Trang Chủ         Hình ảnh          Kinh điển         Thần Chú          Liên lạc
 
KINH NHÂN QUẢ TRONG ĐỜI QUÁ KHỨ VÀ HIỆN TẠI

Hán dịch: Đời Tống, Tam tạng pháp sư Cầu-na-bạt-đà-la, người Thiên trúc

Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

Quyển 4

Bấy giờ có chàng trai tên Da-xá, con của một vị trưởng giả giàu có nhất trong cơi Diêm-phù-đề, là người bản tánh thông minh, lanh lợi, thường đội thiên quan, đeo chuỗi anh lạc, đi giầy báu vô giá. Một hôm, sau khi vui chơi với các kỹ nữ đến khuya, tất cả đều đi ngủ, Da-xá nửa đêm bỗng thức giấc, nh́n thấy các kỹ nữ ngủ say, cô nằm sắp, cô nằm ngửa, tóc tai xổ tung rối bời, nước miếng nhểu ra, nhạc khí, quần áo và nữ trang rơi văi lung tung. Trông thấy cảnh ấy, Da-xá sinh ra chán ngán, suy nghĩ: "Ta nay đang ở trong nạn tai bất tịnh, lại tưởng lầm là thanh tịnh". Đang lúc suy nghĩ như thế, do uy lực của chư Thiên, một luồng ánh sáng rực rỡ hiện ra chói ḷa cả không trung, cửa tự nhiên mở, Da-xá theo luồng sáng ấy đi về phía vườn Lộc dă. Khi đến bờ sông Hằng, Da-xá liền lớn tiếng kêu:

-Khổ đau thay! Lạ lùng thay!

Phật nghe được liền lên tiếng:

-Này Da-xá, ngươi hăy sang đây! Nay ở chỗ Ta có pháp môn ĺa xa đau khổ.

Da-xá nghe thế liền cởi đôi giầy quư để lại, lội qua sông đến chỗ Phật. Qua được sông Hằng, Da-xá bước thẳng đến chỗ Phật. Vừa đến nơi, thấy Phật có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, tư thế đĩnh đạt, uy đức đầy đủ, ḷng Da-xá vô cùng vui mừng phấn chấn, vội cúi năm vóc sát đất đảnh lễ nơi chân Phật, thưa:

-Xin Đức Thế Tôn hăy cứu vớt con.

Phật bảo:

-Lành thay! Thiện nam tử, ngươi hăy lắng nghe, suy tư và ghi nhớ kỹ. Như Lai sẽ tùy theo căn cơ của ngươi mà thuyết pháp. Này Da-xá, sắc, thọ, tưởng, hành, thức là vô thường, khổ, không, vô ngă. Ngươi có biết không?

Da-xá nghe xong, lập tức xa ĺa trần cấu, đắc được pháp nhăn thanh tịnh. Lúc ấy, Đức Như Lai giảng lại pháp Tứ đế, nghe xong Da-xá rũ sạch tất cả lậu hoặc, phiền năo, tâm ư rỗng rang tự tại, chứng được quả A-la-hán. Da-xá liền bạch Phật:

-Bạch Đức Thế Tôn, sắc, thọ, tưởng, hành, thức thật đúng là vô thường, khổ, không, vô ngă.

Khi ấy thấy Da-xá vẫn c̣n mang những đồ trang sức, Phật liền nói kệ dạy:

Dù người c̣n ở nhà

Thân đầy trang sức quư

Khéo giữ ǵn t́nh cảm

Chán xa năm thứ dục

Nếu được tâm như vậy

Mới thật là xuất gia

Tuy thân ở đồng trống

Ăn mặc thật dở thô

Ư c̣n tham năm dục

Chẳng phải là xuất gia

Những thiện ác đă tạo

Đều do tâm phát sinh

Cho nên thực xuất gia

Đều lấy tâm làm gốc.

Da-xá nghe Như Lai nói kệ xong, ḷng suy nghĩ: "Thế Tôn nói thế chính v́ ta c̣n đeo mang châu báu, nay ta cần phải cởi bỏ những trang phục này", liền lạy và thưa với Phật:

-Xin Đức Thế Tôn chấp thuận cho con xuất gia.

Đức Thê Tôn nói:

-Thiện lai Tỳ-kheo!

Râu tóc Da-xá liền tự rụng, cà-sa khoác trên thân thành Sa-môn. Bấy giờ, cha của Da-xá buổi sáng thức dậy t́m con không thấy, ḷng buồn khổ, than văn, kêu khóc, đi dọc theo bờ sông t́m kiếm. Đến sông Hằng, thấy đôi giầy của con để lại trên bờ, ông suy nghĩ: "Con ta chắc là đi con đường này". Ông vội lần theo dấu chân của Da-xá đi đến chỗ Phật. Đức Thế Tôn trông thấy, biết ông ta v́ con mà đến đây; nếu để ông thấy được Da-xá, nhất định trong ḷng sẽ rất buồn khổ, hay có thể mạng chung nên dùng thần lực giấu thân Da-xá. Vị trưởng giả đi đến trước Phật, cúi đầu lễ xuống chân Ngài rồi đứng sang một bên. Lúc ấy, Đức Như Lai thuyết pháp theo đúng căn tánh của trưởng giả. Phật dạy:

-Này thiện nam tử, sắc, thọ, tưởng, hành, thức là vô thường, khổ, không, vô ngă. Ông có biết không?

Vị trưởng giả, cha của Da-xá nghe những lời dạy ấy, tâm lập tức xa ĺa trần cấu, đắc pháp nhăn thanh tịnh, thưa với Phật:

-Bạch Đức Thế Tôn, sắc, thọ, tưởng, hành, thức thực sự là vô thường, khổ, không, vô ngă.

Lúc bấy giờ, Đức Như Lai biết trưởng giả đă thấy được đạo, niệm ân ái đă suy giảm nên hỏi ông v́ việc ǵ mà đến đây. Vị trưởng giả thưa:

-Con có đứa con tên Da-xá bỗng nhiên bỏ nhà đi mất từ đêm qua. Sáng nay con đi t́m chỉ thấy đôi giầy của nó bên bờ sông Hằng rồi theo dấu chân t́m đến được đây.

Thế Tôn thu lại thần lực nên vị trưởng giả thấy được con ḿnh, ḷng mừng vui tột độ, nói với Da-xá:

-Lành thay! May thay! Con làm việc này khiến cha thật vui sướng. Con đă tự độ bản thân lại có thể độ cho người khác. Do con ở đây nên cha mới đến và nhờ đó mà cha thấy được đạo.

Nói xong, ông liền đến trước Phật xin thọ Tam quy. Vị trưởng giả ấy là Ưu-bà-tắc đầu tiên trong cơi Diêm-phù-đề được cúng dường Tam bảo.

Bấy giờ năm mươi người con của các trưởng giả khác, bạn của Da-xá, nghe Phật đă xuất hiện ở đời và biết Da-xá đă theo Phật xuất gia tu tập nên suy nghĩ: "Nay ở thế gian có Đấng Vô Thượng Tôn, Da-xá là người thông minh, biện tài hơn người mà có thể rời bỏ gia đ́nh, thân tộc giàu sang, xa ĺa thú vui của năm dục, quyết chí tu hành, thay đổi h́nh hài thành Sa-môn. Nay chúng ta c̣n tiếc ǵ mà không xuất gia?" Nghĩ xong, các chàng trai cùng nhau đi đến chỗ Phật. Chưa đến nơi nhưng từ xa họ đă thấy Đức Như Lai thân tướng tuyệt đẹp, ánh sắng rực rỡ, ḷng họ rộn lên niềm vui, toàn thân nhẹ nhàng, thanh thản, ḷng tôn kính phát sinh, họ lập tức đến gần Phật chắp tay nhiễu quanh rồi cúi đầu lễ xuống chân Phật. Những vị trưởng giả tử ấy vốn đă trồng căn lành từ trước nên dễ ngộ đạo. Đức Như Lai thuyết pháp phù hợp căn tánh của họ. Ngài dạy:

-Này các thiện nam tử, sắc, thọ, tưởng, hành, thức là vô thường, khổ, không, vô ngă. Các ngươi có biết không?

Khi Phật vừa giảng xong lời pháp đó, tâm các chàng trai lập tức xa ĺa trần cấu, đắc được pháp nhăn thanh tịnh, liền cùng nhau thưa Phật:

-Bạch Đức Thế Tôn, sắc, thọ, tưởng, hành, thức thực đúng là vô thường, khổ, không, vô ngă. Cúi xin Thế Tôn chấp thuận cho chúng con được xuất gia.

Phật nói:

-Lành thay, các Tỳ-kheo!

Lập tức râu tóc họ tự rụng, vận cà-sa trên thân, trở thành Sa-môn. Đức Thế Tôn liền giảng rộng pháp Tứ đế cho các vị Tỳ-kheo ấy. Nghe xong, năm mươi vị Tỳ-kheo tỉnh ngộ, nội tâm đoạn trừ hoàn toàn lậu hoặc, phiền năo, chứng được quả A-la-hán. Lúc ấy lần đầu tiên ở thế gian có năm mươi sáu vị A-la-hán. Đức Như Lai bảo các thầy Tỳ-kheo:

-Nay các ông, việc cần làm đă làm xong, xứng đáng là ruộng phước vô thượng cho thế gian. Các ông mỗi người nên đi khắp nơi giáo hóa, lấy đức Từ bi để độ chúng sinh. Nay Ta cũng sẽ một ḿnh đi đến thành Vương xá, nước Ma-kiệt-đề để hóa độ nhân dân ở đó.

Các Tỳ-kheo thưa:

-Bạch Thế Tôn, chúng con xin vâng lời.

Các Tỳ-kheo cúi đầu đảnh lễ Phật rồi mỗi vị khoác y cầm bát từ giă Phật ra đi.

Sau khi các Tỳ-kheo đi rồi, Thế Tôn suy nghĩ: "Hiện nay Ta phải hóa độ những chúng sinh nào để có lợi ích rộng răi cho cả trời người? Chỉ có ba anh em Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp tu theo đạo thờ lửa ở tại nước Ma-kiệt-đề là người được cả vua và thần dân đều quy ngưỡng tin theo. Ông ta rất thông minh, căn tánh lanh lợi, dễ giác ngộ nhưng lại rất ngă mạn, rất khó điều phục. Nay Ta phải đến đó đưa họ đến giải thoát". Suy nghĩ xong, Đức Phật từ giă thành Ba-la-nại đến nước Ma-kiệt-đề. Trời vừa sập tối, Phật cũng vừa đến được trú xứ của Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp. Lúc ấy Ca-diếp thấy thân tướng của Như Lai tốt đẹp, trang nghiêm trong ḷng vui mừng, hỏi:

-Vị Sa-môn trẻ tuổi từ đâu đến?

Phật đáp:

-Ta từ nước Ba-la-nại đến, muốn đi đến nước Ma-kiệt-đề nhưng v́ trời tối nên muốn xin nghỉ lại một đêm.

Ca-diếp đáp:

-Ở lại một đêm không có ǵ bất tiện, chỉ ngặt là các pḥng đều có đệ tử của tôi ở cả. Chỉ c̣n một hang đá rất thanh tịnh, các dụng cụ thờ lửa của tôi đều để trong đó, nơi đó thanh vắng có thể ở được nhưng trong hang có con rồng dữ, chỉ e nó sẽ làm hại người mà thôi?

Phật đáp:

-Dù có rồng dữ nhưng tôi xin cứ được ở tạm.

Ca-diếp đáp:

-Tính nó hung dữ, sợ làm hại Ngài chứ chẳng phải tôi tiếc.

Phật nói:

-Chỉ cho tôi ở tạm, nhất định không sao đâu.

Ca-diếp đáp:

-Nếu Ngài có thể ở được th́ xin tùy ư Ngài.

Phật nói: "Tốt lắm" và liền bước vào hang đá, ngồi kiết già thiền định. Lúc ấy rồng độc nổi cơn giận dữ, toàn thân phun ra lửa khói. Đức Thế Tôn bèn hướng tâm vào Hỏa quang tam-muội, rồng thấy thế càng giận dữ phun lửa bốc cao, bao trùm cả hang đá. Các đệ tử của Ca-diếp thấy ngọn lửa dữ ấy liền vào thưa với thầy là vị Sa-môn trẻ tuổi, thông minh trang nghiêm ấy đă bị lửa của độc long làm hại. Ca-diếp giật ḿnh đứng dậy ra xem, thấy ngọn lửa của độc long, trong ḷng buồn thương liền sai đệ tử lấy nước dập tắt, nhưng chẳng những không dập tắt được mà ngọn lửa càng bốc cao hơn, trùm khắp hang đá. Khi đó thân tâm Đức Thế Tôn vẫn bất động, sắc diện an nhiên tự tại, hàng phục làm cho độc long tiêu trừ tính ác, quy y với Phật rồi vào nằm trong b́nh bát của Ngài. Trời vừa sáng, thầy tṛ Ca-diếp cùng đến chỗ hang đá, họ đều nghĩ là vị Sa-môn trẻ tuổi chắc đă bị lửa rồng giết hại. Ca-diếp nói:

-Vị Sa-môn ở trong hang kia, hôm qua tôi không cho Ngài ở chỉ v́ lư do này.

Phật liền lên tiếng:

-Ḷng Ta thanh tịnh th́ không bao giờ bị tai họa bên ngoài làm hại. Nay Độc long đang ở trong b́nh bát.

Phật bèn mở bát đưa cho Ca-diếp xem. Thầy tṛ Ca-diếp thấy vị Sa-môn chẳng những không bị lửa rồng độc làm hại mà c̣n hàng phục được và đặt nó vào bát, khen ngợi cho là điều chưa từng có. Tuy nhiên Ca-diếp vẫn nói với các đệ tử:

-Vị Sa-môn trẻ tuổi ấy tuy có thần thông nhưng nhất định không thể bằng chân đạo của ta.

Lúc ấy Đức Thế Tôn nói với Ca-diếp:

-Nay tôi muốn ở lại nơi đây được không?

Ca-diếp đáp:

-Thật tốt lành! Xin tùy ư Ngài.

Trong đêm thứ hai, Đức Như Lai đến ngồi dưới một bóng cây. Vào giữa đêm, bốn vị Thiên vương cùng đến chỗ Phật để nghe pháp. Mỗi vị đều từ thân phóng hào quang chiếu sáng như mặt trời, mặt trăng. Đêm ấy Ca-diếp thức giấc, từ xa trông thấy ánh sáng của chư Thiên bên cạnh Như Lai liền nói với các đệ tử:

-Vị Sa-môn trẻ tuổi kia cũng theo đạo thờ lửa.

Đến sáng, ông ta đến chỗ Phật, hỏi:

-Thưa Sa-môn, Ngài cũng theo đạo thờ lửa phải không?

Phật đáp:

-Không phải thế, đêm qua có Tứ Thiên vương đến nghe thuyết pháp nên có ánh sáng đó.

Ca-diếp nói với chúng đệ tử:

-Vị Sa-môn trẻ tuổi đó có uy đức lớn nhưng tuyệt nhiên không thể sánh với đạo chân chánh của ta.

Vào đêm thứ ba, vua trời Đế Thích từ Thiên cung xuống nghe thuyết pháp, thân vị ấy chiếu hào quang sáng như mặt trời mới mọc. Các đệ tử của Ca-diếp từ xa trông thấy ánh sáng của vị trời bên cạnh Phật vội vàng đến thưa thầy:

-Vị Sa-môn trẻ tuổi kia chắc chắn là theo đạo thờ lửa.

Trời vừa sáng, tất cả lại đến hỏi Phật. Phật cho biết đó là hào quang của vua trời Đế Thích xuống nghe pháp. Nghe thế nhưng Ca-diếp vẫn cho đạo ông ta là chân chánh hơn.

Đến đêm thứ tư, Đại phạm Thiên vương cũng xuống thế gian, đến chỗ Phật nghe thuyết pháp. Hào quang từ thân vị ấy sáng như mặt trời giữa trưa. Đêm đó, Ca-diếp trở giấc thức dậy, thấy ánh sáng chói chang tại chỗ Phật nên quyết chắc là Ngài theo đạo thờ lửa. Sáng mai, Ca-diếp lại đến hỏi Phật mới biết là giữa đêm có vị Đại phạm Thiên vương đến nghe Phật thuyết pháp. Ca-diếp trong ḷng thầm nghĩ: "Tuy vị Sa-môn trẻ tuổi này có thần thông kỳ diệu như thế nhưng tuyệt nhiên vẫn không thể sánh bằng chân đạo của ta".

Năm trăm đệ tử của Ca-diếp, mỗi vị đều thờ ba ngọn lửa, sáng nào họ cũng đốt lửa, nhưng hôm ấy đốt măi mà lửa vẫn không cháy nên kéo đến thưa lên thầy. Ca-diếp nghe xong, thầm nghĩ trong ḷng: "Điều ấy chắc là do thần lực của vị Sa-môn kia" nên lập tức cùng đệ tử đến gặp Phật, nói:

-Mỗi người đệ tử của tôi đều thờ ba ngọn lửa. Sáng nay muốn thắp lên mà lửa vẫn không cách nào cháy được.

Phật bảo:

-Các ông hăy trở về, lửa sẽ tự nhiên cháy.

Ca-diếp quay về th́ thấy lửa đă cháy nhưng vẫn tự nghĩ: "Vị Sa-môn trẻ tuổi kia tuy có diệu lực nhưng dẫu sao vẫn không chân chánh bằng đạo của ta". Các đệ tử làm lễ cúng dường lửa xong, muốn tắt lửa nhưng không thể nào tắt được, vội đến thưa với Ca-diếp. Ca-diếp nghĩ chắc cũng do vị Sa-môn kia làm ra, bèn đến tŕnh bày việc ấy với Phật. Phật bảo:

-Các ông hăy về đi, lửa sẽ tự tắt.

Quả nhiên khi thầy tṛ trở về th́ lửa đă tắt nhưng Ca-diếp vẫn cho đạo ông là chân chánh hơn.

Đến khi bản thân Ca-diếp tế thần lửa, nhưng đốt măi mà lửa vẫn không cháy, Ca-diếp biết là do thần lực của Phật nên đến thưa với Ngài. Phật bảo Ca-diếp có thể ra về, lửa sẽ tự nhiên cháy. Quả nhiên khi Ca-diếp trở về thấy lửa đă cháy. Sau khi tế xong, Ca-diếp không tắt được lửa cũng đoán biết là do thần lực của Phật nên lại đến tŕnh bày với Ngài. Phật cũng bảo trở về và quả nhiên khi Ca-diếp vừa về tới th́ lửa đă tự nhiên tắt lịm. Tuy vậy, Ca-diếp vẫn tự phụ đạo của ḿnh là hơn cả.

Vào buổi sáng sớm, các đệ tử của Ca-diếp cùng bổ củi nhưng không thể nào dỡ ŕu lên được, bèn thưa với thầy. Ca-diếp nghe xong thầm nghĩ: "Đây chắc hẳn là việc làm của vị Sa-môn ấy" nên cùng với các đệ tử đi đến chỗ Phật thưa:

-Sáng sớm này, các đệ tử của tôi chuẩn bị bổ củi nhưng không làm sao dỡ ŕu lên được.

Phật bảo:

-Ông hăy về đi, các đệ tử ông sẽ tự nhiên dỡ ŕu lên được.

Ca-diếp trở về, thấy các đệ tử quả nhiên đă dỡ ŕu lên được. Dầu vậy Ca-diếp vẫn tự cho là đạo ḿnh chân chánh hơn tất cả. Ngay lúc ấy, các đệ tử dỡ ŕu lên nhưng lại không hạ xuống được bèn chạy tới tŕnh bày với thầy. Ca-diếp đoán biết là việc làm của Phật nên đến thưa với Ngài sự việc đó. Phật dạy:

-Ông có thể về, ŕu sẽ tự hạ xuống về đến nơi, quả nhiên Ca-diếp thấy các đệ tử đă hạ ŕu xuống cả. Cũng như trước, Ca-diếp vẫn tự phụ về đạo của ḿnh là chân chánh nhất.

Đến khi bản thân Ca-diếp bổ củi th́ cũng như các đệ tử không thể đưa ŕu lên cao được. Đến hỏi, được Phật dạy xong, trở về th́ có thể dỡ ŕu lên nhưng lại không làm cách nào hạ xuống. Đến chỗ Phật hỏi xong trở về th́ có thể hạ ŕu xuống. Tuy thán phục, nhưng trong ḷng Ca-diếp vẫn tự cho đạo thờ lửa là chân chánh nhất.

Một hôm, Ca-diếp thưa với Phật:

-Thưa vị Sa-môn trẻ tuổi, xin người hăy ở lại đây cùng tu phạm hạnh. Pḥng xá, y phục, thức ăn tôi xin cung cấp đầy đủ cho người.

Đức Thế Tôn yên lặng chấp thuận. Ca-diếp biết Phật đă ưng thuận liền về sai các đệ tử trang thiết giường nằm, đồ ngồi cho Đức Phật và dặn mỗi ngày phải chuẩn bị các món trai thực thật ngon để đăi Ngài. Sáng hôm sau ông tự thân đến thỉnh Phật. Phật bảo ông về trước, Ngài sẽ đến sau. Ca-diếp vừa quay về th́ trong khoảnh khắc, Thế Tôn đến châu Diêm-phù hái đầy b́nh bát quả Diêm-phù rồi quay về chỗ ở của Ca-diếp mà ông ta vẫn chưa về tới. Lúc Ca-diếp về tới đă thấy Phật an tọa trong tịnh thất của ḿnh nên rất ngạc nhiên hỏi:

-Vị Sa-môn trẻ tuổi đi đường nào mà đến đây sớm thế?

Phật liền đưa bát đựng quả Diêm phù cho Ca-diếp xem và hỏi:

-Ông có biết loại quả trong bát này không?

Ca-diếp thưa không biết. Phật nói:

-Từ đây đi về hướng Nam mấy vạn do-tuần có một châu, nơi ấy có một loại cây tên là Diêm-phù; v́ vậy mà người ta gọi châu ấy là Diêm-phù-đề. Đây là trái Diêm-phù đó. Ta đă đến đó hái đem về đây. Vị của nó thật là thơm ngon, ông hăy nếm thử đi.

Khi đó Ca-diếp suy nghĩ: "Đường đến đó rất xa mà vị Sa-môn này chỉ trong khoảnh khắc đến đó rồi về, sức thần biến của vị ấy thật là phi thường. Tuy nhiên, đạo của vị ấy chắc chắn không chân chánh bằng đạo của ta". Tiếp đó Ca-diếp cho dọn lên đủ các thức ăn. Trước khi thọ thực Phật chú nguyện:

Trong đạo Bà-la-môn

Thờ lửa là cao nhất

Trong tất cả các ḍng

Biển cả là lớn nhất

Trong toàn thể ngôi sao

Bóng nguyệt là tối thượng

Trong tất cả nguồn sáng

Sáng nhất vầng thái dương

Trong tất cả phước điền

Ruộng Phật là tốt nhất

Nếu muốn chứng quả cao

Nên cúng ruộng phước Phật.

Sau khi thọ trai xong, Phật trở về chỗ ở của ḿnh, rửa bát súc miệng và tĩnh tọa dưới bóng cây. Hôm sau Ca-diếp cũng đến thỉnh Phật thọ trai. Phật bảo:

-Ông hăy về trước, Ta sẽ theo sau.

Khi Ca-diếp vừa đi, trong giây lát Thế Tôn đến châu Phất-bà-đề hái đầy bát quả Am-ma-la và trở về, chỗ ở của Ca-diếp. Lúc Ca-diếp về tới đă thấy Phật ngồi trong nhà, ngạc nhiên hỏi:

-Ngài đi đường nào lại đến trước tôi như thế?

Phật liền đưa bát có trái Am-ma-la cho ông ta xem và hỏi:

-Ông có biết quả này không?

Ca-diếp thưa chưa biết. Phật nói:

-Từ đây về hướng Đông cách mấy vạn do-tuần có châu Phất-bà-đề, Ta vừa đến đó hái về trái Am-ma-la. Trái này mùi vị rất thơm ngon, ông có thể nếm qua.

Ca-diếp nghĩ: "Đường đến đó xa xôi như thế mà vị Sa-môn này chỉ trong chốc lát đă đến đó rồi về thật là kỳ diệu xưa nay chưa từng có, nhưng đạo của ta vẫn chân chánh hơn cả". Ca-diếp lại cho dọn thức ăn ra. Trước khi thọ thực, Phật chú nguyện:

Trong đạo Bà-la-môn

Thờ lửa là cao nhất

Trong tất cả các ḍng

Biển cả là bậc nhất

Trong tất cả ngôi sao

Trăng là sáng hơn hết

Trong tất cả nguồn sáng.

Mặt trời là tối thượng

Trong tất cả ruộng phước

Ruộng Phật tốt hơn hết

Nếu muôn được quả lớn

Nên cúng ruộng phước Phật.

Thọ trai xong, Phật trở về chỗ ở, rửa bát súc miệng rồi đến dưới bóng cây ngồi thiền định. Ngày thứ ba đến giờ thọ trai, Ca-diếp lại đến thỉnh Phật. Cũng như hai lần trước Phật bảo ông hăy trở về và trong chốc lát Thế Tôn đến châu Cù-đà-ni hái quả A-lê-lặc đựng đầy bát rồi về chỗ ở của Ca-diếp. Khi về tới nới, Phật đă đến rồi, Ca-diếp ngạc nhiên hỏi:

-Ngài đi đường nào mà đến đây nhanh như vậy?

Phật liền đưa bát hỏi:

-Ông biết trái cây này không?

Ca-diếp bảo chưa biết. Phật dạy:

-Từ đây đi về phương Tây, cách độ vài muôn na-do-tha sẽ đến châu Cù-đà-ni, ở đó có trái A-lê-lặc, Ta vừa đến đó và hái về đây. Trái này rất thơm ngon, ông hăy ăn thử.

Ca-diếp nghĩ: "Đường đi thật xa mà vị Sa-môn này chỉ trong chốc lát đến đó rồi trở về, thần lực thật là kỳ diệu chưa hề thấy. Thế nhưng đạo của ông ta vẫn chưa chân chánh bằng đạo của ta". Ca-diếp sai đệ

tử dọn thức ăn ra, Phật chú nguyện:

Trong đạo Bà-la-môn

Thờ lửa là cao nhất

Trong tất cả ḍng nước

Biển là lớn hơn hết

Tất cả các ngôi sao

Mặt trăng là sáng nhất

Tất cả các nguồn sáng

Mặt trời là tối thượng

Trong tất cả ruộng phước

Ruộng phước Phật tốt nhất

Nếu muốn chứng quả lớn

Nên cúng ruộng phước Phật.

Phật thọ trai xong trở về nơi cư trú thường ngày. Sau khi rửa bát súc miệng, Ngài đến tĩnh tọa dưới bóng cây. Hôm sau đến giờ ăn, Ca-diếp lại cũng đến thỉnh Phật thọ trai. Phật bảo Ca-diếp về trước Ngài sẽ đến sau. Khi Ca-diếp vừa quay đi, chỉ trong giây lát, Phật đă đến châu uất-đơn-việt lấy cơm thơm tự nhiên rồi trở về chỗ ở của Ca-diếp. Khi Ca-diếp bước vào tịnh thất đă thấy Phật ở đó liền hỏi:

-Ngài bằng cách nào, đi đường nào lại đến trước tôi như thế?

Phật đưa bát cơm thơm cho ông ta xem và hỏi:

-Ông có biết loại cơm trong bát này chăng?

Ca-diếp thưa không biết. Phật nói:

-Từ đây đi về hướng Bắc độ vài muôn na-do-tha sẽ đến châu uất-đơn-việt, Ta vừa đến đó lấy cơm này về đây. Cơm này vị rất thơm ngon, ông có thể ăn thử.

Ca-diếp nghe thế suy nghĩ: "Đường thật xa mà vị Sa-môn này chỉ đi trong chốc lát, thần thông thật khó lường được, tuy nhiên đạo ta vẫn chân chánh hơn". Ca-diếp dọn các thức ăn ra, trước khi thọ thực Phật chú nguyện:

rong pháp Bà-la-môn

Thờ lửa cao hơn hết

Hết thảy các ḍng nước

Biển cả là lớn nhất

Trong tất cả ngôi sao

Trăng là sáng hơn hết

Trong tất cả nguồn sáng

Sáng nhất là thái dương

Trong tất cả ruộng phước

Ruộng phước Phật tốt nhất

Ai muốn đạt quả lớn

Nên cúng ruộng phước Phật.

Thọ thực xong, Phật trở về chỗ ở thường ngày. Sau khi rửa bát súc miệng, Phật ngồi nhập định dưới bóng cây. Đến hồm thứ năm Ca-diếp cũng đến thỉnh Phật. Phật nói quư hóa thay rồi cùng đi với Ca-diếp. Đến nơi thức ăn dọn ra, Phật nói kệ chú nguyện:

Trong đạo Bà-la-môn

Thờ lửa là cao nhất

Như tất cả ḍng nước

Biển là lớn hơn hết

Tinh tú trên bầu trời

Mặt trăng là sáng nhất

Trong tất cả nguồn sáng

Sáng nhất vầng thái dương

Trong tất cả ruộng phước

Ruộng phước Phật tốt nhất

Nếu muốn chứng quả lớn

Nên cúng ruộng phước Phật.

Sau khi chú nguyện xong, Phật nhận thức ăn đem về dưới bóng cây dùng. Thọ thực xong, Phật nghĩ cần nước để rửa. Trời Đế Thích biết ư, từ cung trời, nhanh như thời gian người lực sĩ co duỗi cánh tay, đến trước, cúi đầu lễ xuống chân Phật và dùng tay chỉ mặt đất biến thành ao nước rất trong lành, có đủ tám món công đức. Như Lai liền dùng nước trong ao để rửa bát và chân. Phật rửa xong liền thuyết pháp cho trời Đế Thích nghe. Nghe xong, Đế Thích rất vui mừng, phấn chấn, đột nhiên biến mất, trở về Thiên cung.

Khi ấy, Ca-diếp ăn xong ra rừng đi dạo, bỗng nảy ra ư nghĩ: "Vị Sa-môn trẻ tuổi hôm nay đem thức ăn về nơi cội cây để dùng, vậy ta đến đó để thăm người". Nghĩ xong vội rảo bước đến chỗ Phật. Đến nơi Ca-diếp bỗng thấy bên cạnh nơi Phật ngồi có một cái ao lớn, nước ao trong mát, đủ tám công đức nên rất ngạc nhiên, hỏi Phật:

-Nơi đây sao bỗng nhiên lại có ao nước?

Phật đáp:

-Sáng nay khi nhận thức ăn của ông cúng dường đem về, ăn xong Ta nghĩ cần có nước để rửa bát. Trời Đế Thích biết ư Ta nên từ Thiên cung đến đây dùng tay chỉ đất hóa thành ao nước đó.

Ca-diếp thấy ao nước, lại nghe Phật nói như thế liền suy nghĩ: "Vị Sa-môn trẻ tuổi có uy đức rất lớn nên mới cảm được đến trời, nhưng đâu biết rằng đạo của ta là chân chánh hơn hết".

Một hôm, đang kinh hành trong rừng, Đức Thế Tôn nhặt được các mảnh vải dơ rách trong đống rác bẩn, muốn đem giặt nên nghĩ cần phải có một phiến đá. Đế Thích biết ư Phật liền trong khoảnh khắc đến Hương sơn lấy một tảng đá vuông vức đem về đặt giữa các hàng cây rồi bạch Phật có thể giặt áo trên tảng đá ấy. Phật lại nghĩ cần nước, Đế Thích lại đến Hương sơn làm một cái chậu to bằng đá lấy nước trong mát đổ đầy vào, đem đến để gần tảng đá kia. Xong việc Đế Thích bỗng nhiên biến mất, trở về Thiên cung.

Đức Thế Tôn giặt những mảnh vải xong trở về ngồi dưới bóng cây. Lúc ấy Ca-diếp đi đến bỗng thấy bên hàng cây có một phiến đá vuông vức và chậu đá liền nghĩ: "Sao nơi đây lại có hai vật này?" trong ḷng lấy làm lạ nên đến hỏi Phật:

-Thưa Sa-môn, tại sao bỗng nhiên giữa các hàng cây lại có phiến đá và chậu đá?

Phật đáp:

-Ta đi kinh hành nhặt được những mảnh vải rách bẩn nên có ư muốn giặt. Vua trời Đế Thích biết ư đó của Ta nên đến Hương sơn lấy những vật ấy đem đến.

Ca-diếp nghe xong khen là việc chưa từng thấy nhưng trong ḷng vẫn nghĩ Đức Phật tuy có thần lực cảm được đến trời nhưng đạo của Phật vẫn không chân chánh bằng đạo của ḿnh.

Một ngày kia, Thế Tôn xuống ao tắm rửa. Sau khi tắm xong Ngài muốn lên bờ nhưng không có vật ǵ để vịn leo lên. Trên bờ ao có cội cây tên Ca-la-ca cành lá sum suê, sát bên bờ ao, vị thọ thần liền oằn cành cây xuống để Phật vịn lên khỏi ao. Sau đó Phật trở về an tọa dưới bóng cây. Lúc ấy Ca-diếp đi đến thấy những cành cây bỗng nhiên sà xuống lây làm lạ nên hỏi Phật:

-Các cành cây v́ sao bỗng sà thấp xuống như vậy.

Phật đáp:

-Ta xuống ao tắm xong, muốn có vật ǵ vịn để lên bờ. Vị thọ thần biết ư nên làm cho cành cây sà xưống giúp Ta vịn để lên bờ.

Ca-diếp khen là việc chưa từng thấy nhưng vẫn nghĩ Đức Phật tuy có nhiều uy lực, có thể cảm hóa được Thọ thần nhưng đạo của ông ta vẫn chân chánh hơn

Một hôm Ca-diếp nghĩ: "Ngày mai này, vua nước Ma-kiệt-đề cùng với quan, dân, Bà-la-môn, trưởng giả, cư sĩ... sẽ đến đây tổ chức lễ hội trong bảy ngày. Nếu vị Sa-môn trẻ tuổi kia mà đến đây th́ vua, quan, dân chúng thấy tướng tốt và uy lực thần thông của vị ấy hẳn là sẽ bỏ ta mà đi theo thờ phụng vị ấy. Mong sao trong bảy ngày lễ hội, vị ấy không đến đây". Phật hiểu rơ tâm niệm của Ca-diếp nên Ngài đi sang xứ uất-đơn-việt ở phương Bắc, trong bảy ngày bảy đêm không xuất hiện. Khi lễ hội hoàn tất, vua quan và mọi người về hết, Ca-diếp lại nghĩ: "Trong suốt bảy ngày hội, vị Sa-môn trẻ tuổi không đến, thật là may mắn. Nay lễ hội đă xong, ta muôn cúng dường Ngài, nếu lúc này Ngài đến th́ thật là tốt.

Lúc ấy Đức Thế Tôn biết được ư nghĩ của Ca-diếp nên trong chốc lát, nhanh như thời gian một tráng sĩ co duỗi cánh tay, hiện ra trước Ca-diếp. Lúc ấy Ca-diếp chợt thấy Như Lai, đến vừa ngạc nhiên, vừa vui mừng liền hỏi Phật:

-Trong bảy ngày qua Ngài đi đâu tôi không gặp?

Phật đáp:

-Đức vua nước Ma-kiệt-đề, quan dân, Bà-la-môn, trưởng giả, cư sĩ... đến đây dự hội bảy ngày, ông lại không muốn gặp Ta nên Ta đến xứ Uất-đơn-việt ở phương Bắc để tránh ông. Nay ông nghĩ muốn Ta đến nên Ta đến.

Ca-diếp nghe Phật nói giật ḿnh, toàn thân nổi gai, suy nghĩ: "Vị Sa-môn trẻ tuổi này biết được cả ư nghĩ trong ḷng ta. Thật là kỳ lạ nhưng vẫn không chân chánh bằng đạo của ta".

Ngày kia, Đức Thế Tôn suy nghĩ: "Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp căn duyên đă từ từ thuần thục, nay đúng là lúc điều phục ông ta". Nghĩ thế nên Đức Thế Tôn đến sông Ni-liên-thiền. Phật vừa đến bờ sông, Ma vương bỗng hiện ra thưa với Phật:

-Bạch Thế Tôn, bấy giờ là lúc Ngài nên vào Niết-bàn. Đấng Thiện Thệ, nay đă đúng thời Ngài nên vào Niết-bàn. V́ sao? V́ những người đáng độ đều đă được giải thoát, nay thật đúng lúc Ngài nên vào Niết-bàn.

Ma vương thưa với Phật ba lần như thế. Đức Thế Tôn đáp:

-Nay chưa phải lúc Ta vào Niết-bàn. V́ sao? V́ bốn bộ chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, ưu-bà-di chưa đầy đủ. Những người đáng độ chưa được hoàn toàn giải thoát, các ngoại đạo đều chưa được hàng phục.

Đức Phật cũng đáp lại ba lần như thế. Ma vương nghe thế buồn bă trở về Thiên cung.

Đức Thế Tôn đi xuống sông Ni-liên-thiền, dùng thần lực tách ḍng sông làm hai khiến nước ở hai bên vọt lên cao. Phật đi vào giữa, từng bước chân của Ngài làm bụi tung lên mù mịt. Ca-diếp từ xa trông thấy tưởng Phật bị ch́m trong nước liền sai các đệ tử chèo thuyền đến đó. Khi đến bên sông thấy lối Phật đi có bụi bay lên, Ca-diếp thầm khen là việc chưa từng có nhưng suy nghĩ: "Vị Sa-môn trẻ tuổi này tuy có sức thần thông như thế nhưng vẫn không chân chánh bằng đạo của ta". Lúc ấy Ca-diếp hỏi Phật:

-Vị Sa-môn trẻ tuổi muốn lên thuyền không?

Phật đáp:

-Tốt lắm.

Bấy giờ Đức Thế Tôn dùng thần lực xuyên qua đáy thuyền để vào trong thuyền ngồi kiết già. Ca-diếp thấy Phật từ đáy thuyền đi vào mà đáy thuyền vẫn không thủng, khen là việc chưa từng có, nhưng vẫn cố chấp: "Vị Sa-môn trẻ tuổi có thần thông kỳ diệu như thế nhưng không bằng ta đă đắc quả A-la-hán". Phật liền nói:

-Này Ca-diếp, ông chưa đắc quả A-la-hán, cũng chưa đạt A-la-hán hướng mà sao lại có tâm ngă mạn lớn như thế?

Ca-diếp nghe lời đó xong, trong ḷng vừa thẹn vừa sợ, toàn thân nổi gai, thầm nghĩ: "Vị Sa-môn trẻ tuổi này biết rơ tâm niệm của ta" nên liền thưa với Phật:

-Đúng thế, thưa Sa-môn! Đúng thế, thưa Đại Tiên! Người đă biết rơ tâm niệm của con. Cúi xin Ngài hăy thu nhận con làm đệ tử.

Phật đáp:

-Ông là bậc cao niên, đă một trăm hai mươi tuổi, có nhiều đệ tử quyến thuộc, lại được Quốc vương và quan dân tôn kính. Nếu ông quyết định theo học giáo pháp của Ta th́ trước hết nên cùng bàn bạc kỹ với các đệ tử.

Ca-diếp đáp:

-Quư hóa thay! Hay lắm thay! Quả như lời dạy của Đại Tiên, nhưng ḷng con đă quyết định, không bao giờ thay đổi. Nay sẽ về cùng bàn bạc với các đệ tử.

Nói xong, Ca-diếp trở về trụ xứ tập họp các đệ tử nói:

-Vị Sa-môn trẻ tuổi từ khi đến ở đây, chúng ta đă thấy bao nhiêu thần thông biến hóa thật là kỳ diệu và trí tuệ cao xa, tính t́nh ôn ḥa của Ngài, nay ta muốn quy y theo học giáo pháp của người, các ông nghĩ sao?

Các đệ tử thưa

-Những ǵ chúng con biết đều là nhờ ân của Tôn giả. Bậc mà Tôn giả đă tin tưởng quy y, ắt hẳn không phải là hư vọng. Chúng con cũng đă thấy những thần thông kỳ diệu của vị ấy. Nếu Tôn giả quyết định quy y theo học giáo pháp của Bậc ấy, chúng con cũng xin nguyện theo Tôn giả quy y.

Nghe các đệ tử nói thế, Ca-diếp lập tức cùng họ đến trước Phật thưa:

-Nay con cùng các đệ tử đều đă quyết định quy y. Cúi xin Đại Tiên hăy thâu nhận chúng con.

Phật nói:

-Thiện lai Tỳ-kheo!

Lập tức râu tóc Ca-diếp tự rụng, vận cà-sa vào người, trở thành Sa-môn. Bấy giờ, Đức Thế Tôn tùy theo căn tánh của Tôn giả giảng rộng pháp Tứ đế. Vừa nghe xong bài pháp, Ca-diếp liền ĺa xa mọi trần cấu, đắc pháp nhăn thanh tịnh; sau đó một thời gian đă chứng được quả A-la-hán. Năm trăm đệ tử thấy thầy đă thành Sa-môn trong ḷng rất vui vẻ, cũng có ư muốn xuất gia nên thưa với Phật:

-Thầy chúng con được Đại Tiên thu nhận, nay đă là Sa-môn.

Chúng con cũng vui thích theo thầy học đạo. Cúi xin Đại tiên chấp nhận cho chúng con được xuất gia.

Phật nói:

-Thiện lai Tỳ-kheo!

Râu tóc của họ tự rụng xuống, vận cà-sa vào, trở thành Sa-môn. Sau đó Phật cũng v́ họ giảng pháp Tứ đế. Sau thời pháp, cả năm trăm vị Tỳ-kheo đều xa ĺa trần cấu, đắc pháp nhăn thanh tịnh, chứng được quả Tu-đà-hoàn. Sau một thời gian tu tập, dần dần tất cả đều chứng được quả A-la-hán.

Sau khi đắc quả, Ca-diếp và năm trăm vị đệ tử đem hết những dụng cụ thờ lửa vứt bỏ xuống sông Ni-liên-thiền và cùng đi theo Phật. Bấy giờ hai người em của Ca-diếp là Na-đề Ca-diếp và Già-da Ca-diếp, mỗi người có hai trăm năm mươi người đệ tử và cùng ở bên bờ vùng hạ lưu sông Ni-liên-thiền, bỗng trông thấy các dụng cụ thờ lửa của thầy tṛ người anh trôi trên sông nên rất ngạc nhiên, suy nghĩ: "Anh ta gặp điều ǵ không lành mà sao nay những dụng cụ thờ lửa bị thả trôi sông. Phải chăng bị kẻ ác hăm hại?" Hai người em vội chạy đến gặp nhau bàn luận:

-Anh chúng ta nếu không bị kẻ ác làm hại th́ tại sao những dụng cụ thờ lửa lại theo ḍng sông trôi xuống. Thật là kỳ lạ, chúng ta hăy mau đến đó xem sao.

Bàn luận xong, họ liền ngược ḍng sông lên đến chỗ người anh. Đến nơi thấy cảnh vắng vẻ ḷng họ rất buồn rầu, thắc mắc không biết anh và các đệ tử đi đâu. Trong khi đi t́m kiếm khắp nơi bỗng gặp người quen, họ liền hỏi thăm:

-Thánh huynh của chúng tôi và các đệ tử không rơ nay ở đâu, ông có biết không?

Vị ấy trả lời:

-Anh của các ngài và chúng đệ tử đă bỏ hết những dụng cụ thờ lửa, xuất gia đi theo Sa-môn Cù-đàm tu học.

Hai người em nghe thế vô cùng khổ tâm, cho là việc kỳ lạ chưa từng thấy, thầm nghĩ: "Sao anh ta lại bỏ đạo A-la-hán mà đi cầu học pháp khác?" Hai người liền t́m đến chỗ người anh. Đến nơi thấy anh và các đệ tử đă cạo bỏ râu tóc, mặc cà-sa liền quỳ lạy, hỏi:

-Anh vốn là một vị Đại A-la-hán thông minh, trí tuệ không ai bằng, tiếng tăm vang cả mười phương mọi người đều kính phục, tại sao nay lại bỏ đạo mà theo học người khác? Đây đâu phải là chuyện nhỏ.

Ca-diếp liền trả lời hai em:

-Ta thấy Đức Thế Tôn là Bậc đă thành tựu tâm đại Từ bi và có ba điều kỳ diệu: một là thần thông biến hóa; hai là trí tuệ cực sáng, chắc chắn đă đạt được Nhất thiết chủng trí; ba là biết rơ căn tánh từng người mà tùy thuận dẫn dắt, do đó mà ta xuất gia tu học theo giáo pháp của Phật. Ta nay tuy được vua, quan, dân chúng tôn kính, không luận lư nào ở thế gian mà không phá được nhưng lại không dứt được con đường sinh tử, chỉ có giáo pháp của Như Lai mới có thể dứt hẳn được sinh tử. Đă gặp được vị Đại Thánh Chí Tôn như vậy mà không tự gắng sức để cầu học theo vị Thầy tố́ thắng là người không có ḷng và cũng không có mắt.

Hai người em thưa:

-Nếu đúng như lời anh nói, Bậc ấy chắc chắn đă thành tựu được Nhất thiết chủng trí. Các đạo lư, tri thức chúng em có được đều do công sức của anh. Nay anh đă theo Phật xuất gia, chúng em cũng như anh nguyện theo Phật xuất gia học đạo.

Hai người em, mỗi vị bèn hỏi chúng đệ tử của ḿnh:

-Nay ta muốn theo đường của anh cả ta xuất gia theo học Phật pháp, vậy ư các người thế nào?

Các đệ tử thưa:

-Chúng con có được tri kiến đều là nhờ ân của đại sư. Nay đại sư có ư xuất gia theo Phật, chúng con cũng nguyện đi theo.

Lúc ấy Na-đề Ca-diếp và Già-da Ca-diếp, mỗi vị đem hai trăm năm mươi đệ tử đến trước Phật cúi đầu lễ xuống chân Phật thưa:

-Bạch Thế Tôn, xin người từ bi thương xót mà cứu vớt chúng con.

Phật nói:

-Thiện lai Tỳ-kheo!

Râu tóc của họ đều tự rụng, vận cà-sa, trở thành Sa-môn. Hai người lại bạch Phật:

-Các đệ tử của chúng con cũng nguyện xin xuất gia. Kính xin Thế Tôn từ bi tiếp nhận.

Phật đáp:

-Quư hóa lắm!

Rồi Ngài hô lớn:

-Lành thay các Tỳ-kheo!

Râu tóc trên người họ tự rụng, vận cà-sa, đều thành Sa-môn. Bấy giờ Đức Thế Tôn v́ Na-đề Ca-diếp, Già-da Ca-diếp và chúng đệ tử hiện sức đại thần thông rồi tùy theo căn cơ mà thuyết pháp. Phật dạy:

-Này các Tỳ-kheo, các ông nên biết thế gian này luôn bị các thứ lửa dữ là tham, sân, si thiêu đốt. Trước đây các ông thờ ba thứ lửa đă có thể trừ bỏ được chướng ngại thô lậu bên ngoài, nhưng ba thứ lửa độc này lại xuất phát từ thân tâm, các ông cần phải mau đoạn trừ chúng.

Lúc bấy giờ các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, ngay lập tức xa ĺa mọi trần cấu phiền năo, đắc pháp nhăn thanh tịnh. Thế Tôn lại v́ họ giảng rộng pháp Tứ đế. Sau một thời pháp, tất cả họ đều đạt được quả A-la-hán.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nhớ lại: "Vua Tần-tỳ-sa-la trước đây có nguyện rằng nếu Ta đắc đạo th́ nên độ ông ta trước. Nay đă đến lúc Ta nên đến đó để hoàn thành bản nguyện cho nhà vua". Nghĩ thế rồi, Phật liền cùng ba anh em Ca-diếp và một ngàn vị Tỳ-kheo đi tới cung điện của vua Tần-tỳ-sa-la tại thành Vương xá.

Lúc ấy, người dân trong các thôn mà vua đă cấp cho Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp trước đây thấy Ca-diếp và các đệ tử đều thành Sa-môn liền đến tâu vua. Nhà vua và các quan nghe tin ấy rất kinh ngạc nhưng yên lặng không nói ǵ. Dân chúng bên ngoài nghe tin ấy liền cùng nhau bàn bạc:

Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp là bậc có trí tuệ cao sâu không ai sánh bằng, tuổi lại cao, đă chứng quả A-la-hán nay sao lại bỏ đạo của ḿnh làm đệ tử của Sa-môn Cù-đàm?

Không một ai tin điều đó và đều cho rằng Sa-môn Cù-đàm là đệ tử của Ca-diếp. Khi đến gần thành Vương xá, Thế Tôn dừng chân nghỉ trong một khu rừng. Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp nhờ một người thân cận trước đây đến thưa với vua Tần-tỳ-sa-la:

-Tôi nay đă xuất gia tu học theo giáo pháp của Đức Phật. Hiện nay đang cùng Đức Phật đến đây, ngự trong một khu rừng. Nhà vua nên đến lễ bái cúng dường.

Nhà vua nghe tâu lại lời ấy mới biết chắc là Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp là đệ tử của Phật, lập tức truyền chuẩn bị ngựa xe cùng với các vị đại thần, Ba-la-môn, dân chúng đến chỗ Đức Phật. Khi đến ngoài rừng, vua liền xuống xe, bỏ tất cả nghi trượng hoàng gia, đi bộ vào diện kiến Đức Phật. Lúc ấy, từ trên không có một vị trời bảo nhà vua:

-Như Lai hiện đang ngự trong khu rừng này, là ruộng phước tối thượng của trời, người. Đại vương nên cung kính cúng dường và bố cáo cho nhân dân trong nước nên cúng dường Như Lai.

Nhà vua nghe lời đó xong, trong ḷng vô cùng mừng rỡ, phấn chấn, lập tức tiến vào rừng. Từ xa vua đă trông thấy tướng tốt đẹp, trang nghiêm của Đức Phật và cũng thấy thầy tṛ ba anh em Tôn giả Ca-diếp hầu chung quanh, chẳng khác nào các v́ sao vây quanh vầng nguyệt rạng. Ḷng vua càng tăng thêm niềm hoan hỷ vội đến trước Đức Phật cúi đầu lạy sát đất thưa với Phật:

-Con là vua nước Ma-kiệt-đề, thuộc chủng tộc mặt trăng, tên là Tần-tỳ-sa-la. Chẳng hay Thế Tôn đă từng nghe qua chưa?

Phật liền đáp:

-Lành thay! Đại vương

Vua Tần-tỳ-sa-la lui xuống ngồi sang một bên. Các đại thần, Ba-la-môn và dân chúng cũng đều ngồi xuống. Khi ấy, sau khi thấy mọi người trong phái đoàn của nhà vua đều đă an tọa, Đức Thế Tôn liền dùng giọng Phạm âm vấn an nhà vua:

-Sức khỏe của đại vương có được tốt không? Việc nước chắc không quá mệt nhọc phải không?

Đức vua thưa:

-Nhờ ân đức của Thế Tôn nên con may mắn vẫn được mọi sự an ổn.

Lúc ấy vua Tần-tỳ-sa-la và các vị Đại học sĩ Ba-la-môn, trưởng giả, cư sĩ, các vị đại thần và nhân dân đă biết Tôn giả Ca-diếp là đệ tử của Đức Phật nên cùng bàn với nhau:

-Thật là hay thay! Đức Như Lai có sức thần lớn lao, trí tuệ cao sâu không thể nghĩ bàn nên mới có thể điều phục ba anh em Ngài Ca-diếp theo làm đệ tử.

Trong chúng hội cũng có vài người nghi ngờ, thầm nghĩ: "Ngài Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp là người có đại trí tuệ, mọi người đều tin phục đi theo, sao lại là đệ tử của Sa-môn Cù-đàm được?"

Đức Thế Tôn biết được những ư nghĩ ấy liền bảo Ca-diếp:

-Nay ông nên hiển bày sức thần biến.

Ca-diếp vâng lời liền bay lên không trung, trên thân hiện ra nước, dưới thân hiện ra lửa, hoặc trên thân hiện ra lửa, dưới thân hiện ra nước, hoặc hiện thân lớn đầy khắp không trung rồi biến ra nhỏ, hoặc từ một thân biến thành vô số thân, hoặc chui vào đất rồi vọt lên, hoặc đi đứng nằm ngồi trong không trung. Mọi người chứng kiến khen là điều chưa từng có và đều tôn Ca-diếp là bậc Đại tiên đệ nhất. Ở trên không biến hiện thần thông xong, Ca-diếp trở lại mặt đất, đến trước Đức Phật đảnh lễ sát đất và thưa:

-Thế Tôn chính là Bậc Thầy của cả trời người. Con nay chính là đệ tử của Thế Tôn.

Ca-diếp nói ba lần như thế Phật đáp:

-Đúng thế! Đúng thế! Ca-diếp, ông thấy trong pháp Ta có được lợi lạc ǵ mà bỏ hết những đồ thờ lửa để xuất gia?

Ca-diếp liền dùng lời kệ đáp:

Con ở trong đời trước

Nhờ công đức thờ lửa

Được sinh cơi trời người

Thọ hưởng vui năm dục

Cứ thế măi luân hồi

Ch́m trong biển sinh tử

Con thấy tai họa đó

Nên để dược ĺa khổ

Nương phước báo thờ lửa

Cầu sinh cơi trời người

Chỉ thêm tham, sân, si

Cho nên con xa lánh

Lại theo phước thờ lửa

Cầu sinh trong tương lai

Nhưng đă có sinh rồi

Ắt có già bệnh chết

Con đă thấy điều ấy

Nên bỏ đạo thờ lửa

Bố thí, tu khổ hạnh

Và phước báo thờ lửa

Dù được sinh Phạm thiên

Nhưng không phải rốt ráo

Do v́ nhân duyên ấy

Cho nên bỏ thờ lửa

Con thấy pháp Như Lai

Ĺa sinh, lăo, bệnh, tử

Đạo giải thoát hoàn toàn

Do đó nay xuất gia

Như Lai, Đấng Giải Thoát

Là Bậc Thầy trời người

V́ nhân duyên như thế

Nên nương theo Thế Tôn

Như Lai đại Từ bi

Hiện vô số phương tiện

Và các sức thần thông

Để dẫn con vào đạo

Sao lại c̣n bằng ḷng

Đi theo đạo thờ lửa.

Lúc bấy giờ vua Tần-tỳ-sa-la cùng mọi người nghe lời kệ của Ca-diếp vô cùng vui mừng, càng sinh ḷng cung kính, tin tưởng tuyệt đối với Đức Phật, hiểu rơ Như Lai là Bậc Nhất Thiết Chủng Trí, và đều biết Ca-diếp là đệ tử của Phật. Lúc ấy trong không trung, chư Thiên rải các thứ hoa trời, tấu các thứ nhạc êm dịu và cùng xướng:

-Lành thay Tôn giả Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp đă khéo nói lời kệ ấy.

Đức Thế Tôn biết mọi người đă tin tưởng chắc chắn không c̣n nghi ngờ, lại xem thấy căn tính của họ đều đă thuần thục nên v́ họ mà thuyết giảng:

-Đại vương nên biết thân năm ấm này lấy thức là căn bản, do thức sinh ư căn, từ ư căn sinh ra sắc, mà sắc th́ sinh diệt không bền. Nếu đại vương quán sát được như thế th́ có thể biết rơ thân này là vô thường, quán thân là vô thường nên không chấp thủ thân tướng và do vậy có thể ĺa được chấp ngă và ngă sở. Nếu đại vương có thể quán sắc là vô thường th́ cũng có thể xa rời mọi ư niệm về ngă và ngă sở, tức là hiểu rơ khi sắc sinh th́ khổ sinh, sắc diệt th́ khổ diệt. Nếu người nào quán niệm được như thế th́ gọi là Giải (cởi mở, tự tại, thoát ly...). Nếu ai không quán niệm như thế th́ gọi là Phược (trói buộc). Thực tính của các pháp vốn vô ngă và vô ngă sở. Chúng sinh do vọng tưởng điên đảo nên chấp có ngă và ngă sở, đó không phải là pháp chân thật. Nếu có thể đoạn trừ vọng tưởng mê lầm, điên đảo th́ được giải thoát.

Lúc ấy vua Tần-tỳ-sa-la suy nghĩ: "Nếu bảo chúng sinh chấp có ngă là bị trói buộc, vậy nếu tất cả chúng sinh đều vô ngă th́ ai sẽ thọ quả báo?" Đức Thế Tôn biết những thắc mắc trong ḷng vua liền nói:

-Tất cả những việc thiện ác mà chúng sinh làm cũng như những quả báo mà chúng sinh thọ nhận đều không phải do ngă tạo ra, cũng không phải ngă thọ nhận, nhưng trong hiện tại lại thấy có tạo ra thiện ác và có thọ quả báo. Đại vương nên lắng nghe thật kỹ, Ta sẽ v́ đại vương mà giảng rơ. Chỉ v́ căn, trần, thức hợp với nhau khởi sinh nhiễm cảnh, tích lũy những ư tưởng ngày càng nhiều, chính do đó mà chúng sinh măi chạy theo ḍng sinh tử, chịu mọi quả báo khổ đau. Nếu không nhiễm cảnh, dừng lại những tâm tưởng ràng buộc th́ được giải thoát. Do căn, trần, thức ba nhân duyên ấy hợp lại mà có thiện ác và thọ quả báo, bản chất của chúng là không có ngă riêng (tính chủ thể, độc lập, riêng biệt). Thí như dùi cây để lấy lửa, do tay xoay miếng gỗ mà có lửa nhưng tính của lửa không phải từ tay hay từ gỗ mà có, cũng không ĺa tay và mảnh gỗ mà có. Căn, trần, thức cũng như thế.

Khi ấy vua Tần-tỳ-sa-la lại nghĩ: "Nếu do căn, trần, thức ḥa hợp mà có thiện ác cũng như có thọ quả báo th́ chúng phải thường hợp lại với nhau, không thể xa rời nhau. Nếu chúng không thường hợp lại với nhau th́ sẽ bị đoạn diệt". Thế Tôn biết ư nghĩ ấy của vua nên giảng tiếp:

-Căn, trần, thức ấy không thường c̣n, cũng không đoạn diệt. V́ sao? V́ chúng ḥa hợp với nhau nên không đoạn diệt, v́ chúng có đặc tính riêng nên không thường c̣n. Ví như hạt giống là do nhân, do có duyên của đất, nước nên mầm lá mới sinh ra. Hạt giống sẽ mục nát nên không gọi là thường, nhưng do hạt giống có đặc tính sinh trưởng thành mầm lá nên không thể gọi là đoạn. Ĺa cả khái niệm thường và đoạn được gọi là Trung đạo. Căn, trần, thức cũng như vậy.

Vua nghe xong bài pháp, tâm ư khai mở, tỉnh ngộ, nhờ đó xa ĺa mọi trần cấu, đắc pháp nhăn thanh tịnh. Tám vạn na-do-tha Bà-la-môn, đại thần và nhân dân cũng nhờ nghe pháp mà được xa ĺa trần câu, đắc pháp nhăn thanh tịnh. Chín mươi sáu vạn na-do-tha chư Thiên cũng nhờ nghe pháp mà xa ĺa trần cấu, đắc pháp nhăn thanh tịnh. Vua Tần-tỳ-sa-la từ chỗ ngồi đứng dậy cung kính lễ xuống chân Phật rồi chắp tay thưa:

-Vui sướng thay! Đức Thế Tôn đă ĺa bỏ ngôi Chuyển luân thánh vương xuất gia học đạo, thành Bậc Nhất Thiết Chủng Trí. Trước kia con đă ngu si muốn giữ Thế Tôn lại để cai trị một nước nhỏ. Nay được diện kiến Đức Đại Từ, lại được nghe chánh pháp nên rất hổ thẹn về lỗi đă qua, kính xin Thế Tôn mở ḷng từ bi nhận cho con sám hố́. Ngày trước con có nguyện xin nếu Phật đắc đạo th́ độ con trước, nay ước nguyện đă thành tựu, nhờ ân Thế Tôn mà con đă thấy được chân lư. Từ nay con nguyện cúng dường đầy đủ tứ sự cho Thế Tôn và chư Tăng, không để thiếu thốn, cúi mong Đức Thế Tôn ở lại vườn Trúc để nước Ma-kiệt-đề măi măi an vui.

Phật đáp:

-Quư hóa thay! Đại vương có thể xa rời pháp tam bất kiên để cầu quả tam kiên, Ta nay chấp thuận để vua được tṛn đầy tâm nguyện.

Vua Tần-tỳ-sa-la biết Phật đă chấp thuận lời thỉnh của ḿnh đến ở trong vườn Trúc nên cung kính lễ xuống chân Phật, từ tạ ra về. Về đến cung, vua lập tức ra lệnh cho quan quân khởi công xây cất pḥng xá trong vườn Trúc, trang trí vô cùng trang nghiêm, đẹp đẽ, treo phướn lọng bằng gấm, cắm hoa đốt hương. Sau khi đă hoàn thành, vua liền cho chuẩn bị xa giá đi đến chỗ Phật đảnh lễ, thưa:

-Pḥng xá nơi vườn Trúc đă xây cất xong, cúi mong Thế Tôn và chư Tỳ-kheo Tăng thương xót đến đó trụ.

Lúc đó Thế Tôn, chư Tỳ-kheo và vô số chư Thiên tháp tùng vây quanh cùng đi vào thành Vương xá. Ngay khi Như Lai bước vào cổng thành, những nhạc khí trong thành tự nhiên tấu lên, cửa hẹp bỗng hóa rộng, cửa thấp bỗng cao lên, tất cả những g̣ đống đều trở nên bằng phẳng, những nơi dơ bẩn đều được sạch thơm, người điếc bỗng nghe được, người câm lại nói được, người mù nh́n thấy được, người điên dại trở nên tỉnh táo, những kẻ tật nguyền ốm đau bỗng lành lặn, khỏe mạnh, cây khô ra hoa, cây cỏ héo úa bỗng xanh tươi, ao cạn bỗng ngập nước vỗ sóng tràn bờ, gió thơm thổi đến, các loài chim quư lạ như Phượng hoàng, Khổng tước, Phỉ thúy, Oan ương... đều bay về tụ tập, hót lên những âm thanh êm ái. Tất cả điều lành đều như hội tụ nơi thành Vương xá. Sau khi vào thành, Đức Phật cùng vua Tần-tỳ-sa-la đến vườn Trúc. Lúc ấy chư Thiên vân tập đầy khắp trên không, đức vua tay nâng một chiếc b́nh quư chứa đầy nước thơm đến trước Như Lai thưa:

-Nay con xin hiến cúng vườn Trúc này cho Như Lai và chư Tỳ-kheo Tăng. Xin Thế Tôn thương xót nhận cho.

Nói xong, vua lấy nước trong b́nh rưới lên đất. Lúc đó Đức Phật yên lặng chấp nhận, nói kệ chú nguyện:

Người nào siêng bố thí

Sẽ trừ được tâm tham

Người nào thường nhẫn nhục

Sẽ măi ĺa giận dữ

Nếu ai luôn làm lành

Ngu si sẽ xa lánh

Có đủ được ba hạnh

Mau đạt được Niết-bàn

Nếu có người nghèo khổ

Không của để bố thí

Thấy người khác bố thí

Mà sinh tâm vui theo

Phước báu người tùy hỷ

Cũng bằng người bố thí.

Chúng hội Bà-la-môn, các quan đại thần cùng dân chúng thấy vua phụng cúng tinh xá cho Đức Phật đều hớn hở sinh niệm hoan hỷ theo vua. Sau khi cúng dường tinh xá cho Đức Phật và chư Tăng xong, vua Tần-tỳ-sa-la vô cùng vui sướng, cung kính lễ xuống chân Phật rồi trở về cung. Trong các vị quốc vương ở cơi Diêm-phù-đề từng được diện kiến Đức Phật, vua Tần-tỳ-sa-la là đứng đầu; trong tất cả các ngôi tinh xá th́ Trúc viên là ngôi tinh xá đầu tiên.

Vào lúc Đức Phật và chư Tăng ngự tại vườn Trúc, có hai vị Bà-la-môn ở trong thành Vương xá, là người thông minh, linh lợi có trí tuệ lớn, thông đạt tất cả các Luận thư, tài tranh biện không ai qua được. Một người họ Câu-lật tên Ưu-bà-thất-sa, do có người mẹ tên là Xá-lợi nên mọi người thường gọi ông là Xá-lợi-phất, người thứ hai họ Mục-kiền-liên tên là Mục-kiền-la-dạ-na. Mỗi người có một trăm đệ tử đều được dân chúng trong nước kính trọng, ngưỡng mộ. Hai người kết bạn, rất thân yêu và kính trọng nhau, đă giao ước với nhau nếu ai gặp được pháp môn kỳ diệu trước th́ phải khai ngộ cho nhau, không được giấu diếm.

Một hôm, Tỳ-kheo A-xả-bà-kỳ khoác y ôm bát vào làng khất thực. Vị Tỳ-kheo khéo giữ các căn, oai nghi nghiêm chỉnh, người đi đường trông thấy ai cũng cung kính. Lúc ấy trên đường đi, Xá-lợi-phất bỗng thấy oai nghi Phạm tướng của Tỳ-kheo A-xả-bà-kỳ. Do thiện căn đă tṛn đủ nên vừa gặp vị Tỳ-kheo, ḷng Xá-lợi-phất đột nhiên vui mừng vô hạn, toàn thân rung động, đứng lại chăm chú nh́n, và vội hỏi:

-Theo ư tôi th́ thầy chắc là mới xuất gia nhưng sao đă thu nhiếp được các căn nên tôi muốn hỏi, xin thầy cho biết Bổn sư của thầy là ai? Có những lời dạy nào? Thường nói những pháp ǵ?

A-xả-bà-kỳ nghiêm trang đáp:

-Thầy tôi là Bậc đă đạt Nhất thiết chủng trí, thuộc ḍng họ Cam Giá, là Thầy của cả trời người, có tướng tốt, trí tuệ và thần thông không ai b́ kịp. Tôi tuổi c̣n nhỏ, học đạo c̣n nông cạn đâu dám tuyên nói diệu pháp của Như Lai, nhưng theo chỗ tôi hiểu, xin nói lại cho ông.

Vị Tỳ-kheo liền nói kệ:

Cội nguồn tất cả pháp Nhân duyên sinh, vô chủ Nếu rơ được điều đó

Sẽ đạt đạo chân thật.

Vừa nghe xong bài kệ của Tỳ-kheo A-xả-bà-kỳ, Xá-lợi-phất lập tức xa ĺa mọi trần cấu, đắc pháp nhăn thanh tịnh, thấy được chân lư, nội tâm vô cùng phấn chấn, các căn trong thân rung động, vui sướng tột độ, tự nghĩ: "Tất cả chúng sinh đều do chấp ngă nên bị luân hồi trong ṿng sinh tử, nếu trừ được ngă tưởng th́ ngă sở tưởng cũng sẽ không c̣n, giống như ánh sáng mặt trời có thể phá tan mọi bóng tối, tâm vô ngă cũng như thế, có thể phá tan hoàn toàn mọi ngăn che của ngă kiến. Những ǵ ta tu học từ trước đến nay đều là tà kiến, điều ta sở đắc hôm nay mới thật là đạo lư chân thật". Nghĩ thế xong, Xá-lợi-phất liền lễ xuống chân A-xả-bà-kỳ, trở về nơi cư trú. Tỳ-kheo A-xả-bà-kỳ tiếp tục đi khất thực xong liền quay về vườn Trúc.

Khi Xá-lợi-phất về đến chỗ ở, Mục-kiền-liên do thiện căn đă đầy đủ, vừa nh́n thấy Xá-lợi-phất các căn yên tịnh, oai nghi trang nghiêm, khuôn mặt có vẻ vui mừng khác với ngày thường, liền hỏi:

-Tôi xem anh hôm nay mọi dáng vẻ đều khác với ngày thường, phải chăng đă nghe được pháp cam lộ vi diệu? Trước đây, chúng ta đă giao ước với nhau, hễ người nào nghe được pháp vi diệu th́ phải khai ngộ cho người kia, nay anh nghe được pháp ǵ hăy đọc lại cho tôi nghe với.

Xá-lợi-phất đáp:

-Đúng là hôm nay tôi đă được nghe pháp cam lộ.

Mục-kiền-la-dạ-na nghe nói, ḷng mừng vui tột độ liền cất lời khen:

-Hay thay! Hăy nói cho tôi nghe với.

Xá-lợi-phất thuật lại:

-Hôm nay trên đường tôi gặp một vị Tỳ-kheo khoác y ôm bát vào làng khất khực. Vị ấy các căn vắng lặng an tỉnh, dáng vẻ nghiêm trang, tôi vừa gặp đă sinh ḷng cung kính liền đến gần hỏi theo chỗ tôi thấy th́ vị ấy dường như mới xuất gia mà sao đă thu nhiếp được các căn như thế, và tôi đă hỏi Bổn sư của vị ấy là ai? Đă dạy những pháp ǵ? Lúc đó vị Tỳ-kheo A-xả-bà-kỳ ấy đă ung dung trả lời tôi:

-Thầy tôi đă đạt Nhất thiết chủng trí, thuộc ḍng họ Cam Giá, là Thầy cả trời người, tướng tốt, trí tuệ và thần thông không ai sánh bằng. Tuổi tôi c̣n trẻ, học đạo c̣n cạn, đâu có thể nói hết diệu pháp của Thầy nhưng theo chỗ tôi hiểu xin nói cho ông nghe" rồi vị ấy nói kệ:

Cội nguồn tất cả pháp Nhân duyên sinh, vô chủ Nếu hiểu rơ điều đó sẽ đạt đạo chân thật.

Mục-kiền-la-dạ-na vừa nghe xong những lời ấy của Xá-lợi-phất cũng lập tức ĺa được mọi trần cấu, đắc pháp nhăn thanh tịnh. Sau khi đắc pháp hai người bàn với nhau:

-Hai chúng ta đều nhờ pháp Phật mà được lợi ích lớn, nay nên cùng nhau đến chỗ Phật xin xuất gia.

Bàn tính xong, mỗi người đều gọi các đệ tử của ḿnh đến bảo:

-Ta nay đă được vị cam lộ của Phật pháp, chỉ có giáo pháp đó mới là con đường xuất thế. Nay ta muốn đến xin Phật xuất gia, ư các người thế nào?

Các đệ tử thưa:

-Nhờ thầy mà chúng con có tri kiến, nay thầy xuất gia, chúng con cũng nguyện xin đi theo.

Khi ấy hai người và hai trăm đệ tử cùng nhau thẳng đến vườn Trúc. Vừa bước vào cửa, thấy thân tướng Như Lai vô vàn tốt đẹp, trang nghiêm, chúng Tỳ-kheo trước sau vây quanh, ḷng hai người rất vui mừng, toàn thân phấn chấn. Đức Thế Tôn thấy Xá-lợi-phất và Mục-kiền-la-dạ-na cùng các đệ tử đến liền nói với các Tỳ-kheo:

-Các thầy nên biết, hai vị kia đưa các đệ tử đến nơi này để xin xuất gia. Một vị tên là Xá-lợi-phất, một vị tên là Mục-kiền-la-dạ-na, họ sẽ là đệ tử hàng đầu trong pháp của Ta. Xá-lợi-phất là vị đứng đầu về Trí tuệ, Mục-kiền-la-dạ-na là vị đứng đầu về Thần thông.

Sau khi đến trước Phật, hai người liền cúi đầu sát đất lạy Đức Phật và thưa:

-Chúng con đă thấy được chân lư trong giáo pháp của Phật nên ham muốn xuất gia. Cúi xin Thế Tôn chấp thuận.

Đức Thế Tôn nói lớn:

-Thiện lai Tỳ-kheo!

Râu tóc của hai người tự rụng, khoác y cà-sa, trở thành Sa-môn. Lúc đó hai trăm người đệ tử thấy thầy ḿnh đă thành Sa-môn bèn thưa với Phật:

-Chúng con cũng muốn xuất gia theo thầy, xin Đức Thế Tôn thương xót chấp nhận.

Đức Thế Tôn lại xướng:

-Thiện lai Tỳ-kheo!

Râu tóc họ cũng tự rụng, vận y cà-sa, thành Sa-môn. Lúc ấy Đức Phật bèn giảng dạy chi tiết pháp Tứ đế cho Xá-lợi-phất và Mục-kiền-la-dạ-na. Sau thời pháp, cả hai vị ấy đều đắc quả A-la-hán. Phật cũng giảng pháp Tứ đế cho hai trăm vị tân Tỳ-kheo khiến họ ĺa được trần câu, đắc pháp nhăn tịnh rồi tu tập dần dần đều đạt quả A-la-hán. Thuở ấy Đức Thế Tôn và một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo đều là bậc Đại A-la-hán ở nước Ma-kiệt-đề đem lại lợi ích lớn cho chúng sinh. Trong chúng Tỳ-kheo có nhiều vị mang tên Mục-kiền-la-dạ-na nên Thế Tôn đă đổi tên của Tôn giả Mục-kiền-la-dạ-na thành Đại Mục-kiền-la-dạ-na.

Bấy giờ tại nước Thâu-la-quyết-xoa có một vị Bà-la-môn tên là Ca-diếp có ba mươi hai tướng tốt, thông minh trí tuệ, thường tụng đọc bốn bộ kinh Vệ-đà, hầu hết kinh luận Bà-la-môn không kinh nào không thông suốt. Nhà vị ấy lại rất giàu, thường hay bố thí, người vợ rất đoan chính, cả nước không ai bằng. Hai vợ chồng tự nhiên không có ư dục, đêm không ngủ cùng pḥng. Do đă nhiều đời luôn trồng thiện căn nên vị ấy không vui thích với đời sống gia đ́nh hưởng thụ thú vui năm dục, ngày đêm luôn luôn suy nghĩ muôn ĺa bỏ đời sống thế tục, hết ḷng cầu t́m phương pháp xuất gia. Suy tầm măi không được, vị ấy liền bỏ hết việc nhà đi vào rừng, tâm nghĩ miệng nói:

-Chư Phật Như Lai đă xuất gia tu hành, nay ta cũng theo Phật xuất gia.

Vị ấy liền cởi bỏ hết y phục bằng gấm lụa trị giá ngàn lượng vàng mà tự cạo bỏ râu tóc, mặc y bá nạp hoại sắc.

Bấy giờ trong không trung, chư Thiên thấy Ca-diếp đă tự xuất gia liền nói:

-Này thiện nam tử, con vua Bạch Tịnh thuộc ḍng họ Cam Giá tên là Tát-bà Tất-đạt xuất gia tu tập đă thành Bậc Nhất Thiết Chủng Trí. Cả thế gian tôn xưng Ngài là Thích-ca Mâu-ni Phật cùng với một ngàn hai trăm năm mươi vị A-la-hán hiện đang ở tại vườn Trúc thuộc thành Vương xá.

Ca-diếp vừa nghe lời chư Thiên nói xong, ḷng vui mừng phấn chấn, toàn thân nổi gai, vội vàng đi đến tinh xá Trúc viên. Lúc đó Đức Thế Tôn biết Ca-diếp đang tới nên suy nghĩ: "Vị ấy vốn có căn lành, Ta nên đến độ cho ông ta". Nghĩ xong, Thế Tôn liền đi ngược đường về xứ Đâu-bà gặp Ca-diếp trên đường. Khi ấy Ca-diếp đang đi bỗng thấy một vị dáng tôn kính, có tướng tốt chói sáng, oai nghi đặc biệt liền chắp tay thưa:

-Thế Tôn đúng là Bậc Nhất Thiết Chủng Trí, đúng là Bậc Từ Bi, là Đấng cứu độ chúng sinh, là nơi để mọi người quy ngưỡng.

Nói xong Ca-diếp liền cúi năm vóc sát đất lạy xuống, đầu mặt trên chân Phật, thưa tiếp:

-Bạch Thế Tôn, nay Ngài là Thầy của con, con là đệ tử.

Ca-diếp lập lại ba lần như thế. Phật dạy:

-Đúng thế Ca-diếp, Ta là Thầy của ông, ông là đệ tử của Ta.

Phật lại nói:

-Này Ca-diếp, ông nên biết, nếu có người không phải là Bậc Nhất Thiết Chủng Trí mà muốn nhận ông làm đệ tử th́ đầu người ấy sẽ bể ra làm bảy phần.

Phật lại nói tiếp:

-Lành thay Ca-diếp! Vui thay Ca-diếp! Ông nên biết thân ngũ thọ ấm (ngũ thủ uẩn) là nơi tập hợp những nỗi khổ lớn.

Ca-diếp vừa nghe xong lập tức ngộ được chân lư, suy tư và chứng quả A-la-hán. Khi ấy Thế Tôn và Ca-diếp trở về vườn Trúc. V́ Ca-diếp có uy đức lớn, có trí tuệ thông minh nên được tôn xưng là Đại Ca-diếp.

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

-Khi Đức Phật Phổ Quang ra đời th́ Tiên nhân Thiện Tuệ đâu phải ai khác mà chính là tiền thân của Ta. Trên đường đi gặp năm trăm ngoại đạo rồi cùng nhau bàn luận mà tùy hỷ, nay chính là anh em Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp cùng các quyến thuộc của ông hiện đang có mặt trong đại chúng đây. Người con gái bán hoa chính là Da-du-đà-la. Khi Tiên nhân Thiện Tuệ rải tóc trên đất để Phật đi qua, có hai người quét đất và hai trăm người cùng vui vẻ làm theo chính là Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-la-dạ-na cùng với hai trăm đệ tử Tỳ-kheo hiện ở trong chúng pháp này. Chư Thiên trong hư không lúc ấy thấy Tiên nhân Thiện Tuệ dùng tóc trải lên đất để Phật đi qua đều tùy hỷ khen ngợi chính là tám vạn vị Thiên vương, tám vạn na-do-tha vị quyến thuộc của vua Tần-tỳ-sa-la, và chín mươi sáu vạn na-do-tha Thiên tử có mặt khi Ta lần đầu tiên sau khi thành đạo, Chuyển pháp luân tại vườn Lộc dă.

Các ông phải biết, gây nhân trong quá khứ trải qua vô lượng kiếp, cuối cùng vẫn không mất. Ta trong quá khứ, nhiều kiếp tinh cần tu tập tất cả nghiệp lành và phát nguyện lớn, do tâm không hề thoái chuyển nên nay mới thành tựu Nhất thiết chủng trí. Vậy các ông cần phải siêng năng tu tập đạo hạnh, không nên biếng lười.

Lúc ấy các vị Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy đều hoan hỷ nhận lănh rồi đảnh lễ lui ra.

  Quyển 1    Quyển 2    Quyển 3    Quyển 4
 
 

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0