佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

Số 1585  Trọn bộ 10 Quyển

Quyển 1  Quyển 2  Quyển 3  Quyển 4  Quyển 5  Quyển 6  Quyển 7  Quyển 8  Quyển 9  Quyển 10

Thành Duy Thức Luận

Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Ḥa Thượng Thích Thiện Siêu
  Mùa An cư P.L. 2539 – 1995

-o0o-

QUYỂN 5

X. THỨC BIẾN HIỆN THỨ HAI 
(tiếp theo)

Nhiễm ô ư (thức Mạt na) này tương ưng với thọ nào?

Có ba thuyết:

1. Có người cho rằng nó chỉ tương ưng với hỷ thọ; v́ nó hằng âm thầm chấp ngă bên trong sanh ưa thích.

2. Có người bảo không phải vậy; v́ nếu phải chấp nhận hỷ thọ cho đến cơi trời Hữu Đảnh vẫn có tương ưng với Mạt na, là trái ư với lời Thánh (Thánh giáo nói thức Mạt na có ở ba cơi mà hỷ thọ th́ chỉ có ỏ ngang Nhị Thiền). Nên nói Mạt na này tương ưng với bốn thọ. Nghĩa là khi sanh cơi ác th́ nó tương ưng với ưu thọ, v́ duyên quả báo khổ do nghiệp bất thiện dẫn sanh. Khi sanh ở cơi người, cơi trời Dục giới, Sơ Thiền, Nhị Thiền th́ tương ưng vói hỷ thọ, v́ duyên với cơi có hỷ là quả báo của thiện nghiệp. Khi sanh ở Tam Thiền th́ tương ưng với lạc thọ, v́ duyên với cơi có lạc, là quả báo của thiện nghiệp. Khi sanh ở Tứ Thiền cho đến cơi Hữu Đảnh th́ tương ưng với xả thọ, v́ duyên với cơi chỉ có xả là quả báo của thiện nghiệp.

3. Có người cho thuyết trên không đúng; v́ Mạt na từ vô thỉ lại, nhậm vận một loại duyên Tạng thức bên trong mà chấp ngă, hằng không chuyển dịch, nên không tương ưng với các thọ biến dị kia. (Khổ, lạc thọ cứ thay đổi gọi là thọ biến dị). Lại Mạt na này nếu với Tạng thức có nghĩa ǵ khác th́ luận đều đă có nói riêng, vậy nếu nó tương ưng với bốn thọ th́ luận cũng nên nói riêng. Nay luận đă không nói riêng, th́ quyết định Mạt na đồng với Tạng thức chỉ tương ưng với xả thọ. Cho nên biết tương ưng với Mạt na chỉ có xả thọ.

- Khi ở địa vị chưa chuyển y th́ nó tương ưng với Tâm sở như trên kia đă nói, c̣n khi ở địa vị đă chuyển y th́ nó chỉ có 21 Tâm sở cùng với nó khởi lên, đó là năm Biến hành, năm Biệt cảnh và 11 thiện, và giống như đệ bát thức khi ở địa vị chuyển y th́ chỉ có xả thọ cùng khởi, v́ Mạt na nhậm vận sanh khởi và thường khởi tánh b́nh đẳng đối với cảnh sở duyên.

- Mạt na và Tâm sở của nó nhiếp thuộc về tánh ǵ?

- nhiếp vào tánh hữu phú vô kư. V́ Mạt na tương ưng với bốn phiền năo là pháp ô nhiễm, hay làm chướng ngại Thánh đạo, che lấp tự tâm, nên gọi là hữu phú; và v́ nó không phải thiện hay bất thiện, nên gọi là vô kư. Giống như các phiền năo ở hai cơi Sắc và Vô sắc bị định lực nhiếp phục ẩn tàng (không khởi hiện hành) nên nhiếp thuộc vào tánh vô kư, và những nhiễm pháp hiện hành tương ưng với thức Mạt na do Mạt na là chỗ nương của nó rất vi tế, nhậm vận sanh khởi (câu sanh) nên nó cũng thuộc vô kư như Mạt na. Nếu khi nó đă chuyển y, th́ chỉ có thiện tánh.

- Mạt na và Tâm sở của nó hệ thuộc vào địa nào trong chín địa?

- Tùy đệ bát thức sanh ở địa nào th́ nó hệ thuộc ở địa ấy, như đệ bát thức sanh cơi Dục (Sơ địa) th́ hiện hành Mạt na và Tâm sở tương ưng với nó hệ thuộc vào cơi Dục, cho đến khi đệ bát thức sanh cơi Hữu Đảnh, nên biết cũng thế. V́ Mạt na nhậm vận hằng duyên Tạng thức ở tự địa (chính nơi hiện sanh đến) mà chấp Tạng thức đó làm nội ngă, chứ không duyên Tạng thức ở tha địa (nơi địa khác) mà chấp làm nội ngă, nếu khởi Dị thục Tạng thức sanh vào tha địa, khi Dị thục Tạng thức đó hiện tiền ở địa kia, th́ gọi là sanh ở địa kia. Nhiễm ô Mạt na cũng duyên Tạng thức ở địa kia mà chấp ngă, tức hệ thuộc ở địa kia, đó gọi là "Bỉ sở hệ"; hoặc bị hệ thuộc theo các phiền năo ở địa kia, nên cũng gọi là "Bỉ sở hệ". Nếu đă chuyển y, tức không c̣n hệ thuộc.(28)

- Mạt na nhiễm ô này tương tục từ vô thỉ, đến địa vị nào th́ dứt hẳn? hoặc tạm dứt?

- Ở địa vị A la hán , Diệt tận định và Xuất thế đạo th́ nó không có.

A la hán đây chỉ cho quả vị Vô học trong Tam thừa. Ở địa vị này cả chủng tử lẫn hiện hành nhiễm ô ư đều dứt hẳn, cho nên nói 'không có". Hoặc ở trong địa vị Hữu học, khi nhập Diệt định và xuất thế đạo (khi quán vô ngă) đều có thể tạm thời đè bẹp và đoạn diệt nhiễm ô ư, cho nên cũng nói "không có". Nghĩa là nhiễm ô ư từ vô thỉ lại, vi tế, một loại nhậm vận sanh khởi (câu sanh) dùng các hữu lậu đạo (không quán sát vô ngă) không thể đè bẹp và đoạn dứt, phải nhờ Thánh đạo (quán hai không) của Ba thừa mới có  khả năng đè bẹp và đoạn dứt.

Trí căn bản liễu giải về chơn vô ngă (xuất thế vô lậu đạo) là trái nghịch với ngă chấp. Tiếp đó trí đẳng lưu của trí chơn vô ngă kia là hậu đắc trí vô lậu, khi nó hiện tiền, cũng làm trái nghịch Mạt na nhiễm ô ư. - Cả trí chơn vô ngă và trí hậu đắc đều là vô lậu,nên gọi là xuất thế đạo.

Lại, Diệt định đă là đẳng lưu của Thánh đạo (do vô lậu hậu đắc trí mà nhập Định diệt tận), nó rất tịch tịnh nên ở Diệt định cũng tạm không có nhiễm ô ư, song v́ chưa dứt hẳn chủng tử cho nên khi ra khỏi Diệt định và xuất thế đạo th́ nó lại hiện hành, cho đến khi chưa thể dứt sạch.

Nhưng loại phiền năo tương ưng vơi nhiễm ô ư này là loại phiền năo câu sanh, chẳng phải do kiến đạo đoạn trừ. V́ nó là nhiễm ô, nên cũng chẳng phải thuộc về phi sở đoạn. Phiền năo này rất vi tế nên bao nhiêu chủng tử của nó cùng với phiền năo hạ hạ phẩm (chỉ phẩm 81 Tư hoặc) của cơi Hữu Đảnh), khi đoạn th́ đồng lúc chóng đoạn. V́ thế lực nó ngang nhau, phải khi Kim Cang dụ định hiện tiền th́ mới chóng đoạn chủng tử này mà thành A la hán; cho nên ở địa vị Vô học, vĩnh viễn không c̣n khởi nhiễm Vô ư.

Nếu hàng Vô học Nhị thừa hồi hướng theo Đại thừa, từ khi sơ phát tâm Bồ đề cho đến lúc chưa thành Phật, tuy họ thật là Bồ tát đó nhưng cũng gọi là A la hán. V́ ba nghĩa: Ứng cúng, Vô sanh, Sát tặc bằng nhau như A la hán, nên không nói riêng.

- Trong đây có người cho rằng Mạt na chỉ có phiền năo chướng, v́ Thánh giáo đều nói ở ba địa vị là A la hán, Diệt định và Xuất thế đạo không c̣n có Mạt na (v́ không c̣n phiền năo chướng); lại v́ nói bốn hoặc thường tương ưng và v́ Mạt na là chỗ nương tạp nhiễm cho thức thứ sáu.

- Có người cho thuyết trên trái với giáo lư, v́ kinh nói nơi địa vị xuất thế có Mạt na (có tịnh Mạt na hằng tư lương lư vô ngă). V́ ư thức không khi không ô nhiễm cũng giống như khi có ô nhiễm, đều phải có chỗ nương câu sanh riêng (là Mạt na) mới được.

Luận nói: "Tạng thức quyết định hằng cùng một thức cùng khởi", đó là thức Mạt na; c̣n khi ư thức khởi lên có Tạng thức với hai thức cùng khởi, đó là Ư thức và Mạt na. Nếu khi một thức trong năm thức khởi lên, thời có Tạng thức với ba thức cùng khởi, đó là một trong năm thức, cùng với Ư thức và Mạt na. Cho đến cả năm thức đồng khởi  lên thời có Tạng thức với bảy thức cùng khởi, đó là năm thức cùng Ư thức và Mạt na. Nếu ở trong Diệt định không có thức thứ bảy, th́ bấy giờ Tạng thức chỉ khởi một ḿnh, không có thức khác cùng khởi, liền không phải luôn luôn quyết định Tạng thức có một thức cùng khởi như luận vừa nói. Khi ở địa vị Thánh đạo (Ư thức quán vô lậu) nếu không có Mạt na th́ bấy giờ Tạng thức chỉ cùng khởi với một thức thứ sáu. Thế làm sao luận có thể nói nếu khi Ư thức khởi lên th́ bấy giờ Tạng thức quyết định có hai thức cùng khởi là Ư thức và Mạt na thức.

Luận Hiển Dương nói: "Mạt na hằng cùng tương ưng với bốn phiền năo (là ở địa vị ô nhiễm) hoặc lật ngược hạnh ỷ thị cao cử tương ưng với Mạt na th́ thành hạnh b́nh đẳng (ở địa vị thanh tịnh)". Cho nên biết Mạt na có mặt xuyên suốt cả nhiễm và không nhiễm. Nếu do luận này nói: "Ở địa vị A la hán không có nhiễm ô ư" mà bảo không có luôn cả thức thứ bảy, th́ cũng nên do Luận này nói: " Ở địa vị A la hán xả bỏ A lại da là xả bỏ luôn cả thức thứ tám". Nhưng đây đă không thể có việc A lại da là bỏ luôn thức thứ tám, như vậy kia làm sao lại có việc bỏ nhiễm ô ư là bỏ luôn thức thứ bảy?

Lại các luận nói: "Chuyển thức thứ bảy được trí b́nh đẳng". Trí này cũng như các trí: "Thành sở tác, Diệu quan sát, Đại viên cảnh, chắc chắn phải có tịnh thức tương ưng để làm chỗ nương cho nó (thức thứ bảy) nếu thức thứ bảy không có th́ trí b́nh đẳng kia cũng không. V́ không thể ĺa thức thứ bảy sở y mà có trí b́nh đẳng năng y vậy. Không thể nói rằng trí b́nh đẳng y chỉ nơi sáu chuyển thức, v́ luận chấp nhận trí b́nh đẳng tánh hằng hành của chư Phật cũng như trí viên cảnh không gián đoạn.

Lại ở địa vị Vô học, nếu không có thức thứ bảy, th́ thức thứ tám kia không có Câu hữu y. Nhưng thức thứ tám có Câu hữu y này như các thức khác.

Lại như khi chưa chứng Bố đặc già la vô ngă th́ ngă chấp kia vẫn thường hằng hiện hành, vậy cũng nên khi chưa chứng pháp vô ngă th́ pháp ngă chấp kia vẫn hằng hành. Mạt na này nếu ở trong ba vị Vô học, chưa chứng nhân vô ngă, chưa chứng pháp vô ngă th́ không có, vậy ngă chấp và pháp chấp kia nương nơi thức nào mà có? Nó không thể nương đệ bát thức, v́ ở đệ bát thức không có Tuệ tâm sở (mà ngă, pháp chấp đă thuộc tuệ Tâm sở).

- Do đó hăy nên tin ở ba địa vị là Nhị thừa thánh đạo, Diệt định và Vô học, thức thứ bảy này vẫn hằng hành, v́ ở đó chưa chứng đắc pháp vô ngă.

Lại trong các luận, lấy năm đồng pháp (là năm thức đồng có năm căn làm chỗ nương th́ thức thứ sáu cũng đồng như năm thức phải có chỗ nương) mới sanh khởi được để chứng minh có thức thứ bảy làm chỗ nương cho thức thứ sáu. Lúc Thánh đạo khởi lên và ở địa vị Vô học, nếu không có thức thứ bảy thanh tịnh làm chỗ nương cho thức thứ sáu thanh tịnh, th́ lập tôn 

lập nhân đều bị lỗi. Hoặc có thể năm thức cũng không có chỗ nương, nhưng năm thức đă hằng có chỗ nương, th́ thức thứ sáu cũng phải thế.

Thế cho nên quyết định có Mạt na ư không nhiễm ô hằng khởi hiện tiền ở ba địa vị nói trên. C̣n bài tụng nói: Mạt na kia ở ba địa vị không có" là chỉ dựa nơi Mạt na nhiễm ô mà nói, v́ ở ba địa vị trên kia không c̣n Mạt na chấp ngă nữa. Cũng giống như nói ở bốn địa vị (ba Vô học vị của Ba thừa và Phật vị) không có thức A lại da, chứ không phải nói không có thức thứ tám.

- Mạt na này sai biệt có ba thứ:

1. Tương ưng với Ngă kiến Bố đặc già la.

2. Tương ưng với Pháp ngă kiến.

3. Tương ưng với B́nh đẳng tánh trí.

Thứ nhứt: Mạt na tương ưng Ngă kiến, nó tương tục ở trong tất cả loại Dị sanh, ở địa vị Nhị thừa Hữu học, ở một hạng Bồ tát đang c̣n ở địa vị Tâm hữu lậu từ Thất địa trở lại, ở các địa vị đó thức Mạt na thường duyên thức A lại da khởi lên ngă kiến Bố đặc già la (tức nhân ngă chấp).

Thứ hai: Mạt na tương ưng Pháp ngă kiến, nó tương tục trong tất cả loài Dị sanh, Thanh văn, Duyên giác, và một hạng Bồ tát c̣n ở địa vị mà trí của pháp không không hiện tiền (trí thành tựu được do quán pháp không. Khi trí này chưa hiện ra được, gọi là không hiện tiền). Ở các các địa vị này thức Mạt na thường duyên thức Dị thục mà khởi lên pháp chấp.

Thứ ba: Mạt na tương ưng B́nh đẳng tánh trí, nó tương tục trong tất cả Như Lai và Bồ tát ở địa vị Kiến đạo và Tu đạo có trí quả pháp không hiện tiền. Ở các địa vị này thức Mạt na thường duyên với thức Dị thục hoặc Vô cấu tịnh thức mà khởi lên trí B́nh đẳng tánh.

- Khi ở địa vị có Bố đặc già la Ngă kiến khởi lên th́ cũng có Pháp ngă kiến hiện tiền. V́ ngă chấp chắc chắn nương pháp chấp mà khởi. Như đang đêm v́ có lầm tưởng ác thú mới tưởng ra đó là người. Ngă kiến, Pháp kiến tuy tác dụng khác nhau nhưng không trái nhau, đồng nương môt Tuệ tâm sở. Ví như nhăn thức, thể tuy là một (dụ Tuệ tâm sở) nhưng có nhiều tác dụng thấy sắc xanh, vàng v.v... mà không trái nhau.

Nhị thừa Hữu học và khi có Thánh đạo hoặc Diệt định hiện tiền, Bồ tát đốn ngộ ở địa vị tu đạo và Bồ tát tiệm ngộ sau khi từ Nhị thừa Hữu học hồi tâm, nếu có được trí quả hiện tiền, do ngộ lư sanh không, th́ ở các địa vị này, chỉ khởi pháp chấp, v́ ở đây ngă chấp đă bị đè bẹp. Nhị thừa Vô học và hồi tâm tiệm ngộ Bồ tát, khi trí quả pháp không không hiện tiền, th́ cũng chỉ khởi lên pháp chấp, v́ ở đây ngă chấp đă dứt sạch.

Các Bồ tát từ Bát địa trở lên dù đốn ngộ hay tiệm ngộ, ngă chấp vĩnh viễn không c̣n hiện hành, hoặc v́ đă dứt sạch, hoặc v́ đă đè bẹp. Nếu khi trí quả pháp không hiện tiền th́ dù đệ Bát địa trở lên, vẫn c̣n khởi pháp chấp, v́ trí quả sanh không và pháp chấp không trái nhau. Như Khế kinh nói: Bồ tát từ Bát địa trở lên, tất cả phiền năo không c̣n hiện hành, chỉ có sở tri chướng là chỗ nương của ngă chấp th́ đang c̣n". Sở tri chướng đây là hiện hành sở tri chứ không phải chủng tử sở tri. Nếu không vậy, c̣n chủng tử sở tri th́ cũng có thể đang c̣n chủng tử phiền năo.

Mạt na tương ưng với pháp chấp đối với Nhị thừa tuy gọi là không ô nhiễm, nhưng đối với Bồ tát nó vẫn gọi là ô nhiễm, v́ nó làm chướng ngại trí pháp không của Bồ tát. Do đó cũng gọi Mạt na ở Bồ tát địa là hữu phú vô kư. C̣n đối với Nhị thừa th́ gọi nó là vô phú vô kư, v́ pháp chấp đó không chướng ngại trí sanh không của Nhị thừa.

Mạt na này nhiếp vào Dị thục sanh, v́ từ thức Dị thục hằng thời sanh khởi, cho nên gọi là Dị thục sanh, mà không phải Dị thục quả. Tên Dị thục sanh này được dùng chỉ chung tất cả những Tâm tâm sở không phải là chơn Dị thục, cũng như danh từ tăng thượng duyên, là chỉ cho những ǵ không nhiếp vào Nhân duyên, Đẳng vô gián duyên, Sở duyên duyên th́ thu nhiếp cả vào Tăng thượng duyên. (29)

Làm sao biết thức thứ bảy này có tự thể riêng ngoài nhăn thức v.v...?

Do Thánh giáo và Chánh lư làm định lượng mà biết. Nghĩa là đức Bạt già phạm (Phật) ở trong các kinh nói về tâm, ư và thức với ba nghĩa khác nhau. Tập nhóm và khởi lên gọi là tâm, tư lường gọi là ư, liễu biệt gọi là thức. Ba nghĩa đó tuy chung cả tám thức đều có, nhưng tùy mặt trỗi hơn mà hiển thị khác nhau. Thức thứ tám gọi là tâm, v́ nó nhóm tập chủng tử các pháp và khởi lên các pháp. Thức thứ bảy gọi là ư, v́ nó duyên Tạng thức hằng thầm tư lường Tạng thức mà chấp làm ngă. C̣n sáu thức kia gọi là thức, v́ nó liễu biệt riêng theo sáu cảnh thô động gián đoạn khác nhau. Như bài tụng trong kinh Nhập Lăng già nói:

Tạng thức gọi là tâm,

Tánh tư lường gọi là ư,

Liễu biệt tướng các cảnh,

Chung gọi đó là thức.

Lại nhiều nơi trong kinh Đại thừa nói có thức thứ bảy riêng, cho nên ở đây nói có riêng (không phải như Tiểu thừa nói ư thức thứ sáu khi trôi về quá khứ thi gọi là ư, chứ không có thức thứ bảy riêng). Các kinh Đại thừa là chí giáo lượng. Trước đă nói rộng cho nên đây không chứng minh.

Trong kinh Giải Thoát cũng nói riêng thức thứ bảy. Như bài Tụng nói:

Nhiễm ô ư thường có,

Các hoặc cùng sanh diệt,

 Nếu giải thoát các hoặc,

Chẳng phải đă, sẽ có.

Kinh kia tự giải thích bài Tụng rằng: Có nhiễm ô ư từ vô thỉ lại, cùng với bốn phiền năo hằng cùng sanh, cùng diệt, đó là ngă kiến, ngă ái, ngă mạn và ngă si. Khi có đạo đối trị, dứt sạch phiền năo th́ ư này từ đó được giải thoát. Bấy giờ phiền năo tương ưng với ư này, không phải chỉ trong hiện tại không có, mà cũng không có luôn trong quá khứ và vị lai. V́ quá khứ, vị lai là vô tự tánh.

Các Thánh giáo như thế, ở các bộ đều có, sợ nhàm chán dông đài, cho nên ở đây không thuật hết. (30)

- Trên đây dẫn Thánh giáo, bây giờ sẽ hiển bày Chánh lư. (Có sáu lư là: Hằng hành vô minh, làm duyên sanh thức, tư lương gọi ư, định vô tâm sai khác, trời Vô tưởng ô nhiễm, ba tánh ô nhiễm):

1. Như Khế kinh nói: "Bất cộng vô minh vi tế hằng thường hiện hành, che lấp nghĩa chân thật" (nghĩa chân thật tức là chơn như do hai không hiển lộ). Nếu không có thức thứ bảy này th́ Bất cộng vô minh kia không có (v́ không có chỗ nương). Nghĩa là hàng Dị sanh ở trong tất cả phần vị thiện ác, vô kư hằng khởi lên Bất cộng vô minh mê lư, làm che lấp nghĩa chơn thật, che mắt tuệ của bậc Thánh, như bài Tụng nói:

Tâm chơn nghĩa sắp sanh,

Nó thường làm chướng ngại,

Cùng đi trong mọi phần

(trong mọi tâm thiện ác vô lư),

Gọi Bất cộng vô minh

Cho nên Khế kinh nói: "Loài Dị sanh thường ở trong đêm dài bị vô minh che mờ, say mê buộc tâm chưa từng tỉnh giác". Nếu nói ở địa vị Dị sanh có khi tạm không khởi vô minh bất cộng tức là trái với nghĩa kinh vừa nói. V́ nếu cùng ở địa vị loài Dị sanh mà vô minh mê lư có hiện hành không hiện hành, là không đúng lư.

Nếu nói vô minh bất cộng này dựa nơi thức thứ sáu th́ không được. V́ vô minh này nếu dựa thức thứ sáu th́ nó như thức thứ sáu có gián đoạn, và thức thứ sáu như vô minh này hằng ô nhiễm. Nếu chấp nhận có Mạt na th́ không có lỗi này.

Nhiễm ô ư hằng tương ưng với bốn phiền năo trong đó có vô minh cùng khởi, sao riêng vô minh lại gọi là bất cộng? Có ba ư kiến:

a. Có ư kiến cho rằng Mạt na tương ưng với ngă kiến, ngă mạn, ngă ái, ba thứ này không phải là căn bản phiền năo, chỉ riêng vô minh là căn bản nên gọi là bất cộng, th́ có lỗi ǵ?

b. Có ư kiến cho rằng kia nói là trái với giáo lư; v́ trong các tùy phiền năo thuần túy không hề nói đến kiến, mạn, ái là tùy phiền năo, v́ ba thứ kiến, mạn, ái này nhiếp thuộc trong mười căn bản phiền năo. Nơi nơi đều nói nhiễm ô thường tương ưng với bốn phiền năo, nên nói trong bốn thứ đó, vô minh là chủ, nên tuy nó có cùng khởi với ba thứ kia cũng được gọi vô minh là bất cộng. Từ đời vô thỉ thường hôn mê bên trong, chưa từng tỉnh giác đều do có si (vô minh) tăng mạnh hơn.

hỏi: - Vậy si này cùng khởi với kiến, mạn, ái, th́ nên gọi là tương ưng?

Đáp: - Nếu khi khởi lên mà thứ năo làm chủ, th́ cũng gọi nó là bất cộng, như vô minh, cũng không có lỗi ǵ.

c. Có ư kiến cho rằng si này gọi là bất cộng, v́ chỉ ở thức Mạt na này có, chứ các thức khác không có, như mười tám pháp bất cộng của Phật.

Hỏi: - Nếu vậy th́ những phiền năo chỉ tương ưng với các thức khác, ở trong thức Mạt na này không có nó, th́ cũng gọi phiền năo đó là bất cộng hay sao?

Không, chỉ nương theo nghĩa thù thắng mà lập tên bất cộng, chứ không phải theo nghĩa không, hoặc có ở trong thức này hoặc trong thức kia mà gọi là bất cộng. Nghĩa là vô minh tương ưng với thức thứ bảy, từ vô thỉ thường hiện hành làm chướng ngại trí chứng chơn nghĩa (trí chứng chơn như). Tác dụng ấy rất mạnh mà ở các thức khác không có, cho nên chỉ riêng vô minh ở thức Mạt na này mới gọi là bất cộng.

Hỏi: - Đă vậy th́ ba thứ kiến, mạn, ái cùng khởi với nó cũng nên gọi là bất cộng?

Đáp: - Không, v́ vô minh này là chủ, nên được riêng gọi là bất cộng. Hoặc chấp nhận ba thứ kia khi làm chủ cũng được gọi là bất cộng, nay chỉ đối với các thứ si tương ưng với các thức khác mà nói si tương ưng với Mạt na này là bất cộng vô minh.

- Bất cộng vô minh tóm có hai thứ:

a. Hằng hành bất cộng vô minh - Ở các thức kia không có, chỉ có ở thức Mạt na.

b. Độc hành bất cộng vô minh - Ở thức Mạt na này không có, chỉ có ở thức thứ sáu.

Cho nên Luận Du già nói vô minh có hai: Nếu nó cùng tham, sân v.v... đồng khởi, gọi là độc hành vô minh. Nếu là chủ độc hành vô minh th́ chỉ do kiến đạo đoạn trừ. Như Khế kinh nói: "Bậc Thánh Hữu học đă dứt hẳn bất cộng (độc hành) vô minh, nên không tạo nghiệp mới. C̣n nếu độc hành vô minh mà không phải chủ th́ cũng do tu đạo dứt trừ, v́ nó cùng phẩn, hận v.v... tương ưng th́ đều thông do kiến đạo tu đạo đoạn trừ.

Hằng hành bất cộng vô minh (vô minh ở thức thứ bảy) th́ ở các bộ phái Tiểu thừa không có; c̣n Độc hành bất cộng vô minh (vô minh ở thức thứ sáu) th́ ỏ cả Đại, tiểu thừa đều có nó.

2. Lại Khế kinh nói: "Nhăn và sắc làm duyên, phát sanh nhăn thức, rộng nói cho đến ư và pháp làm duyên phát sanh ư thức". Nếu không có Mạt na, th́ ư (ư và pháp) kia không có. Nghĩa là như ngũ thức phải có nhăn, nhĩ căn v.v... làm câu hữu y tăng thượng riêng biệt. Ư thức đă là nhiếp thuộc trong sáu thức, th́ phải nên chấp nhận Ư thức cần có sở y như vậy, nhưng nếu Mạt na không có th́ sở y của Ư thức kia đâu có. Không thể nói sắc (tâm khối thịt) làm chỗ nương cho Ư thức, v́ ư không phải sắc. Ư thức nếu nương sắc th́ như năm thức (chỉ có tự tánh phân biệt) chứ không có hai thứ phân biệt là tùy niệm và kế đạt. Cũng không thể nói năm thức không có Câu hữu y. Năm thức cùng năm căn cùng lúc sanh khởi như mầm và bóng (mầm nương hạt giống mà có, mầm và hạt giống cùng lúc có, ảnh nương h́nh mà hiện, ảnh và h́nh cùng có một lúc).

Lại thức và căn phải cùng duyên một cảnh, ví như Tâm Tâm sở quyết định cùng khởi.

- Do lư lẽ này, phải công nhận (cực thành) ư thức cũng như nhăn thức v.v... phải có chỗ nương riêng và theo nương đó mà đặt tên chỗ nương đó không phải nhiếp thuộc Đẳng vô gián duyên mà là Câu hữu y Tăng thượng duyên. V́ công nhận (cực thành) sáu thức, mỗi thức đều thuộc một căn.

3. Lại Khế kinh nói: "Tư lường gọi là Ư" . Nếu không có thức Mạt na này th́ ư tư lường kia không có. Nghĩa là nếu khi ư thức hiện tiền, đẳng vô gián ư đă diệt không c̣n nữa, v́ quá khứ, vị lai là không có, th́ cái tác dụng tư lường kia chắc không thành được, làm sao kinh nói tư lường gọi là Ư? Nếu cho đó là giả nói th́ cũng không đúng. Không có sự tư lường chính thức th́ giả tư lường nương vào đâu mà có được. Nếu bảo Ư thức trước khi hiện tại, từng có tư lường nay tuy đă diệt cũng gọi là Ư, nhưng bấy giờ gọi là Thức chứ đâu gọi là Ư được.

- Cho nên biết riêng có thức Mạt na thứ bảy hằng thẩm tư lường, chính danh là Ư. Hoặc nương nơi thức thứ bảy mà giả lập ư đẳng vô gián diệt, tên là Ư.

4. Lại Khế kinh nói: "Vô tưởng và Diệt định, nếu không có nhiễm ô ư này th́ hai định này không khác nhau".

Nghĩa là hai định này đều diệt sáu thức và các Tâm sở của nó. Số tâm thể được diệt để thành hai định giống nhau. Nếu không có việc nhiễm ô ư có mặt trong tưởng vô định và không có mặt trong Diệt định th́ hai định có ư ǵ khác nhau? Nếu bảo khi tu gia hạnh nương ở nơi ba cơi, chín địa, thân căn hai bên khác nhau, nên hai định khác nhau th́ cũng không đúng; v́ chính nguyên nhân làm cho khác nhau này là do có thứ Mạt na. Thức Mạt na nếu không có th́ nguyên nhân làm cho hai định khác nhau kia cũng không có. Cho nên quyết định phải có riêng Mạt na ư này.

5. Lại Khế kinh nói: "Loài hữu t́nh ở cơi trời Vô tưởng suốt trong một đời dứt hết không c̣n sáu thức Tâm, Tâm sở. Nếu ở đó không  có thức Mạt na này th́ loài hữu t́nh kia có thể là không c̣n bị ô nhiễm". Nghĩa là hữu t́nh kia trong thời gian lâu dài không có sáu chuyển thức, nếu cũng không có thức Mạt na này th́ câu sanh ngă chấp cũng không. Không thể ở nơi nào lại có loài hữu t́nh có đủ mọi điều ràng buộc, mà trong một đời của họ hoàn toàn không có ngă chấp. Nếu cơi trời kia không có ngă chấp th́ giống như Niết bàn, làm sao họ lại bị Thánh hiền chê trách?

- Nếu chấp ngă của trời Vô tưởng sau một nữa sơ bán kiếp mới diệt, lúc nữa hậu bán kiếp mới có, nên không bị lỗi như trên. Nếu nói vậy, th́ ở giữa khoảng trung gian dài 499 kiếp mà không có ngă chấp th́ như Niết bàn, là có lỗi.

- Nếu nói quá khứ và vị lai có ngă chấp, nên không bị lỗi đó? Nhưng có quá khứ vị lại kia chẳng phải hiện tại chẳng phải hằng như Niết bàn, là có lỗi. Thường th́ đồng như không có ngă chấp.

Lại, quả Dị thục vô tưởng sở đắc đă không, th́ hữu t́nh năng đắc vô tưởng báo cũng không. Dị thục vô tưởng là pháp Bất tương ưng, nó là giả lập, trước kia đă bác rồi.

Tạng thức không có th́ việc huân tập cũng không; c̣n nói các pháp khác không phải Tạng thức mà thọ huân (để trở thành Dị thục vô tưởng) điều đó phi lư, đă biện rồi.

Cho nên cần có có riêng thức Mạt na nhiễm ô hằng khởi ngă chấp trong khi sanh ở cơi trời Vô tưởng. Do đó Thánh Hiền đồng chê bai trời Vô tưởng đó.

6. Lại Khế kinh nói: "Loại Dị sanh trong lúc có tâm thiện, nhiễm hoặc vô kư, luôn luôn có mang theo ngă chấp. Nếu không có thức Mạt na th́ ngă chấp ấy không có". Nghĩa là loài Dị sanh trong khi tâm có đủ ba tánh thiện, ác vô kư khởi lên, tuy bên ngoài khởi tạo các nghiệp  mà bên trong hằng chấp ngă. Do chấp ngă nên dù sáu thức có khởi lên việc bố thí v.v... cũng không thể vong tướng. Nên luận Du già nói: "Nhiễm ô Mạt na là chỗ nương cho sáu thức, khi Mạt na nhiễm ô chưa diệt th́ sự buộc ràng của Tướng phần và Kiến phần trong sáu thức không được giải thoát.Khi Mạt na nhiễm ô diệt rồi th́ ràng buộc của cảnh tướng được giải thoát". Nói sự ràng buộc của cảnh tướng là nói do nhiễm ô Ư mà sáu  thức đối với cảnh tướng không thể nhận rơ nó như sự huyễn, chẳng phải có chẳng phải không, do đó mà Kiến phần và Tướng phần cứ buộc chặt chặt nhau không được tự tại, cho nên gọi là tướng phược. Y theo nghĩa này có bài tụng:

Nhiễm ô Ư như vậy,

Là chỗ nương của thức.

Ư này khi chưa diệt,

Thức bị buộc khó thoát.

Lại trong lúc tâm thiện hoặc vô phú vô kư, nếu không có thức thú bảy chấp ngă th́ tâm thiện và vô kư đó không phải là hữu lậu. V́ các phiền năo tương ưng với sáu thức trong tự thân hữu t́nh không cùng khởi lên với tâm thiện hoặc vô phú vô kư kia. Nếu bảo do duyên phiền năo của quá khứ, vị lai làm duyên trói buộc mà thành hữu lậu th́ lư không thể có được, v́ không thể do phiền năo của người khác mà làm cho người này thành hữu lậu, cũng như không thể do người khác giải thoát mà làm cho người này thành vô lậu.

Lại không thể nói ngoài Tâm, Tâm sở riêng có tùy miên là pháp Bất tương ưng hành uẩn tương tục khởi lên trong khi có tâm thiện và vô phú vô kư, để làm cho tâm thiện và vô phú vô kư trở thành hữu lậu, v́ thứ tùy miên đó không thật có, điều đó đă được cực hành.

Lại cũng không thể nói từ chủng tử hữu lậu sanh ra tâm thiện và vô phú vô kư kia, cho nên tâm thiện và vô phú vô kư kia trở thành hữu lậu. V́ hữu lậu do Mạt na cho nên, nếu không có Mạt na chấp ngă th́ chủng tử của tâm thiện và vô phú vô kư kia trước không có nhân để khiến nó thành hữu lậu, nên cũng không phải do chủng tử hữu lậu khiến thiện tâm và vô phú vô kư hiện hành thành hữu lậu được. V́ không thể bậc Hữu học tâm vô lậu hiện hành, mà v́ do c̣n chủng tử hữu lậu trước đó mà tâm vô lậu hiện hành cũng trở thành hữu lậu. Tuy hoặc do phiền năo trong sáu thức dẫn khởi ra việc bố thí, nhưng phiền năo này dă qua mất không c̣n cùng khởi với việc bố thí, cho nên phiền năo đó không phải là nhân chính của hữu lậu. V́ chữ "hữu lậu" là biểu thị việc bố thí đó với lậu cũng sanh khởi một lần (ư nói chỉ do Mạt na chấp ngă cùng sanh với việc bố thí v.v... mới gọi là hữu lậu).

Lại nghiệp vô kư không do phiền năo dẫn phát, tại sao nó lại thành hữu lậu? (ư nói v́ có Mạt na chấp ngă, cho nên nó thành hữu lậu).

Nhưng các hữu lậu là do Mạt na chấp ngă cùng với hiện hành phiền năo trong tự thân, cùng sanh cùng diệt, làm tăng ích cho nhau, mới thành hữu lậu, do đó huân thành chủng tử pháp hữu lậu, để sau đó hiện khởi lên, đó là nghĩa của hữu lậu. Nơi loài Dị sanh đă vậy, nơi hàng Hữu học cũng vậy.

Hữu lậu ở hàng Vô học (Vô học c̣n Dị thục thức) tuy không phải cùng khởi với thức thứ bảy hữu lậu, nhưng từ chủng tử hữu lậu trước kia khởi lên, cho nên thành hữu lậu. Như vậy th́ đối với lư không trái.

- Do có Mạt na hằng khởi chấp ngă mới làm cho pháp thiện và vô phú vô kư thành hữu lậu. Mạt na này nếu không th́ hữu lậu kia quyết không có. Cho nên biết riêng có thức thứ bảy này.

Chứng minh có thức Mạt na, lư lẽ rất nhiều. Đây theo các nghĩa nhiếp thuộc lư Đại thừa lược thuật sáu ư đó, những người có trí nên theo đó tin học.

- Nhưng có kinh trong đó chỉ nói sáu thức, nên biết kinh đó nói là theo phương diện lư tùy chuyển. Hoặc theo chỗ nương là sáu căn mà nói sáu thức. Nhưng thức loại riêng biệt thật có tám thứ. (31)

XI. THỨC BIẾN HIỆN THỨ BA

Như vậy đă nói thức năng biến thứ hai. Thức năng biến thứ ba, tướng nó thế nào?

Tụng nói:

Thức năng biến thứ ba,

Sai biệt có sáu thức,

Tánh tướng là biệt cảnh,

Thiện, bất thiện, vô kư.

Luận rằng: "Tiếp theo thức tư lường năng biến thứ hai, nên hiện rơ tướng của thức liễu cảnh năng biến.

Thức này sai biệt tóm có sáu thứ, tùy theo sáu căn, sáu cảnh, chủng loại khác nhau, đó gọi là nhăn thức cho đến ư thức, tùy theo căn mà đặt tên.

Căn đủ có năm nghĩa, đó là y căn, phát căn, thuộc căn, trợ căn, như căn. Tuy sáu thức đều nương Mạt na ư mà sanh khởi, nhưng thức thứ sáu theo chỗ nương riêng của nó là Mạt na ư mà đặt tên là Ư thức, ví như năm thức, không bị lỗi xen lạm. Hoặc nó chỉ nương nơi Ư cho nên gọi là Ư thức. Đây là biện biệt sáu thức nương sáu căn mà đặt tên, c̣n tâm thứ tám, ư thứ bảy th́ không theo lệ này.

Hoặc gọi là sắc thức cho đến pháp thức, đó là theo cảnh đặt tên thuận với thức. Nghĩa là đối với sáu cảnh, liễu biệt gọi là thức. Năm thức là sắc thức, thanh thức v.v... th́ chỉ liễu biệt sắc cảnh, thanh cảnh v.v... c̣n pháp thức th́ liễu biệt khắp tất cả pháp. Hoặc v́ Ư thức liễu biệt pháp, nên gọi là Pháp thức. Cho nên tên gọi sáu thức, không bị lỗi xen lạm. Trước là theo căn mà đặt tên sáu thức, c̣n sau đây là theo cảnh mà đặt tên sáu thức, đều là dựa nơi năm sắc căn khi chưa được tự tại mà nói, Nếu khi được tự tại th́ các căn dùng chung lẫn nhau, một căn phát sanh thức duyên được tất cả cảnh, nhưng vẫn tùy theo căn mà gọi tên th́ không có lỗi xen lạm.

Luận Trang Nghiêm nói: "Năm căn của đức Như Lai, mỗi căn đều duyên đủ năm cảnh". Đây là theo cảnh đồng loại (tánh cảnh) thô hiển (năm trần) mà nói (ư nói năm trần thô hiển cách ngại mà một căn phát thức c̣n duyên được cả, huống pháp trần vô h́nh mà không duyên được).

Kinh Phật Địa nói: "Trí thành sở tác của Phật quyết trạch được tâm hạnh sai biệt của hữu t́nh để khởi lên ba nghiệp giáo hóa và bốn thứ kư đáp". Nếu năm căn của Phật không duyên cùng khắp th́ không có  khả năng ấy.

- Nhưng căn sở y và cảnh sở duyên của sáu chuyển thức thô hiển dễ thấy rơ, cho nên ở đây không nói. Trước đây theo nghĩa thuận tiện đă nói căn sở y, c̣n nghĩa của cảnh sở duyên khi gặp nghĩa thuận tiện sẽ nói.

- Câu tụng thứ hai nói "Tánh tướng là biệt cảnh", là hiển thị cả tự tánh và hành tướng của sáu thức. Sáu thức lấy sự liễu biệt cảnh làm tự tánh, cũng lại dùng sự liễu biệt cảnh làm hành tướng. Do đó câu tụng giải thích chung cả hai tên, v́ nó liễu biệt cảnh nên gọi là thức. Như Khế kinh nói: "Nhăn thức thế nào? Đó là thức nương nhăn căn liễu biệt các sắc. Nói rộng cho đến ư thức thế nào? Đó là thức nương nơi ư căn liễu biệt các pháp."

Kinh kia chỉ nói chỗ nương riêng của sáu thức với kiến phần và cảnh sở duyên của nó, khi ở địa vị chưa chuyển y, c̣n khi ở địa vị đă chuyển y th́ căn sở y và cảnh sở liễu của sáu thức chung thông như trước đă nói.

- Sáu chuyển thức này nhiếp thuộc về tánh nào?

Nhiếp thuộc cả ba tánh là thiện, bất thiện và câu phi. Câu phi tức là vô kư, chẳng phải thiện và bất thiện.

Khả năng làm cho thuận lẽ phải và có lợi ích đời này, đời sau th́ gọi là thiện; c̣n lạc quả của nó ở cơi Người, cơi Trời, tuy thuận lẽ phải và có lợi ích đời này nhưng không phải lợi ích đời sau, nên không gọi là thiện. Khả năng làm trái lẽ phải và tổn hại đời này, đời sau th́ gọi là bất thiệ; c̣n khổ quả của nó ở cơi ác tuy trái lẽ phải và tổn hại đời này, nhưng không phải tổn hại đời sau, nên không phải bất thiện. Lưng chừng ở giũa thiện, bất thiện, lợi ích và tổn hại không rơ ràng, th́ gọi là vô kư.

Sáu chuyển thức này nếu tương ưng với mười một pháp như Tín, Tàm, Qúy v.v... th́ nhiếp thuộc tánh thiện, nếu tương ưng với mười pháp như Vô tàm, Vô quư v.v... là nhiếp thuộc về tánh bất thiện. C̣n không tương ưng với cả hai thứ trên là nhiếp thuộc về tánh vô kư.

- Có ư kiến cho rằng ba tánh của sáu thức không khởi đồng khởi, v́ sáu thức đồng chuyển hướng ra bên ngoài, ba tánh thường trái nhau; v́ năm thức phải do ư thức đạo dẫn, đồng thời sanh khởi, đồng duyên theo cảnh, mới thành thiện hoặc nhiễm.. Nếu chấp nhận năm thức có đủ ba tánh cùng hiện hành, vậy thời lúc bấy giờ ngũ câu ư thức cũng phải thông cả ba tánh, bèn trái chánh lư. Cho nên quyết định ba tánh không cùng khởi một lần.

Nhưng luận Du già v.v... nói: " Tạng thức một lúc cùng với các chuyển thức tương ưng cả ba tánh mà nhất thời khởi lên", nhất thời đây là dựa theo nghĩa thức trải qua nhiều niệm mà nói. Như nói "nhất tâm", không phải là nói chỉ trong một lần sanh diệt, nên không có lỗi trái nhau.

- Có ư kiến cho rằng sáu thức đều có đủ ba tánh, v́ năm thức suất nhĩ và đẳng lưu hoặc nhiều hoặc ít cùng khởi lên. Lại năm thức và ư thức tuy cùng sanh khởi, nhưng tánh thiện, ác không hẳn đồng nhau. Trên kia cật nạn nói: "Năm thức phải do ư thức đạo dẫn" đến đây trở thành uổng công. Cho nên luận Du già nói như người nhập định, khi gặp duyên của tiếng khánh mà ra định, đó là nhĩ thức với thiện ư thức có định tương ưng cùng khởi lên, chứ không phải chỉ một ḿnh ư thức tương ưng với định kia mà có thể tiếp nhận được tiếng khánh đó. Nếu không có nhĩ thức, th́ đối với âm thanh này một ḿnh ư thức không lănh thọ được, không thể xuất định cũng không phải khi tiếp nhận âm thanh là xuất định ngay. Sau khi lănh thọ âm thanh rồi, nếu có hy vọng, sau đó mới xuất định.

Khi ở trong định, nhĩ thức suất nhĩ nghe âm thanh, đó chẳng phải thiện. V́ khi chưa chuyển y, dù tâm suất nhĩ, tâm ấy chỉ là vô kư.

Do đó chứng minh ngũ câu ư thức không nhất định là đồng tánh thiện với năm thức. Các chỗ khác chỉ nói: Ngũ câu ư thức cũng duyên năm cảnh như năm thức, như không nói đồng nhau.

Luận Tạp Tập nói: "Trong địa vị đẳng dẫn (định) không có năm thức". Đó là y theo đa phần ở trong định mà nói.

Nếu trong năm thức có ba tánh đồng khởi, ư thức theo năm thức đó chuyên chú về cảnh nào th́ ư thức cùng với năm thức đồng tánh đó. C̣n không chuyên chú th́ là tánh vô kư. Cho nên biết sáu chuyển thức có đủ ba tánh (như nhăn thức duyên tượng Phật, là thiện, nh́n hoa mà tham là bất thiện tánh).

khi được địa vị tự tại th́ nhiếp thuộc về tánh thiện, v́ Phật sắc (tướng hảo công đức), Phật tâm (bốn trí) nhiếp về Đạo đế (không có bất thiện), đă trừ sạch chủng tử hư luận (chẳng phải vô kư).(32)

- Sáu thức tương ưng với bao nhiêu tâm sở?

Tụng rằng:

Đây tâm sở Biến hành,

Biệt cảnh, Thiện, Phiền năo.

Tùy phiền năo, Bất định,

Đều tương ưng ba thọ.

Luận rằng: "Sáu chuyển thức này chung cùng tương ưng với sáu vị Tâm sở". Đó là năm Biến hành, năm Biệt cảnh, mười một thiện, sáu căn bản phiền năo, hai mươi Tùy phiền năo, bốn Bất định.

Thường nương tâm khởi, tương ưng với tâm, hệ thuộc theo tâm, cho nên gọi là Tâm sở. Như vật ǵ thuộc của ta, gọi là ngă sở.

Tâm đối với cảnh sở duyên chỉ nhận lấy tướng chung, Tâm sở c̣n nhận lấy tướng riêng, giúp thành việc của tâm, nên được gọi là Tâm sở. Như thầy tṛ thợ vẽ, thầy làm mô h́nh tṛ tô màu sắc. Cho nên luận Du già nói: "Thức" có  khả năng liễu biệt tướng chung của sự vật.

Tác ư có  khả năng liễu biệt các tướng, chưa liễu biệt đó của thức Tâm vương, tức có nghĩa các Tâm sở nhận biết tướng riêng.

Xúc có  khả năng liễu biệt các tướng khả ư v.v... đó của thức Tâm vương.

Thọ có  khả năng liễu biệt các tướng nhiếp thọ đó của thức Tâm vương.

Tướng có  khả năng liễu biệt các tướng nhiếp thọ đó của thức Tâm vương.

Tưởng có  khả năng liễu biệt tướng nhân của ngôn thuyết (ngôn thuyết nhân) đó của thức Tâm vương.

có  khả năng liễu biệt các tướng chánh nhân đó củ thức Tâm vương.

Cho nên tác ư, xúc v.v... gọi là Tâm sở pháp. Chữ "đó" là biểu thị Tâm sở cũng duyên tướng chung đó của Tâm vương (chứ không phải chỉ duyên tướng riêng mà thôi).

Chỗ khác lại nói "Dục" cũng có  khả năng liễu biệt tướng của các việc khả lạc của thức Tâm vương.

Thắng giải cũng có  khả năng liễu biệt tướng của các việc đă quyết định của thức Tâm vương.

Niệm cũng có  khả năng liễu biệt tướng của các việc đă tập quen của thức Tâm vương.

Định, tuệ cũng có  khả năng liễu tướng của các việc đắc, thất của thức Tâm vương.

Do thế mới có thể đối với cảnh khởi lên các Tâm sở thiện hoặc nhiễm, và đối với cảnh duyên cũng đều nhận biết được tướng riêng.

Tuy các Tâm sở có danh và nghĩa không khác, nhưng theo chủng loại sai biệt chia làm sáu vị, là: Biến hành có năm, Biệt cảnh có năm, Thiện có mười một, Phiền năo có sáu, Tùy phiền năo có hai mươi, Bất định có bốn. Như vậy sáu vị cộng là 51 Tâm sở.

Trong tất cả tâm đều có, nên gọi là tâm sở Biến hành.

Duyên riêng mỗi cảnh mà sanh khởi, nên gọi là tâm sở Biệt cảnh.

Chỉ trong thiện tâm mới có sanh khởi, nên gọi là tâm sở Thiện.

Tánh nhiếp thuộc về phiền năo căn bản, nên gọi là tâm sở Phiền năo.

Chỉ là tánh đẳng lưu của phiền năo căn bản, nên gọi là tâm sở Tùy phiền năo.

Thiện hay nhiễm ô không rơ rệt nhất định, nên gọi là tâm sở Bất định.

Nhưng luận Du già hợp sáu vị làm năm, v́ Phiền năo và Tùy phiền năo chung lại đều là nhiễm.

Lại dùng bốn món nhất thiết để biện biệt năm vị sai khác. Bốn nhất thiết là nhất thiết tánh (thiện, ác, vô kư) nhất thiết địa (ba cơi, chín địa), nhất thiết thời (hữu tâm vô tâm, hữu lậu, vô lậu), nhất thiết câu (tám Tâm vương). Trong năm vị, Biến hành đủ cả bốn nhất thiết. Biệt cảnh chỉ có hai nhất thiết đầu. Thiện chỉ có một, đó là nhất thiết địa. Nhiễm th́ không có bốn nhất thiết, Bất định chỉ có một, đó là nhất thiết tánh. Do đó năm vị có chủng loại sai khác.

- Sáu chuyển thức này thay đổi không định cho nên có thể tương ưng với cả ba thọ. V́ sáu thức đều có thể lănh thọ cảnh thuận, nghịch và câu phi. Khi lănh nạp tướng của cảnh thuận hợp làm vui thích thân tâm th́ gọi là lạc thọ. Lănh nạp tướng của cảnh trái nghịch làm bức bách thân tâm th́ gọi là khổ thọ. Lănh nạp tướng của cảnh trung dung đối với thân tâm không khổ không vui, th́ gọi là bất khổ, bất lạc thọ.]

Ba thọ như thế hoặc mỗi thứ chia hai: Thọ tương ưng với năm thức, gọi là thân thọ, v́ nó nương riêng nơi thân. Thọ tương ưng với ư thức, gọi là tâm thọ, v́ nó chỉ nương nơi tâm.

- Lại ba thọ đều thông cả hữu lậu vô lậu. Khổ thọ cũng do vô lậu khởi (Khi tu vô lậu đạo trải qua gian khó cũng cảm thọ khổ).

Hoặc ba thọ mỗi thứ chia làm ba: Là kiến sở đoạn (thọ tương ưng với phân biệt hoặc), tu sở đoạn, (thọ tương ưng với câu sanh hoặc), phi sở đoạn (thọ tương ưng với vô lậu).

Lại Học, Vô học, và chẳng phải hai, là ba.

Hoặc chung cả ba thọ lại chia làm bốn tánh, đó là tánh thiện, bất thiện, hữu phú vô kư, vô phú vô kư.

- Có ư kiến cho rằng cả ba thọ, mỗi thọ đều chia làm bốn tánh. V́ Tham, Si tâm sở nhậm vận cùng với năm thức trước đồng khởi lên và phiền năo nhậm vận khởi nhưng không phát ác nghiệp của trong cơi thuần khổ, là thuộc tánh hữu phú vô kư. Và tánh hữu phú vô kư đó đều tương ưng với khổ thọ căn.

- Luận Du già nói: "Nếu tất cả phiền năo nhậm vận sanh th́ đều đủ cả ba thọ hiện hành. Nếu phiền năo ấy thông với sáu thức trước th́ nó tương ưng khắp cả ba thọ trong tất cả thức thân. Nếu không thông tất cả thức thân, th́ phiền năo ấy chỉ tương ưng với tất cả ba thọ căn nơi ư địa (ư thức)".

Luận Tạp Tập nói: "Nếu những phiền năo hệ thuộc Dục giới mà nhậm vận sanh ác hành, th́ nó cũng là bất thiện. C̣n những phiền năo không phát sanh ác hành, th́ nó là hữu phú vô kư". Cho nên biết ba thọ, khổ, lạc, xả đều đủ cả bốn tánh thiện, ác, hữu phú vô kư, vô phú vô kư.

Hoặc chung cả chia làm năm thọ là khổ, lạc, ưu, hỷ, xả. Trong ba thọ khổ lạc, xả riêng khổ và lạc thọ mỗi thứ lại chia hai; v́ tướng vui, tướng khổ nơi thân và nơi tâm khác nhau, và do không phân biệt (xả, lạc) có phân biệt (ưu, khổ) rất nặng (khổ, lạc) và rất nhẹ (ưu, hỷ) sai khác. C̣n bất khổ bất lạc thọ không chia hai v́ không có tướng khổ bức thân tâm, tướng vui thích thân tâm sai khác, v́ b́nh đẳng vô phân biệt.

Những sự cảm thọ vui thích tương ưng với năm thức, th́ thường gọi là lạc thọ; c̣n tương ưng với Ư thức, nếu là ở cơi Dục, Sơ Thiền, và Nhị Thiền cận phần th́ gọi là hỷ, v́ chỉ là vui tại tâm. Nếu ở Sơ Thiền và Nhị Thiền căn bản định th́ gọi là lạc và hỷ, v́ sự vui ở cả thân và tâm. Nếu ở tại đệ Tam Thiền cận phần và căn bản định th́ gọi là lạc, v́ ở đây sự an tịnh rất lớn, không có phân biệt.

Những sự cảm thọ bức bách tương ưng với năm thức, thường được gọi là khổ; c̣n nếu tương ưng với Ư thức, có ư kiến cho chỉ gọi là ưu, v́ nó chỉ bức bách tâm. V́ các Thánh giáo nói sự thọ lo buồn của Ư th́ gọi là ưu căn.

Luận Du già nói: "Loài huân tập sanh trong địa ngục, thức Dị thục không gián đoạn, có Dị thục sanh, có khổ và ưu tiên liên tục không dứt. Lại nói: "Ở địa ngục có tâm tư ưu (tức sự ư ở ư). Một phần ngạ quỷ và bàng sanh cũng thế". Cho nên biết ở ư thức có cái thọ lo buồn rất nặng, c̣n gọi là ưu huống ǵ các sự bức bách nhẹ khác.

Có ư kiến cho rằng Ư thức thông cả hai thọ là ưu và khổ. Ở trong loài Người, loài Trời th́ thường gọi là ưu, v́ sự bức bách không phải quá nặng. Ở loài bàng sanh, ngạ quỷ mới gọi là ưu và khổ, v́ một đàng tạp thọ, một đàng thuần thọ có khinh có trọng khác nhau.

Ở trong Nại lạc ca (địa ngục) chỉ gọi là khổ, v́ thuần thọ khổ rất nặng, không thể phân biệt được.

- Luận Du già nói: "Nếu tất cả phiền năo nhậm vận sanh th́ có đủ ba thọ khổ, lạc, xả hiện hành". Nói rộng như trước.

- Lại nói phiền năo Tát ca gia kiến câu sanh (thân ngă kiến) chỉ có tánh hữu phú vô kư. Biên chấp kiến nên biết cũng thế. Nên tương ưng với khổ thọ th́ chỉ nhiếp về khổ căn không phải nhiếp về ưu căn, v́ Luận nói ưu căn chẳng phải là vô kư.

- Lại luận Du già nói: "Hữu t́nh trong địa ngục có đủ các căn, ngoài ra quyết định không thành tựu được có ba thọ căn hiện hành. Trong cơi ngạ quỷ, bàng sanh thuần khổ cũng thế". Ba thọ căn nói đây là lạc, hỷ, ưu căn. V́ ở địa ngục kia quyết chắc có xả thọ hiện hành, không phải nói không có xả thọ ở  trong địa ngục. Đă không biết văn luận Du già chỉ nói có xả thọ th́ không nên nói ở địa ngục chắc thành tựu ư căn, v́ Luận chấp nhận ở địa ngục sáu thức kia có lúc không có.

Không nên cho Luận kia chỉ nói xả thọ, mà c̣n nói chung cả các căn, v́ không có nhân chi khác để chỉ nói có xả thọ. Lại nếu Luận kia y nơi xả thọ mà nói, th́ tại sao c̣n nói ở dịa ngục định thành tựu tám thọ căn?

Nếu bảo năm thức trước không tương tục nên quyết định nói ưu căn là căn thứ tám. Nhưng ở địa vị khi chết, khi sanh, và khi muộn tuyệt th́ đâu có ưu căn?

Có người cho khổ căn là chỉ căn thứ tám, th́ bị phá đồng như đây

Giả sử chấp ở địa ngục có một h́nh thể (tức nam, nữ căn) là căn thứ tám, cũng không đúng lư; v́ thân h́nh ở địa ngục bất định; v́ ở địa ngục do ác nghiệp chiêu cảm, không thể có h́nh  (tức nam, nữ căn); v́ ở đó do ác nghiệp khiến cho năm căn luôn thường thọ khổ. Cho nên ở đó có nhăn căn v.v... th́ nó đối với một h́nh thể (tức nam, nữ căn) đâu có tác dụng ǵ. Không thể nào ở trong đại địa ngục Vô gián mà có thể có sự mong cầu việc dâm dục.

Do đó căn thứ tám nói đây quyết định chỉ cho xả căn, v́ đệ thất, đệ bát hai thức có xả căn tương ưng vậy. Như ở chỗ rất vui, Ư thức vui thích gọi là lạc, không có hỷ căn. Cho nên ở chỗ rất khổ như địa ngục, Ư thức bị bức bách gọi là khổ, không có ưu căn. Cho nên nói chữ "ngoài ra c̣n ba căn" là chỉ cho ba căn ưu, hỷ, lạc (không có ở địa ngục).

- Có chỗ khác nói: "Ở địa ngục có cái vui đẳng lưu". Nên biết câu nói đó là y theo mặt lư tùy chuyển (chuyển lư Đại thừa mà nói lư Tiểu thừa) mà nói. Hoặc kia nói chung về chỗ có sự thọ khổ vui lẫn lộn. V́ ở đó không có Dị thục lạc, gọi à thuần khổ.

Nhưng trong Thánh giáo nói: "Sự cảm thọ lo buồn ở ư thức gọi là ưu căn", đây là y theo đa phần mà nói, hoặc y theo mặt lư tùy chuyển mà nói, nên không có lỗi trái nhau.

- Luận Du già nói: "Các loài hữu t́nh sanh trong địa ngục, thức Dị thục không gián đoạn mà có Dị thục sanh với sự thọ khổ, ưu tương tục không dứt". Lại nói: "Ở địa ngục có tầm, tứ, ưu cùng khởi, một phần ngạ quỷ bàng sanh cũng thế". Đây cũng là y theo mặt lư tùy chuyển mà nói. Lại nói: "Khổ căn tương ưng với ư thức đó là cùng một loại ưu với các cơi kia mà giả nói là ưu. Hoặc khổ căn kia tổn hại thân tâm, nên tuy nó nhiếp thuộc khổ căn mà cũng gọi là ưu. Như hỷ ở cận phần định v́ lợi ích cho thân tâm nên tuy nó là hỷ căn mà cũng gọi là lạc".

Luận Hiển Dương đều hiển bày nghĩa này, nhưng ở "vị chí địa", quyết định không có lạc căn. V́ nói ở đó chỉ có 21 căn vậy (chứ không có đủ 22 căn là nhăn, nhĩ, thiệt, thân, ư, khổ ,lạc, ưu, hỷ, xả, nam căn, nữ căn, mạng căn, tín, tấn, niệm, định, tuệ, vị trí, đương tri, dĩ tri, cụ tri).

Do đó nên biết sự cảm thọ lo buồn nơi ư mà ở chỗ thuần thọ khổ, cũng nhiếp về khổ căn.

Những Thánh giáo như thế có nhiều cách nói khác nhau, sợ dài ḍng nên không thuật hết.

- Có ư kiến cho rằng sáu thức không tương ưng ba thọ khổ, lạc, xả. V́ nó hướng ra bên ngoài duyên cảnh hay chống trái nhau. Ngũ cây ư thức đồng duyên một cảnh với năm thức trước. Năm thức trước tương ưng ba thọ, th́ Ư thức cũng vậy. nói thế là trái chánh lư. Cho nên sáu thức chắc không tương ưng cả ba thọ.

Luận Du già nói: "Tạng thức một lúc cùng với chuyển thức tương ưng ba thọ cùng sanh khởi". Đây là y theo nhiều niệm mà nói. Như nói "nhất tâm" không phải là chỉ nói tâm một lần sanh diệt, nên không có lỗi trái nhau.

- Có ư kiến cho rằng sáu thức tương ưng với ba thọ. Trong ba cảnh thuận, nghịch, trung dung đều có cảm thọ.

Ư thức không nhất định cùng năm thức đồng cảm thọ, khi nó chuyên chú cảnh nào th́ cảm thọ theo cảnh đó; c̣n không chuyên chú th́ khởi xả thọ. Do đó sáu thức có đủ ba thọ. Khi ở địa vị đắc tự tại th́ chỉ có lạc, hỷ, xả, v́ các đức Phật đă dứt hết việc ưu và khổ.

- Trước đă lược nêu sáu vị Tâm sở, nay nên nói rơ tướng sai khác của các Tâm sở ấy.

Hai vị tâm sở Biến hành và Biệt cảnh đầu, tướng nó thế nào?

Tụng rằng:

Trước là Biến hành: Xúc v.v...

Tiếp là Biệt cảnh: Dục,

Thắng giải, Niệm, Định, Tuệ.

Cảnh sở duyên không đồng.

Luận rằng : Trong sáu vị Tâm sở, vị đầu tiên là Biến hành tâm sở tức là năm thứ xúc, tác, ư v.v... như trước đă nói rộng.

Nên biết tướng của Biến hành này thế nào? Do giáo và lư làm định lượng để biết.

Trong đây về "giáo" là, như Khế kinh nói: "Nhăn và sắc làm duyên sanh ra nhăn thức. Ba thứ đó ḥa hợp lại là "xúc", cũng sanh theo xúc có "thọ", "tưởng", "tư" cho đến nói rộng". Do xúc ấy v.v... biến khắp bốn thứ nên gọi là Biến hành.

Lại Khế kinh nói: "Nếu căn không hư hoại và cảnh giới hiện tiền, ngay lúc tác ư khởi lên, mới sanh ra thức". Các kinh khác lại nói: "Nếu lại ở nơi cảnh đó khởi tác ư th́ chính ở đó có liễu biệt th́ chính ở đó tác ư. Cho nên hai thứ tác ư và liễu biệt đó thường chung ḥa hợp, cho đến nói rộng". Do đó tác ư cũng là Biến hành.

Những "Thánh giáo" như thế, làm chứng không ít.

C̣n về "lư" là, khi thức khởi phải có ba sự ḥa hợp, do ba ḥa hợp đó quyết định sanh ra "Xúc" mà ba sự ḥa hợp lại phải do xúc mới có. Nếu không có xúc th́ Tâm và Tâm sở pháp không thể ḥa hợp nơi một cảnh.

Tác ư có  khả năng dẫn tâm khiến đi đến cảnh của chính nó. Nếu không có tác ư, th́ tâm không thể có.

Thọ có  khả năng lănh nạp cảnh thuận, nghịch, trung dung, khiến tâm khởi lên tướng vui, lo và xả, v́ không khi nào tâm khởi lên mà lại không tùy theo một tướng nào trong đó.

Tưởng có  khả năng an lập phần hạn ranh giới của tự cảnh, nếu khi tâm khởi lên mà không có "tưởng" này th́ không thể nắm được phần ranh giới của cảnh.

có khả năng khiến tâm nằm tướng chánh nhân, tà nhân, tạo tác nghiệp thiện ác. Không khi nào ở địa vị có tâm khởi lên mà không theo một nghiệp, cho nên phải có "Tư".

Do đó chứng biết năm pháp xúc, tác,ư v.v... hễ tâm khởi lên là có nó, nên gọi nó là Biến hành. Ngoài ra, không phải Biến hành, khi gặp đến nghĩa ấy sẽ nói:

- Tiếp đến, Biệt cảnh tâm sở là "Dục" .. "Tuệ". V́ cảnh sở duyên của nó phần nhiều không giống nhau, nên trong sáu vị tâm sở, nó được nối tiếp theo vị tâm sở Biến hành thứ nhất.

Dục là thế nào? Là tánh hy vọng đối với cảnh vui, va có nghiệp dụng làm chỗ nương cho "cần" (siêng năng).

- Có ư kiến cho rằng được vui là cảnh đáng ưa thích, đối với việc đáng ưa thích có hy vọng thấy muốn nghe.

Hỏi: Đối với việc đáng chán th́ chỉ muốn nó  đừng hợp lại, hy vọng nó xa ra mà đừng hợp lại, là riêng có tự thể của sự hân thích hợp lại chứ không phải hy cầu việc đáng chán mà khởi hy vọng. Cho nên nơi cảnh đáng chán và cảnh trung dung không ưa, không chán, th́ chỉ một bề không dục. Vậy khi duyên việc đáng ưa thích, nếu không hy vọng th́ cũng không có tâm dục khởi hay sao?

- Có ư kiến cho rằng được vui là đối với cảnh có sự cầu mong. Với việc đáng thích th́ mong hợp, với việc đáng chán th́ mong ĺa, đều có sự hy vọng; c̣n đối với cảnh trung dung th́ chỉ một mực không dục (không mong muốn). Khi duyên việc đáng ưa, đáng chán, nếu không mong cầu, th́ cũng không có dục khởi.

- Có ư kiến cho rằng được vui là muốn quán sát cảnh. Đối với việc nếu muốn quán sát th́ có mong cầu, nếu không muốn quán sát, th́ cứ tùy theo nơi t́nh thế của cảnh mà nhậm vận duyên, tức hoàn toàn không dục (không mong cầu). Do lư lẽ ấy mà Dục không phải là tâm sở Biến hành.

- Có thuyết cho rằng phải do năng lực của cảnh hy vọng, các Tâm, Tâm sở mới tiếp nhận cảnh. Cho nên kinh nói: "Dục là gốc các pháp" (nên Dục là tâm sở Biến hành).

- Kia nói thế không đúng. Tâm tiếp nhận cảnh là do tác ư, v́ các Thánh giáo nói: "Khi tác ư hiện tiền th́ sanh ra các thức", chứ chưa từng có chỗ nào nói: "Dục sanh ra Tâm, Tâm sở". Như nói: "Dục là gốc của các pháp", là ư muốn nói từ Dục mới khởi tạo các sự nghiệp. Hoặc nói thiện dục th́ phát sanh chánh cần, do đó giúp thành mọi việc thiện. Cho nên luận nói "Dục" có công dụng làm chỗ nương cho "Cần".

Thắng giải là thế nào? Là tánh tin tưởng ấn tŕ đối với cảnh đă quyết định, và có nghiệp dụng không thể bị lôi kéo lay chuyển. Nghĩa là do sức chứng minh của giáo lư hoặc tà hoặc chánh mà đối với cảnh nhận biết, thẩm định, quyết đoán, ấn tŕ, không bị duyên ǵ khác lôi kéo lay chuyển. Cho nên nếu đối với cảnh đang do dự, th́ hoàn toàn không có thắng giải. Tâm không thẩm định, quyết đoán th́ không có thắng giải. Do đó thắng giải không nhiếp vào tâm sở Biến hành.

- Có thuyết cho rằng khi Tâm nắm bắt tự cảnh không câu chấp chướng ngại, th́ đều có thắng giải.

Kia nó phi lư. V́ sao? V́ không làm chướng ngại đó chính là các pháp, không bị chướng ngại đó chính là các tâm; c̣n làm duyên tăng thắng cho Tâm và Tâm sở phát khởi, th́ đó là căn và tác ư. Nếu do thắng giải mà duyên tăng thắng phát khởi, th́ thắng giải đó lại phải đợi có cái duyên khác mới phát khởi, bèn mắc phải lỗi vô cùng.

Niệm là thế nào? Là tính khiến Tâm ghi nhớ rơ ràng không quên đối với việc đă từng tập quen, và có nghiệp dụng làm chỗ nương cho định. Nghĩa là thường ghi nhớ việc đă tiếp thọ không để quên mất, nhờ đó dẫn đến định. C̣n đối với thể loại cảnh chưa từng tiếp thọ mà không thể nhớ rơ th́ niệm cũng không sanh. Cho nên niệm không nhiếp vào tâm sở Biến hành.

- Có thuyết cho rằng khi Tâm khởi lên là có niệm cùng khởi, làm nhân cho sự ghi nhớ về sau. – Nói thế không đúng. V́ không thể trước có si hoặc tín v.v... cùng khởi với Tâm làm nhân rồi sau mới có si, tín. nhưng do Tâm, Tâm sở lúc trước hoặc do thế lực của tưởng cũng đủ để làm nhân cho sự ghi nhớ lúc sau.

Định là thế nào? là tính đối với cảnh sở quán làm cho Tâm chuyên chú không tán loạn và có nghiệp dụng làm chỗ nương cho trí. Nghĩa là quán cảnh được, mất, trung dung, nhờ định khiến tâm chuyên chú vào cảnh đó không tán loạn. Nương nơi đó bèn có trí lựa chọn phát sanh. Nói "tâm chuyên chú" là hiển thị tâm muốn trụ ở đâu th́ liền trụ được, chứ không phải chỉ trụ duy nhất một cảnh. Nếu không thể, ở địa vị kiến đạo quán khắp các đế lư cơi trên cơi dưới cảnh trước sau khác nhau, th́ không thể có đẳng tŕ (định). Nếu không buộc tâm chuyên chú vào cảnh th́ định không khởi được, cho nên định không phải tâm sở Biến hành.

- Có thuyết cho rằng, khi nó không buộc tâm chuyên chú vào cảnh cũng có định khởi, chỉ v́ tướng nó vi ẩn khó thấy Nên nó là tâm sở Biến hành). – Nên nói lời đúng thật rằng, nên bảo định có thể khiến cho Tâm và Tâm sở ḥa hợp đồng hướng đến một cảnh, mà cho đó là Biến hành, cũng không đúng lư; v́ khiến Tâm, Tâm sở ḥa hợp là tác dụng của xúc. C̣n nếu bảo định khiến tâm trong một khoảnh khắc sát na không thay đổi cảnh duyên, nên nó nhiếp thuộc vào Biến hành, cũng không đúng lư; v́ tâm trong một khoảnh khắc sát na tự nó không thay đổi đối với cảnh duyên (chứ đâu phải do định mà tâm không thay đổi). – C̣n nếu nói do định mà tâm nắm bắt cảnh sở duyên, nên định nhiếp về Biến hành, cũng không đúng lư; v́ chính tác ư mới khiến tâm bắt cảnh sở duyên, chứ đâu phải định Tâm sở.

Lại có thuyết cho rằng thể của định chính là tâm, v́ kinh nói định học là tâm học; lại nói định có tánh khiến tâm chuyên nhất nơi một cảnh.

Dẫn kinh làm chứng như thế không đúng; v́ nhờ định nhiếp tâm, khiến tâm chuyên nhất mộtt cảnh, nên nói như vậy. Định nhiếp vào năm căn, năm lực, bảy giác chi, tám đạo chi, như niệm, tuệ v.v... chứ không phải định chính là tâm.

Tuệ là thế nào? Là tánh giản biệt lựa chọn đối với quán sát, và có nghiệp dụng dứt nghi. Nghĩa là quán cảnh được, mất, trung dung, nhờ tuệ suy t́m mà đi đến quyết định. V́ trong khi đối với cảnh không phải quán sát, th́ tâm ngu muội không giản trạch suy t́m, cho nên tuệ không nhiếp vào Biến hành.

- Có thuyết cho rằng bấy giờ trong tâm ngu muội cũng có tuệ sanh khởi, chỉ v́ tướng nó vi ẩn tợ như một tí vật rất nhỏ bỏ vào trong cái đồ rất lớn làm sao biết nó là có. V́ trong luận Đối Pháp nói: "Nó là đại địa pháp".

- Các bộ luận Đối Pháp qua lại nói mâu thuẫn nhau, làm sao các Ông cứ chấp đó làm định lượng? Chỉ có xúc, tác ư thảy năm thứ, kinh nói là Biến hành thôi; c̣n nói mười Đại địa pháp th́ không phải kinh nói, chớ nên cố chấp.

Nhưng dục, thắng giải v.v... không phải là xúc, tác ư v.v... nên quyết không phải là Biến hành. Như tâm sở Tín, tâm Tham v.v... không phải Biến hành.

- Có ư kiến cho rằng năm thứ dục, thắng giải v.v... giúp đỡ lẫn nhau, tùy khi một thứ khởi, là phải có bốn thứ kia.

- Có ư kiến cho nó không nhất định như thế. Luận Du già nói: "Năm Tâm sở Biệt cảnh này không có hai nhất thiết thời, nhất thiết tâm của trong bốn thứ nhất thiết". (thêm nhất thiết tánh, nhất thiết địa thành bốn).

- Lại nói năm thứ Biệt cảnh này duyên theo bốn cảnh mà sanh. V́ sở duyên hay năng duyên, không nhất dịnh cùng khởi, nên nói năm thứ ấy có khi chỉ khởi lên một, nghĩa là đối cảnh đáng vui, chỉ khởi tâm hy vọng (dục); hoặc đối với cảnh quyết định, chỉ khởi tâm ấn giải (thắng giải); hoặc đối với cảnh từng tập quen chỉ khởi tâm ghi nhớ (niệm); hoặc đối với cảnh sở quán chỉ khởi tâm chuyên chú (định). Nghiă là loài ngu muội v́ muốn ngăn tâm tán loạn, tuy có chuyên chú vào cảnh sở duyên nhưng không thể lựa chọn suy t́m. Đời đều biết hạng người đó có định mà không có tuệ. V́ hạng kia ở địa vị gia hạnh có chút ít nghe, suy nghĩ, cho nên nói ở địa vị đẳng tŕ (định) duyên cảnh sở quán. Hoặc dựa đa phần định tuệ cùng có cho nên nói ở địa vị đẳng tŕ duyên cảnh sở quán. Như cơi trời Hỷ vong (trời Dục giới) chuyên chú vào một cảnh khởi lên tâm tham, sân, đó là có định mà không có tuệ, các loại như thế rất nhiều. Hoặc đối với cảnh sở quán chỉ khởi tâm giản trạch; nghĩa là chỉ dong ruỗi t́m cầu, chứ không chuyên chú (đó chỉ có tuệ không có định).

Hoặc có khi khởi hai tâm Biệt cảnh một lần, đó là khi đối với cảnh đáng ưa và cảnh quyết định, mà khởi lên tâm dục và tâm thắng giải. Hoặc đối với cảnh đáng ưa và cảnh từng tập quen, mà khởi lên tâm dục và niệm. Cứ như thế cho đến đối với cảnh đáng ưa mà khởi lên tâm định và tuệ. Hiệp lại có mười hai trường hợp khởi hai tâm Biệt cảnh.

Hoặc có khi khởi lên ba tâm, đó là đối với cảnh đáng ưa, quyết định và tập quen, mà khởi lên tâm dục, thắng giải và niệm. Như vậy cho đến đối với cảnh từng quán sát khởi lên tâm niệm, định, tuệ. Hợp lại có mười ba trường hợp khởi ba tâm Biệt cảnh.

Hoặc có khi khởi lên bốn tâm, đó là đối với cảnh đáng ưa, quyết định, tập quen và quán sát mà khởi lên tâm dục, thắng giải, niệm định. Như vậy cho đến đối với cảnh quyết định, tập quen và quán sát mà khởi lên bốn tâm dục, thắng giải, niệm, định. Hợp lại có năm trường hợp một lúc khởi lên bốn tâm.

- Hoặc có khi khởi đủ năm tâm, đó là khi đối với cảnh đáng ưa, quyết định, tập quen, quán sát mà khởi lên đủ năm tâm sở Biệt cảnh.

Như vậy đối với bốn trường hợp khởi lên năm tâm sở Biệt cảnh tổng biệt hợp lại có ba mươi mốt trường hợp.

Hoặc khi ở địa vị hữu tâm, cả năm tâm sở Biệt cảnh đều không khởi. Như lúc không phải bốn cảnh, suất nhĩ ở tâm và năm Biệt cảnh tương ưng với Tạng thức. Loại này không phải một.

Ở thức thứ bảy, thứ tám, tùy từng địa vị mà hoặc có hoặc không năm tâm sở Biệt cảnh,  như trước đă nói. C̣n ư thức thứ sáu, ở các địa vị đều có đủ, dù khi chuyển y hay chưa chuyển y đều không ngăn ngại.

- Có ư kiến cho rằng ở năm thức không có năm Biệt cảnh. V́ năm thức duyên cảnh có trước mắt nên không có hy vọng (dục). V́ nó không có  khả năng thẩm xét quyết định, nên không có ấn tŕ (thắng giải). V́ nó hằng duyên cảnh mới nên không có tâm truy ức (niệm). v́ tự tánh nó tán động nên không chuyên chú (định). V́ nó không có  khả năng suy đạt, nên không có lựa chọn (tuệ).

- Có ư kiến cho rằng năm thức đều có đủ năm Biệt cảnh. Tuy không có hy vọng nhiều đối với cảnh nhưng có cảnh vui vi tế yếu ớt. Tuy không có sự thẩm định mạnh nhưng có cảnh ấn tŕ vi tế yếu ớt. Tuy không nhớ rơ cảnh đă từng tập quen nhưng có cảnh ghi nhớ vi tế yếu ớt. Tuy không có tác ư buộc niệm vào một cảnh nhưng có sự chuyên chú vi tế yếu ớt. V́ ngăn đẳng dẫn mà nói tánh nó tán động, chứ không phải ngăn đẳng tŕ. Cho nên được có định (Tam ma hê đa dịch Đẳng dẫn, Tam ma địa dịch Đẳng tŕ. Định có nhập, trú, xuất. Nhập định xuất định là Đẳng dẫn, trú định là Đẳng tŕ). Tuy đối cảnh sở duyên không thể suy đạt nhưng có sự chọn lựa vi tế yếu ớt. Do đó Thánh giáo nói: "Có nhăn thông, nhĩ thông, đó là trí tuệ tương ưng với nhăn thức, nhĩ thức, tỷ, thiệt, thân ba thứ chuẩn theo đây, đều có tuệ" là không có lỗi.

Khi ở địa vị chưa tự tại th́ năm Biệt cảnh hoặc không có, khi được tự tại, năm Biệt cảnh, nhất định phải có. V́ ưa quán các cảnh nên Dục tâm sở không thiếu. V́ ấn tŕ cảnh nên thắng giải thựng không thiếu. v́ nhớ cảnh từng tập quen nên niệm không thiếu.

Lại năm thức của Phật duyên suốt cả ba đời, v́ đức Như Lai không có tâm bất định, v́ năm thức đều có trí Thành sở tác sự.

Năm Biệt cảnh này tương ưng với thọ nào?

- Có ư kiến cho rằng tâm sở Dục có ba thọ tương ưng, trừ thọ khổ và ưu, v́ hai cảnh khổ và ưu không phải đáng ưa (dục). Ngoài ra bốn tâm sở kia thông cả bốn thọ, trừ khổ thọ, v́ tánh thẩm định, ở năm thức không có.

- Có ư kiến cho rằng cả năm tâm sở Biệt cảnh đều tương ưng năm thọ. Luận nói: Ưu căn (ưu thọ), đối với vô thượng pháp mà hâm mộ (Dục tâm sở) lo sầu cầu (ưu) làm sao mau chứng được. C̣n ở chỗ thuần thọ khổ (khổ thọ) th́ hy cầu (Dục tâm sở) được thoát khỏi. Ở Ư thức có khổ thọ căn, th́ như trước đă nói.

Luận nói: "Khi tham ái th́ có cả ưu và khổ tương ưng", tương ưng với tham ái th́ chắc chắn có dục. Khổ thọ căn đă có tương ưng với ư thức, mà y thức tương ưng với thắng giải, niệm, định, tuệ tâm sở, vậy nói khổ thọ cũng tương ưng với thắng giải, niệm, định, tuệ th́ có lỗi ǵ?

- Lại năm Biệt cảnh tương ưng với năm thức, v́ năm thức cũng có sự ấn tŕ, truy ức, chuyên chú, giản trạch cảnh một cách vi tế, như trước đă nói.

Do đó biết dục, thắng giải v.v... tương ưng với cả năm thọ.

Năm thứ tâm sở Biệt cảnh này lại c̣n được phân biệt theo các mặt ba tánh, ba cơi, ba học v.v... như lư nên suy nghĩ.

(Hết cuốn V của bản Hán)

 

previous.png   back_to_top.png   next.png

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

 

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0