佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

Số 1585  Trọn bộ 10 Quyển

Quyển 1  Quyển 2  Quyển 3  Quyển 4  Quyển 5  Quyển 6  Quyển 7  Quyển 8  Quyển 9  Quyển 10

Thành Duy Thức Luận

Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Ḥa Thượng Thích Thiện Siêu
  Mùa An cư P.L. 2539 – 1995

-o0o-

QUYỂN 4

8. Lại Khế kinh nói: "Tất cả hữu t́nh đều nuơng ăn mà tồn tại. Nếu không có thức này th́ cái thể của thức thực (sống bằng các ăn của thức) kia không thể có". Nghĩa là Khế kinh nói: Ăn có bốn cách:

1. Đoàn thực – Làm biến hoại đồ ăn là tướng trạng của cách ăn này. Nghĩa là ở cơi Dục, những đồ vật có hương, có vị, có xúc, trong khi nó biến hoại th́ lấy đó làm ăn. Do dó Sắc không thuộc về đoàn thực, vi khi biến hoại màu sắc không có tác dụng gi nuôi thân.

2. Xúc thực- Tức xúc chạm cảnh là tướng trạng của nó. Nghĩa là khi Xúc tâm sở hữu lậu của hữu t́nh xúc chạm cảnh mà có sự cảm thọ hỷ lạc, th́ có thể lấy đó làm ăn. Xúc tâm sở tuy tương ưng với tất cả các thức, song Xúc tâm sở ở nơi sáu thức trước, có nghĩa "Ăn" mạnh hơn, cảnh xúc chạm ở đây thô phù rơ rệt, nhiếp nhận hỷ, lạc, và xả thọ, thuận ư, ích thân, mà có sự tư dưỡng mạnh hơn.

LTDT: Chứng Minh Có Thức Thứ 8 (trang 8)

3. Ư tư thực - Tức hy vọng là tướng trạng của nó. Nghĩa là Tư tâm sở hữu lậu cùng sinh khởi với Dục tâm sở, hy vọng cảnh đáng ưa, có thể lấy đó làm ăn. Tư tâm sở này tuy tương ưng với tất cả các thức, nhưng "Tư" tương ưng với ư thức có nghĩa ăn mạnh hơn, v́ ư thức đối với cảnh có sự hy vọng mạnh.

4. Thức thực - Tức sự chấp tŕ là tướng trạng của nó. Nghĩa là thức hữu lậu, do thế lực của Đoàn, Xúc, Tư thực tăng trưởng mà có thể thành nghĩa ăn. "Thức" nói đây tuy chung cả tự thể các thức, nhưng thức thứ tám có nghĩa ăn mạnh hơn, v́ thức thứ tám là một loại tương tục chấp tŕ mạng căn mạnh hơn.

Do đó Tập Luận bốn cách ăn này nhiếp vào ba uẩn (sắc, hành, thức uẩn), năm xứ (hương, vị, xúc, pháp và ư xứ), mựi một giới (hương, vị, xúc, pháp, ư và sáu thức giới). Bốn sách ăn này có  khả năng duy tŕ thân mạng hữu t́nh, không để bị hư mất, nên gọi là ăn.

Đoàn thực chỉ có tác dụng ỏ cơi Dục, Xúc và Ư tư thực tuy có ở cả ba cơi, nhưng nương nơi sáu thức mà chuyển, nên tùy theo thức mà hoặc có hoặc không. Các chuyển thức nhăn, nhĩ v.v... có gián đoạn, có biến chuyển, không phải cùng khắp hằng thời duy tŕ thân mạng. Nghĩa là khi ở định vô tâm (Vô tưởng định, Diệt tận định), khi ngủ mê, khi chết ngất, khi ở cơi trời Vô tưởng, các chuyển thức bị gián đoạn. Giả sử ở địa vị hữu tâm, tùy căn sở y, cảnh sở duyên mà chuyển dịch theo ba tánh, ba cơi, chín địa, nên đối với việc duy tŕ thân mạng, các chuyển thức không biến khắp, không hằng thời làm sao duy tŕ được.

Những người chấp không có thức thứ tám, vậy nương vào đâu để có Thức thực? Và do đâu mà kinh nói: "Tất cả hữu t́nh đều nương nơi ăn mà tồn tại?" Cũng không thể bảo ở địa vị vô tâm, tuy không có thức hiện hành nhưng dùng thức quá khứ, vị lai không hiện tại, không thường hằng, như hoa đốm giữa không, không có thật thể thật dụng, hay dù cho có thật thể thật dụng mà không phải ở hiện tại, th́ nó như hư không, không thành ăn được.

Cũng không thể nói tâm nhập định là món ăn của hữu t́nh ở địa vị vô tâm, v́ khi ở vô tâm th́ tâm gia hạnh nhập định đă không c̣n nữa. Nó thuộc về quá khứ, không phải là ăn, việc ấy đă thành tựu rốt ráo rồi.

Lại không thể nói: "Pháp Bất tương ưng hành" ở Vô tưởng định là món ăn cho hữu t́nh nhập Vô tưởng định; v́ pháp Bất tương ưng hành không nhiếp thuộc bốn cách ăn, v́ ĺa sắc tâm, nó không thật có.

Có người chấp ở Diệt tận định c̣n thức thứ sáu, nó đối với hữu t́nh ở Diệt tận định có thể là món ăn. Lối chấp đó cũng phi lư, đến đoạn sau sẽ phá rộng. Lại kia thử nói hữu t́nh sanh vào hai cơi Sắc và Vô sắc, khi khởi tâm vô lậu th́ lấy ǵ làm ăn? V́ thức vô lậu là phá hoại các hữu (cơi), nên thức vô lậu không thể là món ăn đối với thân mạng hữu t́nh ở hai cơi đó.

Cũng không thể chấp trong thức vô lậu có chủng tử hữu lậu, có thể làm thức ăn cho hữu t́nh kia, vi thức vô lậu giống như Niết bàn  không thể chấp tŕ chủng tử hữu lậu.

Lại không thể nói, thân và mạng của hữu t́nh ở thượng giới duy tŕ lẫn nhau tức là làm món ăn cho nhau, v́ trong bốn cách ăn không nhiếp thuộc vào mạng thân kia (trong bốn cách ăn, không có thân mạng thực). Lại ở cơi Vô sắc không thân, th́ mạng không thể duy tŕ, v́ là chúng đồng phận giữa các hữu t́nh không có thật thể.

Do đó biết chắc khác với chuyển thức, có thức Dị thục một loại thường hằng và biến khắp, chấp tŕ thân mạng không để cho hoại mất. Nương theo lẽ đó, đức Thế Tôn nói: "Tất cả hữu t́nh đều nương nơi ăn mà tồn tại". Và chỉ nương nơi năm thủ uẩn mà kiến lập hữu t́nh. Phật không có ngũ uẩn hữu lậu, nên không nhiếp vào hữu t́nh. Nói "Hữu t́nh nương ăn mà tồn tại" nên biết đó là nói theo cách thị hiện quyền xảo (tức nói nghĩa bóng).

Đă biết Dị thục thục là có tính cách ăn hơn cả, mà thức đó chính là thức thứ tám này vậy.

9. Lại Khế kinh nói: - Người ở Diệt tận định, thân, ngữ và tâm hành của họ đều diệt mất (thân hành chỉ hơi thở ra vào, ngữ hành chỉ tầm tư, ư hành chỉ thọ, tưởng), nhưng mạng sống (thọ) không diệt, và cũng không bỏ hơi nóng, nên các căn không biến hoại, "thức không ĺa thân"; "Nếu không có thức Dị thục này th́ người ở Diệt tận định không thể có "thức không ĺa thân". Nghĩa là v́ thấy nhăn thức v.v... hành tướng thô động đối với cảnh sở duyên, khi khởi nhăn thức v.v... thường bị lao lự, nên chán ghét nó, tạm thời cầu sự ngừng nghỉ, dần dần dẹp trừ nhăn thức v.v... không khởi lên cho đến khi hết sạch, chính nương ở vị trí đó mà trụ trong Diệt tận định. Cho nên ở trong Diệt tận định, các chuyển thức đều diệt, nếu không chấp nhận có thứ thức vi tế trước sau một loại thường hằng biến khắp chấp tŕ Thọ, Noăn, th́ nương vào đâu để kinh nói: "Thức không ĺa thân?"

Nếu bảo lúc sau khi ra khỏi Diệt tận định, chuyển thức kia khởi trở lại như sốt rét cách ngày, nên gọi là thức không ĺa thân; nếu thế thời không nên nói: "Tâm hành diệt"; v́ sáu thức và thọ tưởng khởi diệt đồng nhau. Lại Thọ, Noăn và các căn nếu cũng nhu sáu thức th́ có lỗi lớn, Cho nên, nên chấp nhận có thức thứ tám cũng như Thọ và Noăn, thật không ĺa thân.

Lại ở trong địa vị Diệt tận định, nếu hoàn toàn không có thức th́ như ngói gạch, chẳng phải loài hữu t́nh, đâu được nói đó là người ở Diệt tận định.

Lại nếu ở địa vị Diệt tận định không có Dị thục thức th́ cái ǵ chấp tŕ các căn và Thọ, Noăn? Nếu không chấp tŕ th́ phải hoại diệt hết, giống như thây chết, bèn không có Thọ, Noăn. Đă vậy, chắc về sau thức không sanh trở lại mà vẫn nói: "Thức không ĺa thân" th́ cái thức đó thuộc về thức ǵ? V́ các Dị thục thức bỏ thân này rồi, ĺa thân này gá vào thân khác, th́ không phải là sanh trở lại.

Lại nếu ở địa vị Diệt tận định này không có thức duy tŕ chủng tử, không có chủng tử th́ về sau thức làm sao sanh lại được. Pháp quá khứ, vị lai và Bất tương ưng hành, chẳng có thật thể, điều này đă được thành lập rồi. C̣n các sắc pháp, ĺa thức th́ đều không có. Ngoài thức thứ tám mà có việc thọ huấn và tŕ chủng th́ cũng đă ngăn trước kia rồi.

Nhưng ở địa vị vô tâm như Diệt tận định cũng giống như ở trong địa vị hữu tâm, chắc phải có thức này, v́ có đủ các căn và Thọ, Noăn, tức là nhiếp thuộc hữu t́nh (không kể vô tâm hay hữu tâm).

Do lẽ đó, ở địa vị Diệt tận định, quyết phải có thức thật không ĺa thân.

- Nếu bảo ở địa vị Diệt tận định có thức thứ sáu gọi là: "Thức không ĺa thân" th́ cũng không đúng lư, v́ định này cũng gọi là định vô tâm (không có thức thứ sáu).

Nếu chấp không có năm thức gọi là vô tâm, th́ có thể tất cả định đều gọi là vô tâm định, v́ tất cả định đều không có năm thức thân.

Ư thức nhiếp vào trong sáu chuyển thức, giống như năm thức, ở Diệt tận định nó không có. Hoặc nói thức ở trong địa vị Diệt tận định, hành tướng và sở duyên của nó đều không thể biết, như Thọ và Noăn, th́ đó không phải là đệ lục thức.

Nếu ở địa vị Diệt tận định có cái thức mà hành tướng và sở duyên của nó đều có thể biết, th́ đó lại giống như ở các địa vị khác, chứ không nhiếp vào địa vị Diệt tận định này. Vốn v́ muốn ngưng nghỉ cái thức có hành tướng và sở duyên có thể biết rơ, mới nhập Định diệt này.

Lại nếu ở địa vị Diệt tận định có thức thứ sáu, thế th́ Tâm sở pháp của thức này có hay không? Nếu có tâm sở th́ kinh không nên nói: "Trú ở định này, tam hành đều diệt". Lại không nên gọi là Định diệt thọ tưởng.

Chấp: - Khi tu gia hạnh về định này là chỉ cốt nhàm chán thọ và tưởng, cho nên ở trong định này chỉ diệt thọ và tưởng. Thọ và tưởng giúp tâm rất mạnh, nên ở trong các Tâm sở, riêng nó được gọi là tâm hành, như vậy nói tâm hành diệt (là chỉ diệt thọ tưởng chứ không diệt Tâm Tâm sở) có ǵ trái đâu?

Luận chủ - Trong Vô tưởng định, chỉ nên một ḿnh tưởng diệt, v́ chỉ nhàm chán tưởng, nhưng ông không chấp nhận (chỉ tưởng diệt) và như vừa nói chỉ có thọ và tưởng giúp tâm rất mạnh, vậy khi hai thứ ấy diệt, tâm cũng phải diệt?

Chấp: - Không, tâm (thức thứ sáu) không diệt, cũng như thân hành (hơi thở ra vào) diệt mà thân vận tồn tại, tại sao cứ phải trách tâm đồng diệt với hành (thọ, tưởng)?

Luận chủ: - Nếu vậy, khi ngữ hành tầm tư diệt, ngôn ngữ không nên diệt. Nhưng điều này không được chấp nhận.

Nhưng (hành) đối với pháp có thứ biến khắp, có thứ không biến khắp. Khi thứ hành biến khắp diệt, th́ pháp quyết phải diệt theo,nhưng khi thứ hành không biến khắp diệt, th́ pháp hoặc diệt hoặc không.

Thứ hành không biến khắp là chỉ cho hơi thở ra vào (thân hành); v́ thấy khi hơi thở dứt mà thân vẫn c̣n.

Tâm tầm tư đối với ngữ, thuộc loại hành biến khắp, nên khi tầm tư diệt th́ ngữ phải diệt.

Thọ và tưởng đối với tâm cũng là loại hành biến khắp cũng như Tư tâm sở, thuộc loại đại địa pháp (mười đại địa pháp là năm Biến hành, năm Biệt cảnh, năm thứ này biến khắp hết thảy tâm), nên khi thọ và tưởng diệt, tâm nhất định diệt theo. Chứ làm sao có thể nói thọ, tưởng diệt mà tâm (ư thức) không diệt?

Lại (Hữu bộ) cho rằng: "Tư là thuộc đại điạ pháp", vậy th́ khi thọ, tưởng diệt, tư kia cũng nên diệt? Nếu tư diệt, th́ ở địa vị Diệt tận định này, tín cũng không có. V́ không thể bảo Tâm sở biến hành diệt mà các Tâm sở khác như tín v.v... có thể không diệt, làm sao nói c̣n có các Tâm sở khác trừ thọ và tưởng? Nếu đă chấp nhận thọ và tưởng cũng như tư thuộc đại địa pháp, th́ ở địa vị này tư đă có th́ thọ, tưởng cũng nên có.

Lại trong Diệt định này, nếu có tư th́ cũng nên có xúc, v́ các Tâm sở khác đều nương năng lực của xúc mà phát sanh. Nếu chấp nhận có xúc th́ cũng nên có thọ, v́ xúc làm duyên cho thọ. Đă chấp nhận có thọ, th́ tưởng cũng nên có, v́ thọ và tưởng không rời nhau.

Chấp: - Như "thọ" làm duyên sanh "ái", không có nghĩa tất cả thọ đều có thể làm duyên sanh ái, cho nên xúc làm duyên sanh thọ, không có nghĩa tất cả xúc đều làm duyên sanh thọ. Do đó, vấn nạn nêu trên không đúng lư.

Luận chủ: -  Ông cứu chữa như vậy không đúng, v́ có sự sai khác. Nghĩa là đức Phật tự giản biệt nói chỉ có các thọ do "vô minh xúc" làm duyên sanh ra, thọ đó mới làm duyên sanh ái, chứ chưa bao giờ Phật giản biệt nói (chung chung) xúc sanh thọ, cho nên nếu hễ có xúc tất là có thọ. Thọ với tưởng đi đôi, lẽ đó chắc chắn. Hoặc nên như ở các địa vị tán tâm khác, thọ tưởng đều không diệt.

Chấp trong địa vị Diệt định có Tâm tư sở. Nếu thừa nhận thế th́ trái vói lời nói "Tâm hành diệt"; và và cũng không thành được Định diệt thọ tưởng.

Nếu không Tâm sở, th́ sáu thức Tâm vương cũng không, không bao giờ thấy có tâm nào ĺa Tâm sở; v́ các Tâm sở Biến hành mà diệt th́ Tâm vương diệt theo. Nếu bảo có Tâm vương mà không có Tâm sở th́ thọ tưởng không phải là đại địa pháp, lại thức này không thể là pháp có Tâm sở tương ưng. Nếu thừa nhận như thế th́ không thể có căn sở y và cảnh sở duyên, nó giống như sắc pháp v.v... cũng không thể gọi là tâm.

Lại Khế kinh nói: "Ư và pháp làm duyên sanh ra ư thức, ba thứ ḥa hợp sanh ra xúc, nơi xúc cũng khởi lên có thọ, tưởng, tư". Nếu trong Định diệt tận có ư thức v́ là có ba sự ḥa hợp, phải là có xúc, và xúc chắc chắn cũng khởi với thọ, tưởng và tư. Vậy tại sao có thức mà lại không có Tâm sở?

Nếu bảo trong những lúc khác, ba sự ḥa hợp có năng lực mới thành xúc đối, sanh xúc Tâm sở, và xúc ấy mới khởi sanh thọ. Do ở định này, trước khi vào định, v́ chán ghét Tâm sở, nên khi ở trong định, ba sự không có  khả năng, không thành xúc đối, nên không sanh xúc, cũng không có thọ.

Nếu vậy, nên gọi là Định diệt Tâm sở chứ tại sao chỉ nói diệt thọ tưởng?

Nếu bảo trong khi nhàm chán thọ tưởng, nên khi hai thứ đó diệt, tâm sở khác cũng diệt luôn, y hệt sự nhàm chán trước đó, để gọi tên là Định diệt tận.

Nếu đă vậy, trong diệt định đó tâm thứ sáu cũng nên diệt, v́ Tâm sở thọ tưởng bị nhàm chán cùng sanh với các Tâm sở khác. Không vậy th́ làm sao gọi là Định vô tâm (Diệt tận định cũng gọi là Định vô tâm).

lại ở địa vị Diệt tận định này, ư thức thuộc tánh ǵ? Không thể là nhiễm hay vô kư tánh; v́ trong các thiện định, không có việc đó; v́ những Tâm vương nhiễm và vô kư, th́ tức là có Tâm sở, không nên chán thiện mà trở lại khởi lên nhiễm; v́ không phải cầu tịch tịnh mà lại khởi lên tán động.

Nếu bảo ư thức trong Diệt tận định này là thiện, th́ có thể là tương ưng thiện, nên tương ưng với vô tham thiện căn v.v... Tâm thứ sáu trong định đó không thể là tự tánh thiện, hoặc thắng nghĩa thiện, v́ trái với tôn chỉ ḿnh, tâm đó không phải là thiện căn như vô tham và Niết bàn.

Nếu bảo tâm trong định đó là đẳng khởi thiện, do gia hạnh thiện căn dẫn phát ra, th́ lư cũng không đúng, v́ trái với tôn chỉ của ḿnh. Giống như các thiện tâm trong các địa vị khác, không phải là đẳng khởi thiện. V́ thiện tâm không gián đoạn khởi lên đủ ba tánh thiện, ác, vô kư, tại sao thiện tâm lại do trước đẳng khởi ra? Cho nên tâm nếu là thiện, là do sức Tâm sở tương ưng. Đă vậy, tất cùng vô tham thiện căn tương ưng, làm sao nói riêng thiện tâm thứ sáu trong Diệt định này không có Tâm sở? Định này đă không có Tâm sở th́ Tâm vương thứ sáu cũng phải không.

- Cứ như vậy suy gạn, biết các chuyển thức nhăn, nhĩ ... khi ở địa vị Diệt định, nó không phải là thứ "Thức không rời thân". Cho nên Khế kinh nói: "Thức không rời thân" chính là chỉ cho thức thứ tám này, v́ khi nhập Diệt định, không phải cốt để ngưng nghỉ cái thức chấp tŕ rất tịch lặng này vậy.

- Cái thức ở trong Vô tưởng định, Vô tưởng thiên, cứ loại theo đây mà biết.

  10. Lại Khế kinh nói: "V́ tâm tạp nhiễm nên hữu t́nh tạp nhiễm, v́ tâm thanh tịnh nên hữu t́nh thanh tịnh". Nếu không có thức này th́ tâm tạp nhiễm thanh tịnh kia không có. Nghĩa là pháp tạp nhiễm thanh tịnh lấy tâm làm gốc, nhân tâm mà sinh, nương tâm mà trụ, tâm nhận sự huân tập pháp nhiễm tịnh, lại duy tŕ chủng tử pháp nhiễm tịnh kia.

- Nhưng pháp tạp nhiễm lược có ba thứ: phiền năo, nghiệp quả, chủng loại khác nhau. Nếu không có thức này duy tŕ chủng tử phiền năo, khi hữu t́nh từ thượng giới, thượng địa sanh trở lại hạ giới, hạ địa, tức sau lúc không có tâm nhiễm ô ở thượng giới, lại khởi lên các phiền năo nhiễm ô ở hạ giới, phiền năo này khởi lên như thế đều không có nhân, v́ các pháp th́ không thể duy tŕ được chủng tử phiền năo hạ địa kia, C̣n tâm pháp quá khứ và vị lai lại không phải thật có. Nếu các phiền năo khởi trở lại ấy không nhân mà vẫn khởi, thời sẽ không có quả vị Học và Vô học của ba thừa. V́ sao? V́ các phiền năo đă dứt rồi, đều không nhân mà lại có thể khởi lên nữa.

Nếu không có thức thứ tám này duy tŕ chủng tử của nghiệp quả, th́ hữu t́nh sau khi qua lại giới và địa, đây kia, với nhiều loại tịnh nhiễm, các nghiệp và quả khởi lên sau đó cũng không có nhân. Hoặc chấp do nhân chủng tử khác sanh ra quả khác, hoặc chấp sắc tâm làm nhân duyên sanh ra nhau, hoặc chấp pháp ǵ khác duy tŕ chủng tử, th́ trước đây đă ngăn chận rồi.

Nếu các nghiệp và quả, không nhân mà vẫn sanh, vậy th́ sau khi nhập Vô dư y Niết bàn, nghiệp và quả trong ba cơi vẫn sanh trở lại, v́ phiền năo cũng có thể không nhân mà vẫn sanh.

Lại "hành làm nhân duyên sanh thức" (mà không có thức thứ tám), không thể thành được, v́ các chuyển thức nhận chịu sự huân tập, là việc trước đây đă ngăn chận. Cũng không phải "Kiết sanh thức ô nhiễm" v́ nó không phải do "hành" chiêu cảm, mà nói "hành" làm duyên cho "danh sắc" cũng không được, v́ giữa hành và danh sắc thời gian và phận vị cách xa nhau, không có nghĩa làm duyên được. Đây nói "hành làm duyên sanh sắc" đă không thành, th́ các chi sau như nói "hành làm duyên lục nhập", "thủ làm duyên sanh lăo tử" cũng không thành.

- Các pháp thanh tịnh cũng có ba thứ khác nhau là đạo chủng thế gian, đạo chủng xuất thế gian và quả đoạn dứt. Nếu không có thức Dị thục này duy tŕ đạo chủng thanh tịnh của thế gian và xuất thế gian, th́ sau khi tâm khác loại (tâm thế gian khởi lên tâm xuất thế gian) khởi lên pháp thanh tịnh thế, xuất thế đều có thể không nhân mà khởi. C̣n nếu chấp do nhân khác mà khởi, th́ trước đă phá rồi.

Nếu hai đạo chủng thanh tịnh (là thế và xuất thế) không nhân mà sanh, thời sau khi nhập Vô dư Niết bàn giới rồi, hai đạo chủng thanh tịnh kia nên sanh trở lại, v́ chỗ nương của hai đạo thanh tịnh là thân trí cũng có thể không nhân mà sanh lại.

Lại tịnh tâm đạo xuất thế lúc đầu không thể sanh v́ không có cái ǵ duy tŕ tịnh tâm đạo chủng pháp nhĩ vốn có đó, v́ pháp hữu lậu th́ khác loại không phải là nhân của đạo chủng vô lậu. Không nhân mà sanh là không phải do chủng tử trong thức sanh, không có chủng tử th́ xuất thế đạo lúc đầu không sanh, lúc sau cũng không sanh. Thế th́ có thể không có đạo và quả ba thừa.

Lại nếu không có thức này duy tŕ chủng tử phiền năo th́ quả chuyển y do đoạn phiền năo mà chứng được th́ cũng không thành. Nghĩa là khi Thánh đạo khởi lên th́ phiền năo hiện hành và chủng tử của nó đều không có, v́ hai tâm nhiễm và tịnh không thể cùng khởi một lúc. Tâm thứ sáu tương ưng với Thánh đạo, quyết không duy tŕ chủng tử phiền năo, v́ tự tánh phiền năo và Thánh đạo trái ngược nhau, như tánh Niết bàn với pháp ô nhiễm.

Pháp quá khứ, vị lai và đắc (Thánh đạo) cùng các pháp khác đều không phải thật có (nên không duy tŕ chủng tử và thành đoạn quả). Nếu nói các pháp khác đó duy tŕ chủng tử phiền năo th́ lư cũng không thành.

Đă không có phiền năo bị đoạn trừ, th́ đạo đoạn trừ phiền năo cũng không, nương đâu do đâu để lập đoạn quả? Nếu do đạo lực làm cho phiền năo lúc sau không sanh, để lập đoạn quả, thời lúc mới có thành đạo khởi lên là đă có thể thành bậc Vô học, v́ các phiền năo lúc sau đều không có nhân, vĩnh viễn không sanh vậy.

Nếu chấp nhận có thức Dị thục này, th́ mọi sự nhân quả nhiễm tịnh đều thành, v́ chỉ có thức này mới có  khả năng duy tŕ các chủng tử nhiễm tịnh.

Chứng minh có thức thứ tám này, lư thú nhiều vô cùng, chỉ sợ văn dông dài, nên lược thuật cương yếu.

Giáo và lư đă chứng minh hiển nhiên riêng có thức thứ tám này, những người có trí nên sanh tâm thâm tín thọ tŕ. (22).

 Trong kinh thuộc các bộ phái Phật giáo cũng mật ư nói riêng thức A lại da, như trong kinh A cấp ma (A hàm) của Đại chúng bộ, có chỗ mật ư nói thức này gọi là Căn bản thức, là chỗ nương của nhăn thức v.v... ví như cội cậy là gốc của nhánh lá, chứ không phải nhăn thức v.v... có được nghĩa đó.

- Trong kinh thuộc phái Thượng tọa bộ và Phân biệt luận giả, đều có mật ư nói thức này gọi là Hữu phần thức. Hữu là tam hữu (ba cơi), phần là nhân. Chỉ có thức này thường hằng cùng khắp mới có thể làm nhân của Tam hữu.

- Hóa địa bộ nói thức này là Cùng sanh tử uẩn. Ĺa thức thứ tám không thể riêng có pháp uẩn nào đi đến tận cùng ngằn mé sanh tử, không bao giờ gián đoạn. Nghĩa là ở cơi trời Vô sắc bị gián đoạn, ở cơi trời Vô tưởng th́ các tâm khác bị diệt mất, c̣n tâm Bất tương ưng hành pháp th́ ĺa sắc và tâm không thể tự có. Đó là điều đă được công nhận. Cho nên biết chỉ có thức A lại da này mới gọi là Cùng sanh tử uẩn.

- Trong kinh Tăng Nhứt thuộc phái Thuyết Nhất thiết Hữu bộ cũng mật ư nói: Thức này gọi là A lại da như nói ái A lại da, lạc A lại da, hân A lại da, hỷ A lại da, nghĩa là ḷng tham của Mạt na đối với A lại da (Àlya - răma, Àlya - rata, Àlya - sammudita) trong ba đời tổng có và biệt khác nhau, nên lập ra bốn tên ấy. Loài hữu t́nh chấp nó làm tự nội ngă thật, cho đến khi chưa chấm dứt cái chấp đó, th́ luôn luôn sanh tâm ưa đắm nó. Cho nên A lại da thức mới là chỗ thật đáng ưa đám, chứ không chịu chấp "năm thủ uẩn", v́ khi sanh vào chỗ thuần chịu khổ th́ không ưa đắm thân năm thủ uẩn ở đó, mà thường xuyên chán ghét thân năm thủ uẩn đó, nghĩ rằng ta lúc nào sẽ xả bỏ được mạng căn năm thủ uẩn này, chúng đồng phận này, thân tâm đau khổ này, để cho ta được tự tại hưởng khoái lạc.

Năm dục cũng chẳng phải là chỗ thật đáng ưa đắm, nghĩa là người ĺa dục, tuy họ không c̣n tham ưa năm dục, nhưng họ vẫn ưa cái ta của ḿnh.

Lạc thọ cũng không phải là chỗ thật đáng ưa đắm, nghĩa là người xa ĺa tạp nhiễm đệ Tam Thiền, tuy họ chán lạc thọ của đệ Tam Thiền, nhưng họ vẫn ưa cái ta của ḿnh.

Thân kiến cũng chẳng phải là chỗ thật đáng ưa đắm, nghĩa là những người không phải là bậc vô học nhưng tin lư vô ngă, tuy họ không sanh ḷng ưa đắm thân kiến, song đối với cái ta bên trong họ vẫn ưa đắm.

Các chuyển thức cũng chẳng phải cũng chẳng phải là chỗ thật đáng ưa đắm, nghĩa là những người không phải vô học nhưng cầu diệt Tâm, tuy họ chán ghét các chuyển thức, nhưng họ vẫn ưa cái ta của ḿnh.

Sắc thân cũng chẳng phải cũng chẳng phải là chỗ thật đáng ưa đắm, nghĩa là những người ĺa sắc ô nhiễm, tuy họ chán ghét sắc thân, nhưng họ vẫn ưa cái ta của ḿnh.

Bất tương ưng hành pháp ĺa Sắc và Tâm không thể tự có cho nên cũng chẳng phải là chỗ thật đáng ưa đắm.

Kẻ Dị sanh, hàng Hữu học trong khi khởi ngă ái, tuy đối với các uẩn khác hoặc có ái, không ái, nhưng đối với thức thứ tám này luôn luôn vẫn ưa chấp đó làm ngă.

Cho nên chỉ có thức thứ tám này là chỗ thật đáng ưa đắm. Do đó trong kinh Tăng Nhất nói đến tên A lại da chính để hiển thị thức A lại da này vậy.

- Trên đây đă dẫn Thánh giáo làm chứng có thức A lại da. Bây giờ sẽ hiển bày chánh lư làm chứng.

1. Khế kinh nói: Chỗ tập hợp và phát khởi chủng tử các pháp ô nhiễm, thanh tịnh đó gọi là tâm. Nếu không thức này th́ cái Tâm giữ ǵn chủng tử kia không có được. Các chuyển thức khi ở Diệt tận định v.v... bị gián đoạn. Các căn, các cảnh, tác ư, thiện tâm v.v... chủng loại khác nhau, dễ sanh, dễ mất như điền chớp, không chắc chắn, không thể huân tập, không thể giữ ǵn chủng tử, nên chẳng phải là cái tâm tập hợp và phát khởi các chủng tử nhiễm tịnh. Chỉ có thức thứ tám này, một loại trước sau tương tục không gián đoạn, có tánh kiên trụ và có thể chịu huân tập như mè, là tương đương với nghĩa chữ Tâm của kinh nói. Nếu không chấp nhận có Tâm giữ ǵn chủng tử th́ không những trái kinh mà cũng trái với chánh lư. V́ các pháp nhiễm tịnh được khởi lên không do được huân tập. Không huân tập thành chủng tử, th́ sự khởi lên đó chỉ là uổng công. Khi pháp nhiễm tịnh khởi lên đă không nhân nơi chủng tử, thời đồng như ngoại đạo chấp tự nhiên sanh.

- Sắc và pháp Bất tương ưng hành không phải là Tâm, ví như tiếng vang, như ánh sáng, không phải là chỗ của pháp nhiễm tịnh bên trong huân tập, th́ nó đâu có thể giữ ǵn chủng tử. Lại những pháp Sắc và Bất tương ưng này ĺa thức không thể tự có, th́ làm sao chấp nó làm chỗ nương cho chủng tử bên trong?

Các Tâm sở pháp tương ưng với chuyển thức, nó như chuyển thức có gián đoạn, dễ khởi dễ mất, không tự tại, không phải Tâm, nên không thể giữ ǵn chủng tử, cũng không chịu sự huân tập. Cho nên đúng lư phải có cái Tâm giữ ǵn chủng tử riêng.

- Có thuyết cho rằng sáu thức từ vô thỉ, nương nơi căn và cảnh có phận vị trước sau, thức thể tùy ba tánh chuyển biến, song đồng một loại, nên có thể chịu sự huân tập và giữ ǵn chủng tử. Do đó thành nhân quả nhiễm tịnh, chứ cần ǵ phải chấp có thức thứ tám?

- Lời nói đó vô nghĩa. V́ sao? V́ nếu chấp thức loại có thật th́ đồng với ngoại đạo Thắng luận. Nếu chấp thức loại là giả th́ không có tác dụng mạnh mẽ, nên không thể giữ ǵn chủng tử thật của nội pháp.

Lại chấp thức loại đó, nó nhiếp thuộc tánh ǵ? Nếu là tánh thiện, ác, thời không thể chịu sự huân tập, v́ nó thuộc hữu kư, giống như Trạch diệt vô vi. Nếu nó là vô kư, th́ khi tâm thiện hoặc ác nổi lên, là không có tâm vô kư, thức loại ấy tát phải đoạn, không thể nói sự thể của thức có thiện, có ác mà loại chỉ là vô kư, v́ loại khác nhau th́ cũng đồng như tánh thể thức khác nhau.

Loại ở địa vị vô tâm, thức loại này quyết không có. Đă có gián đoạn, tánh không kiên trụ, th́ làm sao chấp nó có thể giữ ǵn chủng tử và chịu sự huân tập.

Lại A la hán  hoặc tâm loài Dị sanh, sáu thức loại đồng là vô kư, thể thời có thể A la hán huân tập các pháp nhiễm, loài Dị sanh lại huân tập pháp vô lậu. Chấp nhận thế th́ có lỗi.

Lại các căn nhăn, nhĩ v.v... hoặc các pháp khác cùng với nhăn thức, mà loại của căn,loại của pháp và loại của thức đó đồng là vô kư, th́ nó nên huân tập lẫn nhau. Nhưng các ông không chấp nhận như thế. Thế nên, không nên chấp thức loại chịu sự huân tập.

Lại sáu thức, hoặc tự thể hoặc chủng loại của nó trước sau hai niệm đă không cùng khởi một lần, như cách nhiều niệm trước sau th́ không thể huân tập nhau, v́ năng huân và sở huân phải đồng thời.

Đối với người chấp "sáu thức cùng lúc sanh khởi có thể huân nhau", (năm thức trước cùng lúc huân thức thứ sáu) th́ do ư thú đă nói trên mà biết thức thứ sáu đă không phải sở huân, nên nó cũng không thể giữ ǵn chủng tử.

 - Có người chấp Sắc, Tâm, tự loại không gián đoạn, niệm trước làm chủng tử cho niệm sau, lư nhân quả được thành. Cho nên lời nói trước đây (nói tập khởi gọi là Tâm để chỉ thức A lại da) làm chứng không thành.

- Lối chấp kia phi lư, v́ không có sự huân tập. Nghĩa là tự loại niệm trước sau kia đă không có sự huân tập, th́ làm sao chấp niệm trước làm chủng tử cho niệm sau? Lại nữa, tự loại có gián đoạn th́ không thể sanh trở lại, và hàng Nhị thừa vô học không có thân ngũ uẫn đời sau, v́ ngựi kia lấy sắc tâm khi chết làm chủng tử cho thân sau.

Cũng không nên chấp Sắc, và Tâm lần lượt làm chủng tử sanh ra nhau, v́ chuyển thức và sắc đều không chịu sự huân tập, như trước đă nói rồi.

- Có thuyết cho rằng các pháp ba đời đều có nhân chiêu cảm quả, quả thù đáp nhân, chứ nhọc ǵ phải chấp có thức thứ tám giữ ǵn chủng tử. Nhưng Khế kinh sở dĩ nói tâm là chủng tử, v́ tâm có công dụng thế mạnh khởi lên pháp nhiễm tịnh.

- Lời nói các pháp ba đời đó phi lư. V́ qúa khứ và vị lai chẳng phải thường, chẳng phải hiện có, giống như hoa đốm giữa không, không phải thật có. Lại nói không có tác dụng, không thể chấp nó làm nhân duyên được. Nếu không có thức thứ tám giữ ǵn chủng tử nhiễm tịnh, th́ lư nhân quả không thành.

- Có người chấp lư "không, vô tướng" của Đại thừa là rốt ráo, chỉ nương theo tợ tỷ lượng mà bác sạch hết, chẳng những không có thức này cũng không có hết thảy pháp. Những người này chỉ làm trái hại lời kinh đă dẫn ở trước, đối với việc tri Khổ, đoạn Tập, chứng Diệt, tu Đạo, nhân quả nhiễm tịnh, họ đều chấp cho là không thật, thời thành đại tà kiến. Ngoại đạo hủy báng nhân quả nhiễm tịnh, cũng không bảo là hoàn toàn không có, mà chỉ chấp cho là không phải thật. Nếu hết thảy đều không thật có, thời các Bồ tát không nên v́ xả bỏ sanh tử không thật có mà tinh cần tu tập tư lương Bồ đề không thật có. Ai là ngựi có trí lại đi t́m đứa con của người con gái đá, lập đội quân để đánh địch mộng huyễn?

Cho nên, nên tin có có tâm giữ ǵn chủng tử, mà dựa vào đó kiến lập nhân quả nhiễm tịnh. Và tâm kia tức là thức thứ tám này vậy.

2. Lại Khế kinh nói: Có tâm Dị thục do nghiệp thiện ác chiêu cảm. Nếu không có thức thứ tám này th́ tâm Dị thục kia không thể có. V́ nhăn thức v.v... có gián đoạn không phải lúc nào cũng là nghiệp quả (khi nó vô kư là nghiệp quả, khi nó khởi thiện, ác, th́ không phải nghiệp quả), ví như điền chớp, nên chẳng phải là tâm Dị thục, tâm Dị thục không thể dứt rồi lại nối, v́ mạng căn (Dị thục) không có việc ấy.

Sáu thức nhăn, nhĩ, v.v... do nghiệp chiêu cảm, ví như âm thanh không phải hằng số tiếp nối, nó là Dị thục sanh chứ không phải chơn Dị thục.

Quyết định phải chấp nhận có tâm chơn Dị thục thù đáp lại dẫn nghiệp, biến khắp không gián đoạn, biến hiện căn, thân, khí giới làm chỗ nương cho hữu t́nh, v́ căn thân khí giới ĺa tâm Dị thục không thể có được. Bất tương ưng hành pháp th́ không có thật thể; các chuyển thức th́ không phải hằng có. Nếu không tâm Dị thục này th́ cái ǵ biến ra căn thân khí giới; lại nương nơí pháp ǵ mà luôn có loài hữu t́nh.

Lại khi ở trong định không tư lự ǵ hết, hoặc khi không ở trong định th́ có tư lự chuyện khác, vẫn thường khởi lên nhiều sự cảm thọ nơi thân. Nếu không có tâm Dị thục chấp giữ cảm thọ đó th́ không thể lúc sau đó thân có sự vui thích hoặc lao tổn. Nếu không hằng có tâm Dị thục th́ làm sao khi ra định lại có sự cảm thọ nơi thân này?

Ở điạ vị những loài hữu t́nh không phải là Phật, khởi lên các tâm thiện khác, chắc phải tâm chơn Dị thục đồng thời hiện khởi.

Hỏi: Sao riêng Phật không có tâm Dị thục?

Đáp: - Như chấp nhận khi khởi lên tâm chơn Dị thục kia, th́ đó là các loài hữu t́nh chứ chẳng phải Phật.

Do đó các hữu t́nh thường có tâm chơn Dị thục và tâm ấy chính là thức thứ tám này.

3.Lại Khế kinh nói: Loài hữu t́nh lưu chuyển trong năm thú bốn loài sanh. Nếu không có thức này th́ cái thể của năm thú bốn loài sanh (giới thú sanh thể) kia không thể có được. Nghĩa là phải có đủ bốn nghĩa là thật có, hằng thường, biến khắp, không lộn xộn mới có thể lập chính cái pháp đó làm thể của năm thú, bốn loài sanh. Nếu pháp không phải Dị thục, th́ thể thú sanh sẽ rối loạn, trụ ở đây mà khởi lên pháp nơi thú sanh khác.

Các sắc Dị thục và một phần do nghiệp cảm ở trong năm thức, nó không biến khắp thú sanh, v́ ở trong cơi vô sắc, hoàn toàn không có sắc và không có năm thức hiện hành. Các điều thiện sanh ra đă có (báo đắc) và những điều do nghiệp cảm ở trong ư thức tuy khắp thú sanh, khởi lên không rối loạn, nhưng không hằng có.

Bất tương ưng hành pháp không có thật thể. Tất cả pháp nói trên đều không thể lập làm thật thể chính thức của ngũ thú, tứ sanh.

Chỉ có Dị thục tâm và tâm sở của nó thật có, hằng thường, biến khắp, không tạp, mới chính thức chơn thật làm thật thể của thú sanh. Nếu không có tâm Dị thục này th́ khi sanh cơi Vô sắc (không có sắc và năm thức, chỉ có ư thức) ở vị trí khởi lên thiện tâm, tất không phải thể thú sanh. Giả sử chấp nhận đó là thể thú sanh thu nhiếp các pháp hữu lậu, th́ các vị A na hàm khi sanh vào cơi Vô sác, khởi lên tâm vô lậu, th́ không phải thể thú sanh. Nói vậy là trái lư.

Để tránh khỏi lỗi trước và lỗi này, nên biết chỉ có pháp Dị thục mới chính thức chơn thật là thể của thú sanh. Do vậy mà đức Như Lai không nhiếp vào thể thú sanh, v́ Phật không c̣n có pháp Dị thục vô kư, và Phật cũng không nhiếp thuộc vào cơi nào, v́ Phật không c̣n có ba lậu, và v́ Thế Tôn đă xả bỏ Khổ, Tập đế. Các chủng tử hư luận nơi Ngài dă vĩnh viễn dứt sạch.

Thể của thú sanh đích thực là chỉ có tâm Dị thục và tâm sở của nó, nhưng tâm và tâm sở  của nó này ĺa ngoài thức thứ tám là không thể có được. Thế nên biết riêng có thức thứ tám này.

4. Lại Khế kinh nói:"Thân có sắc căn là cái có chấp và thọ, nếu không có thức thứ tám này th́ cái khả năng chấp thọ thân có sắc kia không có". Nghĩa là năm sắc căn và chỗ nương của nó chỉ trong đời hiện tại là có chấp thọ, tất nó phải do tâm có khả năng chấp thọ nó, mà tâm ấy chỉ là tâm Dị thục do nghiệp trước dẫn đến, chứ không phải pháp thiện và nhiễm, hay một lại vô kư nào có  khả năng biến khắp tiếp nối chấp thọ thân có sắc căn. Các chuyển thức nhăn, nhĩ v.v... cũng không có được  khả năng như vậy.

Lời nói "Chỉ có tâm Dị thục chấp thọ căn thân" này ư muốn chỉ rơ các chuyển thức nhăn, nhĩ v.v... dều không có tính cách nhất loại có khả năng biến khắp tiếp nối chấp thọ thân có sắc căn bên trong của ḿnh, chứ không phải nói năng chấp thọ chỉ là tâm Dị thục, (v́ vô cấu thức cũng chấp thọ) đừng cho rắng sắc thân vô lậu của đức Phật không có chấp thọ (sắc thân của Phật có vô cấu thức chấp thọ). Nhưng đây nói chấp thọ sắc thân hữu lậu th́ chỉ là tâm Dị thục.

Các chuyển thức th́ theo duyên hiện tại khởi lên, như tiếng, như gió. C̣n tâm thiện, tâm nhiễm không phải do nghiệp dẫn đến ví như Phi trạch diệt. Dị thục sanh không phải là chơn Dị thục, không phải là chỗ nương cho khắp các pháp, không tiếp nối, ví như điển chớp không có  khả năng chấp thọ sắc thân hữu lậu.

- Nói các Tâm thức là gồm luôn Tâm sở trong đó, v́ nó quyết định tương ưng nhau, ví như nói chữ "Duy thức" (gồm luôn cả Tâm sở).

Không phải các "Sắc căn" và "Bất tương ưng hành" có  khả năng chấp thọ thân có sắc căn, v́ không có sở duyên, ví như hư không.

Cho nên cần có có tâm chấp thọ riêng, và tâm ấy chính là thức thứ tám này.

5. Lại Khế kinh nói: Ba pháp Thọ, Noăn, Thức, nương tựa duy tŕ lẫn nhau mà được tồn tại liên tiếp. Nếu không có thức này th́ cái thức có khả năng giữ ǵn Thọ và Noăn kia được trụ lâu, không thể có được". Nghĩa là các chuyển thức có gián đoạn, có biến chuyển như gió và tiếng, không có tác dụng thường xuyên giữ ǵn, không thể lập "chuyển thức" làm cái thức giữ ǵn Thọ, Noăn. Chỉ có thức Dị thục không gián đoạn, không biến chuyển như Thọ và Noăn, mới có tác dụng thường xuyên giữ ǵn, nên có thể lập thức Dị thục này làm cái thức giữ ǵn Thọ và Noăn. Kinh nói ba thứ ấy nương tựa ǵn giữ lẫn nhau, nếu chỉ Thọ và Noăn là nhất loại tiếp nối, c̣n thức th́ không, là không hợp chánh lư.

Hỏi: - Tuy nói ba pháp Thọ, Noăn, Thức nương tựa giữ ǵn lẫn nhau, nhưng chỉ chấp nhận Noăn là không biến khắp ba cơi (cơi Vô sắc không có Noăn). Sao không chấp nhận riêng "Thức" có gián đoạn, chuyển biến?

Đáp: - Điều này đối với lư lẽ trước kia chẳng phải là điều sai lầm đáng cật nạn. Nghĩa là nếu ở chỗ đó có đủ ba pháp không gián đoạn chuyển biến là có thể thường xuyên giữ ǵn lẫn nhau. Nếu không như vậy, th́ không có tác dụng thường xuyên giữ ǵn nhau.

Trước đây dùng lư này để chỉ rơ cái thức được nói trong ba pháp Thọ, Noăn, Thức , không phải là chuyển thức. Nên nếu cho Noăn không biến khắp ba cơi, th́ đâu có phá hoại lư lẽ trước kia? Cho nên như trước nói, lư nghĩa là rốt ráo được thành.

Lại trong ba pháp, Thọ và Noăn chỉ là hữu lậu, cho nên biết Thức giữ ǵn Thọ, Noăn kia cũng là hữu lậu. Khi sanh cơi Vô sắc, khởi lên tâm vô lậu, bấy giờ không có tâm Dị thục th́ thức nào duy tŕ thọ mạng ở cơi Vô sắc kia? Do đó nên biết có thức Dị thục nhất loại hằng thường và biến khắp, duy tŕ Thọ, Noăn và Thức đó là thức thứ tám vậy.

6. Lại Khế kinh nói: "Các loại hữu t́nh, trong khi thọ sanh và khi mạng chung, chắc chắn ở trong hữu tâm tán loạn, chứ không ở trong định vô tâm. Nếu không có thức Dị thục này thời cái tâm trong khi sanh và khi chết đó không thể có". Nghĩa là khi sanh và khi chết, thân tâm hôn muội, như ngủ mê không chiêm bao, mê man, khi đó các chuyển thức minh mẫn chắc chắn không hiện khởi. Lại ở trong vị trí sanh và chết đó, hành tướng và sở duyên của sáu chuyển thức đều không thể biết, giống như ở vị trí vô tâm, chuyển thức chắc chắn không hiện hành. Hành tướng và sở duyên của sáu chuyển thức nếu có hiện hành th́ chắc sẽ được biết rơ như những lúc khác, không phải như lúc mới sanh hay lúc sắp chết. Hành tướng và sở duyên của chơn Dị thục thức quá vi tế không thể rơ được. Nó là quả báo do nghiệp dẫn, tiếp nối trong một thời gian, hằng không chuyển biến. Chính cái hữu tâm tán loạn đó, gọi là tâm khi sanh tử. Không trái với chánh lư.

- Có thuyết cho rằng: "Ngũ thức ở vị trí thọ sanh đó quyết không có, th́ ư thức thủ cảnh hoặc nhân ngũ thức, hoặc nhân tha giáo và nhân định lực mà khởi lên, các nhân đó khi thọ sanh đă không có được, nên ở vị trí thọ sanh, ư thức cũng không có (thuyết này chỉ năm thức làm nhân sanh ư thức, nên nói như vậy)".

- Nếu vậy, hữu t́nh sanh cơi Vô sắc, sau đó lẽ ra ư thức vĩnh viễn không sanh ra được (v́ ở Vô sắc không có năm thức); v́ định tâm chắc phải do từ ư thức tán loạn dắt dẫn, mà ngũ thức và tha giáo ở cơi Vô sắc không có, th́ tâm tán loạn dẫn khởi lên định tâm không do đâu có được.

Nếu bảo định kia do sức tập quán từ trước; sau đó bỗng nhiên hiện ra. Nếu vậy, sao trong khi mới sanh cơi kia không hiện khởi? 

Lại ở cơi Dục, cơi Sắc khi mới thọ sanh, ư thức tập quán cũng nên hiện khởi. Nếu do v́ hôn muội nên lúc ban sơ chưa hiện tiền được, th́ đấy chính là nguyên nhân v́ hôn muội không hiện khởi, phải do chủng tử trong bổn thức mới hiện khởi. Đă được công nhân trước kia, cần ǵ lại phải nhọc công nói do ba nhân khác (là nhân năm thức, nhân tha giáo, nhân định lực).

- Có các bộ phái khác chấp: "Ở vị trí khi sanh và khi chết, có một loại ư thức vi tế, mà hành tướng và sở duyên của nó đều không thể biết rơ". nên biết loại ư thức vi tế ấy chính là thức thứ tám đây; v́ đă công nhận ư thức thô hiển không phải là một loại vi tế khó biết như vậy.

Lại khi sắp chết, do nghiệp thiện ác mà có cảm xúc lạnh lần lượt khởi lên trên dưới ở nơi thân. Nếu không thức Dị thục này, th́ việc đó không thành được. V́ chuyển thức th́ không thể chấp thọ thân được. C̣n năm thức nhăn, nhĩ v.v... đều có chỗ nương riêng nên hoặc không hiện hành. C̣n đệ lục ư thức bấy giờ không trụ nơi thân, và đệ lục ư thức duyên cảnh không nhất định, lại khi sắp gá trong thân hằng thời tương tục, th́ cảm xúc lạnh không thể do đệ lục ư thức tạm phát ra được. Vậy nên biết chỉ có tâm Dị thục do nghiệp lực đời trước, hằng thời biến khắp tương tục chấp thọ thân phần, nên khi sắp chết tâm Dị thục xả bỏ chỗ chấp thọ nào nơi thân, th́ cảm xúc lạnh sanh ra ở đó. V́ Thọ, Noăn và Thức không ĺa nhau, hễ chỗ nào có cảm xúc lạnh khởi lên th́ chỗ đó là phi hữu t́nh, chỗ thân chết phi t́nh này tuy cũng do Dị thục tâm biến ra và duyên, nhưng không chấp Thọ. Cho nên quyết định có thức thứ tám này.

7. Lại Khế kinh nói:"Thức duyên danh sắc, danh sắc duyên thức", hai pháp đó lần lượt nương nhau, ví như bó câu lau, cùng lúc đứng vững. Nếu không có thức thứ tám này th́ tự thể của "thức" trong thức duyên danh sắc không có được. Và trong kinh kia tự giải thích rằng, danh là bốn uẩn không phải sắc, sắc là cái h́nh trạng trong bào thai như Kiết la lam v.v... Hai thứ này cùng với thức nương nhau mà trụ, như hai bó câu lau thường cùng duyên nhau trong một lúc mà trụ, không hề ĺa nhau. Các chuyển thức nhăn, nhĩ v.v... nhiếp vào trong danh. Nếu thức thứ tám không có, th́ nói cái ǵ là thức duyên danh sắc đây? Cũng không thể nói thức uẩn thuộc về danh trong danh sắc đó chỉ là cho năm thức thân, c̣n thức  trong câu "Thức duyên danh sắc" là chỉ cho thức thứ sáu, v́ khi ở giai đoạn h́nh trạng Kiết la lam chưa có năm thức.

Lại các chuyển thức có gián đoạn chuyển biến, không có sức hằng thời chấp tŕ danh sắc, làm sao nói nó thường cùng danh sắc duyên nhau.

Vậy nên biết "Thức duyên danh sắc" là rơ ràng chỉ cho thức thứ tám.

8. Lại Khế kinh nói: "Tất cả hữu t́nh đều nuơng ăn mà tồn tại. Nếu không có thức này th́ cái thể của thức thực (sống bằng các ăn của thức) kia không thể có". Nghĩa là Khế kinh nói: Ăn có bốn cách:

1. Đoàn thực – Làm biến hoại đồ ăn là tướng trạng của cách ăn này. Nghĩa là ở cơi Dục, những đồ vật có hương, có vị, có xúc, trong khi nó biến hoại th́ lấy đó làm ăn. Do dó Sắc không thuộc về đoàn thực, vi khi biến hoại màu sắc không có tác dụng gi nuôi thân.

2. Xúc thực- Tức xúc chạm cảnh là tướng trạng của nó. Nghĩa là khi Xúc tâm sở hữu lậu của hữu t́nh xúc chạm cảnh mà có sự cảm thọ hỷ lạc, th́ có thể lấy đó làm ăn. Xúc tâm sở tuy tương ưng với tất cả các thức, song Xúc tâm sở ở nơi sáu thức trước, có nghĩa "Ăn" mạnh hơn, cảnh xúc chạm ở đây thô phù rơ rệt, nhiếp nhận hỷ, lạc, và xả thọ, thuận ư, ích thân, mà có sự tư dưỡng mạnh hơn.

3. Ư tư thực - Tức hy vọng là tướng trạng của nó. Nghĩa là Tư tâm sở hữu lậu cùng sinh khởi với Dục tâm sở, hy vọng cảnh đáng ưa, có thể lấy đó làm ăn. Tư tâm sở này tuy tương ưng với tất cả các thức, nhưng "Tư" tương ưng với ư thức có nghĩa ăn mạnh hơn, v́ ư thức đối với cảnh có sự hy vọng mạnh.

4. Thức thực - Tức sự chấp tŕ là tướng trạng của nó. Nghĩa là thức hữu lậu, do thế lực của Đoàn, Xúc, Tư thực tăng trưởng mà có thể thành nghĩa ăn. "Thức" nói đây tuy chung cả tự thể các thức, nhưng thức thứ tám có nghĩa ăn mạnh hơn, v́ thức thứ tám là một loại tương tục chấp tŕ mạng căn mạnh hơn.

Do đó Tập Luận bốn cách ăn này nhiếp vào ba uẩn (sắc, hành, thức uẩn), năm xứ (hương, vị, xúc, pháp và ư xứ), mựi một giới (hương, vị, xúc, pháp, ư và sáu thức giới). Bốn sách ăn này có  khả năng duy tŕ thân mạng hữu t́nh, không để bị hư mất, nên gọi là ăn.

Đoàn thực chỉ có tác dụng ỏ cơi Dục, Xúc và Ư tư thực tuy có ở cả ba cơi, nhưng nương nơi sáu thức mà chuyển, nên tùy theo thức mà hoặc có hoặc không. Các chuyển thức nhăn, nhĩ v.v... có gián đoạn, có biến chuyển, không phải cùng khắp hằng thời duy tŕ thân mạng. Nghĩa là khi ở định vô tâm (Vô tưởng định, Diệt tận định), khi ngủ mê, khi chết ngất, khi ở cơi trời Vô tưởng, các chuyển thức bị gián đoạn. Giả sử ở địa vị hữu tâm, tùy căn sở y, cảnh sở duyên mà chuyển dịch theo ba tánh, ba cơi, chín địa, nên đối với việc duy tŕ thân mạng, các chuyển thức không biến khắp, không hằng thời làm sao duy tŕ được.

Những người chấp không có thức thứ tám, vậy nương vào đâu để có Thức thực? Và do đâu mà kinh nói: "Tất cả hữu t́nh đều nương nơi ăn mà tồn tại?" Cũng không thể bảo ở địa vị vô tâm, tuy không có thức hiện hành nhưng dùng thức quá khứ, vị lai không hiện tại, không thường hằng, như hoa đốm giữa không, không có thật thể thật dụng, hay dù cho có thật thể thật dụng mà không phải ở hiện tại, th́ nó như hư không, không thành ăn được.

Cũng không thể nói tâm nhập định là món ăn của hữu t́nh ở địa vị vô tâm, v́ khi ở vô tâm th́ tâm gia hạnh nhập định đă không c̣n nữa. Nó thuộc về quá khứ, không phải là ăn, việc ấy đă thành tựu rốt ráo rồi.

Lại không thể nói: "Pháp Bất tương ưng hành" ở Vô tưởng định là món ăn cho hữu t́nh nhập Vô tưởng định; v́ pháp Bất tương ưng hành không nhiếp thuộc bốn cách ăn, v́ ĺa sắc tâm, nó không thật có.

Có người chấp ở Diệt tận định c̣n thức thứ sáu, nó đối với hữu t́nh ở Diệt tận định có thể là món ăn. Lối chấp đó cũng phi lư, đến đoạn sau sẽ phá rộng. Lại kia thử nói hữu t́nh sanh vào hai cơi Sắc và Vô sắc, khi khởi tâm vô lậu th́ lấy ǵ làm ăn? V́ thức vô lậu là phá hoại các hữu (cơi), nên thức vô lậu không thể là món ăn đối với thân mạng hữu t́nh ở hai cơi đó.

Cũng không thể chấp trong thức vô lậu có chủng tử hữu lậu, có thể làm thức ăn cho hữu t́nh kia, vi thức vô lậu giống như Niết bàn  không thể chấp tŕ chủng tử hữu lậu.

Lại không thể nói, thân và mạng của hữu t́nh ở thượng giới duy tŕ lẫn nhau tức là làm món ăn cho nhau, v́ trong bốn cách ăn không nhiếp thuộc vào mạng thân kia (trong bốn cách ăn, không có thân mạng thực). Lại ở cơi Vô sắc không thân, th́ mạng không thể duy tŕ, v́ là chúng đồng phận giữa các hữu t́nh không có thật thể.

Do đó biết chắc khác với chuyển thức, có thức Dị thục một loại thường hằng và biến khắp, chấp tŕ thân mạng không để cho hoại mất. Nương theo lẽ đó, đức Thế Tôn nói: "Tất cả hữu t́nh đều nương nơi ăn mà tồn tại". Và chỉ nương nơi năm thủ uẩn mà kiến lập hữu t́nh. Phật không có ngũ uẩn hữu lậu, nên không nhiếp vào hữu t́nh. Nói "Hữu t́nh nương ăn mà tồn tại" nên biết đó là nói theo cách thị hiện quyền xảo (tức nói nghĩa bóng).

Đă biết Dị thục thục là có tính cách ăn hơn cả, mà thức đó chính là thức thứ tám này vậy.

9. Lại Khế kinh nói: - Người ở Diệt tận định, thân, ngữ và tâm hành của họ đều diệt mất (thân hành chỉ hơi thở ra vào, ngữ hành chỉ tầm tư, ư hành chỉ thọ, tưởng), nhưng mạng sống (thọ) không diệt, và cũng không bỏ hơi nóng, nên các căn không biến hoại, "thức không ĺa thân"; "Nếu không có thức Dị thục này th́ người ở Diệt tận định không thể có "thức không ĺa thân". Nghĩa là v́ thấy nhăn thức v.v... hành tướng thô động đối với cảnh sở duyên, khi khởi nhăn thức v.v... thường bị lao lự, nên chán ghét nó, tạm thời cầu sự ngừng nghỉ, dần dần dẹp trừ nhăn thức v.v... không khởi lên cho đến khi hết sạch, chính nương ở vị trí đó mà trụ trong Diệt tận định. Cho nên ở trong Diệt tận định, các chuyển thức đều diệt, nếu không chấp nhận có thứ thức vi tế trước sau một loại thường hằng biến khắp chấp tŕ Thọ, Noăn, th́ nương vào đâu để kinh nói: "Thức không ĺa thân?"

Nếu bảo lúc sau khi ra khỏi Diệt tận định, chuyển thức kia khởi trở lại như sốt rét cách ngày, nên gọi là thức không ĺa thân; nếu thế thời không nên nói: "Tâm hành diệt"; v́ sáu thức và thọ tưởng khởi diệt đồng nhau. Lại Thọ, Noăn và các căn nếu cũng nhu sáu thức th́ có lỗi lớn, Cho nên, nên chấp nhận có thức thứ tám cũng như Thọ và Noăn, thật không ĺa thân.

Lại ở trong địa vị Diệt tận định, nếu hoàn toàn không có thức th́ như ngói gạch, chẳng phải loài hữu t́nh, đâu được nói đó là người ở Diệt tận định.

Lại nếu ở địa vị Diệt tận định không có Dị thục thức th́ cái ǵ chấp tŕ các căn và Thọ, Noăn? Nếu không chấp tŕ th́ phải hoại diệt hết, giống như thây chết, bèn không có Thọ, Noăn. Đă vậy, chắc về sau thức không sanh trở lại mà vẫn nói: "Thức không ĺa thân" th́ cái thức đó thuộc về thức ǵ? V́ các Dị thục thức bỏ thân này rồi, ĺa thân này gá vào thân khác, th́ không phải là sanh trở lại. 

Lại nếu ở địa vị Diệt tận định này không có thức duy tŕ chủng tử, không có chủng tử th́ về sau thức làm sao sanh lại được. Pháp quá khứ, vị lai và Bất tương ưng hành, chẳng có thật thể, điều này đă được thành lập rồi. C̣n các sắc pháp, ĺa thức th́ đều không có. Ngoài thức thứ tám mà có việc thọ huấn và tŕ chủng th́ cũng đă ngăn trước kia rồi.

Nhưng ở địa vị vô tâm như Diệt tận định cũng giống như ở trong địa vị hữu tâm, chắc phải có thức này, v́ có đủ các căn và Thọ, Noăn, tức là nhiếp thuộc hữu t́nh (không kể vô tâm hay hữu tâm).

Do lẽ đó, ở địa vị Diệt tận định, quyết phải có thức thật không ĺa thân.

- Nếu bảo ở địa vị Diệt tận định có thức thứ sáu gọi là: "Thức không ĺa thân" th́ cũng không đúng lư, v́ định này cũng gọi là định vô tâm (không có thức thứ sáu).

Nếu chấp không có năm thức gọi là vô tâm, th́ có thể tất cả định đều gọi là vô tâm định, v́ tất cả định đều không có năm thức thân.

Ư thức nhiếp vào trong sáu chuyển thức, giống như năm thức, ở Diệt tận định nó không có. Hoặc nói thức ở trong địa vị Diệt tận định, hành tướng và sở duyên của nó đều không thể biết, như Thọ và Noăn, th́ đó không phải là đệ lục thức.

Nếu ở địa vị Diệt tận định có cái thức mà hành tướng và sở duyên của nó đều có thể biết, th́ đó lại giống như ở các địa vị khác, chứ không nhiếp vào địa vị Diệt tận định này. Vốn v́ muốn ngưng nghỉ cái thức có hành tướng và sở duyên có thể biết rơ, mới nhập Định diệt này.

Lại nếu ở địa vị Diệt tận định có thức thứ sáu, thế th́ Tâm sở pháp của thức này có hay không? Nếu có tâm sở th́ kinh không nên nói: "Trú ở định này, tam hành đều diệt". Lại không nên gọi là Định diệt thọ tưởng.

Chấp: - Khi tu gia hạnh về định này là chỉ cốt nhàm chán thọ và tưởng, cho nên ở trong định này chỉ diệt thọ và tưởng. Thọ và tưởng giúp tâm rất mạnh, nên ở trong các Tâm sở, riêng nó được gọi là tâm hành, như vậy nói tâm hành diệt (là chỉ diệt thọ tưởng chứ không diệt Tâm Tâm sở) có ǵ trái đâu?

Luận chủ - Trong Vô tưởng định, chỉ nên một ḿnh tưởng diệt, v́ chỉ nhàm chán tưởng, nhưng ông không chấp nhận (chỉ tưởng diệt) và như vừa nói chỉ có thọ và tưởng giúp tâm rất mạnh, vậy khi hai thứ ấy diệt, tâm cũng phải diệt?

Chấp: - Không, tâm (thức thứ sáu) không diệt, cũng như thân hành (hơi thở ra vào) diệt mà thân vận tồn tại, tại sao cứ phải trách tâm đồng diệt với hành (thọ, tưởng)?

Luận chủ: - Nếu vậy, khi ngữ hành tầm tư diệt, ngôn ngữ không nên diệt. Nhưng điều này không được chấp nhận.

Nhưng (hành) đối với pháp có thứ biến khắp, có thứ không biến khắp. Khi thứ hành biến khắp diệt, th́ pháp quyết phải diệt theo,nhưng khi thứ hành không biến khắp diệt, th́ pháp hoặc diệt hoặc không.

Thứ hành không biến khắp là chỉ cho hơi thở ra vào (thân hành); v́ thấy khi hơi thở dứt mà thân vẫn c̣n.

Tâm tầm tư đối với ngữ, thuộc loại hành biến khắp, nên khi tầm tư diệt th́ ngữ phải diệt.

Thọ và tưởng đối với tâm cũng là loại hành biến khắp cũng như Tư tâm sở, thuộc loại đại địa pháp (mười đại địa pháp là năm Biến hành, năm Biệt cảnh, năm thứ này biến khắp hết thảy tâm), nên khi thọ và tưởng diệt, tâm nhất định diệt theo. Chứ làm sao có thể nói thọ, tưởng diệt mà tâm (ư thức) không diệt?

Lại (Hữu bộ) cho rằng: "Tư là thuộc đại điạ pháp", vậy th́ khi thọ, tưởng diệt, tư kia cũng nên diệt? Nếu tư diệt, th́ ở địa vị Diệt tận định này, tín cũng không có. V́ không thể bảo Tâm sở biến hành diệt mà các Tâm sở khác như tín v.v... có thể không diệt, làm sao nói c̣n có các Tâm sở khác trừ thọ và tưởng? Nếu đă chấp nhận thọ và tưởng cũng như tư thuộc đại địa pháp, th́ ở địa vị này tư đă có th́ thọ, tưởng cũng nên có.

Lại trong Diệt định này, nếu có tư th́ cũng nên có xúc, v́ các Tâm sở khác đều nương năng lực của xúc mà phát sanh. Nếu chấp nhận có xúc th́ cũng nên có thọ, v́ xúc làm duyên cho thọ. Đă chấp nhận có thọ, th́ tưởng cũng nên có, v́ thọ và tưởng không rời nhau.

Chấp: - Như "thọ" làm duyên sanh "ái", không có nghĩa tất cả thọ đều có thể làm duyên sanh ái, cho nên xúc làm duyên sanh thọ, không có nghĩa tất cả xúc đều làm duyên sanh thọ. Do đó, vấn nạn nêu trên không đúng lư.

Luận chủ: -  Ông cứu chữa như vậy không đúng, v́ có sự sai khác. Nghĩa là đức Phật tự giản biệt nói chỉ có các thọ do "vô minh xúc" làm duyên sanh ra, thọ đó mới làm duyên sanh ái, chứ chưa bao giờ Phật giản biệt nói (chung chung) xúc sanh thọ, cho nên nếu hễ có xúc tất là có thọ. Thọ với tưởng đi đôi, lẽ đó chắc chắn. Hoặc nên như ở các địa vị tán tâm khác, thọ tưởng đều không diệt.

Chấp trong địa vị Diệt định có Tâm tư sở. Nếu thừa nhận thế th́ trái vói lời nói "Tâm hành diệt"; và và cũng không thành được Định diệt thọ tưởng.

Nếu không Tâm sở, th́ sáu thức Tâm vương cũng không, không bao giờ thấy có tâm nào ĺa Tâm sở; v́ các Tâm sở Biến hành mà diệt th́ Tâm vương diệt theo. Nếu bảo có Tâm vương mà không có Tâm sở th́ thọ tưởng không phải là đại địa pháp, lại thức này không thể là pháp có Tâm sở tương ưng. Nếu thừa nhận như thế th́ không thể có căn sở y và cảnh sở duyên, nó giống như sắc pháp v.v... cũng không thể gọi là tâm.

Lại Khế kinh nói: "Ư và pháp làm duyên sanh ra ư thức, ba thứ ḥa hợp sanh ra xúc, nơi xúc cũng khởi lên có thọ, tưởng, tư". Nếu trong Định diệt tận có ư thức v́ là có ba sự ḥa hợp, phải là có xúc, và xúc chắc chắn cũng khởi với thọ, tưởng và tư. Vậy tại sao có thức mà lại không có Tâm sở?

Nếu bảo trong những lúc khác, ba sự ḥa hợp có năng lực mới thành xúc đối, sanh xúc Tâm sở, và xúc ấy mới khởi sanh thọ. Do ở định này, trước khi vào định, v́ chán ghét Tâm sở, nên khi ở trong định, ba sự không có  khả năng, không thành xúc đối, nên không sanh xúc, cũng không có thọ.

Nếu vậy, nên gọi là Định diệt Tâm sở chứ tại sao chỉ nói diệt thọ tưởng?

Nếu bảo trong khi nhàm chán thọ tưởng, nên khi hai thứ đó diệt, tâm sở khác cũng diệt luôn, y hệt sự nhàm chán trước đó, để gọi tên là Định diệt tận.

Nếu đă vậy, trong diệt định đó tâm thứ sáu cũng nên diệt, v́ Tâm sở thọ tưởng bị nhàm chán cùng sanh với các Tâm sở khác. Không vậy th́ làm sao gọi là Định vô tâm (Diệt tận định cũng gọi là Định vô tâm).

lại ở địa vị Diệt tận định này, ư thức thuộc tánh ǵ? Không thể là nhiễm hay vô kư tánh; v́ trong các thiện định, không có việc đó; v́ những Tâm vương nhiễm và vô kư, th́ tức là có Tâm sở, không nên chán thiện mà trở lại khởi lên nhiễm; v́ không phải cầu tịch tịnh mà lại khởi lên tán động.

Nếu bảo ư thức trong Diệt tận định này là thiện, th́ có thể là tương ưng thiện, nên tương ưng với vô tham thiện căn v.v... Tâm thứ sáu trong định đó không thể là tự tánh thiện, hoặc thắng nghĩa thiện, v́ trái với tôn chỉ ḿnh, tâm đó không phải là thiện căn như vô tham và Niết bàn.

Nếu bảo tâm trong định đó là đẳng khởi thiện, do gia hạnh thiện căn dẫn phát ra, th́ lư cũng không đúng, v́ trái với tôn chỉ của ḿnh. Giống như các thiện tâm trong các địa vị khác, không phải là đẳng khởi thiện. V́ thiện tâm không gián đoạn khởi lên đủ ba tánh thiện, ác, vô kư, tại sao thiện tâm lại do trước đẳng khởi ra? Cho nên tâm nếu là thiện, là do sức Tâm sở tương ưng. Đă vậy, tất cùng vô tham thiện căn tương ưng, làm sao nói riêng thiện tâm thứ sáu trong Diệt định này không có Tâm sở? Định này đă không có Tâm sở th́ Tâm vương thứ sáu cũng phải không.

- Cứ như vậy suy gạn, biết các chuyển thức nhăn, nhĩ ... khi ở địa vị Diệt định, nó không phải là thứ "Thức không rời thân". Cho nên Khế kinh nói: "Thức không rời thân" chính là chỉ cho thức thứ tám này, v́ khi nhập Diệt định, không phải cốt để ngưng nghỉ cái thức chấp tŕ rất tịch lặng này vậy.

- Cái thức ở trong Vô tưởng định, Vô tưởng thiên, cứ loại theo đây mà biết.

  10. Lại Khế kinh nói: "V́ tâm tạp nhiễm nên hữu t́nh tạp nhiễm, v́ tâm thanh tịnh nên hữu t́nh thanh tịnh". Nếu không có thức này th́ tâm tạp nhiễm thanh tịnh kia không có. Nghĩa là pháp tạp nhiễm thanh tịnh lấy tâm làm gốc, nhân tâm mà sinh, nương tâm mà trụ, tâm nhận sự huân tập pháp nhiễm tịnh, lại duy tŕ chủng tử pháp nhiễm tịnh kia.

- Nhưng pháp tạp nhiễm lược có ba thứ: phiền năo, nghiệp quả, chủng loại khác nhau. Nếu không có thức này duy tŕ chủng tử phiền năo, khi hữu t́nh từ thượng giới, thượng địa sanh trở lại hạ giới, hạ địa, tức sau lúc không có tâm nhiễm ô ở thượng giới, lại khởi lên các phiền năo nhiễm ô ở hạ giới, phiền năo này khởi lên như thế đều không có nhân, v́ các pháp th́ không thể duy tŕ được chủng tử phiền năo hạ địa kia, C̣n tâm pháp quá khứ và vị lai lại không phải thật có. Nếu các phiền năo khởi trở lại ấy không nhân mà vẫn khởi, thời sẽ không có quả vị Học và Vô học của ba thừa. V́ sao? V́ các phiền năo đă dứt rồi, đều không nhân mà lại có thể khởi lên nữa.

Nếu không có thức thứ tám này duy tŕ chủng tử của nghiệp quả, th́ hữu t́nh sau khi qua lại giới và địa, đây kia, với nhiều loại tịnh nhiễm, các nghiệp và quả khởi lên sau đó cũng không có nhân. Hoặc chấp do nhân chủng tử khác sanh ra quả khác, hoặc chấp sắc tâm làm nhân duyên sanh ra nhau, hoặc chấp pháp ǵ khác duy tŕ chủng tử, th́ trước đây đă ngăn chận rồi.

Nếu các nghiệp và quả, không nhân mà vẫn sanh, vậy th́ sau khi nhập Vô dư y Niết bàn, nghiệp và quả trong ba cơi vẫn sanh trở lại, v́ phiền năo cũng có thể không nhân mà vẫn sanh.

Lại "hành làm nhân duyên sanh thức" (mà không có thức thứ tám), không thể thành được, v́ các chuyển thức nhận chịu sự huân tập, là việc trước đây đă ngăn chận. Cũng không phải "Kiết sanh thức ô nhiễm" v́ nó không phải do "hành" chiêu cảm, mà nói "hành" làm duyên cho "danh sắc" cũng không được, v́ giữa hành và danh sắc thời gian và phận vị cách xa nhau, không có nghĩa làm duyên được. Đây nói "hành làm duyên sanh sắc" đă không thành, th́ các chi sau như nói "hành làm duyên lục nhập", "thủ làm duyên sanh lăo tử" cũng không thành.

- Các pháp thanh tịnh cũng có ba thứ khác nhau là đạo chủng thế gian, đạo chủng xuất thế gian và quả đoạn dứt. Nếu không có thức Dị thục này duy tŕ đạo chủng thanh tịnh của thế gian và xuất thế gian, th́ sau khi tâm khác loại (tâm thế gian khởi lên tâm xuất thế gian) khởi lên pháp thanh tịnh thế, xuất thế đều có thể không nhân mà khởi. C̣n nếu chấp do nhân khác mà khởi, th́ trước đă phá rồi.

Nếu hai đạo chủng thanh tịnh (là thế và xuất thế) không nhân mà sanh, thời sau khi nhập Vô dư Niết bàn giới rồi, hai đạo chủng thanh tịnh kia nên sanh trở lại, v́ chỗ nương của hai đạo thanh tịnh là thân trí cũng có thể không nhân mà sanh lại.

Lại tịnh tâm đạo xuất thế lúc đầu không thể sanh v́ không có cái ǵ duy tŕ tịnh tâm đạo chủng pháp nhĩ vốn có đó, v́ pháp hữu lậu th́ khác loại không phải là nhân của đạo chủng vô lậu. Không nhân mà sanh là không phải do chủng tử trong thức sanh, không có chủng tử th́ xuất thế đạo lúc đầu không sanh, lúc sau cũng không sanh. Thế th́ có thể không có đạo và quả ba thừa.

Lại nếu không có thức này duy tŕ chủng tử phiền năo th́ quả chuyển y do đoạn phiền năo mà chứng được th́ cũng không thành. Nghĩa là khi Thánh đạo khởi lên th́ phiền năo hiện hành và chủng tử của nó đều không có, v́ hai tâm nhiễm và tịnh không thể cùng khởi một lúc. Tâm thứ sáu tương ưng với Thánh đạo, quyết không duy tŕ chủng tử phiền năo, v́ tự tánh phiền năo và Thánh đạo trái ngược nhau, như tánh Niết bàn với pháp ô nhiễm.

Pháp quá khứ, vị lai và đắc (Thánh đạo) cùng các pháp khác đều không phải thật có (nên không duy tŕ chủng tử và thành đoạn quả). Nếu nói các pháp khác đó duy tŕ chủng tử phiền năo th́ lư cũng không thành.

Đă không có phiền năo bị đoạn trừ, th́ đạo đoạn trừ phiền năo cũng không, nương đâu do đâu để lập đoạn quả? Nếu do đạo lực làm cho phiền năo lúc sau không sanh, để lập đoạn quả, thời lúc mới có thành đạo khởi lên là đă có thể thành bậc Vô học, v́ các phiền năo lúc sau đều không có nhân, vĩnh viễn không sanh vậy.

Nếu chấp nhận có thức Dị thục này, th́ mọi sự nhân quả nhiễm tịnh đều thành, v́ chỉ có thức này mới có  khả năng duy tŕ các chủng tử nhiễm tịnh.

Chứng minh có thức thứ tám này, lư thú nhiều vô cùng, chỉ sợ văn dông dài, nên lược thuật cương yếu.

Giáo và lư đă chứng minh hiển nhiên riêng có thức thứ tám này, những người có trí nên sanh tâm thâm tín thọ tŕ. (22).

X. THỨC BIẾN HIỆN THỨ HAI 

- Trên đă nói tướng năng biến thứ nhất, c̣n tướng năng biến thứ hai thế nào?

Tụng rằng:

Thức năng biến thứ hai,

 Gọi là thức Mạt na,

Nương kia chuyển, duyên kia,

Tư lương làm tánh tướng.

Tương ưng bốn phiền năo,

Là ngă si, ngă kiến,

Và ngă mạn, ngă ái

Và tâm sở xúc thảy.

Tánh hữu phú vô kư

Sanh theo A lại da,

Chứng La hán, Diệt định.

Xuất thế đạo, không c̣n.

Luận rằng: "Tiếp sau thức Dị thục năng biến thứ nhất, nên biện giải tướng thức tư

lương năng biến thứ hai". (23)

- Thức này trong Thánh giáo gọi riêng tên Mạt na, v́ nó có tánh thường thẩm xét nghĩ lường mạnh hơn các thức khác.

- Tên này có ǵ khác với ư thức thứ sáu? Đây gọi tên ư là giải thích theo lối tŕ nghiệp, như danh từ "Tạng thức", v́ thức tức là ư, c̣n chữ ư thức là giải thích theo lối y chủ, ví như "nhăn thức", v́ thức khác với ư căn. (Tŕ nghiệp thích là căn cứ nghiệp dụng của nó mà đặt tên, y chủ thích là căn cứ chỗ dựa của nó mà đặt tên).

- Nhưng trong các Thánh giáo sợ lầm thức này thành thức kia, cho nên ở thức thú bảy chỉ gọi là ư (chứ không gọi ư thức).

Lại nêu tên ư, v́ để giản biệt với "tâm đệ bát" với sáu thức, v́ Mạt na thua kém thức đệ bát về nghĩa chứ nhóm, thua sáu thức về nghĩa liễu biệt. Hơạc muốn chỉ rơ Mạt na làm chỗ nương gần nhất cho ư thức kia, nên chỉ gọi nó là ư. (24)

Câu "nương kia chuyển" là chỉ rơ chỗ nương của thức Mạt na. Kia là chỉ cho Tàng thức năng biến thứ nhất nói trước kia. Thánh nói thức này nương nơi Tàng thức.

 - Có ư kiến cho ư Mạt na này đều lấy cả chủng tử đệ bát thức làm chỗ nương, chứ không phải lấy hiện hành thức đệ bát làm chỗ nương, v́ thức Mạt na này không gián đoạn, không cần mượn thức hiện hành đệ bát làm câu hữu y mới sanh khởi được.

- Có ư kiến cho thức Mạt na này đều lấy cả chủng tử và hiện hành thức đệ bát làm chỗ nương. Thức Mạt na tuy không gián đoạn mà có chuyển dịch (chuyển nhiễm thành tịnh, tịnh thành nhiễm), gọi là chuyển thức, tất phải mượn cả hiện hành thức đệ bát làm câu hữu y mới phát sanh được.

Chuyển nghĩa là lưu chuyển (tức tương tục sanh khởi). Hiển thị thức Mạt na này hằng nương hiện hành đệ bát thức và chủng tử trong đệ bát thức mà sanh khởi, lại lấy đệ bát thức làm sở duyên. (Mạt na lấy chủng tử trong đệ bát mà khởi, đó là nhân duyên; c̣n dựa đệ bát thức khởi, đó là câu hữu y, Tăng thượng duyên).

Các Tâm,Tâm sở đều có chỗ nương, nhưng chỗ nương của nó gồm có ba thứ:

1. Nhân duyên y (cũng gọi Chủng tử y) tức là chủng tử của chính mỗi pháp. Các pháp hữu vi đều gá đó làm chỗ nương, v́ rời nhân duyên chủng tử của chính ḿnh, th́ chắc chắn không sanh khởi được.

2. Tăng thượng duyên y (cũng gọi Câu hữu y) - tức sáu xứ bên trong (sáu căn). Các Tâm, Tâm sở đều gá chỗ nương này, v́ rời căn câu hữu th́ chắc chắn không sanh khởi được.

3. Đẳng vô gián duyên y (cũng gọi Khai đạo y) - Tức ư trước diệt (mở lối cho ư sau sanh). Các Tâm, Tâm sở, đều gá chỗ nương này, v́ rời gốc khai đạo (mở lối dẫn đẳng vô gián) th́ chắc chắn không sanh khởi được.

Chỉ Tâm Tâm sở là phải có đủ ba chỗ nương ấy, cho nên gọi là có chỗ nương, chứ không phải pháp khác.

- Trước hết là chủng tử y (Nhân duyên y) có hai thuyết:

a. Có người nói rằng cần phải có chủng tử diệt rồi th́ hiện quả mới sanh, v́ cần phải không có chủng tử, vậy sau quả mới sanh, như Tập luận đă nói thế. Lại như hạt giống và mầm không phải cùng có một lúc (câu hữu).

b. Có người cho lời dẫn Tập luận kia để chứng minh không thành. V́ Tập luận chỉ dựa vào sự dẫn sanh tự loại chủng tử về sau mà nói thế. Nói hạt giống sanh ra mầm, đó không phải là đúng nhất. V́ cho hạt giống diệt mà mầm sanh là điều không được công nhận. Như tim đèn và lủa phải đồng thời mới làm nhân lẫn nhau được.

Nhưng trong mỗi chủng tử tự loại, th́ nhân quả không đồng thời, c̣n chủng tử sanh hiện hành, hiện hành sanh chủng tử, th́ quyết định đồng thời có. Cho nên luận Du già nói pháp hữu vi vô thường làm nhân cho tha tánh và cũng làm nhân cho tự tánh ở niệm sau. Đó chính là nghĩa của chữ "Nhân duyên". Nói "tự tánh" là chỉ rơ tự loại chủng tử niệm trước làm nhân cho niệm sau. Nói "tha tánh" là chỉ rơ chủng tử cùng hiện hành làm nhân cho nhau.

Luận Nhiếp Đại thừa cũng nói rằng Tạng thức và nhiễm pháp làm nhân duyên cho nhau, giống như bó cây lau đồng thời nương nhau đứng vững; lại nói chủng tử và hiện quả phải đồng thời, cho nên "Chủng tử y" không thể trước sau được. Dầu có chỗ nói: "Chủng tử và hiện quả có trước sau". nên biết đây đều nói theo lối tùy chuyển (tức chuyển Đại thừa để nói lư Tiểu thừa, chuyển lư chính nói theo lư phụ).

Như vậy tám thức và các Tâm sở nhất định có mỗi chủng tử làm chỗ nương riêng.

- Thứ hai là Câu hữu y (Tăng thượng duyên y) có bốn thuyết:

a. Có thuyết cho rằng năm thức nhăn, nhĩ v.v... lấy ư thức làm Câu hữu y, v́ khi năm thức khởi lên phải có ư thức, chứ không có nhăn căn riêng v.v... làm Câu hữu y, v́ năm căn chính là chủng tử của năm thức. Như bài tụng trong Nhị thập Duy thức nói:

Thức từ tự chủng sanh,

Chuyển theo tướng tợ cảnh,

V́ thành nội ngoại xứ,

Phật dạy: Đó là mười.

Bài tụng này ư nói đức Thế Tôn v́ thành lập mười hai xứ, nên nói chủng tử của năm thức là năm căn v.v... c̣n tướng phần của năm thức là năm trần v.v... cho nên biết nhăn căn v.v... chính là chủng tử của năm thức.

Luận Quán Sở Duyên cũng nói:

Sắc công năng trên thức,

Gọi năm căn, hợp lư.

Công năng với cảnh sắc,

Vô thỉ làm nhân nhau.

Bài tụng này ư nói chủng tử sanh sắc thức như nhăn v.v... ở trên Dị thục thức đó gọi là sắc công năng, nói sắc công năng đó là năm căn, chứ không phải có năm căn riêng biệt. Căn chủng tử và sắc thức thường làm nhân cho nhau, v́ hiện thức hiện sắc năng huân thường cùng căn chủng tử làm nhân cho nhau.

Thức thứ bảy và thức thứ tám không có câu hữu y riêng, v́ tự lực nó mạnh, hằng thời tương tục sanh khởi, c̣n thức thứ sáu có câu hữu y, v́ phải nương thức Mạt na mới sanh khởi được.

b. Có người cho lời nói trên trái với cả lư và giáo. V́ nếu năm sắc căn chính là chủng tử của năm thức, th́ chủng tử của mười tám giới phải thành lộn xộn. Nhưng mười tám giới đều có chủng tử riêng, nên trong Thánh giáo nơi nào cũng nói như vậy.

Lại chủng tử năm thức mỗi mỗi có khả năng sanh tướng phần, kiến phần khác nhau, như vậy th́ tại sao chấp tướng phần hay kiến phần làm nhăn căn v.v...? Nếu chấp chủng tử kiến phần  th́ kiến phần nó nhiếp vào thức uẩn; nếu chấp chủng tử tướng phần th́ tướng phần nó nhiếp vào ngoại xứ. Cả hai lối chấp đều trái với Thánh giáo nói: "Năm căn nhăn, nhĩ v.v... đều nhiếp vào sắc uẩn nội xứ bên trong".

Lại nếu năm căn chính là chủng tử của năm thức, th́ năm căn phải là nhân duyên của năm thức, không nên nói năm căn nhiếp vào tăng thượng duyên.

Lại nếu tỷ căn, thiệt căn chính là chủng tử của hai thức đó, vậy th́ hai căn tỷ, thiệt giống như hai thức tỷ, thiệt, chỉ nên ràng buộc ở cơi Dục, hoặc cả hai thức tỷ, thiệt, giống như hai căn tỷ, thiệt cũng nên ràng buộc luôn ở cơi Sắc. Nếu chấp nhận như thế th́ trái với Thánh giáo. (Nói chỉ có ba thức nhăn, nhĩ, thân ở nhị địa, chứ tỷ và thiệt thức chỉ có ở cơi Dục). C̣n nói ba căn nhăn, nhĩ, thân chính là chủng tử ba thức th́ nên chỉ có ở hai địa vị là Ngũ thú Tạp cư và Sơ thiền. Hoặc nói không có ở cả Năm địa là Ngũ thú Tạp cư và Bốn cơi Thiền th́ cũng bị cật nạn như thế.

Lại chủng tử năm thức đă thông cả hai tánh thiện, ác, th́ năm sắc căn không phải chỉ có tánh vô kư. 

Lại chủng tử năm thức nhiếp vào loại không chấp thọ, th́ năm căn cũng phải nên không chấp thọ.

Lại năm sắc căn nếu là chủng tử của năm thức, th́ chủng tử ư thức phải là Mạt na, v́ năm thức kia đă lấy năm căn làm đồng pháp vậy (đồng làm căn cho chuyển thức nương).

Lại luận Du già nói sáu thức nhăn nhĩ v.v... đều đủ ba chỗ nương (là nương chủng tử hoặc gọi Nhân duyên y; nương căn, hoặc gọi Câu hữu y; nương diệt ư hoặc gọi Đẳng vô gián y). Nay nếu nói năm sắc căn chính là chủng tử của năm thức th́ chỗ nương chỉ có hai.

Lại trong Thánh giáo nói năm căn nhăn, nhĩ v.v... là nói chung cả căn hiện hành và căn chủng tử. Nay chấp chủng tử năm thức là năm căn th́ trái với tất cả Thánh giáo.

- Có người muốn tránh lỗi nói trên, dựa vào lối chấp ấy để cứu chữa rằng: "Nghiệp chủng tăng thượng chiêu cảm năm thức ở trong Dị thục thức, đó gọi là năm sắc căn, chứ không phải làm nhân duyên chủng tử sanh ra năm thức". Lẽ này khéo phù hợp với hai bài tụng và khéo thuận với luận Du già.

- Người kia nói thế chỉ là nói suông, không có thật nghĩa, v́ nếu thế th́ lẽ đáng năm sắc căn chẳng phải là vô kư. Lại nghiệp chủng là năm căn th́ không phải chỉ có chấp thọ, chỉ nhiếp vào sắc uẩn, chỉ nhiếp vào nội xứ, hai căn tỷ thiệt chỉ nên ràng buộc ở Dục giới, ba căn không nên ràng buộc ở năm địa (Ngũ thú Tạp cư và Bốn cơi Thiền), v́ nghiệp chủng chiêu cảm ư thức lư ưng là Mạt na, nhăn, nhĩ v.v... không thể không hiện hành và chủng tử lại có thể là nhăn, nhĩ v.v... mà không phải là sắc căn. Lại nếu năm thức đều do nghiệp chiêu cảm, thời có thể một mực nhiếp vào vô kư tánh, thời năm thức thiện ác v.v... đă không phải nghiệp chiêu cảm, th́ không có nhăn căn v.v... làm Câu hữu y. Cho nên lời nói của ông, không phải là lời cứu chữa khôn khéo.

Lại trong các Thánh giáo đều nói: "A lại da thức biến hiện tợ sắc căn và chỗ căn nương (thân) cùng khí thế gian)". Tại sao ông lại bác không có sắc căn, chỉ chấp nhận nhăn thức v.v... biến hiện ra tợ sắc, tợ thanh, mà không chấp nhận nhăn thức v.v... được Tạng thức biến hiện? Mê và lầm như thế thật rất trái với giáo lư.

Nhưng Tụng nói:" Công năng chủng tử gọi là năm căn" là cốt để phá người chấp ĺa ngoài thức thật có năm căn.

Nên hiểu chính do bản thức biến hiện ra tợ nhăn căn ... căn này có tác dụng phát sanh năm thức nên giả gọi đó là chủng tử và sắc công năng, chứ không phải nói sắc căn chính là chủng tử của thức và của nghiệp.

Lại minh liễu ư thức duyên năm cảnh, nên lấy năm thức làm Câu hữu y, v́ minh liễu ư thức này phải cùng khởi một lần với năm thức. Nếu minh liễu ư thức không nương năm thức nhăn, nhĩ v.v... th́ minh liễu ư thức không thể làm chỗ nương cho năm thức, v́ chúng dựa lẫn nhau, có thế lực ngang nhau.

Lại thức thứ bảy, tuy không gián đoạn nhưng đến bậc kiến đạo, tu đạo nó đă có chuyển đổi, th́ nó phải như sáu thức có Câu hữu y. Nếu không như vậy, th́ nó phải không nhiếp vào chuyển thức, do đó trái với Thánh giáo nói chuyển thức có bảy thứ. Cho nên chấp nhận thức thứ bảy có Câu hữu y, và Câu hữu y đó chính là thức thứ tám hiện hành. Như luận Du già nói: "Có Tạng thức nên có thức Mạt na, có thức Mạt na làm chỗ nương, mà Ư thức được phát sanh".

Luận kia ư nói: "Hiện hành Tạng thức" làm chỗ nương mói có thức Mạt na, chứ không phải do chủng tử của nó trong Tạng thức. Không vậy th́ nên nói có Tạng thức cho nên Ư thức được phát sanh. Do đó, lời nói kia lấy chủng tử làm căn và Mạt na không có Câu hữu y , là trái với lư giáo.

Thế nên nói: "Năm chuyển thức trước mỗi mỗi phải có hai Câu hữu y, đó là năm sắc căn và đồng thời Ư thức".

Chuyển thức thứ sáu quyết định thường có một Câu hữu y, đó là thức thứ bảy. Nếu Ư thức cùng khởi lên một lần với năm thức trước th́ cũng lấy năm thức trước làm Câu hữu y. Chuyển thức thứ bảy quyết định chỉ có một Câu hữu y, đó là thức thứ tám. Chỉ riêng thức thứ tám hằng thường không chuyển biến, tự ḿnh đúng vững, không cần có có Câu hữu y".

c. Có người cho rằng câu nói trên chưa hết lư. Thức thứ tám so với các thức khác đă đồng là thức, th́ tại sao không chấp nhận thức thứ tám có Câu hữu y? Thức thứ bảy, thức thứ tám đă hằng cùng nhau sinh khởi lại cùng nhau nương nhau, như thế có ǵ lỗi?

Đă chấp nhận thức hiện khởi (hiện hành) lấy chủng tử của chính nó làm chỗ nương, th́ cũng nên chấp nhận chủng tử đó cũng nương nơi thức hiện khởi (hiện hành). Ư nói thức hiện hành nương chủng tử, chủng tử nương thức hiện hành). Bảy chuyển thức hiện hành có thể huân thành chủng tử nơi thứcDị thục. Chủng tử ấy lấy bảy chuyển thức năng huân làm chỗ nương, lấy thức Dị thục sở huân làm chỗ nương mà tồn tại. Nếu ĺa bảy chuyển thức năng huân và thức Dị thục sở huân th́ chủng tử không thể sanh, lớn và trụ.

Lại thức Dị thục, ở trong cơi có sắc nó chấp tŕ thân và nương sắc căn mà phát khởi. Như Khế kinh nói: "Thức A lại da nhân gió nghiệp thổi động, khắp nương các căn, mà hằng tương tục sanh khởi". Luận Du già nói: "Sáu thức nhăn, nhĩ v.v... đều có chỗ nương riêng, nên không có  khả năng chấp thọ toàn thân có sắc căn". Nếu thức Dị thục không chấp y chỉ nơi các sắc căn, th́ nó cũng như sáu thức không có  khả năng chấp thọ. hoặc cái nhân được lập đó, mắc phải lỗi bất định (theo Nhân minh).

Cho nên Tạng thức nếu hiện khởi th́ nhất định có một chỗ nương, đó là thức thứ bảy. Khi ở trong cơi có sắc, nó cũng nương sắc căn, nếu là thức chủng tử th́ nhất định có một chỗ nương, đó là thức Dị thục, khi ở địa vị mới huân tập cũng nương nơi thức năng huân. Các lẽ khác như trước đă nói.

d. Có người cho rằng các lời nói trên đều không đúng lư, v́ họ chưa rơ chỗ nương và nương khác nhau. Nương là chỉ cho tất cả pháp sanh diệt phải nương nhân cậy duyên mà sanh khởi và tồn tại. Các chỗ nương cậy cũng gọi là nương. Như vua và tôi đều nương lẫn nhau. Nếu pháp ǵ có ư nghĩa là quyết định đồng thời, có cảnh duyên, làm chủ và có  khả năng khiến Tâm, Tâm sở tiếp nhận cảnh sở duyên của chính nó, th́ pháp đó mới là chỗ nương. Nói rơ, chính sáu xứ bên trong (sáu căn) mới là chỗ nương. Ngoài ra pháp ǵ không phải có cảnh sở duyên, không có tánh quyết định và không làm chủ th́ không phải chỗ nương, như vua chứ không phải như tôi. Cho nên trong Thánh giáo nói chỉ có Tâm, Tâm sở là có chỗ nương (là các căn), chứ không phải sắc pháp, v́ sắc pháp không có cảnh sở duyên. Chỉ nói Tâm sở lấy Tâm vương làm chỗ nương, chứ không nói Tâm sở làm chỗ nương cho Tâm, v́ Tâm sở không phải là chủ, không tự tại (như bề tôi).

Nhưng có chỗ nói nương là chỗ nương, hoặc chỗ nương là nương, đều tùy nghi giả nói.

Do đó năm thức đều có chỗ nương, và nhất định có bốn chỗ, đó là năm sắc căn, thức thứ sáu, thức thứ bảy, thức thứ tám. Nếu thiếu một th́ năm thức không sanh được, v́ bốn chỗ nương này nói cách khác tức là đồng cảnh y, phân biệt y, nhiễm tịnh y và căn bổn y  khác nhau.

Nhưng Thánh giáo thường chỉ nói năm thức nương năm căn, v́ năm căn là chỗ nương riêng của mỗi thức. Lại đồng cảnh y (tức năm căn, thức đồng duyên một cảnh với căn v.v...) là cái tương thuận gần nhất với năm thức.

Đệ lục Ư thức chỉ có hai Câu hữu y đó là thức thứ bảy và thức thứ tám. Thiếu một trong hai thứ th́ thức thứ sáu không sanh ra được. Ư thức thứ sáu tuy cùng năm thức tiếp nhận tiền cảnh rơ ràng, nhưng không nhất định lúc nào Ư thức cũng nương năm thức, cho nên năm thức không phải là chỗ nương riêng của Ư thức.

Thánh giáo chỉ nói Ư thức nương thức thứ bảy, đó là nhiễm tịnh y, v́ hai thức này đồng nhiếp thuộc vào chuyển thức, tương thuận gần nhau.

Câu hữu y của thức thứ bảy chỉ có một, đó là thức thứ tám. V́ nếu không có Tạng thức thứ tám th́ thức thứ bảy không sanh được, như bài tụng nói:

Nhờ nương A lại da,

Nên có Mạt na sanh,

Y chỉ Tâm và Ư,

Các chuyển thức khác sanh.

Câu hữu y của thức A lại da cũng chỉ có một thứ, đó là thức thứ bảy. Nếu không có thức thứ bảy th́ A lại da quyết không sanh được. Do đó, trong Luận nói: "Tạng thức thường cùng thức Mạt na đồng thời sanh khởi".

Lại nói Tạng thức thường nương thức nhiễm ô, chính là nương thức Mạt na này, nhưng có chỗ nói ở ba địa vị (A la hán, Diệt tận định, Xuất thế đạo) không có Mạt na, đó là dựa vào tánh hữu phú của thức Mạt na mà nói, cũng như nói ở bốn địa v́ (Ba thừa Vô học vị và Phật) không có A lại da, chứ không phải ở nơi bốn vị đó không có thức thứ tám (ở bốn địa vị đă dứt ngă ái chấp tàng mà nói là không có A lại da, chứ thể của thức thứ tám luôn vẫn có). Nghĩa đây cũng thế.

Tuy ở cơi có Sắc, thức A lại da cũng nương năm căn mà phát sanh, nhưng không nhất định khi nào cũng có, nên năm căn này không nhiếp vào loại Câu hữu y của thức thứ tám A lại da. Chủng tử củă thức không thể hiện tiền tiếp nhận cảnh của chính ḿnh, nên nó có thể có nghĩa nương mà không có nghĩa là chỗ nương như căn. C̣n chỗ nương của Tâm sở th́ tùy theo thức Tâm vương nó tương ưng mà nói, mỗi Tâm sở lại gia thêm Tâm vương mà nó tương ưng để làm chỗ nương. Nếu nói như thế là khéo phù hợp với lư và giáo.

- Cuối cùng là Khai đạo y – (Đẳng vô gián duyên y). Có ba thuyết:

1. Có người cho rằng năm thức trước tự ḿnh và thông qua thức khác trước sau không tương tục, không thể làm Khai đạo y, nên chắc chắn phải có thức thứ sáu dắt dẫn phát sanh, và chỉ có thức thứ sáu làm Khai đạo y. C̣n Ư thức thứ sáu, tự ḿnh tương tục và cũng do năm thức trước dắt dẫn phát sanh, nên lấy năm thức trước làm Khai đạo y.

Thức thứ bảy, thức thứ tám tự ḿnh tương tục không cần thức khác dắt dẫn phát sanh, nên chỉ lấy tự loại chính ḿnh làm Khai đạo y.

2. Có người cho rằng thuyết trên chưa hết lư, v́ năm thức trước khi ở địa vị chưa tự tại và gặp cảnh xấu, th́ có thể nói như trên, chứ nếu năm thức ở địa vị tự tại như chư Phật đối với cảnh được tự tại, các căn sử dụng chung, nhậm vận quyết định không cần tầm cầu th́ năm thức thân của chư Phật đâu phải không tương tục. - Lại năm thức đẳng lưu đă do thế lực của tâm quyết định, tâm nhiễm tịnh, và tác ư của ư thức dắt dẫn mà khởi lên, ngay khi tiếp tục chuyên chú duyên cảnh sở duyên chưa rời bỏ, th́ làm sao không chấp nhận năm thức đó có nhiều niệm tương tục (đẳng lưu)?

Cho nên luận Du già nói: "Tiếp sau tâm quyết định mới có tâm nhiễm tịnh, rồi tiếp sau đó mới có nhăn thức thiện, bất thiện sanh khởi, nhưng chúng không do sức phân biệt của chính ḿnh mà do ư thức, cho đến khi ư thức chưa chạy theo duyên cảnh khác. Trong thời gian đó nhăn và ư hoặc thiện, hoặc nhiễm, cứ tương tục sanh khởi.

Giống như nhăn thức sanh, cho đến thân thức sanh nên biết cũng thế. Ư luận trên đây định nói rơ trong thời gian hai thức và ư cùng đồng thời tương tục sanh khởi, khi đă có nhăn thức th́ cũng có ư thức, cho nên không phải hai thức tương tục sanh lẫn nhau. Nếu khi gặp cảnh cường thịnh tiếp tục hiện tiền bức đoạt thân tâm không thể thời rời bỏ, bấy giờ năm thức thân chắc chắn phải tương tục, như ở cảnh địa ngục nóng rất khổ hoặc cơi trời hư vong rất vui (trời Dục giới).

Cho nên luận Du già nói: "Nếu sáu thức niệm trước làm Đẳng vô gián duyên cho sáu thức niêm sau, tức lấy đó thi thiết gọi là ư căn; c̣n nếu năm thức trước sau quyết định chỉ có ư thức làm Khai đạo y", thời luận kia nên nói: "Một ư thức này làm Đẳng vô gián duyên (Khai đạo y) cho sáu thức kia", hoặc nên nói sáu thức này làm Đẳng vô gián duyên cho một thức kia. Nhưng luận kia đă không nói như vậy, cho nên biết năm thức có sự tương tục. Khi năm thức khởi lên chắc chắn có ư thức niệm trước dẫn dắt ư thức niệm sau làm cho phát khởi, cần ǵ phải có năm thức làm Khai đạo y?

Khi ở địa vị vô tâm và ngủ mê, Ư thức đă dứt, lúc sau nó khởi lại, trong khoảng thời gian đó Tạng thức va Mạt na đă hằng tương tục, th́ cũng nên làm Khai đạo y cho Ư thức ấy, c̣n nếu Ư thức dùng tự loại niệm trước làm Khai đạo cho niêm sau, th́ tại sao lại không chấp nhận tự loại năm thức cũng làm Khai đạo y cho ḿnh? Đây đă không như vậy, th́ sao kia lại như vậy?

Khi thức Mạt na khởi đầu tương ưng với B́nh đẳng tánh trí, cũng phải do Ư thức thứ sáu (quán hai không) dắt dẫn, vậy cũng nên lấy thức thứ sáu làm Khai đạo y (cho Mạt na).

Khi đệ bát tịnh thức khởi đầu tương ưng với Đại viên cảnh trí cũng phải do thức thứ sáu (tương ưng với Diệu quan sát trí) và thứ bảy (tương ưng với B́nh đẳng tánh trí), làm phương tiện dẫn tới phát sanh. Lại tâm Dị thục khi ở địa vị nhiễm ô th́ nương nhiễm ô ư, hoặc khi ở vị chuyển y th́ nương nơi thiện tâm tương ưng với nguyện từ bi. Như vậy quyết phải chấp nhận đệ bát thức cũng lấy thức thứ sáu, thức thứ bảy làm Khai đạo y. Do đó các lời nói trên kia đều chưa rốt ráo.

Đúng ra nên nói năm thức trước tùy nghi mà dùng thức nào trong sáu thức niệm trước làm Khai đạo y. Ư thức thứ sáu dùng tự loại niệm trước hoặc dùng thức thứ bảy, thức thứ tám làm Khai đạo y. Thức Mạt na thứ bảy dùng tự loại niệm trước hoặc dùng thức thứ sáu làm Khai đạo y. Thức A đa na (thức thứ tám) dùng tự loại niệm trước và thức thứ sáu, thứ bảy làm Khai đạo y, đều không trái lư. Do đă nói trước rồi vậy.

3. Có người cho ư kiến vừa nói cũng không đúng lư, v́ Khai đạo y có nghĩa là pháp ǵ mà có đủ bốn nghĩa là thật có (Bất tương ưng hành không thật có) có  khả năng duyên (sắc không có  khả năng nhận biết), làm chủ (Tâm sở không phải chủ) và có thể làm Đẳng vô gián duyên (thức khác loại và thức niệm sau không thể làm Đẳng vô gián duyên), th́ gọi là Khai đạo y. Đậy chỉ thuộc tâm chứ không phải thuộc Tâm sở, hay sắc, Bất tương ưng hành, Vô vi pháp.

Nếu thức niệm trước này và thức niệm sau khi không có nghĩa đồng khởi, mới nói thức này có năng lực khai đạo cho thức kia, c̣n tám thức trong một thân đă có thể đồng khởi, tức thức này đối thức kia là khác loại, khác loại th́ chỉ làm Câu hữu y chứ làm sao mà làm Khai đạo y cho nhau được.

Nếu chấp nhận thức khác loại làm Khai đạo y, th́ tám thức không đồng thời khởi (v́ đồng thời khởi th́ không phải Khai đạo y) tức là đồng nghĩa với nghĩa của Tiểu thừa dị bộ chấp tâm không đồng sanh.

Lại trong một thân, các thức đồng khởi nhiều ít (khi một thức, khi hai, ba thức) không nhất định. Nếu cho nó làm Đẳng vô gián duyên cho nhau, thời sắc căn (và Bất tương ưng hành pháp v.v...) khác loại với tâm cũng đều là Đẳng vô gián duyên như vậy, do đó trái lời Thánh nói: "Đẳng vô gián duyên chỉ có Tâm Tâm sở".

Nhưng luận Nhiếp Đại thừa nói: "Sắc cũng có Đẳng vô gián duyên", đây lời nói buông ra để đoạt lại. Nghĩa là giả sử như Tiểu thừa cho sắc tâm trước sau có Đẳng vô gián duyên, nói thế là đoạt mất nghĩa nhân duyên. Không như vậy mà nói "Đẳng", th́ chữ "Đẳng" này thành vô dụng. V́ nếu bảo "Đẳng" không phải là ngăn nhiều ít tâm, mà chỉ biểu thị đồng loại, th́ nói đồng loại làm Đẳng vô gián duyên là trái điều ông (Tiểu thừa) chấp thức khác loại làm Đẳng vô gián duyên.

Thế nên biết tám thức đều chỉ lấy tự loại làm Khai đạo y, rất là phù hợp với giáo và lư. V́ tự loại tức không có nghĩa đồng khởi. Khai đạo y của Tâm sở, do tùy theo nơi mỗi thức Tâm vương mà nó tương ưng để nói.

Tuy Tâm, Tâm sở khác loại đồng sanh, nhưng tương ưng lẫn nhau, ḥa hợp tuồng như một, quyết định đồng sanh đồng diệt và sự thể, nghiệp dụng cũng đồng. Một thức khai đạo th́ các thức khác cũng khai đạo (như Xúc tâm sở cùng sanh với nhăn thức th́ các Tâm sở Thọ, Tưởng, Tư cùng tiếp sanh theo), cho nên lần lượt làm Đẳng vô gián duyên cho nhau. C̣n các thức Tâm vương thông với nhau th́ không có nghĩa khai đạo như vậy, không nên đem Tâm sở ra làm định lệ. Nhưng các Tâm sở chẳng phải là Khai đạo y, (mà chỉ là Đẳng vô gián duyên), v́ nó không có tự chủ với việc dẫn sanh ra cái khác.

- Nếu Đẳng vô gián duyên của Tâm, Tâm sở chỉ đều do tâm tự loại, th́ khi thức thứ bảy, thức thứ tám mới bắt đầu chuyển y, các Tâm sở tín v.v... tương ưng với nó sẽ thiếu mất cái duyên tự loại Đẳng vô gián đó. Thức thứ bảy, tám khi chưa chuyển y th́ không có mười một thiện Tâm sở tương ưng. Khi chuyển y th́ có mười một thiện tương ưng, nếu phải tâm tự loại làm Đẳng vô gián duyên, th́ mười một thiện này khi đó thiếu cái duyên Đẳng vô gián (v́ khi chưa chuyển y nó chưa có) và sẽ trái lời Thánh nói: "Các Tâm Tâm sở đều đủ bốn duyên mới sanh khởi".

Khi ở địa vị vô tâm, ngủ mê và chết ngất v.v... Ư thức tuy đoạn mà lúc sau lại khởi th́ Khai đạo y của nó chính là tự loại ở thời gian trước đó. Tự loại năm thức nên cũng biết thế. Không có tâm khác loại xen vào làm cách đoạn ở giữa nên gọi là vô gián. Khi thức niệm trước vừa diệt là đă làm Khai đạo y cho thức niệm sau, cần ǵ phải do thức khác loại mới làm khai đạo?

Nhưng trong Thánh giáo hoặc nói sáu thức trước dẫn khởi lẫn nhau, hoặc thức thứ bảy, thức thứ tám nương nơi thức thứ sáu, thức thứ bảy mà sanh khởi, nói thế là y theo Tăng thượng duyên thù thắng mà nói, chứ không phải nói Đẳng vô gián duyên  cho nên không trái nhau.

Luận Du già nói: "Nếu thức niệm trước không gián đoạn th́ các thức niệm sau nhất định sanh khởi, nên thức niệm trước là Đẳng vô gián duyên cho thức niệm sau".

Lại sáu thức niêm trước làm Đẳng vô gián duyên cho sáu thức niệm sau, thiết định gọi là ư căn. Câu này lời tổng mà ư biệt, cũng không trái nhau. Thế nên biết thức tự loại nương nhau làm Khai đạo y, là điều rất hợp giáo lư.

- Luận các nghĩa bên lề như vậy đă xong, bây giờ nên biết luận về nghĩa chính của thức Mạt na này. Thức Mạt na năng biến thứ hai này tuy đủ ba chỗ nương, nhưng chữ "nương kia chuyển" trong bài tụng là chỉ để hiển thị hai thứ nương đầu, là nhân duyên Chủng tử y và căn Câu hữu y. Nghĩa là hiển thị sở y và sở duyên của thức Mạt na này đều là thức thứ tám. Lại 

hai thứ nương đầu đối với thức Mạt na có tác dụng thù thắng. Hoặc Khai đạo y là thứ dễ hiểu rơ. (25)

- Như vậy đă nói sở y của thức thứ bảy, c̣n sở duyên của nó như thế nào?

Tức như tụng nói chữ "duyên kia". "Kia" chính là thức thứ tám của Mạt na nương như vừa nói. Thánh giáo nói: "Thúc Mạt na duyên Tạng thức kia" (Có bốn thuyết):

1. Có người cho rằng thức Mạt na này duyên thức thể thứ tám và năm Tâm sở tương ưng với nó. C̣n Luận nói Mạt na hằng tương ưng ngă và ngă sở. Nghĩa là Mạt na duyên thứ tự thể thức thứ tám và Tâm sở tương ưng với nó, rồi tuần tự chấp làm "ngă" và "ngă sở". Nhưng các Tâm sở không rời thức, như nói chữ "Duy thức" là trong đó đă gồm cả Tâm sở, không trái với Thánh giáo.

2. Có người cho lời nói trên không đúng lư, v́ trong Thánh giáo không có chỗ nào nói Mạt na duyên xúc Tâm sở v.v... của đệ bát thức cả. Nên nói Mạt na chỉ duyên Kiến phần và Tướng phần của thức thứ tám rồi lần lượt chấp làm "ngă" và "ngă sở". V́ Kiến và Tướng đều lấy thức làm thể. Nói thế không trái với Thánh giáo.

3. Có người cho nói như vừa rồi không đúng lư, v́ Tướng phần năm căn, năm cảnh không phải thức uẩn, nếu Mạt na duyên nó th́ cũng giống như năm thức, cũng duyên cảnh bên ngoài, và có thể như ư thức duyên cảnh chung, th́ có thể khi sanh cơi Vô sắc không có sắc để duyên là không chấp ngă sở. Và do nhàm chán sắc mà sanh cơi Vô sắc, nên không c̣n biến ra sắc. Vậy nên nói Mạt na chỉ duyên Tạng thức và chủng tử của nó, rồi lần lượt chấp làm "ngă" và "ngă sở". V́ chủng tử chính là công năng của Tạng thức, không có vật thật, nên không trái với Thánh giáo.

4. Có người lại nói các thuyết trên đều không đúng lư. V́ chủng tử sắc v.v... không phải thức uẩn. V́ luận nói chủng tử là thật có, nếu như chủng tử là giả th́ như không có, không có th́ nó không phải là nhân duyên sanh ra pháp. Lại Tát ca gia kiến tương ưng với Mạt na, nhậm vận một loại, hằng tương tục sanh khởi, đâu được chấp ngă và ngă sở riêng biệt nhau, v́ không có nghĩa cùng trong một tâm mà khởi lên chấp có hai cảnh đoạn và thường khác nhau, cùng chấp một lần. Cũng không thể nói hai chấp đoạn và thường đó có trước sau, v́ thức thứ bảy từ vô thỉ lại, nhất vị hằng thường sanh khởi (không phân trước sau).

- Nên biết Mạt na chỉ duyên hiện hành Kiến phần của Tạng thức chứ không duyên ǵ khác, v́ tạng thức từ vô thỉ lại một loại tương tục tợ thường tợ một và thường làm chỗ nương cho các pháp. Mạt na chỉ chấp hiện hành Kiến phần kia làm tự nội ngă, nhưng thừa ngữ thế mà nói luôn chữ "ngă sở"; hoặc Mạt na chấp thức thứ tám là cái "ta của ta" (tức lấy năng chấp làm ta, bị chấp làm của ta – ngă sở). Cho nên cùng trong một chấp kiến mà nghĩa có hai. Nói như thế là khéo thuận với giáo lư, v́ nhiều nơi chỉ nói có: "Ngă kiến", v́ ngă và ngă sở chấp không cùng khởi lên một lần.

Khi ở địa vị chưa chuyển y th́ Mạt na chỉ duyên Kiến phần của Tạng thức, nhưng khi đă chuyển y, nó cũng duyên chân như và các pháp khác.

C̣n như b́nh đẳng tánh trí là v́ chứng được mười thứ tánh b́nh đẳng cho nên biết được thắng kiến giải sai biệt của các hữu t́nh mà thị hiện các ảnh tượng Phật. Nhưng trong Tụng đây cốt chỉ nói khi chưa chuyển y, cho nên chỉ nói Mạt na duyên Tạng thức; v́ khi ngộ khi mê có thông và cuộc, lư lẽ như vậy; v́ cảnh giới của ngộ là vô ngă, cảnh giới của mê là ngă chấp, bên cùng khắp, bên không cùng khắp khác nhau.

- Tại sao Mạt na lại duyên chỗ của chính nó nương,nói cách khác tại sao sở duyên của Mạt na cũng chính là sở y của Mạt na?

Như đă nói thức niệm sau duyên thức niệm trước, là điều đă đưọc công nhận, th́ đây có lỗi ǵ?

- Tụng nói "Tư lường làm tánh tướng" là hiển thị cả tự tánh và hành tướng của thức Mạt na. Mạt na lấy tư lường làm tự tánh, cũng lấy tư lường làm hành tướng. Do hai nghĩa đó mà lập riêng tên Mạt na hay Ư. V́ thẩm lự tư lường nên gọi là Mạt na. Khi ở địa vị chưa chuyển y, nó cứ thường thẩm tư lường tướng ngă chấp; c̣n khi ở địa vị chuyển y, nó cũng hằng thẩm tư lường tướng vô ngă. (Tư lường ngă là phi lượng, tư lường vô ngă là hiện lượng, tỷ lượng đúng). (26)

- Thức Mạt na này có mấy Tâm sở tương ưng?

Mạt na thường tương ưng với bốn thứ phiền năo. Trong bài tụng nói chữ "câu" là hiển thị nghĩa tương ưng. Nghĩa là từ vô thỉ lại cho đến lúc chưa được chuyển y th́ Mạt na này nhậm vận hằng duyên Tạng thức và tương ưng với bốn Căn bản phiền năo là ngă si, ngă kiến, ngă mạn, ngă ái.

Ngă si là vô minh, ngu tướng ngă, mê lư vô ngă, cho nên gọi là ngă si.

Ngă kiến là chấp ngă. Đối với cái không phải ngă và pháp, vọng chấp là ngă, cho nên gọi là ngă kiến.

Ngă mạn là kiêu ngạo ỷ thị cái ngă của ḿnh chấp, làm cho tâm cất cao lên, cho nên gọi là ngă mạn.

Ngă ái là ngă tham, tức đối với cái ngă đă chấp, sanh tâm đắm trước nó, cho nên gọi là ngă ái.

Trong bài tụng có chữ "Tinh" (và). là biểu thị hễ có ngă mạn, ngă ái th́ có ngă kiến cùng khởi; có ngă kiến, ngă mạn là có ngă ái cùng khởi. Đó là nhằm ngăn các bộ phái chấp bốn thứ này không tương ưng nhau.

Bốn thức phiền năo này thường khởi lên làm nhiễu trược nội tâm, khiến cho sáu chuyển thức ngoài trở nên tạp nhiễm. Loài hữu t́nh do đó mà phải sanh tử luân hồi, không thể thoát khỏi, cho nên gọi là phiền năo.

Hỏi: - Căn bản phiền năo có mười thứ (năm độn sử, năm lợi sử), vậy thức này tại sao chỉ tương ưng với bốn thứ?

Đáp: - V́ có ngă kiến, th́ các kiến khác như biên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ không sanh; v́ không khi nào trong nội tâm mà có hai Tuệ tâm sở, (Kiến thuộc tuệ Tâm sở).

Hỏi: - Tại sao thức này phải có ngă kiến?

Đáp: - V́ tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ chỉ do phân biệt sanh, chỉ bị đoạn trừ khi kiến đạo, c̣n bốn phiền năo tương ưng với Mạt na chỉ là câu sanh và chỉ có thể bị đoạn trừ khi tu đạo. (Thế nên Mạt na không có hai thủ kiến và tà kiến). C̣n ngă sở và biên kiến đoạn thường đều nương nơi ngă kiến sanh, mà ngă kiến tương ưng với Mạt na th́ không nương nơi ngă sở và biên kiến sanh, không có ngă sở và biên kiến thường ngấm ngầm bên trong chấp đệ bát làm ngă, cho nên Mạt na phải có ngă kiến. Do ngă kiến có tính thẩm xét quyết định nên "Tâm sở nghi" không thể khởi lên. V́ ái trước ngă nên "Tâm sở sân" không sanh. Do đó Mạt na tương ưng với phiền năo chỉ có bốn.

Hỏi: - Ngă kiến, ngă mạn, ngă ái, ba thứ làm sao cùng khởi được?

Đáp: - Hành tướng ba thứ ấy không trái nhau, th́ cùng khởi có lỗi ǵ đâu?

Hỏi: - Luận Du già nói: "Tham kiến tâm khiêm hạ. Mạn khiến tâm cao cử", đâu phải không trái nhau?

Đáp: Phân biệt và câu sanh, ngoại cảnh và nội cảnh, bị lăng mạ và ỷ thị, bèn thô tế khác nhau. Cho nên văn kia và văn đây không trái nghĩa nhau.

Tâm sở tương ưng Mạt na chỉ có bốn thứ ư? Không vậy, sao Tụng nói và Tâm sở xúc thảy? (Có năm thuyết)

1. Có người cho câu tụng trên có ư nói Tâm sở tương ưng vơi Mạt na chỉ có chín, tức bốn thứ trước kia cộng thêm năm Biến hành là xúc, tác ư, thọ, tưởng, tư. V́ Mạt na quyết phải tương ưng Biến hành tâm sở. Nhưng v́ trước đă nói xúc v.v... tương ưng với Dị thục thức, (mà Dị thục thức thuộc vô phú vô kư, nay nói nếu nói rơ Mạt na tương ưng với xúc v.v ...) th́ sợ lầm cho Mạt na cùng thuộc vô phú vô kư như thức Dị thục. V́ muốn chỉ rơ Mạt na này và Dị thục kia khác, cho nên trong bài Tụng đề chữ "Dư" (khác) và chữ "cập" (và). Nghĩa là bốn phiền năo trước và năm Biến hành này hợp lại thành chín hằng tương ưng với Mạt na.

- Mạt na này tại sao không tương ưng với các Tâm sở khác?

Không tương ưng, v́ "Dục" là hy vọng cảnh chưa toại hợp, c̣n Mạt na này th́ nhậm vận duyên cảnh đă toại hợp, không có hy vọng ǵ, cho nên không có Dục tâm sở.

Thắng giải tâm sở là ấn tín chấp tŕ cảnh chưa tằng quyết định, c̣n Mạt na này từ vô thỉ th́ thường duyên cảnh đă định, đă trải qua sự ấn tín chấp tŕ, cho nên nó không có "thắng giải".

Niệm tâm sở là ghi nhớ việc đă từng tập qua, c̣n Mạt na này thường duyên cảnh thọ dụng hiện tại không ghi nhớ ǵ, cho nên nó không có niệm.

Định tâm sở là buộc tâm chuyên chú vào một cảnh, c̣n Mạt na này nhậm vận từng sát na duyên riêng, đă không chuyên nhất, cho nên nó không có định.

Tuệ tâm sở là ngă kiến, cho nên không nói tách riêng.

Thiện tâm sở là thanh tịnh, không nương với Mạt na hữu phú ô nhiễm.

C̣n các tùy phiền năo là y nơi phận vị sai biệt trước sau của phiền năo mà kiến tập, Mạt na này th́ thường cùng bốn phiền năo tương ưng, trước sau một loại, phận vị không sai khác, cho nên Mạt na không tương ưng với tùy phiền năo.

Ố tác tâm sở là truy hối những việc đă làm, c̣n Mạt na này th́ nhậm vận thường duyên hiện cảnh, không truy hối việc trước, cho nên nó không có ố tác.

Thùy miên tâm sở là phải nương nơi thân tâm nặng nề, hôn muội và sức của các duyên bên ngoài mà tạm thời khởi lên, c̣n Mạt na này từ vô thỉ th́ chỉ một loại chấp ngă bên trong, không cần duyên bên ngoài, cho nên Mạt na này không có thùy miên.

Tầm tứ tâm sở đều dựa bên ngoài mà sanh khởi, truy cứu cạn sâu, phát ngôn thô tế, c̣n Mạt na này chỉ dựa bên trong mà khởi, một mực chấp ngă cho nên nó không tương ưng với Tầm tứ.

2. Có người cho lối giải thích trên về nghĩa chữ "Dư" (khác) trong câu "Cập dư xúc đẳng" (và Tâm sở xúc thảy) trong bài Tụng không đúng. V́ bài Tụng đă có nói riêng Mạt na này nhiếp thuộc hữu phú chứ không phải vô phú như A lại da, nhưng lại c̣n thiếu ư nói Mạt na tương ưng với tùy phiền năo, nên Tụng nói chữ "Dư". V́ phiền năo tất phải tương ưng vói Tùy phiền năo, cho nên bài Tụng nói chữ "Dư" (khác) đó là chỉ rơ cho Tùy phiền năo.

Trong đây có người cho rằng Tùy phiền năo biến khắp tương ưng vói tất cả nhiễm tâm. Như trong Tập Luận nói: Hôn trầm, trạo cử, bất tín, giải đăi, phóng dật thường tương ưng với tất cả phẩm loại ô nhiễm. Nếu rời tánh không kham nhậm của hôn trầm v.v... mà thành tánh ô nhiễm, th́ không thể có lẽ đó. Khi phiền năo khởi, là tâm đă ô nhiễm, phải có năm Tùy phiền năo kia. V́ nếu phiền năo khi khởi lên tất phải do tánh không kham nhậm của hôn trầm, huyên động của trạo cử, bất tín, giải đăi, phóng dật mà có. Trạo cử tâm sở tuy biến khắp tất cả nhiễm tâm nhưng khi ở địa vị có tham th́ nó mạnh hơn, nên chỉ nói trạo cử thuộc phần tham (ngă ái). Cũng như thùy miên và hối, tuy biến khắp ba tánh, nhưng ở địa vị "Si" th́ nó mạnh hơn, nên chỉ nói hối, miên thuôc vào si phần (ngă si).

Tuy các chỗ khác nói có Tùy phiền năo hoặc sáu, hoặc mười thứ, biến khắp các nhiễm tâm, nhưng ở đó đều nương theo nghĩa riêng mà nói "biến khắp", chú không phải thật biến khắp tất cả nhiễm tâm. Nghĩa là y cứ trong hai mươi Tùy phiền năo thấy có sáu Tùy phiền năo có hành tướng rơ rệt thông cả địa vị thô và tế, thông cả hai tánh vô kư và bất thiện, chướng ngại cả định và tuệ cho nên nói sáu. Và y cứ trong hai mươi hai Tùy phiền năo thấy có mười thứ có hành tướng rơ rệt thông cả hai tánh thô và tế nên nói mười. Cho nên đây và trên kia nói không trái nhau.

- Nhưng Tâm sở tương ưng với Mạt na có mười lăm là ngă si, ngă kiến, ngă mạn, ngă ái, năm Biến hành, tuệ trong Biệt cảnh và năm Tùy phiền năo là hôn trầm, trạo cử, bất tín, giải đăi, phóng dật. Ngă kiến tuy là tuệ trong Biệt cảnh nhưng ở trong năm mươi mốt Tâm sở nghĩa nó có sai khác, nên tách làm hai.

- V́ sao Mạt na này không có các Tâm sở khác? V́ mười Tiểu phiền năo như phần v.v... hành tướng thô động, c̣n thức Mạt na thẩm xét vi tế, nên không tương ưng. Vô tâm, vô qúy chỉ là bất thiện, Mạt na chỉ là vô kư, nên không tương ưng ... tán loạn khiến tâm dong ruỗi ngoại cảnh, Mạt na thường chấp một loại cảnh bên trong, không dong ruỗi bên ngoài, nên không tương ưng. Bất chính tri th́ khởi thân, ngữ, ư, hành tướng ra bên ngoài, trái vượt quy tắc, Mạt na chỉ chấp bên trong, nên không tương ưng. Không có các Tâm sở khác, nghĩa như trước đă nói.

3. Có người cho rằng: "Nên nói sáu Tùy phiền năo tương ưng khắp tất cả nhiễm tâm", v́ Luận Du già nói: "Sáu Tùy phiền năo là bất tín, giải đăi, phóng dật, vong niệm, tán loạn, ác tuệ tương ưng với tất cả nhiễm tâm". Vong niệm, tán loạn, ác tuệ nếu không có, th́ tâm không khởi lên các phiền năo; v́ phải nương theo các chủng loại cảnh giới từng tiếp thọ rồi mới phát khởi vong niệm (không nhớ) và chọn lựa sai quấy (ác tuệ) rồi mới khởi lên các phiền năo tham, sân, v.v... thông cả hai tánh là bất thiện và hữu phú. Văn Du già c̣n nói: "Mười Tùy phiền năo biến khắp", nghĩa như trước đă nói.

- Nhưng Mạt na này tương ưng với mười chín Tâm sở, đó là bốn Phiền năo căn bản, năm Biến hành, sáu Tùy phiền năo, thêm niệm, định, tuệ và hôn trầm. Ở đây riêng niệm, được giải thích như tuệ trước kia. Ở đây thêm định v́ Mạt na chuyên chú nơi một loại cảnh chấp ngă chưa bao giờ bỏ. Thêm hôn trầm, v́ Mạt na tương ưng với vô minh rất nặng, nên tâm hôn trầm. Không có "trạo cử" v́ trái với Mạt na, không tương ưng các Tâm sở khác, nên biết như trên đă giải.

4. Có người lại cho rằng: "Mười Tùy phiền năo tương ưng khắp tất cả nhiễm tâm", như luận Du già nói: "Phóng dật, trạo cử, hôn trầm, bất tín, giải đăi, tà dục, tà thắng giải, tà niệm, tán loạn, bất chánh tri", mười thứ này khởi lên ở tất cả nhiễm tâm, khắp tất cả chỗ, ràng buộc ở ba cơi; v́ nếu khi không có tà dục, tà thắng giải, th́ tâm chắc không khởi các phiền năo. V́ phải đối với cảnh tiếp xúc muốn thọ vui khi hợp với cảnh hoặc khi ĺa cảnh, có sự tướng ấn tín chấp tŕ, mới khởi lên các phiền năo tham v.v...

Các người nghi ngờ về lư th́ đối với sự tướng như sắc ắt không do dự, cho nên Tâm tương ưng với nghi cũng có thắng giải. C̣n người đối cảnh sở duyên mà do dự như nghi h́nh người ra ác thú, cái nghi này không phải phiền năo. Các nơi khác không nói hai thứ tà dục, tà thắng giải này biến khắp nhiễm tâm, v́ tà dục khi duyên theo cảnh không ưa và tà thắng giải khi có nghi tương ưng với tâm th́ tà dục, tà thắng giải đó không phải phiền năo thô thiền.

Các tâm sở khác có hoặc không tương ưng với Mạt na, nghĩa như trước đă nói.

Vậy Tâm sở của Mạt na này có hai mươi bốn thứ: Đó là chín pháp, mười tùy phiền năo, thêm năm Biệt cảnh. Chuẩn theo lư trước đây đă giải thích, không có các Tâm sở khác, nói như trên nên biết.

5. Có người cho rằng: "Những thuyết trên đều chưa rốt ráo". Vả, như nghi đời sau có hay không có, th́ đối với sự này đâu có tướng dục, tướng thắng giải ǵ. Khi phiền năo khởi lên, nếu không có "hôn trầm" th́ không chắc có tánh không kham nhậm. Nếu không "trạo cử" th́ không chắc có tánh huyên động, bèn như thiện tâm, chứ không phải ở địa vị ô nhiễm. Nếu trong nhiễm tâm không có "tán loạn" th́ không dong ruỗi, không phải nhiễm tâm. Nếu không có "thất niệm" và "bấtchánh tri" th́ làm sao có phiền năo khởi lên ở trước mắt. Cho nên biết tâm nhiễm ô quyết định phải có tám tùy phiền năo tương ưng, là: Hôn trầm, trạo cử, bất tín, giải đăi, phóng dật, thất niệm, tán loạn, bất chánh tri. Thất niệm và bất chánh tri nếu lấy niệm và tuệ làm tánh th́ nó không biến khắp nhiễm tâm, v́ không phải nhiễm tâm nào cũng duyên theo việc tiếp xúc và lựa chọn. Nếu lấy vô minh làm tánh th́ mới biến khắp các nhiễm tâm. Do trước đă nói như vậy.

- Vậy Mạt na này thật sự tương ưng với mười tám Tâm sở, đó là như trước đă nêu chín pháp, tám Tùy phiền năo, cộng thêm tuệ trong Biệt cảnh. Mạt na không có các Tâm sở khác và bài văn trong Luận, chuẩn theo trước đây mà giải thích.

Nói như thế không trái với giáo và lư. (27)

(Hết cuốn bốn của bản Hán)

 

previous.png   back_to_top.png   next.png

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

 

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0