó. Có những kẻ phải chịu thân thể đau đớn đến như vậy nên Như Lai không nói cho Xá-lợi-phất biết.

Xá-lợi-phất thưa:

–Bạch Thế Tôn! Nên nói người thọ thân h́nh của người đoạn pháp này. 

Bạch Thế Tôn! Lời nói ấy sẽ làm sáng tỏ cho đời sau.

Phật dạy:

–Ta đã dạy những kẻ phỉ báng và đoạn pháp, có thể chịu tội xoay vần đọa trong địa ngục luân chuyển nhiều kiếp số, chịu loài súc sinh, thân h́nh chịu loài quỷ đói; lại có vô số chịu thân người mù, điếc, câm, ngọng, hạ tiện... để làm ngọn đèn sáng tỏ cho đời sau. V́ người đã nghe pháp này rồi th́ không dám đoạn pháp, phỉ báng.

Xá-lợi-phất thưa:

–Những thiện nam, thiện nữ đều suy nghĩ: “Con nghe lời nói đó, tâm rất lo sợ, con không dám làm các việc ấy, trọn đời con không dám làm đoạn pháp và phỉ báng như kẻ ấy. Nếu con phỉ báng th́ đọa vào chốn ác xứ chịu khổ như vậy.” Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, những thiện nam, thiện nữ thường nên hộ tŕ thân, khẩu, ý thường suy nghĩ: “Chúng ta không nên chịu tội phá hoại đó, sẽ bị không được thấy Như Lai, không thấy Pháp, không thấy chúng Tăng, hoặc sinh ở chỗ không có Phật, hoặc đọa vào nhà nghèo khổ, hoặc sinh ở chỗ không được nghe Chánh pháp.” Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn! Do khẩu nghiệp nên chịu tội phá hoại pháp rất nặng phải không?

Phật dạy:

–Do miệng nói lỗi nên liền bị tội phá hoại rất nặng.

Này Tu-bồ-đề! Ở đời vị lai, hoặc có người ngu làm Sa-môn, đối với giáo pháp ta dạy lại phỉ báng, xa ĺa Bát-nhã ba-la-mật sâu xa. Người phỉ báng xa ĺa Bát-nhã ba-la-mật sâu xa là đã phỉ báng đạo của chư Như Lai Vô Sở Trước Chánh Đẳng Giác. Người phỉ báng đạo của Như Lai là phỉ báng xa ĺa trí Nhất thiết của chư Phật trong ba đời. Người đã phỉ báng trí Nhất thiết th́ xa ĺa pháp, th́ xa ĺa Tăng; người xa ĺa Tăng th́ xa ĺa Chánh kiến. Ở thế gian người đã xa ĺa Chánh kiến th́ xa ĺa ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, trí Nhất thiết. Người đã xa ĺa trí Nhất thiết th́ thân chịu tội đến vô số kiếp không thể đếm được. Người chịu tội về thân đó, th́ phải chịu buồn rầu khổ vô số kiếp không thể đếm được.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn! Người ngu si xa ĺa Bát-nhã ba-la-mật sâu xa th́ có bao nhiêu việc?

Phật dạy:

–Có bốn việc: 

1.     Bị ma sai khiến.

2.     Không tin, không hiểu rõ vào pháp, không thương mến, không ưa thích. 

3.     Thân cận bạn ác, nên không thuận theo Bát-nhã ba-la-mật mà lại bám vào năm ấm. 

Do ba việc ấy nên xa ĺa Pháp sâu xa.

4.     Người ngu si nhiều sân hận, ưa việc cống cao mắng chửi người khác. 

Do bốn việc này người ngu si xa ĺa Bát-nhã ba-la-mật sâu xa.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bát-nhã ba-la-mật sâu xa rất khó hiểu. V́ sao? V́ hiểu không đúng Pháp, không tùy thuận với gốc thiện, gần gũi với bạn ác.

Phật dạy:

–Đúng vậy! Tu-bồ-đề, đúng như lời ông đã nói.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn! V́ sao Bát-nhã ba-la-mật sâu xa rất khó hiểu, khó biết?

Phật dạy:

–Này Tu-bồ-đề! Năm ấm không trói, không mở. V́ sao? V́ sắc, sắc tự có tánh; thọ, thọ tự có tánh; tưởng, tưởng tự có tánh; Hành, hành tự có tánh; Thức, Thức tự có tánh. Sáu pháp Ba-la-mật không trói cũng không mở. V́ sao? V́ sự có của sáu pháp Ba-la-mật là không thật có, nội ngoại không và hữu vô không, cũng trói cũng mở. V́ sao? V́ nội ngoại không không trói, cũng không mở. V́ sao? V́ nội ngoại không cũng không có sự có.

Này Tu-bồ-đề! Ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, mười tám pháp của Phật cho đến trí Nhất thiết không trói, cũng không mở. V́ sao? V́ sự có đều không thật có. Năm ấm ở quá khứ không trói, cũng không mở. V́ sao? V́ các ấm quá khứ là không, nên quá khứ không buộc không mở.

Này Tu-bồ-đề! Cho đến trí Nhất thiết ở quá khứ không trói cũng không mở. V́ sao? V́ trí Nhất thiết ở quá khứ là không.

Này Tu-bồ-đề! Năm ấm ở vị lai không trói, cũng không mở. V́ sao? V́ đời vị lai năm ấm cũng là không. Cho đến trí Nhất thiết cũng lại như vậy.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Hiểu không đúng pháp, tùy thuận không hợp với gốc thiện, gần gũi với bạn ác, người biếng nhác không phát sinh trí tuệ th́ tâm ý bị nhiễu loạn, những người này không thể được Bát-nhã ba-la-mật sâu xa.

Phật dạy:

–Như lời ông nói, những người này không thể hiểu và nói Bát-nhã ba-la-mật sâu xa.

Này Tu-bồ-đề! Năm ấm tịnh th́ đạo tịnh, v́ đạo tịnh nên đắc quả tịnh.

Này Tu-bồ-đề! Năm ấm tịnh th́ Bát-nhã ba-la-mật tịnh, Bát-nhã ba-la-mật tịnh th́ năm ấm tịnh; v́ năm ấm tịnh th́ trí Nhất thiết tịnh, trí Nhất thiết tịnh th́ năm ấm tịnh; năm ấm cùng trí Nhất thiết là một, không hai, không phá, không hoại.

Này Tu-bồ-đề! Năm ấm không hai tịnh, trí Nhất thiết không hai tịnh, một pháp không hai, chúng sinh, tri kiến, tuổi thọ, mạng sống cùng tịnh; chúng sinh tịnh, trí Nhất thiết tịnh. Một tịnh không có hai tịnh.

Này Tu-bồ-đề! Ngã tịnh, trí Nhất thiết tịnh; tri kiến, tuổi thọ, mạng sống tịnh; th́ năm ấm, trí Nhất thiết tịnh; không có hai, cũng không đoạn, không phá.

Này Tu-bồ-đề! Dâm, nộ, si, năm ấm và trí Nhất thiết một tịnh không có hai tịnh.

Này Tu-bồ-đề! Si tịnh, si đã tịnh th́ hành tịnh; hành đã tịnh th́ thức tịnh; thức đã tịnh th́ danh, sắc tịnh; danh sắc tịnh th́ lục nhập tịnh; lục nhập đã tịnh th́ xúc tịnh; xúc đã tịnh th́ giác tịnh; giác đã tịnh th́ ái tịnh; ái đã tịnh th́ thọ tịnh; thọ đã tịnh th́ hữu tịnh; hữu đã tịnh th́ sinh tịnh, sinh đã tịnh th́ tử tịnh; tử đã tịnh th́ sáu pháp Ba-la-mật tịnh; sáu pháp Ba-la-mật đã tịnh th́ nội ngoại không và hữu vô không tịnh; hữu vô không đã tịnh th́ ba mươi bảy phẩm Trợ đạo tịnh; ba mươi bảy phẩm Trợ đạo tịnh th́ trí Nhất thiết tịnh. Trí Nhất thiết tịnh, đó là một tịnh không có hai tịnh, không có phá cũng không có hoại.

Này Tu-bồ-đề! Bát-nhã ba-la-mật tịnh, năm ấm tịnh, trí Nhất thiết tịnh, một tịnh, không có hai tịnh. năm pháp Ba-la-mật tịnh, trí Nhất thiết tịnh, nội ngoại không và hữu vô không tịnh, trí Nhất thiết tịnh; ba mươi bảy phẩm Trợ đạo tịnh, trí Nhất thiết tịnh; mười tám pháp Bất cộng tịnh, trí Nhất thiết tịnh.

Này Tu-bồ-đề! Trí Nhất thiết tịnh cho đến Bát-nhã ba-la-mật tịnh không có sai khác.

Này Tu-bồ-đề! Hữu vi tịnh và vô vi tịnh là một tịnh không có hai tịnh.

Này Tu-bồ-đề! Quá khứ tịnh, hiện tại tịnh, vị lai tịnh. Quá khứ, hiện tại, vị lai tịnh là một tịnh không có hai tịnh, cũng không phá hoại cũng không đoạn diệt. Thế nên là tịnh.

Phẩm 43: MINH TỊNH

Xá-lợi-phất bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, tịnh là rất sâu xa!

Phật dạy:

–Thường tịnh.

Xá-lợi-phất thưa:

–Bạch Thế Tôn! V́ sao thường tịnh?

Phật dạy:

–Năm ấm tịnh cho nên thường tịnh.

Này Xá-lợi-phất! Ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, mười Lực và mười tám pháp Bất cộng là Đạo tịnh, Phật tịnh, trí Nhất thiết tịnh nên tịnh rất sâu xa.

Xá-lợi-phất thưa:

–Bạch Thế Tôn! Còn Minh tịnh?

Phật dạy:

–Thường tịnh.

Xá-lợi-phất thưa:

–V́ sao gọi Minh tịnh?

Phật dạy:

–Sáu pháp Ba-la-mật tịnh, trí Nhất thiết tịnh, thế nên Minh tịnh.

Xá-lợi-phất thưa:

–Bạch Thế Tôn! Niết-bàn tịnh phải không?

Phật dạy:

–Thường tịnh.

Xá-lợi-phất thưa:

–Bạch Thế Tôn! V́ sao Niết-bàn tịnh?

Phật dạy:

–V́ năm ấm là phước vô cùng, không đến cũng không đi, trí Nhất thiết phước đức vô cùng không đến cũng không đi.

Xá-lợi-phất thưa:

–Bạch Thế Tôn! Tịnh là không có chấp trước.

Phật dạy:

–Thường tịnh.

Xá-lợi-phất thưa:

–Bạch Thế Tôn! Do cái ǵ nên không chấp trước thanh tịnh?

Phật dạy:

–V́ năm ấm dũng mãnh không có chấp trước là thường tịnh cho đến trí Nhất thiết dũng mãnh không có chấp trước là thường tịnh. Xá-lợi-phất thưa:

–Bạch Thế Tôn! Không có sự đạt đến, không có sự chứng đắc là tịnh phài không?

Phật dạy:

–Thường tịnh.

Xá-lợi-phất thưa:

–Bạch Thế Tôn. V́ sao? V́ không có chỗ đạt đến, không có chỗ chứng đắc là tịnh phải không?

Phật dạy:

–Năm ấm không có chỗ đắc nên tịnh; cho đến trí Nhất thiết không có chỗ đạt đến, không có chỗ chứng đắc nên tịnh.

Xá-lợi-phất thưa:

–Bạch Thế Tôn! Không có chỗ sinh nên tịnh?

Phật dạy: 

–Thường tịnh.

Xá-lợi-phất thưa:

–Bạch Thế Tôn! V́ sao không có chỗ sinh, không có chỗ sinh thanh tịnh?

Phật dạy:

–Không có chỗ sinh là không có chỗ sinh thanh tịnh; cho đến trí Nhất thiết không có chỗ sinh, không có chỗ sinh thanh tịnh.

Xá-lợi-phất thưa:

–Bạch Thế Tôn! Thanh tịnh không sinh ở nơi ba cõi phải không? Phật dạy:

–Thường tịnh.

Xá-lợi-phất thưa:

–Bạch Thế Tôn! V́ sao thanh tịnh không sinh nơi ba cõi?

Phật dạy:

–Không thuộc về ba cõi nên không sinh là tịnh.

Xá-lợi-phất thưa:

–Bạch Thế Tôn! Không có chỗ biết là tịnh.

Phật dạy:

–Thường tịnh.

–Bạch Thế Tôn! V́ sao không có chỗ biết là thanh tịnh?

Phật dạy: 

–Các pháp vắng lặng không có chỗ biết là thanh tịnh.

–Bạch Thế Tôn! Biết là thanh tịnh?

Phật dạy:

–Thường tịnh.

Xá-lợi-phất thưa:

–Bạch Thế Tôn! Tại sao năm ấm không có chỗ biết là thanh tịnh?

Phật dạy:

–Năm ấm đều không, nên không có chỗ biết là thanh tịnh.

Xá-lợi-phất thưa:

–Bạch Thế Tôn! Các pháp đều thanh tịnh hay không?

Phật dạy:

–Thường tịnh.

Xá-lợi-phất thưa:

–Bạch Thế Tôn! V́ sao các pháp thanh tịnh?

Phật dạy:

–Các Pháp không chứng đắc nên các pháp thanh tịnh.

Xá-lợi-phất thưa:

–Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật đối với trí Nhất thiết cũng không tăng không giảm nên thanh tịnh?

Phật dạy:

–Thường tịnh.

Xá-lợi-phất thưa:

–Bạch Thế Tôn! V́ sao Bát-nhã ba-la-mật đối với trí Nhất thiết không tăng không giảm nên thanh tịnh?

Phật dạy:

–Pháp thường trụ.

Xá-lợi-phất thưa:

–Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật thanh tịnh v́ các pháp không nắm bắt được.

Phật dạy:

–Thường tịnh.

Xá-lợi-phất thưa:

–Bạch Thế Tôn! Nếu Bát-nhã ba-la-mật thanh tịnh th́ các pháp nắm bắt được không?

Phật dạy:

–Pháp tánh không lay động.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Ngã, năm ấm tịnh là thanh tịnh phải không?

Phật dạy:

–Thường tịnh.

Tu-bồ-đề thưa: 

–Bạch Thế Tôn! V́ sao ngã tịnh, năm ấm tịnh? V́ sao thường tịnh?

Phật dạy: 

–Ngã không thật có, năm ấm cũng không thật có cho nên thường tịnh.

Tu-bồ-đề thưa: 

–Bạch Thế Tôn! Ngã tịnh th́ sáu pháp Ba-la-mật, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo tịnh; ngã tịnh th́ mười Lực tịnh, mười tám pháp Bất cộng tịnh.

Phật dạy:

–Thường tịnh.

Tu-bồ-đề thưa:

–V́ sao chúng sinh tịnh cho đến mười tám pháp Bất cộng cũng tịnh.

Phật dạy:

–Chúng sinh không thật có cho đến mười tám pháp Bất cộng của Phật cũng không thật có nên thanh tịnh.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! V́ ngã tịnh, Tu-đà-hoàn tịnh; Thanh văn, Bích-chi-phật tịnh, chúng sinh tịnh th́ đạo tịnh.

Phật dạy:

–Thường tịnh.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! V́ ngã tịnh; Thanh văn, Bích-chi-phật tịnh, cho đến đạo, Phật cũng thanh tịnh phải không?

Phật dạy:

–Không của các pháp tướng là tịnh.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Ngã tịnh, trí Nhất thiết tịnh.

Phật dạy:

–Thường tịnh.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! V́ sao ngã tịnh, trí Nhất thiết tịnh, thường tịnh hay không?

Phật dạy:

–Không có tướng nên thường trú.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Hai tịnh không có nắm bắt được, không có đạt được.

Phật dạy:

–Thường tịnh.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! V́ sao hai tịnh không đạt được, không nắm bắt được là Thường tịnh?

Phật dạy:

–Không chấp trước, không đoạn diệt.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Chúng sinh tịnh không có ch́m đắm?

Phật dạy:

–Không có chỗ sinh tịnh.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! V́ sao năm ấm, chúng sinh tịnh, không có chỗ sinh thường tịnh hay không?

Phật dạy:

–Không có bờ mé.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Nếu bậc Đại Bồ-tát biết như vậy là hành Bát-nhã ba-la-mật. Phật dạy:

–Thường tịnh.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! V́ sao biết như vậy thực hành Bát-nhã ba-la-mật?

Phật dạy:

–V́ biết việc đạo.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn! Giả sử Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng phương tiện quyền xảo, suy nghĩ như vầy: “Sắc không biết được sắc; thọ, tưởng, hành, thức cũng không biết được thức; pháp quá khứ cũng không biết về pháp quá khứ; pháp vị lai cũng không biết về Pháp vị lai, pháp hiện tại cũng không biết về pháp hiện tại.” Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Chứng đắc Bát-nhã ba-la-mật, do thực hành phương tiện quyền xảo, không suy nghĩ như vầy: Thực hành sáu pháp Ba-la-mật mà nói rằng: Ta bố thí, đem vật bố thí và đây là người nhận của bố thí như vậy. Cho đến Bát-nhã ba-la-mật cũng như vậy, cũng không nói ta làm công đức, ta có công đức, cũng không nói ta sẽ chứng đắc đạo Bồ-tát, cũng không nói ta giáo hóa chúng sinh làm thanh tịnh cõi Phật, cũng không nói ta đạt đến trí Nhất thiết. Các bậc thực hành Bát-nhã ba-la-mật dùng phương tiện quyền xảo cũng không suy nghĩ như vậy. Nội ngoại không cho đến hữu vô không cũng không suy nghĩ như vậy.

Này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật dùng phương tiện quyền xảo là không chấp trước.

Thích Đề-hoàn Nhân hỏi Tu-bồ-đề:

–Thiện nam, thiện nữ thực hành đạo Bồ-tát là nương vào những ǵ?

Tu-bồ-đề trả lời:

–Này Câu-dực! Thực hành đạo Bồ-tát có ý tưởng, có thí tưởng, có sáu pháp Ba-la-mật tưởng, có nội ngoại không cho đến hữu vô không tưởng, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo tưởng, có mười tám pháp Bất cộng tưởng; có mười Lực, có chư Phật Như Lai tưởng; có tưởng công đức cúng dường chư Phật, đều suy nghĩ và tính toán pháp số ấy rồi hợp lại để tưởng đó thực hành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Này Câu-dực! Thiện nam, thiện nữ thực hành đạo Bồ-tát là v́ chấp trước, không có thể đắc Tuệ vô ngại mà thực hành Bát-nhã ba-la-mật. V́ sao? V́ không thể chỉ được tạo tác của năm ấm, cho đến tánh trí Nhất thiết cũng không thể chỉ được sự tạo tác.

Này Câu-dực! Vị Đại Bồ-tát đã cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, v́ các chúng sinh mà khuyến trợ chúng sinh, v́ các chúng sinh thực hành Bố thí ba-la-mật, v́ nhớ nghĩ chúng sinh cũng lại khuyến trợ người khác, làm cho chúng sinh tu hành Bố thí ba-la-mật, không nên tưởng về sự thực hành sáu pháp Ba-la-mật, cũng không nên tưởng về thực hành nội không, ngoại không và hữu vô không, cũng không nên tưởng về sự thực hành ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, cũng không nên tưởng về sự thực hành đạo.

Thiện nam, thiện nữ nào được thực hành như vậy, lại khuyên trợ những người khác thực hành Chánh đẳng giác, người khuyến trợ làm việc này th́ không bị đọa lạc, cũng không khiếncho người khác làm cho xa ĺa sự hỗ trợ của chư Phật. Như vậy, thiện nam, thiện nữ này xa ĺa các sự chấp trước.

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Lành thay, lành thay! Làm cho các vị Bồ-tát hiểu rõ các sự chấp trước

Này Tu-bồ-đề! Lắng nghe, lắng nghe! Suy nghĩ và ghi nhớ, v́ ông, ta nói các sự chấp trước vi diệu.

Tu-bồ-đề chắp tay thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con muốn nghe.

Phật dạy:

–Này thiện nam, thiện nữ! Phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác là tưởng niệm Như Lai.

Này Tu-bồ-đề! Vừa có tưởng niệm hộ tŕ chấp trước nơi chư Như Lai. Từ khi phát tâm cho đến vào thời pháp diệt tận, công đức đều tưởng niệm, đã làm tưởng niệm ấy, cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, theo tưởng niệm đó th́ chấp trước chư Phật. Chúng đệ tử và các chúng sinh đã làm các công đức, đem tưởng niệm ấy thực hành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, theo tưởng niệm đó th́ thành chấp trước. V́ sao? V́ không nên chấp vào công đức tưởng niệm chư Phật.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật rất sâu xa.

Phật dạy:

–Các pháp tánh vắng lặng.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật thật sự có danh tự.

Phật dạy:

–Bát-nhã ba-la-mật không có tạo tác th́ không có thành tựu, không thể có chứng đắc, cũng không thể có đắc, cũng không có giác ngộ.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Tất cả các pháp không thể có chứng đắc.

Phật dạy:

–Pháp tánh hoàn toàn không hai. Này Tu-bồ-đề! Các pháp tánh không có nhiều tánh hay một tánh. Một tánh là phi tánh, phi tánh là phi tác, phi tác cũng không tạo tác.

Này Tu-bồ-đề! Một pháp tánh chẳng phải là tạo tác.

Phật dạy:

–Vị Đại Bồ-tát biết tất cả pháp phi tác, phi tạo th́ bỏ tất cả các sự chấp trước.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật rất khó hiểu, khó biết.

Phật dạy:

–Cũng không có người biết, cũng không có thấy, không chứng đắc, không có đạt đến, cũng không giác ngộ.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật không thể suy lường được.

Phật dạy: 

–Tu-bồ-đề! Cũng không phải phát sinh ý, từ nơi ý cũng không phải phát sinh, từ năm ấm cũng không phải phát sinh, từ ba mươi bảy phẩm Trợ đạo cũng không phát sinh, từ mười Lực và mười tám pháp Bất cộng cũng không phải phát sinh.

Phẩm 44: VÔ TÁC

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật là không sự tạo tác.

Phật dạy:

–Không người tạo tác. Này Tu-bồ-đề! Cho đến các pháp không có tác giả.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật phải hành như thế nào?

Phật dạy:

–Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, không hành sắc để hành Bát-nhã ba-la-mật; không hành thọ, tưởng, hành, thức để hành Bát-nhã ba-la-mật, trí Nhất thiết không có chỗ hành để hành Bát-nhã ba-la-mật.

Đối với năm ấm không nhớ nghĩ có thường hay vô thường để hành Bát-nhã ba-la-mật; cho đến trí Nhất thiết cũng không nhớ nghĩ có thường hay vô thường để hành Bát-nhã ba-la-mật. Đối với năm ấm không khổ, không vui, để hành Bát-nhã ba-la-mật; cho đến trí Nhất thiết cũng không khổ không vui để hành Bát-nhã ba-la-mật. Đối với năm ấm không có ngã vàvô ngã để hành Bát-nhã ba-la-mật; cho đến trí Nhất thiết cũng không có ngã và vô ngã để hành Bát-nhã ba-la-mật. Đối với năm ấm không tịnh cũng không bất tịnh để hành Bát-nhã ba-la-mật; cho đến trí Nhất thiết không tịnh cũng không bất tịnh để hành Bát-nhã ba-la-mật.

V́ sao? V́ năm ấm không thấy có thường hay vô thường, cũng không thấy có khổ, có vui, có ngã, có vô ngã, tốt xấu, cho đến trí Nhất thiết cũng như vậy.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật không đầy đủ năm ấm để hành Bát-nhã ba-la-mật; cho đến trí Nhất thiết không đầy đủ để hành Bát-nhã ba-la-mật. V́ sao? V́ năm ấm không đầy đủ là không phải năm ấm, không thực hành để hành Bát-nhã ba-la-mật; cho đến trí Nhất thiết không hành như vậy để hành Bát-nhã ba-la-mật.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn! Rất đặc biệt, người hành Bồ-tát đạo nói đầy đủ về sự chấp trước của Bồ-tát.

Phật dạy:

–Đúng như vậy! Như Lai Vô Sở Trước Chánh Đẳng Giác nói đầy đủ về sự chấp trước và không chấp trước của Bồ-tát.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Bồ-tát đối với năm ấm không chấp trước để hành tŕ Bát-nhã ba-la-mật; đối với lục t́nh nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý không chấp trước để hành Bát-nhã ba-la-mật; đối với sáu pháp Ba-la-mật, không chấp trước để hành Bát-nhã ba-la-mật; cho đến trí Nhất thiết cũng không chấp trước để hành Bát-nhã ba-la-mật.

Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát hành như vậy, liền biết chấp trước năm ấm hay không chấp trước, liền biết Tu-đà-hoàn chấp trước hay không chấp trước; biết đạo Thanh văn, Bích-chi-phật chấp trước hay không chấp trước; biết đạo Chánh đẳng giác chấp trước hay không chấp trước.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn! Pháp này rất kỳ lạ đặc biệt sâu xa như vậy, nói cũng không tăng không giảm, không nói cũng không tăng không giảm.

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Đúng như vậy! Như lời ông đã nói. Này Tu-bồ-đề! Như đối với chư Như Lai Vô Sở Trước Chánh Đẳng Giác, trọn đời khen ngợi th́ như hư không cũng không tăng, hoặc phỉ báng th́ như hư không cũng không giảm. Ví như được khen ngợi người huyễn cũng không tăng, hoặc bị hủy nhục người huyễn cũng không giảm; nghe điều lành cũng không vui, nghe điều xấu cũng không giận hờn.

Này Tu-bồ-đề! Pháp của các pháp cũng lại như vậy, nếu nói hoặc không nói cũng không tăng không giảm.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn! Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, nhớ nghĩ Bát-nhã ba-la-mật thật là rất khó.

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật không lo không sợ. Đối với Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác không lay động. V́ sao?

Bạch Thế Tôn! Người nhớ nghĩ Bát-nhã ba-la-mật là muốn nhớ nghĩ như hư không: Hư không không có sáu pháp Ba-la-mật; hư không cũng không có năm ấm, cũng không có nội ngoại không và hữu vô không; cũng không có ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, cũng không có mười Lực, cũng không có Vô sở úy, cũng không có mười tám pháp Bất cộng, cũng không có Tu-đà-hoàn đạo, cũng không có Tư-đà-hàm đạo, cũng không có Bích-chi-phật đạo; hư không cũng không có Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. 

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát phát thệ nguyện như vậy đáng được mọi người đảnh lễ.

Bạch Thế Tôn! Người v́ chúng sinh mà tinh tấn, v́ chúng sinh mà nỗ lực, v́ chúng sinh mà chiến đấu, v́ chúng sinh mà phát thệ nguyện, v́ muốn v́ không nên tinh tấn, v́ muốn v́ không nên phát thệ nguyện. 

Bạch Thế Tôn! Người v́ chúng sinh phát thệ nguyện là v́ muốn vượt qua không. Bồ-tát này v́ nguyện lớn, v́ hư không... Chúng sinh mà phát nguyện ấy. V́ muốn đem hư không đặt lên hư không, các vị Đại Bồ-tát phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác là có sức đại tinh tấn.

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát v́ chúng sinh phát tâm cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác là phát thệ nguyện lớn rồi.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát này v́ đại dõng mãnh, v́ chúng sinh như hư không nên phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. V́ sao?

Bạch Thế Tôn! Giả sử tam thiên đại thiên quốc độ ở trong đó đều là Như Lai. Ví như rừng có mía ngọt, tre, rau, măng, gạo thơm, mè gai, cỏ, cây thuốc, trái; các thứ cây đó đều là Như Lai. Tất cả chư Phật ấy đều thuyết pháp một kiếp, hoặc hơn một kiếp, tất cả Như Lai đều độ chúng sinh vô số kiếp không thể đếm được, nhưng không thể biết cảnh giới chúng sinh có tăng có giảm. V́ sao? V́ chúng là không thật có, là vắng lặng.

Bạch Thế Tôn! Để ba ngàn thế giới ở trên lại, cứ một hạt cát trong sông Hằng ở mười phương quốc độ làm một quốc độ; lúc ấy, tất cả những vật trong cát đó đều là Như Lai giáo hóa chúng sinh không thể lường được, cũng không thể kể hết, v́ cảnh giới chúng sinh cũng không tăng không giảm. V́ sao? V́ tất cả chúng sinh đều không vắng lặng, do đó, chúng sinh không gốc không ngọn, cũng không hư không.

Bạch Thế Tôn! Thế nên con nói rằng: Muốn độ chúng sinh là muốn vượt qua không. Có Tỳ-kheo khác suy nghĩ: Nên v́ Bát-nhã ba-la-mật làm ra danh tự. Trong Bát-nhã ba-la-mật không có Pháp sinh, cũng không có pháp diệt mà trong đó lại có giới tánh, định tánh, tuệ tánh, giải thoát tánh, kiến giải thoát tuệ tánh mà trong đó hiện ra có Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật, Chánh đẳng giác; có Tam bảo, có chuyển pháp luân.

Khi ấy, Thích Đề-hoàn Nhân nói với Tu-bồ-đề:

–Bồ-tát tu tập Bát-nhã ba-la-mật là tu tập những ǵ?

Trưởng lão Tu-bồ-đề trả lời Thích Đề-hoàn Nhân:

–Người học Bát-nhã ba-la-mật tu tập pháp không.

Thích Đề-hoàn Nhân bạch Phật:

–Nếu thiện nam, thiện nữ nào thọ tŕ tu tập Bát-nhã ba-la-mật, đọc tụng ghi nhớ thực hành trong việc ấy th́ con sẽ hộ tŕ.

Bạch Thế Tôn! Ta nên hộ tŕ như thế nào?

Tu-bồ-đề nói với Thích Đề-hoàn Nhân:

–Này Câu-dực! Ông thấy pháp có thể hộ tŕ không?

Thích Đề-hoàn Nhân thưa:

–Thưa Tôn giả! Thật không thấy pháp có thể hộ tŕ!

Tu-bồ-đề nói:

–Này Câu-dực! Thiện nam, thiện nữ nào theo lời dạy trụ nơi pháp Bát-nhã ba-la-mật là đã được hộ tŕ, không xa ĺa lời dạy Bát-nhã ba-la-mật th́ người hoặc phi nhân không hại họ được. Như lời chỉ giáo trụ nơi pháp Bát-nhã ba-la-mật, nên biết thiện nam, thiện nữ này trọn đời không xa ĺa Bát-nhã ba-la-mật. Nếu có người nói ta muốn hộ tŕ Đại Bồ-tát, nên biết ấy là người muốn hộ tŕ hư không.

Này Câu-dực! Có thể hộ tŕ những việc như giấc mộng, sóng nắng, huyễn hóa, ảnh, tiếng vang không?

Thích Đề-hoàn Nhân nói:

–Không thể hộ tŕ được!

Tu-bồ-đề bảo:

–Này Câu-dực! Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật cũng như vậy.

Này Câu-dực! Có thể hộ tŕ Phật và sự giáo hóa của Phật không?

Thích Đề-hoàn Nhân nói:

–Không thể làm việc hộ tŕ cho Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật.

Tu-bồ-đề bảo:

–Này Câu-dực! Có thể hộ tŕ pháp tánh, chân như, chẳng thể nghĩ bàn; có thể hộ tŕ pháp ấy không?

Thích Đề-hoàn Nhân thưa:

–Thưa Tôn giả! Không thể hộ tŕ.

Tu-bồ-đề bảo:

–Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật cũng như vậy, không thể hộ tŕ vị ấy.

Thích Đề-hoàn Nhân hỏi Tu-bồ-đề:

–Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật làm thế nào để biết các pháp như mộng, như huyễn, như sóng nắng, tiếng vang mà không sinh tâm tự cao?

Tu-bồ-đề nói:

–Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật cũng không niệm năm ấm. Đối với năm ấm không sinh tâm tự cao, cho đến trí Nhất thiết cũng không sinh tâm tự cao, cũng không niệm đối với pháp mộng, cho đến pháp huyễn hóa cũng không niệm cũng không sinh tâm tự cao. Do oai thần của Phật làm cho tam thiên đại thiên quốc độ, các trời Tứ Thiên vương cho đến trời Thủ đà hội, đều đem bột thơm, chiên-đàn tung rải lên để cúng dường chư Phật, đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ Phật rồi ngồi một bên.

Bấy giờ, các Tứ Thiên vương, các Thích Đề-hoàn Nhân, các Phạm thiên vương, các trời Thủ đà hội nương oai thần của Phật mà suy nghĩ: “Nay chúng ta nên thỉnh mười phương chư Phật, mỗi phương là một ngàn vị Phật để tuyên thuyết pháp Bát-nhã ba-la-mật.”

Các Tứ Thiên vương, Thích, Phạm, chư tôn thiên vừa nghĩ vậy xong, tức thời khắp mười phương, mỗi phương đều có một ngàn vị Phật.

Khi ấy, chư Phật liền hiện ra thuyết pháp Bát-nhã ba-la-mật với các đệ tử đó cũng như Tu-bồ-đề, người hỏi câu hỏi đó đều như Thích Đề-hoàn Nhân và hỏi những câu hỏi như vậy, như được cùng Phật Thích-ca Mâu-ni thuyết Bát-nhã ba-la-mật.

Phật dạy Di-lặc:

–Đại Bồ-tát này cũng sẽ ở chỗ này thành Chánh Đẳng Chánh Giác, đã thành Chánh đẳng Chánh giác rồi sẽ ở chỗ này thuyết Bát-nhã ba-la-mật. Chư Phật vị lai trong hiền kiếp sẽ ở chỗ này thành Chánh đẳng Chánh giác, sẽ ở chỗ này thuyết Bát-nhã ba-la-mật.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bồ-tát Di-lặc thành Chánh đẳng Chánh giác thuyết Bát-nhã ba-la-mật với sự việc nào? Với h́nh tướng nào? Với ý niệm nào?

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Đại Bồ-tát Di-lặc khi thành Phật cũng không nói năm ấm là thường hay vô thường; cũng không nói năm ấm có khổ, có vui, có tịnh hay bất tịnh, có ngã hay vô ngã, tốt xấu; cũng không nói năm ấm có trói có mở; cũng không nói năm ấm có quá khứ, vị lai, hiện tại. Năm ấm thường tịnh nên nói năm ấm là thường tịnh, cho đến trí Nhất thiết thường tịnh nên nói thường tịnh.

Phật dạy:

–V́ năm ấm thanh tịnh, Bát-nhã ba-la-mật thanh tịnh.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! V́ sao năm ấm thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật thanh tịnh?

Phật dạy:

–Năm ấm không sinh cũng không diệt, không chấp trước, không đoạn diệt. Do đó, năm ấm thanh tịnh.

Này Tu-bồ-đề! Hư không tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật tịnh.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! V́ sao hư không tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật tịnh?

Phật dạy: 

–Như hư không vốn không sinh, không diệt, không chỗ có. Do đó hư không tịnh.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Tại sao hư không không chỗ có, Bát-nhã ba-la-mật tịnh?

Phật dạy:

–V́ hư không vốn không cần hộ tŕ, Bát-nhã ba-la-mật thanh tịnh cũng như vậy.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Tại sao như hư không cho nên Bát-nhã ba-la-mật tịnh?

Phật dạy: 

–Như hư không vốn không có hai, vắng lặng, do vậy nên Bát-nhã ba-la-mật này thanh tịnh. 

Phật dạy: 

–Như hư không không làm, Bát-nhã ba-la-mật thanh tịnh.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! V́ sao hư không không làm, Bát-nhã ba-la-mật thanh tịnh?

Phật dạy:

–V́ hư không không có hành động nên Bát-nhã ba-la-mật thanh tịnh. 

Phật dạy: 

–V́ hư không, không có ỷ lại nên Bát-nhã ba-la-mật thanh tịnh.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! V́ sao hư không không có ỷ lại nên Bát-nhã ba-la-mật thanh tịnh?

Phật dạy:

–Như hư không không vướng mắc nên Bát-nhã ba-la-mật thanh tịnh.

Này Tu-bồ-đề! V́ các pháp không sinh, không diệt, không chấp trước, không đoạn trừ nên Bát-nhã ba-la-mật thanh tịnh.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! V́ sao các pháp không sinh không diệt, không chấp trước, không đoạn trừ nên Bát-nhã ba-la-mật thanh tịnh?

Phật dạy:

–V́ các pháp thường tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật thanh tịnh.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn! Nếu thiện nam, thiện nữ nào đọc tụng ghi nhớ thực hành việc ấy th́ con sẽ hộ tŕ những thiện nam, thiện nữ này suốt đời thân không bị bệnh; mắt, tai, mũi cũng không bị bệnh. Tuy thân có già nhưng không bị bệnh nan y, sống tùy theo tuổi thọ. Lúc già yếu thân không đau đớn, tâm ý được yên ổn, không có bệnh khổ, không nói điên cuồng, b́nh thản cho đến khi chết, thường được chư Thiên ủng hộ, các trời Tứ Thiên vương cho đến trời Thủ đà hội đều theo ủng hộ.

Thiện nam, thiện nữ này là vị Pháp sư, hoặc ngày mười bốn ngày mười lăm trong tháng khi thuyết Bát-nhã ba-la-mật th́ khi ấy chư Thiên đều đến dự hội. Thiện nam, thiện nữ này khi thuyết Bát-nhã ba-la-mật đã được công đức không thể tính được, không thể suy lường, không thể nghĩ bàn.

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Thiện nam, thiện nữ nào vào ở ngay nơi sáu ngày trai thuyết Bát-nhã ba-la-mật, có chư Thiên đến dự hội, được công đức không thể nghĩ bàn. V́ sao? V́ Bát-nhã ba-la-mật là trân bảo vô cùng quý báu.

Này Tu-bồ-đề! Ở trong trân bảo Bát-nhã ba-la-mật, đoạn trừ trong ba đường ác, làm người nghèo khổ, giúp cho cõi trời, cõi người, làm cho tất cả mọi người được sinh trong nhà trưởng giả, đại Phạm chí; được sinh cõi trời Tứ Thiên vương cho đến cõi trời Đaolợi; bố thí người thuộc đạo Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, Ala-hán, Bích-chi-phật; bố thí cho người hành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. V́ sao? V́ từ trong Bát-nhã ba-la-mật có nói đầy đủ về mười điều thiện. Đã học trong đó rồi, liền biết dòng Sát-lợi, Trưởng giả, đại Phạm chí, biết có Tứ Thiên vương lên cho đến cõi trời Đao-lợi; liền biết có đạo Tu-đà-hoàn, Thanh văn, Bích-chi-phật; liền biết có đạo Chánh đẳng Chánh giác; liền biết có bốn Thiền, bốn Đẳng, bốn Không định, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, mười Lực và mười tám pháp Bất cộng của Phật; liền biết có trí Nhất thiết. Do đó gọi là Trân bảo độ, gọi là Bát-nhã ba-la-mật. Ở trong Trân bảo độ cũng không sinh không diệt, cũng không chấp trước không đoạn trừ, cũng không lấy không bỏ. V́ sao? V́ cũng không có pháp sinh, pháp diệt, không có chấp trước, không có đoạn trừ, không lấy cũng không bỏ.

Này Tu-bồ-đề! Bát-nhã ba-la-mật không có pháp thiện, không có pháp ác, không có pháp đạo cũng không có pháp tục, cũng không có pháp hữu lậu và vô lậu, cũng không có pháp hữu vi và vô vi.

Thế nên, Tu-bồ-đề! Trân bảo ba-la-mật không ỷ lại. Trân bảo ba-la-mật này không có pháp nào làm ô nhiễm được, không có pháp nào so sánh được. V́ sao? V́ các pháp đối đãi không thể đến gần được, do đó không bị ô nhiễm.

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Nếu có Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật không nên biết như vậy, không nên suy nghĩ như vậy, không có đắc như vậy, không nên hý luận như vậy là có tu hành Bát-nhã ba-la-mật, là thật nghĩ Bát-nhã ba-la-mật, là đảnh lễ chư Như Lai Vô Sở Trước Chánh Đẳng Giác. Từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, để cung kính phụng sự cúng dường và đảnh lễ chư Phật, giáo hóa chúng sinh làm thanh tịnh cõi Phật.

Này Tu-bồ-đề! Bát-nhã ba-la-mật này không có pháp nào có thể thấy, không có, không thể thấy được, cũng không lấy không bỏ, cũng không sinh không diệt, không chấp trước không đoạn trừ, cũng không tăng không giảm; không quá khứ, vị lai, hiện tại; cũng không làm cho vượt qua cõi Dục giới, cũng không làm cho trụ nơi cõi Dục giới; cũng không làm cho vượt qua cõi Sắc cũng không làm cho trụ lại; không làm cho vượt qua cõi Vô sắc, cũng không làm cho trụ lại; cũng không cho người hành sáu pháp Ba-la-mật, cũng không dạy người xả bỏ; cũng không dạy người hành nội ngoại không, hữu vô không, cũng không cho, không xả bỏ; cũng không cho người ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, cũng không xả bỏ; cũng không cho người mười Lực và mười tám pháp Bất côïng; cũng không xả bỏ cũng không hành tŕ Thanh văn, Bích-chi-phật; cho đến trí Nhất thiết cũng không cho cũng không xa bỏ.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Bát-nhã ba-la-mật cũng không tŕ pháp Ala-hán, cũng không xả bỏ pháp phàm nhân, cũng không cho pháp Bích-chi, không xả bỏ A-la-hán, cũng không hành tŕ pháp Phật mà xả bỏ pháp Bích-chi-phật, cũng không giữ Phật pháp, có giữ, có bỏ.

Này Tu-bồ-đề! Bát-nhã ba-la-mật không giữ pháp vô vi, cũng không xả bỏ pháp hữu vi. V́ sao? V́ pháp tánh trụ như vậy dù có Phật hay không có Phật, pháp tánh là pháp thân cũng không trụ vào quên mất cũng không trụ vào tổn hại.

Khi ấy, chư Thiên ở trên hư không đem dâng các loại hoa sen: xanh, vàng, đỏ, trắng. Các vị đều nói rằng: Ngày nay ở cõi Nam Diêm-phù-đề được thấy chuyển pháp luân. V́ sao? V́ vô số Thiên tử ở trên hư không chứng đắc Vô sinh pháp nhẫn.

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Chuyển pháp luân hoàn toàn không hai cũng không một, nên Bát-nhã ba-la-mật cũng không chuyển v́ pháp, cũng không phải không có pháp nên không chuyển, v́ hữu vô đều là không.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Những pháp nào là hữu vô đều không? Bát-nhã ba-la-mật có sự chuyển, có sự đạt đến?

Phật dạy:

–Sáu pháp Ba-la-mật không do không của sáu pháp Ba-la-mật không, nội ngoại không do không của nội ngoại không; hữu vô không v́ không của hữu vô không; ba mươi bảy phẩm Trợ đạo không v́ không của ba mươi bảy phẩm Trợ đạo không; mười Lực không v́ không của mười Lực không; mười tám pháp Bất cộng của Phật không v́ không của mười tám pháp Bất cộng của Phật không; Thanh văn, Bích-chi-phật là không v́ không của Thanh văn; Bích-chi-phật không; trí Nhất thiết không v́ không của trí Nhất thiết không.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bát-nhã ba-la-mật nghĩa là không. Đây là đại Bát-nhã ba-la-mật của Bồ-tát. Bồ-tát có Bát-nhã ba-la-mật tất cả đều không, chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng giác, cũng không chỗ giác ngộ và chuyển pháp luân, cũng không có pháp để chuyển pháp luân, ngược lại cũng không thấy pháp. V́ sao? V́ nối tiếp nhau là chuyển pháp luân, cũng không có thể chứng đắc, v́ các pháp thường không thật có. V́ sao? V́ Không, Vô tướng, Vô nguyện cũng không lưu chuyển và hoàn diệt. Bát-nhã ba-la-mật là thuyết giáo là thi thiết, là phân biệt từng phần, là tuyên bày lưu bố. Bát-nhã ba-la-mật này là giáo lý như vậy, là giáo lý đại thanh tịnh, giáo lý Bát-nhã ba-la-mật, cũng không người nghe, cũng không người thuyết, cũng không người tiếp nhận, cũng không người chứng. Nếu không người thuyết, không tiếp nhận, không chứng th́ như vậy là Bát-niết-bàn. Nếu không người Niết-bàn th́ ở trong giáo pháp này cũng không có Thế Tôn, phước điền tôn quý.

KINH PHÓNG QUANG BÁT-NHÃ

 Mục Lục

Quyển-1   Quyển-2   Quyển-3   Quyển-4   Quyển-5   Quyển-6   Quyển-7   Quyển-8   Quyển-9   Quyển-10   Quyển-11   Quyển-12   Quyển-13   Quyển-14   Quyển-15   Quyển-16   Quyển-17   Quyển-18   Quyển-19   Quyển-20

 

previous.png         back_to_top.png         next.png

 

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH ]

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0