佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH ]

 

KINH PHÓNG QUANG BÁT-NHÃ

Hán dịch: Đời Tây Tấn, Tam tạng Vô-la-xoa, người nước Vu Điền.

QUYỂN 17

Phẩm 74: GIÁO HỘI CHÚNG SINH

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Từ lúc mới phát tâm, Đại Bồ-tát ghi nhớ trí Nhất thiết và không xa lìa trí Nhất thiết, thực hành Trì giới ba-la-mật. Ngay từ đầu không đọa vào dâm, nộ, si; không nhớ nghĩ dâm, nộ, si; cũng không bị trói buộc vào những pháp chướng đạo như tật đố, ác giới, sân hận, giải đãi, loạn ý, ngu si, ngoan cố, tự mình không còn chấp ngã và cũng không chấp vào hai địa kia.

Vì sao? Vì Bồ-tát đó biết các pháp tự tướng không, không có sở hữu, không có sự thành; quán thấy các pháp đều không lưu chuyển hoàn diệt cũng biết các pháp tướng vượt ngoài thế sự đến chỗ vô vi đầy đủ phương tiện quyền xảo, tăng ích công đức.

Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, giáo hóa chúng sinh, làm thanh tịnh cõi Phật, nhưng chẳng hưởng thọ quả báo Trì giới ba-la-mật của thế gian, chỉ vì muốn làm lợi ích giáo hóa cho tất cả chúng sinh mà hành Ba-la-mật cho đến Bát-nhã ba-la-mật.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Bồ-tát hành bốn Thiền, bốn Đẳng, bốn Thiền vô sắc, mặc dù hành các thiền, nhưng không chấp vào phước của thiền. Vì sao? Vì Bồ-tát dùng phương tiện quyền xảo biết các tướng thiền đều không, cũng biết sự thoái chuyển của chúng.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Từ lúc mới phát tâm, Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, hành phương tiện quyền xảo, hành quán tịnh hạnh, nhưng không đạt quả Tu-đà-hoàn, cũng không chấp lấy quả ấy; đã không chấp quả Tu-đà-hoàn cho đến quả A-la-hán cũng không chấp lấy. Vì sao? Vì Bồ-tát biết các pháp tự tướng không và biết các pháp không lưu chuyển hoàn diệt, biết thực hành ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, vượt qua hai địa kia. 

Này Tu-bồ-đề! Đây gọi là Vô sinh pháp nhẫn của Bồ-tát.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, tám Bối xả thiền và chín thứ đệ Thiền, nhưng không chấp lấy đạo quả Tu-đà-hoàn. Vì sao? Vì Bồ-tát biết các pháp tự tướng không, biết không thoái chuyển.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Bồ-tát hành mười Lực của Phật, bốn Vô sở úy, bốn Vô ngại trí, mười tám pháp Bất cộng, đại Từ, đại Bi, làm thanh tịnh cõi Phật, giáo hóa chúng sinh, rồi sau mới đạt đến Nhất thiết trí, Bồ-tát nên hành Bát-nhã ba-la-mật như vậy.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật của Đại Bồ-tát rất rộng lớn, cho đến hành pháp cũng sâu rộng, nhưng không thọ hưởng quả báo ấy.

Phật dạy:

–Đúng vậy! Này Tu-bồ-đề. Vì sao? Vì Bồ-tát đối với các pháp sở hữu không động chuyển.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Thế nào là pháp sở hữu không động chuyển?

Phật dạy:

–Bồ-tát đối với các pháp vô sở hữu không động chuyển, đối với năm ấm không chuyển, đối với sáu pháp Ba-la-mật không động, đối với bốn Thiền, bốn Đẳng không chuyển, đối với ba mươi bảy phẩm Trợ đạo không chuyển, đối với ba môn Giải thoát không chuyển, đối với đại Từ, đại Bi không chuyển, đối với mười Lực, mười tám pháp Bất cộng không động chuyển. Vì sao? Vì pháp sở hữu đều không có sở hữu.

Này Tu-bồ-đề! Không thể dùng không có sở hữu để đạt đến sự có của giác.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Như vậy dùng có sở hữu để đạt được giác được không?

Phật dạy: 

–Không thể được.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Dùng không sở hữu để đạt đến không có sự giác chăng?

Phật dạy:

–Có được giác nhưng không do bốn trường hợp trên.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Thế nào là có được giác?

Phật dạy:

–Giác có được chẳng phải sở hữu, cũng chẳng phải không có sở hữu, chẳng phải hý luận, cũng chẳng phải không hý luận.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Thế nào là hý luận của Bồ-tát?

Phật dạy:

–Hý luận của Bồ-tát là nói về năm ấm có thường hay vô thường, nói năm ấm có khổ có vui, có ngã sở, chẳng có ngã sở, có tịnh hoặc bất tịnh, phân biệt biết được năm ấm, biết được bốn Đế, nghĩ nhớ bốn Thiền, bốn Đẳng và bốn Vô hình thiền, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, ba môn Giải thoát, tám Bối xả, chín thứ đệ Thiền; nói ta đắc quả Tu-đà-hoàn, đến quả A-na-hàm, đạo Bích-chi-phật, nói ta đầy đủ Thập trụ của Bồ-tát, ta làm thanh tịnh cõi Phật, giáo hóa chúng sinh đầy đủ mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Vô ngại trí, mười tám pháp Bất cộng, đạt đến trí Nhất thiết, dứt sạch các tạp khí.

Bồ-tát nào hành Bát-nhã ba-la-mật, đối với năm ấm có thường hay vô thường, cũng không hý luận, không không luận, cho đến trí Nhất thiết có thường hay vô thường, cũng không hý luận hoặc không không hý luận. Vì sao? Vì đối với pháp sở hữu cũng không hý luận sở hữu; đối với không có sở hữu cũng không hý luận không có sở hữu, đối với sở hữu, không có sở hữu cũng không hý luận hay không không hý luận.

Vì vậy, này Tu-bồ-đề! Năm ấm và trí Nhất thiết là chẳng phải hý luận. Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật cũng không dùng hý luận.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Tại sao năm ấm cho đến trí Nhất thiết cũng không hý luận?

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Năm ấm không có sở hữu, cho đến trí Nhất thiết cũng không có sở hữu, mà các pháp không có sở hữu đều chẳng hý luận. Vì vậy cho nên năm ấm và Nhất thiết trí đều chẳng có hý ngôn.

Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát nào hành Bát-nhã ba-la-mật như vậy thì chứng được thượng vị Bồ-tát.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Các pháp sở hữu còn không thể chứng được, vậy làm thế nào mà chứng được thượng vị Bồ-tát và dùng hai địa hay dùng Phật đạo, thực hành các hạnh gì để đắc quả vị?

Phật dạy:

–Bồ-tát không dùng Nhị địa cũng không dùng Phật đạo, chỉ thông suốt các đạo, nên đắc thượng vị Bồ-tát. Như tám bậc Hiền thánh học thông các đạo, tuy được chứng quả nhưng còn ở đời.

Hàng Bồ-tát cũng như vậy, phải hành các đạo, rồi mới đắc Bồ-tát vị, chưa đạt đến trí Nhất thiết, chưa đắc Tam-muội Kim cang. Khi nào tạo công đức rồi mới đầy đủ trí Nhất thiết.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ-tát học thông các đạo mới có thể đạt được thượng vị Bồ-tát, thì vị ấy ở Địa vị thứ tám có nhận lấy đạo quả Tu-đà-hoàn không? Ở Tư-đà-hàm địa, có đạt quả Tư-đà-hàm, ở A-na-hàm địa, có đạt quả A-na-hàm, ở A-la-hán địa, có đạt quả A-la-hán, ở Bích-chi-phật địa, có đạt quả Bích-chi-phật, ở Phật địa, có đắc quả Phật không? Các đạo này đều có khác nhau.

Bạch Thế Tôn! Tại sao nói Bồ-tát đều phải học thông các đạo rồi mới đắc bậc Thượng vị? Nếu Bồ-tát ở Địa thứ tám nhận lấy đạo quả thứ tám thì không đúng, còn ở địa vị Bồ-tát liền đạt trí Nhất thiết cũng không đúng; hoặc nói Bồ-tát chứng đắc Thanh văn, Bích-chi-phật đạo cho đến trí Nhất thiết lại càng không đúng.

–Bạch Thế Tôn! Con phải làm thế nào để biết Bồ-tát học thông các đạo, để được vào bậc Thượng vị của Bồ-tát?

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Như ông đã nói, Bồ-tát nhất định không ở Địa thứ tám chứng đắc quả Tu-đà-hoàn, A-la-hán và Bích-chi-phật cho đến trí Nhất thiết.

Này Tu-bồ-đề! Từ lúc mới phát tâm, Bồ-tát thường hành sáu pháp Ba-la-mật, dùng tuệ thấy tám địa: Tám địa đó là:

1.     Tịnh địa.

2.     Tánh địa.

3.     Bốn mươi tám địa của bốn bậc Hiền thánh.

4.     Quán địa.

5.     Bạc địa.

6.     Vô cấu địa.

7.     Dĩ biện địa.

8.     Bích-chi-phật địa.

Dùng trí tuệ quán vượt hơn tám địa, lại dùng đạo tuệ vượt hơn quả vị Bồ-tát. Vượt hơn quả vị Bồ-tát rồi, mới dùng trí Nhất thiết chặt đứt tất cả tập khí.

Này, Tu-bồ-đề! Địa thứ tám là pháp Nhẫn của Bồ-tát, cũng là của Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, là đoạn trừ tập khí, là tuệ quán của A-la-hán, là tuệ của Bồ-tát và Bích-chi-phật, cũng là nhẫn của Bồ-tát, đầy đủ quả Thanh văn, Bích-chi-phật, dùng đạo tuệ của bậc Thượng vị Bồ-tát, dùng tuệ Nhất thiết trí trừ sạch các tập khí.

Vì vậy, Tu-bồ-đề! Bồ-tát phải thấu hiểu các đạo đầy đủ mới thành tựu Vô thượng Chánh đẳng giác; thành Chánh đẳng giác rồi, vì chúng sinh mà lập ra các đạo quả.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Ngài đã nói ba thừa là Thanh văn, Bích-chi-phật và Phật đạo. Vậy những gì là đạo của tuệ đạo?

Phật dạy:

–Nên dùng tuệ đạo quán sát chúng sinh ở trong các đạo và biết rõ tất cả các hình tượng tướng mạo của chúng sinh. Khi đã biết khắp rồi, mới dùng phương tiện giáo hóa rộng rãi, chọn lựa các âm thanh và dùng âm thanh lớn vang khắp tam thiên đại thiên quốc độ, đều trở thành như tiếng vang. Vì vậy, Bồ-tát phải nên thấu hiểu đầy đủ các đạo.

Lại nữa, Bồ-tát cần phải biết tuệ đạo, biết rõ ý của chúng sinh, phải biết địa ngục và con đường đưa đến địa ngục, biết tội báo của chúng sinh để đoạn trừ duyên gây địa ngục và quả báo tạo tội. Về ngạ quỷ, súc sinh cũng phải biết rõ nó, kể cả nguyên nhân của ngạ quỷ, súc sinh và quả báo tạo tội cũng phải biết để đoạn trừ.

Nên biết các loài rồng như Chân-đà-la, Ma-hầu-lặc, Duyệtxoa; nên biết nguyên nhân quả báo của kiếp người, cũng biết các cõi trời, từ cõi trời Tứ thiên vương lên đến cõi trời Ba mươi ba; biết nguyên nhân quả báo của cõi trời, người; biết ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, ba môn giải thoát; cũng biết mười Lực của Phật, bốn Thiền, bốn Đẳng và bốn Không định, đại Từ, đại Bi và mười tám pháp Bất cộng; biết tất cả rồi mới làm cho chúng sinh vào đạo ba Thừa. Này Tu-bồ-đề, đó là Bồ-tát đầy đủ Tuệ đạo.

Lại nữa, Bồ-tát đã thông hiểu như vậy rồi, đã biết ý nguyện của chúng sinh, biết họ nguyện như vậy, nên luôn luôn thuyết pháp cho họ không gián đoạn. Vì sao? Vì Bồ-tát biết rõ nguồn gốc con đường sinh tử của họ. Thế nên Bồ-tát phải thực hành Bát-nhã ba-la-mật. Bởi vì các pháp Bồ-tát đã hành như ba mươi bảy phẩm Trợ đạo và Nhị Địa, những pháp ấy nằm trong pháp Bát-nhã ba-la-mật.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Các pháp như ba mươi bảy phẩm Trợ đạo cũng như các đạo pháp, các pháp này đều không hợp không tan, không hình, không thể thấy được, chỉ thấy một tướng mà một tướng tức là vô tướng. Vậy làm sao có thể đạt đến đạo? Tất cả các pháp khác cũng không thấy, không hình, một tướng, mà một tướng tức là vô tướng, vậy làm sao có thể đạt đến đạo?

Bạch Thế Tôn! Giống như hư không, không có chỗ ẩn cũng không có chỗ hiện.

Phật dạy:

–Đúng vậy, Tu-bồ-đề! Pháp không này cũng không có chỗ đạt đến, không có đi đến. Bởi vì chúng sinh không biết pháp tướng là vô sở hữu, ta vì chúng mà nói ba mươi bảy phẩm Trợ đạo và các pháp có thể đạt đến, có chỗ thành tựu.

Tuy vậy, này Tu-bồ-đề! Các pháp như năm ấm, sáu pháp Ba-la-mật, nội ngoại không và hữu vô không, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo và bốn Thiền, bốn Đẳng và bốn Không định, bốn Vô ngại trí, bốn Vô sở úy, mười Lực của Phật, mười tám pháp Bất cộng, đại Từ, đại Bi, cho đến Nhất thiết trí, kể cả Pháp luật của Thánh hiền đều không hợp không tan, không hình tượng, không thể thấy, cũng không có đối, là một tướng là vô tướng. Vì vậy, nên Như Lai muốn độ thoát chúng sinh, dùng nhân duyên thế tục thuyết pháp, giáo hóa chẳng phải là Đệ nhất nghĩa.

Do đó, hàng Bồ-tát phải nên học thông các đạo, dùng trí tuệ quán theo sự thích hợp ở đời, đối với giáo pháp nên dùng hay không nên dùng.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Những pháp nào nên dùng và không nên dùng?

Phật dạy:

–Này Tu-bồ-đề! Bậc La-hán, Bích-chi-phật, Bồ-tát dùng tuệ quán thông hiểu các pháp nhưng không dùng, mà chỉ dùng trí Nhất thiết để sử dụng các pháp. Như vậy, hàng Bồ-tát đối với Pháp luật của Hiền thánh, nên hành Bát-nhã ba-la-mật.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Pháp luật mà các bậc Hiền thánh đã nói, vậy Pháp luật đó như thế nào?

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Các bậc Thanh văn, Bích-chi-phật, Đại Bồ-tát, Như Lai Vô Sở Trước Chánh Đẳng Giác, cũng không cho rằng dâm, nộ, si là không hợp, không tan. Ngã sở phi ngã này cũng không hợp không tan, không hồ nghi không phải không hồ nghi. Đối với các giới hạnh cũng không hợp không tan; đối với Dục, với Sắc, Vô sắc giới, cũng không hợp không tan, đối với si ám, ương ngạnh, hung bạo, cũng không hợp không tan; đối với bốn Thiền, bốn Đẳng, bốn Không định, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, đại Từ, đại Bi và các pháp tánh hữu vi, vô vi cũng không hợp không tan.

Vì sao? Vì các pháp không có hình, không thể thấy, không có đối, là một tướng, là vô tướng, vô sắc không, cùng với vô sắc cũng không hợp không tan. Phật pháp không thể thấy, cùng với pháp không thể thấy, cũng không hợp không tan; pháp vô hữu đối cùng với vô đối cũng không hợp không tan; pháp một tướng cùng với vô tướng cũng không hợp không tan; pháp vô tướng cùng với vô tướng cũng không hợp không tan.

Này Tu-bồ-đề! Đây gọi là Pháp luật của Hiền thánh. Pháp luật ấy vô hình, không thể thấy, là vô đối, là một tướng, vô tướng. Hàng Bồ-tát vượt qua vô tướng thì phải học như vậy, học như vậy rồi mới chứng được vô tướng.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát không học tướng sắc, thanh, hương, vị, tế hoạt thức (xúc) pháp hay sao? Không học về tướng địa, thủy, hỏa, phong, không, thức hay sao? Không học tướng của sáu pháp Ba-la-mật hay sao? Không học về tướng hữu và tướng vô hay sao? Không học về tướng bốn Thiền, bốn Đẳng, bốn Không định, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, ba môn Giải thoát, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn vô ngại trí, mười tám pháp Bất cộng, đại Từ, đại Bi, bốn đế của Hiền thánh và tướng thuận, nghịch của mười hai nhân duyên sao? Không học tánh tướng hữu vi, vô vi hay sao? Đối với các pháp vô tướng, hữu tướng cũng không học. Như vậy, thì Bồ-tát nên làm thế nào để vượt qua hai địa, đạt đến bậc Thượng vị Bồ-tát? Nếu đạt đến bậc Thượng vị Bồ-tát rồi, làm sao đạt đến trí Nhất thiết? Đạt đến trí Nhất thiết rồi, làm thế nào để chuyển pháp luân? Chuyển pháp luân rồi, làm thế nào dùng pháp ba Thừa độ thoát chúng sinh?

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Nếu các pháp có tướng thì Bồ-tát nên học các pháp tướng đó. Bởi vì các pháp không hình, cũng không thể thấy, không có đối, một tướng, mà một tướng là vô tướng. Vì vậy, nên Bồ-tát chẳng học tướng, cũng chẳng học vô tướng.

Vì sao nói như vậy? Vì nếu trước có tướng, sau cũng có tướng thì nên biết pháp trước vô tướng, pháp sau cũng vô tướng. Do đó, Bồ-tát không học tướng, cũng không học vô tướng. Vì sao? Vì có Phật hay không Phật, các pháp vẫn là một tướng, tánh vẫn thường trụ.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu các pháp chẳng có tướng, chẳng vô tướng thì làm thế nào Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật? Nếu chẳng hành Bát-nhã ba-la-mật thì không thể vượt hơn hai địa. Nếu không vượt hơn hai địa thì không đạt đến Bồ-tát vị. Không vượt hơn Bồ-tát vị thì không thể đạt vô sinh pháp nhẫn; nếu không đạt Vô sinh pháp nhẫn thì không được thần thông của Bồ-tát. Không đạt thần thông thì không thể làm thanh tịnh cõi Phật, giáo hóa chúng sinh, thì không đạt đến trí Nhất thiết. Chưa đạt đến trí Nhất thiết thì không thể chuyển pháp luân, nếu chẳng chuyển pháp luân thì không thể làm cho chúng sinh ở trong pháp ba Thừa, cũng không thể làm cho chúng sinh được ba loại phước của bố thí, trì giới, tu tập các pháp lành.

Phật dạy:

–Đúng vậy, này Tu-bồ-đề! Các pháp cũng chẳng phải vô tướng, cũng chẳng phải một tướng.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Nếu các pháp vô tướng thì làm cách nào để tu Bát-nhã ba-la-mật?

Phật dạy:

–Này Tu-bồ-đề! Bát-nhã ba-la-mật chẳng phải là pháp niệm của Bồ-tát. Bồ-tát dùng vô niệm, đó là tướng của Bát-nhã ba-la-mật.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Tại sao vô niệm là tướng của Bát-nhã ba-la-mật?

Phật dạy:

–Đối với các pháp không chỗ niệm là tướng của Bát-nhã ba-la-mật.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Thế nào là đối với các pháp không có chỗ niệm? Phật dạy:

–Không nhớ nghĩ năm ấm, sáu tình, đó là niệm Bát-nhã ba-la-mật.

Không nhớ nghĩ sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp là niệm Bát-nhã ba-la-mật.

Không nhớ nghĩ bất tịnh là niệm Bát-nhã ba-la-mật.

Không nhớ nghĩ bốn Thiền, bốn Đẳng và bốn Không định là niệm Bát-nhã ba-la-mật.

Không nhớ nghĩ Tam bảo, ba loại phước là niệm Bát-nhã ba-la-mật.

Không nhớ nghĩ diệt tận, không nhớ nghĩ hơi thở vào ra ý là niệm Bát-nhã ba-la-mật.

Không nhớ nghĩ tướng vô thường, tướng khổ, tướng phi ngã, bốn điên đảo, mười hai nhân duyên. Không nhớ nghĩ về ngã về chúng sinh, thọ giả và tướng tri kiến là niệm Bát-nhã ba-la-mật.

Không nhớ nghĩ ba môn Giải thoát, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo là niệm Bát-nhã ba-la-mật.

Không nhớ nghĩ tám Bối xả, chín Thứ đệ thiền, bốn Thiền là niệm Bát-nhã ba-la-mật.

Không nhớ nghĩ mười tuệ, sáu pháp Ba-la-mật, nội ngoại không và hữu vô không là niệm Bát-nhã ba-la-mật.

Không nhớ nghĩ mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Vô ngại trí, mười tám pháp Bất cộng, đại Từ, đại Bi là niệm Bát-nhã ba-la-mật.

Không nhớ nghĩ quả Tu-đà-hoàn, quả A-la-hán, Bích-chi-phật là niệm Bát-nhã ba-la-mật.

Không nhớ nghĩ trí Nhất thiết là niệm Bát-nhã ba-la-mật.

Không nhớ nghĩ dứt các tập khí là niệm Bát-nhã ba-la-mật.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Thế nào là không nhớ nghĩ năm ấm cho đến không nhớ nghĩ dứt các tập khí là niệm Bát-nhã ba-la-mật?

Phật dạy:

–Này Tu-bồ-đề! Lúc hành Bát-nhã ba-la-mật, Bồ-tát chẳng nghĩ không có sở hữu của năm ấm. Vì sao? Vì thấy có các tướng là chẳng phải niệm Bát-nhã ba-la-mật; chẳng nghĩ đến có của dâm, nộ, si; chẳng nghĩ đến chỗ không có của đạo. Vì sao? Vì có tướng là không niệm Bát-nhã ba-la-mật, có các tướng là không niệm sáu pháp Ba-la-mật. Vì sao? Vì còn có tham là chẳng có sáu pháp Ba-la-mật. Đây gọi là chấp trước nơi có. Người chấp trước vào có như vậy thì không được giải thoát.

Này Tu-bồ-đề! Người chấp trước vào có là không niệm ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, cũng không niệm ba môn giải thoát, cho đến không niệm trí Nhất thiết. Vì sao? Vì người ấy còn có chấp trước vào có.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Những gì là có và những gì là không có?

Phật dạy: 

–Có hai là có.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Những gì là hai?

Phật dạy:

–Tướng và năm ấm là hai; tướng và mười hai xứ là hai; tướng và có Phật là hai, tướng và có đạo là hai, tướng hữu vi vô vi là hai.

Này Tu-bồ-đề! Tất cả tướng cho đến không có tướng đều là hai. Vừa có hai liền có có; đã có thì có giới và chúng sinh cũng như không xa lìa sinh, già, bệnh, chết, ưu bi khổ não.

Vì thế, này Tu-bồ-đề! Phải biết có hai thì không có sáu pháp Ba-la-mật, cũng không có đạo, không có chỗ đạt đến, không có sự giác ngộ, chỉ có thể xả bỏ năm ấm và Nhất thiết trí.

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Niệm về đạo thì không có, làm sao thì đắc quả Tu-đà-hoàn, cho đến quả A-la-hán, Bích-chi-phật đạo và dứt tất cả tập khí.

Phẩm 75: VÔ KIÊN YẾU

Bấy giờ, Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Giả như có tướng thì không thuận với nhẫn, không được giác ngộ, còn nếu vô tướng thì có đạt đến thuận nhẫn, có được tám địa của Thanh văn, của quả Bích-chi-phật, quả Bồ-tát có được độ thoát, có thể đạo niệm và dứt trừ các tập khí của A-la-hán, Bích-chi-phật, làm cho Bồ-tát đạt đến thượng vị Bồ-tát. Đến thượng vị Bồ-tát rồi, có thể đạt Nhất thiết trí, đạt Nhất thiết trí rồi, diệt trừ các tập khí không?

Bạch Thế Tôn! Nếu không có ý, không phát sinh ý, không khởi các pháp tướng ấy, thì có đạt đến trí Nhất thiết không?

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Đúng như vậy! Nếu không có pháp tướng thì không có thuận nhẫn, cũng không thể đoạn trừ các tập khí.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Lúc hành Bát-nhã ba-la-mật, Bồ-tát có tướng ý không? Có tướng của năm ấm, cho đến tướng Nhất thiết trí, có tướng dâm, nộ, si hay không có tướng dâm, nộ, si? Có tướng sáu trần hay không có tướng sáu trần? Có tướng gần, tướng xa, có tướng giác hay không có tướng giác? Có tướng ái hay không có tướng ái, có tướng thọ hay không có tướng thọ? Có tướng hữu hay không có tướng hữu? Có tướng sinh hay không có tướng sinh? Có tướng tử hay không có tướng tử? Có tướng ưu bi khổ não hay không có tướng ưu bi khổ não? Có tướng Tứ đế hay không có tướng Tứ đế? Có tướng trí Nhất thiết hay không có tướng trí Nhất thiết? Có tướng tập khí hay không có tướng tập khí?

Phật dạy:

–Không phải vậy.

Này Tu-bồ-đề! Lúc hành Bát-nhã ba-la-mật, Bồ-tát không có hữu tướng, cũng không có vô tướng.

Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát thuận nhẫn là vô tướng, Bồ-tát không có tướng là tu đạo, không có hữu tướng, không có vô tướng tức là quả của Bồ-tát.

Phật dạy: 

–Hữu tướng là Bồ-tát đạo, vô tướng là Bồ-tát quả. Vì vậy, Tu-bồ-đề phải biết các pháp sở hữu đều không có sở hữu.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu các pháp không có sở hữu, thì làm thế nào biết không có sở hữu để được đắc quả và được tự tại đối với các pháp.

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Xưa kia, ta còn Bồ-tát hành sáu pháp Ba-la-mật, nhập thiền thứ nhất cho đến Thiền thứ tư, quán tánh thiền không nghĩ đến sự cống cao, không lệ thuộc vào thiền, cũng không đắm say thiền vị. Nơi các thiền ta vẫn tịch tĩnh không mong cầu, đã an trí trong các thiền, ta được thần thông như Thiên nhãn thông, Thiên nhĩ thông, Tha tâm thông, Túc mạng thông; biết được đời quá khứ, có thể bay đi khắp cõi. Tuy vậy, ta không vì được các thần thông ấy mà sinh cống cao, đối với sáu thần thông này, ta chẳng phân biệt, chẳng say đắm và chẳng lệ thuộc vào.

Này, Tu-bồ-đề! Ta dùng trí biết rõ các tướng ấy, nên thành Vô thượng Bồ-đề, hiểu rõ bốn Thánh đế, đầy đủ mười Lực của Như Lai, bốn Vô sở úy, bốn Vô ngại trí, mười tám pháp và làm cho chúng sinh ở trong ba thừa?

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Ở trong các pháp không có sở hữu làm sao Như Lai phát khởi bốn Thiền, sáu Thần thông? Nếu chúng sinh đều không có sở hữu thì làm sao Như Lai an trú chúng sinh ở trong ba thừa?

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Nếu dâm, nộ, si và các việc phi pháp khác, có sở hữu hoặc không có sở hữu, thì khi ta làm Bồ-tát không ở trong pháp có pháp không mà phát khởi bốn Thiền.

Vì vậy, này Tu-bồ-đề! Các pháp không có sự đạt đến và có chỗ đạt đến, nên khi ta mới phát tâm hành đạo Bồ-tát thì hành bốn Thiền.

Này Tu-bồ-đề! Nếu trong các thần thông có chỗ đạt đến và không có chỗ đạt đến thì ta nhất định không ở trong thần thông biết được chỗ đạt đến hay không đạt đến để chứng Vô thượng Bồ-đề. Vì trong thần thông biết được chỗ đạt đến, chỗ không đạt đến sẽ chứng Vô thượng Bồ-đề.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Nếu Bồ-tát ở trong các pháp đạt đến và không đạt đến trong bốn Thiền, năm Thần thông, được Vô thượng Bồ-đề, thì tại sao Bồ-tát ở trong các pháp không sở hữu chưa từng biết mà biết được, chưa từng học mà được để được Vô thượng Bồ-đề?

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Bồ-tát từ kiếp quá khứ đã ở chỗ các Đức Phật và đã cúng dường nhiều Đức Phật. Bồ-tát từ nơi các Đức Phật mà được nghe các pháp không sở hữu, không có Phật, không có Bích-chi-phật, không có La-hán, không có chúng Hiền thánh, ở trong ấy không có chút mảy may nào cả.

Bồ-tát nghĩ: “Trong không có sở hữu, không có quả Tu-đà-hoàn, cho đến quả Phật cũng đều không có. Vì các pháp là không có sở hữu, nên ta sẽ chứng được Vô thượng Bồ-đề, hoặc ta không chứng Vô thượng Bồ-đề. Giả sử ta chứng được Vô thượng Bồ-đề rồi thì tất cả chúng sinh hành hữu tướng, ta sẽ làm cho họ an trụ trong quả vô tướng.”

Này Tu-bồ-đề! Các vị Bồ-tát chứng Vô thượng Bồ-đề rồi, vì muốn độ thoát chúng sinh, liền học những điều chưa từng học. Những điều chưa từng học, chưa từng thọ, vị ấy liền học, liền thọ, như chư Phật thời quá khứ đã học.

Trước hết, Bồ-tát nên học sáu pháp Ba-la-mật, rồi dạy mọi người cũng học sáu pháp Ba-la-mật, thấy người thực hành liền sinh hoan hỷ. Do bố thí không tham lam nên được giàu có; do Bố thí Trì giới nên được sinh trong cõi trời người, được bậc tôn quý, do Bố thí chứng được thiền định; do bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định mà chứng được trí tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Thọ trì các phần pháp và sáu pháp Ba-la-mật, Bồ-tát vượt hơn hai địa, đạt đến bậc thượng vị Bồ-tát rồi làm thanh tịnh cõi Phật, giáo hóa chúng sinh, được trí Nhất thiết, chuyển pháp luân, dùng ba Thừa độ thoát chúng sinh.

Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát trước tiên phát sinh Bố thí ba-la-mật, thứ đến đạt các tuệ cũng đều không thủ đắc. Vì sao? Vì tất cả đều không thật có.

Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Từ lúc mới phát tâm, Bồ-tát tự Trì giới, cũng dạy người trì giới, thấy người trì giới liền sinh hoan hỷ. Do trì giới mà được sinh trong cõi trời, người, được bậc tôn quý, thấy người nghèo đem của cải cho họ. Lại dùng giới, thiền định, trí tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến để giáo hóa họ.

Nhờ vào năm phần pháp thân Bồ-tát vượt hơn hai địa, chứng đắc bậc Thượng vị Bồ-tát, độ thoát chúng sinh, liền chứng được điều chưa từng biết, chưa từng học, chưa từng tu tập. Nay Bồ-tát đều học, đều biết và đều tu tập. Vì sao? Vì sự tu tập đều không có chỗ đạt đến.

Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Bồ-tát hành nhẫn nhục, cũng dạy người hành nhẫn nhục, thấy người hành nhẫn nhục liền sinh hoan hỷ, làm cho chúng được đầy đủ, an ổn, hoặc nhờ năm phần Pháp thân vượt hơn hai địa, đạt thượng vị Bồ-tát. Vì sao? Vì chỗ Bố thí cũng hoàn toàn không có.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Bồ-tát tự hành tinh tấn, cũng dạy người hành tinh tấn, thấy người liền sinh hoan hỷ, lại đem tài vật cung cấp cho họ. Do trì giới, nhẫn nhục hoặc nhờ năm phần pháp thân vượt hơn hai địa, đạt bậc Thượng vị Bồ-tát. Vì sao? Vì chỗ bố thí cũng hoàn toàn không có.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Bồ-tát thực hành bốn Thiền, bốn Đẳng, bốn định Vô sắc, cũng dạy người hành thiền, thấy người hành thiền liền sinh hoan hỷ, trụ trong thiền định, bố thí kẻ nghèo cùng, giáo hóa chúng sinh làm cho họ được trí tuệ, giải thoát tri kiến, vượt hơn hai địa, đạt bậc Thượng vị Bồ-tát. Vì sao? Vì các pháp sở hữu hoàn toàn không có.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Từ lúc phát tâm đến nay, Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, đem tài vật cung cấp cho chúng sinh, dạy họ trì giới, thiền định, trí tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Bồ-tát tự hành sáu pháp Ba-la-mật cũng dạy người hành sáu pháp Ba-la-mật, thấy người hành trì liền sinh hoan hỷ, dùng phương tiện quyền xảo vượt hơn hai địa, đạt bậc thượng vị Bồ-tát, Vô thượng Bồ-đề.

Vì sao? Vì không còn có hình tướng.

Này Tu-bồ-đề! Từ đây Bồ-tát liền chứng được điều trước đây không học, trước đây không biết, trước đây không thích ứng. Nay Bồ-tát đều biết, đều học, đều thích ứng.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Từ lúc phát tâm đến nay, Bồ-tát học các pháp chưa từng học, nhờ tâm trí Nhất thiết, tin hiểu các pháp hữu vô, liền tu niệm Tam bảo, niệm Thiên, niệm Giới, niệm Thí.

Phật hỏi Tu-bồ-đề:

–Thế nào là niệm Phật? Này Tu-bồ-đề! Niệm Phật là không dùng sắc, thọ, tưởng, hành, thức để niệm.

Vì sao? Vì năm ấm đều không chắc chắn, là không có sở hữu, vì không có chỗ niệm đó là niệm Phật.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Niệm Như Lai Vô Sở Trước Chánh Đẳng Giác, không nên dùng ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp để niệm, cũng không lấy thân kim sắc, quang minh để niệm. Vì sao? Vì thân Phật không có bền chắc, mà không bền chắc là không có sở hữu. Vì không có chỗ niệm, đó là niệm Phật.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Niệm Như Lai Vô Sở Trước Chánh Đẳng Giác, không nên dùng giới tánh, trí tuệ, thiền định, giải thoát, giải thoát tri kiến, cũng không nên dùng năm phẩm này để niệm Như Lai. Vì sao? Vì đó là không có bền chắc, mà không bền chắc là không có sở hữu, vì không có chỗ niệm đó là niệm Phật.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Niệm Như Lai không nên dùng mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Đẳng, đại Từ, đại Bi của Phật, mười tám pháp, bốn Vô ngại trí, không nên dùng những pháp ấy để niệm Như Lai. Vì sao? Vì đó là không có bền chắc, mà không bền chắc là không có sở hữu, vì không có chỗ niệm đó là niệm Phật.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Niệm Như Lai không nên lấy mười hai nhân duyên để niệm. Vì sao? Vì đó là không có bền chắc, mà không bền chắc là không có sở hữu, vì không có chỗ niệm, đó là niệm Phật.

Này Tu-bồ-đề! Lúc hành Bát-nhã ba-la-mật, Bồ-tát phải nên niệm Phật như vậy, nên biết các thứ đệ học đối với chỗ chưa từng học, làm được những điều chưa từng thực hành, đầy đủ tương ứng thuận đến các đạo, nên học như vậy. Bồ-tát đầy đủ ba mươi bảy phẩm Trợ đạo và ba Tam-muội, rồi đầy đủ trí Nhất thiết, tương ứng với sở hữu hay không có sở hữu, giác ngộ chỗ không chắc thật, liền đạt đến chỗ sở hữu hoặc không có sở hữu.

Này Tu-bồ-đề! Thế nào là niệm Pháp?

Bồ-tát lúc hành Bát-nhã ba-la-mật không nên nhớ pháp thiện, pháp ác, cũng không nên nhớ pháp thọ ký, không thọ ký, pháp thế gian, xuất thế gian, pháp hữu lậu, pháp vô lậu, pháp Thánh, pháp phàm, pháp tam giới, pháp tánh hữu vi, vô vi. Vì sao? Vì các pháp không có bền chắc mà không bền chắc là không có sở hữu. Vì không có chỗ niệm, đó là niệm Pháp. Vì học pháp sở hữu không có sở hữu liền đạt trí Nhất thiết, đến chỗ sở hữu không có sở hữu.

Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát phải nên niệm pháp như vậy.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Thế nào là Bồ-tát niệm Tăng?

Bồ-tát từ lúc mới phát tâm cho đến khi đạt Nhất thiết trí, thường không có chỗ niệm, đó là niệm Tăng. Bồ-tát phải nên niệm Tăng như vậy.

Này Tu-bồ-đề! Thế nào là Bồ-tát niệm Giới?

Từ lúc phát tâm đến nay, Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, giữ giới không sai phạm, hành trì theo giới luật niệm có và không.

Niệm Giới như vậy là thuận với chỗ tương ứng, liền đạt Nhất thiết trí đến chỗ không có, có và không.

Này Tu-bồ-đề! Thế nào là Bồ-tát niệm Thí?

Nên bố thí các pháp sở hữu, không có sở hữu, hoặc bố thí vật, bố thí pháp. Hoặc đối với các pháp không động tâm, cũng không nghĩ đến có chỗ thí hay không có chỗ thí. Tuy đem từng phần thân mạng để bố thí, đối với những thứ ấy cũng không động tâm. Vì sao? Vì những điều ấy không có bền chắc, mà không bền chắc là không có sở hữu. Thường niệm Thí như vậy thì sẽ đạt đến Vô thượng Bồ-đề.

Này Tu-bồ-đề! Thế nào là Bồ-tát niệm Thiên?

Các vị Tu-đà-hoàn sinh trên cõi trời Tứ thiên vương cho đến sáu cõi trời Dục. Khi sinh vào các cõi này thì không có bền chắc, mà không bền chắc là không có sở hữu.

Này Tu-bồ-đề! Nên niệm như vậy sẽ đạt đến trí Nhất thiết.

Này Tu-bồ-đề! Các vị A-na-hàm sinh trong các tầng trời cõi Sắc và Vô sắc, cũng không bền chắc; mà không bền chắc là không có sở hữu. Bồ-tát nên niệm như vậy sẽ đạt Vô thượng Bồ-đề.

Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát thường nên niệm sáu niệm như vậy sẽ được tùy theo ý muốn.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Lúc hành Bát-nhã ba-la-mật, Bồ-tát muốn học thuận theo chỗ thích ứng để tu tập, muốn thành tựu các công đức, nên học nội không và hữu vô không, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, đại Từ, đại Bi, nên học theo hạnh của Bồ-tát như vậy, sẽ đạt đến chỗ cốt yếu của có không thì không còn mảy may tướng nào cả, huống gì là có tướng Nhất thiết trí!

Này Tu-bồ-đề! Đây là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, được tùy theo thứ lớp.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu các pháp sở hữu đều không có sở hữu, cho đến năm ấm, tướng sáu trần, các tánh, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, cho đến tuệ Nhất thiết trí cũng đều không có sở hữu, đều không có Phật, Pháp, Tăng; đều không có đạo quả, không có quả báo, không có chấp đoạn, cũng không có giác, các pháp đều không có sở hữu.

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Các pháp sở hữu và không có sở hữu có thấy được không?

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Không thấy được.

Phật dạy:

–Này Tu-bồ-đề! Tại sao các pháp sở hữu đều không có sở hữu, không có năm ấm và không có được giác?

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con đối với pháp này không dám nghi ngờ, chỉ vì đời sau những người cầu đạo ba Thừa sợ sệt sẽ nói các pháp là sở hữu hoặc không có sở hữu. Thế nào là thường, thế nào là đoạn. Khi không biết việc thường và đoạn, thì họ sẽ hủy hoại giới pháp và không biết chỗ để đạt đến. Nếu có người nào phá giới như vậy sẽ đọa vào ba đường ác.

Bạch Thế Tôn! Riêng con thì không dám nghi ngờ, mà chỉ sợ chúng sinh ở đời sau, cho nên con thưa hỏi Đức Như Lai như vậy.

Phẩm 76: TƯỚNG KHÔNG CHẤP TRƯỚC

Lúc ấy, Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát cho các pháp sở hữu đều không có sở hữu thì Bồ-tát do thấy những gì để vì chúng sinh mà phát tâm Vô thượng Bồ-đề?

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Này Tu-bồ-đề! Vì pháp sở hữu đều không có sở hữu, nên Bồ-tát vì chúng sinh mà cầu Vô thượng Bồ-đề. Vì sao? Vì những ai còn chấp trước vào nó thì khó được giải thoát, còn chấp trước thì không được đạo quả, cũng không thể đắc Vô thượng Bồ-đề.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Người không chấp trước có được đạo quả, có thành tựu Vô thượng Bồ-đề không?

Phật dạy:

–Này Tu-bồ-đề! Có đạo quả tức là có Vô thượng Bồ-đề thì không còn chấp thủ, vì pháp tánh không còn phân biệt. Nếu muốn được không còn chấp thủ, muốn được đạo Vô thượng Bồ-đề, thì đó là muốn hiển bày tất cả pháp tánh.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Nếu không chấp trước vào pháp, tức là không có giác ngộ thì không có Vô thượng Bồ-đề, vậy duyên gì lại có Bồ-tát từ trụ thứ nhất đến trụ thứ mười làm sao được Vô sinh pháp nhẫn, làm sao được năm Thần thông và sáu pháp Ba-la-mật mà thọ hưởng các pháp đức ấy, hộ trì cõi Phật, giáo hóa chúng sinh và cúng dường chư Phật, cho đến Niết-bàn?

Phật dạy: 

–Do vì không chấp thủ các pháp nên dùng thực hành với năm Thần thông cùng mười trụ, sáu pháp Ba-la-mật và công đức cúng dường chư Phật. Do đó cho đến khi nhập Niết-bàn, sự cúng dường cũng không dứt.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Không chấp thủ vào các pháp, năm Thần thông và sáu pháp Ba-la-mật có gì sai biệt?

Phật dạy:

–Không có sai biệt nên nói có sai biệt.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Thế nào là ba việc khác nhau?

Phật dạy:

–Lúc Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật không có vật thí, không có người bố thí và cũng không có người nhận thí. Cho đến Bát-nhã ba-la-mật cũng không chấp thủ thực hành ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, không chấp thủ thực hành ba Tam-muội, không chấp thủ, giáo hóa chúng sinh, làm thanh tịnh cõi Phật, cũng không chấp thủ có được đạo quả, được các pháp của chư Phật cũng không chấp thủ.

Này Tu-bồ-đề! Đây là Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật không chấp thủ. Đại Bồ-tát thực hành như vậy thì các ma hay Thiên ma không thể phá hoại được.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Tại sao Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật chỉ trong một ý niệm mà thọ trì được sáu pháp Ba-la-mật, bốn Thiền, bốn Đẳng, đại Từ, đại Bi, bốn Không định, bốn Vô ngại trí, bốn Vô sở úy, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, ba môn Giải thoát, mười Lực của Phật, mười tám pháp Bất cộng, làm sao thọ trì tám mươi vẻ đẹp.

Phật dạy:

–Này Tu-bồ-đề! Lúc hành Bát-nhã ba-la-mật, Bồ-tát đã hành bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn và Thiền định, đều dùng Bát-nhã ba-la-mật để hành trì và dùng ba môn Giải thoát, bốn Đẳng, đại Bi và ba mươi bảy phẩm Trợ đạo. Bồ-tát với hành động ý niệm đều không rời Bát-nhã ba-la-mật, cho đến ba Tam-muội, mười Lực của Phật, bốn Vô sở úy, bốn Vô ngại trí, mười tám pháp, tám mươi vẻ đẹp cũng không xa rời Bát-nhã ba-la-mật.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật chỉ trong một ý niệm thọ trì sáu pháp Ba-la-mật cho đến tám mươi vẻ đẹp?

Phật dạy:

–Này Tu-bồ-đề! Lúc hành Bát-nhã ba-la-mật, Bồ-tát hành sáu pháp Ba-la-mật không có hai tướng, cho đến tám mươi vẻ đẹp cũng không có hai tướng.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Làm thế nào Bồ-tát hành sáu pháp Ba-la-mật cho đến tám mươi vẻ đẹp không dùng hai tướng?

Phật dạy:

–Lúc hành Bát-nhã ba-la-mật, Bồ-tát đều đầy đủ các pháp Tổng trì ba-la-mật và ba mươi bảy phẩm Trợ đạo hành bố thí.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Việc này thế nào?

Phật dạy:

–Lúc hành Bát-nhã ba-la-mật, Bồ-tát không dùng tâm hữu lậu để hành Bố thí ba-la-mật, nên ở nơi tâm vô lậu mà nghĩ: “Ta bố thí cho ai, thí vật gì và người thọ thí là ai?” Đối với ba việc này đều không có ý niệm về tướng thọ. Bấy giờ Bồ-tát không thấy ý niệm vật thí, kể cả người thọ thí, cho đến mười tám pháp cũng như vậy.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Lúc Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật cho đến pháp Bát-nhã ba-la-mật cũng không có tướng, không có sáu pháp Ba-la-mật. Bồ-tát hành sáu pháp Ba-la-mật cho đến tám mươi vẻ đẹp cũng vô tướng, không có chỗ thấy.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Tất cả pháp đều vô tướng, không có chỗ tạo tác, vậy làm thế nào Bồ-tát đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật, đầy đủ ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, ba Không, mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng?

Phật dạy:

–Lúc hành Bát-nhã ba-la-mật, Bồ-tát dùng tâm vô tướng bố thí tùy theo sở thích của chúng sinh, hoặc bố thí thân thể, vợ con, quốc gia, thành phố, trân bảo, những vật sở hữu như tiền của lúa thóc đều bố thí không trái ý người. Khi làm việc bố thí như vậy, nếu có người đến hỏi Bồ-tát cần gì dùng tâm vô tướng bố thí như vậy. Tuy có người nói nhưng Bồ-tát vẫn tiếp tục bố thí không gián đoạn và đem việc bố thí này cùng chung tất cả chúng sinh đồng hồi hướng Vô thượng Bồ-đề. Lúc ấy, Bồ-tát không còn thấy những tướng niệm, không còn người thí, vật thí, người thọ thí và cũng không còn thấy có Vô thượng Bồ-đề. Vì sao? Vì tất cả chỗ thấy đều không như vậy, ai là Vô thượng Bồ-đề. Hành động như vậy là hành động chân chánh, làm thanh tịnh cõi Phật, là giáo hóa chúng sinh, hành sáu pháp Ba-la-mật, đầy đủ ba mươi bảy phẩm Trợ đạo và ba môn Giải thoát, đầy đủ tám pháp của Phật.

Bồ-tát làm những việc như vậy, nhưng không thọ quả báo bố thí. Thí như vua cõi trời Thứ sáu, ưa muốn việc gì thì chỉ cần nghĩ tưởng là có ngay. Bồ-tát cũng vậy, vừa nhớ nghĩ thì tất cả pháp đều hiện đến đầy đủ. Do phước đức bố thí, Bồ-tát hay cúng dường chư Phật cũng hay cứu giúp cho tất cả chư Thiên và loài Người. Bồ-tát còn dùng phương tiện quyền xảo hành Bố thí ba-la-mật, an trụ chúng sinh vào pháp ba Thừa. Đây là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật đầy đủ Bố thí ba-la-mật.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Thế nào Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật đầy đủ Trì giới ba-la-mật?

Phật dạy:

–Bồ-tát đều phải biết giới pháp vô lậu của Thánh hiền, phụng trì giới pháp ấy không cho hủy phạm. Đối với các pháp không có sự chấp thủ, cũng không chấp thủ năm ấm, không chấp thủ ba mươi hai tướng, bốn chủng tánh; không chấp cõi trời Tứ thiên vương cho đến cõi trời Ba mươi ba; không chấp thủ có quả Tu-đà-hoàn, cho đến quả A-la-hán, Bích-chi-phật; cũng không chấp ngôi Chuyển luân thánh vương, chỗ tạo ra các công đức, chỉ vì tất cả chúng sinh cùng được trí Nhất thiết. Vì không tướng, không chấp thủ, là không hai, chỉ vì tục đế, chẳng phải Đệ nhất nghĩa, mà đầy đủ giới rồi dùng phương tiện quyền xảo phát sinh bốn Thiền, không vì tham đắm mà nhận lấy Thiên nhãn, dùng Thiên nhãn quán mười phương chư Phật để đạt đến Vô thượng Bồ-đề. Ngay từ đầu không lìa Thiên nhãn, dùng Thiên nhĩ thanh tịnh nghe rõ chư Phật thuyết pháp, sự nghe không mất, được tự tại biện tài, biết được ý nguyện của chư Phật, biết ý nguyện chư Phật rồi mới có thể làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Dùng thức túc mạng trí, Bồ-tát hiểu biết các nghiệp nhân quá khứ của chúng sinh, không mất bản hạnh, dùng pháp vô lậu làm cho chúng sinh ở trong ba Thừa, tùy theo chỗ ưa thích của họ mà hóa độ.

Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát ở trong các pháp vô tướng được đầy đủ Trì giới ba-la-mật.

Phật dạy:

–Này Tu-bồ-đề! Làm thế nào Bồ-tát được đầy đủ Nhẫn nhục ba-la-mật?

Bồ-tát từ lúc mới phát tâm cho đến lúc ngồi đạo tràng, nếu có chúng sinh nào đến dùng dao, gậy đánh đập Bồ-tát, vị này quyết không sinh tâm oán hận, mà phải tu hai thứ nhẫn: một là Nhẫn nhục; hai là Vô sinh pháp nhẫn.

Bồ-tát nên suy nghĩ: “Người cầm dao, gậy đến đánh ta là ai? Người bị đánh là ai?” Bồ-tát nên quán pháp tướng, quán pháp tướng là không có sở hữu, không có sự quán; không có sự quán thì được Vô sinh pháp nhẫn.

An trụ trong hai thứ nhẫn này, Bồ-tát được đầy đủ bốn Thiền, bốn Đẳng và bốn Không định, đầy đủ ba mươi bảy phẩm Trợ đạo và ba môn Giải thoát, đầy đủ mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Vô ngại trí.

Bồ-tát đã an trụ trong các pháp rồi, liền đắc thần thông, cho đến hàng Thanh văn, Bích-chi-phật cũng không thể sánh kịp.

Bồ-tát đầy đủ thần thông rồi, lại được sáu pháp Ba-la-mật, dùng Thiên nhãn thấy chư Phật trong mười phương, đạt được Vô thượng Bồ-đề, không bao giờ quên niệm Phật.

Lại nữa, Bồ-tát dùng Thiên nhĩ nghe được giáo pháp của chư Phật diến nói trong mười phương, biết được tâm niệm của chư Phật, cũng như ý nguyện của chúng sinh, thuận theo tâm họ mà thuyết pháp.

Dùng Túc mạng trí, Bồ-tát biết rõ công đức của chúng sinh, chỉ rõ công đức lành họ đã làm đời trước và dạy họ nỗ lực thêm, dùng trí vô lậu giáo hóa chúng sinh vào được ba Thừa.

Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng phương tiện quyền xảo, giáo hóa chúng sinh, làm thanh tịnh cõi Phật, đầy đủ trí Nhất thiết, được Vô thượng Bồ-đề rồi chuyển pháp luân. Đây là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật đầy đủ Bố thí ba-la-mật.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Làm thế nào Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật được đầy đủ đạo quả Ba-la-mật?

Phật dạy:

–Này Tu-bồ-đề! Lúc hành Bát-nhã ba-la-mật, Bồ-tát được thân và ý tinh tấn, đầy đủ bốn Thiền. Trong các thiền ấy, được vô số thần thông, qua lại biến hóa, dùng tay sờ được mặt trời, mặt trăng.

Nhờ sự tinh tấn này, Bồ-tát bay khắp mười phương thế giới cúng dường chư Phật, đầy đủ tất cả vật dụng cần thiết để cúng dường, cho đến thành Vô thượng Bồ-đề, được chư Thiên, loài Người ở thế gian cung kính. Cho đến khi Bồ-tát nhập Niết-bàn, do sức thần thông đến được mười phương nghe Phật thuyết pháp, nghe rồi chứng được Vô thượng Bồ-đề, không quên làm thanh tịnh cõi Phật, giáo hóa chúng sinh được đầy đủ Nhất thiết trí. Đây là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, đầy đủ đạo quả Ba-la-mật.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Bồ-tát dùng đạo, đạo pháp vô lậu, đầy đủ ý tinh tấn, miệng không nói lời ác, thân không làm việc ác, ý không nghĩ điều ác; cũng không chấp lấy các pháp là khổ hay vui, là thường hay vô thường, là ngã hay vô ngã, là hữu vi hay vô vi; không chấp vào ba cõi, bốn Thiền và bốn Không định, bốn Đẳng, ba môn Giải thoát, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, cho đến mười tám pháp Bất cộng; và cũng không chấp có quả Thanh văn, Bích-chi-phật, đạo Thanh văn, đạo Bích-chi-phật, đạo Bồ-tát, địa vị Bồ-tát; không chấp vào năm đường, cũng không phân biệt cõi trời, người, địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh; không phân biệt là đạo Tu-đà-hoàn, đạo A-la-hán, đạo Bích-chi-phật, đạo Bồ-tát, trí Nhất thiết đối với tất cả các pháp đều không chấp lấy.

Vì sao? Vì các pháp đều không bền chắc, không thể nắm bắt và cũng không thể phân biệt. Vì đầy đủ tâm tinh tấn này, Bồ-tát mới cứu tất cả ma oán chúng sinh. Cứu chúng sinh rồi cũng không thấy có chúng sinh; đầy đủ tinh tấn, cũng không thấy có tinh tấn; đầy đủ Phật pháp, cũng không thấy có Phật pháp, làm thanh tịnh cõi Phật, nhưng không thấy mình làm; đầy đủ tinh tấn liền thọ các pháp lành và không chấp lấy các pháp lành ấy. Bồ-tát vân du trong các nước, cứu độ làm lợi ích chúng sinh, tùy chỗ biến hóa tự tại vô ngại, hoặc mưa hoa, hoặc rải các loại hương, hoặc trổi các thứ kỷ nhạc, hoặc làm chấn động, hoặc phóng ánh sáng, hoặc hiện thế giới bảy báu, hoặc hiện chiến tranh, hoặc hiện ra nước lửa, theo đó đi vào, tùy duyên giáo hóa chúng sinh thực hành mười điều thiện, hoặc dùng việc bố thí, trì giới để lợi ích chúng sinh, hoặc cất phần thân thể, hoặc đem vợ con, quốc gia, thành phố, hoặc đem chính thân mình cung cấp cho chúng sinh, tùy theo ý của chúng sinh mà bảo hộ cho họ.

Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát dùng phương tiện quyền xảo vô tướng, hành Tinh tấn ba-la-mật.

Phật dạy: 

–Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật và hành Thiền định trong pháp vô tướng. Lúc Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật chỉ trừ Thiền định của Như Lai, ngoài ra điều được đầy đủ tất cả các Thiền định như bốn Thiền, bốn Đẳng và bốn Không định, các pháp thuận nghịch, hành tám Bối xả và chín Thứ đệ thiền, hành các pháp Tam-muội như Không, Vô tướng, Vô nguyện, Điện quang, Kim cang, Trực trị.

An trụ trong Thiền định ba-la-mật, Bồ-tát được ba mươi bảy phẩm Trợ đạo; an trụ trong Tam-muội đầy đủ đạo tuệ, đầy đủ các môn Tam-muội, đầy đủ mười hạnh Trụ địa, cho đến Nhất thiết trí, quyết không chứng đắc nửa chừng.

An trụ trong Tam-muội, Bồ-tát du hành các quốc độ, cúng dường chư Phật, gieo trồng các công đức với các Đức Phật, làm thanh tịnh cõi Phật, du hành khắp nước, giáo hóa chúng sinh, rộng độ cho họ tu sáu pháp Ba-la-mật, hoặc dạy họ đắc quả Tu-đà-hoàn, Tưđà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán cho đến Bích-chi-phật, tùy theo chỗ ưa muốn của họ mà ban bố cho họ được tròn sở nguyện.

An trụ trong Thiền ba-la-mật, Bồ-tát được đầy đủ các môn tổng trì Đà-la-ni, được bốn trí Vô ngại, được các thần thông, vĩnh viến chẳng vào bào thai người nữ, chẳng hưởng thọ sắc dục, được vô sinh, bất sinh, mặc dù có sinh nhưng không lệ thuộc vào sinh. Vì sao? Vì Bồ-tát này khéo quán các pháp là huyễn, biết nó là như huyễn để mà cứu vớt chúng sinh, cũng không thấy có tướng chúng sinh. Bồ-tát dùng pháp không có sở đắc giáo hóa, khiếnchúng sinh được ở trong pháp không có sở đắc, chỉ dùng pháp thế tục, chẳng phải là Đệ nhất nghĩa.

An trụ Thiền định ba-la-mật, Bồ-tát này hành tất cả Thiền định giải thoát Tam-muội, cho đến Vô thượng Bồ-đề, vĩnh viến không xa rời Thiền định ba-la-mật.

Lúc hành đạo tuệ như vậy, Bồ-tát thể nhập tuệ Nhất thiết trí, dứt trừ tất cả tập khí, tự lợi, lợi tha; đã tự lợi, lợi tha rồi làm phước điền cho chư Thiên, loài Người và A-tu-la.

Như vậy, này Tu-bồ-đề! Lúc hành Bát-nhã ba-la-mật, Bồ-tát được đầy đủ Vô tướng Tam-muội.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Thế nào là lúc hành Bát-nhã ba-la-mật, Bồ-tát ở trong pháp vô tướng tu tập đầy đủ Bát-nhã ba-la-mật?

Phật dạy:

–Vì Bồ-tát đối với các pháp không còn thấy có tướng thật, cũng không thấy tướng thật của năm ấm; không thấy tướng sinh của năm ấm; không thấy chỗ đến, chỗ sinh của năm ấm; cho đến đạo Tu-đà-hoàn cũng không thấy chỗ sinh, không thấy chỗ đến, chỗ đi, trống rỗng như hư không, không có chỗ chứng đắc, cũng không thấy quả Tu-đà-hoàn hay pháp Lậu tận.

Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, tin hiểu tất cả pháp cốt yếu và không cốt yếu, hiểu như vậy rồi mới thông được nội ngoại không và hữu vô không. Đối với các pháp không chỗ nhập vào như năm ấm, cho đến Phật đạo cũng đều không chỗ nhập vào. Tất cả các sự học đều không có sở hữu. Hành Bát-nhã ba-la-mật, Bồ-tát được đầy đủ đạo Bồ-tát.

Đạo Bồ-tát đó là sáu pháp Ba-la-mật, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Vô ngại trí, mười tám pháp Bất cộng, ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp.

An trụ trong không có sở hữu, Bồ-tát thành Phật đạo, đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo và năm Thần thông, tùy thuận theo chỗ ưa thích của chúng sinh.

Ở trong sáu pháp Ba-la-mật, người nào có tham lam tật đố, Bồ-tát dùng Bố thí ba-la-mật giáo hóa họ. Người nào có ác giới, Bồ-tát dùng trì giới giáo hóa; người nào có sân hận, Bồ-tát dùng nhẫn nhục giáo hóa; người nào có giải đãi, Bồ-tát dùng tinh tấn giáo hóa; người nào có loạn ý, Bồ-tát dùng thiền định giáo hóa; người ngu si, Bồ-tát dùng trí tuệ giáo hóa; cho đến dùng giải thoát, giải thoát tri kiến, Bồ-tát đều sử dụng giáo hóa họ.

Người tu hành đạo Thanh văn, tùy khả năng của họ, cần giáo hóa để họ được quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán và đạo Bích-chi-phật, tùy theo khả năng Bồ-tát đều giáo hóa họ.

Người tu theo Đại thừa, Bồ-tát dùng Phật đạo giáo hóa họ, dùng các phương tiện, biến hiện vô số thần thông, cho đến hằng hà sa các cõi Phật, tùy theo sự ưa thích của chúng sinh mà biến hiện làm trang nghiêm quốc độ, làm mãn nguyện cho tất cả chúng sinh. Từ cõi Phật này đến cõi Phật kia, Bồ-tát muốn giáo hóa quốc độ nào thì được mãn nguyện, tùy theo ý muốn của chúng sinh mà cung cấp cho họ được đầy đủ, đạt đến trí Nhất thiết. Đối với năm ấm đều không có chỗ thọ và tất cả các pháp thế gian, xuất thế gian, pháp thiện, pháp ác, đều được đầy đủ không có chỗ nhận.

Sau khi Bồ-tát thành Vô thượng Bồ-đề, tất cả đồ dùng trong nước đều tùy ý thọ dụng, không có người đem đến, cũng không có người đem đi, cũng như trên cõi trời Thứ sáu. Vì sao? Vì các pháp không có chỗ nắm giữ và không có chỗ ỷ lại.

Này Tu-bồ-đề! Lúc hành Bát-nhã ba-la-mật, Bồ-tát này dùng tướng không có sở hữu. Vì vậy, Bồ-tát được đầy đủ Bát-nhã ba-la-mật.

Phẩm 77: VÔ HỮU TƯỚNG

Bấy giờ, Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Làm thế nào Đại Bồ-tát đối với các pháp không bị phá hoại, pháp không có tướng, pháp không có sở hữu mà được đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật? Làm thế nào mà đối các pháp không có hình tướng mà biết có sai biệt để thể nhập Bát-nhã ba-la-mật? Làm thế nào mà đối với các pháp không có tướng dùng một tướng để đạt đến Chánh giác?

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, an trụ trong năm ấm như huyễn, như tiếng vang, như mộng, như ảnh, như sóng nắng, như biến hóa. Dùng năm ấm này để hành trì sáu pháp Ba-la-mật, biết năm ấm không có tướng, như huyễn, như tiếng vang, như mộng, như ảnh, như sóng nắng. Vì sao? Vì các pháp như mộng huyễn là không có sở hữu. Vì không có sở hữu nên đó là một tướng, mà một tướng là không có tướng. Vì sao? Này Tu-bồ-đề, nên biết người Bố thí ba-la-mật không có tướng, vật bố thí cho đến người nhận thí đều là không có tướng. Người nào biết được như vậy tức là đầy đủ Bố thí ba-la-mật.

Khi đầy đủ Bố thí ba-la-mật, nhất định không còn thoái chuyển đối với sáu pháp Ba-la-mật. Nơi sáu pháp Ba-la-mật ấy, được đầy đủ bốn Thiền, bốn Đẳng và bốn Không định, được đầy đủ ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, đầy đủ nội ngoại không và hữu vô không; đầy đủ ba môn Giải thoát, tám Bối xả, chín Thứ đệ thiền, năm Thần thông, đầy đủ các môm Đà-la-ni, bốn vô ngại trí, bốn Vô sở úy, mười Lực, mười tám pháp Bất cộng của Phật.

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Bồ-tát an trụ trong pháp vô lậu của Hiền thánh có thể đi đến các quốc độ, cúng dường chư Phật và cứu vớt chúng sinh, tùy theo đó làm cho họ được an ổn, hoặc dùng bố thí để giáo hóa. Hoặc dùng trì giới, dùng nhẫn nhục, dùng tinh tấn, dùng thiền định, dùng trí tuệ để giáo hóa họ; hoặc thuận theo các pháp lành để giáo hóa họ.

Vì chúng sinh, nên Bồ-tát chịu các pháp sinh tử nhưng không đồng với họ, cũng không thọ nhận sự khổ não của sinh tử.

Vì chúng sinh nên Bồ-tát gieo trồng phước đức trong cõi trời, cõi người, tất cả là vì giáo hóa họ. Do Bồ-tát biết các pháp không có tướng nhưng vẫn học đạo Tu-đà-hoàn, mà không an trụ trong quả đó và học được quả La-hán, Bích-chi-phật nhưng cũng không an trụ trong đó. Vì sao? Vì Bồ-tát biết các pháp sẽ đạt được tuệ trí Nhất thiết, chẳng phải chỗ biết của A-la-hán và Bích-chi-phật.

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Biết các pháp không có tướng Như thế, Bồ-tát cũng biết sáu pháp Ba-la-mật không có tướng cho đến biết tất cả các pháp chư Phật cũng đều không có tướng.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, an trụ trong năm ấm như mộng, như huyễn, như tiếng vang, như ảnh, như sóng nắng, như biến hóa. Bồ-tát thực hành Trì giới ba-la-mật, biết năm ấm như mộng, như huyễn hóa, liền được đầy đủ Trì giới ba-la-mật vô tướng, giữ giới không phạm, không phá hủy, Bồ-tát khéo giữ giới, không sai phạm, không phá hủy, không tán loạn, học trí tuệ theo nghiệp của Thánh hiền, hộ trì các giới, không vì trì giới để được bốn chủng tánh và ngôi Chuyển luân thánh vương, cũng không nói ta trì giới này sẽ được sinh vào cõi trời Tứ thiên vương hay cõi trời Thứ sáu, cũng không nghĩ rằng trì giới này sẽ được quả Tu-đà-hoàn, cho đến quả A-la-hán, đạo Bích-chi-phật. Vì sao? Vì các pháp là một tướng, là không có tướng. Pháp không có tướng nhất định không đạt được pháp không tướng, pháp có tướng không đạt được pháp có tướng, pháp có tướng cũng không đạt được pháp không tướng.

Này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật dùng pháp không tướng được đầy đủ Trì giới ba-la-mật, đạt đến bậc Thượng vị Bồ-tát. Đã đạt được bậc Thượng vị Bồ-tát rồi, liền đạt Vô sinh pháp nhẫn, thực hành đạo tuệ đầy đủ thần thông, an trụ các môn Đà-la-ni, được bốn vô ngại trí, từ quốc độ này, đến quốc độ kia, cúng dường chư Phật, hộ trì chúng sinh, làm thanh tịnh cõi Phật. Dẫu sinh vào trong năm đường hay cõi nhân gian cũng không bị lệ thuộc nghiệp sinh tử.

Ví như Chuyển luân thánh vương dầu ngồi đứng hay đến, đi không ai biết được, hay làm lợi ích chúng sinh, nhưng không thấy sự đàn áp bề tôi và quấy rối nhân dân.

Ví như Như Lai Tu-diên-đầu chuyển pháp luân cho ba Thừa, nhưng không có Bồ-tát nào được thành tựu Vô thượng Bồ-đề. Vị ấy liền nhập Niết-bàn và hóa ra vị Phật khác để giáo hóa chúng sinh trong một kiếp.

Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật đầy đủ Trì giới ba-la-mật và các pháp đều hòa nhập theo đó.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, an trụ trong năm ấm như huyễn, như mộng, như tiếng vang, dùng pháp vô tướng được đầy đủ Nhẫn nhục ba-la-mật.

Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát dùng hai thứ nhẫn để được đầy đủ Nhẫn nhục ba-la-mật. Hai thứ nhẫn đó là: Từ lúc Bồ-tát mới phát tâm cho đến khi ngồi đạo tràng, trong thế gian ấy, nếu có chúng sinh nào cầm dao, gậy, đến đánh đập, chém giết. Bồ-tát vì muốn đầy đủ Nhẫn nhục ba-la-mật, nên tâm không dao động, chỉ suy nghĩ: “Nào có ai mắng ta, ai hại ta và ai đã chém ta.” Vì sao? Vì các pháp không có tướng, Bồ-tát quán như vậy, liền đầy đủ Nhẫn nhục ba-la-mật. Do đầy đủ Nhẫn nhục ba-la-mật, Bồ-tát đạt Vô sinh pháp nhẫn.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Vô sinh pháp nhẫn gọi là diệt, là trí được không?

Phật dạy:

–Đối với nhẫn, Bồ-tát không sinh mảy may niệm ác nào thì gọi là Trí, dùng trí tuệ ấy mà được Vô sinh pháp nhẫn.

Tu-bồ-đề bạch Phật: 

–Bạch Thế Tôn! Vô sinh pháp nhẫn của hàng Thanh văn, Bích-chi-phật cùng với Vô sinh pháp nhẫn của Đại Bồ-tát có gì khác không?

Phật dạy:

–Này Tu-bồ-đề! Trí và diệt của Tu-đà-hoàn cho đến trí và diệt của A-la-hán, Bích-chi-phật là nhẫn của Đại Bồ-tát.

Này Tu-bồ-đề! Đây là sự sai biệt của Thanh văn và Bích-chi-phật. Đại Bồ-tát thành tựu nhẫn vượt hơn hai địa trên, vì trụ trong Vô sinh pháp nhẫn, Đại Bồ-tát hành Bồ-tát đạo, nên thực hành đầy đủ đạo tuệ, không lìa ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, ba môn Giải thoát, các thần thông, giáo hóa chúng sinh, làm thanh tịnh cõi Phật, đạt đến trí Nhất thiết.

Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát dùng pháp vô tướng được đầy đủ Nhẫn nhục ba-la-mật.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Bồ-tát trụ trong năm ấm như huyễn, như mộng, như tiếng vang, như sóng nắng, như ảo ảnh. Ở nơi pháp vô tướng Bồ-tát thực hành thân, ý tinh tấn, đạt được thần thông. Nhờ được thần thông, nên Bồ-tát du hành các cõi, cúng dường chư Phật, dùng thân tinh tấn này, giáo hóa chúng sinh, làm cho họ an trú trong ba thừa.

Bồ-tát này hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng pháp vô tướng được đầy đủ Tinh tấn ba-la-mật; lại dùng ý tinh tấn trong pháp vô lậu của Hiền thánh được đầy đủ các pháp lành như ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, ba môn Giải thoát, bốn Thiền, bốn Đẳng và bốn Không định, đầy đủ mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng của Phật.

Trong các pháp này, Bồ-tát thực hành rồi sẽ được đầy đủ tuệ trí Nhất thiết, dứt trừ các tập khí, thành tựu tướng tốt, phóng ánh sáng Tam-muội, chuyển mười hai hàng pháp luân, làm cho tam thiên đại thiên thế giới chấn động sáu cách, ánh sáng chiếu khắp tam thiên đại thiên thế giới, trong ánh sáng đó phát ra âm thanh vang động cả ba ngàn thế giới. Các chúng sinh nghe âm thanh đó, đều được chứng đạo tam Thừa.

Này Tu-bồ-đề! Nhờ tinh tấn mà Bồ-tát làm được lợi ích rộng lớn như vậy và do trụ trong tinh tấn, Bồ-tát được đầy đủ pháp của chư Phật, đạt đến Nhất thiết trí.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, trụ trong năm ấm như mộng, như huyễn, đầy đủ Thiền định ba-la-mật, hành bốn Thiền, bốn Đẳng, bốn Vô sắc thiền, ba môn Giải thoát, Tam-muội Điện quang, Tam-muội Kim Cang, Tam-muội Chân thiền, chỉ trừ Tam-muội của Như Lai, còn vô số Tam-muội khác đều được chứng nhập, dầu chứng nhập nhưng không đắm say thiền vị, cũng không nhận lấy quả báo ấy. Vì sao? Vì Bồ-tát biết các pháp tướng Tam-muội ấy đều là không, sở hữu đều không có sở hữu. Biết pháp vô tướng nhưng không đắm say vị ngọt vô tướng; biết pháp không có sở hữu nhưng không say vị ngọt không có sở hữu. Vì không đắm say nên không lệ thuộc vào thiền sinh lên cõi Sắc hay cõi Vô sắc.

Vì sao? Vì Bồ-tát không thấy cõi Sắc ấy, không thấy thiền định, cũng chẳng thấy tướng của thiền định. Vì không có chỗ thấy nên Bồ-tát được đầy đủ Vô tướng Tam-muội; hành trì Tam-muội này, vượt trên hai địa kia.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ-tát dùng Thiền độ vượt hơn bậc La-hán, đạo Bích-chi-phật?

Phật bảo Tu-bồ-đề:

–Bồ-tát dùng thiền để học nội ngoại không và hữu vô không, nơi các pháp không thấy, chẳng thấy có, chỗ an trụ, như pháp của Thanh văn, Bích-chi-phật và trí Nhất thiết đều không. Vì thấy tất cả đều không, nên đạt đến địa vị Bồ-tát.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Thế nào là địa vị Bồ-tát? Và thế nào chẳng phải địa vị Bồ-tát?

Phật dạy:

–Nếu còn chấp vào các pháp thì chẳng phải địa vị Bồ-tát, còn không còn chấp trước là địa vị Bồ-tát.

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Thế nào là chấp và thế nào là không chấp?

Phật dạy:

–Bồ-tát còn chấp vào năm ấm, mười hai xứ, cho đến trí Nhất thiết là Bồ-tát còn chấp trước địa vị.

Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát hoàn toàn không thấy các pháp, cũng không có danh tự, không chấp trước gì cả là bậc địa vị Bồ-tát.

Vì sao? Vì sự thật của năm ấm cho đến sự thật của trí Nhất thiết cũng chẳng làm được, chẳng nói được, chẳng thấy được.

Này Tu-bồ-đề! Đây là chỗ nhận lấy của Bồ-tát, là địa vị của Bồ-tát. Bồ-tát đạt đến địa vị thì đầy đủ các thiền định, còn không lệ thuộc vào sức thiền ấy để tái sinh, huống gì là tùy thuộc vào dâm, nộ, si để sinh ra nghiệp, việc này không như vậy.

Bồ-tát chỉ dùng pháp huyễn làm lợi ích chúng sinh nhưng không thấy có chúng sinh, cũng không thấy có pháp huyễn, ở trong pháp không có sở hữu hộ trì cõi Phật, giáo hóa chúng sinh.

Đây là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, đầy đủ Thiền định ba-la-mật cho đến chuyển pháp luân còn không chấp trước.

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Lúc hành Bát-nhã ba-la-mật, Bồ-tát biết các pháp như huyễn, như mộng, như tiếng vang, như biến hóa, như bóng sáng, như sóng nắng.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ-tát biết các pháp như huyễn, như sóng nắng?

Phật dạy:

–Này Tu-bồ-đề! Lúc hành Bát-nhã ba-la-mật cũng không thấy mộng hay người hiện trong mộng, không thấy tiếng vang, cũng không thấy người đem đến tiếng vang, không thấy bóng sáng biến hóa và sóng nắng, cũng không thấy đem những thứ ấy chỉ cho người. Vì sao? Vì các thứ mộng huyễn này là các pháp điên đảo của kẻ phàm phu chấp trước. Các bậc La-hán, Bích-chi-phật, chư vị Bồ-tát, các Đức Như Lai Vô Sở Trước Chánh Đẳng Giác, không thấy có pháp mộng huyễn cũng không thấy người đưa đến. Vì sao? Vì các pháp sở hữu đều không có sở hữu, vì không có sở hữu nên không có sự thành tựu.

Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật hoàn toàn không có tướng tham, không có tướng để thành tựu, cũng không có tướng sinh, những việc này đều không có. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật chẳng nghĩ là pháp có sinh, có thành tựu. Bồ-tát hành như vậy không phát sinh năm ấm, không phát sinh tam giới, không sinh các thiền, cho đến hiền giải thoát; cũng không phát sinh ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, ba môn Giải thoát, cho đến không sinh sáu pháp Ba-la-mật, nên được đầy đủ từ Địa thứ nhất cho đến Địa thứ mười, nhưng cũng không sinh lòng ham muốn. Vì sao? Vì nơi ấy không có được, không thấy được, huống gì ở trong đó phát sinh sự ham muốn. Bồ-tát tuy hành Bát-nhã ba-la-mật cũng không thấy có Bát-nhã ba-la-mật.

Trong chỗ không thấy nhưng lại thấy hết các pháp, đều thể nhập Bát-nhã ba-la-mật cũng không thấy có các pháp ấy. Vì sao? Vì các pháp và Bát-nhã ba-la-mật không có hai cũng chẳng phải là hai việc. Vì sao? Vì đó là giác Như như, đó là giác đúng với pháp tánh, đúng với hiện thật, các pháp này đều không khác nhau.

Tu-bồ-đề bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Giả sử các pháp không phân biệt, không ly tán, thì tại sao lại dạy có thiện ác, dạy có vô lậu, hữu lậu, có Tục đế, Chân đế, có hữu vi, vô vi?

Phật dạy:

–Theo ý ông thế nào? Như trong các pháp có pháp nào là thiện là ác, hữu lậu, vô lậu, chân đế, tục đế, pháp hữu vi, vô vi không? Có thấy quả Tu-đà-hoàn, quả A-la-hán và pháp của Bích-chi-phật cho đến Phật không?

Tu-bồ-đề thưa:

–Bạch Thế Tôn! Không thể thấy.

Vì vậy, này Tu-bồ-đề! Các pháp không phân biệt không có tướng, không có sinh, không có sự có.

Này Tu-bồ-đề! Xưa ta còn làm Bồ-tát, cũng không thấy các pháp có cốt lõi, không thấy có năm ấm, không thấy có pháp hữu vi, vô vi; từ quả Tu-đà-hoàn đến quả Phật cũng đều không sự thấy, không sự đắc.

Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát muốn học Bát-nhã ba-la-mật, từ lúc mới phát tâm đến khi thành Vô thượng Bồ-đề, nên khéo học các pháp sở hữu, không sở hữu.

Bồ-tát khéo thông suốt pháp sở hữu không có sở hữu, nên có thể đầy đủ đạo tuệ, giáo hóa chúng sinh, hộ trì cõi Phật, thành Vô thượng Bồ-đề, thu phục chúng sinh không còn rơi vào ba cõi.

Này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát nên hành Bát-nhã ba-la-mật như vậy, nên không có sở hữu.

KINH PHÓNG QUANG BÁT-NHÃ

 Mục Lục

Quyển-1   Quyển-2   Quyển-3   Quyển-4   Quyển-5   Quyển-6   Quyển-7   Quyển-8   Quyển-9   Quyển-10   Quyển-11   Quyển-12   Quyển-13   Quyển-14   Quyển-15   Quyển-16   Quyển-17   Quyển-18   Quyển-19   Quyển-20

 

previous.png         back_to_top.png         next.png

 

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH ]

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0