* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ | KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

LUẬN CÂU-XÁ
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân
Hán dịch Huyền Trang

Việt dịch: Đạo Sinh

--o0o--

Chương 4b : Phân biệt nghiệp

Phần 15

Kinh dạy có bốn loại nghiệp là (1) nghiệp đen, dị thục đen; (2) nghiệp trứang, dị thục trắng; (3) nghiệp đen trắng, dị thục đen trắng; (4) nghiệp không đen không trắng, không có dị thục đen hay trắng, nhưng có khả năng hủy diệt các loại nghiệp khác. (Madhyama, 27, 12; Anguttara, ii. 230; Dīgha, iii. 230; Vibhāṣā, 114, 1)  

依黑黑等殊  所說四種業

惡色欲界善  能盡彼無漏

應知如次第  名黑白俱非.

[Dựa vào sự khác nhau giữa đen, v.v.

Để nói về bốn loại nghiệp:

Nghiệp ác và thiện của Dục giới, nghiệp thiện của Sắc giới,

Nghiệp vô lậu có khả năng đoạn trừ các loại trên;

Theo thứ tự trên

Chúng được gọi là đen, trắng, không đen trắng.]  

Luận:  Nghiệp bất thiện vốn thuộc loại nhiễm ô (kliṣṭa) nên hoàn toàn đen; dị thục của nó vốn là khổ (amanojña, bất khả ư) nên cũng thuộc về đen.

Nghiệp thiện hệ thuộc Sắc giới v́ không hỗn tạp với điều ác nên hoàn toàn trắng, có dị thục vốn là quả đáng ưa nên cũng thuộc về trắng.

(Vấn nạn) Tại sao không nói đến loại nghiệp thiện hệ thuộc Vô sắc giới?

(Giải thích) Bởi v́ theo truyền thuyết [tức trả lời của các luận sư thuộc nhóm thứ ba của Tỳ-bà-sa (Vibhāṣā, 114, 4)] tính chất “trắng” chỉ áp dụng cho loại nghiệp chiêu cảm hai loại dị thục ở trung hữu (ātarābhavika) và sinh hữu (aupapattibhavikavipāka); đồng thời bao hàm ba nghiệp của thân, ngữ và ư. Trong khi đó, nghiệp thuộc Vô sắc giới không có các tính chất này.

(Chất vấn) Nhưng kinh có nói nghiệp thuộc Vô sắc giới là trắng và dị thục của nó cũng trắng?

Nghiệp thiện Dục giới vốn hỗn tạp với điều ác nên gọi là đen trắng; dị thục của nó cũng hỗn tạp v́ thế thuộc về đen trắng.

Định nghĩa này hàm ư không xét về mặt tự tánh của nghiệp mà chỉ xét về chuỗi tâm tương tục hoặc thân sở y; có nghĩa là trong cùng một chuỗi tương tục của tâm, nghiệp thiện có lẫn lộn cả nghiệp bất thiện; chứ không phải có một loại nghiệp vừa đen vừa trắng và cũng không có loại dị thục vừa đen vừa trắng đối nghịch nhau.

(Vấn nạn) Nhưng nếu nghiệp ác lẫn lộn với nghiệp thiện th́ cũng phải được xem như là vừa đen vừa trắng?

(Giải thích) Nghiệp ác không nhất thiết phải lẫn lộn với nghiệp thiện; nhưng ở Dục giới th́ nghiệp thiện nhất định phải có ác nghiệp lẫn vào, bởi v́ ở giới này nghiệp ác mạnh hơn nghiệp thiện.

Nghiệp vô lậu phá hủy ba loại nghiệp trước. V́ không bị nhiễm ô (akliṣṭa) nên không phải đen; và v́ không có dị thục nên không phải trắng; tức là “không trắng” (aśukla, phi bạch).

Kinh sử dụng thành ngữ “không trắng” là có chủ ư. Thế Tôn muốn chỉ rơ nghiệp vô lậu không phải là nghiệp trắng. Trong kinh Đại không (Mahāśūnyatāsūtra), khi nói về các pháp thuộc A-la-hán (aśaikṣa), ngài cũng đă giải thích: “Này A-nan-đà, các pháp thuộc A-la-hán (chư vô học pháp) hoàn toàn trắng, hoàn toàn thiện, hoàn toàn không có tỳ vết”. Và Bổn luận (Prakaraṇa, 6, 9; Vibhāṣā, 114, 1) cũng có viết: “Pháp trắng là ǵ? - Là các pháp thiện và các pháp vô phú vô kư”.

Nghiệp vô lậu không có dị thục bởi v́ nó không hệ thuộc tam giới; nó chấm dứt tiến tŕnh của hiện hữu (lưu chuyển pháp tánh).

(Hỏi) Có phải tất cả các nghiệp vô lậu đều có thể phá hủy tất cả các nghiệp thuộc ba loại đầu (là đen, trắng và vừa đen vừa trắng) không?

Tụng đáp:   

四法忍離欲  前八無間俱

十二無漏思  唯盡純黑業

離欲四靜慮  第九無間思

一盡雜純黑  四令純白盡.

[Tương đương với bốn pháp nhẫn

Và tám vô gián đạo ly dục

Là mười hai tư vô lậu,

Chỉ đoạn trừ nghiệp đen.

Tương đương với đệ cửu vô gián đạo

Xả ly dục giới và tứ tĩnh lự là loại tư

Đoạn tận nghiệp đen trắng, nghiệp đen,

Và đoạn tận nghiệp trắng.]  

Luận:  Bốn loại tư (cetanā) tương đương với bốn loại pháp nhẫn (dharmakṣāntis) thuộc về con đường kiến đế (kiến đạo); tám loại tư tương đương với tám con đường đoạn trừ đầu tiên (ānantaryamārga, vô gián đạo) ở giai đoạn xả ly (vairāgya) Dục giới (ly dục nhiễm vị). Tất cả mười hai loại tư trên, tức cũng với số nghiệp vô lậu như vậy, đều có khả năng đoạn trừ ác nghiệp.

Loại tư tương đương với con đường đoạn trừ thứ chín (đệ cửu vô gián đạo) chính là nghiệp vô lậu phá hủy hai loại nghiệp đen trắng và nghiệp đen; bởi v́ đây là thời điểm hủy diệt toàn bộ nghiệp thiện của Dục giới (nghiệp đen trắng) cũng như loại nghiệp ác thứ chín (nghiệp đen cuối cùng).

Loại tư của con đường đoạn trừ thứ chín và cũng là con đường cuối cùng dẫn khởi sự xả ly mỗi một tầng thiền - tức có tất cả bốn loại tư - hủy diệt các nghiệp trắng.

(Vấn nạn) tám thánh đạo đầu tiên ở giai đoạn xả ly Dục giới phá hủy loại nghiệp đen. Nhưng về loại nghiệp đen trắng và loại nghiệp trắng, tức nghiệp thiện hữu lậu (kuśala sāsrava), tại sao các ông lại cho rằng chỉ có thánh đạo thứ chín mới có khả năng phá hủy chúng?

(Giải thích) Nếu nói thật chính xác th́ không có sự đoạn trừ thiện pháp; bởi v́ ngay cả khi đă bị đoạn, thiện pháp vẫn có thể hiện khởi trở lại; tuy nhiên, khi loại phiền năo (kleśa) lấy pháp này làm sở duyên bị hủy diệt th́ người ta nói rằng thiện pháp cũng bị đoạn trừ. Như vậy, chừng nào nhóm phiền năo cuối cùng này chưa bị diệt th́ thiện pháp này vẫn được xem như chưa đoạn trừ. [Chính thánh đạo thứ chín mới có khả năng đoạn trừ sự hoạch đắc (prāpti) nhóm phiền năo thứ chín liên quan đến từng địa (Dục giới, tĩnh lự) và nhờ vậy mới đắc được sự xả ly đối với phiền năo này].   

有說地獄受  餘欲業黑雜

有說欲見滅  餘欲業黑俱.

[Có thuyết nói nghiệp được thọ ở địa ngục, 

Ở các nơi khác của Dục giới thuộc loại đen, hỗn tạp.

Có thuyết nói nghiệp Dục giới thuộc kiến đoạn,

Các nghiệp Dục giới khác thuộc loại đen, vừa đen vừa trắng.]

Luận:  Theo các luận sư khác (Vibhāṣā, 114, 2), loại nghiệp “chắc chắn được cảm thọ ở địa ngục” (narakavedanīya, thuận địa ngục thọ) thuộc về loại nghiệp đen; và loại nghiệp được cảm thọ ở Dục giới, tức ở những nơi nằm ngoài địa ngục, đều thuộc loại nghiệp đen trắng.

Quả báo địa ngục chỉ được sinh khởi bởi loại nghiệp ác (bất thiện, akuśala) v́ thế loại nghiệp được cảm thọ ở địa ngục là loại nghiệp đen. Quả báo ở Dục giới, trừ địa ngục ra, chỉ được sinh khởi bởi loại nghiệp có cả thiện và ác v́ thế loại này thuộc nghiệp đen trắng.

Theo các luận sư khác (Vibhāṣā, 114, 4), loại nghiệp được đoạn trừ bởi kiến đạo v́ không lẫn lộn với nghiệp thiện nên đều thuộc loại đen (thuần hắc). Tất cả các nghiệp khác hệ thuộc Dục giới, tức là các nghiệp được đoạn trừ bởi tu đạo, đều thuộc loại đen trắng (câu nghiệp).

Kinh nói: “Có ba loại tịch tĩnh (mauneya, mâu-ni) là tịch tĩnh của thân, tịch tĩnh của ngữ và tịch tĩnh của ư.” (Madhyama, 5, 4; Anguttara, i. 273; Dīgha, iii. 220).  

無學身語業  即意三牟尼

三清淨應知  即諸三妙行.

[Thân nghiệp, ngữ nghiệp,

Và ư của bậc vô học là ba loại tịch tĩnh.

Ba loại thanh tịnh

Chính là ba diệu hạnh.]

Luận:  Những ǵ được gọi là sự tịch tĩnh của thân, sự tịch tĩnh của nghiệp chính là thân nghiệp và ngữ của A-la-hán. Những ǵ được gọi là sự tịch tĩnh của ư (manomauna) chính là ư, là tâm của A-la-hán; chứ không phải ư nghiệp (karma). Bởi v́ tâm chính là sự tịch tĩnh chân thực (thắng nghĩa mâu-ni) (citta hi paramārthamuniḥ). Tỳ-bà-sa nói rằng dựa vào thân ngữ nghiệp người ta có thể suy luận mà biết được tâm là như thế, tâm là vô học (aśaikṣa).

(Luận chủ) Nhưng thể tánh của thân nghiệp và ngữ nghiệp của A-la-hán là xả ly (virati) trong khi ư nghiệp lại không có tánh xả ly bởi v́ không có ư vô biểu. Như vậy cái được gọi là sự tịch tĩnh (mauna) cũng chính là sự xả ly; v́ thế, khi ư có khả năng xả ly (virama virati) th́ cũng phải được gọi là tịch tĩnh.

Hơn nữa, tại sao chỉ có ư của A-la-hán mới được gọi tên như thế? Bởi v́ A-la-hán chính là người tịch tĩnh đích thực (thực mâu-ni, paramārthamuni) nhờ đă chấm dứt mọi tiếng x́ xào của phiền năo (chư phiền nào ngôn vĩnh tịch tĩnh, sarvakleśajalpoparateḥ).

Kinh nói: “Có ba loại thanh tịnh (śauceya) là thanh tịnh của thân, thanh tịnh của ngữ và thanh tịnh của ư”. (Madhyama, 5, 19; Anguttara, i. 272; Dīgha, iii. 219).

Những hành động tốt của thân, tất cả những hành động tốt của thân, dù hữu lậu (sāsrava) hay vô lậu, đều là sự thanh tịnh của thân; bởi v́ dù tạm thời hay vĩnh viễn, chúng vẫn có thể xóa bỏ sự nhiễm ô của các phiền năo và của các hành động xấu (duścaritamalāpakarṣaka).

Đối với các hành động của ngữ và ư cũng như vậy.

Lời dạy này có ư răn dạy những người lầm tưởng sự tịch tĩnh hư ngụy (tà mâu-ni) là sự tịch tĩnh chân thực, sự thanh tịnh giả dối là sự thanh tịnh chân thực.

Kinh nói có ba loại ác hạnh (duścarita). (Saṃyukta, 14, 4; Anguttara, i. 49, 52; Dīgha, iii. 214; Saṃyutta, v. 75)  

惡身語意業  說名三惡行

及貪瞋邪見  三妙行翻此.

[Các nghiệp thân, ngữ, ư bất thiện

Gọi là ba ác hành.

Và tham, sân, tà kiến.

Ngược lại là ba diệu hạnh.]

Luận:  Các nghiệp bất thiện của thân chính là ác hạnh của thân. Đối với ngữ và ư cũng như vậy.

Ngoài ra c̣n ba ác hạnh của ư nhưng tự tánh của chúng không phải là ư nghiệp. Đó là sự tham lam (abhidhyā, tham), sự tàn ác (vyāpāda, sân) và tà kiến (mithyādṛṣṭi).

Tỷ dụ sư (Dārṣṭāntikas) nói rằng tham, sân và tà kiến chính là ư nghiệp bởi v́ chúng đều được xem là ư nghiệp trong kinh Saṃcetanīya (Tư kinh).

(Tỳ-bà-sa) Nếu vậy, phiền năo và nghiệp sẽ chỉ là một pháp (hợp thành nhất thể)?

(Tỷ dụ sư) Nếu chỉ là một pháp th́ có ǵ sai?

(Tỳ-bà-sa) Nếu thừa nhận phiền năo là nghiệp tức trái với kinh và định nghĩa của kinh về nghiệp. Kinh Saṃcetanīya mà các ông dẫn chứng ở trên khi nói “tham” là có ư chỉ cho tư bởi v́ tư hiện khởi (pravṛti) dưới tác động (mukhena) của tham.

Bởi v́ tham, sân và tà kiến chiêu cảm quả khổ (phi ái quả), bởi v́ chúng bị những người hiểu biết (thông tuệ giả) chê trách, những hành động của thân, ngữ và ư đều bất thiện; v́ thế chúng được gọi là ác hạnh.

Trái ngược với ác hạnh là các diệu hạnh, tức các nghiệp của thân, ngữ và ư; cộng thêm vô tham, vô sân và chánh kiến (samyagdṛṣṭi).

(Hỏi) Làm sao có thể xem tà kiến và chánh kiến là ác, là thiện được? Bởi v́ tà kiến th́ không có ư (vô cố tư) làm hại người khác, và chánh kiến cũng không có ư làm lợi cho người khác (parānugrahopaghātābhisaṃdhyabhāva).

(Đáp) Dĩ nhiên là như vậy; nhưng chúng lại là gốc rễ của hai loại tư trên.   

所說十業道  攝惡妙行中

麤品為其性  如應成善惡.

[Mười nghiệp đạo được nói đến

Bao gồm các ác hạnh và diệu hạnh

Có tính chất thô hiển

Nên mới thành thiện, ác.]

Luận:  Về mười nghiệp đạo (karmapatha), kinh đă định nghĩa rằng các nghiệp đạo thiện bao gồm những diệu hạnh thô hiển nhất, dễ thấy nhất trong số các diệu hạnh; và các nghiệp đạo bất thiện bao gồm những ác hạnh thô hiển nhất trong số các ác hạnh.

(Hỏi) Những ác hạnh và diệu hạnh nào không được bao hàm trong các nghiệp đạo?

(Đáp) Đó là một phần các ác hạnh của thân, gồm (1) các nghiệp đạo gia hành và hậu khởi của thân (prayoga, pṛṣṭhabhūta), (2) một số nghiệp nhiễm ô (kliṣṭa) của thân như uống rượu, đánh đập, trói bắt, v.v (Majjhima, iii. 34): bởi v́ các ác hạnh này không quá thô hiển. Trong số các ác hạnh của thân, chỉ có các ác hạnh như tước đoạt mạng sống, tiền của, vợ con của người khác mới là nghiệp đạo v́ chúng là những ác hạnh cần phải xả ly.

Những ác hạnh thô hiển nhất trong số các ác hạnh của ngữ cũng được gọi là nghiệp đạo với những lư do như trên; tức không bao hàm các nghiệp gia hành, hậu khởi và các nghiệp nhẹ.

Một phần ác hạnh thuộc về ư, tức là tư (cetanā), cũng không được bao hàm trong các nghiệp đạo bất thiện.

Những diệu hạnh không được bao gồm trong các nghiệp đạo là (1) một phần diệu hạnh của thân: Tức gia hành, hậu khởi; từ bỏ uống rượu, v.v.; bố thí, lễ bái, v.v.; (2) một phần diệu hạnh của ngữ như ái ngữ v.v.; (3) một phần diệu hạnh của ư, như thiện tư.

惡六定無表  彼自作婬二

善七受生二  定生唯無表.

[Sáu ác nghiệp đạo chỉ là vô biểu;

Tự tác, tà dâm có cả hai loại

Bảy thiện nghiệp đạo sinh từ thọ có hai loại.

Nếu sinh từ định th́ là bởi v́.]

Luận:  Khi sai khiến người khác tạo tác sáu loại nghiệp đạo giết hại, trộm cắp, nói dối, nói lời ác độc, nói lời sỉ nhục, nói lời bậy bạ th́ sáu nghiệp đạo này chỉ là vô biểu. Người sai khiến người khác tạo tác các hành động trên không có loại biểu nghiệp căn bổn, tức loại hành động tự ḿnh giết hại.

Tà dâm (dục tà hạnh) luôn luôn có cả biểu và vô biểu bởi v́ hành động này phải do tự thân tạo tác. Khi sai khiến người khác phạm tội này th́ không có loại hỷ như khi tự ḿnh phạm phải.

Khi chính bản thân tạo tác các hành động trên th́ cả sáu loại nghiệp đạo đều có biểu và vô biểu nếu như cái chết xảy ra vào cùng thời điểm của biểu nghiệp (khởi biểu nghiệp thời bỉ tiện tử) (có nghĩa là vào đúng thời điểm mà người ta muốn giết; nếu cái chết xảy ra muộn hơn (hậu phương tử) th́ chỉ có vô biểu).

Trong số các nghiệp đạo thiện th́ bảy nghiệp đạo thuộc sắc (rūpin), tất cả các nghiệp đạo của thân và ngữ, đều có cả hai loại biểu và vô biểu. Bởi v́ giới được thọ tŕ (samādānaśīla, thọ sinh thi-la) phụ thuộc vào biểu nghiệp (vijñapti).

Nếu sinh khởi từ định th́ nghiệp đạo chỉ có vô biểu. Đó là các nghiệp đạo được bao hàm trong “pháp tánh thi-la” (dharmatāśīla), tức được bao hàm trong loại luật nghi tĩnh lự và luật nghi vô lậu. Hai loại luật nghi này chỉ phụ thuộc vào tâm v́ thế các nghiệp đạo này không phải là biểu nghiệp.

(Hỏi) Gia hành (prayoga) và hậu khởi (pṛṣṭha) có giống như nghiệp hoặc nghiệp đạo căn bổn (maula karmapatha) không?

Tụng đáp: 

加行定有表  無表或有無

後起此相違.

[Gia hành chắc chắn là biểu và có thể là vô biểu hoặc không.

Trái lại là hậu khởi.]

Luận:  Nghiệp tiên khởi (sāmantakas) là các nghiệp chuẫn bị (prayoga, gia hành) cho loại nghiệp đạo thuộc về Dục giới và luôn luôn thuộc về biểu nghiệp.

Khi chúng được tạo tác bởi loại phiền năo mạnh (paryavasthāna, āhrīkya, mănh lợi triền) hoặc với một niềm tin cực mạnh (parsādaghanarasena, đôn tịnh tâm) th́ có vô biểu; nếu không phải như vậy tức không có vô biểu.

Trái lại, các nghiệp hậu khởi đều là vô biểu. Chúng chỉ là biểu khi nghiệp đạo đă thành tựu nhưng người ta vẫn tiếp tục tạo tác các nghiệp tương tợ.

(Hỏi) Gia hành, nghiệp đạo căn bổn và hậu khởi được lập thành như thế nào?

(Đáp) Như trong trường hợp v́ muốn giết một con vật (paśu) cho nên một người liền ra khỏi giường, cầm tiền, đi đến chợ sờ mó con vật, trả tiền mua, dắt con vật về, lôi kéo nó, dẫn nó vào nhà, ngược đăi nó, cầm dao, đánh đập nó một lần, hai lần cho đến khi giết chết nó, th́ tất cả những hành động xảy ra trước khi con vật bị giết chết đều thuộc về gia hành. 

Đúng vào lúc người này lấy mạng của con vật, tức là khi con vật chết, th́ biểu nghiệp của sát-na này và vô biểu nghiệp cùng thời với biểu nghiệp này chính là nghiệp đạo căn bổn; bởi v́ do hai nhân mà con người bị tội giết hại xúc chạm: Đó là do gia hành và do thành tựu quả (của gia hành).

Những sát-na kế tiếp, tức những sát-na của vô biểu (avijñapti) do hành động giết hại tạo nên, được gọi là hậu khởi; chuỗi sát-na tương tục của các biểu nghiệp (vijñapti) như lột da, cạo lông, cân, bán, nấu nướng, ăn, khen ngon, (anukīrtayati) cũng thuộc hậu khởi.

Đối với sáu loại nghiệp đạo c̣n lại của thân và ngữ cũng có thể giải thích như trên, với những thay đổi cần thiết cho từng trường hợp.

Đối với tham, sân và tà kiến th́ không thể phân thành gia hành và hậu khởi bởi v́ vào sát-na chúng hiện khởi th́ chỉ với sự hiện diện này (saṃmukhībhāvamātreṇa) chúng đă là nghiệp đạo căn bổn.

(Vấn nạn) Một vấn đề được đặt ra ở đây là có phải nghiệp đạo đă được tạo thành bởi biểu và vô biểu thuộc về sát-na con vật (prāṇin) ở vào tử hữu (maraṇabhava), tức là vào sát-na con vật bị chết; hay đó là biểu và vô biểu thuộc về sát-na con vật đă chết (mṛtabhava), tức là sau khi con vật bị giết chết (tử hậu)? Nếu các ông thừa nhận trường hợp đầu th́ lẽ ra một người chỉ phạm tội giết hại khi chết cùng một lúc với con vật bị giết (câu thời mạng chung); nhưng đây lại là điều mà tông phái các ông không thừa nhận. Trong trường hợp sau th́ các ông đă sai lầm khi nói rằng: “Đúng vào lúc người này lấy mạng con vật th́ biểu nghiệp của sát-na này và vô biểu nghiệp cùng thời với biểu nghiệp này chính là nghiệp đạo căn bổn.” [Lẽ ra các ông phải nói rằng: “Biểu nghiệp (vijñapti) khởi khi con vật đă chết…” (mṛte prāṇini yā vijñaptiḥ...)].

Hơn nữa, nếu các ông thừa nhận trường hợp sau tức sẽ mâu thuẫn với giải thích của Tỳ-bà-sa về câu: “Khi gia hành chưa mất” ở trong Bổn luận (Jñānaprasthāna 11, 11). Bổn luận nói: “Có phải một chúng sinh đă bị giết chết (dĩ hại sinh) mà hành động giết chết vẫn chưa chấm dứt (sát sinh vị diệt) không? - Đúng như vậy, khi một chúng sinh đă bị lấy đi mạng sống mà gia hành [sát sinh] vẫn chưa mất”. Tỳ-bà-sa (Vibhāṣā, 11, 11) giải thích rằng trong đoạn văn này chữ prayoga - vốn thường hàm nghĩa là sự chuẫn bị - nhưng ở đây lại có nghĩa là “hậu khởi” (pṛṣṭha). Và như vậy là các ông đă mâu thuẫn với giải thích này bởi v́ nếu đặt nghiệp đạo căn bổn vào sát-na con vật đă chết (mṛte prāṇini) th́ nghiệp đạo căn bổn, theo quan niệm của các ông, vẫn chưa chấm dứt vào sát-na con vật đă chết. Các ông đă diễn dịch chữ gia hành (prayoga) của Bổn luận với nghĩa là nghiệp căn bổn.

(Tỳ-bà-sa) cần phải giải thích nghĩa của Bổn luận như thế nào mới không sai lầm. Trong đoạn văn trên, prayoga chính là nghiệp đạo căn bổn. [Ít ra th́ giải thích này vẫn hợp lư khi chỉ cho sát-na đi liền sau cái chết của con vật; và khi chỉ cho những sát-na kế tiếp sát-na này th́ prayoga, giống như Tỳ-bà-sa đă nói, chính là hậu khởi.]

(Luận chủ) Nhưng làm thế nào biểu nghiệp ở sát-na con vật đă chết lại có thể là nghiệp đạo căn bổn?

(Tỳ-bà-sa) Tại sao không thể như vậy?

(Luận chủ) Bởi v́ biểu nghiệp không c̣n có tác dụng. [Con vật đă chết; và người ta không thể giết chết nó một lần nữa.] 

(Tỳ-bà-sa) Nếu như vậy th́ vô biểu, vốn luôn luôn không có tác dụng, làm thế nào trở thành nghiệp đạo? Điều khiến cho một biểu nghiệp và một vô biểu nghiệp trở thành nghiệp đạo không phải là tác dụng của chúng; mà chính là v́ chúng đă hiện khởi vào sát-na thành tựu quả của gia hành.

(Hỏi) Một nghiệp đạo có thể là gia hành hoặc hậu khởi của một nghiệp đạo khác không?

(Đáp) Có thể. Chẳng hạn như mười nghiệp đạo có thể là gia hành của sự giết hại. Một người v́ muốn giết chết kẻ thù của ḿnh, và để cho việc làm này chắc chắn thành công, có thể lấy cắp của cải của người khác và giết thú vật làm tế lễ cầu thần; với của cải lấy cắp, người này có thể phạm tội gian dâm với vợ của kẻ thù, xúi dục vợ kẻ thù trở thành kẻ ṭng phạm; dùng lời lẽ dối trá, ác độc, sỉ nhục, bậy bạ để gây bất ḥa giữa kẻ thù với những bạn bè có khả năng hỗ trợ cho kẻ thù; người này tham lam của cải của kẻ thù, khởi tâm sân hận đối với kẻ thù, nuôi dưỡng tà kiến đối với sát nghiệp mà người này đang muốn tạo tác. Giống như trường hợp mười nghiệp đạo có thể làm hậu khởi cho nghiệp giết hại th́ đối với các nghiệp trộm cắp, v.v., cũng như vậy.

(Luận chủ) Nhưng tham, sân và tà kiến không bao giờ làm gia hành bởi v́ chúng không phải là sự khởi đầu của hành động (kriyārambha); và chúng cũng không có gia hành bởi v́ chúng chỉ là sự sinh khởi của tâm (cittapāda).

Kinh nói: “Này Bí-sô, có ba loại giết hại; đó là các loại xuất phát từ tham, sân hoặc si (lobha, dveṣa, moha)”; cho đến “này Bí-sô, có ba loại tà kiến”. Ở đây cần phải giải thích những sự giết hại, v.v. khác nhau này là ǵ.

Không phải tất cả các nghiệp đạo đều được thành tựu (niṣṭhā) bởi tham, sân và si.

加行三根起  彼無間生故

貪等三根生.

[Gia hành khởi từ ba căn.

V́ khởi liền sau ba căn này

Nên tham, v.v. cũng sinh từ chúng.]

Luận:  Gia hành của tất cả các nghiệp đạo đều có thể sinh từ ba căn. Trong các lời dạy trước đây, Thế Tôn đă nói đến nguyên nhân đầu tiên, tức là nguyên nhân tạo thành nguồn gốc (samutthāpaka, đẳng khởi) của nghiệp đạo.

(1)                                  Sự giết hại khởi từ tham, như các trường hợp giết hại để lấy đi một bộ phận của thú vật; giết hại để lấy tiền của; giết hại để t́m vui (hỷ lạc, krīḍā); giết hại để tự vệ, để bảo vệ bạn bè (ātmasuḥṛtparitrāṇārtham).

Sự giết hại khởi từ sân v́ muốn thỏa măn ḷng hận thù (vairaniryātanārtham).

Sự giết hại khởi từ si; v́ xem sự hy sinh là một hành động đáng làm: Như trường hợp của một vị vua, đă dựa vào quyền lực của pháp luật (thế pháp luật, dharmapāṭhaka) để giết hại v́ nghĩ rằng đó là bổn phận: “Hành động phước đức đầu tiên của một vị vua là trừng phạt những kẻ làm trái”; như trường hợp của người Perses (Ba-thích-tư Pārasīka): “nên giết chết cha mẹ đă già và có bệnh”; hoặc như trường hợp có người nói: “Phải giết chết loài rắn, loài ḅ cặp, loài ruồi tryambuka (Mahāvyutpatti, 213, 91), v.v. v́ chúng rất độc hại; phải giết cầm thú, gia súc, chim, trâu, để nuôi thân”. Cuối cùng là sự giết hại phát khởi (pravartita) do tà kiến; tức là hành động giết hại của những người cho rằng không có đời sống vị lai và không có diệt tận (nirmaryāda).

(2)                                  Sự trộm cắp khởi từ tham; như trường hợp trộm cắp một vật mà ḿnh thèm muốn, trộm cắp để sau đó dành được một vật khác, để có được danh dự và sự kính trọng, để bảo vệ ḿnh hoặc thân hữu.

Sự trộm cắp khởi từ sân v́ muốn thỏa măn ḷng thù hận.

Sự trộm cắp khởi từ si: Như trường hợp nhà vua đựa vào pháp luật để chiếm giữ của cải của những người làm trái; hoặc như những người Bà-la-môn thường nói: “Tất cả các thứ của Bà-la-môn (brahmanes) đều do Đại phạm thiên vương (Brahmā) ban cho nhưng v́ Bà-la-môn bị suy yếu cho nên những người thuộc giai cấp thấp hèn (Vṛṣalas) mới lấy đi của họ. V́ thế khi Bà-la-môn tước đoạt (apahar) th́ họ chỉ lấy (ādā) lại những ǵ thuộc về họ; họ ăn cái của họ, mặc cái của họ và bố thí cái của họ”; tuy nhiên khi chiếm đoạt các thứ th́ Bà-la-môn vẫn có ư tưởng đó là của cải của người khác. Loại trộm cắp do tà kiến khởi cũng là loại sinh từ si. 

(3)                                  Tà dâm sinh từ tham. Sự gian dâm với vợ người khác, có khi là do tham dục, có khi là để có được danh dự và sự kính trọng, có khi để bảo vệ ḿnh hoặc bạn bè ḿnh.

Tà dâm sinh từ sân là để thỏa măn ḷng thù hận.

Tà dâm sinh từ si: Như trường hợp của người Perses, v.v. gian dâm với mẹ ḿnh và các phụ nữ bị cấm (hành phi phạm hạnh); trong lễ tế trâu (gosava, ngưu cấm) người ta uống nước [theo cách uống của loài trâu], nhai cỏ, hành dâm với mẹ ḿnh, với chị hoặc em ḿnh, với một phụ nữ trong ḍng tộc (gotra) của ḿnh; nơi nào trông thấy những người này th́ họ liền t́m đến giao hợp. Có người lại nói: “Phụ nữ giống như cái cối giă gạo, như bông hoa, như trái cây, như b́nh sữa đă nấu chín, như đường đi”.

(4)                                  (Bốn - bảy) nói dối và các tội về ngữ khác sinh từ tham và sân, được giải thích giống như ở trên.

Nói dối sinh từ si: Như có bài tụng viết: “Này nhà vua, nói dối để cười chơi, nói dối với phụ nữ, nói dối ở đám cưới, nói dối khi gặp nguy hiểm giết người đều không hại ǵ: Người ta nói rằng những trường hợp nói dối như thế không phải là tội” (Syādvādamañjarī, tr. 32); và cuối cùng là do tà kiến.

Nói lời ác độc và các tội khác sinh từ si; như những trường hợp phát xuất từ tà kiến. Ngoài ra, những luận thuyết sai lạc (asatpralāpa) của Veda (phệ đà), v.v. đều là những lời nói bậy bạ (saṃbhinnapralāpa, tạp uế ngữ) xuất phát từ si.

(Hỏi) Các ác hạnh như sự ham muốn (abhidhyā), sự tàn ác (vyāpāda) và tà kiến (mithyādṛṣṭi) đều không có gia hạnh th́ làm sao có thể nói rằng chúng sinh khởi từ tham, v.v.?

(Đáp) Bởi v́ cả ba loại này đều sinh khởi ngay liền sau ba căn. Khi chúng hiện khởi ngay sau tham tức chúng sinh ra từ tham; đối với hai căn c̣n lại cũng như vậy.

Trên đây đă giải thích xong các nghiệp đạo bất thiện và sự quan hệ của chúng đối với các căn; tiếp theo là phần nói về các nghiệp đạo thiện.  

善於三位中  皆三善根起.

[Nghiệp đạo thiện cùng với gia hành và hậu khởi

Đều sinh khởi từ ba thiện căn.]

Luận:  Các nghiệp đạo thiện, cùng với gia hành và hậu khởi, đều có một thiện tâm làm nhân dẫn sinh (pravartaka, đẳng khởi). Thiện tâm này nhất định tương ưng với ba căn và cũng sinh khởi từ ba căn.

Sự xa ĺa gia hành của nghiệp đạo bất thiện chính là gia hành của nghiệp đạo thiện; sự xa ĺa nghiệp căn bổn làm thành nghiệp đạo căn bổn bất thiện chính là nghiệp đạo căn bổn thiện; sự xa ĺa hậu khởi của nghiệp đạo bất thiện chính là hậu khởi của nghiệp đạo thiện. Tỷ dụ như trường hợp thọ giới Cần sách. Kể từ sát-na giới tử bước vào giới đàn (nānāvāsa), thi lễ với tăng chúng, thưa thỉnh vị thầy trực tiếp giáo huấn (thân giáo sư, upādhyāya), cho đến lần tác bạch yết-ma (karmavācana) lần thứ nhất, lần yết-ma thứ hai th́ tất cả đều thuộc về gia hành. Vào lúc hoàn tất (parisamāpti, avasāna) lần yết-ma thứ ba th́ phát sinh một biểu nghiệp và một vô biểu nghiệp, cùng thời với biểu nghiệp này, tạo thành loại nghiệp đạo căn bổn. Sau sát-na này, khi người ta thông tri cho vị tân tăng này về các loại y chỉ (niśrayas, tứ y), khi vị tăng này biết được rằng ḿnh đă thọ nhận bốn loại y chỉ, và chừng nào mà chuỗi tương tục các vô biểu nghiệp do nghiệp căn bổn tạo thành vẫn c̣n liên tục - có nghĩa là vị tăng không đánh mất luật nghi biệt giải thoát - th́ đó chính là hậu khởi.

(Hỏi) Ở trên có nói không phải tất cả nghiệp đạo bất thiện đều được thành tựu nhờ vào ba căn, vậy th́ những nghiệp đạo nào được tựu thành bởi loại căn nào?

Tụng đáp:   

殺麤語瞋恚  究竟皆由瞋

盜邪行及貪  皆由貪究竟

邪見癡究竟  許所餘由三.

[Sự giết hại, lời nhục mạ, và sự tàn ác

Đều thành tựu bởi sân.

Sự trộm cắp, tà dâm và sự thèm muốn

Do tham mà thành tựu.

Tà kiến do sinh thành tựu.

Các nghiệp đạo khác do ba căn.]  

Luận:  Sự giết hại, sự tàn ác, và lời nhục mạ (thô ác ngữ) đều được tựu thành bởi sân. Chúng chỉ được tựu thành khi có sự hiện khởi (saṃmukhībhāvāt) của loại tâm coi thường [sự giết hại] (vô sở cố), của loại tâm cực kỳ thô ác (paruṣacitta) (đối với sự tàn ác và lời nói nhục mạ).

Sự tà dâm, sự thèm muốn, sự trộm cắp đều được tựu thành bởi tham. “Tà dâm” (parastrīgamana) có nghĩa là tà hạnh thuộc về ái dục (kāmamithyācāra).

Tà kiến thành tựu là do ngu si, nhưng phải là loại si thuộc thượng phẩm.

Các nghiệp đạo khác như lời nói dối (hư cuống ngữ), lời nói có ác ư (ly gián ngữ), lời nói bậy bạ (tạp uế ngữ) đều có thể được tựu thành bởi tham, sân hoặc si.

(Hỏi) Các nghiệp đạo bất thiện nói trên khởi ở những nơi nào?

Tụng đáp:   

有情具名色  名身等處起

[Hữu t́nh, vật thọ dụng, danh sắc,

Danh thân, v.v., đều có khởi.]

Luận:  Các nghiệp đạo vừa được chia thành bốn trường hợp ở trên có ba loại nghiệp đạo, ba loại nghiệp đạo, một loại nghiệp đạo và ba loại nghiệp đạo, sinh khởi theo thứ tự này ở bốn nơi là hữu t́nh, các vật thọ dụng, danh sắc (nāmarūpa) và danh (nāma).

Chúng sinh hữu t́nh là sở duyên hay là phần vật chất của sự giết hại, sự tàn ác và lời nói nhục mạ; các vật thọ dụng là sở duyên của tà dâm, sự thèm muốn và trộm cắp; sắc thân, tức ngũ uẩn, là sở duyên của tà kiến; danh, tức danh thân (nāmakāya), là sở duyên của lời nói dối và hai tội khác thuộc về ngữ.

(Hỏi) Nếu một người có ư muốn giết hại người khác nhưng lại chết trước hoặc chết sau người đó th́ người này có thành tựu nghiệp đạo căn bổn không?

Tụng đáp: 

俱死及前死  無根依別故.

[Cùng chết hoặc chết trước

Th́ không v́ căn y đă khác.]

Luận:  Nếu có người có ư muốn giết hại chết cùng lúc hoặc chết trước người mà người này có ư giết hại th́ không thành tựu nghiệp đạo căn bổn.

Đây là lư do tại sao Tỳ-bà-sa nói: “Khi một người đă khởi gia hạnh của sự giết hại th́ vào sát-na mà quả của gia hạnh này thành tựu, người này có thể không bị tội giết hại xúc chạm không? - Có thể có trường hợp này; tức khi người có ư muốn giết hại bị chết trước hoặc cùng thời với người bị giết hại”. Như vậy, lư do đă quá rơ ràng: Chừng nào mà một người - lẽ ra đă bị giết (vadhya) - vẫn c̣n sống th́ người có ư giết vẫn không bị tội giết hại xúc chạm; và khi người lẽ ra đă bị giết hại bị chết th́ người có ư giết hại cũng không bị tội giết xúc chạm nếu người này bị chết cùng lúc hay bị chết trước đó; bởi v́ thân sở y (āśraya) của sự thành tựu gia hành đă đoạn diệt; người có ư muốn giết đă có một thân mới thuộc thân đồng phần khác (nikāyasabhāga) và thân này không tạo tác một loại gia hành như thế, nó không phải là tác nhân (prayoktar) và v́ thế nó không thể bị tội giết hại xúc chạm.

(Hỏi) Khi có nhiều người cùng tập trung lại để giết - như trong chiến tranh, những lần đi săn bắn hoặc cướp bóc - và nếu một người trong số này gây ra sự giết hại th́ người nào sẽ phạm tội giết?

Tụng đáp:   

軍等若同事  皆成如作者.

[Quân lính, v.v., nếu cùng làm

Đều có tội cũng giống như người đă giết.]  

Luận:  Khi đă có chung một mục đích th́ tất cả đều có tội giống như một người trong số họ đă phạm tội giết; bởi v́ tất cả đều khuyến khích lẫn nhau, không phải bằng lời nói mà bằng sự việc họ đă kết hợp với nhau để giết hại.

(Hỏi) tuy nhiên nếu có người đă phát nguyện không giết hại nhưng bị bức bách phải làm lính th́ người này có phạm tội giết hại không?

(Đáp) Hiển nhiên là không phạm tội nếu đă phát nguyện: “Ngay cả khi phải cứu lấy mạng ḿnh, tôi sẽ không giết hại một chúng sinh nào”.

(Hỏi) V́ những tính chất ǵ mà một người giết hại, trộm cắp, v.v., phạm phải nghiệp đạo?

Tụng đáp: 

殺生由故思  他想不誤殺.

[Giết hại là do cố ư

Có suy nghĩ về người khác và không giết lầm.]

Luận:  Khi một người gây ra hành động giết hại v́ suy nghĩ “ta phải giết một người như thế”, và đă giết chết chính người đó chứ không phải giết lầm (bất ngộ sát) một người khác th́ đó chính là tội giết hại.

(Hỏi) Và khi một người giết chết người khác nhưng lại không biết rơ ràng ḿnh đă đánh đập một chúng sinh hữu t́nh hay đó chỉ là một vật vô t́nh, đă đánh đập một người như thế hay là một người khác th́ đó có phải là tội giết hại không?

(Đáp) Chắc chắn phạm tội giết hại. Người này đă có hành động đánh đập; và như vậy có nghĩa là người này đă có tâm coi thường [sự giết hại] (parityāga).

Làm thế nào có thể phạm tội giết hại, tức sự làm đoạn diệt sinh khí (prāṇa tức, phong) (prāṇātipāta), khi mà các uẩn đều thuộc sát-na diệt?

(Đáp) Khi nói “sinh khí” đó là ư chỉ cho một loại gió (vāyu) mà sự tồn tại của nó phụ thuộc vào thân và tâm. Loại sinh khí này nếu người phạm tội giết làm cho nó đứt đoạn (atipātayati = vināśayati) tức cũng giống như thổi tắt một ngọn đèn hoặc chấm dứt một tiếng chuông; có nghĩa là làm cho chúng không c̣n tiếp tục sinh khởi trở lại.

Hoặc nói sinh khí là chỉ cho mạng căn (jivitendriya). Khi một người làm chướng ngại sự sinh khởi thuộc sát-na kế tiếp của mạng căn, tức là đă làm cho nó đứt đoạn, th́ người này bị tội giết hại xúc chạm.

(Hỏi) Tuy nhiên, “mạng căn” mà các ông nói đến ở trên là thuộc về ai? Và khi nói “nếu không c̣n thọ mạng tức phải chết” là nhằm chỉ cho người nào?

(Đáp) Ư nghĩa đích thực của nhóm từ “thuộc về ai? Cho người nào?” sẽ được bàn đến ở chương phá ngă. Bây giờ chúng ta hăy t́m hiểu lời dạy của Thế Tôn: “Khi thọ mạng, hơi ấm (noăn) và thức rời khỏi thân th́ thân sẽ sụp đổ giống như một khúc gỗ mà không c̣n tri giác.” Như vậy, nói “sống” là nhằm chỉ cho thân, khi mà thân vẫn c̣n có các căn (sendriya); và nói “chết” là cũng nhằm chỉ cho thân, khi mà thân đă không c̣n các căn (anindriya).

Theo phái Ly hệ (Nirgranthas), nếu đă giết hại th́ dù không biết, không muốn (abuddhipūrvāt) người tạo tác vẫn phạm tội, cũng giống chạm phải lửa th́ phải bị bỏng.

Nếu nói như vậy th́ khi vô t́nh nh́n thấy hoặc đụng phải vợ của người khác cũng có tội (pāpaprasanga); người cạo đầu cho những người thuộc phái Ly hệ cũng có tội; sư phụ của phái Ly hệ cũng có tội bởi v́ đă khuyến khích mọi người tu khổ hạnh; và những người cúng dường thức ăn khiến cho một người nào đó thuộc phái Ly hệ bị đau bụng hay tử vong cũng có tội; người mẹ và bào thai v́ là nhân của sự khổ năo cho nhau cũng có tội; người bị người khác giết cũng có tội bởi v́ người này vốn là sở duyên trong tương quan với hành động giết hại của người kia, cũng giống như lửa đốt cháy nơi nương tựa của nó. Trái lại, người sai khiến người khác giết hại sẽ không có tội bởi v́ nếu sai khiến người khác chạm vào lửa th́ bản thân ḿnh không hề bị bỏng. Và v́ những người thuộc phái này không kể đến ư định (buddhiviśeṣa) [của sự giết hại] cho nên gỗ và các thứ khác cho dù là vật vô tri vẫn phải phạm tội khi một ngôi nhà bị đổ và làm thương vong chúng sinh hữu t́nh. Nếu muốn tránh các hệ quả trên, phái Ly hệ cần biết rằng chỉ đưa ra một tỷ dụ về lửa mà không kèm thêm một luận chứng nào nữa th́ không thể bảo vệ được chủ trương của ḿnh.  

不與取他物  力竊取屬.

[Nếu lấy vật mà người khác không cho

Tức đă cưỡng ép lấy làm vật của ḿnh.]  

Luận:  Tính chất “với điều kiện là không có sự nhầm lẫn” được nói đến ở trên được áp dụng cho tất cả các trường hợp v́ thế không cần nhắc lại ở đây.

Nếu cưỡng ép hoặc lén lút lấy làm của ḿnh những ǵ thuộc về sở hữu (svīkṛta) của người khác và không nhầm lẫn người khác với người mà ta muốn lấy trộm, với người mà ta muốn tước đoạt th́ đó chính là tội trộm cắp (bất dữ thủ tội).

Trộm cắp bảo tháp (stūpa, tốt-đổ-ba) tức là lấy đi một vật mà đức phật đă không có ư ban cho: Bởi v́ lúc nhập Niết-bàn, Thế Tôn đă thừa nhận rằng tất cả các thứ cúng dường cho bảo tháp đều thuộc của riêng (parigṛhīta). Có luận sư (Vibhāṣā, 113, 7) nói rằng chỉ phạm tội khi lấy mà không có sự cho phép của người giữ tháp.

Khi lấy một vật không có chủ mà không có sự cho phép của người chủ một xứ (quốc chủ).

Khi lấy vật dụng, y bát, v.v., của một vị tăng quá cố; tức lấy những ǵ mà chúng tăng thuộc trú xứ đó (giới nội tăng) không cho phép đối với trường hợp đă tác bạch yết-ma (kṛte karmaṇi); trong trường hợp ngược lại, tức đă lấy những ǵ mà tất cả đệ tử của phật không cho phép.  

欲邪行四種  行所不應行.

[Bốn loại tà hành

Là có hành động dâm dục không thích hợp.]

Luận:  Bốn loại tà hạnh là (1) gian dâm với một phụ nữ bị cấm, với vợ của người khác, với mẹ ḿnh, với con gái ḿnh, với cha mẹ vợ hoặc cha mẹ chồng; (2) hành dâm với vợ ḿnh theo một cách thức không b́nh thường; (3) ở những nơi không phù hợp như một nơi lộ liễu, ở tự miếu (caitya, chế-đa), ở nơi xa (araṇya, rừng, sa mạc), (4) vào lúc không thích hợp (akāla), như khi người phụ nữ đang mang thai, cho con bú, khi đă thọ tŕ trai giới (niyamavatī). Có ư kiến cho rằng chỉ phạm tội khi nào người chồng đă đồng ư để cho vợ ḿnh thọ tŕ trai giới.

Giống như trong trường hợp của sự giết hại, tính chất “với điều kiện không bị nhầm lẫn” cũng được áp dụng đối với tà hạnh; có nghĩa là vẫn không tạo tác nghiệp đạo nếu hành dâm với vợ của người khác nhưng vẫn tưởng rằng đó là vợ ḿnh.

Tuy nhiên, đối với trường hợp có người tưởng lầm vợ của người khác là vợ của một người nào đó th́ có tạo tác nghiệp đạo hay không vẫn có những ư kiến trái ngược nhau. Có người cho rằng vẫn có nghiệp đạo bởi v́ chỉ cần “là vợ của người khác” tức cũng đủ để làm sở duyên cho gia hành của loại nghiệp này; và cũng v́ người này đang hưởng dụng vợ của người khác. Nhưng có người lại cho rằng không có nghiệp đạo bởi v́ sở duyên của gia hành không phải là sở duyên của sự hưởng dụng, cũng giống như trường hợp giết lầm người.

(Hỏi) Trong trường hợp hành dâm với Bí-sô-ni có phạm tà dâm không?

(Đáp) Về tội này th́ chính người chủ của một nước (quốc vương) cũng đă không thể tha thứ. Ngay chính bản thân người chủ của một nước c̣n bị cấm hành dâm khi vợ ḿnh đang thọ tŕ trai giới huống hồ là đối với hành xuất gia.

(Hỏi) Hành dâm với đồng nữ có tạo thành nghiệp đạo không?

(Đáp) Nếu đồng nữ đă hứa hôn th́ phạm tội với người mà đồng nữ đă đính hôn; nếu chưa hứa hôn th́ đắc tội với người bảo quản (rakṣitar) đồng nữ này; nếu đồng nữ này không có người bảo quản th́ đắc tội với nhà vua (antato rājñaḥ). (Vibhāṣā, 113, 8)

染異想發言  解義虛誑語.

[Do nhiễm tâm, dị tưởng mà phát ngôn

Và người khác hiểu được tức thành hư cuống ngữ.]

Luận:  Tội nói dối là lời nói được nói ra mang một chủ ư khác (dị tưởng) với ư nghĩa được diễn tả (arthavāda) đối với người hiểu được ư nghĩa này (sở cuống giả). Nếu người nghe không hiểu th́ lời nói này trở thành lời nói bậy bạ (tạp uế ngữ) (saṃbhinnapralāpa).

(Hỏi) Có khi lời nói được tạo thành bởi nhiều âm tiết; như vậy âm tiết nào thuộc về nghiệp đạo và âm tiết nào thuộc lời dối trá?

(Đáp) Âm tiết cuối cùng chính là biểu nghiệp và có vô biểu nghiệp đi kèm; hoặc là âm tiết mà người nghe đă dựa vào đó để hiểu nghĩa (giải nghĩa). Các âm tiết trước đó đều là gia hạnh của tội nói dối.

(Hỏi) Phải hiểu nhóm từ “giải nghĩa” (arthābhijña) như thế nào? Có phải đó chính là thời điểm mà người nghe hiểu được ư nghĩa hay đó chính là bản thân người nghe có khả năng hiểu được ư nghĩa (abhijñātuṃ samartha)? Trong trường hợp đầu, các ông phải thừa nhận rằng nghiệp đạo sinh khởi khi người nghe hiểu được nghĩa; và rồi nghiệp đạo chỉ là vô biểu nghiệp bởi v́ người nghe hiểu được ư nghĩa nhờ vào ư thức (manovijñāna) mà ư thức th́ đi liền sau nhĩ thức (śrotravijñāna); và biểu nghiệp, tức ngữ nghiệp, đă bị diệt cùng thời với nhĩ thức. Trong trường hợp sau th́ không gặp phải vấn đề trên; nhưng nếu nói bản thân người nghe “có khả năng hiểu được ư nghĩa” th́ điều này có nghĩa là ǵ?

(Đáp) Nói “có khả năng hiểu được ư nghĩa” là chỉ cho người biết được ngôn ngữ này và từ đó đă sinh khởi nhĩ thức.

(Luận chủ) Cần phải diễn dịch đoạn văn trên như thế nào đó để khỏi bị chỉ trích. Kinh (Dīrgha, 8, 13; Vibhāṣā, 171, 7; Anguttara, ii. 246, iv. 307) dạy rằng có mười sáu “cách nói” (vyavahāra): Tám cách bất thiện (anārya, phi thánh ngôn) là không thấy nhưng nói thấy; không nghe, không biết, không cảm nhận nhưng nói có nghe, có biết, có cảm nhận; có thấy nhưng nói không thấy, có nghe, biết, cảm nhận nhưng nói không nghe, không biết, không cảm nhận. Tám cách thuộc thiện (ārya, thánh ngôn) là không thấy nói không thấy, v.v.

(Hỏi) Ư nghĩa của các từ “được thấy” (dṛṣṭa), “được nghe” (śruta), “được biết” (vijñāta), “được cảm nhận” (mata), là ǵ?

Tụng đáp:   

由眼耳意識  并餘三所證

如次第名為  所見聞知覺.

[Do nhăn thức, nhĩ thức, ư thức

Mà ba loại được chúng tri nhận,

Theo thứ tự trên gọi là

Cái được thấy, nghe, biết và cảm nhận.]

Luận:  Cái (cảnh) được tri nhận bởi nhăn thức gọi là “cái được thấy”, …. Cho đến cái được tri nhận bởi tỷ thức, thiệt thức và thân thức đều có tên là “cái được cảm nhận” (giác).

(Hỏi) Làm thế nào chứng minh được giải thích sau cùng này?

(Tỳ-bà-sa) Mùi, vị và sự xúc chạm v́ có tánh vô kư (avyākṛtya) cho nên cũng giống như người chết; đây là lư do chúng được gọi là “được cảm nhận”.

(Kinh bộ) Căn cứ vào đâu mà các ông cho rằng nhóm từ “được cảm nhận” là để chỉ cho những ǵ được ngửi, nếm và xúc chạm?

(Tỳ-bà-sa) Dựa vào các lư chứng của kinh. Kinh nói: “Này Mālakīmātar, ư ông thế nào? Các cảnh sắc mà ông đă không nh́n thấy, chưa từng nh́n thấy, hiện không nh́n thấy, và không nghĩ rằng: ‘Ta sẽ nh́n thấy’, th́ đối với chúng ông có sự mong cầu (chanda), có tà dục (rāga), có tham lam (kāma), có t́nh cảm (preman), có chấp trước (ālaya), có thèm muốn (nikānti), có t́m kiếm (adhyeṣaṇā) không? - Bạch đại đức, không có. - Các âm thanh mà ông đă không nghe… Các pháp mà ư của ông không biết đến th́ ông có mong cầu t́m kiếm chúng không? - Bạch đại đức, không có. - Này Mālakīmātar, đối với những ǵ được nh́n thấy, ông chỉ nghĩ: “Đây là cái được nh́n thấy”, đối với những ǵ được nghe, được biết, được cảm nhận, ông chỉ nghĩ: “đây là cái được nghe, được biết, được cảm nhận (matamātraṃ bhaviṣyati)”.

(Buddhaghosa) [Visuddhimagga, 451] Những từ “được thấy”, “được nghe”, “được biết” chắc chắn được dùng để chỉ cho các cảnh sắc, các âm thanh, các pháp; và như vậy từ “được cảm nhận” (mata) là để chỉ cho các mùi, vị và sự xúc chạm.

Hơn nữa, nếu không phải như vậy th́ những kinh nghiệm có liên quan đến mùi, vị và sự xúc chạm lẽ ra sẽ không được nói đến trong lời dạy của Thế Tôn.

(Kinh bộ) Kinh này không có ư nghĩa như các ông vừa giải thích và cũng không xác nhận cách diễn dịch của các ông về từ “được cảm nhận” (mata) là đúng. Thế Tôn không có ư đưa ra một định nghĩa về các tính chất của bốn loại kinh nghiệm (vyavahāra) “đă thấy, đă nghe, đă biết, đă cảm nhận”. Ư của ngài rất rơ ràng: “Trong bốn loại kinh nghiệm thấy, nghe, v.v., - trong đó mỗi loại đều có sáu cảnh sở duyên là sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp - th́ ông sẽ chỉ biết được rằng loại kinh nghiệm này đă xảy ra, rằng ông đă nh́n thấy, đă nghe được, v.v., mà không có thể gán ghép thêm cho cảnh sở duyên bất kỳ tính chất nào (nimitta) về sự đáng ưa hay không đáng ưa”.

(Hỏi) Nếu vậy, “được thấy”, “được nghe”, v.v., có những tính chất ǵ?

(Đáp) Có luận sư (Kinh bộ) nói rằng những ǵ được tri nhận trực tiếp (hiện sở chứng cảnh) bởi năm căn thân chính là “cái được thấy” (sở kiến, dṛṣṭa); những ǵ chúng ta biết được nhờ sự truyền đạt của người khác chính là “cái được nghe” (śruta); những ǵ thu nhận được nhờ vào khả năng suy lư đúng đắn (yuktyanumāna) chính là “cái được cảm nhận” (mata); những ǵ được tri nhận bởi ư căn chính là “cái được biết” (vijñāta). Như vậy năm loại cảnh - sắc, thanh, hương, vị, xúc - là cái được thấy, được nghe, được cảm nhận, được biết; loại thứ sáu - pháp (dharmas) - không phải là cái được thấy (trừ kiến). Đó là bốn loại kinh nghiệm mà kinh muốn nói đến; v́ thế thật sai lầm khi cho rằng “cái được cảm nhận” không nhằm chỉ cho hương, vị, xúc; và loại kinh nghiệm về các đối tượng này đă không được kinh đề cập đến. Từ đó thấy rằng lập luận trên đây của Tỳ-bà-sa không thể đứng vững.

Các luận sư khác (Purvācārya, Quỹ phạm sư) nói rằng cái được thấy là những ǵ được tri nhận bởi nhăn căn; cái được nghe là những ǵ được tri nhận bởi nhĩ căn và nghe được từ người khác (paratas cāgamitam); cái được cảm nhận là những ǵ tự ḿnh thu nhận được; cái được biết là những ǵ tự thân nhận biết (tự nội sở thọ) (pratyātmaṃ pratisaṃvedita, lạc thọ, v.v), những ǵ biết được khi nhập định (adhigata) (tự sở chứng).

(Hỏi) Nếu do thân biểu chứ không phải ngữ biểu mà khiến cho người khác hiểu được những điều không có trong tâm tưởng của ḿnh (dị tưởng) th́ có phạm tội nói dối không?

(Đáp) Vẫn phạm bởi v́ Bổn luận có nói: “Một người có thể bị tội giết hại xúc phạm nếu thân không tạo tác, không có hành động tấn công không? - Vẫn phạm nếu có phát ngữ. - Có thể bị tội nói dối xúc chạm nếu không phát ngữ không? - Vẫn phạm nếu có động thân. - Có thể bị tội giết hại, tội nói dối xúc phạm mặc dù không động thân cũng không phát ngữ không? - Vẫn phạm; như trong trường hợp tiên nhân (ṛṣis) nổi sân tức phạm tội giết hại; hoặc một Bí-sô giữ im lặng vào lúc thính giới (poṣadha, bố-sái-tha) [tức phạm tội nói dối]”.

(Hỏi) Làm thế nào tiên nhân hay Bí-sô có thể tạo thành loại nghiệp đạo vừa thuộc biểu vừa thuộc vô biểu? Cả tiên nhân và Bí-sô đều không động thân cũng không phát ngữ tức sẽ không có biểu nghiệp; và vô biểu nghiệp hệ thuộc Dục giới sẽ không có phát khởi nếu không có biểu nghiệp.

(Đáp) Đây là vấn nạn cần được [các luận sư Tỳ-bà-sa] giải thích tường tận.

Trên đây đă nói về tội nói dối; tiếp theo là phần bàn về ba tội c̣n lại của ngữ nghiệp.

染心壞他語  說名離間語

非愛麤惡語  諸染雜穢語

餘說異三染  佞歌邪論等.

[Do tâm nhiễm ô muốn chia rẽ mà nói lời hại người

Là lời nói ác độc

Lăng mạ người khác là lời nói nhục mạ.

Mọi thứ nhiễm ô đều là lời nói bậy bạ.

Có thuyết cho rằng đó là lời nói nhiễm ô khác với ba loại trước,

Như lời nói khoe khoang, ca hát, tà luận, v.v.]  

Luận:  Những lời nói xuất phát từ tâm nhiễm ô nhằm chia rẽ người khác, gây sự xích mích, đều là lời nói ác độc. Những điều kiện cần thiết để tạo thành nghiệp đạo như “người nghe hiểu được; và không có sự nhầm lẫn” được nói ở trên vẫn được áp dụng ở đây.

Lời nói xuất phát từ một tâm nhiễm ô, muốn làm nhục người khác, cố ư nói cho người khác nghe (bổn kỳ tâm sở dục mạ) và người khác khi nghe có thể hiểu được chính là lời nói nhục mạ.

Tụng văn nói: “Mọi thứ nhiễm ô” (chư nhiễm) nhưng thật ra chỉ để chỉ cho ngữ nghiệp. Tất cả lời nói nhiễm ô đều thuộc loại lời nói bậy bạ (saṃbhinnapralāpa). Những ai nói lời như thế đều là “người nói bậy bạ” (saṃbhinnapralāpin); v́ thế tụng văn đă dùng từ bhinnapralāpita thay v́ saṃbhinnapralāpa.

Có luận sư khác nói rằng lời nói bậy bạ là loại lời nói nhiễm ô khác biệt với ba loại trước. Lời nói dối, lời nói ác độc, lời nói nhục mạ, cũng là lời nói nhiễm ô; tuy nhiên người ta đă dùng từ “lời nói bậy bạ” để chỉ cho loại ngôn ngữ nhiễm ô không phải là lời nói dối, lời ác độc hay lời sỉ nhục. Chẳng hạn như có một Bí-sô nói lời khoe khoang chỉ để nhận được vật phẩm cúng dường, v.v.; những việc làm vô bổ như ca hát ngâm vịnh, chỉ v́ để làm vừa ḷng người khác mà đă dùng đến những lời nói tầm phào vô bổ; như trường hợp v́ tin theo tà thuyết mà đọc tụng các kinh sách không có chánh kiến; ngoài ra, cũng phải kể thêm các trường hợp khác như những lời ta thán (parideva), những lời nói đùa (saṃgaṇikā), tất cả những lời lẽ xuất phát từ tâm nhiễm ô nhưng không phải là lời nói dối, có ác ư hoặc để hạ nhục kẻ khác.

(Hỏi) Vào thời của Chuyển luân vương cũng có ca hát ngâm vịnh nhưng tại sao không gọi đó là “lời lẽ bậy bạ”?

(Đáp) Bởi v́ vào thời đó nội dung của các bài ca đều có cảm hứng từ loại tâm xuất ly (naiṣkramya) chứ không phải v́ nhục dục. Hoặc có ư kiến cho rằng vẫn có loại “lời nói bậy bạ” vào thời đó bởi v́ người ta vẫn có nói lời cầu hôn, v.v.; tuy nhiên những lời lẽ này không tạo thành nghiệp đạo thuộc loại này.  

惡欲他財貪  憎有情瞋恚

撥善惡等見  名邪見業道.

[Ham muốn tài vật người khác là nghiệp đạo tham;

Chúng sinh thù ghét nhau là nghiệp đạo sân;

Cho rằng không có thiện ác, v.v.

Là nghiệp đạo tà kiến.]

Luận:  Muốn chiếm đoạt tài sản của người khác một cách phi lư (viṣameṇa), một cách không đúng đắn (anyāyena) bằng quyền lực hoặc lén lút được gọi là nghiệp đạo tham (abhidhyā). Có ư kiến cho rằng tất cả các loại ái (tṛṣṇā) thuộc Dục giới đều gọi là nghiệp đạo tham bởi v́ kinh Ngũ cái (nīvaraṇas) khi nói về tham dục (kāmacchanda) có viết: “Sau khi đoạn trừ tham (abhidhyā)…”. (Saṃyukta, 29, 3; Dīrgha, iii. 49; Majjhima, iii. 3).

Tuy nhiên có luận sư nói rằng chuyển luân vương và những người thuộc châu Uttarakuru không phạm nghiệp đạo tham mặc dù họ chưa xả ly ái thuộc Dục giới. V́ thế có thể thừa nhận tất cả các loại ái thuộc Dục giới đều là tham (abhidhyā) nhưng không phải tất cả các loại tham đều là nghiệp đạo; bởi v́ chỉ có những ác hạnh thô hiển nhất mới được xem như thuộc về nghiệp đạo.

Nghiệp đạo sân là sự thù hận của chúng sinh. Chính v́ sự thù hận này mà người ta có ư muốn làm hại người khác. 

Nghiệp đạo tà kiến là loại ư kiến cho rằng không có thiện cũng không có ác; như kinh nói: “Không có bố thí, tế tự, diệu hạnh, ác hạnh, v.v., không có A-la-hán trên thế gian.” Như đoạn kinh trên cho thấy tà kiến bao gồm của sự phủ nhận về nghiệp, quả, thánh giả; tuy nhiên tụng văn chỉ trưng dẫn trường hợp đầu tiên.

 Phần 16  

Trước đây đă giải thích các tính chất của mười nghiệp đạo; tiếp theo sẽ nói về ư nghĩa của nghiệp đạo.

此中三唯道  七業亦道故

[Trong số này chỉ có ba loại là nghiệp đạo;

Bảy nghiệp c̣n lại cũng là đạo.]  

Luận:  Tham, sân, tà kiến là các nghiệp đạo; và nghiệp đạo, tức lộ tŕnh của nghiệp, cũng c̣n gọi là tư (cetanā). Thật vậy, tâm sở tư vốn tương ưng (tatsaṃprayoginī) với tham, sân, tà kiến (bỉ tương ưng tư) đă có thể chuyển động được là v́ có sự chuyển động của chúng (bỉ chuyển cố chuyển) và nhờ vào lực của chúng mà tư khi muốn (abhisaṃskaroti = cetayate) phối hợp với chúng đă có thể vận hành theo sự vận hành của chúng. 

Tội giết hại và sáu tội c̣n lại đều là nghiệp bởi v́ thể của chúng vốn là các nghiệp thuộc thân và ngữ; và chúng cũng là lộ tŕnh của nghiệp được gọi là tư bởi v́ loại tư có khả năng dẫn khởi các nghiệp này (năng đẳng khởi thân ngữ nghiệp tư) (tatsamuthānacetanāyāḥ) đều kết thúc và tồn tại ở trong các tội này.

Như vậy nhóm từ “nghiệp đạo” chỉ có nghĩa là lộ tŕnh của nghiệp khi được chỉ cho tham, sân, tà kiến; nhưng nếu được dùng để chỉ cho các tội giết hại, v.v., th́ lại có cả hai nghĩa là nghiệp và nghiệp đạo (nghiệp nghiệp đạo nghĩa, karma karmapathaś ca). Cách dùng dạng phức hợp này vẫn hợp lư theo nguyên tắc “tuy không cùng loại nhưng một vẫn có thể biểu trưng cho tất cả” (asarūpāṇām apy ekaśeṣaḥ); có nghĩa là “ngay cả khi các thành phần của một phức hợp đều khác nhau nhưng [vẫn có thể] chỉ giữa lại một [phần biểu trưng]”. (Pāṇini, i. 2. 64).

Đối với các nghiệp đạo thiện là các sự xả ly giết hại, v.v., vô tham (anabhidhyā), v.v., cũng được phân tích theo cách trên.

(Hỏi) Tại sao gia hành (prayoga) và hậu khởi (pṛṣṭha) không được xem là nghiệp đạo?

(Đáp) Bởi v́ đối với nghiệp căn bổn (maulakarman) th́ gia hành đă được hoàn tất; và hậu khởi th́ lại lấy nghiệp căn bổn làm gốc. Hơn nữa chỉ có nghiệp đạo là loại thô hiển nhất trong số các diệu hạnh và ác hạnh. Vả lại nghiệp đạo chính là các hành động mà khi tăng thêm hoặc giảm bớt đều có ảnh hưởng đến sự tăng giảm của ngoại vật và chúng sinh hữu t́nh.

Các luận sư Kinh bộ không thừa nhận tư (cetanā) là ư nghiệp (manaskarman); đối với họ, không có ư nghiệp tách rời với tham, v.v.. Và như vậy th́ bộ phái này phải giải thích như thế nào về các sự kiện các kinh điển đều gọi tham, v.v., là nghiệp đạo? Đây là vấn đề mà Kinh bộ cần có câu trả lời.

Không khó khăn ǵ để trả lời vấn đề trên. Tham, sân và tà kiến đều là ư nghiệp (karman) và chúng cũng là con đường (đạo, patha) của ác thú; hoặc tham, sân và tà kiến đều làm đường đi cho nhau (hỗ tương thừa), bởi v́ tham có thể giúp cho sân và tà kiến chuyển động (vāhayati); và ngược lại, sân và tà kiến cũng có khả năng như vậy.

(Hỏi) Mười nghiệp đạo bất thiện đều tương vi với các thiện pháp; nhưng đoạn trừ thiện căn là do loại nghiệp đạo nào và điểm khác nhau giữa sự đoạn trừ và tiếp nối các thiện căn là ǵ?

Tụng đáp:   

唯邪見斷善  所斷欲生得

撥因果一切  漸斷二俱捨

人三洲男女  見行斷非得

續善疑有見  頓現除逆者.

[Tà kiến đoạn trừ thiện căn; đó là các căn sinh đắc ở Dục giới.

Tất cả các tà kiến bác bỏ nhân quả, v.v.

Dần dần làm đứt đoạn thiện căn và cả nghiệp đạo.

Chỉ có người của ba châu, nam và nữ,

Người thuộc loại kiến hành làm đứt đoạn thiện căn.

Nối tiếp thiện căn cần có nghi, hữu kiến

Như nhanh chóng trừ bệnh tức có khí lực;

Ngoại trừ tạo tội ngũ nghịch.]

Luận:  Sự đứt đoạn thiện căn (kuśalamūlasamuccheda) xảy ra là do loại tà kiến thuộc nhóm thứ chín (thượng phẩm).

(Hỏi) Nếu cho rằng chỉ có tà kiến làm cho thiện căn đứt đoạn, tại sao Bổn luận nói: “Các căn bất thiện thuộc thượng phẩm là ǵ? - Là các căn bất thiện có khả năng đoạn trừ các thiện căn; hoặc là các căn bất thiện được xả bỏ đầu tiên khi đắc được sự xả ly Dục giới (kāmavairāgya)”? (Jñānaprasthāna, 2, 8; Vibhāṣā, 35, 5). Đoạn văn này cho thấy tham và các căn bất thiện khác làm đứt đoạn các thiện căn.

(Đáp) Chỉ có tà kiến làm đứt đoạn thiện căn; nhưng tà kiến lại được dẫn dắt (adhyāhṛta = upnīta) bởi các căn bất thiện v́ thế Bổn luận mới gán cho chúng loại hành động vốn chỉ thuộc riêng về tà kiến. Cũng giống như chính ngọn lửa mới đốt cháy ngôi làng nhưng người ta lại nói rằng giặc cướp đốt cháy ngôi làng.

(Hỏi) Những thiện căn nào bị đoạn?

(Đáp) Đó chỉ là các thiện căn sinh đắc thuộc Dục giới (Kāmapta) bởi v́ một người doạn thiện căn th́ chưa thành tựu các thiện căn thuộc sắc giới và Vô sắc giới.

(Hỏi) Nếu vậy, làm sao giải thích đoạn văn sau đây của Thi thiết Luận:  “V́ thế mà thiện căn thuộc cả ba giới của kẻ này (pudgala) đă bị đoạn”? (Vibhāṣā, 35, 14).

(Đáp) Đoạn văn trên chỉ muốn nói rằng vào lúc này th́ sự đắc được thiện căn thuộc các giới cao hơn đă trở nên quá xa vời, và sở dĩ như vậy là v́ người này trước đây vốn có thể (bhājana) đắc được các thiện căn này nhưng đă không thể làm như vậy (phi bỉ khí) v́ các thiện căn Dục giới đă bị đứt đoạn.

(Hỏi) Tại sao chỉ đoạn thiện căn sinh đắc (upapatilābhika)?

(Đáp) Bởi v́ người đoạn thiện căn vốn đă thối thất các thiện căn đắc được do gia hành (prāyogika).

(Hỏi) Sở duyên của loại tà kiến nào làm đứt đoạn thiện căn?

(Đáp) Đó là sự phủ nhận về nhân: “Không có diệu hạnh cũng không có ác hạnh”; và sự phủ nhận về quả: “Không có dị thục làm quả báo của diệu hạnh và ác hạnh”.

Có luận sư cho rằng hai loại tà kiến bác bỏ nhân và quả này hỗ trợ cho sự làm đứt đoạn các căn cũng giống như vô gián đạo (ānantaryamārga) và giải thoát đạo (vimuktimārga) hỗ trợ cho sự đoạn trừ các phiền năo.

Có luận sư lại nói rằng loại tà kiến đoạn thiện căn này chỉ duyên (có nghĩa là chỉ bác bỏ) các pháp hữu lậu (sāsrava), tức khổ và tập đế, mà không duyên các pháp vô lậu (anāsrava), tức diệt và đạo đế; loại tà kiến này cũng chỉ duyên tự giới, tức nơi con người đang tồn tại (sabhāgadhātu) chứ không phải Sắc giới và Vô sắc giới. Thật vậy, loại tà kiến phủ nhận các pháp vô lậu hoặc duyên các giới cao hơn vốn cơ lực rất yếu ớt bởi v́ nó chỉ liên hệ đến các pháp và các giới này qua sự tương ưng.

Những luận sư Tỳ-bà-sa lại cho rằng thiện căn bị làm đứt đoạn bởi tất cả các loại tà kiến, tức các tà kiến duyên nhân, duyên quả, duyên pháp vô lậu, duyên pháp hữu lậu, duyên Dục giới, cũng như các giới cao hơn.

Có luận sư nói rằng chín phẩm thiện căn - từ hạ hạ phẩm cho đến thượng thượng phẩm - đều bị làm cho đứt đoạn trong cùng một lúc bởi một sát-na của tà kiến; cũng giống như các phiền năo thuộc kiến đoạn (kiến sở đoạn hoặc) đều bị đoạn trừ toàn bộ bởi kiến đạo.

Nhưng Tỳ-bà-sa lại cho rằng chỉ có thể làm đứt đoạn dần dần. Các thiện căn bị làm đứt đoạn theo cách giống như các phiền năo thuộc tu đoạn (tu sở đoạn hoặc) được đoạn trừ bởi tu đạo (satyabhāvanā); có nghĩa là loại thiện căn thượng thượng phẩm (adhimātrādhimātrā) bị làm đứt đoạn bởi loại tà kiến hạ hạ phẩm, cho đến loại thiện căn hạ hạ phẩm th́ bị làm đứt đoạn bởi loại tà kiến thượng thượng phẩm. Chủ trương này phù hợp với đoạn văn sau đây của Bổn luận (Jñānaprasthāna, 2, 8): “Các thiện căn vi tế và câu hành (aṇusahagata) là ǵ? - Là các thiện căn được xả bỏ cuối cùng khi đoạn thiện căn; v́ xả bỏ các thiện căn này mà người đó được gọi là “đoạn thiện căn””.

(Hỏi) Nếu sự đứt đoạn xảy ra từ từ th́ làm thế nào giải thích đoạn văn trước đây của Bổn Luận:  “Các căn bất thiện thuộc thượng phẩm là ǵ? - Là các căn bất thiện có khả năng đoạn trừ các thiện căn”?

(Đáp) Đoạn văn trên có ư chỉ cho sự hoàn tất (y cứu cánh mật thuyết) của việc đoạn thiện căn, bởi v́ chính do các căn bất thiện thuộc thượng phẩm mà toàn bộ thiện căn bị biến mất (nirravaśeṣaccheda). Chừng nào các thiện căn thuộc nhóm cuối cùng (hạ hạ phẩm) vẫn chưa bị đứt đoạn th́ chúng nhất định vẫn có khả năng làm hiện khởi các nhóm thiện căn khác.

Có luận sư cho rằng sự đứt đoạn chín phẩm thiện căn xảy ra cùng một lúc và không bị gián đoạn (avyutthānena) cũng giống như sự đoạn trừ các phiền năo thuộc kiến đạo. Nhưng Tỳ-bà-sa lại nói rằng sự đứt đoạn của thiện căn có khi xảy ra không gián đoạn nhưng cũng có khi phải xảy ra nhiều lần (Vibhāṣā, 5, 12).

Có luận sư nói rằng sự xả bỏ luuật nghi (saṃvaraprahāṇa) xảy ra trước khi đứt đoạn thiện căn; nhưng Tỳ-bà-sa lại nói răng nghiệp đạo chỉ bị xả bỏ (tyāga) khi thối thất loại tâm mà nghiệp đạo là quả của nó (Vibhāṣā, 35, 13).

(Hỏi) Những hạng chúng sinh nào có thể làm đứt đoạn thiện căn?

(Đáp) Chỉ có loài người mới có thể làm đứt đoạn thiện căn chứ không phải các chúng sinh ở ác thú (āpāyika) v́ sự phân biệt (tuệ, prajñā) của các chúng sinh này có thể bị nhiễm ô hoặc không bị nhiễm ô (kliṣṭa, akliṣṭa) cho nên không có tính chất chắc chắn (dṛḍha); và cũng không phải chúng sinh ở cơi thiên bởi v́ đối với họ th́ nghiệp quả xuất hiện rất rơ ràng. Tuy nhiên, chỉ có ở ba châu chứ không có ở châu Uttarakuru bởi v́ con người ở đó không có ư định (āśaya, a-thế-da) quá ác.

Có luận sư cho rằng chỉ có con người của châu Jambudvīpa mới đoạn thiện căn; tuy nhiên chủ trương này đi ngược lại Bổn luận. Bổn luận có đoạn viết: “Loài người ở châu Jambudvīpa thành tựu ít nhất là tám căn; và loài người ở hai châu Pūravavideha và Avaragodānīya cũng vậy.” (Jñānaprasthāna, 15, 11).

Có luận sư nói rằng nữ giới không đoạn thiện căn v́ ư chí (chanda) và sự chuyên cần của họ đều bị muội độn (manda); tuy nhiên quan điểm này đi ngược lại Bổn luận, Bổn luận viết: “Người nào thành tựu nữ căn th́ chắc chắn phải thành tựu tám căn”; v́ thế biết rằng cả nam và nữ giới đều có khả năng làm đứt đoạn thiện căn.

Những người nặng v́ t́nh (tṛṣṇācarita, ái hành giả) không đoạn thiện căn bởi v́ ư định (āśaya) của họ có tính chất tháo động (cala). Chỉ có những người nặng về lư (dṛṣṭicarita, kiến hành giả) mới đoạn thiện căn v́ ư định của họ thường ác độc (pāpa), kiên cố (dṛḍha) và sâu kín (gūḍha).

V́ những lư do trên, các hoạn quan, v.v., cũng không thể đoạn thiện căn v́ họ thuộc loại ái hành (tṛṣṇācaritapakṣatvāt) và v́ sự phân biệt của họ (prajñā) không chắc chắn, cũng giống như chúng sinh ở các ác thú.

(Hỏi) Thể tánh của sự đoạn thiện căn là ǵ?

(Đáp) Chính là phi đắc (aprāpti). Khi sự hoạch đắc (prāpti) các thiện căn không c̣n sinh khởi trở lại, tức không c̣n tiếp tục, th́ lúc đó sự không hoạch đắc (phi đắc) phát sinh; và sự không hoạch đắc phát sinh th́ đó là sự đứt đoạn của thiện căn.

(Hỏi) Khi đă bị đoạn, làm thế nào thiện căn có thể sinh khởi trở lại?

(Đáp) Là nhờ có nghi và có cái thấy về sự hiện hữu của nhân (hữu kiến), v.v.. Đây là trường hợp của những người đă đoạn thiện căn nhưng đối với nhân và quả lại có khởi nghi hoặc thấy được sự hiện hữu của chúng (astidṛṣṭi), có nghĩa là chánh kiến (samyagdṛṣṭi). Khi chánh kiến sinh khởi th́ người ta nói rằng thiện căn đă sinh khởi trở lại bởi v́ sự hoạch đắc các thiện căn này đă xuất hiện kể từ lúc đó (tatprāptisamudācārāt). Các căn sinh khởi trở lại trong chín nhóm của chúng nhưng lại hiển lộ dần dần; cũng giống như lấy lại sức khỏe (ārogya) trước sau đó mới dần dần có sức mạnh.

Những người khác đă đoạn thiện căn có thể sinh khởi trở lại thiện căn ngay từ đời này; nhưng người nào đă phạm tội ngũ nghịch (vô gián, ānantarya) mà đoạn thiện căn th́ không thể sinh khởi chúng trở lại. Về trường hợp này, kinh (Madhyama, 37) có nói: “Kẻ này (pudgala) không thể (abhavya) khởi lại thiện căn ở đời này, tuy nhiên chắc chắn có thể khởi lại thiện căn khi mất (cyavamāna) ở địa ngục hoặc khi thọ sinh (upapadyamāna)”. Nói “khi thọ sinh” là chỉ cho giai đoạn của trung hữu; và “khi mất” là chỉ cho giai đoạn sắp chết ở địa ngục (narakacyutyabhimukha). Các thiện căn sẽ sinh khởi trở lại khi thọ sinh trong trường hợp đă bị đoạn do lực của nhân (hetubalena); và sẽ sinh khởi trở lại khi sắp chết trong trường hợp đă bị đoạn do lực của duyên (pratyaya). Đối với trường hợp đă bị đoạn do tự lực hoặc tha lực th́ khi sinh khởi cũng khác nhau như vậy.

Đối với người thuộc “ư lạc hoại” (āśayavipanna) - tức bị thối thất (vipanna, vinaṣṭa) thiện căn do tà kiến (mithyādṛṣṭisaṃmukhībhāva) - th́ họ có thể khởi lại thiện căn ngay trong đời này; nhưng những người thuộc “ư lạc hoại” và cả “gia hành hoại” (prayogavipanna) - tức bị thối thất và phạm thêm tội vô gián (ānantarya) - th́ họ chỉ có thể khởi lại thiện căn sau khi thân này đă bị hoại. [Đây là một sự biến đổi của những ǵ đă được nói ở trên: “những người làm đứt đoạn thiện căn do tự lực và tha lực…”]. Sự khác biệt này cũng xảy ra đối với trường hợp bị đứt đoạn do tà kiến (kiến hoại, dṛṣṭivipanna) và trường hợp vừa bị kiến hoại vừa bị giới hoại (śīlavipanna) (tức bị đứt đoạn v́ phạm thêm tội vô gián). [Đây cũng là một sự biến đổi của trường hợp đi liền ngay trước đó].

Có thể có trường hợp đă đoạn thiện căn (samucchinnakuśalamūla) nhưng không thệ nguyện đánh mất (mithyātvaniyata). Có bốn trường hợp: (1) (Pūraṇa)(Bố-thích-nă) và năm luận sư khác; (2) (Ajātaśatru) (A-xa-thế); (3) (Devadatta) (Thiên thọ); (4) những người không đoạn thiện căn và không phạm tội vô gián.

Người có tà kiến nếu đoạn thiện căn tức đọa địa ngục vô gián (Avīci); người phạm tội vô gián th́ đoạn dịa ngục vô gián hoặc các địa ngục khác.

(Hỏi) Tư (cetanā) là căn nguyên của nghiệp; nhưng tư có thể dung chuyển với bao nhiêu loại nghiệp đạo?

Tụng đáp:   

業道思俱轉  不善一至八

善總開至十  別遮一八五.

[Tư cùng chuyển với nghiệp đạo;

Nếu bất thiện th́ có từ một đến tám nghiệp đạo;

Nếu thiện th́ có mười nghiệp đạo,

Nhưng không cùng chuyển với một, tám, năm nghiệp đạo.]

Luận:  (1) Trường hợp nghiệp đạo thuộc loại bất thiện:

Tư cùng chuyển với một nghiệp đạo là khi có tham, sân, hoặc tà kiến hiện khởi nhưng không có một loại nghiệp thuộc sắc (rūpin) nào xảy ra; hoặc khi một người đă có chuẩn bị trước (tiên gia hành tạo) một trong các sắc nghiệp nhưng lại có tâm không nhiễm ô (thiện hoặc vô kư) vào lúc chỉ v́ nông nổi mà phạm phải nghiệp đạo này.

Tư cùng chuyển với hai nghiệp đạo là khi một người khởi tâm sân (vyāpannacitta) mà giết hại (prāṇivadha); khi một người v́ tham (abhidhyāviṣṭa) mà trộm cắp, hoặc phạm tà dâm, hoặc nói lời bậy bạ.

Tư cũng chuyển với ba nghiệp đạo là khi một người v́ tâm sân hận mà giết hại và trộm cắp trong cùng một lúc.

(Hỏi) Nếu vậy, tại sao trước đây nói rằng tội trộm cắp chỉ được thành tựu (niṣṭhā) do tham (lobha)?

(Đáp) Nói như vậy là để chỉ cho trường hợp thành tựu (parisamāptau) tội trộm cắp (adattādāna) ở những người chỉ nghĩ đến (bất dị tâm) việc trộm cắp (apaharaṇa).

Một trường hợp khác trong đó tư cũng chuyển cùng với ba nghiệp đạo là khi có tham dẫn khởi (saṃmukhībhāva) vào lúc sai sử người khác phạm hai nghiệp đạo thuộc sắc.

Tư cùng chuyển với bốn nghiệp đạo là khi v́ muốn chia rẽ mà nói lời dối trá (anṛtavacana) hoặc lời nhục mạ (paruṣavacana), tức sẽ có một nghiệp đạo thuộc về ư và ba nghiệp đạo thuộc về ngữ; hoặc khởi tâm tham, v.v. (abhidhyādigata) vào lúc tạo tác ba nghiệp đạo thuộc về sắc.

Tư cùng chuyển với năm, sáu, bảy nghiệp đạo là khi tâm khởi tham, v.v., vào lúc tạo tác bốn, năm, sáu nghiệp đạo.

Tư cùng chuyển với tám nghiệp đạo là khi đă có gia hành của sáu nghiệp đạo giết hại, v.v., và vào lúc tạo tác sáu nghiệp đạo này lại khởi tham mà phạm tội tà dâm.

Tư không cùng chuyển với chín hoặc mười nghiệp đạo v́ tham, sân và tà kiến không khởi cùng thời.

(2) Trường hợp nghiệp đạo thuộc thiện:

Nói chung, tư có thể cùng chuyển với mười nghiệp đạo thiện; nhưng tư không cùng chuyển với một, tám hoặc năm nghiệp đạo.

Tư cùng chuyển với hai nghiệp đạo là khi một người đang nhập định Vô sắc (ārūpya), thành tựu tận trí (kṣayajñāna) hoặc vô sinh trí (anutpādavijñāna), tức cả năm thức đều thuộc thiện tánh; v́ thế có hai nghiệp đạo là vô tham và vô sân.

Tư cũng chuyển với ba nghiệp đạo là khi ư thức (manovijñāna) tương ưng với chánh kiến (samyagdṛṣṭi) và không có bảy thiện nghiệp đạo thuộc sắc.

Tư cùng chuyển với bốn nghiệp đạo là khi có tâm bất thiện hoặc vô kư nhưng lại đắc được luật nghi Cận sự (Upāsaka) hoặc luật nghi Cần sách (Śrāmaṇera) có bốn thiện nghiệp đạo thuộc sắc là không giết hại, v.v..

Tư cũng chuyển với sáu nghiệp đạo là khi đắc được các luật nghi nói trên với năm thức thuộc thiện, tức có bốn thiện nghiệp đạo thuộc sắc, một nghiệp đạo vô tham, và một nghiệp đạo vô sân.

Tư cũng chuyển với bảy nghiệp đạo là khi đắc được các luật nghi nói trên với ư thức thuộc thiện và có thêm chánh kiến; hoặc khi có tâm bất thiện hoặc vô kư nhưng lại đắc được luật nghi Bí-sô, tức có bảy nghiệp đạo hoàn toàn thuộc sắc.

Tư cùng chuyển với chín nghiệp đạo là khi đắc được luật nghi Bí-sô với năm thức thân thuộc thiện nhưng không có chánh kiến; khi đắc được luật nghi Bí-sô vào lúc thành tựu tận trí hoặc vô sinh trí trong khi nhập định Vô sắc [đây là trường hợp của hai nghiệp đạo ở trên; cộng thêm bảy nghiệp đạo thuộc luật nghi không phải là vô biểu]; khi đang nhập vào một loại định thuộc tĩnh lự (dhyāna) mà thành tựu tận trí hoặc vô sinh trí [tức không có chánh kiến mà có bảy nghiệp đạo thuộc sắc cùng hiện hữu v́ chúng là một phần của luật nghi tĩnh lự (avijñapti)].

Tư cùng chuyển với mười nghiệp đạo là khi đắc được luật nghi Bí-sô với ư thức thuộc thiện, ngoại trừ trường hợp của tận trí và vô sinh trí, tức là trường hợp của tất cả các tư cùng khởi (sahavartini) với luật nghi tĩnh lự và với luật nghi vô lậu khi mà loại tư này không tương ưng với tận trí hoặc vô sinh trí.

Trên đây đă giải thích với những điều kiện nào mà tư cùng chuyển với các thiện nghiệp đạo thuộc về luật nghi (saṃvarasaṃgṛhīta). Nếu chỉ xét đến các nghiệp đạo không thuộc về luật nghi th́ cùng có thể cùng chuyển với một nghiệp đạo, năm nghiệp đạo, tám nghiệp đạo khi (1) ĺa bỏ được một tội (đắc nhất chi viễn ly, ekāngaviratisamādāna) và có một tâm khác với tâm phát khởi sự ĺa bỏ này, tức là loại tâm nhiễm ô hoặc vô kư; (2) ĺa bỏ được hai tội và có ư thức thuộc thiện: Ư thức thuộc thiện này có ba ư nghiệp, cộng thêm hai sắc nghiệp tức là sự ĺa bỏ này; (3) ĺa bỏ được năm tội trong những điều kiện giống như ở trên.

(Hỏi) Nghiệp đạo nào chỉ được thành tựu và nghiệp đạo nào vừa thành tựu vừa hiện hành?

Tụng đáp: 

不善地獄中  麤雜瞋通二

貪邪見成就  北洲成後三

雜語通現成  餘欲十通二

善於一切處  後三通現成

無色無想天  前七唯成就

餘處通成現  除地獄北洲.

[Ở địa ngục là cơi thú bất thiện,

Lời nói nhục mạ, bậy bạ và sân có cả hai cách.

Tham và tà kiến chỉ có thành tựu.

Bắc châu thành tựu ba nghiệp đạo cuối;

Tạp uế ngữ có cả hiện hành;

Ở nơi khác của Dục giới lại có cả hiện hành

Ở tất cả các nơi

Ba thiện nghiệp cuối vừa hiện hành vừa thành tựu.

Chúng sinh vô sắc và vô tưởng

Chỉ thành tựu thiện nghiệp đạo ở trước;

Những chúng sinh khác vừa thành tựu vừa hiện hành,

Ngoại trừ địa ngục và Bắc châu.]

Luận:  Trong mười nghiệp đạo bất thiện có ba nghiệp đạo ở địa ngục vừa thành tựu vừa hiện hành là (1) lời nói bậy bạ bởi v́ chúng sinh ở địa ngục thường kêu than (parideva); (2) lời nói sỉ nhục bởi v́ họ thường chửi mắng nhau (nigraha); (3) sân hận bởi v́ tâm địa của họ vốn tàn nhẫn vô t́nh nên thường oán ghét nhau (cittasaṃtānapāruṣyāt).

Chúng sinh ở địa ngục thành tựu tham và tà kiến; nhưng hai nghiệp đạo này không thực sự hiện hành bởi v́ ở đó không có các cảnh sở duyên được họ chấp trước (rañajanīyavastu) (vô khả ái cảnh); hơn nữa, nghiệp quả vốn đă hiển lộ.

Ở địa ngục không có nghiệp giết hại v́ chúng sinh ở đó chết là do nghiệp đă hết (nghiệp tận, karmakṣaya); không có nghiệp trộm cắp và tà dâm v́ không có riêng tài vật và nữ nhân (dravyastrīparigrahābhāvāt); không nói dối v́ vô dụng; không nói lời độc ác v́ vô dụng và thường ly tán.

Tham, sân và tà kiến tồn tại ở châu Kuru với nghĩa chúng sinh ở đó có thành tựu ba loại nghiệp đạo này nhưng, thật ra, không có tham ở đó v́ không có sở hữu riêng; cũng không có sân v́ tâm địa hiền ḥa (snigdhasaṃtānatvāt), v́ không có những sự việc gây phiền năo (āghātavastu); cũng không có tà kiến v́ không có ác ư (apāpāśāyatvat). Riêng tạp uế ngữ th́ vừa thành tựu vừa hiện hành v́ chúng sinh ở đó thường ca hát với tâm nhiễm ô.

V́ không có ác ư, v́ thọ lượng có giới hạn rơ ràng, v́ không có sở hữu riêng về tài vật cũng như phụ nữ, và v́ vô dụng cho nên không có sự giết hại và các nghiệp đạo khác.

(Hỏi) Nếu chúng sinh ở châu Kuru không có riêng phụ nữ (parigraha) th́ họ giao hợp với nhau như thế nào?

(Đáp) Khi muốn hưởng lạc với một phụ nữ nào đó th́ họ kéo tay người này đến một gốc cây. Nếu phụ nữ này là người mà họ được phép hành dâm th́ các cành cây sẽ rũ xuống để che phủ họ; nếu không được phép th́ các cành cây sẽ không che phủ họ.

Ở những nơi khác của Dục giới, tức trừ địa ngục và châu Kuru ra, đều có mười nghiệp đạo thành tựu và hiện hành.

Đối với bàng sinh, quỷ và chư thiên, các nghiệp đạo bất thiện không nhiếp thuộc bất luật nghi (asaṃvaranirmukta); nhưng đối với con người th́ có thể nhiếp thuộc hoặc không nhiếp thuộc bất luật nghi.

(Hỏi) Ở cơi trời nghiệp đạo giết hại không?

(Đáp) Chư thiên không giết hại nhau nhưng vẫn có trường hợp họ giết hại chúng sinh thuộc các thú khác như quỷ, v.v.. Có thuyết cho rằng chư thiên cũng giết hại nhau bằng cách chặt đầu hoặc chặt ngang lưng.

Các thiện nghiệp đạo vô tham, vô sân, và chánh kiến đều thành tựu và hiện hành ở tất cả các giới và các thú.

Chúng sinh Vô sắc giới và Vô tưởng chỉ thành tựu bảy nghiệp đạo thiện thuộc sắc, tức các nghiệp đạo thuộc thân và ngữ. Thánh giả tái sinh vào Vô sắc giới thành tựu (samanvāgata) luật nghi hoặc luật nghi vô lậu thuộc quá khứ và vị lai; chúng sinh Vô tưởng cũng thành tựu luật nghi tĩnh lự trong các điều kiện như vậy.

Luật nghi vô lậu quá khứ được thành tựu bởi thánh giả tái sinh vào Vô sắc giới có sở y (āśraya) là một tầng thiền hoặc các tầng thiền mà thánh giả đă phát khởi hoặc hủy diệt; nhưng luật nghi vô lậu vị lai lại lấy tất cả năm địa làm sở y, tức Dục giới và bốn tầng thiền.

Những chúng sinh khác, tức ở các giới và các thú khác ngoại trừ địa ngục và châu Kuru, vừa thành tựu vừa hiện hành bảy thiện nghiệp đạo. Chúng sinh ở địa ngục và châu Kuru không có luật nghi (samādānaśīla). Ở những nơi khác cả bảy thiện nghiệp đạo thuộc sắc đều hiện hành.

Ở đây có điểm khác biệt: Đối với bàng sinh và quỷ, các thiện nghiệp đạo không bao giờ nhiếp thuộc luật nghi; nhưng ở Sắc giới th́ lại nhiếp thuộc luật nghi; ở những nơi khác các thiện nghiệp đạo có thể thuộc về một loại này hoặc một loại khác.

(Hỏi) Các nghiệp đạo thiện và bất thiện đắc quả như thế nào?

Tụng đáp:   

皆能招異熟  等流增上果

此令他受苦  斷命壞威故.

[Tất cả đều có khả năng chiêu cảm quả dị thục, 

đẳng lưu và tăng thượng;

V́ (nghiệp giết hại) làm người khác đau khổ,

Làm đoạn thọ mạng, và hủy hoại uy lực.]  

Luận:  Các nghiệp đạo thiện hoặc bất thiện đều chiêu cảm ba loại quả là dị thục, đẳng lưu và tăng thượng.

(1)                                 Do thực hiện (āsevita), tài bồi (bhāvita), phát triển (bahulikṛta) mỗi một nghiệp đạo bất thiện mà người tạo tội phải tái sinh vào địa ngục; đó là loại quả báo (dị thục).

(2)                                 Nếu người tạo tội tái sinh vào cơi người (nhân đồng phần) v́ tội giết hại th́ thọ lượng sẽ giảm sút lại (alpāyur bhavati); nếu v́ tội trộm cắp sẽ chịu nghèo khổ (bhogavyasanin); nếu v́ tà dục sẽ gặp người vợ không trung thành (sasapatnadāra); nếu v́ nói dối sẽ bị người khác phỉ báng (abhyākhyānabahula); nếu v́ nói lời ác độc th́ bạn bè của ḿnh sẽ trở thành kẻ đối nghịch (bhinnaparivāra); nếu v́ nói lời nhục mạ th́ chỉ nghe toàn chuyện không vừa ư (amanāpaśravaṇa); nếu nói lời bậy bạ th́ người khác sẽ không tin lời của ḿnh (anādeyavacana); nếu v́ tham lam th́ ḷng tham sẽ lớn; nếu v́ sân hận th́ sân sẽ lớn; nếu v́ tà kiến th́ sẽ bị ngu si v́ ngu si là loại lớn nhất trong các tà kiến; đó là loại quả đẳng lưu.

(Hỏi) Mặc dù thọ lượng bị giảm sút nhưng tái sinh vào cơi người vẫn là quả báo của một thiện nghiệp. Như vậy làm sao có thể xem đó là quả đẳng lưu của nghiệp giết hại?

(Đáp) Chúng tôi không nói đời sống của con người là quả của nghiệp giết hại mà chỉ nói rằng người tạo nghiệp giết hại sẽ có thọ lượng ngắn lại v́ tạo tác loại nghiệp này: Sự giết hại là nguyên nhân làm giảm sút thọ lượng của con người nhưng thọ lượng này vẫn là quả của một thiện nghiệp.

(3) V́ sự giết hại mà các sự vật ở bên ngoài, như cây, đất, v.v., đều có sức sống rất yếu ớt (alpaujas = alpavīrya); v́ sự trộm cắp mà chúng bị hư hại, v́ mưa đá, bụi bặm hoặc các chất ăn ṃn (aśanirajobahula); v́ tà dâm mà chúng bị phủ đầy bụi bặm hoặc các chất ăn ṃn (rajovakīrṇa); v́ nói dối mà chúng có mùi hôi (durgandha); v́ nói lời ác độc mà chúng phải ở những chỗ lồi lơm (utkūlanikūla = unnatanimna); v́ nói lời nhục mạ mà chúng ngấm đầy muối và cằn cỗi (ūṣarajangala) nếu đó là đất hoặc rất khó coi (viprakruṣṭa = vigarhita) và độc hại (pāpika) nếu đó là cây cối; v́ nói lời bậy bạ mà các mùa bị xáo trộn (viṣamartupariṇāmā bāhyā bhāvāḥ); v́ tham lam mà quả bị nhỏ; v́ sân hận mà quả bị chua; v́ tà kiến mà có ít quả hoặc không có quả; đó là loại quả tăng thượng.

(Hỏi) Có phải v́ nghiệp giết hại mà người tạo tội tái sinh vào địa ngục và rồi sau đó chỉ có một thọ lượng ngắn ngủi ở cơi người?

(Đáp) Có luận sư cho rằng chính v́ nghiệp giết hại. Sự hiện hữu ở địa ngục là quả dị thục và sự giảm sút của thọ lượng là quả đẳng lưu của nghiệp giết hại. Có luận sư lại cho rằng sự hiện hữu ở địa ngục xuất phát từ gia hành của nghiệp giết hại; và sự giảm sút thọ mạng là do nghiệp căn bổn. Thật ra, kinh có nói nghiệp giết hại là nhân của một đời sống ở địa ngục; nhưng khi nói như vậy, kinh không chỉ nói đến một ḿnh hành động giết hại mà c̣n nói đến một loạt các hành động đi kèm theo hành động giết hại (saparivāra) (căn bổn quyến thuộc). Trong trường hợp này, những ǵ được gọi là quả đẳng lưu không hiện hữu tách rời (nātivartate) với quả dị thục và quả tăng thượng. Sở dĩ chỉ gọi là đẳng lưu bởi v́ có sự tương tợ giữa nhân và quả (tức giết hại th́ có thọ lượng ngắn ngủi, trộm cắp th́ nghèo nàn, v.v.).

(Hỏi) Tại sao mười nghiệp đạo này đều chiêu cảm ba loại quả?

(Đáp) Những ai phạm tội giết hại (prāṇātipāta) đều làm đau khổ kẻ mà họ sắp giết (vadhya), làm cho kẻ đó phải chết (maraṇam kṛtam), và hủy hoại uy lực (ojas) của kẻ đó. V́ làm đau khổ nên có quả dị thục là phải thọ khổ ở địa ngục; v́ làm người khác phải chết nên có quả đẳng lưu là thọ lượng giảm ngắn lại; v́ hủy hoại uy lực nên có quả tăng thượng là các sự vật ở ngoài có rất ít khí lực. Các nghiệp đạo bất thiện khác cũng như vậy.

Các thiện nghiệp đạo cũng có ba loại quả như trên; nhờ việc xả ly sự giết hại được thực hiện, tô bồi và phát triển mà người ta tái sinh vào các cơi thiên; nếu phải trở lại làm người th́ sẽ có thọ lượng lâu dài. Đối với tất cả các thiện nghiệp th́ cả ba loại quả đều trái ngược với quả của các nghiệp đạo bất thiện. (Vibhāṣā, 113, 21)

(Hỏi) Trong tám chi bất thiện (tà chi) Thế Tôn đă phân biệt các nghiệp thuộc sắc thành ba loại là tà ngữ (mithyāvāc), tà nghiệp (mithyākarmānta), tà mạng (mithyājīva). Như vậy có phải tà mạng tách rời với tà ngữ và tà nghiệp?

(Đáp) Không tách rời nhau.   

貪生身語業  邪命難除故

執命資貪生  違經故非理.

[V́ thân ngữ nghiệp do tham sinh khởi

Tạo thành tà mạng rất khó đoạn trừ.

Nếu chấp tà mạng phát sinh do tham lam tư cụ,

Th́ phi lư v́ trái với kinh.]

Luận:  Thân nghiệp và ngữ nghiệp sinh khởi từ sân và si nên được gọi là tà nghiệp và tà ngữ; và v́ cũng sinh khởi từ tham nên chúng tạo thành tà mạng. Sở dĩ phân biệt như vậy là v́ tà mạng rất khó được làm cho thanh tịnh.

Tham (rāga) vốn là kẻ cướp (apahar): Người ta rất khó bảo vệ được tâm của các nghiệp do tham phát khởi. Chừng nào vẫn c̣n sống th́ tà mạng rất khó được làm cho thanh tịnh v́ thế mà Thế Tôn đă lập tà mạng thành một loại riêng. Có bài tụng (Vibhāṣā, 116, 13) viết: “Kẻ phàm tục rất khó giữ cho ư tưởng của ḿnh được thanh tịnh v́ luôn luôn làm mồi cho những ư tưởng khác nhau; người tu hành th́ rất khó giữ cho cách sống của ḿnh được thanh tịnh v́ cơm áo của ḿnh phụ thuộc vào người khác.”

Nếu có người nghĩ rằng những việc làm như ca hát, nhảy múa, v.v., chỉ cốt để mua vui chứ không phải là tà mạng bởi v́ tà mạng chỉ bao hàm những thân nghiệp và ngữ nghiệp nào được phát khởi do ḷng tham đối với các cách thế sinh nhai (jīvitopakaraṇa), (Mahāvyutpatti, 239, 32) th́ chúng tôi sẽ trả lời là không phải như vậy. Trong kinh Giới uẩn (Śīlaskandhikā), Thế Tôn đă dạy rằng việc đi xem đấu voi, v.v., cũng là tà mạng; bởi v́ đó chính là sự thụ hưởng các sự vật không chính đáng (mithyāviṣayaparibhoga).

(Hỏi) Trước đây có nói đến năm loại quả là tăng thượng (adhipati), sĩ dụng (puruṣakāra), đẳng lưu (niṣyanda), dị thục (vipāka), ly hệ (visaṃyogaphala). Như vậy những loại nghiệp nào có những loại quả nào?

Tụng đáp: 

斷道有漏業  具足有五果

無漏業有四  謂唯除異熟

餘有漏善惡  亦四除離繫

餘無漏無記  三除前所除.

[Nghiệp hữu lậu thuộc đạo đoạn

Có đủ năm loại quả;

Nghiệp vô lậu có bốn loại,

Tức chỉ trừ dị thục.

Các nghiệp hữu lậu thiện hoặc ác khác

Cũng có bốn, tức chỉ trừ ly hệ.

Các nghiệp vô lậu và vô kư khác

Có ba loại, tức trừ hai loại trên.]

Luận:  Sở dĩ gọi là Đoạn đạo (prahāṇamārga) v́ đó là con đường có khả năng đoạn trừ hoặc v́ các phiền năo đều được đoạn trừ nhờ con đường này (prahīyante ‘nena). Con đường này cũng c̣n được gọi là Vô gián đạo (ānantarya) - nhưng sẽ được giải thích ở phần sau - và gồm có hai loại là vô lậu (anāsrava) và hữu lậu (sāsrava). Loại nghiệp tạo thành một phần của Đoạn đạo hữu lậu có đủ năm loại quả: (1) Quả dị thục là quả báo đáng ưa thuộc cùng một địa với nghiệp; (2) quả đẳng lưu là các pháp sinh từ định, tương tợ với nghiệp, thuộc giai đoạn về sau (samādhijā uttare sadṛśā dharmāḥ); (3) quả ly hệ là sự ĺa bỏ các phiền năo, là sự đoạn trừ các phiền năo; (4) quả sĩ dụng là các pháp (dharmas) mà loại nghiệp này đă sinh khởi (tadākṛṣṭa), tức là (a) Giải thoát đạo (vimuktimārga), (b) các pháp cùng hiện hữu (câu hữu, sahabhū), (c) các pháp vị lai được thành tựu nhờ vào loại nghiệp này (yac cānāgataṃ bhāvyate) và (d) chính sự đoạn trừ; (5) quả tăng thượng là tất cả các pháp hữu vi ngoại trừ chính loại nghiệp này, ngoại trừ các pháp đă sinh.

Loại nghiệp tạo thành một phần của Đoạn đạo vô lậu có bốn loại quả, tức chỉ trừ quả dị thục.

Loại nghiệp hữu lậu thiện hoặc bất thiện, không tạo thành một phần của Đoạn đạo, cũng có bốn loại quả, tức chỉ trừ quả ly hệ.

Các nghiệp vô lậu c̣n lại - tức các nghiệp vô lậu không thuộc về Đoạn đạo mà chỉ tạo thành một phần của của các đạo gia hành, giải thoát, thắng tiến (prayoga-vimukti-viśeṣa-mārgas) - không có quả ly hệ v́ loại nghiệp này không phải là nhân của sự đoạn trừ, cũng không có quả dị thục v́ đây là nghiệp vô lậu.

Hai loại quả này cũng không có đối với nghiệp vô kư nhiễm ô hoặc không nhiễm ô (nivṛta, anivṛtāvyākṛta).

(Hỏi) Quả của các loại nghiệp khác nhau có những tính chất nào?

Tụng đáp: 

善等於善等  初有四二三

中有二三四  後二三三果.

[Các pháp thiện, bất thiện, vô kư tạo thành

Bốn, hai, ba loại quả của nghiệp thiện;

Tạo thành hai, ba, bốn loại quả của nghiệp bất thiện;

Tạo thành hai, ba, ba loại quả của nghiệp vô kư.]

Luận:  (1) Các pháp thiện, bất thiện, vô kư, tạo thành bốn loại quả, hai loại quả, ba loại quả của nghiệp thiện:

Các quả đẳng lưu, ly hệ, sĩ dụng và tăng thượng của loại nghiệp thiện là các pháp thiện. Quả dị thục vốn thuộc tánh vô kư.

Các quả sĩ dụng và tăng thượng của loại thiện nghiệp là các pháp bất thiện.

Quả đẳng lưu của một nghiệp thiện nhất định thuộc thiện; quả ly hệ vốn thuộc tánh thiện.

Các quả dị thục, sĩ dụng và tăng thượng của loại nghiệp thiện là các pháp vô kư.

(2) Các pháp thiện, bất thiện, vô kư, theo thứ tự này, tạo thành hai loại quả, ba loại quả, bốn loại quả của nghiệp bất thiện:

Hai quả sĩ dụng và tăng thượng của loại nghiệp bất thiện là các pháp thiện.

Ba quả - tức loại trừ quả dị thục và ly hệ - là các pháp bất thiện.

Bốn quả - tức loại trừ quả ly hệ - là các pháp vô kư.

Như vậy người ta thừa nhận rằng quả đẳng lưu (niṣyandaphala) của các pháp bất thiện có thể được tạo thành bởi các pháp vô kư. Và điều này xảy ra như thế nào? - Hai pháp vô kư, tức hữu thân kiến (satkāyadṛṣṭi) và biên chấp kiến (antagrāhadṛṣṭi) đều là quả đẳng lưu của các pháp bất thiện: Đó là các phiền năo biến hành (sarvatraga) được đoạn trừ nhờ thấy được khổ và nguồn gốc của nó (kiến khổ tập sở đoạn); và các phiền năo thuộc nhóm tham ái (rāga), v.v., được đoạn trừ nhờ thấy được khổ (kiến khổ sở đoạn).

(3)                                  Các pháp thiện, bất thiện, vô kư tạo thành hai loại quả, ba loại quả, ba loại quả của nghiệp vô kư.

Hai loại quả sĩ dụng và tăng thượng là các pháp thiện.

Ba quả - tức loại trừ dị thục và ly hệ - là các pháp bất thiện. Các pháp bất thiện của cả năm phẩm, được đoạn trừ bởi sự nh́n thấy sự thật về khổ (kiến khổ đế sở đoạn, v.v.) đều là quả đẳng lưu của nghiệp vô kư là hữu thân kiến và biên chấp kiến.

Ba quả - giống như trên - thuộc vô kư.

Trên đây là ba tánh của các quả; tiếp theo là phần nói về các đời, các địa, v.v..  

過於三各四  現於未亦爾

現於現二果  未於未果三.

[Các pháp quá hiện vị lai tạo thành bốn loại quả của nghiệp quá khứ.

Các pháp vị lai bốn loại quả của nghiệp hiện tại.

Các pháp hiện tại tạo thành hai loại quả của nghiệp hiện tại.

Các pháp vị lai tạo thành ba loại quả của nghiệp vị lai.]

Luận:  Tất cả các pháp hoặc các pháp thuộc tất cả các loại, tức thuộc quá khứ, hiện tại và vị lai, đều có thể tạo thành bốn loại quả của nghiệp quá khứ. Như vậy, sẽ không có quả ly hệ v́ quả này nằm ngoài thời gian.

Loại nghiệp ở giữa, tức hiện tại, có bốn loại quả - tức loại trừ quả ly hệ - đều là các pháp vị lai.

Các pháp hiện tại là quả tăng thượng và sĩ dụng của nghiệp ở giữa.

Đối với loại nghiệp vẫn c̣n chưa sinh th́ có ba loại quả được tạo thành bởi các pháp vị lai; đó là quả dị thục, tăng thượng và sĩ dụng. Nghiệp vị lai không có quả đẳng lưu.

同地有四果  異地二或三.

[Các pháp cùng địa tạo thành bốn loại quả;

Các pháp thuộc một địa khác tạo thành ba hoặc hai quả.]

Luận:  Một nghiệp thuộc một địa nào đó sinh khởi bốn loại quả - tức loại trừ quả ly hệ - và các quả này đều là các pháp ở cùng địa với nghiệp (svabhūmika).

Các pháp vô lậu thuộc về một địa khác với địa của nghiệp tạo thành ba quả của nghiệp này là sĩ dụng, tăng thượng và đẳng lưu.

Các pháp hữu lậu thuộc về một địa khác với địa của nghiệp tạo thành hai quả sĩ dụng và tăng thượng của chính nghiệp này.

學於三各三  無學一三二

非學非無學  有二二五果.

[Các pháp hữu học, v.v. tạo thành ba loại quả của nghiệp hữu học;

Tạo thành một loại quả, ba loại quả, hai loại quả của nghiệp vô học;

Tạo thành hai loại quả, hai loại quả, năm loại quả

Của nghiệp phi học phi vô học.]

Luận:  (1) Các pháp “thuộc hàng thánh giả không phải là A-la-hán” (hữu học, śaikṣa) tạo thành các quả đẳng lưu, sĩ dụng và tăng thượng của loại nghiệp hữu học.

Các pháp “thuộc hàng thánh giả A-la-hán” cũng như vậy.

Các pháp phi hữu học phi vô học tạo thành quả sĩ dụng, tăng thượng và ly hệ của nghiệp hữu học.

(2) Các pháp hữu học, v.v., tạo thành một quả, ba quả, hai quả của nghiệp vô học.

Các pháp hữu học là quả tăng thượng của loại nghiệp này.

Các pháp vô học là quả tăng thượng, đẳng lưu và sĩ dụng của loại nghiệp này.

Các pháp phi hữu học phi vô học là quả tăng thượng và sĩ dụng của loại nghiệp này.

(3) Các pháp hữu học, v.v., tạo thành hai loại quả, hai loại quả, năm loại quả của loại nghiệp khác với hai loại trên, tức là loại nghiệp phi hữu học phi vô học (naivaśaikṣanāśaikṣa).

Các pháp hữu học và các pháp vô học là quả sĩ dụng và tăng thượng của loại nghiệp này.

Các pháp phi hữu học phi vô học là năm loại quả của loại nghiệp này.

見所斷業等  一一各於三

初有三四一  中二四三果

後有一二四  皆如次應知.

[Các nghiệp thuộc kiến đoạn, v.v.,

Mỗi nghiệp đều có ba loại pháp thuộc kiến đoạn, v.v., làm quả.

Loại nghiệp đầu có ba, bốn, một quả;

Loại nghiệp giữa có hai, bốn, ba quả;

Loại nghiệp cuối có một, hai, bốn quả;

Nên biết tằng tất cả đều theo thứ này.]

 

Luận:  

(1)                                  Các pháp có thể được đoạn trừ bởi kiến đạo (kiến sở đoạn, darśanaheya), các pháp có thể được đoạn trừ bởi tu đạo (tu sở đoạn, bhāvanāheya), các pháp không thể được đoạn trừ, tạo thành ba quả, hai quả, một quả của loại nghiệp có thể được đoạn trừ bởi kiến đạo (kiến sở đoạn nghiệp).

Các pháp thuộc kiến đoạn là ba quả tăng thượng, sĩ dụng và đẳng lưu của nghiệp thuộc kiến đoạn.

Các pháp thuộc tu đoạn là bốn quả của loại nghiệp này tức loại trừ quả ly hệ.

Các pháp thuộc phi đoạn là quả tăng thượng của loại nghiệp này.

(2)                                  Các pháp trên tạo thành hai quả, bốn quả, ba quả của loại nghiệp được đoạn trừ bởi tu đạo (tu sở đoạn nghiệp).

Các pháp thuộc kiến đoạn là hai quả sĩ dụng và tăng thượng của nghiệp thuộc tu đoạn.

Các pháp thuộc tu đoạn là bốn quả của nghiệp này, tức loại trừ quả ly hệ.

Các pháp thuộc phi đoạn là ba quả sĩ dụng, tăng thượng và ly hệ của nghiệp này.

(3)                                  Các pháp trên tạo thành, theo thứ tự, một quả, hai quả, bốn quả của loại nghiệp không thể đoạn trừ (phi sở đoạn nghiệp).

Các pháp thuộc kiến đoạn là quả tăng thượng của nghiệp thuộc phi đoạn.

Các pháp thuộc tu đoạn là hai quả tăng thượng và sĩ dụng của nghiệp này.

Các pháp thuộc phi đoạn là bốn quả của nghiệp này, tức loại trừ quả dị thục.

Khi nói “theo thứ tự” (như thứ, yathākarmam = anukarmam) là tụng văn có ư chỉ cho tất cả các trường hợp; và đây là một cách dùng tóm lược (abhisaṃkṣepanyāyaḥ).

Trong phần tŕnh bày về nghiệp này nhân tiện đưa ra câu hỏi: Bổn luận (Jñānaprasthāna) có nói đến loại nghiệp nên làm (ưng tác, yogavihita), loại nghiệp không nên làm (bất ưng tác, ayogavihita), loại nghiệp không phải nên làm cũng không phải không nên làm (phi ưng tác phi bất ưng tác); như vậy ba loại này có nghĩa là ǵ?

Tụng đáp: 

染業不應作  有說亦壞軌

應作業翻此  俱相違第三.

[Nghiệp nhiễm không nên làm.

Có thuyết nói cũng là nghiệp không theo quy tắc.

Trái lại là nghiệp nên làm.

Khác với hai loại trên là loại nghiệp thứ ba.]

Luận:  Có thuyết cho rằng nghiệp không nên làm là loại nghiệp nhiễm ô (kliṣṭa) v́ loại này xuất phát từ sự xét đoán sai lạc (phi lư tác ư, ayoniśomanaskāra). Có thuyết lại cho rằng loại nghiệp bất chính (hoại quỹ tắc, vidhiprabhraṣṭa) cũng là nghiệp không nên làm: Khi một người đi, đứng, ăn, mặc không theo cách nên làm th́ các nghiệp này, mặc dù có tính chất bất nhiễm và vô kư, vẫn thuộc loại nghiệp không nên làm bởi v́ người này đang hành động đi ngược lại các cách thức thông thường (bất hợp thế tục lễ nghi).

Trái với loại nghiệp trên là nghiệp nên làm, tức là các nghiệp thiện hoặc vừa thiện vừa hợp quy tắc (avidhiprabhraṣṭa). Nghiệp khác với loại nên làm và không nên làm là loại nghiệp phi ưng tác phi bất ưng tác.

(Hỏi) Một nghiệp dẫn khởi (ākṣipati) một đời sống (sinh) hay nhiều đời sống? Nhiều nghiệp dẫn khởi một đời sống hay nhiều đời sống?

Tụng đáp: 

一業引一生  多業能圓滿.

[Một nghiệp dẫn khởi một đời sống;

Nhiều nghiệp có khả năng làm hoàn măn.]  

Luận:  Theo tông phái chúng tôi (Vibhāṣā, 19, 16 – 20, 14) th́ một nghiệp chỉ dẫn khởi một đời sống. Ở đây khi nói “đời sống” (sinh, janman) không có ư chỉ cho sự sinh ra (jāti) mà là một sự tồn tại (đồng phần, nikāyasabhāga). Một người khi đắc được sự tồn tại này th́ được gọi là “đời sống”.

(1)                                 Một nghiệp chỉ có thể dẫn khởi một đời sống chứ không thể dẫn khởi nhiều đời sống.

(Kinh bộ) Chủ trương này trái với những ǵ tôn giả Vô diệt (Sthavira Aniruddha) đă nói: “Nhờ vào quả báo (dị thục) của sự bố thí này (piṇḍapāta) mà sau khi đă sinh đến bảy lần ở cơi Tam thập tam thiên, cuối cùng ta đă được sinh vào ḍng họ Thích-ca giàu có.”

(Giải thích) Tôn giả đă trở thành một nhà đại phú quư là nhờ vào sự bố thí này; sau đó ngài c̣n đắc được sự nhớ lại nhiều đời sống trước đó (túc sinh trí), và đă tạo được nhiều phước đức mới. Nhưng khi nói như vậy là ngài có ư chỉ cho sự nổ lực lúc ban đầu; cũng giống như trường hợp một người lúc đầu chỉ có được một đồng tiền nhưng nhờ buôn bán mà có được một ngàn đồng nên mới nói rằng: “Chỉ nhờ một đồng mà tôi đă có được gia tài như thế này”.

Lại có giải thích nói rằng tôn giả Vô diệt, nhờ sự bố thí của ḿnh, đă khởi được nhiều tư tâm sở; và mỗi một tâm sở này đều chiêu cảm một quả.

(2)                                 Nhiều nghiệp không thể cùng dẫn khởi một đời sống; bởi v́ nếu như vậy th́ sự dẫn khởi các đời sống sẽ trở thành manh mún (bhāgaśaḥ). Tuy nhiên một đời sống, mặc dù chỉ được dẫn khởi bởi một nghiệp, nhưng lại được làm cho viên măn bởi nhiều nghiệp. Cũng giống như họa sư, lúc đầu chỉ phác thảo các đường nét của một bức tranh rồi sau đó mới tô điểm toàn bộ; trong trường hợp của một con người cũng vậy; mặc dù đều có phẩm tánh làm người như nhau nhưng có người có đủ các căn, các chi, các bộ phận; có người lại có khí sắc, sức lực, h́nh dạng rất trang nghiêm trong khi có người lại thiếu mất cái này hoặc cái kia.

Thật ra không chỉ có nghiệp mới có khả năng dẫn khởi một đời sống mà tất cả các pháp có chiêu cảm quả báo (hữu dị thục, savipāka) cũng có khả năng này, chẳng hạn như các cảm thọ, v.v.. [Tuy nhiên cũng có trường hợp ngoại lệ].  

二無心定得  不能引餘通.

[Hai loại định vô tâm và các pháp đắc

Không có khả năng dẫn khởi (nhưng các pháp khác th́ có thể)]

Luận:  Mặc dù thuộc loại  “hữu dị thục” nhưng hai loại định vô tâm không có khả năng dẫn khởi bởi v́ chúng không cùng hiện hữu (phi câu hiện hữu, saha na bhavataḥ) với nghiệp. Các pháp đắc (prāptis) cũng không thể dẫn khởi v́ chúng không có chung một quả với loại nghiệp mà chúng cùng hiện hữu.

(Hỏi) Thế Tôn nói rằng có ba loại trọng chướng (āvaraṇas) là nghiệp chướng (karmāvaraṇa), phiền năo chướng (kleśavaraṇa) và dị thục chướng (báo chướng, vipākāvaraṇa). Như vậy ba loại chướng này là ǵ?

Tụng đáp: 

三障無間業  及數行煩惱

并一切惡趣  北洲無想天.

[Ba loại chướng này là các nghiệp vô gián,

Các phiền năo thường khởi,

Tất cả các ác thú, bắc châu và vô tưởng thiên.]

Luận:  Loại trọng chướng bao gồm các nghiệp, tức năm tội vô gián (ānantarya) là giết mẹ, giết cha, giết A-la-hán, ly gián chúng tăng, có ác tâm làm thân Như Lai chảy máu.

Loại trọng chướng bao gồm các phiền năo, tức các phiền năo thường khởi. Phiền năo có hai loại là loại thường khởi (số hành) và loại hung mănh (tīvra): Phiền năo thường khởi là phiền năo liên tục sinh khởi; phiền năo hung mănh là phiền năo thuộc thượng phẩm (adhimātra). Loại phiền năo thường khởi tạo thành trọng chướng như trong trường hợp của hoạn quan, v.v..

Loại phiền năo thỉnh thoảng mới phát khởi và dù sự phát khởi của nó rất mănh liệt nhưng vẫn có thể ngăn chặn chứ không giống như loại phiền năo thường khởi mặc dù chúng yếu liệt hơn. Người nào có loại phiền năo thường khởi này mà không t́m cách ngăn chặn th́ từ chỗ yếu liệt (hạ phẩm) chúng sẽ trở nên mạnh dần (trung phẩm) cho đến lúc trở nên rất mạnh (thượng phẩm) mà làm thành chướng ngại.

Loại trọng chướng bao gồm quả báo (dị thục), tức ba ác thú - địa ngục, bàng sinh, quỷ - và một phần thiện thú là làm người ở châu Uttarakuru và làm trời ở Vô tưởng thiên.

(Hỏi) Chướng là ǵ?

(Đáp) Là các pháp làm chướng ngại thánh đạo và chướng ngại các thiện căn chuẩn bị (prāyogika) cho thánh đạo (thánh đạo gia hành thiện căn).

(Vấn nạn) Ngoài các tội vô gián ra, lẽ ra cũng phải kể đến các loại nghiệp khác làm chướng ngại (thánh đạo); tức là các nghiệp nhất định chiêu cảm ác thú, v.v (apāyādiniyata), nhất định dẫn khởi các trường hợp noăn sinh, thấp sinh, sinh làm nữ nhân, tám loại sinh.

(giải thích) Ở đây chỉ nói đến các nghiệp có thể được người khác (sudarśaka) cũng như bản thân người tạo tác (suprajñaka) dễ dàng nhận ra từ năm điểm. Trong số này có bao hàm các tội vô gián là giết hại, nói dối và gia hành của nghiệp giết hại; quả của loại nghiệp này là khổ; loại thú mà nghiệp chiêu cảm là địa ngục; thời gian mà quả dị thục được chiêu cảm chính là đời sống kế tiếp; bản thân người tạo nghiệp phải chịu mang tên là kẻ giết cha: Từ năm điểm này, loại nghiệp tạo tội vô gián rất dễ dàng được nhận biết.

Trong số các chướng ngại th́ chướng ngại lớn nhất (sarvapāpiṣṭha) là chướng ngại của phiền năo, và kế tiếp là chướng ngại của nghiệp. Bởi v́ hai loại chướng ngại này ngăn chận sự giải thoát (abhavya), không chỉ trong đời hiện tại mà cả trong đời kế tiếp. Theo Tỳ-bà-sa (Vibhāṣā, 115, 17) phiền năo chướng là loại lớn nhất v́ nó dẫn sinh nghiệp chướng và nghiệp chướng lại nặng hơn dị thục chướng v́ nó dẫn sinh loại chướng ngại thứ ba này.

(Hỏi) Vô gián (ānantarya) có nghĩa là ǵ?

(Đáp) Năm tội vô gián được gọi tên như vậy v́ chúng là loại không thể được “vượt qua” (antariya), có nghĩa là về mặt trả báo chúng không bị cản trở (abhibhuta) bởi các nghiệp lẽ ra phải có quả báo trong đời kế tiếp (vô gián cách). Hoặc v́ ngay sau khi đời sống này, người phạm tội vô gián phải tái sinh lập tức (anantaram) vào địa ngục và v́ thế mới có tên là vô gián (ānantarya). Như vậy người ta đă gọi tên một pháp là vô gián (ānantarya) khi người phạm tội vô gián hoạch đắc pháp này; cũng giống như gọi tên một pháp là Sa-môn (śrāmaṇya) v́ pháp này làm cho một người nào đó trở thành một vị Sa-môn.

(Hỏi) Ba loại trọng chướng này có ở những nơi nào?

Tụng đáp: 

三洲有無間  非餘扇搋等

少恩少羞恥  餘障通五趣.

[Ba châu có tội vô gián.

Chứ không phải hoạn quan, v.v.

V́ họ có ít ân huệ và kính trọng;

Hai loại chướng c̣n lại đều có ở năm thú.]  

Luận:  Ngoài những lư do khiến cho hoạn quan, v.v., không phạm bất luật nghi như đă được tŕnh bày trước đây, trong trường hợp này c̣n v́ những người làm cha làm mẹ của họ đă tạo ra cho họ một thân thể (ātmabhāva) khuyết tật (vikala) (vi bỉ khuyết thân tăng thượng duyên) và chỉ dành cho họ cảm t́nh sơ bạc (sneha) (ư bỉ thiểu ái niệm) cho nên chính những bậc cha mẹ này cũng là những người có rất ít ân huệ đối với họ; mặt khác c̣n v́ hoạn quan, v.v., cũng không có sự tôn kính tuyệt đối (lajjitva = hrīvyapatrāpya) (tàm quư tâm vi) đối với cha mẹ ḿnh - một sự tôn kính mà nếu hủy hoại nó (vipādana, vikopana) sẽ khiến cho hoạn quan, v.v., trở thành kẻ phạm tội vô gián.

Cũng cùng những lư do như trên, loài quỷ và bàng sinh nếu phạm tội giết hại cha mẹ th́ cũng không phải là kẻ phạm tội vô gián. Tuy nhiên Đại đức nói rằng những con vật nào có sự hiểu biết rơ ràng (giác phân minh, paṭubuddhi), như loài ngựa thông tuệ (ājāneya), cũng vẫn phạm tội vô gián (Vibhāṣā, 119, 6).

Cũng cùng những lư do như trên, những người nào có cha mẹ thuộc loài phi nhân (amanuṣya) cũng không phạm tội vô gián nếu giết hại cha mẹ ḿnh.

Sự hiện hữu ở châu Uttarakuru là báo chướng đối với cơi người; và sự hiện hữu ở Vô tưởng thiên là báo chướng đối với cơi trời.

 

Phần 17

Trong phần tŕnh bày ba trọng chướng ở trước đă giải thích năm tội vô gián chính là thể của nghiệp chướng; sau đây là phần giải thích về thể của năm nghiệp vô gián này.

此五無間中  四身一語業

三殺一誑語  一殺生加行.

[Trong năm tội vô gián

Có bốn thân nghiệp, một ngữ nghiệp

Ba nghiệp giết hại, một nghiệp nói dối,

Một gia hành của nghiệp giết hại.]

Luận:  Bốn nghiệp thuộc về thân; một nghiệp thuộc về ngữ; ba nghiệp giết hại; một nghiệp nói dối; và một gia hành của nghiệp giết hại (sát sinh nghiệp đạo gia hành, prāṇātipāprayoga) bởi v́ chư Như Lai không thể chết do kẻ khác làm hại.

Ly gián chúng tăng (phá tăng, saṃghabheda) là tội nói dối, và tội nói dối này chính là tội vô gián thứ tư. Tại sao như vậy? Tội nói dối chính là nguyên nhân của sự ly gián chúng tăng cho nên khi gọi sự ly gián chúng tăng là tội vô gián tức đă lấy tên của nhân để đặt cho quả (nhân thọ quả danh, hetuphalopacāra); hoặc từ ngữ “phá tăng” c̣n có nghĩa là “pháp có khả năng ly gián chúng tăng” (năng phá, kāraṇasādhana).

(Hỏi) Nếu vậy, pháp nào được thành tựu? Sự phá tăng (năng phá) hay chúng tăng (sở phá)?

Tụng đáp: 

僧破不和合  心不相應行

無覆無記性  所破僧所成.

[Phá tăng là bất ḥa hợp,

Là hành pháp không tương ưng với tâm,

Có tánh vô phú vô kư.

Chính chúng tăng thành tựu pháp phá tăng.]

Luận:  Sự phá tăng, tức sự không ḥa hợp, là một hành pháp (saṃskāra) không tương ưng với tâm, có tánh vô phú vô kư (anivṛtāvyākṛta).

(Hỏi) Nếu vậy làm sao pháp này có thể trở thành tội vô gián?

(Đáp) Bởi v́ người ly gián chúng tăng (năng phá giả, bhettar) không thành tựu sự phá tăng; trái lại chính chúng tăng bị ly gián mới thành tựu loại hành pháp có tên là “phá tăng” này.

(Hỏi) Như vậy người ly gián chúng tăng thành tựu cái ǵ? Quả báo của sự phá tăng được chiêu cảm ở chỗ nào, vào lúc nào?

Tụng đáp: 

能破者唯成  此虛誑語罪

無間一劫熟  隨罪增苦增.

[Người ly gián chúng tăng chỉ thành tựu

Tội nói dối,

Chịu quả báo địa ngục vô gián trong suốt một kiếp;

Và khổ tăng là do tội tăng.]  

Luận:  Người ly gián chúng tăng thành tựu tội (avadya) “phá tăng” và tội phá tăng này chính là tội nói dối. Tội nói dối sinh khởi cùng thời với sự ly gián chúng tăng (saṃghabhedasahaja) và là loại ngữ nghiệp hữu biểu và vô biểu. Với tội nói dối này, kẻ phá tăng phải đọa vào đại địa ngục vô gián (avīci) trong suốt một trung kiếp (antarakalpa); trong khi người phạm các tội vô gián khác không nhất định bị đọa vào địa ngục này.

(Hỏi) Nếu tất cả các tội vô gián đều có quả báo ở đời sống kế tiếp th́ một người phạm phải nhiều tội vô gián khác nhau sẽ thọ nhận như thế nào?

(Đáp) Ở địa ngục vô gián, người phạm nhiều tội vô gián phải thọ nhận một thân h́nh to lớn nhưng da thịt lại rất mềm nhảo khiến cho người này cảm thấy khổ sở gấp hai, gấp bốn, gấp năm lần b́nh thường; và các thứ dùng để tra tấn th́ rất nhiều và rất khó chịu đựng.

(Hỏi) Người nào có thể phá hoại chúng tăng? Phá hoại ở chỗ nào? Vào thời điểm nào? Và trong bao lâu?

Tụng đáp: 

苾芻見淨行  破異處愚夫

忍異師道時  名破不經宿.

[Là Bí-sô thuộc kiến hành, có tịnh hạnh;

Ở những nơi không có Như Lai và chỉ phá được người ngu.

Khi nhận một đạo sư và một thánh đạo khác

Th́ gọi là phá tăng; và (sự phá tăng) không trải qua đêm.]

Luận:  Người ly gián chúng tăng chính là một Bí-sô chứ không phải người tu tại gia, v.v.; và người này phải là người thuộc loại kiến hành chứ không phải là ái hành, và phải là người có tịnh hạnh chứ không phải là người phá giới bởi v́ lời nói của một Bí-sô phá giới không c̣n có uy lực.

(Hỏi) Sự phá tăng xảy ra ở chỗ nào? 

(Đáp) Ở những chỗ khác; có nghĩa là không phải ở chỗ có Như Lai. Sự ly gián chúng tăng không thể có ở chỗ của bậc Đại sư bởi v́ không ai có thể chiến thắng (duḥprasaha) Như Lai và lời nói của ngài th́ đầy uy lực.

(Hỏi) Như vậy, kẻ phá tăng ly gián được những ǵ?

(Đáp) Chỉ ly gián được người ngu (bāla) chứ không phải A-la-hán bởi v́ hàng thánh giả này đă thấy được pháp một cách đúng đắn (chứng pháp tánh). Có thuyết nói rằng kẻ phá tăng cũng không thể ly gián những ai đă đắc nhẫn (kṣānti).

(Hỏi) Chúng tăng bị phá trong trường hợp nào?

(Đáp) Khi những người ngu thừa nhận một đạo sư khác không phải là Như Lai và đi theo một con đường khác không phải là con đường là Như Lai đă dạy th́ lúc đó gọi là chúng tăng bị phá.

(Hỏi) Một khi đă bị phá, t́nh trạng này sẽ kéo dài trong bao lâu?

(Đáp) Không trải dài qua đêm của cùng ngày đó; tức vào ngày (pratyūṣe) mà chúng tăng bị ly gián th́ chúng tăng sẽ được ḥa hợp trở lại.

Sự ly gián chúng tăng - hay c̣n gọi là tội vô gián - được nói đến ở trên chính là sự hủy hoại bánh xe chánh pháp (phá pháp luân, cakrabheda). Bánh xe chánh pháp của Như Lai bị hủy hoại bởi v́ sự vận hành của thánh đạo đă bị cản trở (chướng thánh đạo luân, mārga-pravṛttiviṣṭhāpanār). Như vậy vừa có sự hủy hoại phá luân vừa có sự ly gián chúng tăng (phá pháp luân tăng).

(Hỏi) Sự hủy hoại pháp luân xảy ra ở đâu? Và do bao nhiêu Bí-sô?

Tụng đáp:   

贍部洲九等  方破法輪僧

唯破羯磨僧  通三洲八等.

[Ở thiệm bộ châu; và phải có chín vị, v.v. mới gọi là phá pháp luân tăng.

Chỉ phá yết ma tăng mới có ở ba châu; và phải có tám vị, v.v..]  

Luận:  Chỉ có ở châu Jambudvīpa chứ không phải ở các châu khác bởi v́ chư phật không thị hiện ở các châu này.

(Hỏi) Trong sự hủy hoại pháp luân có bao nhiêu Bí-sô?

(Đáp) Có chín Bí-sô hoặc nhiều hơn. Con số tối đa không định nghĩa trước được. Số lượng chúng tăng bị phá ít nhất phải có tám vị; và người thứ chín chính là kẻ phá tăng. Để có thể gọi là “t́nh trạng ly gián của chúng tăng” th́ chúng tăng phải bị chia làm hai nhóm - nhóm thứ nhất đi theo đức phật, nhóm thứ hai đi theo kẻ phá tăng - và như vậy là đă lập thành hai nhóm chúng tăng (saṃgha); mỗi nhóm có bốn Bí-sô, tức là con số tối thiểu phải có để có thể được gọi là một chúng tăng (Vibhāṣā, 116, 4).

Một loại phá tăng khác - khác với trường hợp hủy hoại pháp luân và không mang tội vô gián - xuất phát từ sự ly gián có liên quan đến các loại công việc ở một trú xứ đă được kiết giới (karmabhedād bhavati; phá yết-ma); tức là khi mà các vị tăng ở trong cùng một trú xứ này (nhất giới trung) tự tách rời nhau để tổ chức các hoạt động thuộc về trú xứ như Bố-sái-tha (poṣadha), v.v.. Phá yết-ma tăng có ở ba châu; tức chỉ ở những nơi có các hoạt động thuộc về tôn giáo. Loại này có tám Bí-sô hoặc nhiều hơn và phải phân thành hai nhóm, mỗi nhóm gồm bốn Bí-sô; tuy nhiên ở đây không có người phá tăng tự xưng đạo sư.

(Hỏi) Những thời điểm nào không có sự hủy hoại pháp luân? 

Tụng đáp:   

初後皰雙前  佛滅未結界

於如是六位  無破法輪僧.

[Lúc đầu, lúc cuối, trước khi có mụt, có hai đệ tử, 

Lúc phật nhập diệt, lúc chưa kiết giới;

ở sáu thời kỳ trên không có phá pháp luân tăng.]  

Luận:  Có sáu thời kỳ không thể xảy ra sự hủy hoại pháp luân.

Thời kỳ đầu tiên, tức thời gian vừa mới chuyển pháp luân, thời kỳ cuối cùng, tức khi Thế Tôn nhập Niết-bàn. Trong hai thời kỳ này, chúng tăng đều có chung một t́nh cảm (nhất vị, ekarasa = avyagra = ekamati). Giữa hai thời kỳ này, sự hủy hoại pháp luân cũng không thể xảy ra trước khi có các mụt nhọt (arbuda, pháo) xuất hiện; tức là khi chưa xuất hiện mụt nhọt về giới hạnh (giới pháo, śīlarbuda) và mụt nhọt về giáo pháp (kiến pháo, dṛṣṭyarbuda) trong chúng tăng (śāsana). Pháp luân cũng không thể bị hoại trước khi có sự xuất hiện của một cặp (ekayuga); tức là khi chưa có sự xuất hiện của hai vị đệ tử xuất sắc bởi v́ chúng tăng không phải trải qua đêm (parivasati) trong t́nh trạng phân ly và v́ hai đệ tử này có nhiệm vụ tái lập sự ḥa hợp của chúng tăng. Pháp luân cũng không thể bị hoại khi Mâu-ni (Muni) đă nhập diệt bởi v́ đạo sư một khi đă nhập Niết-bàn th́ kẻ phá tăng sẽ không c̣n người đối nghịch (pratidvandvāddhāvāt). Và cuối cùng là khi trú xứ của chúng tăng chưa được hạn định (vị kết giới, sīmāyam abaddhāyam) bởi v́ chúng tăng chỉ bị phân ly khi có hai nhóm trong cùng một trú xứ đă kiết giới.

Cũng giống như đức phật Thích-ca, nhờ vào túc nghiệp mà chư phật đều không có sự hủy hoại của pháp luân.

(Hỏi) Tại sao các tội giết mẹ, v.v., kể trên đều là tội vô gián mà các tội khác th́ không?

Tụng đáp:   

棄壞恩德田  轉形亦成逆

母謂因彼血  誤等無或有

打心出佛血  害後無學無.

[V́ hủy hoại ân điền và đức điền.

Dù đổi giới tính cũng thành nghịch tội

V́ người mẹ là máu của người giết;

Nếu lầm lẫn th́ có khi phạm khi không.

Chỉ có ư đánh phật chảy máu, hại bậc vô học khi chết đều không phạm.]

Luận:  Tội giết mẹ giết cha là tội vô gián bởi v́ đều hủy hoại người có ân đối với ḿnh. Cha mẹ là những người có ân v́ họ đă sinh ra ḿnh. Sự giết hại đă làm hủy hoại họ như thế nào? - Do đă giết họ.

Tội giết hại A-la-hán và hai tội vô gián cuối cùng đều là tội vô gián bởi v́ A-la-hán, chúng tăng và phật là ruộng công đức. Người ta không hủy hoại được chúng tăng và đức phật mà chỉ làm cho họ tổn thương (vipādana = vikopa).

(Hỏi) Nếu giới tính của mẹ và cha đă thay đổi, nếu các phẩm tính làm mẹ, làm cha không c̣n ở cha mẹ ḿnh nữa th́ có thành tội vô gián không?

(Đáp) Ngay cả khi giới tính đă thay đổi th́ vẫn thành tội vô gián khi giết chết người đă là mẹ, là cha của ḿnh.

Tỳ-bà-sa (Vibhāṣā, 119, 7) nói: “Có phạm tội vô gián khi giết chết một người đàn ông không phải là cha ḿnh, không phải là A-la-hán không? - Vẫn phạm, nếu ḿnh giết chết người mẹ đă thay đổi giới tính. - Có phạm tội vô gián khi giết chết một phụ nữ không phải là mẹ ḿnh, không phải là A-la-hán không? - Vẫn phạm, nếu ḿnh giết chết người cha đă thay đổi giới tính.”

(Hỏi) Nếu bào thai (kalala) của một phụ nữ bị rơi ra (cyu?) và một phụ nữ khác lấy đặt vào tử cung của ḿnh th́ trong hai người ai sẽ là người mẹ để khi giết chết người đó ta sẽ phạm tội vô gián?

(Đáp) Người làm mẹ chính là người phụ nữ mà ta đă sinh ra từ máu của người đó; người phụ nữ thứ hai chỉ làm tṛn chức năng của một người mẹ; tức người nuôi ta khôn lớn (āpyāvikā), cho ta bú (poṣikā), cho ta ăn (saṃvardhikā).

Không phải tội vô gián nếu v́ muốn giết mẹ ḿnh nhưng lại giết lầm một người khác; cũng không phải tội vô gián nếu v́ muốn giết người khác nhưng lại giết lầm mẹ ḿnh; như trong trường hợp một người đă giết phải mẹ ḿnh đang nằm trên giường (mañcatalāvalīna) khi nghĩ rằng có một người khác đang ngủ ở đó, hoặc con trai của người thợ giặt đă giết phải cha ḿnh khi đang muốn giết chết một con muỗi.

Nếu giết mẹ ḿnh và một người khác trong cùng một lúc th́ sẽ có hai nghiệp vô biểu (avijñaptis), một nghiệp vô biểu của tội giết hại và một nghiệp vô biểu của tội vô gián; nhưng biểu nghiệp (vijñapti) th́ chỉ có một là tội vô gián v́ tội này có lực rất mạnh. Tuy nhiên, theo tôn giả Diệu âm (Ghoṣaka) (Vibhāṣā, 18, 18), vẫn có hai biểu nghiệp bởi v́ biểu nghiệp vốn do cực vi tạo thành.

Nếu giết chết một A-la-hán mặc dù không biết đó là A-la-hán th́ vẫn phạm tội vô gián bởi v́ đă xác định mục tiêu của sự giết hại; tức đă nghĩ rằng “ta phải giết người này”.

Một người giết chết cha ḿnh khi cha ḿnh đă thành một A-la-hán th́ chỉ phạm một tội vô gián là giết chết A-la-hán v́ lúc đó cha ḿnh và A-la-hán chỉ là một người.

(Vấn nạn) [A-la-hán Rudrāyaṇa, khi bị giết hại do lệnh của con trai ḿnh là Śikhaṇdin (Thủy khiếm tŕ), đă nói với người đến giết ḿnh:] “Hăy về nói với Śikhaṇdin rằng hắn đă phạm phải hai tội vô gián là giết cha và giết A-la-hán”; như vậy làm thế nào giải thích câu nói này?

(Giải thích) Rudrāyaṇa Chỉ muốn nói rằng con trai ḿnh đă phạm tội vô gián được tạo thành từ hai nhân (do nhị duyên thành; dvābhyāṃ kāraṇābhyām); hoặc khi nói “hai tội vô gián” là Rudrāyaṇa có ư muốn quở trách hai lần việc làm của con trai ḿnh.

(Hỏi) Một người v́ ác tâm mà làm cho Như Lai bị chảy máu có nhất định phạm tội vô gián không?

(Đáp) Nếu có ư định giết hại Như Lai th́ vẫn phạm tội vô gián; nhưng nếu chỉ có ư đánh đập đức phật th́ không phạm tội vô gián.

(Hỏi) Nếu giết hại một người mà người này khi sắp chết lại chứng được quả A-la-hán th́ có phạm tội vô gián không?

(Đáp) Không phạm. Bởi v́ gia hành của nghiệp giết hại này chỉ nhắm đến một người lúc đó chưa phải là A-la-hán (vô học thân).

(Hỏi) Một người đă tạo gia hành của nghiệp vô gián nhưng sau đó đă dừng lại th́ họ có đắc được sự xả ly và thánh quả không?

Tụng đáp: 

造逆定加行  無離染得果.

[Đă tạo gia hành của nghiệp vô gián

Th́ không thể xả ly và đắc quả.]  

Luận:  Tại sao như vậy? - Bởi v́ giữa ư định phạm tội vô gián và sự hoạch đắc xả ly hoặc thánh quả có sự đối nghịch hoàn toàn.

Một người bước vào thánh đạo sau khi đă tạo gia hành của một nghiệp đạo khác với nghiệp đạo vô gián th́ nghiệp đạo này sẽ không thể sinh khởi bởi v́ có sự khác biệt nhau hoàn toàn giữa những phẩm tánh mới được hoạch đắc và nghiệp đạo này.

(Hỏi) Trong các tội vô gián, tội nào nặng nhất? Và trong các diệu hạnh, hạnh nào cho quả lớn nhất?

Tụng đáp:   

破僧虛誑語  於罪中最大

感第一有思  世善中大果.

[Tội nói dối để ly gián chúng tăng là tội nặng nhất.

Hữu tư chiêu cảm quả lớn nhất,

Là đại quả của các thiện pháp thế gian.]  

Luận:  Một người, mặc dù biết được cái ǵ là pháp hoặc cái ǵ là phi pháp, nhưng vẫn nói dối để ly gián chúng tăng và vẫn chỉ bày một cách sai lạc th́ sẽ phạm phải tội lớn nhất (sāvadya) trong tất cả các việc ác (duścarita); bởi v́ người này đă làm tổn thương pháp thân của Như Lai, ngăn ngại hạnh phúc của người đời và sự giải thoát của chúng sinh. Chừng nào sự ḥa hợp của chúng tăng vẫn chưa tái lập được th́ vẫn c̣n chướng ngại cho việc bước vào thánh đạo (niyāmāvakrānti), việc hoạch đắc các quả, hoạch đắc sự xả ly (vairāgya), việc đoạn trừ phiền năo (lậu tận, āsravakṣaya); tất cả các nghiệp liên quan đến việc tập định (dhyāna), ôn tụng, suy nghĩ (cintā) đều bị ngừng lại; thế giới của chư thiên, của rồng, của người, đều bị nhiễu loạn, buồn rầu (durmanas), không thể tự chủ (asvatantra), lầm lạc (muṣitasmṛti). Đó là lư do tại sao quả báo của loại tội này phải kéo dài đến một kiếp ở địa ngục.

Trong các tội vô gián th́ tội thứ năm, thứ ba và thứ nhất là những tội ít nặng dần; và tội giết cha là tội nhẹ nhất.

(Vấn nạn) Nếu vậy tại sao Thế Tôn nói rằng loại nghiệp (phạt, daṇda) thuộc về ư là lớn nhất (mahā-sāvadyatara) trong ba loại nghiệp; và tà kiến (mithyādṛṣṭi) là tội nặng nhất trong tất cả các tội.

(Giải thích) Cần phải hiểu rằng phá tăng là tội lớn nhất trong các tội vô gián; loại nghiệp thuộc về ư là nghiệp nghiêm trọng nhất trong ba nghiệp và tà kiến là loại nặng nhất trong các ác kiến. Hoặc phá tăng là tội lớn nhất nếu xét về sự kéo dài của quả báo (vipākavistara); nghiệp thuộc về ư (ư phạt, manodaṇda) là nặng nhất nếu xét về số người bị hại; và tà kiến là loại lớn nhất nếu xét về các thiện căn bị đứt đoạn.

Trong sô các thiện pháp thế gian th́ loại tư về hữu (hữu tư, bhavāgracetanā) mang lại quả lớn nhất. Hữu tư cũng chính là loại ư nghiệp khiến cho người ta có thể tái sinh vào tầng cao nhất của Vô sắc giới; và là loại nghiệp mang lại quả lớn nhất trong các thiện nghiệp của thế gian v́ quả báo của nó là sự tịch tĩnh hoàn toàn trong tám mươi ngàn đại kiếp.

Nói như trên là xét về quả dị thục. Nếu xét về quả ly hệ th́ nghiệp có quả lớn nhất là loại tư tương ưng với Kim cang dụ định (Vajropamasamādhi) v́ loại tư này có quả là sự chặt đứt tất cả sự trói buộc (chư kiết vĩnh đoạn). Chính v́ thế mà tụng văn nói: “Trong các thiện pháp thế gian…”.

(Hỏi) Có phải chỉ v́ các tội vô gián mà con người nhất định phải tái sinh vào địa ngục?

(Đáp) Các tội tương tợ với tội vô gián (vô gián đồng loại, ānantaryasabhāga) cũng khiến cho con người phải đọa địa ngục. Có luận sư nói thêm rằng “không phải đọa ngay (anantaram) vào địa ngục” (phi vô gián sinh).

(Hỏi) Các tôi tương tợ là ǵ?

Tụng đáp: 

污母無學尼  殺住定菩薩

及有學聖者  奪僧和合緣

破壞窣堵波  是無間同類.

[Làm ô uế mẹ, vô học ni;

Giết Bồ-tát trụ định,

Và thánh giả hữu học;

Cướp đoạt của cải của chúng tăng;

Phá hoại bảo tháp,

Đều là tội cùng loại với tội vô gián.]  

Luận:  Năm tội này, theo thứ tự trên, đều tương tợ với các tội vô gián: Làm ô nhục mẹ ḿnh, làm ô nhục một nữ A-la-hán (= tội giết mẹ); giết chết một Bồ-tát sẽ thành (trụ định) (= tội giết cha); giết chết thánh giả không phải là A-la-hán (= giết A-la-hán); cướp đoạt các phương tiện sinh sống của chúng tăng (= Tội phá tăng); hủy hoại một bảo tháp (tốt-đổ-ba; stūpa) (= làm tổn thương Như Lai).

Các nghiệp có quả dị thục khác bị ngăn ngại trong ba trường hợp:

將得忍不還  無學業為障.

[Khi đắc được nhẫn, quả Bất hoàn,

Quả A-la-hán th́ đều ngăn trở hoàn toàn các nghiệp này.]

Luận:  Khi ra khỏi giai đoạn có tên là Đảnh (mūdhānas) và đắc được giai đoạn của Nhẫn (kṣānti) th́ các nghiệp vốn có khả năng chiêu cảm dị thục ở các ác thú nhưng bị ngăn ngại nên vẫn c̣n nằm ở tầng dưới (ñebargnas = upatiṣṭhanti), bởi v́ thánh giả đă bỏ qua tầng địa thuộc về dị thục của các nghiệp này. Cũng giống như các chủ nợ đều vùng dậy (uttiṣṭhante) khi con nợ bỏ đi khỏi xứ (deśatyāgaṃ kurvataḥ).

Khi đắc được quả Bất hoàn th́ các nghiệp vốn có khả năng chiêu cảm dị thục ở Dục giới nhưng bị ngăn ngại nên vẫn c̣n nằm ở tầng dưới - ngoài các nghiệp có khả năng chiêu cảm dị thục ở đời hiện tại (thuận hiện).

Trong trường hợp đắc quả A-la-hán cũng vậy: Các nghiệp có khả năng chiêu cảm dị thục ở Sắc giới và Vô sắc giới nhưng bị ngăn ngại nên vẫn c̣n nằm ở tầng dưới.

(Hỏi) Trên đây có nói về trường hợp giết hại một Bồ-tát trụ định cũng là một tội cùng loại với tội vô gián; như vậy bắt đầu từ thời điểm nào mới được gọi tên là Bồ-tát trụ định và tại sao lại gọi như vậy?

Tụng đáp:  

從修妙相業  菩薩得定名

生善趣貴家  具男念堅故.

[Kể từ khi tu các nghiệp sinh khởi diệu tướng,

Bồ-tát bắt đầu được gọi là “định”,

Sinh vào thiện thú, thuộc gia đ́nh cao quư,

Đủ các căn, thuộc nam giới, nhớ được túc kiếp, không thối chuyển.]

Luận:  Kể từ khi bắt đầu tạo các nghiệp chiêu cảm quả dị thục là ba mươi hai tướng th́ Bồ-tát được gọi là “sẽ thành” (trụ định danh). Tại sao lại như vậy? - V́ bắt đầu từ thời điểm này, Bồ-tát luôn luôn sinh vào thiện thú, vào gia đ́nh cao quư, v.v..

Nói sinh vào thiện thú là v́ các thú của Bồ-tát đều tuyệt hảo, v́ chỉ sinh vào cơi trời và cơi người.

Bồ-tát sinh vào các gia đ́nh phú quư thuộc Sát-đế-lợi (Kṣatriyas), Bà-la-môn (Brāhmanes), trưởng giả (Gṛhapatis) rất giàu có, chứ không phải trong các gia đ́nh bần cùng.

Những người mà các căn của họ không được đầy đủ là những người thuộc loại “khuyết căn” (vikalendriya); nhưng Bồ-tát th́ có đủ các căn nên gọi là “cụ thắng căn’ (pūrṇākṣa?), tức đồng nghĩa với từ avikalendriya (không khuyết căn).

Bồ-tát luôn luôn thuộc về nam giới; và cũng không bao giờ thuộc nữ thân huống hồ là thân vô tính (saṇḍha, v.v).

Tất cả các đời sống, Bồ-tát đều nhớ lại tất cả các đời sống trước đó.

Khi bị khuất phục th́ người ta thường bỏ cuộc; nhưng Bồ-tát th́ không chịu khuất phục cho nên rất cương quyết (aviṛt?) mà không chịu bỏ cuộc; v́ mục đích làm lợi lạc cho tất cả chúng sinh, Bồ-tát không bao giờ khuất phục trước khổ đau, trước tất cả các ác hạnh của người khác. Người mà chúng ta thường gọi là người nô lệ không phải trả tiền của thế gian cũng chính là vị Bồ-tát này: Đó là một con người độ lượng, tuy đă thành tựu các công đức viên măn thù thắng nhất (saṃpad), nhưng nhờ huân tập được ḷng từ bi thanh tịnh đă tự xem ḿnh như con chó, không chút tự kỷ, trước mặt tất cả chúng sinh, Bồ-tát gánh chịu tất cả sự lăng nhục, những sự đối xử tàn bạo từ phía chúng sinh; chấp nhận mọi việc làm vất vả và khó nhọc nhất.

(Hỏi) Loại nghiệp chiêu cảm các diệu tướng là ǵ?

Tụng đáp:  

贍部男對佛  佛思思所成

餘百劫方修  各百福嚴飾.

[Ở Thiệm bộ châu, nam giới, đối phật,

Nghĩ đến phật, thành tựu từ bi,

Tu tập trong một trăm kiếp;

Mỗi diệu tướng đều được trăm phước trang nghiêm.]  

Luận:  Bồ-tát phát khởi các nghiệp dẫn đến các diệu tướng (tạo tu dẫn diệu tướng nghiệp) ở tại châu Jambudvīpa chứ không phải ở bất cứ châu nào khác, v́ chúng sinh ở châu này có tinh thần lanh lợi (paṭubuddhi); Bồ-tát chỉ làm nam giới chứ không phải nữ giới v́ đă vượt qua giai đoạn làm nữ nhân; chỉ đối diện với các bậc đại sư v́ tư của Bồ-tát chỉ duyên chư phật. Các nghiệp này xuất phát từ sự suy nghĩ (tư, cintā) chứ không do thính pháp (văn, śruta) hoặc tập định (tu, bhāvanāmaya). Bồ-tát thành tựu tất cả các nghiệp này chỉ trong một trăm kiếp chứ không phải chỉ trong một thời gian nào dài hơn.

Tuy nhiên Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni (Bhagavat Śākyamuni), nhờ sự thanh lọc các năng lực đă vượt qua chín kiếp trong số một trăm kiếp này và đă phát khởi các nghiệp dẫn đến các diệu tướng trong số chín mươi mốt kiếp (ekanavatyāṃ kalpeṣu), tức số kiếp c̣n lại của một trăm kiếp. Chín v́ thế mà ngài nói với Aśibandhaka: “Này trưởng làng, khi nhớ lại thời gian từ chín mươi mốt kiếp trước cho đến nay, ta không thấy có nhà nào bị làm cho nghèo túng (mibdeba) hay bị làm cho khốn đốn (upahata) v́ bố thí các thức ăn đă nấu chín.” Thế Tôn đă giải thích như vậy bởi v́ đây chính là số lượng các đại kiếp mà trí nhớ tự nhiên của ngài biết được.

Các luận sư đời trước (túc cựu sư, pūrvācāryas) nói rằng sau khi hoàn tất kiếp đầu tiên th́ Bồ-tát đă xả bỏ được bốn khuyết điểm và đắc được hai loại công đức.

Mỗi một diệu tướng đều sinh khởi từ một trăm công đức.

(Hỏi) Mỗi một trong số một trăm công đức này có hạn lượng như thế nào?

(Đáp) Có thuyết nói rằng mỗi một công đức bằng với công đức có khả năng mang lại phước lạc của tất cả chúng sinh, tức chỉ trừ những Bồ-tát đang tiến gần đến giác ngộ (bodhi) (cận phật Bồ-tát) - có nghĩa là đang thành tựu các nghiệp chiêu cảm các diệu tướng. Có thuyết cho rằng bằng với cộng nghiệp của tất cả chúng sinh, loại cộng nghiệp đă tạo ra thế giới nhờ vào lực tăng thượng của chính nghiệp này. Có thuyết lại cho rằng chỉ có chư phật mới biết được hạn lượng của loại công đức này.

(Hỏi) Thế Tôn khi c̣n là Bồ-tát đă cúng dường (paryupāsayāmāsa) bao nhiêu vị phật?

Tụng đáp: 

於三無數劫  各供養七萬

又如次供養  五六七千佛.

[Trong ba vô số kiếp

Đều cúng dường bảy mươi ngàn vị phật;

Theo thứ tự này lại cúng dường thêm

Năm ngàn, sáu ngàn, bảy ngàn vị phật.]

Luận:  Trong vô số kiếp (asaṃkhyeya) đầu tiên, ngài đă cúng dường bảy mươi lăm ngàn đức phật; trong vô số kiếp thứ hai cúng dường bảy mươi sáu ngàn đức phật; trong vô số kiếp thức ba cúng dường bảy mươi bảy ngàn đức phật.

(Hỏi) Vào cuối mỗi vô số kiếp có những vị phật nào?

Tụng đáp:   

三無數劫滿  逆次逢勝觀

然燈寶髻佛  初釋迦牟尼.

[Ba vô số kiếp kết thúc

Theo thứ tự ngược lại, gặp phật Thắng quán, 

Nhiên đăng, Bảo kế;

Cúng dường phật thích-ca trước tiên.]  

Luận:  Vô số kiếp thứ nhất chấm dứt vào thời kỳ của đấng toàn giác Bảo kế (Ratnaśikhin); vô số kiếp thứ hai chấm dứt vào thời kỳ của Thế Tôn Nhiên đăng (Dīpaṃkara); vô số kiếp thứ ba chấm dứt vào thời kỳ của Như Lai Thắng quán (Vipaśyin).

Trong số chư phật mà Thế Tôn đă cúng dường th́ vị phật đầu tiên là Thích-ca Mâu-bi.

Xưa kia có một vị phật tên là Thích-ca Mâu-ni (Śākyamuni), là một bậc toàn giác; và đây chính là vị phật mà Thế Tôn, lúc đó đang c̣n là một Bồ-tát đă nương theo ngài để phát lời nguyện Bồ-đề đầu tiên: “Ta nguyện sẽ trở thành một vị phật giống như vị phật này!”. Đức phật Thích-ca Mâu-ni này cũng giống như đức phật Thích-ca của chúng ta, đă xuất hiện trong thời mạt kiếp và giáo pháp của ngài cũng chỉ kéo dài một ngàn năm.

(Hỏi) Bồ-tát Thích-ca đă tu tập viên măn ba-la-mật-đa như thế nào?

Tụng đáp: 

但由悲普施  被折身無忿

讚歎底沙佛  次無上菩提

六波羅蜜多  於如是四位

一二又一二  如次修圓滿.

[Chỉ nhờ từ bi bố thí tất cả,

Bị chặt đứt tay chân nhưng không oán hận,

Tán thán phật Để-sa,

Kế tiếp là Bồ-đề vô thượng;

Sáu ba-la-mật-đa,

ở bốn giai đoạn trên,

tu thí tu giới, lại tu thí tu giới,

Theo thứ tự đó mà tu tập đến viên măn.]

Luận:  Khi thương xót bố thí tất cả cho tất cả chúng sinh, cho dù đó là mặt của ḿnh hay tủy ở trong ḿnh, và không hề mong cầu phước lạc nào, th́ Bồ-tát đă tu tập viên măn ba-la-mật-đa bố thí.

Mặc dù chưa xả ly tham dục (vītarāga) nhưng Bồ-tát vẫn không oán hận khi chân tay bị chặt đứt; và v́ thế ngài đă tu tập viên măn hai ba-la-mật-đa là giới và nhẫn.

Thế Tôn, khi c̣n là Bồ-tát, đă nh́n thấy Như Lai Để-sa (Tathāgata Puṣya) lúc đó đang ở bên trong một hang núi, tự thân cháy sáng. Bồ-tát chiêm ngưỡng Như Lai trong suốt bảy ngày bảy đêm đến độ quên mất là ḿnh đang đứng một chân. Ngài đă làm một bài kệ tán thán Như Lai: “Ồ, Thế Tôn! Dù ở trên trời, ở dưới đất, ở thế giới này, ở của Tỳ-sa-môn (Vaiśravaṇa) (Đa văn thất), ở cung điện của Marus (Thệ cung), ở các thiên xứ khác, ở cả các phương, các hướng, cũng không thể t́m ra một ẩn sĩ ngang bằng với ngài; cho dù người ta có đi khắp toàn bộ trái đất đông đảo này với núi với rừng, nếu muốn.” Theo truyền thuyết, như vậy là Bồ-tát đă tu tập viên măn ba-la-mật-đa tinh tấn và chín kiếp đă được vượt qua (pratyudāvartita).

Vào thời điểm nhập Kim cang định (vajrasamādhi), ngay trước khi chứng đắc Bồ-đề, th́ Bồ-tát đă tu tập viên măn hai ba-la-mật-đa là định (dhyāna) và tuệ (prjñā).

Sáu ba-la-mật-đa được gọi tên như vậy là v́ chúng đă đạt đến bờ bên kia của toàn bộ các sự viên măn (saṃpad) thuộc về mỗi một ba-la-mật-đa này.

(Hỏi) Kinh dạy rằng có ba loại phước - nghiệp - sự (puṇyakriyāvastus) là bố thí, giới hạnh và tu tập; như vậy, làm thế nào ba loại này lại được gọi là phước - nghiệp - sự?

Tụng đáp:   

施戒修三類  各隨其所應

受福業事名  差別如業道.

[Ba loại thí giới tu

Tùy điều kiện tương ưng,

Có tên là phước - nghiệp - sự;

Khác nhau như nghiệp đạo.]  

Luận:  Ba loại bố thí, tŕ giới và tu tập, tùy theo thể tánh của mỗi loại, có khi đều là phước (puṇya), nghiệp (kriyā) - tức hành động - và sự  (vastu) - tức là nơi hành động được thực hiện - có khi chỉ là phước, nghiệp hoặc sự; cũng giống như trường hợp của nghiệp đạo có khi vừa là nghiệp vừa là nghiệp đạo, có khi chỉ là nghiệp đạo.

Trước tiên hăy xét đến loại phước - nghiệp - sự thuộc về bố thí: (1) Thân nghiệp và ngữ nghiệp đều là phước, nghiệp và sự: Chúng là phước v́ là có quả dị thục đáng ưa; chúng là nghiệp (puṇyakriyā), v́ thể của chúng vốn là nghiệp; chúng là sự, tức là nơi hành động hoặc là cảnh sở duyên (vastu, adhiṣṭhāna) của loại tư bố thí có khả năng dẫn khởi chúng; (2) tư (cetanā) bố thí chỉ là phước (puṇya) và nghiệp (puṇyakriyā, phước nghiệp); (3) các pháp (thọ, v.v.) đi kèm theo thân và ngữ nghiệp chỉ là phước.

Loại phước - nghiệp - sự thuộc về giới chỉ có thân nghiệp, ngữ nghiệp nhưng lại có đủ cả phước, nghiệp và sự.

Đối với loại phước - nghiệp - sự thuộc về tu tập, hăy xét đến sự tu tập tâm từ (maitrī): (1) Sự tu tập này là phước và cũng là sự v́ đó là nơi thực hiện hành động phước đức (puṇyakriyāyāś ca vastu), tức là loại tư tương ưng với tâm từ bởi v́ trong thế gian th́ loại tư này mang h́nh thái của tâm từ; (2) loại tư này vừa là phước vừa là nghiệp; cũng giống như loại giới tạo thành luật nghi tĩnh lự (dhyānasaṃvara) được thành tựu bởi người tu tập tâm từ; (3) các pháp khác (tín, v.v.) đi kèm theo tu chỉ là phước.

Hoặc nhóm từ phước nghiệp (puṇyakriyā) c̣n có nghĩa là tác phước (puṇyakāraṇa) hay phước gia hành (puṇyaprayoga); và thí, giới cũng như tu đều là sự của phước nghiệp, bởi v́ việc thực hiện chúng cũng có ư nghĩa là sự chuẩn bị cho phước đức (khởi phước gia hành).

Có thuyết khác cho rằng nếu nói thật chính xác th́ phước nghiệp chính là thiện tư; và thí, giới cũng như tu đều là sự, tức là nền tảng để thực hiện loại tư này.

(Hỏi) Bố thí (dāna) có nghĩa là ǵ và chiêu cảm loại quả ǵ?

Tụng đáp:   

由此捨名施  謂為供為益

身語及能發  此招大富果.

[Do xả nên gọi là thí,

V́ để cúng dường, để làm lợi ích.

Thân ngữ nghiệp và người phát nghiệp

Chiêu cảm quả đại phú.]

Luận:  Hiển nhiên bố thí có nghĩa là tất cả những ǵ được cho (xả, deya); tuy nhiên ở đây bố thí c̣n chỉ cho người cho. Người cho có thể là v́ sợ, v́ muốn được đáp lại, v́ tham (rāga), v.v.; v́ thế ở đây không bàn đến các nguyên nhân khác nhau của bố thí mà tác giả chỉ muốn tŕnh bày một cách vắn tắt rằng bố thí chính là người bố thí v́ người này muốn tỏ ḷng cung kính hay phụng sự (thuyết vi cúng ích ngôn).

(Hỏi) Như vậy th́ ai bố thí?

(Đáp) Chính là thân ngữ nghiệp và người phát khởi các nghiệp này. Một tập hợp (kalāpa) các tâm và tâm sở (cittacaita) tạo thành nguồn gốc của một nghiệp thuộc về thân hoặc ngữ: Chính tập hợp này và loại nghiệp này bố thí. Giống như một bài tụng đă nói: “Khi một người v́ tâm thiện (manas) mà bố thí những ǵ thuộc về ḿnh th́ người ta nói rằng chính các uẩn (skandhas) thiện đă bố thí.

Loại phước - nghiệp - sự thuộc về bố thí (dānamaya) mang lại quả đại phú quư.

Khi nói “phước - nghiệp - sự thuộc về (bao hàm, maya) bố thí” (thí loại phước) tức hàm ư bố thí là thể của phước - nghiệp - sự (thí loại phước); cũng giống như nói: “Nhà bằng cỏ” (tṛṇmayagṛha), “b́nh bằng lá” (diệp loại khí).

(Hỏi) V́ lợi ích ǵ mà phải bố thí?

Tụng đáp:   

為益自他俱  不為二行施.

[V́ lợi cho ḿnh, cho người, cho cả hai,

Và không chỉ lợi cho cả hai mà bố thí.]  

Luận:  Bố thí cho một tháp miếu (chế-đa, caitya) th́ không có lợi cho người khác nhưng lại có lợi cho người bố thí khi người này là một thánh giả (Ārya) chưa ly dục (avitarāga, avirakta, sarāga) hoặc một dị sinh ly dục hoặc chưa ly dục.

Bố thí của một thánh giả ly dục cho người khác - ngoại trừ trường hợp sự bố thí này cảm quả ngay trong đời sống hiện tại - th́ không có lợi cho thánh giả này bởi v́ thánh giả ly dục này đă vượt qua giới địa (Kāmadhātu) nơi mà quả dị thục của sự bố thí này có thể xảy ra trong đời sống kế tiếp. Sự bố thí này chỉ có lợi cho người khác.

Bố thí của một thánh giả chưa ly dục, của một dị sinh đă ly dục hoặc chưa ly dục, cho người khác th́ vừa lợi ḿnh vừa lợi người.

Bố thí của một thánh giả ly dục cho một tháp miếu - ngoại trừ trường hợp sự bố thí này cảm quả ngay trong đời sống hiện tại - th́ không có lợi cho bản thân thánh giả cũng như người khác. Sự bố thí này chỉ nhằm bày tỏ sự cung kính và biết ơn.

Trước đây có nói một cách tổng quát về sự bố thí chiêu cảm quả đại phú quư; nay sẽ tŕnh bày nguyên nhân sự khác nhau của quả bố thí.  

由主財田異  故施果差別.

[Do sự khác nhau về người bố thí, của bố thí và điền

Mà quả của bố thí khác nhau.]

 

Luận:  Sự bố thí khác nhau là do ba loại nhân: Người bố thí, của bố thí và điền; và v́ sự bố thí khác nhau nên quả cũng khác nhau.

(Hỏi) Người bố thí khác nhau như thế nào?

Tụng đáp:   

主異由信等  行敬重等施

得尊重廣愛  應時難奪果.

[Thí chủ khác nhau là do tín, v.v.;

Nếu bố thí với sự cung kính, v.v.

Sẽ được tôn trọng, vui sướng thọ dụng,

Thọ dụng đúng lúc, khó bị mất quả.]  

Luận:  Người bố thí (thí chủ, dānapati) là người thật tốt khi người này có ḷng tin, giới hạnh, sự hiểu biết (śruta), sự rộng lượng (tyāga), trí tuệ (prajñā), có tiết độ (alpecchatā), v.v..

Khi thí chủ tốt th́ sự bố thí cũng tốt; và khi sự bố thí tốt th́ quả của nó cũng tốt.

Một thí chủ như thế luôn luôn bố thí với sự kính trọng (satkṛtya), từ chính bàn tay của ḿnh (svahastena), đúng lúc cần thiết (kāle), và không làm tổn hại đến ai (parān anupahatya).

Một người nếu bố thí với sự kính trọng sẽ được người khác tôn trọng; nếu tự tay ḿnh bố thí sẽ cảm thấy vui sướng khi thọ dụng sự phú quư; nếu bố thí đúng lúc cần thiết sẽ đắc được các thứ thọ dụng vào lúc thích hợp chứ không phải vào lúc không thể thọ dụng; nếu bố thí mà không làm tổn hại người khác th́ các thứ thọ dụng sẽ không bị tổn hoại, không bị cướp đoạt, không bị lửa cháy, v.v..

Trên đây đă nó về trường hợp tối ưu của người bố thí và tại sao sự bố thí lại trở thành tối ưu nhờ hạng thí chủ này; tiếp theo là phần nói về vật được bố thí.  

財異由色等  得妙色好名

眾愛柔軟身  有隨時樂觸.

[Của bố thí khác nhau là do sắc, v.v.;

Và sẽ có được sắc đẹp, tiếng tốt,

Người khác yêu mến, thân thể mềm mại,

Lạc xúc tùy thời.]  

Luận:  Của bố thí thuộc loại tối ưu khi nó có đủ sắc, hương, vị, xúc.

(Hỏi) Với của bố thí như thế th́ người bố thí sẽ đắc được ǵ?

(Đáp) Người bố thí một vật có đủ màu sắc sẽ được xinh đẹp; bố thí một vật có đủ mùi hương sẽ được tiếng tốt khắp nơi, cũng giống như sự lan tỏa của một mùi hương; bố thí một vật có đủ các vị sẽ được vui vẻ, cũng giống như một vị ngọt; bố thí một vật có đủ sự xúc chạm sẽ có thân h́nh mềm mại, giống như vật quư giá là nữ nhân của Luân vương (Cakravartin) và tay chân chỉ có các loại xúc khả ái, tức nóng hay lạnh là tùy theo mùa (ṛtusukhasparśāni cāsyāngāni).

(Hỏi) Tính chất tối ưu của điền là ǵ?

Tụng đáp: 

田異由趣苦  恩德有差別.

[Điền khác nhau là do thú, khổ,

Ân, đức có khác nhau.]  

Luận:  Điền tối ưu là do thú. Thế Tôn đă nói: “Nếu bố thí bàng sinh th́ thọ quả lớn gấp trăm lần; nếu bố thí cho người phạm giới th́ thọ quả lớn gấp ngàn lần.”

Điền tối ưu là do khổ. Trong bảy loại phước - nghiệp - sự hữu y (aupadhika puṇyakriyāvastus) Thế Tôn đă kể đến sự bố thí cho người bệnh, cho người trông nom người bệnh, bố thí vào lúc giá rét, v.v.; và ngài c̣n nói: “Đối với người con trai hay con gái của gia đ́nh có bảy loại phước - nghiệp - sự hữu y này th́ người ta không thể nói được hạn lượng của các phước đức của họ.”

Điền tối ưu là do ân huệ. Đó là sự bố thí cho cha, cho mẹ, cho thầy, và những người có ơn khác; trong kinh Bổn Sinh (Jātaka) kể về câu chuyện của con gấu, con nai, v.v..

Điền tối ưu là do đức. Đức Thế Tôn nói: “Bố thí cho người có đức hạnh th́ thọ quả lớn gấp một trăm ngàn lần…”.

(Hỏi) Trong tất cả các sự bố thí, sự bố thí nào lớn nhất?

Tụng đáp:   

脫於勝菩薩  第八施最勝.

[Bố thí giữa các bậc giải thoát, của Bồ-tát,

Loại bố thí thứ tám là lớn nhất.]  

Luận:  Thế Tôn nói rằng sự bố thí của một người ly nhiễm (vitarāga, virakta) cho một người ly nhiễm khác chính là sự bố thí lớn nhất.

Hoặc đó là sự bố thí của một vị Bồ-tát v́ lợi lạc của tất cả chúng sinh; sự bố thí này mặc dù được thực hiện bởi một người chưa ly nhiễm đối với những người chưa ly nhiễm nhưng vẫn là một sự bố thí tối thắng.

Ngoài sự bố thí của Bồ-tát ra, c̣n có sự bố thí thứ tám trong tám loại bố thí mà Thế Tôn đă dạy.

(Hỏi) Tám loại này là ǵ?

(Đáp) Đó là (1) bố thí tùy chí (āsadya); (2) bố thí do sợ hăi (bố úy thí); (3) bố thí “v́ người khác đă bố thí cho ḿnh” (adān me dānam iti dānam) (Báo ân thí); (4) bố thí “để người khác bố thí cho ḿnh” (dāsyati, cầu báo thí); (5) bố thí “v́ cha ḿnh và ông nội ḿnh đă bố thí” (tập tiên thí, dattapūrraṃ me pitṛnhiś ca pitāmahaiś ceti dānam); (6) bố thí để đắc được cơi thiên (svargārtham, hy thiên thí); (7) bố thí để có tiếng (kīrtyartham, yêu danh thí); (8) bố thí để trang nghiêm tâm (cittālaṃkārārtham), để tư trợ tâm (cittaoariṣkārārtham), để trang bị cho Du-già (yogasaṃbhārārtham = yodanidānārtham), để đạt được mục đích tối thượng (uttamārthasya prāptate) (tức để đắc quả A-la-hán hay Niết-bàn).

(Hỏi) Bố thí tùy chí có nghĩa là ǵ?

(Đáp) Các luận sư đời trước giải thích: Đó là sự bố thí ngay tức khắc cho những ai ở gần đang đến với ḿnh.

Bố thí do sợ hăi là sự bố thí của một người khi thấy rằng vật được bố thí sắp bị hư hoại; người ta nghĩ “tốt hơn là nên bố thí vật này”.

Kinh (Madhyama, 47, 3) nói: “Có một quả báo không thể đo lường được của sự bố thí cho một người đang hướng đến quả Dự lưu (Dự lưu hướng, srotāpannaphalapratipannaka); và nếu bố thí cho một người đă đắc quả Dự lưu th́ quả báo càng khó đo lường hơn nữa.”

(Hỏi) Quả của sự bố thí cho những người không phải là thánh cũng không thể đo lường như vậy sao?

Tụng đáp:   

父母病法師  最後生菩薩

設非證聖者  施果亦無量.

[Cha, mẹ, người bệnh, pháp sư,

Bồ-tát ở lần sinh cuối cùng,

Mặc dù chưa chứng thánh quả

Nhưng quả bố thí vẫn không đo lường được.]  

Luận:  Năm hạng người trên mặc dù chỉ là dị sinh nhưng nếu cung phụng họ th́ vẫn có quả báo vô lượng.

Khi nói “Bồ-tát ở lần sinh cuối cùng” (antyajanman) là hàm ư “Bồ-tát trong đời sống cuối cùng” (caramabhavika).

(Hỏi) Pháp sư (dharmabhāṇaka) thuộc về hạng người nào? Và được kể vào loại điền nào?

(Đáp) Thuộc về ân điền; bởi v́ đây là người bố thí tuệ nhăn (prajñācakṣus) cho rất nhiều người bị vô minh che ám, là người khai thị (prakāśayitar) cho người khác điều ǵ là tốt (sama = dharma) và điều ǵ là xấu (viṣama = adharma), là người gây dựng pháp thân vô lậu. Nói tóm lại, đây là người thực hiện tất cả việc làm của một vị phật; và v́ thế là một người bạn lớn về mặt tinh thần (đại thiện hữu, mahākalyāṇamitra).

Muốn đánh giá sự nặng nhẹ của các nghiệp chúng ta cần phải bàn đến sáu nguyên nhân:  

後起田根本  加行思意樂

由此下上故  業成下上品.

[Hậu khởi, điền, căn bổn

Gia hành, tư, ư lạc;

Do chúng nhỏ hay lớn,

Mà nghiệp thành nhỏ, lớn.]  

Luận:  Hậu khởi có nghĩa là sau khi đă tạo nghiệp th́ cứ theo đó mà làm.

Điền là những ǵ ta làm cho tổn hại hoặc lợi ích.

Căn bổn (adhiṣṭhāna) là nghiệp đạo căn bổn.

Gia hành là thân nghiệp và ngữ nghiệp trước đó.

Tư (cetanā) là cái mà nhờ nó nghiệp đạo mới được thành tựu (niṣṭhā).

Ư lạc (āśaya) là các ư định như: “Ta nên làm cho họ điều này hoặc điều kia; ta sẽ làm điều này hoặc điều kia”.

Có khi nghiệp thuộc loại nặng chỉ v́ hậu khởi (pṛṣṭhaparigrahād eva), tức là khi nghiệp này tạo cho quả dị thục tính chất “nhất định sẽ xảy ra” (vipākanaiyamyāvasthānāt). Có khi nghiệp thuộc loại nặng chỉ v́ điền, như tội giết cha th́ nặng hơn tội giết hại. Có khi có điền như nhau nhưng một căn bổn nào đó (adhiṣṭhāna) làm cho nghiệp này nặng trong khi một căn bổn khác lại làm cho nghiệp này nhẹ; chẳng hạn như giết cha và mẹ là một tội nặng, nhưng nếu so sánh với tội này th́ tội trộm cắp của cha mẹ, nói dối với cha mẹ, v.v. lại trở thành không nặng. Về các trường hợp nghiệp nặng của gia hành, v.v., cũng được giải thích như vậy.

Khi tất cả các nhân đều lớn th́ nghiệp trở thành rất nặng; và khi các nhân đều nhỏ th́ nghiệp trở thành rất nhẹ. Trừ hai loại nặng và nhẹ này ra, các nghiệp trung gian đều không quá nặng và không quá nhẹ.

(Hỏi) Kinh nói nghiệp có hai loại là tạo tác nghiệp và tăng trưởng nghiệp; như vậy do nguyên nhân nào nghiệp được gọi là tăng trưởng?

Do năm loại nhân:  

由審思圓滿  無惡作對治

有伴異熟故  此業名增長

[Do thẩm tư, viên măn,

Không ố tác đối trị,

Có bạn và dị thục

Mà nghiệp được gọi là tăng trưởng.]

Luận:  Do thẩm tư là khi một nghiệp được tạo tác th́ không phải trước đó hoàn toàn không có tư, và cũng không phải tới lúc cuối cùng tư mới tạo tác.

Do viên măn có nghĩa là tất cả chúng sinh v́ tạo một ác hạnh hoặc ba ác hạnh mà bị đọa ác thú; và tạo một nghiệp đạo hoặc mười nghiệp đạo mà bị đọa ác thú. Nếu tạo tác đủ các số lượng như thế tức phải đọa vào ác thú; nếu chưa đủ th́ chỉ gọi là tạo tác chứ không phải tăng trưởng; nếu đă đủ th́ cũng được gọi là tăng trưởng.

Do không có ố tác và đối trị tức không có truy hối và không đối trị ác nghiệp.

Do có bạn là khi một nghiệp vốn đă bất thiện lại có thêm một pháp bất thiện đi kèm theo (akuśalam akuśalaparivāraṃ ca), như sự vui mừng sau khi đă tạo ác nghiệp.

Do dị thục là khi một nghiệp nhất định cho quả dị thục (vipākadāne niyatam).

Đối với thiện nghiệp cũng như vậy.

Các nghiệp không có tính chất trên chỉ là loại được tạo tác chứ không phải loại tăng trưởng.

(Hỏi) Ở phần trước có nói sự bố thí của một người chưa ly dục đối với tháp miếu (caitya) chỉ có lợi cho chính bản thân người này. Tuy nhiên, nếu không có ai thọ hưởng vật bố thí này th́ làm sao có được phước đức?

Tụng đáp:   

制多捨類福  如慈等無受.

[Bố thí chế đa là loại phước do xả,

Giống như tu từ, v.v., không có người thọ dụng.]

Luận:  Phước đức của sự bố thí có hai loại: (1) Phước đức do xả (tyāgānvaya) là loại phước đức có được từ hành động xả bỏ; (2) phước đức do thọ (paribhogāvaya) là loại phước đức có được từ việc người nhận bố thí thọ dụng vật bố thí.

Phước đức của việc bố thí tháp miếu là loại phước đức do xả.

(Hỏi) Nếu không có người nhận, làm thế nào sự bố thí này có thể sinh khởi phước đức?

(Đáp) Với vấn nạn trên, chúng tôi sẽ trả lời bằng cách hỏi lại rằng tại sao sự bố thí có thể sinh khởi phước đức khi có người nhận, và tại sao sự bố thí không thể sinh khởi phước đức khi không có người nhận.

(Giải thích) Bởi v́ trong trường hợp sau không có người nào được thỏa măn, được lợi ích từ sự bố thí này (kasya cid anugrahābhāvāt).

(Hỏi) Nếu sự thỏa măn của người nhận là điều kiện sinh khởi phước đức th́ sự tu tập các tâm vô lượng (tâm từ, v.v.) và sự tu tập chánh kiến (samyagdṛṣṭibhāvanā) không có phước đức sao.

V́ thế biết rằng sự bố thí tháp miếu vẫn có phước đức.

Trong sự tu tập tâm từ, mặc dù không có người nhận, không có người được thỏa măn nhưng đối với người tu tập tâm này th́ phước đức vẫn sinh khởi nhờ vào sức mạnh của chính loại tâm này. Như vậy, mặc dù một bậc hữu đức đă qua đời (abhyatīta) nhưng sự hiến cúng cho tháp miếu tự nó vẫn có phước đức nhờ vào sự thành tâm của người cúng dường (svacittād eva puṇyam).

(Hỏi) Có thể nói rằng các sắc nghiệp thuộc về sự cúng dường v́ kính lễ (dānamānakriyā) là không cần thiết không?

(Đáp) Không thể như vậy được. Bởi v́ sự thành tâm phát khởi các nghiệp này cường thắng hơn sự thành tâm của người chỉ trang nghiêm và bố thí về mặt tinh thân. Cũng giống như khi một người có ư định giết chết kẻ thù của ḿnh và mặc dù kẻ thù đă bị giết chết nhưng người này vẫn tiếp tục tạo tác các nghiệp thân, ngữ do ư định trên dẫn khởi khi nghĩ rằng: “Đây là kẻ thù của ta” - tức nghĩ rằng: “Kẻ thù này vẫn chưa chết” - và điều này vẫn mang lại nhiều điều không phải phước đức (phi phước) chứ không phải chỉ do khởi tâm. Như vậy, mặc dù bậc Đại sư không c̣n tồn tại nhưng phải khởi thân ngữ nghiệp kính lễ cúng dường th́ mới có được nhiều phước đức, chứ không phải chỉ khởi tâm là đủ.

(Hỏi) Gieo hạt giống của nghiệp bố thí vào ruộng tốt (thiện điền) th́ sẽ thu hoạch được loại quả đáng ưa; như vậy, nếu gieo vào một ruộng xấu (ác điền) th́ sẽ có quả không đáng ưa không?

Tụng đáp:   

惡田有愛果  種果無倒故.

[Ác điền vẫn có quả đáng ưa

V́ không có sự trái ngược giữa giống và quả.]  

Luận:  Nay thấy trên thế gian, hạt giống và quả ở ruộng không hề trái ngược nhau. Từ hạt giống nho (mạt-độ-ca, mṛdvīkā) sinh ra quả nho có vị ngọt; từ hạt giống cây Nimba (nhẫm-bà) sinh ra quả có vị đắng; chứ không phải do ảnh hưởng của đất ruộng mà giống và quả khác nhau. Như vậy, người bố thí dù gặp ác điền nhưng v́ phát tâm làm lợi ích cho người mà gieo giống bố thí th́ vẫn hoạch đắc loại quả đáng ưa chứ không phải loại không đáng ưa. Tuy nhiên, cũng do những khuyết điểm của đất ruộng mà có khi thu hoạch ít quả (như trường hợp bố thí phàm nhân, v.v.) hoặc có khi hoàn toàn không thu hoạch quả (như trường hợp bố thí hời hợt cho ngoại đạo, v.v.).

Trên đây đă nói về loại phước - nghiệp - sự thuộc về bố thí; tiếp theo là phần giải thích về loại phước - nghiệp - sự thuộc về giới.  

離犯戒及遮  名戒各有二

非犯戒因壞  依治滅淨等.

[Xa ĺa phạm giới và già tội

Gọi là giới; giới có hai loại.

Không bị hủy hoại v́ phạm giới và các nhân,

Dựa vào các pháp đối trị và tịch diệt.]  

Luận:  Các sắc pháp bất thiện được gọi là phạm giới; trong đó những tội tự nhiên (tánh tội) chính là những tội mà nếu phạm phải th́ gọi là phạm giới. Các tội thuộc loại “không vâng lời” (già tội) như ăn không đúng lúc (phi thời thực), v.v., tuy không phải thuộc loại tánh tội nhưng v́ chư phật khi đặt ra là có ư hỗ trợ chánh pháp và chúng sinh cho nên nếu phạm phải th́ vẫn gọi là phạm giới.

Xa ĺa cả tánh tội và già tội th́ gọi là giới. Giới có hai loại là biểu và vô biểu v́ đều có tự tánh là thân ngữ nghiệp; phần này đă được tŕnh bày sơ lược ở trước.

Nếu có đủ bốn đức th́ gọi là thanh tịnh; nếu trái lại th́ gọi là bất tịnh.

Bốn đức là (1) không bị hủy hoại v́ phạm giới - ở đây khi nói “phạm giới” là chỉ cho các sắc pháp bất thiện ở trên; (2) không bị hủy hoại v́ nhân của sự phạm giới - ở đây khi nói “nhân” là chỉ cho các phiền năo tham, v.v., và các tùy phiền năo (upakleśas); (3) dựa vào các pháp đối trị, như tứ niệm trụ (smṛtyupasthānas) bởi v́ các pháp này có khả năng đối trị sự phạm giới và các nhân; (4) nương vào pháp tịch diệt chứ không phải các đời sống ở cơi thiên (thắng sinh), tức là chỉ nương vào Niết-bàn, hướng đến Niết-bàn.

Có thuyết cho rằng có năm nhân làm cho giới được thanh tịnh: (1) Sự thanh tịnh của nghiệp đạo căn bổn (maulakarmapatha) [tức xa ĺa các ác đạo]; (2) sự thanh tịnh của các pháp đi kèm theo (quyến thuộc, sāmantaka) nghiệp đạo căn bổn [tức xa ĺa gia hành và các phương tiện giết hại, v.v.]; (3) không bị các loại tầm làm nhiễu loạn (vitarkānupaghāta); (4) sự giám sát nhờ vào niệm (smṛtyanuparigṛhītatva) [tức các niệm về phật, pháp, tăng có khả năng làm xa ĺa các nghiệp vô kư]; (5) sự chuyển hướng Niết-bàn (nirvāṇapariṇāmitatva).

Có thuyết nói rằng giới có bốn loại: (1) Bố úy giới, tức loại giới được thọ tŕ v́ sợ không có đủ các thứ cần thiết cho cuộc sống (bất hoạt úy), v́ sợ mang tiếng xấu (ác danh úy), v́ sợ bị trừng phạt (trị phạt úy), v́ sợ các ác thú (ác thú úy); (2) hy vọng giới (āśaṃsāśīla), tức loại giới được thọ tŕ v́ tham muốn các đời sống đáng ưa, các vật thọ dụng, tiếng khen; (3) thuận giác chi giới, tức loại giới được người có chánh kiến (samyagdṛṣṭi) thọ tŕ để được giải thoát; (4) thanh tịnh giới (pariśuddha), tức là loại giới v́ xa ĺa các nhiễm ô (nirmala) nên không c̣n các lậu hoặc (anāsrava, vô lậu).

Trên đây đă nói về giới; tiếp theo là nói về tu.

等引善名修  極能熏心故.

[Thiện đẳng dẫn gọi là tu

V́ có khả năng huân tập tâm.]

Luận:  (Hỏi) Khi nói thiền định (đẳng dẫn, samāhita) là để chỉ cho cái ǵ?

(Đáp) Đó là các pháp có tự tánh là định (samādhi, tam-ma-địa), là các pháp cùng hiện hữu với các pháp có tự tánh là định.

(Hỏi) Tại sao các pháp này có tên là tu (bhāvanā)?

(Đáp) V́ chúng huân tập tâm. Thiện pháp thuộc về định ảnh hưởng rất mạnh đến tâm bởi v́ chính tâm thâu nạp các phẩm tánh của loại thiện này; cũng giống như các hạt mè chịu ảnh hưởng của các bông hoa khi hấp thụ mùi hương của hoa (puṣpagandhamayīkaraṇāt).

(Hỏi) Ở trên có nói quả của sự bố thí bao gồm các sự thọ dụng lớn (mahābhoga); như vậy đối với giới và tu sẽ có những loại quả nào được chiêu cảm?

Tụng đáp: 

戒修勝如次  感生天解脫.

[Về căn bản giới và tu, theo thứ tự này

Chiêu cảm quả sinh thiên và giải thoát.]

Luận:  Nếu xét tự nền tảng (thắng) th́ giới có quả là sự sinh vào cơi thiên và tu có quả là sự giải thoát. Bố thí là có quả là cơi thiên nhưng giới mới là nguyên nhân căn bản của sự sinh thiên này. Sự giải thoát hay Niết-bàn có nhân của nó là sự tu tập; sự tu tập này, trên con đường đoạn trừ phiền năo (đoạn đạo, prahāṇamārga), có khả năng sinh khởi tức khắc sự xả ly các phiền năo; tuy nhiên giới cũng có góp phần vào việc này bởi v́ giới cũng có nghĩa là sự tịch tĩnh (śamatha) và sự nh́n thấy (vipaśyanā).

Kinh nói rằng có bốn hạng người có khả năng đắc được phước đức Phạm thiên (Phạm phước) là (1) những người cúng dường Như Lai tánh (Như Lai đà-đồ), xây dựng tháp miếu; (2) những người cúng dường chúng tăng bốn phương, kiến lập tự viện, bố thí vườn, y phục, đồ ăn, dụng cụ nằm ngồi, thuốc men; (3) những người có khả năng ḥa hợp chúng tăng bị ly gián; (4) tu tập tâm từ v.v. đối với tất cả chúng sinh.

(Hỏi) Loại Phạm phước này có hạn lượng như thế nào?

Tụng đáp:   

感劫生天等  為一梵福量.

[Chiêu cảm quả sinh thiên trong một kiếp, v.v.;

Đó là hạn lượng của một Phạm phước.]  

Luận:  Các luận sư đời trước nói rằng nhờ vào loại phước này mà có thể chiêu cảm đời sống ở cơi thiên trong một kiếp để thọ dụng phước lạc; và do quả được chiêu cảm này mà thọ hưởng phước lạc ngang với thọ lượng một kiếp của Phạm phụ thiên.

Các bộ phái khác có bài kệ rằng: “Người tin vào chánh kiến mà tu tập mười thắng hạnh th́ sinh khởi được Phạm phước v́ chiêu cảm lạc quả của cơi thiên trong một kiếp”.

Tỳ-bà-sa nói: “Phạm phước có hạn lượng ngang với loại phước đức đă được nói đến trong phần phân biệt các nghiệp chiêu cảm diệu tướng ở trên”. Chữ “đẳng” trong tụng văn nhằm để chỉ cho các chủ thuyết khác.

Trên đây đă nói về tài thí; tiếp theo là pháp thí:

法施謂如實  無染辯經等

[Pháp thí là biện giải đúng kinh điển, v.v.

Với một tâm không bị nhiễm ô.]

Luận:  Nếu có khả năng biện giải đúng đắn kinh điển với tâm không bị nhiễm ô khiến cho tất cả chúng sinh khi nghe được đều có thể hiểu rơ th́ gọi là pháp thí. V́ thế, nếu biện giải một cách sai lạc hoặc với một tâm nhiễm ô mong cầu lợi lạc (lābha), sự tôn kính (satkāra), danh tiếng (kīrti) tức đă hủy hoại phước đức to lớn đến với ḿnh.

Trên đây đă giải thích riêng về ba loại thiện pháp dựa vào sự phân tích ba phước - nghiệp - sự; ngoài ra thiện pháp c̣n được chia làm ba loại:  

順福順解脫  順決擇分三

感愛果涅槃  聖道善如次.

[Ba loại thuận phước, thuận giải thoát, và thuận quyết trạch,

Là các thiện pháp có thể chiêu cảm ái quả, Niết-bàn,

Thánh đạo theo thứ tự nói trên.]  

Luận:  Thuận phước phần (puṇyabhāgīya) là loại thiện pháp có khả năng chiêu cảm quả dị thục đáng ưa. 

Thuận giải thoát phần (mokṣabhāgīya) là loại thiện pháp, sau khi sinh khởi, đă trở thành pháp nhập diệt (parinirvāṇa). Bất kỳ người nào, khi nghe giảng về những khuyết điểm của luân hồi (saṃsāra), về vô ngă, về các phẩm tính của Niết-bàn, mà lông trên người dựng đứng và chảy nước mắt th́ nên biết rằng người này đă thành tựu thiện căn thuận giải thoát phần; cũng giống như khi trông thấy mầm mộng sinh trưởng vào lúc có mưa tức biết rằng đă có gieo hạt trong các lỗ đất (khalabila) ở đó.

Thuận quyết trạch phần (nirvedhabhāgīya) là bốn pháp noăn (uṣmagatas), v.v.; phần này sau này sẽ được tŕnh bày chi tiết hơn.

(Hỏi) Người đời có nói đến sự viết chữ (thư), sự vẽ hoặc điêu khắc (ấn), sự tính toán (toán), sự làm văn (văn), sự đếm (sổ); như vậy tự thể của các loại này là ǵ?  

諸如理所起  三業并能發

如次為書印  算文數自體.

[Tất cả đều được sinh khởi đúng pháp

Bởi ba nghiệp và “năng phát”.

Tuần tự làm tự thể của thư pháp, ấn pháp, 

Toán pháp, văn pháp và sổ pháp.]

Luận:  Nói “khởi đúng pháp” có nghĩa là do chính gia hành mà sinh khởi; “ba nghiệp” là thân, ngữ và ư; “năng phát” là khả năng phát khởi ba loại nghiệp này. Các pháp trên, tùy theo từng điều kiện riêng, chính là các pháp thọ, tưởng, v.v..

Trong số năm pháp này, thư pháp và ấn pháp lấy thân nghiệp và năm uẩn có khả năng phát khởi thân nghiệp làm tự thể.

Toán pháp và văn pháp lấy ngữ nghiệp và năm uẩn có khả năng phát khởi ngữ nghiệp làm tự thể.

Sổ pháp lấy ư nghiệp và bốn uẩn có khả năng phát khởi ư nghiệp làm tự thể bởi v́ chỉ có ư tư mới có khả năng tính đếm.

Sau đây là phần tŕnh bày sơ lược về các tên gọi khác nhau của các pháp:  

善無漏名妙  染有罪覆劣

善有為應習  解脫名無上.

[Pháp thiện vô lậu gọi là diệu;

Pháp nhiễm ô gọi là hữu tội,

Hữu phú hoặc liệt;

Pháp thiện hữu vi gọi là ưng tập;

Pháp giải thoát gọi là vô thượng.]

Luận:  Các thiện pháp vô lậu được gọi là diệu; các pháp nhiễm ô c̣n có tên là “có tội”, “ngăn che” (hữu phú), “yếu liệt”. Căn cứ vào hai loại diệu pháp và liệt pháp th́ có thể biết được các pháp thuộc loại trung b́nh v́ thế tụng văn không nói đến.

Các thiện pháp hữu vi c̣n gọi là “nên tu” (ưng tập); trái với các pháp này th́ gọi là “không nên tu”.

(Hỏi) Tại sao các pháp vô vi không được gọi là “nên tu”?

(Đáp) V́ các pháp này không thể được tu tập thường xuyên để tăng trưởng; hơn nữa sự tu tập sẽ tạo ra quả trong lúc pháp vô vi không có quả.

Giải thoát Niết-bàn c̣n được gọi là vô thượng v́ không có một pháp nào khác có thể vượt trội hơn Niết-bàn vốn là một pháp thuần thiện, thường hằng và vượt lên trên tất cả các pháp khác. Tất cả các pháp c̣n lại đều có thể bị pháp khác vượt qua. 

 

 

previous.png      Hết Chương 4b      next.png

ĐẦU TRANG | C1 | C2a | C2b | C3a | C3b | C4a | C4b | C5 | C6 | C7 | C8 | C9

 

 

 

[ TRANG CHỦ | KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

 

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0