* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ | KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

LUẬN CÂU-XÁ
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân
Hán dịch Huyền Trang

Việt dịch: Đạo Sinh

--o0o--

Chương 4a : Phân biệt nghiệp

Phần 12

Phần trước đă giải thích những sự khác nhau của hữu t́nh thế gian (sattvaloka) và khí thế gian (bhājanaloka); phần này sẽ nói về nguyên nhân sinh khởi những sự khác nhau này.  

世別由業生  思及思所作

思即是意業  所作謂身語.

[Sự khác nhau của thế gian là do nghiệp sinh

Đó chính là tư và những ǵ tư tạo ra.

Tư là ư nghiệp;

Những ǵ tư tạo ra là thân nghiệp, ngữ nghiệp.]

Luận: Không phải do trời (īśvara) cố ư (buddhipūrvaka) tạo ra những sự khác nhau này mà là do nghiệp (karman) của chúng sinh sinh khởi.

(Hỏi) Nếu vậy, tại sao các nghiệp sinh khởi cùng thời lại vừa có các vật khả ái (ramya) như cây nghệ, cây chiên đàn, v.v., vừa có các thân h́nh (āśraya) mang những tính chất hoàn toàn trái ngược lại?

(Đáp) Bởi v́ nghiệp dẫn của chúng sinh vốn có cả thiện và ác (vyāmiśrakārin) nên mới sinh ra thân h́nh tương tợ như mụt nhọt và có các chất bất tịnh chảy ra qua chín lỗ; đồng thời để làm cân bằng những điểm không vừa ư trên đây, nghiệp lại tạo ra các thứ khả ái để thọ hưởng như màu sắc, h́nh dạng, mùi vị và các cảm giác. Tuy nhiên đối với chư thiên, v́ chỉ tạo các nghiệp thiện nên cả thân h́nh và các thứ thọ hưởng ở bên ngoài đều khả ái như nhau.

(Hỏi) Nghiệp là ǵ?

(Đáp) Kinh (Anguttara, iii. 415) nói có hai loại nghiệp là tư (cetanā) và hành động sau khi có ư muốn (tư dĩ nghiệp). Hành động sau khi có ư muốn này tụng văn gọi là “những ǵ tư tạo ra” (cetayitvā, tư sở tác).

Hai loại nghiệp này lại chia làm ba loại là thân nghiệp, ngữ nghiệp và ư nghiệp.

(Hỏi) Làm thế nào để lập thành ba nghiệp này? Phải dựa vào sở y (āśraya), tự tánh (svabhāva), hay nhân dẫn khởi (samutthāna, đẳng khởi) của nghiệp?

(Luận chủ) Tại sao lại hỏi như vậy?

(Đáp) Bởi lẽ nếu dựa vào sở y th́ chỉ có một loại nghiệp v́ tất cả các nghiệp đều nương vào thân. Nếu căn cứ vào tự tánh th́ cũng chỉ có một loại là ngữ nghiệp (vākkarman) bởi v́ trong ba loại thân, ngữ và ư chỉ có ngữ là hành động có tự tánh (nghiệp). Nếu căn cứ vào nguyên nhân dẫn khởi (đẳng khởi) th́ chỉ có ư nghiệp bởi v́ tất cả các nghiệp đều bắt nguồn từ tâm.

Các luận sư Tỳ-bà-sa nói rằng cả ba loại nghiệp theo thứ tự trên được lập thành do ba nhân là sở y, tự tánh, và nhân dẫn khởi.

Tư chính là ư nghiệp; những ǵ sinh khởi từ tư, tức loại nghiệp sau khi có ư muốn, chính là thân nghiệp và ngữ nghiệp.

(Hỏi) tự tánh của ba loại nghiệp này là ǵ?

Tụng đáp:

此身語二業  俱表無表性.

[Hai nghiệp thân và ngữ

Đều có tánh là biểu và vô biểu.]

Luận: Thân nghiệp và ngữ nghiệp đều thuộc biểu (vijñāpti) và vô biểu (avijñāpti); v́ thế ta có thân biểu, ngữ biểu, thân vô biểu và ngữ vô biểu.

身表許別形  非行動為體

以諸有為法  有剎那盡故

應無無因故  生因應能滅

形亦非實有  應二根取故

無別極微故  語表許言聲.

[Thân biểu chỉ là h́nh

Không phải là hành động

V́ các pháp hữu vi

Đều là sát-na diệt;

(Nếu không) Không có pháp nào diệt mà không có nhân

Và sinh nhân cũng sẽ là diệt nhân.

H́nh cũng không thực hữu

V́ (nếu thực hữu) sẽ được hai căn nắm bắt

Và v́ không có riêng cực vi.

Ngữ biểu là ngôn thanh.]  

Luận: Thân biểu chính là các h́nh dạng của thân sinh khởi nhờ có lực của tư.

Theo một bộ phái khác (Vātsīputrīyas, Chánh lượng bộ), thân biểu là sự chuyển dịch (gati) bởi v́ thân biểu xảy ra khi có sự chuyển động (iñjita?) chứ không phải khi không có chuyển động.

(Luận chủ) Không phải như vậy; bởi v́ tất cả các pháp hữu vi đều có tính chất sát-na (kṣaṇa).

(Vātsīputrīya) Nói như vậy là hàm ư ǵ?

(Luận chủ) Sát-na (kṣaṇa) có nghĩa là hủy diệt ngay lập tức sau khi đă đắc thể (ātmalābhādanamtaravināśī); pháp có tính chất sát-na (kṣṇika, hữu sát-na) là pháp (dharma) có sát-na, tức có tính chất hủy diệt ngay lập tức sau khi đắc thể này; cũng giống như khi nói “người gậy” (daṇḍika) là để chỉ cho người có chống gậy.

Tất cả các pháp hữu vi vừa đắc tự thể th́ đă diệt ngay; nếu sinh ở chỗ này th́ cũng diệt ngay ở chỗ này chứ không thể chuyển từ chỗ này sang chỗ khác v́ thế thân biểu không phải là sự chuyển động.

(Vātsīputrīya) Nếu tất cả các pháp hữu vi đều có tính chất sát-na th́ chúng tôi sẽ thừa nhận rằng chúng không chuyển dịch.

(Luận chủ) Các pháp hữu vi có tính chất sát-na bởi v́ chúng hủy diệt ngay và v́ sự hủy diệt này xảy ra một cách tự nhiên (ākasmika); sự hoại diệt này không phát xuất từ bất cứ điều ǵ cần có (akasmādbhava); và không phụ thuộc bất kỳ nguyên nhân nào cả (ahetuka). Bởi v́ (1) nếu phụ thuộc vào nhân th́ đó phải là quả, là một cái ǵ đó được tạo tác (kārya); trong khi sự hủy diệt (nāśa, vināśa) là sự không hiện hữu (abhāva) th́ làm sao có thể nói sự không hiện hữu này là “cái được tạo tác”? V́ thế sự hủy diệt không phụ thuộc vào một nhân (akāryatvādabhāvasya); (2) v́ sự hủy diệt không phụ thuộc vào nhân nên pháp hữu vi diệt ngay khi sinh ra; nếu nó không hủy diệt ngay th́ về sau nó cũng sẽ không diệt bởi v́ nó vẫn là pháp trước đó; v́ thế nếu các ông đă thừa nhận pháp hữu vi diệt th́ phải thừa nhận là nó diệt ngay; (3) có thể các ông sẽ nói rằng pháp hữu vi có biến đổi và v́ thế nó sẽ diệt chậm hơn; tuy nhiên nếu một vật đă thay đổi, đă trở thành một vật khác, nhưng vẫn cho rằng nó chính là vật trước đó, mặc dù nay đă thay đổi các tính chất, th́ thật quá phi lư; (4) có phải các ông sẽ nói rằng không có cách nhận thức nào (pramāṇa, lượng) chắc chắn (gariṣṭha) hơn kinh nghiệm trực tiếp (hiện lượng, dṛṣṭa, prayakṣa) và thế gian đều công nhận củi diệt là nhờ ḥa hợp (saṃyoga) với lửa cho nên thật sai lầm khi nói rằng tất cả các vật đều diệt mà không cần nhân? Nếu nghĩ như vậy th́ những nhận xét trên đây cũng đủ để trả lời các ông; tuy nhiên, thế gian thật ra không thể nhận thức trực tiếp sự hủy diệt của củi do lửa gây ra. Nếu nghĩ rằng củi diệt là nhờ ḥa hợp với lửa bởi v́ khi sự ḥa hợp này xảy ra chúng ta không c̣n thấy được củi nửa th́ lập luận của các ông chỉ dựa trên suy luận (tỷ lượng) chứ không phải là chứng cứ trực tiếp; và lư lẽ trên sẽ không c̣n có giá trị. Sự kiện chúng ta không c̣n thấy củi được nữa sau khi ḥa hợp xảy ra có thể giải thích theo hai cách: (1) Có thể củi diệt là do sự ḥa hợp; hoặc (2) có thể tự thân củi bị diệt liên tục và sinh trở lại liên tục trong các điều kiện thông thường nhưng cuối cùng khi có sự ḥa hợp với lửa th́ đă ngừng sinh khởi trở lại. Các ông đă từng thừa nhận sự hủy diệt của lửa có tính cách tự nhiên (ākasmika). Khi lửa không c̣n được nh́n thấy sau khi ḥa hợp với gió các ông đă thừa nhận rằng sự ḥa hợp này không phải là nhân gây ra sự hủy diệt của lửa; các ông cũng thừa nhận rằng do sự ḥa hợp này mà lửa đă ngừng sinh trở lại. Cũng giống như trường hợp của tiếng chuông; khi đặt tay lên chuông th́ chính bàn tay đă làm ngưng lại sự tái sinh của tiếng chuông; bàn tay không hủy diệt tiếng chuông, không hủy diệt pháp mà các ông đă thừa nhận là có tính chất sát-na. V́ thế đây mới chính là lư luận quyết định được vấn đề này.

(Vātsīputrīya) V́ lư do ǵ các ông chủ trương sát-na diệt?

(Luận chủ) Ở trên chúng tôi đă nói rằng sự hủy diệt, vốn là sự không hiện hữu cho nên không do nhân gây ra. Chúng tôi cũng nói rằng nếu sự hủy diệt là quả của một nhân th́ sẽ không có một pháp nào bị diệt mà không có nhân.

Nếu diệt xuất phát từ một nhân cũng giống như sinh th́ không bao giờ diệt xảy ra mà lại không có nhân. Trong khi đó mọi người đều thừa nhận rằng sự nhận biết (giác, buddhi), ngọn lửa, âm thanh - vốn là các pháp thuộc về sát-na - diệt mà không cần phải có nhân gây ra sự diệt này. V́ thế sự hủy diệt của củi, v.v., đều có tính chất tự nhiên.

(Thắng luận) Sự nhận biết trước đó (tiền giác) bị diệt là do sự nhận biết sau đó (hậu giác); và âm thanh trước đó diệt là v́ sự xuất hiện của âm thanh sau đó.

(Luận chủ) Thế nhưng cả hai sự nhận biết này đều không thể cùng thời (asamavadhāna = āyugapadbhava). Các tâm trái ngược nhau như nghi và tín, lạc và khổ, ái và sân, không thể gặp nhau; và các tâm không trái ngược nhau cũng thế. Giả sử như chúng có thể gặp nhau đi nữa nhưng khi một tâm hoặc một thanh yếu liệt (apaṭu; bất minh liễu) đi ngay sau một tâm hoặc một thanh mạnh hơn (minh liễu) th́ làm thế nào các pháp yếu liệt lại có thể hủy diệt các pháp cùng loại nhưng mạnh hơn?

Có chủ trương (Sthavira Vasubandhu) cho rằng ngọn lửa diệt là do sự không hiện hữu của một loại nhân gọi là “trụ” (avasthānahetvabhāvāt); tuy nhiên đă không hiện hữu th́ không thể là nhân (kāraṇa).

Theo Tỳ-bà-sa, ngọn lửa diệt là do pháp (dharma) và phi pháp (adharma) [tức do công dụng và không có công dụng]; tuy nhiên giải thích này không thể chấp nhận được bởi v́ nếu như vậy th́ pháp và phi pháp sẽ là các nhân của cả sinh và diệt: Tức pháp sẽ làm cho ngọn lửa sinh và làm cho ngọn lửa diệt tùy theo ngọn lửa này có lợi (anugrahāya) hay không có lợi (apakārāya); và phi pháp cũng vậy, tức cũng tùy theo ngọn lửa này không có lợi hay có lợi. Trong khi đó người ta không thể thừa nhận pháp và phi pháp đều khởi tác dụng và ngưng khởi tác dụng ở mỗi sát-na (kṣaṇa eva kṣaṇe).

Mặt khác, sự hủy diệt nếu được giải thích theo cách trên sẽ có giá trị đối với tất cả các pháp hữu vi; v́ thế không cần phải tiếp tục theo đuổi cuộc tranh luận này. Các ông không có quyền nói rằng củi diệt là do sự ḥa hợp giữa nó và lửa. 

Nếu c̣n tiếp tục chấp rằng sự hủy diệt của củi, v.v., có nhân là sự ḥa hợp của củi với lửa th́ buộc ḷng phải chấp nhận sinh nhân ở cùng thời điểm với diệt nhân.

Sự nấu chín (pāka) tức là sự ḥa hợp với lửa, cho ra các quả (pākaja) khác nhau là các màu sắc càng ngày càng sẩm đậm hơn. Loại nhân cho ra loại màu thứ nhất cũng chính là nhân hủy diệt loại màu này; hoặc ít ra - nếu các ông bác bỏ rằng đó đă là một sự ḥa hợp mới với lửa v́ lửa là pháp thuộc sát-na diệt - th́ loại nhân hủy diệt loại màu thứ nhất cũng tương tợ như loại nhân sinh ra loại màu này. Trong khi đó lại không thể chấp nhận một nhân sinh ra một quả lại chính là nhân, hoặc là một nhân tương tợ, hủy diệt quả này.

Có phải các ông sẽ nói rằng các ngọn lửa tiếp nối nhau v́ có dài, ngắn, to, nhỏ khác nhau cho nên không thể nào chấp nhận kết luận của chúng tôi? Nếu vậy chúng tôi sẽ đưa ra một thí dụ khác. Qua hành động kéo dài của tro, tuyết, các chất dễ cháy, mặt trời, nước và đất đều có các “kết quả của sự nấu chín” lần lượt sinh khởi và biến mất; nhưng trong khi đó các ông lại không kể đến tính chất sát-na diệt trong số các yếu tố khác nhau của sự nấu chín này.

Ở đây có luận sư (Saṃmitīya?) sẽ hỏi rằng nếu sự ḥa hợp với lửa (agni) không phải là nhân hủy diệt nước th́ tại sao nước vẫn diệt khi bị đun nóng.

Bởi v́ có sự ḥa hợp với lửa và nhờ có công năng của lửa mà thành phần lửa (tejodhātu, hỏa giới) - vốn hiện hữu trong nước - đă tăng trưởng; và v́ sự tăng trưởng này mà khối lượng nước bị giảm dần (kṣāmakṣāma) qua mỗi lần tái sinh cho đến khi hoàn toàn giảm hẳn (abhikṣāmatā) và ngừng sinh khởi trở lại (na punaḥ saṃtānaṃ saṃtanuta iti). Đó là những ǵ mà sự ḥa hợp với lửa đă tác động đến nước.

Sự hủy diệt của các pháp xảy ra một cách tự nhiên. Chúng tự hủy diệt bởi v́ thể tánh của chúng là diệt (bhanguratvāt, hoại tánh). V́ chúng tự diệt nên chúng diệt khi sinh; và v́ chúng diệt khi sinh nên chúng thuộc về sát-na diệt (kṣaṇika). Do đó không hề có sự chuyển động hoặc chuyển dịch mà chỉ có sự sinh khởi ở một chỗ khác vào sát-na thứ hai của chuỗi tương tục: Cũng giống như trường hợp ngọn lửa thiêu rụi rừng rậm mà bộ phái đối nghịch của chúng tôi đă dẫn chứng. Chủ trương có sự chuyển động là một quan niệm hoàn toàn sai lầm (abhimāna). Bởi v́ thân biểu không phải là sự chuyển động hay chuyển dịch mà chỉ là h́nh dạng (saṃsthāna).

Tuy nhiên, Kinh bộ nói rằng h́nh không thực hữu, không phải là thực pháp (anyad dravyam). 

Theo Tỳ-bà-sa th́ sắc xứ (rūpāyatana) một mặt là hiển sắc (varṇarūpa) như màu xanh, v.v., và một mặt lại là h́nh sắc (saṃsthānarūpa) như dài, ngắn, v.v.. Đối với Kinh bộ h́nh không thực sự hiện hữu (dravyasat) mà chỉ là giả hữu (prajñapti).

Khi một khối lượng lớn (bhūyasi, bahurate) hiển sắc sinh khởi theo cùng một phía (ekadigmukhe) th́ ta giả lập khối lượng hiển sắc này là “dài”; nếu đem so sánh mà khối lượng hiển sắc này nhỏ hơn th́ lại giả lập là “ngắn”. Khi khối lượng này sinh khởi về cả bốn phía th́ lại giả lập là “vuông”; nếu sinh khởi ở tất cả các phía, các nơi th́ lại giả lập là “tṛn”. Về các loại h́nh sắc khác như cao, thấp, v.v., cũng được giải thích như vậy: Khi một khối lượng lớn các biểu sắc sinh khởi từ dưới lên trên th́ được giả lập là “cao”, v.v.. V́ thế h́nh không phải là một thực pháp, không phải là một sắc pháp (rūpa).

[Ở đây nảy sinh ba vấn đề.]

(1) Nếu h́nh là thực pháp th́ sắc sẽ được nắm bắt bởi cả hai căn; và nếu nh́n thấy h́nh qua nhăn căn hoặc xúc chạm qua thân căn ta đều biết là dài, v.v.. Như vậy, nếu h́nh dài này là một thực pháp th́ nó sẽ được cả hai căn tri nhận; trong khi theo định nghĩa của kinh th́ sắc xứ chỉ được tri nhận bởi nhăn căn. Ở đây chắc chắn Tỳ-bà-sa sẽ trả lời rằng xúc không tri nhận h́nh dài này mà chỉ tri nhận sự mềm, cứng, v.v.; và sở dĩ có được ư tưởng về h́nh dài là nhờ dựa vào sự tương quan với mềm, cứng, v.v., theo một cách thế nào đó chứ không phải h́nh dài này là một phần của xúc xứ (spraṣṭavyāyatana). Quan niệm này rất chính xác; tuy nhiên đối với sắc xứ th́ mọi sự cũng xảy ra như vậy. Có nghĩa là h́nh dài này không được nh́n thấy mà người ta chỉ giả lập loại hiển sắc được nh́n thấy (như màu xanh, v.v.) hoặc được xúc chạm (như mềm, v.v.) là dài, v.v., theo một cách thế nào đó.

(Tỳ-bà-sa) Khi có một khái niệm về h́nh dài sau khi đă xúc chạm th́ đó không phải là chúng ta đă tri nhận được h́nh sắc nhờ vào xúc mà thật ra chúng ta chỉ nhớ lại h́nh sắc này bởi v́ h́nh sắc này tương ưng với vật được xúc chạm (sāhacaryāt). Cũng giống như khi nh́n thấy màu sắc của lửa th́ chúng ta nhớ lại cái nóng (của xúc); hoặc khi ngửi mùi hương của hoa th́ nhớ lại màu sắc của hoa.

(Kinh bộ) Qua hai trường hợp mà các ông vừa dẫn chứng, người ta sẽ nghĩ rằng màu sắc gợi nhớ vật được xúc chạm và mùi hương gợi nhớ màu sắc của vật được nh́n thấy bởi v́ các pháp làm nhân đều gắn bó với nhau (avyabhicārāt), tức lửa th́ luôn luôn nóng và một mùi hương nào đó luôn luôn thuộc về một loài hoa như thế. Thế nhưng sự xúc chạm (như mềm, cứng, v.v.) không nhất định phải gắn bó (niyata) với một h́nh sắc nào đó th́ làm thế nào sự cảm nhận của xúc (thủ xúc) có thể gợi lên sự nhớ lại về một h́nh sắc như thế? Nếu sự nhớ lại này có thể sinh khởi mà không cần có sự kết hợp (đồng tụ) nhất định giữa xúc và h́nh sắc th́ ta cũng có thể nhớ lại màu sắc sau khi đă xúc chạm; hoặc là h́nh sắc vẫn sẽ không thể xác định được sau sự cảm nhận của xúc, cũng giống như hiển sắc đă không được xác định sau sự cảm nhận của xúc; có nghĩa là người ta sẽ không thể biết được h́nh sắc (liễu h́nh) sau khi xúc chạm. Thế nhưng sự thật lại hoàn toàn khác hẳn; v́ thế không nên nói rằng nhờ sự cảm nhận của xúc nên nhớ lại h́nh sắc.

(2) Trong một tấm thảm có nhuộm màu (citrāstaraṇa) người ta nh́n thấy rất nhiều h́nh. Như vậy, nếu theo các ông th́ sẽ có nhiều sắc (rūpa, thực h́nh) ở cùng một chỗ (ekadeśa, nhất xứ); tuy nhiên điều này không thể xảy ra, cũng giống như trong trường hợp của màu sắc (hiển sắc). [Nếu h́nh sắc có thực thể; có nghĩa là nếu h́nh sắc là thành phần của một đường chỉ dài trong tấm thảm th́ nó không thể cùng lúc là thành phần của một đường chỉ ngắn.]

(3) Tất cả các thực sắc, tức là loại có ngăn ngại (hữu đối, sapratigha), như màu xanh, v.v., đều chứ các cực vi có thực thể và thuộc về một loại nào đó; chẳng hạn hiển sắc (màu xanh, v.v.) nhất định hiện hữu trong tám cực vi. Nhưng trong khi đó lại không hề có loại cực vi dài. Khi một khối lượng dài bị giảm dần th́ đến một sát-na nào đó chúng ta sẽ không c̣n có khái niệm dài về nó nữa mà lúc đó chỉ có khái niệm ngắn; như vậy khái niệm này không xuất phát từ một sắc pháp (rūpa) hiện hữu trong một sự vật; và cái mà chúng ta giả lập là dài chỉ là một số các thực pháp (dravya), tức các cực vi thuộc hiển sắc, được sắp xếp theo một cách nào đó mà thôi.

Nếu các ông chấp rằng các biểu hiện dài, ngắn, v.v., có chứa các cực vi thuộc h́nh sắc (saṃsthānaparamāṇu) được bày bố theo một cách nào đó, và những cực vi nào không thuộc loại “h́nh sắc” sẽ không thể được giả lập là dài, ngắn, v.v.; th́ sự chấp trước này chỉ là một sự lập lại khẳng định trước đây của các ông mà không để ư ǵ đến những luận chứng được tŕnh bày ở trên. Thật ra, nếu sự hiện hữu của các cực vi riêng về h́nh sắc được lập thành th́ các ông cũng có thể chấp rằng khi được nối kết, hoặc bày bố theo một cách nào đó chúng sẽ tạo thành một h́nh dài, ngắn, v.v.; thế nhưng trong thực tế không hề có loại cực vi này hiện hữu giống như sự hiện hữu của các cực vi hiển sắc th́ làm thế nào có thể nối kết và bày bố chúng?

(Hữu bộ) Nếu h́nh sắc không khác với hiển sắc, nếu h́nh sắc không phải là pháp khác với một sự bày bố nào đó của hiển sắc th́ lẽ ra h́nh sắc không thể đổi khác khi mà hiển sắc không đổi khác; nhưng trong thực tế những chiếc b́nh cùng màu sắc lại có rất nhiều h́nh sắc khác nhau.

(Kinh bộ) Chẳng phải chúng tôi đă nói là người ta đă giả lập dài, ngắn, v.v., đối với một số thực pháp được bày bố theo một cách nào đó? Những con kiến, mặc dù đều giống nhau, nhưng vẫn có thể đi theo một đường thẳng hoặc một đường tṛn để cho ra các h́nh khác nhau. Đối với những chiếc b́nh cũng thế: H́nh của chúng có thể khác nhau nhưng không nhất thiết màu của chúng phải khác nhau.

(Hữu bộ) Nhưng trong trường hợp ở trong bóng tối và cách xa, người ta chỉ nh́n thấy h́nh của một vật như cái cột, con người, v.v., mà không nh́n thấy màu sắc của nó. Như vậy h́nh sắc nhất định phải hiện hữu ở ngoài hiển sắc.

(Kinh bộ) Thật ra trước tiên người ta vẫn nh́n thấy hiển sắc nhưng không rơ ràng (avyakta); sau đó nhờ có ư thức mới h́nh thành ư tưởng về h́nh sắc, cũng giống như trường hợp h́nh thành các ư tưởng về một hàng, một đoàn quân sau khi đă nh́n thấy một cách không rơ ràng những con chim, con kiến, con voi, v.v., và nghĩ rằng “đoàn quân này xếp hàng theo h́nh tṛn”. Hoặc cũng có thể người ta không phân biệt được rơ ràng màu sắc cũng như h́nh dạng (anirdhāryamānapariccheda) mà chỉ biết được qua ư thức đó là một khối (saṃghātamātra, tổng tụ).

(Hữu bộ) Kinh bộ các ông cứ măi bác bỏ về sự chuyển dịch (gati) cũng như về h́nh (saṃsthāna); vậy th́ theo các ông, cái được gọi là “thân biểu” nhằm chỉ cho cái ǵ?

(Kinh bộ) Chúng tôi nói rằng thân biểu chính là h́nh, v́ thế không giống Chánh lượng bộ; nhưng h́nh không phải là thực pháp v́ thế không giống Hữu bộ.

(Hữu bộ) Nếu các ông chấp rằng thân biểu không phải là thực pháp mà chỉ là h́nh hiện hữu như một giả pháp, th́ theo các ông thân biểu được lập thành bởi loại thực pháp nào?

(Kinh bộ) Thân nghiệp là loại nghiệp lấy thân làm cảnh (kāyālambanaṃ, kāyādhiṣṭhānaṃ karma); có nghĩa là tư (cetanā) đă thúc đẩy thân hành động (vartayati) theo nhiều cách thế khác nhau và tư xuất phát từ cánh cửa của thân cho nên được gọi là thân nghiệp. Các loại nghiệp khác đều được định nghĩa tùy theo thể tánh của chúng: [Ngữ nghiệp là loại nghiệp lấy ngữ làm cảnh (dhiṣṭhāna); ư nghiệp là nghiệp của ư (manas) hoặc là nghiệp tương ưng (saṃprayukta) với ư].

(Hữu bộ) Kinh nói rằng “nghiệp chính là tư và là ‘hành động sau khi có ư muốn’ (tư dĩ nghiệp)”. Như vậy nếu thân nghiệp và ngữ nghiệp đều là tư th́ có ǵ khác nhau giữa hai loại nghiệp vừa được kinh định nghĩa ở trên?

(Kinh bộ) Có hai loại tư. Trước tiên ở giai đoạn sơ khởi hay chuẫn bị (gia hành, prayoga) người ta có khởi lên một tư [và đây mới chỉ là một tư tâm sở (tư duy tư)] như “ta cần phải có một hành động như thế”; đây chính là loại mà Kinh gọi là tư nghiệp (cetanākarma), tức nghiệp chính là tư. Sau đó lại khởi lên một tư hành động, tức là loại tư thực hiện một hành động tương thích với những ǵ đă được mong muốn trước đó, làm chuyển động thân hoặc phát ra ngôn ngữ; đây chính là loại mà kinh gọi là “nghiệp sau khi có ư muốn” (cetayitvā karman, tư dĩ nghiệp).

(Hữu bộ) Nếu như vậy, biểu nghiệp nhất định không thực hữu bởi v́ theo chúng tôi thân ngữ cúng chỉ là tư và không có chỗ cho biểu (vijñapti) như là một sắc pháp (rūpa). Nếu biểu không thực hữu th́ cũng sẽ không có thêm vô biểu (avijñapti) thuộc dục giới [bởi v́ vô biểu thuộc Dục giới hoàn toàn tùy thuộc và biểu, tức các sắc pháp của thân nghiệp và ngữ nghiệp, chứ không đi kèm theo tâm (tùy tâm chuyển) giống như vô biểu thuộc Sắc giới]. Và từ đó sẽ nảy sinh rất nhiều vấn đề nan giải (saṃcarāsaṃvarābhāva, v.v).

(Kinh bộ) Vẫn có cách để giải quyết những khó khăn này. Chúng tôi có thể nói rằng vấn đề vô biều được tŕnh bày rất hợp lư theo tông phái chúng tôi. Chúng tôi thừa nhận hai loại tư có liên quan đến việc phát động thân ngữ chính là hai loại biểu nghiệp thuộc thân ngữ mà các ông chủ trương. Hai loại tư này - được gọi tên là thân nghiệp và ngữ nghiệp (kāyakarmasaṃśābdita) - có khả năng tạo ra một loại tư đặc biểu riêng của chúng và được gọi là vô biểu; th́ như vậy đâu c̣n vấn đề ǵ nan giải.

(Hữu bộ) Nếu vậy loại tư riêng biệt này phải đi kèm theo tâm (cittānuparivartin) cũng giống như loại vô biểu sinh khởi từ thiền định theo chủ trương của chúng tôi (samāhitāvijñaptivat); trong khi đó vô biểu thuộc Dục giới chỉ khởi trong khi ngủ, v.v.

(Kinh bộ) Không phải như vậy. Loại tư riêng biệt này được phát khởi bởi hai loại là thẩm quyết tư làm nguyên nhân xa và động phát tư làm nguyên nhân gần. Cho dù các ông có cho rằng biểu (vijñapti) thực hữu đi nữa th́ cũng phải tùy thuộc vào lực của tư để phát sinh vô biểu bởi v́ nó vốn có tánh tŕ độn (jaḍa).

Các luận sư Tỳ-bà-sa nói rằng h́nh sắc thực hữu và thân biểu chính là h́nh sắc.

Ngữ biểu chính là thanh, tức là loại thanh được phát âm (varṇātmaka).

Các tính chất của vô biểu được giải thích giống như ở trên.

Kinh bộ cũng nói rằng vô biểu không thực hữu bởi v́ (1) đó chỉ là sự không tạo ra một hành động sau khi đă phát thệ không làm hành động này (abhyupetya akaraṇamātratvāt); (2) được giả lập là pháp chỉ hiện hữu nhờ vào các đại chủng quá khứ (atītāni mahābhūtānyupādāya); trong khi đă là pháp quá khứ th́ không c̣n hiện hữu nữa; (3) không có thể tánh thuộc sắc pháp (rūpalakṣaṇābhāvāt); thể tánh của sắc là ngăn ngại (rūpayate), trong khi vô biểu th́ không đối ngại (apratigha, vô đối) cho nên không thể là sắc pháp.

Tuy nhiên Tỳ-bà-sa vẫn xác định sự hiện hữu của vô biểu.

說三無漏色  增非作等故.

[V́ kinh nói có ba loại sắc và sắc vô lậu,

V́ phước đức tăng, v́ có nghiệp đạo cho người không tạo tác, v.v.]

Luận: Bởi v́ kinh nói sắc pháp có ba loại: Tất cả các sắc pháp đều được bao hàm trong ba loại này (rūpasya rūpasaṃgrahaḥ): (1) Loại sắc có thể nh́n thấy và có ngăn ngại (hữu kiến hữu đối) [như các cảnh sắc được nh́n thấy]; (2) loại sắc không thể nh́n thấy nhưng có ngăn ngại (vô kiến hữu đối) [như con mắt, v.v.]; (3) loại sắc không thể nh́n thấy và cũng không có ngăn ngại (vô kiến vô đối); loại này chỉ có vô biểu sắc.

Kinh c̣n nói đến loại sắc vô lậu (anāsrava): “các pháp vô lậu là ǵ? - Tất cả các pháp quá khứ, vị lai, hiện tại… (cho đến) tất cả các thức quá khứ, vị lai, hiện tại thuộc về các sắc này và không sinh khởi thương giận, tất cả các pháp này đều là pháp vô lậu.” (Ekottarāgama, 2, 24).

Như vậy, ngoài vô biểu sắc ra không có một loại sắc nào không thể nh́n thấy hoặc không ngăn ngại, và cũng không có loại sắc nào có tánh vô lậu. [Bởi v́ thân nghiệp và ngữ nghiệp không thích hợp với những người đă nhập vào đạo đế (mārgasatyasamāpanna)].

Kinh c̣n nói về sự tăng trưởng phước đức (puṇyarvṛddhi): “Có bảy việc làm mang lại phước đức thuộc về sắc (hữu y thất phước nghiệp sự, aupadhika puṇyakriyāvast)… Khi một người có niềm tin (śrāddha), là con trai hoặc con gái ở trong gia đ́nh, có (samanvāgata) bảy loại phước đức này th́ dù đi, đứng, ngủ, hay thức phước đức vẫn tăng trưởng (abhivardhate) không ngừng (satatasamita), phước đức vẫn tiếp tục gia tăng (upjāyata eva puṇyam). Bảy loại phước đức thuộc về sắc này là ǵ?... Cũng giống như bảy loại phước đức không thuộc sắc (vô y) …”. Như vậy ngoài vô biểu ra, nhờ vào pháp nào khác mà phước đức có thể tăng trưởng khi tâm không phải thiện (anyacitta), hoặc khi ở trạng thái vô tâm?

Nếu vô biểu không hiện hữu th́ những người không tự tạo tác mà chỉ ra lệnh cho người khác tạo tác sẽ không tạo thành nghiệp đạo (karmapatha) bởi v́ ngữ nghiệp trong trường hợp sai khiến người khác (ājñāpanavijñapti) không thể tạo thành nghiệp đạo như sát, v.v.; thật vậy, loại hành động này chưa chánh thức tạo ra loại nghiệp được tạo tác (vị năng chánh tác sở tác). Ở đây người ta có thể nói rằng trong trường hợp nghiệp đă được tạo ra th́ hành động ra lệnh có trở thành nghiệp đạo không? Nhưng điều hiển nhiên là thể tánh của hành động này không hề bị thay đổi bởi việc thực hiện mệnh lệnh này.

Kinh lại nói: “Này các Bí-sô, các pháp thuộc về đối tượng ở bên ngoài của thức (bāhyamāyatanam, ngoại xứ), không thuộc mười một xứ c̣n lại, không thể nh́n thấy và không có đối ngại”. Trong đoạn kinh này, Thế Tôn không nói pháp xứ (dharmāyatana) là vô sắc. Nếu Thế Tôn không quán sát vô biểu, vốn cũng là sắc pháp và thuộc về pháp xứ (chứ không phải sắc xứ), th́ loại sắc pháp được bao hàm trong pháp xứ sẽ là cái ǵ? 

Nếu vô biểu không hiện hữu th́ thánh đạo sẽ không có tám chi bởi v́ ba chi chánh ngữ (samyagvāc), chánh nghiệp (samyakkkarmānta), chánh mạng (samyagājīva) không tương thích với định (samādhi). Nếu ở trạng thái định, hành giả có được ba chi này chính là nhờ ba chi này có thể tánh là vô biểu.

Nhưng ở đây người ta sẽ trả lời rằng kinh có nói: “Khi hành giả biết được như vậy, khi nh́n thấy được như vậy th́ chánh kiến chánh tư duy (samyaksaṃkalpa), chánh tinh tấn (samyagvyāyama), chánh niệm (samyaksmṛti), chánh định đều được tu tập cho đến khi viên măn; chánh ngữ, chánh nghiệp, và chánh mạng th́ đă được thanh tịnh từ trước.” V́ thế ba chi cuối cùng được xem như là biểu và được thành tựu trước định.

Tỳ-bà-sa nói rằng đoạn kinh trên không nhằm chỉ cho ba chi cuối cùng của đạo đế mà là chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng thuộc giai đoạn xả ly (vairāgya) đắc được nhờ vào thế gian đạo (laukikamārga). Tuy nhiên điều này cũng không cản trở việc chánh ngữ, v.v., không tạo thành một phần của đạo đế dưới dạng vô biểu.

Nếu vô biểu không hiện hữu th́ lẽ ra cũng không thể có loại luật nghi (saṃvara) biệt giải thoát (prātimokṣa) bởi v́ nếu sau khi thọ (samādāna) giới xong mà hành giả khởi tâm bất thiện hoặc vô kư (dị duyên tâm) th́ giới sẽ không c̣n tương tục để được gọi là Bí-sô hay Bí-sô-ni.

Kinh c̣n dạy rằng xa ĺa tội lỗi (virati; ly sát đẳng giới) là con đê ngăn chặn sự phạm giới. Một “sự không hiện hữu” (vô thể, abhāva) sẽ không thể là một con đê v́ thế sự xả ly tội lỗi là một thực pháp (avijñapti) chứ không chỉ là việc không phạm phải một hành động đă từ bỏ; và chính Kinh bộ cũng đă giải thích rất rơ điều này.

Trả lời của Kinh bộ: Trên đây đă có quá nhiều luận chứ khác nhau tuy nhiên vẫn chưa thể làm rơ được vấn đề, v́ thế chúng ta hăy lần lượt xem xét từng luận chứng một.

(1)                                Kinh dạy rằng sắc pháp có ba loại. Các luận sư Du-già (Yogācāras) nói rằng trong các tầng thiền (dhyānas) nhờ có lực của định (samādhi) cho nên có một sắc pháp (rūpa) sinh khởi và làm cảnh sở duyên của định (samādhiviṣaya = samādher ālambanam); có nghĩa là sắc pháp này được tri nhận bởi hành giả đang nhập định, chẳng hạn như việc quán sát bộ xương khi tu bất tịnh quán (aśubhabhāvanā). Loại sắc pháp này không được nh́n thấy bởi nhăn căn nên thuộc vô kiến; nó cũng không chiếm cứ một chỗ (chướng xứ) (deśānāvaraṇa) nào cả nên thuộc vô đối. Nếu các ông hỏi rằng làm thế nào một đối tượng của định lại có thể là một sắc pháp khi mà đối tượng này không c̣n có các tính chất thông thường của sắc pháp th́ các ông đă quên rằng vô biểu mà các ông chủ trương cũng sẽ gặp phải vấn đề như thế này.

(2)                                Kinh dạy rằng chỉ có một loại sắc vô lậu (anāsrava). Các luận sư Du-già cho rằng loại sắc sinh khởi nhờ định lực sẽ thuộc vô lậu khi định này thuộc vô lậu.

Các Tỷ dụ sư (Dārṣṭāntikas) lại cho rằng sắc (thân sắc) của bậc A-la-hán (như nhăn căn, v.v.) và sắc ở ngoài (bāhya), tức các cảnh sở duyên của năm thức thân, đều được gọi là vô lậu bởi v́ chúng không phải là sở y (āśraya) của pháp hữu lậu (āsrava).

Ở đây người ta có thể đưa ra lời chất vấn là kinh đă giải thích mà không phân biệt rơ ràng khi nói: “Các pháp vô lậu là ǵ? - Tức nhăn căn, tức những ǵ có thể trông thấy…”

Các tỷ dụ sư trả lời rằng tất cả các pháp được kinh nói đến đều có tính chất hữu lậu bởi v́ chúng không đối trị (pratipakṣa) được lậu hoặc; và chỉ có tâm, tâm sở mới có thể đối trị và đoạn trừ các pháp hữu lậu.

Ở đây người ta sẽ bác rằng nếu như vậy th́ các pháp này sẽ cùng lúc (paryāyeṇa) vừa là hữu lậu, v́ không đối trị được hữu lậu, vừa là vô lậu v́ không phải là sở y của hữu lậu; và với một kết quả đáng buồn như thế th́ các tính chất của hữu lậu và vô lậu sẽ trở thành tạp loạn.

Các tỷ dụ sư phủ nhận điều này v́ họ cho rằng nếu đă hữu lậu th́ các pháp này không thể là vô lậu. Mặt khác, nếu sắc xứ và các xứ khác chỉ thuộc hữu lậu, tại sao kinh lại phân biệt: “Các sắc pháp hữu lậu và khởi dậy sự nắm bắt (hữu thủ, sāsrava upādānīya),… Các pháp hữu lậu và hữu thủ là nguyên nhân của việc làm cho tâm trở nên chai lỳ và ngụy trá (tâm tài phú sự; cetaḥkhilamrakṣavastu).

(3)                                Kinh dạy rằng phước đức tăng trưởng. Các luận sư đời trước (pūrvācārya, qũy phạm sư) nói rằng chính do thể tánh của các pháp (dharmatā; pháp nhĩ lực) mà phước đức tăng trưởng khi những người được cúng dường thọ dụng các thứ cúng dường này; có nghĩa là v́ những phẩm tánh khác nhau của những người này (guṇaviśeṣāt) (như thiền định, v.v.), v́ sự lợi lạc mà họ có được từ của cúng dường đối với bản thân hoặc ban phát cho tất cả chúng sinh (anugrahaviśeṣāt = śarīravarṇabalāt) mà tâm tương tục (saṃtatayas) của những người cúng dường, cho dù đó là các tâm bất thiện hoặc vô kư (dị duyên, anyaceta, sāṃdātṛṇām), đều được thấm nhuần (paribhāvita) bởi loại tư cúng dường (thí tư sở huân tập) có cảnh sở duyên là người được cúng dường; chuỗi tâm tương tục này sẽ có sự chuyển biến theo chiều hướng đi lên rất vi tế và sẽ đạt đến một giai đoạn (sūkṣmaṃ pariṇāmaviśeṣaṃ prāpnuvanti) mà cuối cùng chuỗi tâm này sẽ có khả năng chiêu cảm rất nhiều quả. Chính với ư nghĩa này mà kinh đă dạy: “Phước đức tương tục tăng thạnh; phước đức gia khởi liên tục”.

Nhưng làm thế nào giải thích trường hợp tăng trưởng của phước đức đối với các công hạnh không thuộc về sắc pháp (niraupadhika)?

Chuỗi tương tục của tâm chuyển biến nhờ có sự lặp lại của các loại tư có cảnh sở duyên là Như Lai (Tathāgata) và Thanh văn (Śrāvakas) (tadālambanacetanābhyāsāt; số tập duyên bỉ tư). Cũng giống như sự tương tục của các tâm sở tư trong những giấc mộng (svapneṣu).

Trái lại chúng tôi không hiểu được các luận sư Tỳ-bà-sa, vốn là những người chủ trương vô biểu có thể giải thích trường hợp tăng trưởng của phước đức đối với các công hạnh không thuộc về sắc pháp như thế nào. Loại công hạnh này không có thân biểu nghiệp hoặc ngữ biểu nghiệp mà chỉ là một loại lạc thọ đối với Như Lai hoặc thanh văn; đồng thời cũng không có thêm thiền định. Trong khi đó, nếu theo Tỳ-bà-sa th́ vô biểu không thể sinh khởi từ biểu hoặc thiền định; và v́ thế không thể có vô biểu hiện hữu ở đây.

Theo các luận sư khác của Kinh bộ th́ trong trường hợp các công hạnh không thuộc sắc, phước đức tăng trưởng được là nhờ sự lặp lại của tư có sở duyên là người được cúng dường. Tuy nhiên không thể chấp nhận ư kiến này nếu đối chiếu với nội dung của kinh: “Khi một Bí-sô tinh tấn, có đủ giới hạnh (cụ tịnh thi-la) thành tựu các thiện pháp, sau khi thọ dụng vật phẩm cúng dường đă nhập vào loại định “vô lượng tâm”, và nhờ thế mà vô lượng phước đức, vô lượng thiện pháp (kuśalābhiṣyanda) và an lạc chắc chắn sẽ sinh khởi (pratikānkṣitavya) đối với người chủ các vật phẩm cúng dường (dāyaka dānapati).” (Anguttara, ii. 54;Ratnarāśisūtra, tr. 138). Nhưng một thí chủ có phước đức tăng trưởng như thế có thể có một loại tư đặc biệt chỉ duyên người đă nhận của cúng dường (duyên bỉ thắng tư) hay không? V́ lẽ đó cần phải chấp nhận ư kiến của các luận sư đầu tiên khi họ cho rằng trong trường hợp các công hạnh không thuộc sắc th́ phước đức sinh khởi từ sự chuyển biến tương tục của người cúng dường nhờ vào các phẩm tánh của người nhận của cúng dường.

(4)                                Theo Tỳ-bà-sa, nếu vô biểu không hiện hữu th́ trong trường hợp sai khiến người tạo tác sẽ không tạo thành nghiệp đạo.

Khi một người tạo sát nghiệp v́ có người khác sai khiến th́ tự nhiên (pháp nhĩ) chuỗi tâm tương tục của người sai khiến sẽ có một sự chuyển biến nào đó rất vi tế để rồi sẽ chiêu cảm các quả về sau. Cũng giống như trường hợp tự ḿnh gây ra sát nghiệp; vào sát-na mà nghiệp đạo (sát, v.v.) thành tựu (kriyāphalaparasamāptau) th́ cũng là lúc chuỗi tương tục tâm có sự chuyển biến. Sự chuyển biến này có tên là nghiệp đạo, và v́ thế người có chuỗi tâm chuyển biến này vẫn có thể tạo thành nghiệp đạo - bởi v́ quả, tức sự chuyển biến của chuỗi tâm tương tục, phải được gọi tên cho phù hợp với nhân, tức nghiệp đạo - và sự chuyển biến này có tên là thân hay ngữ là tùy thuộc vào việc nó xuất phát từ thân hay ngữ. Chính nhờ những nguyên tắc như vậy mà những người chủ trương vô biểu đă xem vô biểu như là nghiệp đạo, như là con đường tạo tác của thân hoặc ngữ.

Đại đức (Bhadanta) (Vibhāṣā, 118, 16) có một quan niệm khác hẳn về sự không hiện hữu của vô biểu: “Một người bị xúc chạm (spṛśyate) bởi tội (avadya) sát v́ có loại tư thuộc ba thời điểm (trikālayācetanayā, tam thời khởi tư) liên quan đến các uẩn tạo thành một chúng sinh đang c̣n sống (upātteṣu skandheṣu); có nghĩa là khi người đó suy nghĩ: Ta sẽ giết, ta giết, ta đă giết.” [Như vậy nghiệp đạo đă hoàn măn bởi v́ cả gia hành, hành động chính, và sự liên tục đều có chung một loại tư.]

Nhưng chúng tôi sẽ nói rằng loại tư thuộc ba thời điểm này không làm thành nghiệp đạo bởi v́ nếu theo chủ trương này của đại đức th́ một người con sẽ phạm tội vô gián (ānantarya) khi nói: “Mẹ tôi đă bị giết chết”, trong lúc mà người mẹ của anh ta thực sự không bị người nào giết chết cả. Tuy nhiên tất cả sự vận hành của tư (cetanāsamudācāra) từ “ta sẽ giết, ta giết, ta đă giết” chỉ thích hợp với người tự giết ḿnh (svayaṃ ghnatas); và đây cũng là ư chính của đại đức khi giải thích loại sát nghiệp này.

Ở đây Hữu bộ đă đưa ra chất vấn: “Nhưng tại sao mối ác cảm này có thể khiến cho các ông khăng khăng bác bỏ sự hiện hữu của vô biểu nhưng lại thừa nhận sự chuyển biến của chuỗi tâm tương tục (saṃtatipariṇāmaviśeṣa)?

Thật ra chủ trương vô biểu của Hữu bộ và chủ trương sự chuyển biến của chuỗi tâm tương tục của Kinh bộ đều rất khó hiểu (duḥkhabodha); v́ thế chúng tôi không hề có ác cảm đối với luận chứng thứ nhất này. Chúng tôi chỉ không bằng ḷng (na pariloṣo ‘smākam) với chủ trương “vào sát-na thành tựu nghiệp đạo do một hành động của thân dựa vào một tâm (cittānvayakāyaprayogeṇa) lại có thể sinh khởi ở người sai sử nghiệp đạo này một pháp gọi là vô biểu”, một pháp vốn chẳng quan hệ ǵ (pṛthagbhūta) đến tâm của người sai sử cũng như đến thân của người bị sai sử. Tuy nhiên chúng tôi lại cảm thấy vừa ḷng với chủ trương “vào sát-na thành tựu nghiệp đạo do một hành động được sai sử bởi một người nào đó (yatkṛtaprayogasaṃbhūta) vẫn có thể sinh khởi, nhờ vào hành động này, một sự chuyển biến đối với chuỗi tâm tương tục của chính người này”. Và chúng tôi cũng dễ dàng thừa nhận là quả sinh khởi từ sự chuyển biến của chuỗi tương tục này chứ không phải từ vô biểu.

Ngoài ra c̣n có các luận chứng khác đă được kể đến ở trên như: “Không có biểu th́ làm thế nào có được vô biểu?”; “Vô biểu chỉ có nghĩa là không c̣n tạo tác một hành động nào đó’; “vô biểu không tùy thuộc vào các đại chủng quá khứ”.

(5)                                Pháp xứ không được xem như là vô sắc. 

Giải đáp cho vấn nạn này đă được tŕnh bày ở trên. Có một loại sắc không thể nh́n thấy, không có đối ngại (apratigha), tạo thành một phần của pháp xứ; và đó là vô biểu. Chính loại sắc này là cảnh sở duyên của định và sinh khởi nhờ lực của định (dhyāyināṃ samādhiviṣayo rūpaṃ samādhiprabhāvād utpadyate).

(6)                                Tỳ-bà-sa nói rằng đạo đế sẽ không có tám chi.

Theo các ông khi thánh giả đang ở trong thánh đạo khi quán sát hoặc tư duy tứ đế th́ họ sẽ thành tựu chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng bằng cách nào? Có phải các ông muốn nói rằng họ nói ra lời nói chân chánh (phát chánh ngôn), làm các việc chân chánh (khởi chánh tác) mong cầu y bát?

Trả lời của hữu bộ: Đó không phải là chủ ư của chúng tôi. Trong thánh đạo, thánh giả vẫn hoạch đắc những pháp vô biểu vô lậu nào đó; chẳng hạn như khi xuất quán (vipaśyanā), nhờ có lực của các vô biểu vô lậu mà thánh giả có thể phát khởi lời nói, hành động và lối sống chân chánh. V́ nhân (nimitta) có thể được gọi tên theo quả cho nên người ta mới lập vô biểu làm ngữ, nghiệp, mạng.

Nếu vậy tại sao không thừa nhận thuyết của chúng tôi? Tuy không có vô biểu nhưng thánh giả khi ở trong thánh đạo, hoạch đắc ư định (āśaya, ư lạc) và nhân cách (āśraya, ư chỉ) như thế nên khi xuất quán đă nhờ vào lực của hai loại này mà từ đó trở về sau đều khởi chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng. Các nhân này (āśaya, āśraya) mang tên của quả v́ thế vẫn có thể khẳng định rằng thánh đạo thành tựu cả tám chi.

Có luận sư khác nói rằng các chi của thánh đạo chỉ hàm nghĩa “không phạm” (bất tác, tadakriyāmātra). Không phạm có nghĩa là ǵ? Một người đang nhập định có thể nhờ vào lực của thánh đạo mà đắc được sự “không tạo tác” ở mức độ tương đối hoặc tuyệt đối. Sự “không tạo tác” này v́ đắc nhờ nương vào thánh đạo vô lậu cho nên cũng thuộc về vô lậu; và đó chính là chi của thánh đạo.

Chắc chắn các chi (như chánh ngữ, v.v.) không phải là thực pháp (Anguttara, iv. 157; Dīgha, iii. 260) mà chỉ là sự “không tạo tác”. Nhưng không phải chỉ các thực pháp có riêng pháp thể mới lập thành pháp; chẳng hạn như trường hợp của tám thế pháp là đắc, phi đắc, vinh, nhục, khen, chê, sướng, khổ. Sự không đắc được y phục, thực phẩm, v.v., không phải là thực pháp.

(7)                                Tỳ-bà-sa nói rằng nếu vô biểu không hiện hữu th́ cũng không có luật nghi biệt giải thoát. Có thể bác bỏ vấn nạn này theo các nguyên tắc giống như trên bằng cách dựa vào lực của ư muốn (āśaya). Luật nghi (saṃvara) chính là một loại tư (cetana) có khả năng ngăn chận các hành động xấu và điều phục (saṃvṛṇotti) thân ngữ sau khi được biểu hiện qua việc cương quyết (vidhi) không tạo tác tội lỗi, qua sự phát nguyện giữ giới; v́ thế đă dựa vào đó để lập thành luật nghi biệt giải thoát. 

Ở đây Tỳ-bà-sa có thể bác bỏ rằng nếu luật nghi biệt giải thoát chỉ là tư th́ khi hành giả nghĩ về một điều nào đó khác với loại tâm này (dị duyên tâm) tức sẽ không c̣n luật nghi, bởi v́ lúc đó hành giả không c̣n hoạch đắc loại tư có thể điều phục thân ngữ. Tuy nhiên bác nạn này không có giá trị; bởi v́ khi hành giả khởi tâm muốn làm một điều ác th́ nhờ có lực huân tập của chuỗi tâm tương tục mà sự ức niệm về những ǵ đă phát nguyện cũng sẽ hiện khởi để ngăn chặn ư muốn làm điều xấu này.

(8) Ngoài ra loại tư này c̣n có tính chất của một bờ đê. Khi một người đă phát nguyện cương quyết không làm điều ác th́ khi nhớ lại điều nguyện này, tâm tàm quư sẽ hiện khởi và người này sẽ tự điều phục để khỏi phạm giới.

Trái lại theo chủ trương của các ông, nếu sự phạm giới được ngăn chận nhờ vào một pháp vô biểu không quan hệ ǵ đến sự ức niệm th́ lẽ ra khi bị thất niệm cũng không thể phạm giới bởi v́ vô biểu luôn luôn có mặt ở đó.

Chúng ta nên chấm dứt sự tranh luận ở đây. Các luận sư Tỳ-bà-sa đă nói rằng có một vật thực hữu (dravya) có thể loại riêng được gọi là vô biểu (aviñaptirūpa).

Trên đây có nói rằng vô biểu sinh khởi nhờ nương vào các đại chủng; như vậy có phải các đại chủng này chính là các đại chủng làm sở y cho biểu (viñapti), tức các đại chủng của thân tạo tác biểu nghiệp, hay là các đại chủng khác?

Tụng đáp:

此能造大種  異於表所依

[Các đại chủng tạo thành (vô biểu nghiệp) này

Khác với các đại chủng làm sở y của biểu nghiệp]

Luận: Vô biểu sinh khởi từ các đại chủng khác với các đại chủng làm sở y cho biểu; bởi v́ cùng một tập hợp (sāmagrī) của bốn đại chủng không thể vừa tạo thành một sở tạo sắc (bhautika, upādāyarūpa) vi tế là vô biểu, lại vừa tạo thành một sở tạo sắc thô hiển là biểu.

Biểu nghiệp xuất hiện cùng lúc với các đại chủng tạo ra nó; và vô biểu cũng như vậy.

Một nguyên tắc chung là tất cả các sở tạo sắc đều sinh khởi cùng thời với các đại chủng của chúng; tuy nhiên có một số thuộc hiện tại và vị lai sinh khởi từ các đại chủng quá khứ.

欲後念無表  依過大種生.

[Vô biểu dục giới ở sát-na thứ hai

Sinh khởi từ các đại chủng quá khứ.]

Luận:  Vào sát-na một vô biểu nghiệp sinh khởi th́ nó sinh khởi từ các đại chủng cùng thời với sự sinh khởi của nó. Sau sát-na này, một vô biểu nghiệp thuộc về Dục giới - tức khác với loại vô biểu sinh từ định và loại vô biểu vô lậu - sẽ sinh khởi, có nghĩa là tiếp tục sinh khởi trở lại, cũng từ chính các đại chủng ở sát-na thứ nhất; tức các đại chủng này đă trở thành quá khứ ở sát-na thứ hai. Từ sát-na này trở đi các đại chủng quá khứ sẽ làm sở y (āśraya) cho vô biểu bởi v́ chúng chính là chuyển nhân (pravṛtti), là loại nhân sinh khởi (ākṣepakāraṇa) của vô biểu; các đại chủng cùng thời với mỗi một sát-na về sau chỉ làm chỗ dựa cho vô biểu bởi v́ chúng chỉ là tùy chuyển nhân (anuvṛtti), là loại nhân tŕ giữ (abhiṣṭhānakāraṇa) của vô biểu. Trường hợp này cũng giống như bàn tay lăn bánh xe và mặt đất đỡ bánh xe là chuyển nhân và tùy chuyển nhân đối với sự chuyển động của bánh xe. 

(Hỏi) Thân nghiệp và ngữ nghiệp ở các địa khác nhau được tạo thành bởi các đại chủng thuộc loại địa nào (trong các địa ở Dục giới và bốn tầng thiền)?

Tụng đáp:   

有漏自地依  無漏隨生處.

[Hữu lậu nương vào tự địa

Vô lậu tùy theo xứ sinh khởi.]  

Luận: Thân nghiệp và ngữ nghiệp ở Dục giới được tạo thành bởi các đại chủng thuộc Dục giới; và cứ thế cho đến thân ngữ nghiệp ở tầng thiền thứ tư th́ được tạo thành bởi các đại chủng thuộc tầng thiền thứ tư.

Thân nghiệp và ngữ nghiệp vô lậu được tạo thành bởi các đại chủng thuộc về địa mà người tạo các thân ngữ nghiệp này đă sinh ra; bởi v́ các pháp vô lậu đều có khuynh hướng siêu việt các giới (như Dục giới, v.v.); bởi v́ không có các đại chủng vô lậu tạo thành một nghiệp vô lậu; bởi v́ thân ngữ nghiệp vô lậu sinh khởi nhờ các đại chủng chứ không phải chỉ nhờ vào tâm v́ loại nghiệp này là sở tạo sắc (upādāyarūpa). (Vibhāṣā, 140, 15)

(Hỏi) Biểu nghiệp và vô biểu nghiệp có những tính chất ǵ? Chúng được tạo thành từ những tính chất ǵ của các đại chủng?

Tụng đáp:   

無表無執受  亦等流情數

散依等流性  有受異大生

定生依長養  無受無異大

表唯等流性  屬身有執受.

[Vô biểu không thuộc chấp thọ,

Cũng là đẳng lưu và chỉ thuộc hữu t́nh

Khi tán th́ do các đại chủng đẳng lưu

Có chấp thọ và khác biệt nhau;

Khi sinh từ định th́ do các đại chủng trưởng dưỡng.

Không chấp thọ và không khác nhau

Biểu chỉ có đại chủng đẳng lưu

Nếu thuộc thân th́ có chấp thọ.]  

Luận:  Vô biểu là loại sắc pháp được tạo thành không phải nhờ vào khối lượng (amūrta), không có rộng hẹp (apratigha, vô biến ngại), v́ thế nó không thể làm chỗ dựa cho tâm và các tâm sở, và không hội nhập với các giác quan (anupātta, vô chấp thọ). Vô biểu không bao giờ có tánh vô kư v́ thế không thuộc dị thục sinh; nó không phải là trưởng dưỡng mà chỉ là đẳng lưu; có nghĩa là được sinh khởi bởi đồng loại nhân (sabhāgahetu). [Tụng văn nói “diệc đẳng lưu” bởi v́ vô biểu cũng có thể có tính chất sát-na (kṣaṇika): Vô biểu vô lậu đầu tiên không phải là đẳng lưu.] 

Khi không ở vào trạng thái của định (asamāhita, vikṣipta), tức khi thuộc về Dục giới, th́ vô biểu được tạo thành bởi các đại chủng đẳng lưu và có chấp thọ. Các đại chủng này không giống nhau (dị đại chủng) bởi v́ mỗi một trong bảy loại vô biểu, như giới sát, v.v., thuộc luân nghi biệt giải thoát, đều được tạo thành bởi một nhóm riêng biệt của bốn đại chủng.

Khi khởi từ định (samādhija), tức khi không có sự phân biệt giữa luật nghi thuộc tĩnh lự và luật nghi vô lậu vốn sinh khởi từ hai loại định hữu lậu và vô lậu th́ vô biểu hay luật nghi (saṃvara) sẽ được tạo thành bởi các đại chủng trưởng dưỡng (aupacayika) do định phát khởi, tức các đại chủng vô chấp thọ. Bảy loại giới tạo thành luật nghi th́ khác nhau, nhưng tất cả - từ giới sát cho đến vọng ngữ - đều được tạo thành bởi cùng một nhóm của bốn  đại chủng (vô dị đại). Chỉ có một loại tâm sinh khởi các giới này và các đại chủng làm sở y cho các giới này cũng chỉ có một.

Biểu chỉ có tánh đẳng lưu; và nếu thuộc về thân th́ có chấp thọ.

Ở đây người ta có thể hỏi rằng khi sinh khởi th́ thân biểu làm hủy hoại hay không hủy hoại h́nh sắc của thân (saṃsthānasaṃtāna) vốn thuộc về dị thục. Trường hợp này rất nan giải. Nếu cho rằng có làm hủy hoại th́ không thể được; bởi v́ trái với tông chỉ của Tỳ-bà-sa vốn cho rằng một sắc pháp có tánh dị thục sẽ sinh khởi trở lại (punaḥprabandha) sau khi đoạn; trái lại, nếu thân biểu không làm hủy hoại h́nh sắc có sẵn th́ hai loại h́nh sắc (saṃsthānadvaya) - loại trước là dị thục và loại sau là đẳng lưu - sẽ cùng hiện hữu ở cùng một chỗ.

Như vậy phải thừa nhận rằng thân biểu được tạo thành bởi các đại chủng đẳng lưu mới sinh và không làm hủy hoại các h́nh sắc có sắc có sẵn.

Nhưng nếu như vậy th́ phần thân mà thân biểu nương vào đó để khởi sẽ to lớn hơn trước đó bởi v́ phần thân này được thâm nhập thêm (abhivyāpana, biến tăng tiến) các đại chủng mới sinh để tạo thành thân biểu này. Nếu phần thân này không có thêm các đại chủng mới th́ không thể nói rằng vô biểu được toàn bộ phần thân này tạo thành.

Chúng tôi sẽ trả lời rằng thân thể dị thục có các lỗ hổng (śuṣiratvāt kāyasya) v́ thế vẫn có chỗ cho các đại chủng đẳng lưu mới sinh để tạo thành vô biểu.

Trên đây đă nói về hai loại nghiệp tư (cetana) và tư sở tạo (cetanakṛta); ba loại nghiệp ư, thân và ngữ; năm loại nghiệp tư, thân biểu, thân vô biểu, ngữ biểu, ngữ vô biểu. Tiếp theo sẽ là phần nói về các tánh thiện, bất thiện, vô kư của các loại này và chúng thuộc về loại giới (dhātu), địa (bhūmi) nào.  

無表記餘三  不善唯在欲

無表遍欲色  表唯有伺二

欲無有覆表  以無等起故.

[Vô biểu thuộc hữu kư

C̣n lại đều có ba loại.

Bất thiện chỉ có ở Dục giới

Vô biểu có ở cả Dục giới và Sắc giới.

Biểu chỉ ở hai địa có tứ

Dục giới không có biểu hữu phú

V́ không có nhân dẫn khởi.]  

Luận:  Vô biểu chỉ có tánh thiện (kuśala) hoặc bất thiện (akuśala). Tư vô kư vốn yếu liệt nên không có khả năng dẫn phát một nghiệp mạnh (balavat) giống như vô biểu. Quả vô biểu có thể tương tục tái sinh sau khi nhân dẫn khởi của nó bị diệt.

Các nghiệp c̣n lại là tư và biểu. Các nghiệp này có thể là thiện, bất thiện hoặc vô kư.

Nghiệp bất thiện chỉ có ở Dục giới bởi v́ ở các giới khác đều không có ba loại bất thiện căn, vô tàm và vô quư. Tụng văn chỉ nói đến loại nghiệp bất thiện; v́ thế có thể biết rằng hai loại thiện và vô kư đều có ở cả tam giới.

Sắc giới cũng có vô biểu nhưng Vô sắc giới th́ không bởi v́ ở đó không có các đại chủng tạo vô biểu sắc.

Ở nơi nào có thân và ngữ hiện hữu (pravartante) th́ ở đó có loại vô biểu luật nghi (saṃvara) thuộc thân và ngữ này.

(Vấn nạn) Không có đại chủng vô lậu nhưng vẫn có vô biểu vô lậu; vô biểu vô lậu xuất phát từ các đại chủng thuộc về một địa mà người khởi vô biểu vô lậu đă sinh ra ở đó. Như vậy, khi một người sinh ra ở Dục giới và Sắc giới nhập vào một định thuộc Vô sắc giới th́ người này vẫn có thể tạo ra một loại vô biểu Vô sắc giới xuất phát từ các đại chủng Dục giới và Sắc giới.

(Giải thích) Không phải như vậy bởi v́ vô biểu vô lậu vượt qua các giới (adhātupatti, bất đọa giới). Loại vô biểu này không có bất cứ tính chất chung nào với các phiền năo thuộc về giới mà người có loại vô biểu này đang ở; và vô biểu vô lậu không thuộc cùng loại cũng không phải khác loại (sabhāga, visabhāga) với các đại chủng ở giới này. Trong khi đó vô biểu Vô sắc giới không thể phát xuất từ các đại chủng khác loại (visabhāga) thuộc Dục giới và Sắc giới.

Hơn nữa, v́ quay lưng (vaimukhya) lại với tất cả các sắc pháp - bởi v́ ở Vô sắc giới không c̣n có tưởng về sắc pháp - cho nên loại định vô sắc không có khả năng tạo ra vô biểu, vốn là một sắc pháp (rūpa).

Các luận sư Tỳ-bà-sa nói rắng v́ để đối trị ác giới (dauḥśīlyapratipakṣeṇa) nên mới có giới (śīla, thi-la). Ác giới chỉ có ở Dục giới; và giới thuộc sắc giới bao hàm cả vô biểu, là để đối trị. Nhưng các pháp Vô sắc giới th́ cách xa (dūra) Dục giới về bốn phương diện: Sở y (āśraya), hành tướng (prakāra), sở duyên (ālambana), và đối trị (pratipakṣa). (Vibhāṣā, 96, 6)

Chỉ có thân biểu và ngữ biểu ở hai địa có tứ (vicāra) là Dục giới và tầng thiền thứ nhất.

Loại biểu hữu phú vô kư (nivṛtāvyākṛta) không có ở các địa không có tứ và cũng không có ở Dục giới nơi mà tất cả các biểu nhiễm ô (kliṣṭa) đều thuộc bất thiện chứ không phải vô kư. 

Điều này cũng có nghĩa loại biểu vô phú vô kư (nivṛtāvyākṛta) chỉ có ở Phạm thế. Đă từng nghe nói rằng Đại phạm có tạo tác ngữ nghiệp cuống siễm (māya), tức khi ở trước mặt chúng thiên v́ để tránh câu hỏi của Mă thắng (Aśvajit) mà Đại phạm đă phải nói dối. (Dīgha, i. 18, 221).

(Hỏi) Nhưng nếu không có ngữ biểu ở bên trên tầng thiền thứ nhất th́ làm sao có thể có thanh xứ (śabdāyatana) ở tầng thiền thứ hai và các tầng thiền trên đó?

(Đáp) vẫn có ở đó nhưng do nhân là các đại chủng ở ngoài (bāhyamahābhūtahetuka), tức loại thanh được tạo ra bởi gió, v.v..

Có luận sư nói rằng ở tầng thiền thứ hai và các tầng trên đó vẫn có biểu, nhưng là loại vô phú vô kư chứ không phải thiện hay nhiễm ô; bởi v́ chúng sinh ở các tầng thiền này không thể khởi (saṃmukhīkar) tâm thiện hoặc nhiễm thuộc về một địa thấp hơn để có thể tạo ra một biểu nghiệp thiện hoặc nhiễm ô. Tâm thiện ở hạ địa đều thuộc loại yếu liệt (nyūna), c̣n tâm nhiễm th́ đă được đoạn trừ.

Nhưng Tỳ-bà-sa lại cho rằng giải thích thứ nhất hợp lư hơn.

(Hỏi) Tại sao không có các loại biểu nghiệp ở các địa bên trên Phạm thế? Tại sao Dục giới không có loại biểu hữu phú vô kư?

(Đáp) Bởi v́ không có loại nhân phát sinh. (1) Chính loại tâm tương ưng với tầm (vitarka) và tứ (vicāra) mới có khả năng phát sinh biểu nghiệp; trong khi tầng thiền thứ hai và các tầng trên lại không có loại tâm này. (2) Tâm hữu phú vô kư có thể phát sinh một biểu nghiệp có cùng tính chất khi tâm này thuộc loại “tu sở đoạn” (bhāvanāheya). Trong khi đó ở Dục giới loại tâm hữu phú vô kư chỉ tương ưng với hữu thân kiến (satkāyadṛṣṭi) và biên kiến (antagrāhadṛṣṭi). Tâm này thuộc loại “kiến sở đoạn” (darśanaheya) và lại hướng vào bên trong () v́ thế không thể phát sinh biểu nghiệp.

(Hỏi) Có phải do tánh của loại tâm dẫn khởi (đẳng khởi, samutthāpaka) tức thiện hoặc bất thiện mà các pháp có tánh thiện hoặc bất thiện?

(Đáp) Không phải. Các pháp thiện hoặc bất thiện là do bốn nghĩa: Tính chất tuyệt đối (paramārthatas, thắng nghĩa), tự tánh (svabhāvatas = ātmatas), tương ưng (saṃprayogatas), nhân dẫn khởi (samuthānatas).  

勝義善解脫  自性慚愧根

相應彼相應  等起色業等

翻此名不善  勝無記二常.

[Giải thoát là thắng nghĩa thiện.

Thiện căn, tàm và quư là tự tánh thiện;

Tương ưng với thiện căn là thiện nhờ tương ưng.

Các nghiệp, v.v., thiện do nhân dẫn khởi

Trái lại là bất thiện.

Vô kư thắng nghĩa là hai pháp vô vi.]  

Luận: Niết-bàn, tức sự chấm dứt mọi đau khổ, hoàn toàn an ổn và tịch tĩnh (kṣema) v́ thế thuộc về thắng nghĩa thiện; cũng giống như trường hợp không có bệnh (ārogya). (Majjgima, i. 510)

Ba thiện căn, tàm và quư - không tùy thuộc vào các pháp tương ưng và các nhân của chúng - đều thuộc tự tánh thiện; cũng giống như thuốc tốt (auṣadha).

Các pháp như tư, tâm sở tương ưng với các thiện căn và với tàm quư đều thuộc tương ưng thiện. Nếu có tương ưng th́ thuộc thiện, nếu không tương ưng th́ không phải thiện; cũng giống như đồ uống có pha thuốc tốt (auṣadhapānīya).

Nếu xuất phát từ các pháp thuộc tự tánh thiện hoặc tương ưng thiện th́ thân nghiệp, ngữ nghiệp, bốn tính chất hữu vi (lakṣṇas), đắc (prāptis), diệt tận định (nirodhasamāpatti), vô tưởng định (asaṃjñisamāpatti) cũng thuộc thiện nhờ vào nhân dẫn khởi của chúng (đẳng khởi thiện); cũng giống như sữa của một con ḅ đă uống nước có pha thuốc tốt.

Ở đây cần suy nghĩ thêm về trường hợp làm thế nào các pháp đắc (prāptis), v.v., có thể là thiện khi xuất phát từ một tâm không phải thiện (dị loại tâm, visabhāgacitta). Trái với bốn trường hợp thuộc thiện tánh ở trên là bất thiện.

Thể tánh của sinh tử (saṃsāra) chính là sự diễn tiến của mọi khổ đau v́ thế hoàn toàn không an ổn (akṣema), tức thuộc về thắng nghĩa bất thiện cũng giống như người có bệnh.

Các căn bất thiện, vô tàm, vô quư đều thuộc tự tánh bất thiện; cũng giống như thuốc độc.

Các pháp tương ưng với các căn này thuộc về tương ưng bất thiện; cũng giống như nước uống có lẫn thuốc độc.

Nếu xuất phát từ các căn này hoặc từ các pháp tương ưng với các căn này th́ thân nghiệp, ngữ nghiệp, các tính chất (sinh, trụ, v.v.), và sự hoạch đắc (prāptis) các pháp bất thiện đều thuộc bất thiện v́ các nhân dẫn khởi của chúng (đẳng khởi bất thiện); cũng giống như sữa của con ḅ uống phải nước có lẫn thuốc độc.

(Vấn nạn) Tất cả các pháp hữu lậu (sāsrava) đều thuộc về (abhyantara, paryāpanna) sinh tử (saṃsāra) và như vậy sẽ không có pháp hữu lậu nào có tánh thiện hoặc vô kư?

(Giải thích) Nếu nói thật chính xác (cứ thắng nghĩa) th́ đúng là như vậy. Tuy nhiên ở đây có thể căn cứ vào dị thục (vipāka) để nói rằng pháp hữu lậu nào có khả năng sinh khởi quả dị thục đáng ưa (iṣṭa) th́ gọi là thiện, pháp hữu lậu nào chưa có tính chất nhất định (vyākṛta) như khi chưa chiêu cảm quả dị thục th́ gọi là vô kư.

Thắng nghĩa vô kư là hai pháp vô vi hư không và phi trạch diệt bởi v́ chúng ḥan toàn thuộc tánh vô kư.

(Vấn nạn) Tỳ-bà-sa nói rằng thân nghiệp và ngữ nghiệp có tánh thiện hoặc bất thiện là do nhân phát khởi của nó, tức một tâm sở tư (cetanā) thiện hoặc bất thiện. Như vậy điều này cũng có thể áp dụng cho các đại chủng tạo thành thân nghiệp và ngữ nghiệp.

(Giải thích của Tỳ-bà-sa) Không phải như vậy bởi v́ ư định của người tạo tác chỉ liên quan đến hành động chứ không phải các đại chủng; có nghĩa là người tạo tác có ư muốn tạo tác một hành động nào đó chứ không có ư muốn tạo ra các đại chủng.

(Luận chủ) Tuy nói như vậy, nhưng làm thế nào loại vô biểu do định sinh có thể có tánh thiện? Người tạo tác giả khi nhập định không có tác ư đối với vô biểu và cũng không suy nghĩ: “Hăy tạo ra một vô biểu!” Chúng tôi cũng không thể thừa nhận loại vô biểu do định sinh lại xuất phát từ một tâm - không thuộc định - sinh khởi trước đó bởi v́ tâm này khác thể loại. V́ thế loại vô biểu do định phát khởi không thuộc thiện; hoặc nếu như Tỳ-bà-sa cứ cho rằng thuộc thiện th́ thiên nhăn và thiên nhĩ cũng phải thuộc thiện; trong khi Tỳ-bà-sa lại cho hai loại này là vô kư. Đây là vấn đề mà Tỳ-bà-sa cần phải giải quyết (kartavyo ‘tra yatnaḥ).

(Vấn nạn) Trên đây cũng có nói rằng loại tâm thuộc “kiến sở đoạn” không thể phát khởi vô biểu. Nhưng Thế Tôn lại nói: “Do tà kiến (mithyādṛṣṭi) nên khởi tà tư duy (saṃkalpa), tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng”. Trong khi đó tà kiến vốn được đoạn trừ bởi kiến đạo.

(Giải thích) Chủ trương trên không trái với kinh bởi v́:  

等起有二種  因及彼剎那

如次第應知  名轉名隨轉

見斷識唯轉  唯隨轉五識

修斷意通二  無漏異熟非

於轉善等性  隨轉各容三

牟尼善必同  無記隨惑善.

[Đẳng khởi có hai loại

Là nhân và sát-na;

Theo thứ tự trên

Được gọi là chuyển và tùy chuyển.

Thức thuộc kiến đoạn là chuyển;

Năm thức là tùy chuyển;

Ư thuộc tu đoạn gồm cả hai.

Vô lậu và dị thục sinh đều không phải.

Từ chuyển thuộc thiện, v.v.

Có tùy chuyển thuộc ba tánh.

Ở Thế Tôn cả hai đều thiện;

Hoặc nếu (chuyển) là vô kư, tùy chuyển là thiện.]

 

Luận:  Pháp dẫn khởi một hành động (samutthāna, đẳng khởi) được chia làm hai loại: Loại đẳng khởi làm nhân được gọi là nhân đẳng khởi (hetusamutthāna); loại đẳng khởi cùng thời với hành động được gọi là sát-na đẳng khởi (tatkṣaṇasamutthāna).

Vào lúc sắp hành động th́ nhân đẳng khởi có khả năng dẫn phát (ākṣepaka), tức tạo ra (utpādaka), v́ thế nó là pháp dẫn khởi (chuyển, pravrtaka); vào lúc đang hành động th́ sát-na đẳng khởi không tách rời hành động v́ thế nó là pháp dẫn khởi thứ hai (tùy chuyển, anuvartaka).

(Hỏi) Sát-na đẳng khởi có tác dụng (sāmarthya) ǵ đối với hành động (vijñapti, biểu nghiệp)?

(Đáp) Nếu không có sát-na đẳng khởi th́ hành động sẽ không xảy ra cho dù nó được dẫn phát bởi pháp dẫn khởi; cũng giống như trường hợp hành động không thể xảy ra khi người đă dẫn khởi hành động (như nghĩ: “tôi sẽ đi đến ngôi làng”) vừa mới chết.

(Hỏi) Nếu biểu nghiệp không thể khởi v́ không có pháp tùy chuyển th́ trong trường hợp người vô tâm đắc giới làm thế nào để có biểu nghiệp? (Vibhāṣā, 113, 7)

(Đáp) Ở đây cần đưa ra một giải thích khác: Biểu nghiệp có tính chất rơ ràng hơn (sphuṭa, vyakta) ở những người hữu tâm. Những người này có loại tâm “dẫn khởi thứ hai” (tùy chuyển tâm) vào sát-na biểu nghiệp sinh khởi; và đây chính là tác dụng của loại tâm này.

Loại tâm được đoạn trừ bởi kiến đạo là nhân đẳng khởi duy nhất của biểu nghiệp bởi v́ đó là nhân (nidāna, hetu) của tiến tŕnh tâm (vitarka, vicāra) dẫn phát (samutthāpaka) biểu nghiệp. Tâm này không phải là tâm tùy chuyển (1) bởi v́ nó không c̣n hiện hữu vào sát-na biểu nghiệp xảy ra: Biểu nghiệp này vận hành được là nhờ loại tâm “hướng ra bên ngoài” (ngoại môn tâm), được đoạn trừ bởi tu đạo (bhāvanā), và là tâm tùy chuyển; (2) bởi v́ giả như nó là tâm tùy chuyển th́ ngay sau đó, loại sắc pháp (biểu nghiệp) đă được nó tạo ra cũng sẽ bị đoạn trừ bởi kiến đạo; cũng giống như trường hợp loại biểu nghiệp được tạo ra bởi một tâm thuộc tu đoạn sẽ bị đoạn trừ bởi tu đạo. Và như vậy sẽ trái với Đối pháp (Abhidharma).

Thật vậy, sắc pháp (rūpa = vijñapti) không tương vi (virudhyate) với sự hiểu biết đúng (minh, vidyā) cũng như không đúng (vô minh, avidyā) cho nên nó không thể được đoạn trừ bởi kiến đạo.

(Kinh bộ) Lập luận “sắc pháp không tương vi với minh” cần được chứng minh. Bởi v́ những ai chủ trương sắc pháp thuộc kiến đoạn sẽ không thừa nhận sắc pháp không tương vi với minh.

(Tỳ-bà-sa) Nếu sắc pháp (vijñapti) xuất phát từ một tâm thuộc kiến đoạn th́ chính nó cũng bị đoạn trừ bởi kiến đạo và các đại chủng làm sở y (āśraya) cho sắc pháp này, cho biểu nghiệp này, cũng bị đoạn trừ bởi kiến đạo bởi v́ chúng cũng xuất phát từ loại tâm này. Và điều này không thể chấp nhận được v́ các đại chủng này thuộc loại các pháp vô phú vô kư; trong lúc tất cả các pháp thuộc kiến đoạn đều là nhiễm ô (kliṣṭa).

(Kinh bộ) Chúng tôi không chấp nhận kết luận này. Các đại chủng được bàn đến ở trên không phải có tánh thiện hay bất thiện là do tâm dẫn khởi; và trường hợp của biểu nghiệp cũng vậy. Hoặc phải thừa nhận là các đại chủng này đều thuộc kiến đoạn.

(Tỳ-bà-sa) Điều này không thể chấp nhận được. Các đại chủng không thể thuộc kiến đoạn, và cũng không phải là “không thể đoạn” (phi sở đoạn). Bởi v́ tất cả các pháp không nhiễm ô đều không tương vi với minh hay vô minh.

[Thật vậy, pháp bất nhiễm ô, cho dù thuộc loại vô phú vô kư hay thiện hữu lậu, đều không tương vi với minh, tức thánh đạo vô lậu; cũng giống như trường hợp pháp nhiễm ô bị diệt là do sự hoạch đắc (prāpti) được nó bị đoạn trừ bởi thánh đạo nói trên…]

Như vậy bản kinh được trích dẫn ở trên không vô hiệu hóa chủ trương của chúng tôi khi nói: “Tâm thuộc kiến đoạn không dẫn khởi biểu nghiệp”, bởi v́ kinh này chỉ nhắm đến loại tà kiến (mithyādṛṣṭi) làm nhân đẳng khởi (pravartaka). (Vibhāṣā, 117, 10)

Ư thức (manovijñāna) thuộc loại tu đoạn (bhāvanāheya) vừa chuyển vừa tùy chuyển.

Năm thức (tức nhăn thức, v.v.) chỉ là tùy chuyển v́ không có phân biệt (vikalpa). (Vibhāṣā, 117, 10)

Như vậy có tất cả bốn trường hợp:

(1)                                Chuyển chứ không phải tùy chuyển: Ư thức thuộc kiến đoạn.

(2)                                Tùy chuyển chứ không phải chuyển: Năm thức thân.

(3)                                Vừa chuyển vừa tùy chuyển: Ư thức thuộc tu đoạn.

(4)                                Không phải chuyển cũng không phải tùy chuyển: Tâm vô lậu.

(Hỏi) Tâm tùy chuyển có cùng tánh (thiện, bất thiện, vô kư) với tâm chuyển không?

(Đáp) Điều này không nhất định. Từ một tâm chuyển thuộc thiện có thể có tâm tùy chuyển thuộc thiện, bất thiện hoặc vô kư; đối với một tâm bất thiện hoặc vô kư cũng như vậy.

Riêng đối với Thế Tôn th́ tâm tùy chuyển có cùng thể loại với tâm chuyển: Từ tâm chuyển thiện sẽ có tâm tùy chuyển thiện; từ tâm chuyển vô kư sẽ có tâm tùy chuyển vô kư. Hoặc cũng có khi tùy tâm chuyển vô kư lại xuất phát một tâm tùy chuyển thiện; nhưng từ tâm chuyển thiện th́ không bao giờ có tâm tùy chuyển vô kư bởi v́ lời thuyết giáo của chư phật không bao giờ suy kiệt.

Có bộ phái (Mahāsāṃghikas, v.v) nói rằng tâm của chư phật không bao giờ thuộc vô kư bởi v́ chư phật luôn luôn nhập định; chuỗi tâm tương tục của chư phật chỉ thuần các tâm thiện (kuśalaikatāna). Kinh (Anguttara, iii. 346; Theragāthā, 696-697) nói: “Thế Tôn (na-già, naga) tại định khi đi, khi đứng, khi nằm, khi ngồi.”

(Tỳ-bà-sa) Sở dĩ kinh nói như vậy là v́ tâm của Thế Tôn không phân tán (avisaraṇa) đến các sự vật nếu như ngài không muốn (anicchayā) [Thế Tôn luôn luôn tại định (nityasamāhita) có nghĩa là sự ức niệm luôn luôn hiện diện ở ngài: Khi đi ngài biết là ḿnh đi.] Tuy nhiên điều này không có nghĩa rằng Thế Tôn không có các pháp vô kư như các pháp thuộc dị thục sinh (vipākaja), các pháp thuộc về oai nghi (īryāpatha), thông quả tâm (nīrmāṇacitta).

Chúng ta đă biết rằng ư thức thuộc tu đoạn vừa là chuyển vừa là tùy chuyển và có thể thuộc thiện, bất thiện hoặc vô kư.

Loại tâm thuộc dị thục sinh sinh khởi một cách tự nhiên không do gia hành (nirabhisaṃskāravāhin) th́ không phải là tâm tùy chuyển, cũng không phải là tâm chuyển.

(Hỏi) Biểu nghiệp có tánh thiện, bất thiện hay vô kư là tùy thuộc tánh loại của tâm tùy chuyển hay tâm chuyển?

(Đáp) Câu hỏi trên nhắm đến điều ǵ? Nếu giống như tánh loại của tâm chuyển th́ hai loại thân kiến (satkāya) và biên kiến (antagrāha) đều là tâm chuyển v́ chúng thuộc tánh hữu phú vô kư. Nếu biểu nghiệp do chúng dẫn khởi có tánh loại giống như chúng th́ ở Dục giới lẽ ra phải có một hành động thuộc loại hữu phú vô kư; tuy nhiên kết quả này không thể chấp nhận được. Nếu các ông cứ khăng khăng giữ lấy ư kiến của ḿnh th́ các ông phải thừa nhận, mặc dù đi ngược lại chủ trương của các ông rằng tất cả các tâm thuộc kiến đoạn đều không phải là tâm chuyển; và điều này cũng có nghĩa là thân kiến và biên kiến không phải là tâm chuyển trong khi các loại kiến (dṛṣṭi) lại là tâm chuyển.

Trong trường hợp giống như tánh loại của tâm tùy chuyển th́ biểu nghiệp, mà nhờ nó mà một người có thể đắc được luật nghi biệt giải thoát, sẽ không phải là thiện tánh. Nếu người này có tâm bất thiện hoặc vô kư trong khi thọ giới (upasaṃpādyamāna).

(Tỳ-bà-sa) Biểu nghiệp có cùng tánh loại với tâm chuyển khi tâm chuyển này thuộc về tu sở đoạn; nhưng không có cùng tánh loại khi tâm chuyển thuộc kiến sở đoạn, chẳng hạn như khi nghĩ: “Cái ta có hiện hữu”, bởi v́ trong trường hợp này, có một tâm chuyển khác nằm giữa tâm chuyển và biểu nghiệp - một loại tâm thuộc tu sở đoạn, hướng ra bên ngoài, có kèm theo tầm tứ, và qua đó người ta thuyết giảng về cái ta chẳng hạn. Loại tâm chuyển thứ nhất thuộc tánh vô kư; loại thứ hai thuộc tánh bất thiện; và biểu nghiệp cũng thuộc tánh bất thiện. Từ loại tâm chuyển thuộc kiến đoạn phát khởi một tâm chuyển khác thuộc tu đoạn có tánh thiện, bất thiện hoặc vô kư; và từ tâm chuyển thứ hai này dẫn khởi một loại biểu nghiệp có cùng tánh loại.

(Luận chủ) Nhưng nếu biểu không phải do tâm tùy chuyển mà có tánh thiện, bất thiện hoặc vô kư th́ giải thích được các ông trích dẫn từ kinh sẽ không có giá trị. Các ông đă nói rằng kinh chỉ lấy “kiến” (dṛṣṭi) làm tâm chuyển và do đó khi khẳng định tà kiến phát sinh biểu th́ kinh không đi ngược lại nguyên tắc “tâm thuộc kiến đoạn không dẫn sinh biểu”, cũng không trái với hệ luận “không có loại biểu hữu phú vô kư ở dục giới”. V́ thế nên nói rằng kinh chỉ xem “kiến” (dṛṣṭi) như là loại tâm chuyển mà theo sau nó là một tâm chuyển khác ngăn cách tâm chuyển trước với biểu nghiệp, và thuộc về loại được đoạn trừ bởi tu đạo.  

Phần 13

Phần này nói về các tính chất của biểu và vô biểu.  

無表三律儀  不律儀非二.

[Ba loại vô biểu là luật nghi,

Bất luật nghi, phi luật nghi phi bất luật nghi.]  

Luận:  Vô biểu có ba loại: (1) luật nghi (saṃvara), có khả năng thu thúc (saṃvṛṇoti) và trừ diệt hoặc ngăn chặn ḍng tương tục của ác giới (dauḥṣīlyaprabandha); (2) bất luật nghi (asaṃvara) là trái với luật nghi, tức không có luật nghi; (3) phi luật nghi phi bất luật nghi (naivasaṃvarmāsaṃvara) là loại không có tính chất của luật nghi cũng như bất luật nghi.  

律儀別解脫  靜慮及道生.

[Luật nghi biệt giải thoát,

Luật nghi tĩnh lự và luật nghi vô lậu.]

Luận:  Có ba loại luật nghi: (1) luật nghi biệt giải thoát (prātimokṣasaṃvara) là giới luật (śīla) hệ thuộc dục giới, là giới luật của chúng sinh ở thế giới này; (2) luật nghi tĩnh lự, sinh khởi từ tĩnh lự (dhyāna), là giới luật hệ thuộc sắc giới; (3) 

初律儀八種  實體唯有四

形轉名異故  各別不相違.

[Luật nghi thứ nhất có tám loại,

Nhưng thực ra chỉ có bốn;

V́ h́nh tướng thay đổi nên tên gọi khác nhau;

Tuy tách rời nhau nhưng không tương vi.]

Luận:  Luật nghi biệt giải thoát có tám loại. Đó là các luật nghi thuộc Bí-sô (bhikṣu) Bí-sô-ni (bhikṣuṇi), Chánh học (śikṣamāṇā), Cần sách (śrāmaṇera), Cần sách nữ (śrāmaṇerikā), Cận sự (upāsaka), Cận sự nữ (upāsikā), Cận trú (upavāsastha). Tám loại này đều là luật nghi của biệt giải thoát v́ thế đứng về mặt tên gọi th́ được chia làm tám loại; nhưng thực ra chỉ có bốn loại có các tính chất khác nhau; đó là luật nghi của Bí-sô, Cần sách, Cận sự và Cận trú. Thật vậy, luật nghi của Bí-sô-ni không khác và không tách rời luật nghi của Bí-sô; luật nghi của chánh học và Cần sách nữ không khác với luật nghi của Cần sách; luật nghi của Cận sự nữ không khác với luật nghi của Cận sự.

Giới tính (vyañjana), tức Linga, giúp phân biệt sự khác nhau giữa nam giới và nữ giới. Chính v́ có giới tính mà có sự khác nhau về tên gọi như Bí-sô, Bí-sô-ni, v.v..

Khi giới tính thay đổi (chuyển căn vị) th́ Bí-sô trở thành Bí-sô-ni, Bí-sô-ni trở thành Bí-sô, Cần sách thành Cần sách nữ, Cần sách nữ và Chánh học thành Cần sách; Cận sự thành Cận sự nữ, Cận sự nữ thành Cận sự. Tuy nhiên không thể thừa nhận khi thay đổi giới tính (parivṛttavyañjana) th́ có thể xả bỏ luật nghi trước đó và đắc được luật nghi mới bởi v́ sự thay đổi giới tính không thể có công năng này. V́ thế bốn loại luật nghi thuộc nữ giới đều phối hợp với ba loại luật nghi thuộc nam giới. 

(Hỏi) Khi các luật nghi được thọ tŕ kế tiếp nhau, tức từ luật nghi Cận sự với năm giới tiếp theo là luật nghi Cần sách với mười giới, rồi đến luật nghi Bí-sô với hai trăm năm mươi giới, th́ có phải các loại luật nghi này chỉ khác nhau v́ có thêm vào các giới mới - tức cũng giống như sự khác nhau giữa các con số năm, mười, hai mươi; giữa một số cuối và hai số cuối - hay mỗi một luật nghi đều được sinh khởi riêng cho nên có thể tách rời nhau?

(Đáp) Các luật nghi đều tách rời nhau mà không tương tạp. Ngay cả trong các phần luật nghi chung - như Cận sự, Cần sách và Bí-sô đều từ bỏ (virati) sự giết hại, trộm cắp, tà dâm, nói dối, các chất uống làm say - th́ cả ba loại luật nghi đều có những tính chất riêng biệt.

Sự khác nhau của chúng nằm ở các trường hợp phạm giới (nidāna). Một người càng thọ tŕ được nhiều giới luật (học xứ; śikṣāpada) th́ càng tránh được (viễn ly) nhiều trường hợp sinh tâm kiêu mạn (mada) và phóng dật (pramādasthāna); tức cũng tránh được nhiều nhân duyên phạm giới sát, v.v.. Nhờ thế ba loại viễn ly này không bị tạp loạn. Nếu không phải như vậy, nếu luật nghi của Cận sự và Cần sách lẫn lộn (antarbhāva) với luật nghi của Bí-sô th́ khi một Bí-sô xả bỏ luật nghi Bí-sô (saṃvaraṃ prat yācakṣāṇaḥ) cũng sẽ lập tức xả bỏ cả ba loại luật nghi; nhưng không ai chấp nhận điều này v́ thế các loại luật nghi đều tách rời nhau.

Tuy nhiên chúng không trái nghịch nhau. Chúng có thể cùng hiện hữu bởi v́ khi thọ tŕ một giới luật mới th́ người ta không từ bỏ giới luật trước đó. Điều này cũng có nghĩa một Bí-sô khi xả bỏ giới Bí-sô vẫn c̣n các luật nghi của Cận sự và Cần sách. (Vibhāṣā, 124, 4).

(Hỏi) Làm thế nào để trở thành Cận sự, Cận trú, Cần sách, ,Bí-sô? 

Tụng đáp:   

受離五八十  一切所應離

立近事近住  勤策及苾芻.

[Thọ giới xả ly năm, tám, mười

Tất cả những ǵ cần phải xả ly

Th́ trở thành Cận sự, Cận trú, Cần sách và Bí-sô.]  

Luận:  Khi thọ giới xả ly (viratisamādāna) năm điều: (1) giết hại (prāṇātipāta), (2) trộm cắp (adattādāna), (3) tà dâm (dục tà hạnh, kāmamihyācāra), (4) nói dối (mṛṣāvāda), (5) các chất uống làm say (surāmaireyapramādasthānavirata) tức đă tự đặt ḿnh vào luật nghi của Cận sự. Khi thọ giới xả ly tám điều: (1) giết hại, (2) trộm cắp, (3) dâm dục (phi phạm hạnh, abhrahmacarya), (4) nói dối, (5) các chất uống làm say, (6) sử dụng hương thơm, ṿng hoa, son phấn (gandhamālyavilepana), xem nghe múa hát, nhạc (nṛtyagītavāditā), (7) giường cao, giường lớn (uccaśayana, mahāśayana), (8) ăn không đúng lúc (thực phi thời thực, vikālabhojana), tức đă tự đặt ḿnh vào luật nghi của Cận trú.

Khi chấp nhận xả ly tám điều trên đây, cộng thêm sự xả ly vàng và bạc, tức đă tự đặt ḿnh vào luật nghi của Cần sách. Trong trường hợp này vẫn được kể là mười điều bởi v́ điều thứ sáu ở trên được phân thành hai loại là sử dụng hương thơm ṿng hoa son phấn và xem nghe múa hát nhạc.

Khi chấp nhận xả ly tất cả các thân nghiệp và ngữ nghiệp cần phải xả ly tức đă tự đặt ḿnh vào luật nghi của Bí-sô.

(Hỏi) Các tên gọi khác nhau của luật nghi biệt giải thoát là ǵ? 

Tụng đáp:   

俱得名尸羅  妙行業律儀

唯初表無表  名別解業道.

[Đều được gọi là thi-la,

Diệu hạnh, nghiệp luật nghi;

Chỉ biểu là vô biểu đầu tiên

Tạo thành con đường của nghiệp.]  

Luận:  Thi-la (giới, śīla) là điều chỉnh (pratisṃsthāpana) những ǵ không đúng đắn (viṣama) bởi v́ người tạo tội thường cư xử một cách không đúng đắn đối với người khác. Nguyên nghĩa của sila là làm cho tươi mát, như có bài tụng đă viết: “May thay được thọ tŕ giới luật, v́ giới luật không đốt cháy”.

Được gọi là diệu hạnh bởi v́ bậc trí giả đều tán dương các giới luật này. 

Được gọi là nghiệp bởi v́ thể tánh của giới luật chính là nghiệp.

(Vấn nạn) Ở trên kinh đă nói rằng vô biểu là “không tạo tác” (akaraṇa); như vậy làm sao có thể là nghiệp được?

(Giải thích) Chắc chắn vô biểu khiến cho người thọ giới có tâm tàm sỉ mà thệ nguyện xa ĺa điều ác v́ thế mới gọi là “không tạo tác”; nhưng vô biểu vẫn là nghiệp bởi v́ nó được tạo ra bởi thân ngữ nghiệp (vijñapti) hoặc bởi tâm (citta).

Có luận sư nói rằng vô biểu là nghiệp v́ nó là nhân và quả của hành động.

Được gọi là luật nghi bởi v́ giới luật kềm chế hoặc thu thúc thân ngữ.

Khi nói “luật nghi biệt giải thoát” là có ư chỉ cho tất cả luật nghi của biệt giải thoát được tính từ thời điểm đầu tiên.

Tên gọi biệt giải thoát (prātimokṣa) nhằm chỉ cho biểu nghiệp đầu tiên và vô biểu nghiệp đầu tiên của sự thọ giới. Sở dĩ có tên như vậy là v́ đó là sự buông bỏ (tyāga) điều ác (pāpa); và sự buông bỏ này chính là công năng của sát-na đầu tiên (tức biểu nghiệp và vô biểu nghiệp) của sự thọ giới. 

Loại biểu và vô biểu đầu tiên này cũng là “luật nghi của biệt giải thoát” bởi v́ chúng có khả năng thu thúc thân ngữ. Chúng cũng chính là nghiệp đạo, tức là “con đường của loại nghiệp gốc” (căn bổn nghiệp đạo).

Vào sát-na kế tiếp và các sát-na sau đó th́ không c̣n gọi là biệt giải thoát nữa v́ điều ác không c̣n được xả bỏ (prātimokṣyate) bởi sát-na thứ hai sau khi được xả bỏ (prātimokṣita) bởi sát-na đầu tiên. Lúc đó chỉ c̣n “biệt giải thoát luật nghi” (prātimokṣasaṃvara), tức là luật nghi “thuộc loại biệt giải thoát” hay luật nghi “sinh khởi từ biệt giải thoát”; và cũng không c̣n gọi là “căn bản nghiệp đạo” mà chỉ là “hậu khởi nghiệp”.

(Hỏi) Người nào thành tựu mỗi một trong ba luật nghi này?

Tụng đáp:   

八成別解脫  得靜慮聖者

成靜慮道生  後二隨心轉.

[Tám hạng người thành tựu biệt giải thoát.

Người đắc tĩnh lự, và thánh giả

Thành tựu luật nghi tĩnh lự và luật nghi vô lậu;

Hai loại này thuộc tùy tâm chuyển.]

Luận:  Chỉ có tám hạng người thành tựu biệt giải thoát; đó là từ Bí-sô, Bí-sô-ni, … cho đến Cận trú.

(Hỏi) Ngoại đạo (bāhya) có thể thành tựu các giới được thọ (samādānaśīla) không?

(Đáp) Có thể thành tựu các giới này nhưng không thể thành tựu biệt giải thoát luật nghi; bởi v́ giới luật thọ được của họ (như “tôi ĺa bỏ việc giết hại”, v.v.) dựa vào một loại tưởng về hữu (bavasaṃniśrita); ngay cả khi được tái sinh vào một cơi trời nào đó th́ họ vẫn xem điều này như một “sự giải thoát” (mokṣa) v́ họ nhận thức giải thoát chỉ là một loại hữu nào đó. V́ thế, với các giới luật thọ được của họ th́ điều ác không thể được xả bỏ một cách tuyệt đối.

Người nào đắc được tĩnh lự (dhyāna) th́ cũng thành tựu luật nghi sinh từ tĩnh lự này.

“Tĩnh lự sinh” (dhyānaja) có nghĩa là sinh ra từ tĩnh lự hoặc sinh được từ tĩnh lự.

Khi nói “nhờ tĩnh lự” tức hàm ư không phải chỉ có bốn tầng thiền chính (căn bổn, maula) mà c̣n có các loại định lân cận (sāmantaka; tĩnh lự biên). Cũng giống như khi nói: “Ở làng này có ruộng lúa” tức ám chỉ ngôi  làng này và cả ruộng lúa chung quanh. 

Thánh giả; bao gồm hữu học (Śaikṣa) và vô học (Aśaikṣa), thành tựu luật nghi vô lậu (đạo sinh).

(hỏi) Trong phần giải thích về câu hữu nhân ở trước có nói đến hai loại luật nghi thường đi theo tâm (tùy tâm chuyển, cittānuvartin); vậy hai loại này là ǵ?

(Đáp) Đó là luật nghi sinh từ tĩnh lự (dhyāna) và luật nghi vô lậu (đạo sinh); chứ không phải loại biệt giải thoát luật nghi bởi v́ loại này vẫn tiếp tục hiện hữu (anvṛtti) ở những người có tâm bất thiện hoặc vô kư (dị tâm) hoặc những người vô tâm (anyacittācitaka).

(hỏi) Hai loại này được lập thành ở giai đoạn nào?

Tụng đáp:   

未至九無間  俱生二名斷.

[Sinh từ chín vô gián đạo ở Vị chí định

Và đều được gọi là đoạn luật nghi]  

Luận:  Luật nghi tĩnh lự và luật nghi vô lậu đều sinh từ chín vô gián đạo (ānantaryamārga) thuộc Vị chí định (anāgamya) và c̣n có tên là “đoạn luật nghi” (prahāṇasaṃvara) bởi v́ nhờ hai loại luật nghi này mà đoạn trừ được ác giới (dauḥśīlya) và các phiền năo sinh khởi các ác giới này (tatsamutthāpaka).

Như vậy có một loại luật nghi sinh từ tĩnh lự nhưng không gọi là đoạn luật nghi.

Có bốn trường hợp:

(1)                                  Luật nghi tĩnh lự hữu lậu (sāsrava) - ngoại trừ những luật nghi sinh từ vô gián đạo thuộc Vị chí định - là luật nghi sinh từ tĩnh lự nhưng không thuộc loại đoạn trừ.

(2)                                  Luật nghi vô lậu đắc được ở vô gián đạo của Vị chí định là loại đoạn trừ nhưng không phải là luật nghi sinh từ tĩnh lự.

(3)                                  Luật nghi hữu lậu ở vô gián đạo của Vị chí định là luật nghi sinh từ tĩnh lự và thuộc loại đoạn trừ.

(4)                                  Luật nghi vô lậu sinh từ vô gián đạo của Vị chí định là loại luật nghi không sinh từ tĩnh lự và cũng không thuộc đoạn trừ.

Theo các nguyên tắc trên ta có thể lập thành bốn trường hợp đối với luật nghi vô lậu nhưng không phải đoạn trừ, luật nghi đoạn trừ, nhưng không phải vô lậu, v.v.. (Vibhāṣā, 44, 17).

Thế Tôn nói: “Tốt đẹp thay luật nghi của thân, luật nghi của ngữ, luật nghi của ư, luật nghi của tất cả (biến luật nghi)” (Saṃyutta, i. 73; Dhammapada, 361); và “sống có câu thúc nhờ vào luật nghi của nhăn căn” (Anguttara, iii. 387).

(Hỏi) Tự tánh của hai loại luật nghi của ư và luật nghi của căn là ǵ?

(Đáp) cả hai đều không phải là vô biểu.  

正知正念合  名意根律儀.

[Cả chánh tri và chánh niệm

Là luật nghi của ư và luật nghi của căn.]  

Luận:  V́ sợ người đọc có thể hiểu lầm loại luật nghi thứ nhất chỉ là chánh tri (saṃprajñāna) và luật nghi thứ hai chỉ là chánh niệm (smṛti) cho nên luận chủ mới nói là “cả” (hợp).

ở đây hăy xét xem người nào thành tựu biểu và vô biểu; và trong mỗi trường hợp chúng thuộc về giai đoạn nào.  

住別解無表  未捨恒成現

剎那後成過  不律儀亦然

得靜慮律儀  恒成就過未

聖初除過去  住定道成中.

[Trụ luật nghi biệt giải thoát th́ vô biểu

Luôn luôn được thành tựu nếu chưa xả luật nghi;

Sau sát-na thứ nhất cũng thành tựu vô biểu quá khứ.

Trường hợp bất luật nghi cũng như vậy.

Đắc luật nghi tĩnh lự

Luôn luôn thành tựu vô biểu quá khứ và vị lai.

Thánh giả ở sát-na thứ nhất không thành tựu vô biểu quá khứ.

Trụ định, đạo thành tựu vô biểu hiện tại.]  

Luận:  Những người đă thọ luật nghi của biệt giải thoát và vẫn chưa xả bỏ vô biểu nghiệp tạo thành loại luật nghi này th́ luôn luôn thành tựu loại vô biểu hiện tại.

Sau sát-na thứ nhất, tức sát-na được gọi tên là biệt giải thoát, th́ những người này cũng có thành tựu vô biểu nghiệp quá khứ với điều kiện là vẫn chưa xả bỏ luật nghi này.

Đây là trường hợp của những người thọ tŕ luật nghi biệt giải thoát.

Đối với những người đang ở vào giai đoạn của bất luật nghi (asaṃvarastha) cũng như vậy; có nghĩa là chừng nào mà những người này chưa xả bỏ bất luật nghi th́ vẫn thành tựu vô biểu nghiệp hiện tại. Họ cũng thành tựu vô biểu nghiệp quá khứ, tính từ sát-na thứ hai của giai đoạn bất luật nghi.

Đối với những người hoạch đắc luật nghi tĩnh lự (dhyānasaṃvara) th́ khi chưa thối thất loại luật nghi này vẫn luôn luôn thành tựu loại vô biểu quá khứ, vô biểu vị lai; bởi v́ loại vô biểu này - tức luật nghi sinh từ tĩnh lự - thuộc tâm tùy chuyển. Kể từ sát-na đầu tiên đắc được luật nghi tĩnh lự th́ những người này cũng đắc được luật nghi tĩnh lự quá khứ mà họ đă bị thối thất ở đời này hoặc ở đời trước.

Thánh giả thành tựu vô biểu vô lậu, tức loại vô biểu tạo thành luật nghi vô lậu của họ, cũng giống như trường hợp thành tựu vô biểu sinh từ tĩnh lự của những người thành tựu luật nghi tĩnh lự; có nghĩa là thánh giả cũng thành tựu loại vô biểu quá khứ và vị lai. Chỉ có điểm khác nhau là ở sát-na thứ nhất của thánh đạo, v́ lần đầu tiên loại vô biểu vô lậu cho nên rơ ràng là thánh giả không thể thành tựu một vô biểu nghiệp vô lậu quá khứ.

Những người nhập định (samāhita), những người đang đi trên thánh đạo (āryamārgaṃ samāpannaḥ), đều thành tựu vô biểu hiện tại của riêng họ; tức loại vô biểu sinh từ tĩnh lự hoặc vô biểu vô lậu. Nhưng khi xuất định (vyutthita) th́ họ không c̣n thành tựu loại vô biểu hiện tại này bởi v́ loại này chuyển biến theo tâm.

Trường hợp của những người đang ở trong t́nh trạng không phải luật nghi cũng không phải bất luật nghi được gọi tên là “ở giữa” (trụ trung, madhyastha); bởi v́ họ không thành tựu các luật nghi như luật nghi Bí-sô, v.v., và cũng không thành tựu bất luật nghi giống như những người phạm tội.  

住中有無表  初成中後二.

[Trường hợp “ở giữa” nếu có vô biểu

Th́ sát-na đầu thành tựu hiện tại; sát-na sau thành tựu cả hai.]

Luận:  Trường hợp “ở giữa” vào sát-na đầu tiên có thể thành tựu loại vô biểu “trung b́nh” nếu như có vô biểu nghiệp sinh khởi.

Ở đây khi nói “trung b́nh” (madhya) là để chỉ cho hiện tại, tức nằm giữa quá khứ và vị lai.

Nghiệp (vijñapti) không nhất thiết phải sinh khởi vô biểu; và những người thuộc trường hợp “ở giữa” cũng không nhất thiết phải thành tựu vô biểu. Nếu có vô biểu th́ loại vô biểu này có thể tạo ra bởi một nghiệp thuộc ác giới (dauḥśīlya) hoặc một nghiệp thuộc giới luật (śīlānga), hoặc là loại vô biểu do các thiện nghiệp hoặc bất thiện nghiệp khác tạo ra như lễ bái bảo tháp (stūpa), đă thương người khác. Vào sát-na loại vô biểu này sinh khởi th́ những người này thành tựu vô biểu này ở hiện tại. Sau đó họ có thể thành tựu cả hai loại vô biểu hiện tại và quá khứ nếu chưa xả bỏ.

(Hỏi) Người có luật nghi có thể thành tựu ác vô biểu không? Người không có luật nghi (bất luật nghi) có thể thành tựu thiện vô biểu không? Trong cả hai trường hợp, thời gian thành tựu kéo dài bao lâu?

Tụng đáp:   

住律不律儀  起染淨無表

初成中後二  至染淨勢終.

[Trụ luật nghi, bất luật nghi,

Khởi vô biểu nhiễm, tịnh;

Sát-na đầu thành tựu hiện tại, sau đó cả hiện tại và quá khứ,

Cho đến khi thế lực của nhiễm, tĩnh kiệt tận.]  

Luận:  Nếu đang ở vào giai đoạn của luật nghi (trụ luật nghi, saṃvarastha) nhưng v́ phiền năo quá mạnh (thắng phiền năo, kleśavega) mà tạo tác ác nghiệp như giết, đánh, trói, v.v., th́ vẫn phát sinh loại vô biểu bất thiện. Nếu đang ở giai đoạn của bất luật nghi nhưng v́ có sức mạnh của ḷng tin (praśādavega) mà tạo tác thiện nghiệp như lễ bái bảo tháp th́ vẫn phát sinh loại vô biểu thiện. Chừng nào thế lực của phiền năo cũng như sức mạnh của ḷng tin c̣n tồn tại th́ hai loại vô biểu nhiễm ô và thanh tịnh vẫn c̣n kéo dài.

Vào sát-na có các hành động trên đây th́ người tạo tác thành tựu được vô biểu hiện tại; và sau đó là thành tựu vô biểu cả hiện tại và quá khứ.  

表正作成中  後成過非未

有覆及無覆  唯成就現在.

[Có tạo tác biểu nghiệp th́ thành tựu ở hiện tại;

Về sau thành tựu quá khứ chứ không phải vị lai.

Biểu nghiệp hữu phú và vô phú

Chỉ thành tựu hiện tại.]

 

Luận:  Người nào có tạo tác một hành động thuộc thân và ngữ (vijñapti), thuộc về luật nghi, bất luật nghi hay “ở giữa” th́ đều thành tựu loại biểu nghiệp này ở hiện tại; có nghĩa là trong suốt thời gian tạo tác hành động này. Từ sát-na thứ hai trở đi chỉ thành tựu biểu nghiệp quá khứ cho đến khi xả bỏ.

Không ai có thể thành tựu một biểu nghiệp vị lai bởi v́ biểu nghiệp không chuyển biến theo tâm (cittānuparivartinī).

Cũng không thành tựu các biểu nghiệp quá khứ thuộc hai loại hữu phú và vô phú; tức là các hành động thuộc tánh vô kư hữu phú và vô kư vô phú.

Các loại hành động này không được thành tựu một khi đă trở thành quá khứ bởi v́ sự hoạch đắc (prāpti) một pháp yếu liệt, có nghĩa là tự thân sự hoạch đắc này cũng yếu liệt, th́ không thể tồn tại lâu (anubandhinī).

(Hỏi) Tại sao pháp này, tức hành động thuộc tính vô kư này, lại yếu liệt?

(Đáp) Bởi v́ loại tâm sinh ra nó cũng yếu liệt.

(Hỏi) Như vậy tự thân sự hoạch đắc loại tâm này cũng không thể tồn tại lâu dài?

(Đáp) Không phải như vậy v́ hai trường hợp khác nhau. Biểu nghiệp vốn tŕ độn (jaḍa) v́ không liễu tri sự vật (anālambanatvāt); hơn nữa nó là pháp có tính chất phụ thuộc (y tha khởi, paratantra) v́ phải dựa vào tâm; trong lúc tâm lại không giống như vậy. V́ thế loại biểu nghiệp được tâm vô kư sinh ra yếu liệt hơn tâm này; và sự hoạch đắc biểu nghiệp không thể kéo dài nhưng sự hoạch đắc loại tâm sinh ra biểu nghiệp th́ vẫn có thể kéo dài.

Ở trên có nói đến bất luật nghi và những người ở vào giai đoạn của bất luật nghi; như vậy bất luật nghi (asaṃvara) là ǵ?

Tụng đáp:   

惡行惡戒業  業道不律儀.

[Là ác hành, ác giới, nghiệp,

Nghiệp đạo, bất luật nghi.]

 

Luận:  Bất luật nghi, v́ không thu thúc thân ngữ.

Ác hạnh (duścarita), v́ bậc trí giả đều quở trách và v́ chiêu cảm quả khổ.

Ác giới (dauḥśīlya), v́ trái với (vipakṣa) giới luật.

Nghiệp, v́ được tạo ra bởi thân ngữ.

Nghiệp đạo, v́ thuộc về loại nghiệp gốc (căn bổn nghiệp nhiếp, maulasaṃgṛhītatvāt).

Những ai thành tựu biểu nghiệp cũng có thể thành tựu vô biểu nghiệp.

Có bốn trường hợp:  

成表非無表  住中劣思作

捨未生表聖  成無表非表.

[Thành tựu biểu chứ không phải vô biểu

Là trường hợp “ở giữa” tạo tác với loại tư yếu liệt.

Thánh giả đă xả hoặc chưa sinh biểu

Chỉ thành tựu vô biểu chứ không phải biểu.]  

Luận:  Những người thuộc loại “phi luật nghi phi bất luật nghi” và tạo nghiệp (vijñapti) thiện hoặc ác với một loại tư (cetanā) yếu liệt th́ chỉ thành tựu được loại nghiệp này mà không thành tựu vô biểu. Và càng không thể thành tựu vô biểu khi biểu nghiệp thuộc loại vô kư (avyākṛta).

Thánh giả, sau khi chuyển sinh (dịch sinh thánh), đă không tạo biểu nghiệp (chẳng hạn khi thánh giả c̣n ở trong bào thai hay đă tái sinh vào Vô sắc giới) hoặc đă xả bỏ biểu nghiệp (loai biểu nghiệp được tạo ra với loại tư vô kư) th́ thánh giả chỉ thành tựu vô biểu (tức loại vô biểu vô lậu đắc được ở đời trước) chứ không thành tựu biểu nghiệp.

Hai trường hợp c̣n lại - thành tựu cả biểu, vô biểu, và không thành tựu biểu cũng như vô biểu - đều được lập thành dựa vào các nguyên tắc trên.

(Hỏi) Làm thế nào đắc được các luật nghi này?

Tụng đáp:   

定生得定地  彼聖得道生

別解脫律儀  得由他教等.

[Luật nghi do định sinh đắc được bởi tâm thuộc định địa;

Khi các tâm này thuộc thánh th́ đắc được luật nghi vô lậu.

Biệt giải thoát luật nghi

Đắc được nhờ sự thông tin của người khác, v.v.]  

Luận:  Luật nghi tĩnh lự đắc được bởi loại tâm thuộc về một địa nào đó của tĩnh lự; đó là tâm thuộc tĩnh lự căn bổn (mauladhyāna) (tức bốn tầng thiền) thuộc tĩnh lự cận phần (sāmaṇtaka) (tức bốn loại định đi trước bốn tầng thiền) và tâm hữu lậu, tức là loại tâm không tạo thành một phần của thánh đạo; bởi v́ loại luật nghi này cũng hiện hữu với tâm (sahabhūta).

Luật nghi vô lậu cũng đắc được nhờ các tâm trên nhưng khi chúng thuộc về “thánh”. Ở đây “thánh” (ārya) có nghĩa là vô lậu (anāsrava), tức là loại tâm tạo thành một phần của thánh đạo.

Ở phần sau sẽ giải thích thêm về loại tâm “thánh” này ở sáu địa của tĩnh lự, đó là bốn tĩnh lự căn bổn, trung gian tĩnh lự (dhyānāntara), và Vị chí định (anāgamya) (tức tĩnh lự cận phần đầu tiên).

Biệt giải thoát luật nghi đắc được do “tha giáo” (paravijñāpana), v.v.. “Tha giáo” là thông tin của người khác và thông tin bởi người khác. Giới tử giúp người khác biết được một điều ǵ đó và người khác lại giúp giới tử biết được một điều ǵ đó. Trong trường hợp này “người khác” có thể là tăng chúng (saṃgha) nếu thọ tŕ luật nghi của Bí-sô, Bí-sô-ni, Chánh học, nhưng cũng có thể là một người (pudgala) nếu thọ tŕ năm giới khác của biệt giải thoát.

Theo các luận sư về luật (tỳ-nại-da, vinaya) của bộ phái Tỳ-bà-sa th́ có mười loại đắc giới (upasaṃpad); và v́ muốn bao hàm tất cả mười loại này trong định nghĩa trên nên luận chủ đă nói: … “Nhờ sự thông tin của người khác, v.v..”

(1)                                 Tự ḿnh đắc giới (do tự nhiên) như trường hợp của phật và phật độc giác (Pratyekabuddha).

(2)                                 Do nhập thánh đạo (chánh tánh ly sinh, niyāmāvakrānti) như trường hợp của năm Bí-sô, tức Ājñātakauṇdinya (A-nhă Kiều-trần-như) và các đồng đạo.

(3)                                 Do lời phật bảo: “Hăy đến đây, Bí-sô!” như trường hợp của Ājñāta.

(4)                                 Do nhận Thế Tôn làm thầy, như trường hợp của Mahākāśyapa (Đại Ca-diếp).

(5)                                 Do trả lời đúng câu hỏi của Thế Tôn, như trường hợp của Sodāyin (Tô-đà-di).

(6)                                 Do chấp nhận các điều lệ đặc biệt đối với người xuất gia, như trường hợp của Mahāprajāpatī (Ma-ha Ba-xà-ba-đề, Đại sinh chủ).

(7)                                 Do một sứ giả, như trường hợp của Dharmadinnā (ni cô Pháp thọ).

(8)                                 Do tŕ luật (vinayadhara) là người thứ năm, tức đắc giới trước một tăng chúng gồm năm vị Bí-sô ở những vùng biên giới.

(9)                                 Do mười vị Bí-sô, tức trong trường hợp ở các vùng nằm giữa một nước (madhyadeśa, trung quốc).

(10)                             Do lập lại ba lần lời phát nguyện quy y tam bảo, như trường hợp của sáu mươi hiền bộ (Bhadravargas) cùng chung thọ giới.

Như vậy theo các luận sư trên, luật nghi biệt giải thoát không nhất thiết phải nhờ có biểu nghiệp mới có thể đắc được, như trong trường hợp của đức phật, v.v., chẳng hạn.

(Hỏi) Khi nào có thể thọ tŕ (samādāna) luật nghi biệt giải thoát, và phải thọ tŕ trong bao lâu?

Tụng đáp:   

別解脫律儀  盡壽或晝夜

[Luật nghi biệt giải thoát

Được thọ tŕ suốt đời hoặc chỉ một ngày đêm.]  

Luận:  Bảy nhóm đầu tiên trong số các luật nghi thuộc biệt giải thoát được thọ tŕ trọn đời; luật nghi thuộc về Cận trú (upvāsastha) chỉ được thọ tŕ chỉ trong một ngày đêm. Điều này đă thành luật.

Tại sao như vậy? - Bởi v́ chỉ có hai thời khoảng (thời biên tế, kālāvadhi) là thời khoảng dài bằng cả mạng sống (thọ biên tế) và thời khoảng một ngày một đêm (trú dạ biên tế). Các thời khoảng mười lăm ngày (bán nguyệt) và các thời khoảng khác đều được bao hàm trong thời khoảng một ngày một đêm này.

(Hỏi) Pháp có tên là “thời” (kāla) là pháp ǵ?

(Đáp) Đây không phải là một thực pháp (padārtha) thường hằng, như có người đă từng tin tưởng như thế. Chữ “thời” chỉ là một cách nói mà qua đó người ta muốn chỉ cho các hành pháp (saṃskāras) ở quá khứ, vị lai và hiện tại.

Ngày là khi trời sáng ở bốn đại châu; và đêm là khi trời tối.

(Kinh bộ) Chúng tôi thừa nhận luật nghi biệt giải thoát có thể chỉ được sinh khởi trong suốt cả một đời sống. Thật vậy, ngay cả khi chúng ta phát nguyện giữ giới trong đời sống kế tiếp th́ chúng ta cũng không phát khởi được loại giới này cho đời sống đó; bởi v́ (1) thân sở y (āśraya) lúc đó sẽ khác (nikāyasabhāga), (2) thân sở y mới sẽ không có tính chất thích dụng đối với các luật nghi đă thọ tŕ, (3) thân sở y mới cũng sẽ không nhớ được sự phát nguyện thọ giới.

Tuy nhiên, nếu một người thọ tŕ các giới của Cận trú trong hơn một ngày một đêm, trong năm ngày, trong mười ngày, v.v., th́ có chướng ngại nào đối với việc phát khởi nhiều giới Cận trú ở người này không?

(Hữu bộ) Chắc chắn phải có chướng ngại nào đó bởi v́ Thế Tôn có nói trong kinh rằng Cận trú giới chỉ được thọ tŕ trong một ngày một đêm.

(Kinh bộ) Như vậy vấn đề nảy sinh ở đây là tại sao Thế Tôn lại tuyên thuyết như vậy. Có phải ngài đă nghĩ rằng luật nghi Cận trú không thể phát khởi trong một thời khoảng lâu dài hơn? Hay là ngài nghĩ rằng căn cơ chúng sinh rất khó điều phục, v́ thế chỉ nên thọ Cận trú giới trong một ngày một đêm th́ việc giữ giới có thể dễ dàng hơn? Bởi v́ thật ra chẳng có ǵ trái ngược nếu phát khởi được luật nghi Cận trú trong một khoảng thời gian dài hơn một ngày. 

Tuy nhiên, Tỳ-bà-sa cho rằng không thể thừa nhận cách giải thích trên bởi v́ Thế Tôn không nói đến việc thọ luật nghi Cận trú trong một thời khoảng dài hơn.

(Hỏi) Đắc bất luật nghi kéo dài trong bao lâu?

Tụng đáp:   

惡戒無晝夜  謂非如善受.

[Ác giới không chỉ một ngày một đêm,

Tức không giống như thọ thiện giới.]  

Luận:  Bất luật nghi không bao giờ kéo dài chỉ trong một ngày một đêm như loại luật nghi Cận trú bởi v́ bất luật nghi được phát sinh do sự tạo tác ác nghiệp trong suốt cả một đời (pādadharmābhyupagama).

(Hỏi) Tại sao lại như vậy?

(Đáp) Người ta không đắc bất luật nghi như trong trường hợp đắc luật nghi Cận trú bằng cách nói rằng “tôi nguyện ở trong bất luật nghi một ngày một đêm”; bởi v́ điều này rất đáng chê trách.

(Vấn nạn) Cũng không có ai đắc bất luật nghi bằng cách nói rằng “tôi nguyện suốt đời ở trong bất luật nghi”; v́ thế sẽ không có trường hợp đắc bất luật nghi trong suốt cả đời.

(Giải thích) Đúng là không có ai đắc bất luật nghi theo kiểu này; người ta không đắc bất luật nghi nhờ vào một lễ nghi mà là qua những hành động với ư định luôn luôn làm điều ác; và cũng không đắc bất luật nghi bằng những ư định chỉ làm điều ác trong một khoảng thời gian nào đó (kālāntaravipanna). Trong trường hợp của luật nghi Cận trú, loại ư định này không có tính chất “luôn luôn” mà cần phải hoạch đắc nhờ vào lực của các nghiệp như “tôi nguyện an trú một ngày một đêm trong Cận trú giới”; và người ta đă tạo các nghiệp này chỉ v́ mong muốn đắc được luật nghi này. Nếu có người nào đó mong muốn đắc bất luật nghi th́ chắc chắn họ cũng có thể thọ tŕ bất luật nghi trong một khoảng thời gian nào đó và sẽ đắc được bất luật nghi trong khoảng thời gian này. Tuy nhiên trường hợp này không xảy ra v́ thế chúng tôi không xem bất luật nghi là loại được thọ tŕ “trong một thời khoảng nhất định nào đó” (yếu kỳ).

Các luận sư Kinh bộ nói rằng bất luật nghi không thật sự hiện hữu (dravyatas) bên ngoài tư (cetanāvyatirikta). Bất luật nghi chính là ư muốn tạo ác (pāpakriyābhisaṃdhi); có nghĩa là một loại tư nào đó (cetanāviśeṣa) với những dấu vết (anubandha, vāsanā) mà loại tư này đă để lại. Và chừng nào loại tư này cùng với những dấu vết của nó chưa được một loại tư khác đối nghịch đoạn trừ th́ con người, cho dù có được thiện tâm đi nữa, vẫn c̣n đầy dẫy bất luật nghi (asaṃvaravān), vẫn là người không có luật nghi.

(Hỏi) Làm thế nào để thọ tŕ luật nghi một ngày một đêm, tức luật nghi Cận trú?

Tụng đáp:   

近住於晨旦  下座從師受

隨教說具支  離嚴飾晝夜.

[Cận trú được thọ vào sáng sớm;

Ngồi ở phía dưới; thọ giới theo thầy;

Nghe lời dạy mà có đủ tám chi;

Xả bỏ trang sức; trong một ngày một đêm.]  

Luận:  Luật nghi Cận trú được thọ tŕ

(1)                                 Trong một tư thế khiêm tốn, hoặc ngồi xổm (utkuṭuka) hoặc quỳ gối; hai bàn tay nắm lại theo kiểu bồ câu (kapotaka) (bằng cách đặt bốn ngón tay của bàn tay này vào giữa ngón cái và ngón trỏ của bàn tay kia), hoặc chắp hai bàn tay lại với nhau (hiệp chưởng, añajali); ngoại trừ trường hợp bị bệnh. Nếu không cung kính, không thể phát khởi luật nghi.

(2)                                 Giới tử không được nói trước thầy truyền giới (datar), cũng không được nói cùng lúc. V́ thế mới gọi là đắc giới từ người khác (ṭng sư giáo thọ); nếu không, sự thọ giới cũng như sự truyền giới sẽ bất thành.

(3)                                 Giới tử không mang đồ trang sức; nhưng có thể giữ lại các thứ trang sức thường ngày bởi v́ các thứ này không sinh tâm kiêu mạn.

(4)                                 Sự thọ giới kéo cho đến sáng hôm sau, đến khi mặt trời mọc.

(5)                                 Giới tử phải thọ tŕ đủ tám chi và không được thiếu chi nào cả th́ luật nghi Cận trú mới hoàn măn.

(6)                                 Giới tử bắt đầu thọ vào sáng sớm khi mặt trời mọc bởi v́ đây là loại luật nghi thuộc về “một ngày một đêm” (Vibhāṣā, 124, 7).

Những người nào trước đó đă phát nguyện: “tôi sẽ luôn luôn tŕ Cận trú giới vào ngày thứ tám của nửa tháng, v.v.”, th́ họ sẽ thọ được loại luật nghi này ngay cả sau khi ăn xong.

(7)                                 Giới tử phải thọ luật nghi Cận trú từ người khác chứ không thể tự thọ. Nếu sau này gặp phải các duyên khiến cho giới tử phạm phải việc ác (phạm giới duyên) th́ nhờ sinh tâm hổ thẹn đối với thầy truyền giới mà có thể sẽ không phạm các giới đă thọ.

Nếu không làm đúng theo các điều trên đây th́ người thọ giới có thể có được hành động tốt (diệu hạnh) nhưng không thể đắc giới. Nếu làm đúng theo các điều trên th́ luật nghi Cận trú sẽ có tác dụng rất lợi ích ngay cả đối với những người phạm phải ác giới thuộc về một ngày một đêm (như giết hại, trộm cắp, v.v.).

Loại luật nghi này có tên là Cận trú (upavāsa) bởi v́, nhờ biểu hiện được lối sống phù hợp với lối sống của các A-la-hán (tadanuśikṣaṇāt), cho nên luật nghi này được đặt gần (upa) với A-la-hán. Có ư kiến khác cho rằng sở dĩ có tên Cận trú là v́ nằm gần với loại luật nghi thọ tŕ suốt đời (Vibhāṣā, 124, 11).

Mục đích của luật nghi này là cung cấp (dhā) sự tăng trưởng (poṣa) cho các thiện căn (kuśalamūla) của những người chỉ có thiện căn mỏng manh. Và v́ nó giúp tăng trưởng thiện căn cho nên Thế Tôn đă nói: “Luật nghi này được gọi là trưởng dưỡng (poṣadha).”

(Hỏi) Tại sao luật nghi Cận trú phải được thọ tŕ đủ cả tám chi?

Tụng đáp:   

戒不逸禁支  四一三如次

為防諸性罪  失念及憍逸.

[Các chi giới, bất phóng dật, cấm ước

Theo thứ tự trên gồm bốn, một, ba chi;

Để pḥng các tánh tội, 

Thất niệm và kiêu dật.]  

Luận:  Bốn chi - bao gồm sự ĺa bỏ giết hại, trộm cắp, tà dâm, nói dối - tạo thành một chi thuộc thiện giới (giới chi, śīlānga); bởi v́ nhờ có chi này mà loại tội lỗi “tự nhiên” (tánh tội, prakṛtisāvadya) mới được đoạn trừ.

Sự ĺa bỏ các chất uống làm say tạo thành một chi của sự “chuyên chú” (bất phóng dật) bởi v́ nhờ có chi này mà ngăn chận được sự “phóng túng” (phóng dật, pramāda). Một người dù đă đắc giới (giới chi) nhưng nếu uống rượu th́ vẫn mắc phải t́nh trạng “không chuyên chú” (pramatta).

Ba chi khác - bao gồm sự ĺa bỏ giường cao, nghe nhạc, v.v., và ăn không đúng lúc - tạo thành một chi thuộc về sự câu thúc (cấm ước chi) bởi v́ các chi này thuận lợi và phù hợp cho sự chán bỏ (yếm ly, saṃvega).

(Hỏi) Tại sao cần phải thọ các chi thuộc về sự “chuyên chú” và “câu thúc”?

(Đáp) Để tránh bị mất trí nhớ (thất niệm) và tránh sự kiêu ngạo khi uống rượu say th́ không c̣n nhớ cần phải làm ǵ và không được làm ǵ. Khi dùng giường rộng và cao, khi ngồi xem múa hát, th́ tâm sẽ sinh kiêu mạn. Trong trường hợp nào đi nữa cũng rất khó tránh được sự phạm giới.

Khi giữ được giới ăn đúng lúc, khi ĺa bỏ được sự ăn không đúng lúc, th́ vẫn c̣n sự ghi nhớ về luật nghi Cận trú và tâm chán bỏ (saṃvega) mới có thể sinh khởi. Nếu không có chi thứ tám th́ sẽ không c̣n sự ghi nhớ về sự chán bỏ.

Có luận sư cho rằng luật nghi Cận trú lấy sự trai giới (upavāsa) làm chính, tức sự ĺa bỏ ăn không đúng lúc; những sự ĺa bỏ khác chỉ là các bộ phận (trai chi, upavāsānga) của sự trai giới này. Sự từ bỏ các thứ ăn uống không phải là một chi; v́ thế để có được con số tám chi người ta phải phân chi thứ bảy làm thành hai chi là (1) không xem nghe múa, hát, nhạc và (2) không dùng hương thơm, ṿng hoa, son phấn.

(Kinh bộ) Giải thích này không phù hợp với kinh bởi v́ kinh có nói rằng ngay sau sự ĺa bỏ ăn không đúng lúc th́ người thọ giới phải nói: “Với điều thứ tám này, tôi phải làm theo giới luật, tôi phải làm theo giới luật của A-la-hán” (Anguttara, iv. 248).

(Hỏi) Nếu vậy trai giới sẽ là ǵ để có thể nói rằng nó khác biệt với tám sự ĺa bỏ kia và tám sự ĺa bỏ kia chỉ là các bộ phận của nó?

(Kinh bộ) Chính từ sự tập hợp chung của các chi mà người ta có thể nói rằng trai giới có các chi này; và người ta đă gom tất cả các chi vào chính sự tập chung này. Cách nói “tám chi trai giới” (trai giới bát chi) cũng giống như khi nói “bộ phận xe” (xa chúng phần), “quân bốn nhánh” (tứ chi quân, caturangabala), “thuốc ḥa năm thứ” (ngũ chi tán, pañcāngapiṣṭa).

Theo Tỳ-bà-sa, việc từ bỏ sự ăn uống không đúng lúc vừa là trai giới vừa là một chi của trai giới. Cũng giống như chánh kiến (samyagdṛṣṭi) vừa là thánh đạo vừa là một chi của thánh đạo (mārgānga); trạch pháp giác chi (dharmapravicaya) vừa là giác (bodhi) vừa là một chi của giác; cũng giống như định (tam-ma-địa, samādhi) vừa là tĩnh lự (dhyāna) vừa là một chi của tĩnh lự.

(Kinh bộ) Nhưng chánh kiến, trạch pháp giác chi hoặc định không thể làm chi cho chính ḿnh. Nếu cho rằng chánh kiến, v.v., sinh khởi trước đó vẫn có thể làm chi cho chánh kiến, v.v., sinh khởi sau đó th́ cũng phải thừa nhận rằng sát-na đầu tiên của thánh đạo không có tám chi; và sát-na cuối cùng của các giác chi không phải là chi.

(Hỏi) Có phải việc thọ đắc luật nghi Cận trú chỉ dành cho Cận sự?

Tụng đáp:   

近住餘亦有  不受三歸無

[Những người khác cũng thọ đắc Cận trú;

Nhưng nếu không thọ tam quy th́ không thể.]  

Luận:  Khi một người không phải là Cận sự nhưng trước khi thọ Cận trú giới lại thọ tam quy trong một ngày một đêm th́ lúc đó luật nghi Cận trú vẫn phát khởi ở người này. Không thể thọ đắc loại luật nghi này nếu không quy y; trừ trường hợp không biết.

(Hỏi) Kinh Đại danh (Mahānāmasūtra; Saṃyukta, 33, 11) nói: “Này Đại danh, hàng tại gia áo trắng, thuộc nam giới và đầy đủ năm căn, sau khi quy y phật, pháp, tăng nếu nói rằng ‘hăy xem tôi là Cận sự (Ổ-ba-sách-ca, Upāsaka)’ th́ sẽ trở thành Cận sự”. Như vậy có phải chỉ cần quy y tam bảo là có thể trở thành Cận sự?

(Đáp) Các luận sư ngoại quốc (aparātakas) nói rằng có thể được. (Vibhāṣā, 124, 1); nhưng các luận sư ở Kaśmīr (Ca-thấp-di-la) lại khẳng định không thể trở thành Cận sự nếu không thọ đắc luật nghi Cận sự.

(Hỏi) Nếu vậy không trái với kinh sao?

(Đáp) Không trái; bởi v́:  

稱近事發戒  說如苾芻等.

[Xưng Cận sự tức phát khởi giới;

Nhưng phải giảng giải thêm như trường hợp của Bí-sô.]  

Luận:  Luật nghi Cận sự có thể phát khởi ở một người thọ nhận các phẩm tánh của một Cận sự khi người này nói: “Kể từ hôm này cho đến suốt đời, hăy xem tôi là một Cận sự “xả sinh” (prāṇāpeta)”.

(Hỏi) “Xả sinh” có nghĩa là ǵ?

(Đáp) Đó là h́nh thức giản lược của nhóm từ “xả sát sinh” (prāṇātipātāpeta), được nói ra sau khi đă từ bỏ sự giết hại.

Như vậy bằng cách chấp nhận các phẩm tánh của Cận sự, một người có thể đắc được luật nghi ngày [bởi v́ người này đă tự chứng tỏ là xả ly sự giết hại]. Tuy nhiên để giúp người này hiểu được các giới khác (śikṣāpada) người ta cần phải có sự giảng giải thêm giống như trường hợp đối với một Bí-sô.

Nhờ hành động của những người truyền giới mà một Bí-sô đắc được luật nghi Bí-sô; tuy nhiên người ta vẫn phải giúp đỡ vị này nắm được các giới luật quan trọng nhất: “Giới tử phải ĺa bỏ điều này, phải ĺa bỏ điều kia. Những người đồng đạo sẽ nói cho giới tử biết các giới luật c̣n lại”. [Vyākhyā: yathaiva hi bhikṣur labdhasaṃvaro ‘Pāṇini jñāpticaturthena karmanā śikṣāpadāni yathāsthūlaṃ grāhyate prajñāpyate / itaś cāmutaś ca pārājikādibhyas tava saṃvaraḥ / anyāni ca te sabrahmacāriṇaḥ kathayiṣyantīti]

Đối với Cần sách cũng như vậy. Và đối với trường hợp của Cận sự cũng như thế: Người thọ luật nghi Cận sự phải thọ một lần, hai lần, ba lần tam quy; sau đó người ta phải giúp người này thọ tŕ (grāhyate) các giới luật: “Khi đoạn trừ sự giết hại, tôi ĺa bỏ sự giết hại”. V́ thế không thể trở thành Cận sự mà không thành tựu luật nghi Cận sự.  

若皆具律儀  何言一分等

謂約能持說.

[Nếu phải đủ luật nghi,

Làm sao Cận sự có thể là “nhất phần”, v.v..

Nói vậy là dựa vào tŕ giới.]  

Luận:  Nếu tất cả Cận sự phải có đủ luật nghi Cận sự th́ làm thế nào Thế Tôn có thể mô tả bốn loại Cận sự: Cận sự một giới (năng học nhất phần, ekadeśakārin), Cận sự hai giới (năng học thiểu phần giới, pradeśakārin), Cận sự ba hoặc bốn giới (năng học đa phần giới, yadbhūyaskārin), Cận sự năm giới (năng học măn phần giới, paripūṇakārin)?

Nói như vậy là căn cứ vào sự tŕ giới. Thật vậy, khi Cận sự thọ tŕ (rakṣati) một trong các giới [mà người này đă thọ nhận tất cả] th́ được nói là có khả năng hành tŕ (kar) giới này. [V́ thế không nên hiểu rằng Cận sự một giới là Cận sự chỉ thọ tŕ độc nhất một giới]. Và tất cả những người thuộc hàng Cận sự đều ở trong luật nghi như nhau.

(Kinh bộ) Chủ trương trên trái ngược với kinh (utsūtra). Các ông nói rằng người ta đắc được luật nghi chỉ cần dựa vào việc thọ nhận các phẩm tánh của Cận sự “xả sinh”, như: “hăy xem đệ tử… là Cận sự xả ly.” Tuy nhiên, những ǵ trích dẫn trên đây không có trong kinh văn. Bản kinh chúng tôi muốn nói đến là kinh Đại danh (Mahānāmasūtra) có đưa ra một định nghĩa về Cận sự và ngoài ra không c̣n một kinh nào khác. Nhưng kinh Đại danh lại không có thêm nhóm từ “xả sinh” (prāṇāpeta).

Nếu như các ông nói rằng các ông đă căn cứ vào một bộ kinh khác, trong đó có ghi: “Kể từ hôm nay cho đến trọn đời [hăy xem đệ tử là một Cận sự] liều bỏ mạng sống của ḿnh (prāṇopeta), sau khi đă quy y tam bảo, và tin tưởng hoàn toàn (abhiprasanna)”; th́ đoạn kinh văn này chỉ nhằm chỉ cho những người nh́n thấy được tứ đế, đă đắc được chánh tín, và v́ thế mà đă quyết chí đi theo chánh pháp cho dù hy sinh cả mạng sống: “Chúng tôi không thể buông bỏ chánh pháp, ngay cả khi cần cứu lấy mạng ḿnh.” Như vậy đoạn kinh trên không hề đưa ra một định nghĩa về luật nghi Cận sự.

Hơn nữa, nhóm từ “xả sinh” mà các ông đă dựa vào đó để đưa ra những giải thích trên không được nơi nào nói đến, không có trong kinh Đại danh mà cũng không có trong kinh Kiến đế (Dṛṣṭasatyasūtra). Ai có thể thừa nhận những thành ngữ mà ư nghĩa lại thiếu chính xác như vậy? Và nếu chỉ dựa vào sự tin tưởng ư nghĩa của nhóm từ trên đây th́ ai có thể thừa nhận rằng Cận sự đă đắc được năm giới trước khi có hành động thọ giới?

Nếu nhóm từ “xả sinh” là để chi cho trường hợp của người phạm giới th́ câu hỏi được nêu ra trong bản kinh trên c̣n không hợp lư huống hồ là câu trả lời. Bởi v́ có người nào đă hiểu rất rơ về luật nghi Cận sự và đă biết rằng loại luật nghi này có tất cả năm chi nhưng lại không thể giải thích được việc: “Người nào không phạm một giới th́ tŕ được một giới” và các giới c̣n lại.

Trái lại chỉ có những người không hiểu được số lượng nhiều hay ít của luật nghi Cận sự và chỉ thấy được những người chỉ có thể hành tŕ một, hai, ba hoặc tất cả các giới (tanmātraśikṣamān prati) th́ mới đưa ra câu hỏi: “phải làm thế nào để trở thành Cận sự thọ tŕ một giới?... Phải là thế nào để trở thành Cận sự thọ tŕ tất cả các giới?”

(Tỳ-bà-sa) Nếu trở thành Cận sự mà không cần phải thành tựu luật nghi Cận sự th́ người ta vẫn có thể trở thành Bí-sô hoặc Cần sách mà không cần phải thọ đủ luật nghi.

(kinh bộ) Bằng cách nào chúng tôi biết được số lượng nhiều hay ít của các luật nghi Cận sự, Cần sách và Bí-sô? Chắc chắn là nhờ sự thuyết giáo của bậc Đại sư. Và ngài đă nói về Cận sự không thành tựu tất cả luật nghi; nhưng ngài không nói về trường hợp Bí-sô hay Cần sách chỉ thành tựu một số luật nghi.

Tuy nhiên các luận sư Tỳ-bà-sa ở Kaśmīr không chấp nhận ư kiến trên.

(Hỏi) Tất cả luật nghi của Cận sự, v.v., được chia thành ba cấp độ khác nhau như thế nào?

Tụng đáp:   

下中上隨心.

[Yếu, trung b́nh, hoặc mạnh là dựa vào tâm.]  

Luận:  Sự phân chia thành các phẩm hạ, trung, thượng của tám loại luật nghi tùy thuộc vào năng lực yếu ớt, trung b́nh hay mạnh mẽ của tâm thọ giới (samādāna). Và nếu như vậy th́ luật nghi biệt giải thoát của một A-la-hán có thể thuộc về hạ phẩm và luật nghi biệt giải thoát của một dị sinh có thể thuộc về thượng phẩm.

(Hỏi) Nếu chỉ thọ luật nghi mà không thọ quy y th́ có thành Cận sự không?

(Đáp) Không thành; ngoại trừ trường hợp người truyền giới và người thọ giới đều không biết.

(Hỏi) Quy y phật pháp tăng là quy y ǵ?

Tụng đáp:   

歸依成佛僧  無學二種法

及涅槃擇滅  是說具三歸.

[Quy y các pháp thành phật, thành tăng

Như pháp vô học, pháp “hai loại”,

Và quy y Niết-bàn trạch diệt.

Như thế là đủ tam quy.]  

Luận:  Quy y phật là quy y các pháp của A-la-hán vốn có khả năng thành phật (buddhakāraka), là các pháp làm nhân của danh xưng “phật, tức nhờ có các pháp làm nguyên nhân chính mà một người nào đó được gọi là phật; hoặc là các pháp mà khi đắc được th́ một người nào đó có thể hiểu biết được tất cả mọi sự và v́ thế được gọi là phật. Các pháp này là tận trí (kṣayajñāna), vô sinh trí (anutpādajñāna) và chánh kiến (samyagdṛṣṭi) cùng với các pháp đi kèm theo các trí này (tùy hành, parivāra), tức năm uẩn vô lậu.

Về sắc thân (rūpakāya) của phật th́ v́ thân này không chịu sự chuyển đổi bởi sự đắc được các phẩm tính của phật cho nên không quy y sắc thân của phật, vốn là sắc thân của Bồ-tát.

(Hỏi) Như vậy phải quy y tất cả các vị phật hay chỉ quy y một vị phật?

(Đáp) Đúng ra phải nói là “quy y nhất thiết chư phật” bởi v́ tất cả chư phật đều đi trên cùng một con đường, đó là con đường tự nhiên (thế gian, laukika) và con đường siêu tự nhiên (xuất thế gian, lokottara).

Quy y tăng (saṃgha) là quy y các pháp hữu học (śaikṣa) và vô học (aśaikṣa) có khả năng thành tăng, tức các pháp mà khi đắc được th́ tám hạng thánh giả (āryapudgala) trở thành một sự “ḥa hợp” (saṃghībhavanti), trở thành một khối “thống nhất” (samagrarūpa) không thể phân ly (abhedyatvāt) về mặt thánh đạo.

(Hỏi) Phải quy y tất cả chúng tăng hay chỉ quy y một chúng tăng?

(Đáp) Lẽ ra phải nói là “quy y tất cả chúng tăng” bởi v́ con đường của thánh chúng th́ luôn luôn như nhau. Hiển nhiên là phật có nói với hai khách thương: “các ông cũng phải quy y chúng tăng ở đời vị lai” (Vibhāṣā, 34, 12); tuy nhiên, Thế Tôn nói như vậy chỉ để tán dương các phẩm tánh của tăng bảo mà chẳng bao lâu nữa các khách thương này sẽ nh́n thấy.

Quy y pháp là quy y Niết-bàn, tức là pháp trạch diệt (pratisaṃkhyānirodha) và phải quy y toàn bộ Niết-bàn bởi v́ Niết-bàn đều có chung một tính chất là chấm dứt phiền năo và khổ đau của chính ḿnh và các chúng sinh khác (śāntyekalakṣaṇatvāt).

(Hỏi) Nếu phật không là ǵ khác hơn các pháp vô học th́ tại sao việc có ác ư làm cho thân phật chảy máu lại thành tội vô gián (ānantarya)?

(Đáp) Tỳ-bà-sa (Vibhāṣā, 34, 9) nói rằng khi làm chảy máu các đại chủng (rūpa) làm sở y cho các pháp này (āśrayavipādanāt) th́ chính các pháp này cũng bị tổn thương.

(Hỏi) Tuy nhiên, luận tạng (Sāstra) (Vibhāṣā, 34, 8) không nói phật “chỉ” là các pháp vô học. Luận chỉ nói rằng phật là các pháp có khả năng làm thành phật, có nghĩa là các pháp tự nhiên hoặc siêu tự nhiên (laukika, lokottara), làm đối tượng của danh xưng “phật” và chính là phật. Như vậy luận không phủ nhận sở y - vốn được tạo thành bởi năm uẩn tự nhiên - tạo thành một phần trong các phẩm tánh của phật (buddhatvāpratiṣedha). V́ thế không cần phải đặt ra vấn nạn trên đây về việc làm thân phật chảy máu.

Nếu không phải như vậy, nếu phật chỉ là các pháp vô học, nếu tăng (tức là hàng thánh giả, hữu học và A-la-hán) chỉ là các pháp hữu học và vô học th́ một khi đang ở vào tâm thế tục (trụ thế tục tâm, laukikacittastha) sẽ không c̣n là phật, cũng không c̣n là tăng. Và nếu các nguyên tắc này th́ Bí-sô cũng chỉ là giới hạnh, chỉ là luật nghi Bí-sô.

(Tỳ-bà-sa) Nhưng nếu thân sở y cũng nằm trong số các pháp thành phật th́ tại sao luận lại nói: “Người nào quy y phật tức là quy y các pháp vô học làm thành phật”.

(kinh bộ) Nếu vậy cũng có thể nói rằng người nào tôn kính Bí-sô th́ điều mà người đó tôn kính chỉ là giới hạnh làm thành Bí-sô.

Có ư kiến cho rằng quy y phật là quy y mười tám pháp bất cọng (āveṇikadharmas) của phật.

(Hỏi) Thể tánh của quy y là ǵ?

(Đáp) Là ngữ biểu. (Vibhāṣā, 34, 10)

(Hỏi) Như vậy ư nghĩa của quy y (nơi tránh nạn, śaraṇa) là ǵ?

(Đáp) Ba “nơi tránh nạn” này được gọi tên như vậy là v́ khi ẩn núp ở đó th́ người ta có thể vĩnh viễn thoát khỏi mọi khổ đau.

Thế Tôn đă từng nói (Dhammapada, 188-192; Udānavarga, xxvii. 28-30; Divyāvadāna, tr. 164; Vibhāṣā, 34, 8): “Khi bị sợ hăi bức bách, con người thường trốn vào núi, rừng, bụi rậm, cây thiêng (chế đa thọ, caityavṛkṣa = caityakalpitavṛkṣa). Đó không phải là nơi ẩn náu tốt lành, là nơi ẩn náu cao cả; không phải ẩn náu ở đó là thoát được mọi nỗi khổ. Những người t́m nơi ẩn náu ở phật, ở pháp, ở tăng khi quán sát được bằng trí tuệ bốn sự thật là khổ, nguồn gốc của khổ, sự vượt qua khổ, tám chi thánh đạo dẫn đến Niết-bàn an ổn; đây là nơi ẩn náu tốt nhất, là nơi ẩn náu cao cả nhất; bởi v́ nếu ẩn náu ở đó sẽ thoát khỏi tất cả khổ đau”. V́ thế quy y là cánh cửa của sự thọ tŕ tất cả các luật nghi.

(Hỏi) Tại sao các luật nghi khác đều có phần ĺa bỏ dâm dục (phi phạm hạnh, abrahmacaryavirati) nhưng luật nghi Cận sự th́ chỉ ĺa bỏ tà dâm (dục tà hạnh, kāmamithyācāra)?

Tụng đáp:   

邪行最可訶  易離得不作.

[Tà hạnh đáng trách nhất

Dễ xả ly, thánh giả đă đoạn trừ.]  

Luận:  Tà hạnh là điều đáng quở trách nhất ở thế gian bởi v́ nó xâm hủy thê thiếp của người khác và chiêu cảm quả báo ác thú (apāyikatvāt). Hàng tại gia dễ xả bỏ tà dâm nhưng lại rất khỏ xả ly dâm dục; họ không thể từ bỏ thế gian bởi v́ không có đủ khả năng làm được những điều khó khăn này.

Đối với tà hạnh th́ thánh giả đều đắc được loại luật nghi bất tác (akaraṇasaṃvara), có nghĩa là họ đă đắc được sự xa ĺa vĩnh viễn tà hạnh. Thật vậy, trong đời sống kế tiếp họ sẽ không thể nào phạm phải giới này; tuy nhiên đối với việc xả ly phi phạm hạnh th́ lại khác. V́ thế luật nghi Cận sự chỉ bao gồm sự xả ly tà dâm; và không nên cho rằng thánh giả trong một đời sống về sau (kinh Sinh thánh giả) có thể phạm phải giới luật của Cận sự: Điều này chỉ có thể xảy ra nếu như luật nghi Cận sự bao gồm cả sự xả ly phi phạm hạnh. Khi nói “luật nghi bất tác” (akaraṇasaṃvara) tức phải hiểu rằng đó là sự từ bỏ dứt khoát một hành động (akriyāni = akriyāyām ekāntatā).

(Hỏi) Nếu lấy vợ sau khi đă thọ luật nghi Cận sự th́ người này, vào lúc thọ giới trước đó, có đắc được sự xả ly đối với người vợ mới cưới này không?

(Đáp) Theo Tỳ-bà-sa th́ vẫn đắc được; bởi v́ nếu không phải như vậy th́ người này đă chỉ đắc được một phần luật nghi (prādeśika).

(Hỏi) Nhưng dến khi lấy vợ th́ người này đă phạm giới?

(Đáp) Không phải như vậy.  

得律儀如誓  非總於相續.

[Có phát nguyện thọ giới nên đắc được luật nghi;

Không phải v́ người khác mà phát nguyện.]  

Luận:  Bởi v́ người này đă thọ luật nghi nên mới đắc được luật nghi. Họ đă thọ luật nghi khi phát nguyện: “Đệ tử ĺa bỏ tà dâm”, có nghĩa là: “đệ tử ĺa bỏ tất cả tà dâm đối với tất cả các phụ nữ được pḥng hộ (agamya)”; chứ không phải phát nguyện: “Đệ tử sẽ không phạm phi phạm hạnh đối với một người như thế”. Kết quả là họ không phạm luật nghi khi lấy vợ bởi v́ họ đă ĺa bỏ tà dâm chứ không phải ĺa bỏ dâm dục (phi phạm hạnh).

(Hỏi) Trong các tội về ngữ, tại sao sự ĺa bỏ (tyāya) nói dối lại trở thành một giới luật (śikṣānga) của Cận sự trong khi các tội khác về ngữ lại không được đưa vào?

(Đáp) Cũng v́ những lư do như đă nói ở trên. Sự nói dối là việc đáng quở trách nhất trên đời; hàng tại gia dễ dàng ĺa bỏ c̣n thánh giả th́ không thể nói dối; ngoài ra c̣n có lư do thứ tư:  

以開虛誑語  便越諸學處.

[V́ sẽ nói dối

Sau khi phạm giới.]  

Luận:  [Nếu không ngăn chận sự nói dối] th́ sau khi phạm phải bất kỳ một giới nào đó và bị chất vấn, người phạm giới sẽ nói dối: “tôi đă không làm điều đó”. V́ thế Cận sự phải từ bỏ sự nói dối mà nghĩ rằng “nếu phạm giới th́ tôi sẽ nói là đă phạm giới”.

(Hỏi) Tại sao sự từ bỏ các tội thuộc về loại “không vâng lời” (già tội, pratikṣepaṇasāvadya) lại không được đưa vào luật nghi Cận sự?

(Đáp) Câu hỏi không hợp lư bởi v́ sự từ bỏ uống rượu là một sự xả ly loại tội không vâng lời.

(Hỏi) Tại sao Cận sự chỉ ĺa bỏ uống rượu mà không phải các tội không vâng lời khác?

Tụng đáp:   

遮中唯離酒  為護餘律儀.

[Trong các tội không vâng lời, chỉ xả ly uống rượu

V́ để giữ ǵn các giới khác.]  

Luận:  Những người uống rượu say sẽ không thể ǵn giữ các giới luật khác.

Các luận sư A-tỳ-đàm cho rằng các chất uống làm say không có tính chất của loại tội “tự nhiên” (tánh tội, prakṛtisāvadya). Tánh tội chỉ bị phạm bởi người có tâm nhiễm ô (kliṣṭa); trong khi v́ để chữa bệnh, người ta có thể uống rượu với một lượng không thể làm say. Tâm sẽ bị nhiễm ô nếu người uống biết rằng lượng rượu uống vào sẽ làm say; nhưng tâm sẽ không nhiễm ô nếu biết rằng lượng rượu uống vào không thể làm say (amadanīyamātraṃ viditvā).

Tuy nhiên, đó không phải là quan điểm của các luận sư tŕ luật (Vinayadharas). Theo họ, các chất uống làm say đều thuộc tánh tội.

Tôn giả Upāli (Ổ-ba-ly) hỏi: “Phải nên chăm sóc người bệnh như thế nào?”. Thế Tôn trả lời: “Này Upāli, chỉ trừ những ǵ thuộc về tánh tội (prakṛtisāvadyam Upāle sthāpāyitvā).” Ngoài ra Thế Tôn cũng không cho phép những người thuộc ḍng họ Thích-ca (Śākyas) dùng rượu (madyapāna) khi đau ốm: “Những ai đă nhận ta làm thầy th́ không được uống rượu, cho dù chỉ là một lượng nhỏ như đầu ngọn cỏ.” (Madhyamāgama, 38, 9). Thế Tôn chỉ ngăn cấm tánh tội trong trường hợp đau ốm (Upālisūtra) đồng thời lại không cho phép uống rượu cho nên biết rơ rằng uống rượu thuộc về tánh tội.

Thánh giả, ở trong đời sống kế tiếp, không uống rượu và cũng không c̣n phạm các tánh tội khác như giết hại, v.v.. [Nếu có người đổ sữa có trộn rượu vào miệng họ th́ chỉ có sữa chảy vào mà không rượu. (Sumangalavilāsinī, tr. 305)].

Khế kinh (Nandikasūtra, v.v) c̣n xếp rượu vào số các ác hạnh của thân (kāyaduścarita).

Các luận sư Đối pháp (Ābhidārmikas) giải thích:

(1)                                  Nói chung th́ các tội thuộc loại “không vâng lời” đă được cho phép trong trường hợp bị bệnh như câu trả lời cho U-ba-ly trên đây đă chứng minh. Tuy nhiên trường hợp uống rượu th́ có ngoại lệ: Cho dù chỉ thuộc loại tội không vâng lời nhưng vẫn bị cấm đối với người bệnh và làm như vậy là để ngăn ngừa những hậu quả không may do rượu gây ra (prasangaparihārārtham) bởi v́ không thể xác định rơ lượng rượu như thế nào mới có thể làm say.

(2)                                  Nếu thánh giả đă đắc được luật nghi bất tác đối với rượu th́ không phải v́ việc uống rượu thuộc về tánh tội mà chỉ v́ thánh giả có đầy đủ lực tàm quư; [nếu họ không uống lén (Vyākhyā: Yadi hrīmattvāt tadanadhyācaraṇam ajñātam udakādivat kasmān na pibanti)] th́ đó chỉ v́ rượu làm cho họ bị mất chánh niệm (smṛtināśa); nếu họ không uống cho dù chỉ một giọt th́ đó là v́ lượng rượu làm say không xác định được, cũng giống như thuốc độc.

(3)                                  Khế kinh đă xem uống rượu là một ác hạnh của thân bởi v́ rượu là “nhân” của sự phóng dật (phóng dật xứ, pramādasthāna). Thật vậy, giới luật về việc uống rượu có ghi câu này: “Khi đoạn trừ nguyên nhân phóng dật là uống rượu, rượu gạo (surā) và rượu trái cây (maireya), tôi từ bỏ nguyên nhân phóng dật…”. Đây không phải là trường hợp đối với các tội khác: Người ta không nói: “tôi từ bỏ nguyên nhân phóng dật là sự giết hại”; bởi v́ các tội khác đều là tánh tội.

Kinh (Nandikasūtra; Dīgha, iii. 182) nói rằng tái sinh vào địa ngục là do thường hay uống rượu. Nhân v́ (prasangena) uống rượu mà có sự hoạt động liên tục của một chuỗi các tâm bất thiện (abhīkṣṇam akuśalasaṃtatipravṛttes); từ đó phát sinh (ākṣepa, āvedha) một loại nghiệp mới chiêu cảm địa ngục, hoặc làm hiện hành một nghiệp cũ vào lúc lâm chung.

(Hỏi) Nhóm từ surāmaireyamadyapramādasthāna (tốt-la-mê-lệ-da-mạt-đà phóng dật xứ) có nghĩa là ǵ?

(Đáp) Surā là một thức uống có men (āsava) nấu từ gạo; maireya là thức uống có men nấu từ nhiều vị khác (như nước mía, v.v.). Có lúc các thức uống này làm say rất ít, có lúc chúng hoàn toàn không làm say: Chính v́ thế mà đă thêm vào từ madya, làm say. Quả cau, cỏ sâu rọm (kodrava, v.v) khi ăn vào bị say cũng gọi là surā và maireya.

Uống rượu chỉ là một tội thuộc loại không vâng lời. V́ thế nhóm từ “phóng dật xứ” (pramādasthāna) nên được hiểu là người ta phải từ bỏ sự uống rượu bởi v́ nó là nguyên nhân của tất cả các trường hợp bị liệt trí nhớ (sarvapramādānām āspadatvāt).  

Phần 14

(Hỏi) Có ba loại luật nghi biệt giải thoát, tĩnh lự và vô lậu nếu đắc được một loại th́ có thể đắc luôn hai loại kia không?

(Đáp) Không thể.

(Hỏi) Tại sao?

Tụng đáp:   

從一切二現  得欲界律儀

從根本恒時  得靜慮無漏.

[Từ tất cả, hai loại, hiện tại

Đắc được luật nghi dục giới.

Từ căn bổn nghiệp, các pháp trong ba đời

Đắc được luật nghi tĩnh lự và vô lậu.]  

Luận:  Luật nghi Dục giới là luật nghi biệt giải thoát.

Luật nghi này liên quan đến tất cả các nghiệp, như nghiệp gia hành, nghiệp căn bổn, nghiệp hậu khởi. 

Luật nghi này c̣n liên quan đến chúng sinh hữu t́nh và phi t́nh, như người và cỏ cây.

Luật nghi này c̣n liên quan đến hai loại tánh tội và tội “không vâng lời”. Cả hai loại này có thể liên quan đến chúng sinh hữu t́nh (như sự giết hại, sự chạm tay phụ nữ nếu là tăng) hoặc phi t́nh (như hái lá cây; nhận vàng bạc nếu là tăng).

Luật nghi này c̣n liên quan đến các sự vật ở hiện tại là các uẩn, các xứ và các giới; bởi v́ các sự vật quá khứ và vị lai không phải là chúng sinh hữu t́nh cũng không phải là phi t́nh. 

Luật nghi tĩnh lự và luật nghi vô lậu đắc được có liên quan đến các nghiệp căn bổn chứ không phải các nghiệp gia hành và hậu khởi; cũng không liên quan đến các tội “không vâng lời”; nhưng lại liên quan đến các uẩn, xứ và giới thuộc quá khứ, hiện tại và vị lai.

Như vậy có những loại uẩn, xứ và giới mà từ đó người ta đắc được luật nghi biệt giải thoát chứ không phải hai loại kia. Có bốn trường hợp: (1) Các nghiệp gia hành và hậu khởi, các tội “không vâng lời”, các pháp hiện tại - như trường hợp của biệt giải thoát. (2) Nghiệp đạo căn bổn thuộc quá khứ và vị lai - như trường hợp của hai loại luật nghi cuối. (3) Nghiệp đạo căn bổn thuộc hiện tại - như trường hợp của cả ba loại. (4) Nghiệp gia hành và hậu khởi thuộc quá khứ và vị lai - như trường hợp của những người không thể đắc bất kỳ loại nào.

(Vấn nạn) Thật không hợp lư để nói rằng đắc luật nghi có liên quan đến nghiệp đạo hiện tại; bởi v́ khi đắc luật nghi th́ không có bất kỳ nghiệp đạo bất thiện nào ở hiện tại để có thể đắc được luật nghi liên quan đến nghiệp đạo này. Lẽ ra phải nói: “Đắc được luật nghi từ các nghiệp đạo có đối tượng (hiện xứ, adhiṣṭhāna) ở hiện tại”; bởi v́ chỉ có thể từ bỏ một nghiệp vị lai có liên quan đến một người hoặc một sự vật đang thực sự hiện hữu chứ không thể từ bỏ một nghiệp quá khứ hoặc hiện tại.

(Hỏi) Có thể đắc được luật nghi và bất luật nghi đối với tất cả chúng sinh, liên quan đến tất cả các chi, và do tất cả các nhân không?

Tụng đáp:   

律從諸有情  支因說不定

不律從一切  有情支非因.

[Luật nghi: từ tất cả hữu t́nh;

Chi và nhân không nhất định.

Bất luật nghi: từ tất cả

Hữu t́nh, tất cả các chi, nhưng không do nhân.]

Luận:  Chỉ đắc được luật nghi có liên quan đến tất cả chúng sinh chứ không đắc được luật nghi chỉ liên quan đến một số chúng sinh nào đó (vô thiểu phần lư).

Luật nghi Bí-sô đắc được từ tất cả các chi, tức sự từ bỏ mười nghiệp đạo. Các luật nghi khác đắc được từ bốn chi, tức sự từ bỏ giết hại, trộm cắp, tà dâm và nói dối; bởi v́ qua các chi này người thọ giới cũng đắc được sự từ bỏ các nghiệp đạo.

Nếu xem ba thiện căn (vô tham, vô sân, vô si) là nhân của sự đắc được luật nghi th́ nói là luật nghi đắc được nhờ tất cả các nhân (ṭng nhất thiết).

Nếu xem loại tâm, mà nhờ nó người ta đă đắc được luật nghi, là nhân - tức là loại nhân dẫn khởi (samutthāpaka) - th́ nhân này có ba mức độ khác nhau: Thượng phẩm (mạnh), trung phẩm (trung b́nh), hạ phẩm (yếu); là luật nghi đắc được là nhờ một trong ba tâm này (duy ṭng nhất). Từ quan điểm này, có thể phân tích thành bốn trường hợp: 

(1)                                Có người trụ trong luật nghi (saṃvarasthāyin), hành tŕ luật nghi có liên quan đến tất cả chúng sinh, nhưng không liên quan đến tất cả các chi hoặc do tất cả các nhân th́ người này tùy theo tâm dẫn khởi thuộc thượng phẩm, trung phẩm hay hạ phẩm mà đắc được luật nghi Cận sự, Cận trú, hay Cần sách.

(2)                                Có người trụ trong luật nghi, hành tŕ luật nghi có liên quan đến tất cả chúng sinh và tất cả các chi, nhưng không xuất phát từ tất cả các nhân; th́ người này đắc được luật nghi Bí-sô nhờ vào một tâm thượng phẩm, trung phẩm hoặc hạ phẩm.

(3)                                Có người trụ trong luật nghi, hành tŕ luật nghi có liên quan đến tất cả chúng sinh, tất cả các chi và do tất cả các nhân th́ người này đắc được một trong ba loại luật nghi Cận sự, Cần sách và Bí-sô nhờ vào một tâm thượng phẩm, trung phẩm và hạ phẩm.

(4)                                Có người trụ trong luật nghi, hành tŕ luật nghi có liên quan đến tất cả chúng sinh, do tất cả các nhân nhưng không liên quan đến tất cả các chi th́ người này đắc được một trong ba loại luật nghi Cận sự, Cận trú và Cần sách tùy theo tâm thuộc hạ phẩm, trung phẩm hay thuộc thượng phẩm.

Không ai trụ trong luật nghi mà lại không hành tŕ luật nghi có liên quan đến tất cả chúng sinh v́ chính nhờ vào ư định (thiện ư lạc) muốn lấy tất cả chúng sinh làm cảnh sở duyên mà người ta đă đắc được luật nghi. Người nào chỉ giới hạn trong một số chúng sinh nào đó th́ không thể hoàn toàn trút bỏ những ư định có tính chất phạm giới (ác ư lạc).

Luật nghi biệt giải thoát chỉ có thể đắc được nếu không có năm sự hạn chế (niyama, định hạn): (1) Về chúng sinh, tỷ dụ như “tôi chỉ từ bỏ ác giới đối với một số chúng sinh”; (2) về các chi của luật nghi, như “tôi chỉ từ bỏ một số hành động nào đó”; (3) về nơi chốn (xứ), như “tôi chỉ trừ bỏ phạm tội ở những nơi nào đó”; (4) về thời gian, như “tôi chỉ từ bỏ tội lỗi trong một tháng”; (5) về điều kiện (duyên), như “tôi từ bỏ tội lỗi ngoại trừ những khi tranh căi”. Những người thọ giới như thế không đắc được luật nghi mà chỉ có được hành động tốt (diệu hạnh, sucarita) tương tợ với luật nghi.

(Hỏi) Làm thế nào đắc được luật nghi có liên quan đến tất cả chúng sinh? Làm thế nào có thể đắc được luật nghi có liên quan đến những chúng sinh nằm ngoài phạm vi của ḿnh (aśakya, sở năng cảnh), tức những chúng sinh mà ḿnh không có khả năng giết hại, v.v.?

(Đáp) Có thể đắc được luật nghi là nhờ có ư định không làm tổn hại bất cứ một chúng sinh nào cả (sarvasattvajīvitānupaghātāśayenābhyupagamāt).

Các luận sư Tỳ-bà-sa (Vibhāṣā, 120) lại đưa ra một giải thích khác. Nếu luật nghi đắc được chỉ liên quan đến chúng sinh ở trong phạm vi của ḿnh th́ luật nghi sẽ có tăng giảm (caya, apacaya, vṛddhi, hrāsa) bởi v́ có người, tức những chúng sinh ở trong phạm vi của ḿnh, sẽ tái sinh ở cơi trời, tức trở thành những chúng sinh ở ngoài phạm vi của ḿnh; và ngược lại. Như vậy sẽ đắc được luật nghi có liên quan đến chư thiên tái sinh làm người nhưng sẽ bị thối thất luật nghi có liên quan đến những người tái sinh làm trời mà không có một nhân duyên nào của sự đắc được hoặc thối thất luật nghi cả (ly đắc xả duyên hữu đắc xả quá).

(Luận chủ) Lập luận trên không hợp lư. Sự chuyển dịch (saṃcāra) của chúng sinh ở trong và ở ngoài phạm vi không kéo theo sự tăng hay giảm của luật nghi; bởi v́ những luật nghi mà chúng ta đắc được đối với cây cỏ không hề tăng giảm khi có thêm cây cỏ mọc hoặc khi có cây cỏ bị chết khô.

Tỳ-bà-sa không thừa nhận so sánh này. Cỏ cây hiện hữu sau khi đă không hiện hữu và không c̣n hiện hữu sau khi đă hiện hữu; trong khi đó chúng sinh hữu t́nh th́ vẫn tiếp tục hiện hữu; khi th́ làm người, khi th́ làm trời. Con người khi trở thành chúng sinh ở cơi trời tức sẽ ra khỏi phạm vi của ḿnh nhưng cây cỏ khi khô th́ diệt hẳn.

(Luận chủ) Nhưng khi chúng sinh hữu t́nh nhập Niết-bàn th́ cũng không c̣n hiện hữu (yadā parinirvṛtā na santy eva) giống như cỏ cây. V́ thế luật nghi đắc được có liên quan đến những chúng sinh hữu t́nh vẫn bị giảm. Như vậy giải thích của Tỳ-bà-sa vẫn không có giá trị. Nếu có người bác rằng “trong trường hợp luật nghi biệt giải thoát nếu đắc được là nhờ có liên quan đến tất cả chúng sinh th́ luật nghi của các đức phật đời sau (hậu phật), tức giới luật (śīla) của chư phật, sẽ bị giảm so với giới luật của chư phật đời trước (tiền phật) bởi v́ luật nghi này không liên quan đến những chúng sinh đă nhập Niết-bàn, đến chư phật đời trước và đệ tử của các ngài”, th́ chúng tôi sẽ trả lời rằng tất cả chư phật đều có luật nghi liên quan đến tất cả chúng sinh; nếu như chư phật đời trước vẫn c̣n tại thế th́ chư phật đời sau vẫn có luật nghi liên quan đến chư phật đời trước.

Bất luật nghi đắc được có liên quan đến tất cả chúng sinh và tất cả các nghiệp đạo. Không ai đắc bất luật nghi với chỉ một phần của bất luật nghi (vikala). Tuy nhiên, bất luật nghi đắc được không do tất cả các nhân mà chỉ nhờ vào tâm thuộc hạ, trung hoặc thượng phẩm. Nếu như có “người bất luật nghi” đă đắc bất luật nghi nhờ vào một tâm thuộc hạ phẩm nhưng sau đó lại phạm tội giết hại với một tâm thuộc thượng phẩm th́ bất luật nghi của người này vẫn thuộc hạ phẩm nhưng vô biểu nghiệp của tội giết hại th́ lại thuộc thượng phẩm.

Ở đây khi nói “người bất luật nghi” (āsaṃvarika) là hàm ư “kẻ đang ở trong bất luật nghi (asaṃvara), đang thành tựu bất luật nghi”.

Những người bất luật nghi là người giết cừu (aurabhrika), người bẩy chim, người giết heo, người đánh cá, người thợ săn, người trộm cướp, tay đao phủ, tên cai ngục, người quản tượng, người làm thịt gia cầm, người đặt bẩy cầm thú (vāgurikas); và dĩ nhiên (arthataḥ) cả vua chúa, người làm chứng (adhikaraṇastha), quan ṭa (daṇḍanetṛka), v.v., cũng là người bất luật nghi.

Khi nói “người giết cừu” là chỉ cho người làm nghề mổ thịt cừu (urabhra); đối với các tên chỉ nghề nghiệp khác cũng được phân tích như vậy.

(Kinh bộ) Mọi người đều biết rằng nếu thọ luật nghi với một ư định làm lợi lạc cho tất cả th́ luật nghi đắc được sẽ có liên quan đến tất cả chúng sinh. Nhưng người làm nghề mổ cừu không có ư làm tổn hại cha mẹ, con cái và những người giúp việc của họ; họ không muốn giết hại những người này ngay cả khi cần cứu lấy mạng ḿnh. Như vậy làm sao có thể nói rằng họ đắc bất luật nghi liên quan đến tất cả chúng sinh? (Vibhāṣā, 117, 5).

(Tỳ-bà-sa) Bởi v́ họ vẫn có ư định giết hại đối với cha mẹ họ đă tái sinh vào loài cừu.

(Kinh bộ) Nhưng nếu biết rằng đó chính là cha mẹ của họ th́ làm sao họ có thể giết hại cha mẹ đă tái sinh làm cừu của họ được (khả hại tâm). Mặt khác, nếu cha mẹ của họ thành tựu các phẩm tánh của thánh giả, tức sẽ không tái sinh làm cừu, làm thú vật, th́ làm sao họ có thể đắc bất luật nghi với cha mẹ ḿnh. Rốt cuộc lập luận trên đây của các ông lại chống lại chính các ông; có nghĩa là nếu người làm nghề mổ cừu đắc bất luật nghi đối với thân hiện tại của cha mẹ anh ta chỉ v́ anh ta sẽ giết hại cha mẹ ḿnh khi họ tái sinh làm cừu, th́ theo cách đó người ta có thể nói rằng anh ta không đắc bất luật nghi có liên quan đến loài cừu bởi v́ anh ta không có ư giết những con cừu sẽ tái sinh làm người giống như con cái của anh ta.

(Tỳ-bà-sa) Người nào có ư giết hại cha mẹ đă tái sinh làm cừu của ḿnh nhất định đắc bất luật nghi đối với họ.

(kinh bộ) Nếu vậy cũng có thể nói rằng người nào không có ư giết hại những con cừu đă tái sinh làm con cái ḿnh nhất định không đắc bất luật nghi đối với chúng. Hơn nữa, những người mổ thịt nếu không trộm cắp, không tà dâm, không nói được v́ bị câm th́ làm thế nào có thể đắc bất luật nghi đối với tất cả các chi (tội)?

(Tỳ-bà-sa) Bởi v́ ư định của họ bị tổn hoại (vipanna); và người câm vẫn có thể diễn ta qua cử chỉ.

(kinh bộ) Nhưng nếu người này trước đó đă có thọ tŕ hai hoặc ba chi thuộc thiện giới th́ sao? Theo Tỳ-bà-sa bất luật nghi không bao giờ bị thiếu (vikala), có nghĩa là chỉ liên quan đến một số chi; và cũng không bao giờ chỉ có một phần (prādeśika), có nghĩa là bị hạn chế (về thời gian, nơi chốn, v.v.) trong việc tạo tội.

Nhưng theo Kinh bộ th́ trừ luật nghi biệt giải thoát ra, luật nghi và bất luật nghi có thể bị thiếu và bị hạn chế. Điều này tùy thuộc vào cách thọ tŕ luật nghi hoặc bất luật nghi bởi v́ người ta “câu thúc” (pratibandha) một phần của ác giới như thế nào th́ người ta cũng “câu thúc” một phần của thiện giới như thế đó [có nghĩa là nếu thọ tŕ một phần nào đó của bất luật nghi th́ có thể ngăn chận một phần đối nghịch tương đương của luật nghi; và ngược lại]. 

(Hỏi) Làm thế nào đắc được bất luật nghi? Làm thế nào đắc được loại vô biểu không phải luật nghi cũng không phải bất luật nghi?

Tụng đáp: 

諸得不律儀  由作及誓受

得所餘無表  由田受重行.

[Đắc được bất luật nghi

Do tạo tác hoặc thề phải làm.

Đắc các vô biểu khác

Do phước điền, thệ nguyện, hành động kiên quyết.]  

Luận:  Đắc bất luật nghi do hai loại nhân: (1) Những người sinh ra trong một gia đ́nh bất luật nghi (tatkuīna) đắc được bất luật nghi khi họ tạo tác các nghiệp gia hành thuộc về sự giết hại. (2) Những người sinh ra trong những gia đ́nh khác đắc bất luật nghi khi họ mong muốn sống theo lối sống trên: “chúng tôi cũng thế, chúng tôi sẽ sống theo nghề nghiệp này”.

Đắc các vô biểu khác do ba loại nhân: (1) Có những người có tính chất như là những thửa ruộng (kṣetra) phước (phước điền) và khi cúng dường một khu vườn, v.v., cho họ th́ ta phát sinh được vô biểu. Hăy xem phần nói về những việc thiện thuộc về vật chất (hữu y phước nghiệp sự, aupadhikapuṇyakriyāvastu) được tŕnh bày dưới đây. (2) Vô biểu đắc được qua sự phát nguyện, tỷ dụ như: “Tôi sẽ không ăn nếu tôi chưa lễ phật”; “vào ngày trai giới, trong nửa tháng, trong một tháng, trong một năm, tôi sẽ bố thí thức ăn”, v.v. (3) Vô biểu phát sinh từ loại hành động được trù hoạch một cách trịnh trọng (ādara), với ḷng tin kiên quyết, với sự đam mê mănh liệt.

(Hỏi) Làm thế nào để xả bỏ luật nghi?

Tụng đáp:   

捨別解調伏  由故捨命終

及二形俱生  斷善根夜盡

有說由犯重  餘說由法滅

伽濕彌羅說  犯二如負財.

[Xả luật nghi biệt giải thoát

Do cố ư bỏ, do mạng chung,

Do có cả hai giới tính,

Do đoạn thiện căn,

Do hết đêm.

Có thuyết nói do phạm trọng giới;

Thuyết khác nói do chánh pháp diệt.

Các luận sư Kaśmīr nói

Người phạm giới có cả hai, như vừa giàu vừa mắc nợ.]

Luận:  Tụng văn gọi luật nghi biệt giải thoát là điều phục (dama) v́ luật nghi này điều phục sáu căn.

Trừ luật nghi Cận trú ra, luật nghi biệt giải thoát được xả bỏ là do (1) cố ư từ bỏ giới luật (śikṣāpratyākhyāna) trước mặt một người có hiểu biết; (2) thọ mạng đă hết hoặc ĺa bỏ chúng đồng phần (nikāyasabhāga); (3) sự xuất hiện thêm nam căn hoặc nữ căn tùy theo từng trường hợp; (4) sự hủy hoại thiện căn.

Luật nghi Cận trú cũng được xả do bốn duyên trên và khi một đêm kết thúc.

Sự cố ư xả bỏ tạo ra một biểu nghiệp trái ngược với sự thọ giới (samādānaviruddha); mạng chung và hai giới tính cùng sinh đều dẫn đến sự ĺa bỏ (tyāga) cũng như t́nh trạng nhiễu loạn của thân sở y (āśraya) mà người thọ giới đă nương vào đó để đắc biệt giải thoát trước đây; sự hủy hoại thiện căn chính là sự hủy hoại nền tảng của luật nghi này; và cuối cùng là luật nghi Cận trú chỉ được tạo thành và phát khởi trong một ngày một đêm cho nên khi một đêm kết thúc th́ luật nghi này cũng hết hạn kỳ.

Có bộ phái (Sautrāntikas) nói rằng luật nghi Bí-sô và Sa-môn (śramaṇa) bị xả bỏ nếu phạm phải một trong bốn trọng giới (patanīyas, ba-la-di) dẫn đến sự sa đọa (cực trọng cảm đọa tội).

Có bộ phái (Dharmaguptas) lại cho rằng luật nghi biệt giải thoát bị xả bỏ khi chánh pháp diệt bởi v́ lúc đó không c̣n giới luật (śikṣā), nơi truyền và thọ giới (kết giới, sīmābandha), người truyền giới (yết-ma, karmānta).

Các luận sư Tỳ-bà-sa ở Kaśmīr nói rằng một vị tăng phạm phải một tội nghiêm trọng (căn bổn tội, maulī āpatti), tức trọng tội (patanīya), vẫn không bị mất luật nghi Bí-sô; bởi v́ nếu chỉ hủy phạm một phần luật nghi (ekadeśakṣobha) th́ không thể đánh mất toàn bộ luật nghi. Những người phạm các tội không thuộc loại trọng tội th́ không phải đă đoạn giới (duḥśīla). Những người phạm phải trọng tội được xem như là vừa phạm vừa tŕ giới; trường hợp này cũng giống như một người vừa có của cải vừa có nợ. Nhưng khi người phạm giới phát lộ sám hội tội lỗi đă phạm thi không c̣n phạm giới mà chỉ là tŕ giới; cũng giống như người đă trả hết nợ.

(Hỏi) Nếu vậy, tại sao Thế Tôn nói: “Không c̣n là Bí-sô, không c̣n là Sa-môn, không c̣n là con cái của Thích-ca nếu đă đoạn trừ phẩm tánh Bí-sô, đă giết chết, buông xả, đọa lạc, nghiền nát, hủy diệt phẩm tánh Sa-môn”. (Mahāvyutpatti, 278).

(Tỳ-bà-sa) trong đoạn kinh trên, khi nói “Bí-sô” là bao hàm cả hạng Bí-sô thù thắng (thắng nghĩa Bí-sô, paramārthabhikṣu); người phạm giới v́ không thấy được lư tứ đế cho nên không phải là Bí-sô thù thắng.

(Nhận xét) Thật là quá đáng (hung bột)! Các ông đă làm đảo lộn cả lời thuyết giáo của Thế Tôn vốn có một ư nghĩa rất minh bạch (nītārtha); hơn nữa, các ông lại c̣n tiếp tay cho những kẻ chất chứa phiền năo tùy nghi phạm tội.

(Tỳ-bà-sa) Làm thế nào các ông biết được lời thuyết giáo trên đây có ư nghĩa rất minh bạch và phải được hiểu thật sát nghĩa?

(Đáp) V́ chính Thế Tôn đă tự giải thích: “Có bốn hạng Bí-sô là (1) Danh tướng Bí-sô (saṃjñābhikṣu), là người được gọi là Bí-sô nhưng chưa được thọ giới; (2) Tự xưng Bí-sô (pratijñābhikṣu), là người đă phá giới, không có phạm hạnh; (3) khách cái Bí-sô, tức là người đi xin ăn (bhikṣata iti bhikṣu) và chỉ là một người xin ăn không hơn không kém; (4) Phá hoặc Bí-sô, là người đă đoạn trừ phiền năo (bhinnakleśatvāt), tức A-la-hán.” (Mahāvyutpatti, 270, 37-40).

Trong đoạn kinh ở trên (“không c̣n là Bí-sô, không c̣n là Sa-môn,…”), Bí-sô được nói đến nhằm chỉ cho hạng Bí-sô thứ năm, tức là những người đă được truyền giới nhưng v́ phạm trọng tội nên đă đánh mất phẩm tánh và luật nghi của Bí-sô; chắc chắn đây không phải là vấn đề của Bí-sô thù thắng, của A-la-hán; bởi v́ sau khi phạm giới th́ người phạm trọng tội (patanīya) không c̣n là một Bí-sô chân thực, không c̣n là một A-la-hán nữa mà đă thối thất phẩm tánh của một Bí-sô chân thực.

Nếu cho rằng chỉ đánh mất một phần luật nghi chưa hẳn đă xả bỏ toàn bộ luật nghi th́ điều này đă được bậc Đại sư bác bỏ khi ngài so sánh một vị tăng phạm giới với một cây kè đă bị chặt đọt và từ đó không c̣n khả năng xanh tốt, tăng trưởng, phát triển và lớn mạnh (Majjhima, i. 250, 331, 464, ii. 256). Có nghĩa là khi một phần luật nghi - và phần này lại chính là căn để của luật nghi - bị chặt đứt th́ những phần c̣n lại cũng không thể nào tăng trưởng. Tội ba-la-di hay là tội căn bổn (māuli āpati) là loại ác giới đối nghịch với những ǵ mà phẩm hạnh của một Bí-sô (bhikṣubhāvocita) cần có; chúng hoàn toàn không mang theo bất kỳ một sự sợ hăi nào đối với tội lỗi (anapatrāpya), chúng chặt đứt gốc rễ của luật nghi và v́ thế toàn bộ luật nghi đều bị đánh mất.

Bậc đại sư xua đuổi người phạm trọng giới không được giao thiệp (saṃbhoga) với các Bí-sô, không cho đụng đến vật phẩm thường trú cho dù chỉ một miếng cơm, không cho lưu lại cho dù chỉ đứng một chân ở trong tịnh xá (ekagrāsaparibhoga āhārasya ekapārṣṇiparibhogo vihārasya). Ngài nói: “Những ai không phải là Bí-sô mà tự xưng là Bí-sô th́ các ông hăy trừ bỏ loại cỏ dại này đi, hăy vứt bỏ thân gỗ mục này đi, hăy nhổ bỏ loại cây không sinh hạt này đi!” ([abhikṣuṃ bhikṣvākṛtim] nāśayata kāraṇḍavakam, kāśambakam apakarṣata, athotplāvinam (?) vāhayata) Như vậy phẩm tánh của một Bí-sô phạm tội c̣n có thể là ǵ?

(Luận sư ở Kaśmīr) phẩm tánh của Bí-sô này chính là những ǵ được thành tựu khi trở thành một hạng Bí-sô nào đó; bởi v́ Thế Tôn đă nói: “Này Cunda, chỉ có bốn hạng Sa-môn mà không có hạng thứ năm; đó là (1) Thắng đạo Sa-môn (mārgajina), tức là người đă chinh phục được thánh đạo, (2) Thị đạo Sa-môn (mārgadaiśika), tức người thuyết giảng về thánh đạo, (3) Mạng đạo Sa-môn (mārgajīvin), tức là người sống trong thánh đạo, (4) Nhiễm đạo Sa-môn (mārgadūṣin), tức người làm nhiễm ô thánh đạo, tức là tăng sĩ không có phạm hạnh.” (Cundasutta, Uragavagga; Mahāvyutpatti, 223, 55-58).

(Kinh bộ) Chúng tôi tin rằng Thế Tôn dùng chữ ‘Sa-môn’ là để chi cho vị tăng phạm giới bởi v́ vị này vẫn c̣n h́nh tướng bên ngoài của một Sa-môn; cũng giống như người ta thường nói đồ gỗ cháy, cái áo khô, cái mũ keo, ṿng tṛn lửa, một chúng sinh (sattva) chết.

(Luận sư ở Kaśmīr) Người ta vẫn không đánh mất phẩm tánh của một vị tăng khi phạm trọng giới bởi v́ Thế Tôn thừa nhận một vị tăng phạm phi phạm hạnh vẫn có thể sám hối (śikṣādattaka). (Mahāvyutpatti, 270, 10; Sūtrālaṃkāra, xi. 4)

(Kinh bộ) Chúng tôi không nói tất cả Bí-sô phạm phi phạm hạnh đều thành tựu tội “thối đọa”, tội “hủy hoại” (tha thắng tội, pārājika); mà chỉ nói rằng người nào phạm phải tội này th́ không c̣n là một Bí-sô. Chính loại tâm che dấu tội lỗi (phú tâm, praticchādanacitta) có tính chất quyết định trong trường hợp này. Nếu nhờ vào sự thù thắng về khí chất sẵn có của ḿnh, nhờ vào sự thù thắng của “chuỗi tương tục” (saṃtativiśeṣa) của ḿnh mà người phạm giới không có một sát-na nào che dấu tội lỗi th́ bậc Pháp vương vẫn thừa nhận có thể sám hối.

(Luận sư ở Kaśmīr) Nếu người phạm tội thối đọa (pāpājika) không c̣n là một Bí-sô, tại sao không cho người này thọ giới lại?

(kinh bộ) Bởi v́ người này không c̣n thích hợp với luật nghi. Khí chất (saṃtati) của người này đă bị hủy hoại và nhiễu loạn (vipādita) bởi sự vô liêm sỉ (anapatrāpya) đă lên đến cực độ; và v́ người này đă vứt bỏ các giới luật (nikṣiptaśikṣa) [sau khi phạm giới] cho nên không thể thọ giới trở lại. Tuy nhiên, chúng ta c̣n măi biện luận về vấn đề này để làm ǵ nữa? Nếu như một người như thế vẫn c̣n là một Bí-sô th́ chúng ta cũng nên lễ bái phẩm tánh Bí-sô của người này.

Khi chánh pháp diệt, mặc dù không c̣n hành động truyền giới và v́ thế cũng không c̣n sự đắc luật nghi; nhưng người nào đă thành tựu luật nghi th́ vẫn không bị thối thất (Vibhāṣā, 117, 6).

(Hỏi) Luật nghi tĩnh lự và vô lậu được xả bỏ như thế nào?

Tụng đáp:   

捨定生善法  由易地退等

捨聖由得果  練根及退失.

[Xả thiện pháp tĩnh lự

Do đổi địa, thối đọa, v.v.

Xả thiện pháp vô lậu do đắc quả

Luyện căn và thối thất.]

Luận:  Các thiện pháp hệ thuộc tất cả các địa của tĩnh lự, tức tất cả các địa thuộc sắc cũng như vô sắc (rūpa, arūpasvabhāva), được xả bỏ do hai nhân: (1) Do sự sinh ra (upapatti) ở một tầng cao hơn hoặc thấp hơn; đây là thiện pháp thuộc về những người sinh ở các cơi trời Sắc giới; (2) Do sự thối đọa (parihāṇi), tức khi hành giả bị thối thất định.

Ở đây cần phải thêm vào nguyên nhân thứ ba: Dị sinh xả bỏ thiện pháp khi mạng chung (nikāyasabhāgatyāga), ngay cả khi sinh trở lại tầng trời nơi đă mạng chung.

Thiện pháp hệ thuộc Vô sắc giới cũng như vậy, tức cũng xả bỏ do sự thay đổi các địa và sự thối thất. Điểm khác biệt duy nhất là ở Vô sắc giới không có luật nghi.

Thiện pháp vô lậu xả bỏ do ba nhân: (1) Đắc quả, khi mà thánh giả xả bỏ thiện pháp thuộc hướng đạo và quả đạo trước đó [pratipannakamārga, gồm ba loại gia hành (prayoga), vô gián (ānantarya), giải thoát (vimukti)]; (2) hoàn thiện các căn (luyện căn, indriyasaṃcāra); (3) thối đọa, tức bị thối thất quả hoặc quả đạo cao hơn (thắng quả đạo).

(Hỏi) Bất luật nghi được xả bỏ như thế nào?

Tụng đáp: 

捨惡戒由死  得戒二形生

[Xả ác giới do chết

Đắc giới và lưỡng tính sinh.]

Luận:  Đắc giới là do đắc luật nghi biệt giải thoát (saṃvarasamādāna); hoặc nhờ công năng của một nhân ở bên trong (hetu = sabhāgahetu) hay ở bên ngoài (tha giáo; pratyaya) mà đắc được loại định có luật nghi tĩnh lự. Luật nghi tĩnh lự này hủy diệt bất luật nghi v́ có các lực đối nghịch với bất luật nghi.

Cái chết và t́nh trạng lưỡng tính, theo thứ tự này, là sự xả bỏ và sự nhiễu loạn của thân sở y (ātmabhāva, āśraya) mà nhờ nó bất luật nghi đă được đắc trước đây.

Người bất luật nghi dù đă vứt bỏ dụng cụ hành nghề như dao, lưới, v.v., ngay cả khi có ư định không muốn phạm tội giết hại nữa, cũng không v́ thế mà đoạn được bất luật nghi. Chỉ có thọ đắc luật nghi mới đoạn được bất luật nghi. Người bệnh không thể lành bệnh nếu không có thuốc cho dù tránh xa nguyên nhân gây bệnh.

(Hỏi) Người bất luật nghi thọ luật nghi Cận trú đến khi hết đêm phải xả bỏ giới th́ vẫn là người bất luật nghi hay đă ở vào giai đoạn “trung gian” [phi luật nghi phi bất luật nghi]?

(Đáp) Có nhiều giải thích khác nhau. Có luận sư nói rằng vẫn đắc được bất luật nghi v́ người thọ Cận trú giới không có ư định từ bỏ ác giới; cũng giống như một khối sắt khi ngừng nung đỏ th́ sẽ trở lại màu xanh lúc đầu. Có luận sư khác lại nói rằng người bất luật nghi khi hạn kỳ thọ giới Cận trú chấm đứt th́ không c̣n đắc bất luật nghi bởi v́ sự đắc được bất luật nghi căn cứ vào thân ngữ nghiệp (vijñapti).

(Hỏi) Loại vô biểu thuộc phi luật nghi phi bất luật nghi được xả bỏ như thế nào?

Tụng đáp:   

捨中由受勢  作事壽根斷

[xả vô biểu trung gian do đoạn trừ sự thọ tŕ, thế lực,

Tạo tác, sự vật, thọ mạng và các căn.]  

Luận:  Trước đây đă giải thích về sự khác nhau của việc đắc được hai loại vô biểu không phải luật nghi và bất luật nghi.

Loại vô biểu này được xả bỏ do sáu nhân: (1) Khi thế lực (vega) cường thắng của ḷng tin (prasāda) hoặc các phiền năo (kleśa) phát khởi vô biểu đă kiệt tận; cũng giống như sự chuyển động của mũi tên hoặc bánh xe quay của người thợ làm đồ gốm; (2) Khi từ bỏ sự thọ tŕ (samādāna): “Từ giờ phút này, tôi không làm những việc mà tôi đă tự nguyện làm trước đây nữa”; (3) Khi từ bỏ một hành động, có nghĩa là khi không c̣n làm những việc đă tự nguyện làm trước đây, [chẳng hạn như sự lễ bái đức phật, mang một ṿng hoa trước khi ăn]; (4) khi sự vật (artha) bị hủy hoại; chẳng hạn như bảo tháp (chế-đa; caitya), khu vườn (ārāma), tịnh xá (vihāra), giường nằm, chỗ ngồi đă từng lễ lạy hoặc cúng dường trước đây; dụng cụ làm nghề, lưới đánh bắt (jāla), v.v.; (5) khi thọ mạng chấm dứt; (6) khi bắt đầu đoạn hoại các thiện căn (samucchedaprārambhāvasthāyām).

(Hỏi) Thiện nghiệp Dục giới không thuộc sắc (dục phi sắc thiện) và tất cả các nhiễm pháp không thuộc sắc được xả bỏ như thế nào?

Tụng đáp:   

捨欲非色善  由根斷上生

由對治道生  捨諸非色染.

[xả thiện nghiệp phi sắc dục giới

Do đoạn căn và sinh vào thượng giới

Do đạo đối trị sinh

Mà xả các nhiễm pháp phi sắc.]

Luận:  Trên đây đă giải thích về sự xả bỏ loại nghiệp thuộc sắc pháp, tức thân nghiệp, ngữ nghiệp và vô biểu nghiệp. Loại nghiệp không thuộc sắc pháp, nhưng thuộc thiện tánh ở Dục giới, bị xả bỏ khi thiện căn bị đoạn và khi sinh vào các tầng thuộc sắc giới hoặc Vô sắc giới. Tất cả các nhiễm pháp thuộc về bất kỳ giới nào đều được xả bỏ khi sinh khởi thánh đạo có khả năng đối trị loại nhiễm pháp này. Đó là loại thánh đạo có khả năng đoạn trừ (năng đoạn đạo, prahāṇamārga), có thể thuộc về kiến đạo (darśana) hoặc tu đạo (bhāvanā), có thể thuộc về thế gian (laukika) hoặc xuất thế gian (lokottara). Thánh đạo này giúp đoạn trừ một loại phiền năo nào đó (upakleśa) và các pháp đi kèm, như đắc (prāptis), v.v.

(Hỏi) Những chúng sinh nào có luật nghi và bất luật nghi?

Tụng đáp: 

惡戒人除北  二黃門二形

律儀亦在天  唯人具三種

生欲天色界  有靜慮律儀

無漏并無色  除中定無想.

[Ác giới thuộc loài người ngoại trừ bắc châu,

Hoạn quan, lưỡng tính;

Luật nghi cũng vậy nhưng có thêm chúng thiên.

Chỉ loài người có cả ba loại

Chư thiên sinh ỏ Dục giới và Sắc giới

Có luật nghi tĩnh lự.

Luật nghi vô lậu cũng có ở Vô sắc giới,

Ngoại trừ tĩnh lự trung gian.]

Luận:  Bất luật nghi chỉ có ở loài người nhưng cũng phải loại trừ trường hợp của hoạn quan [phiến suy (ṣaṇḍhas), bán-trạch-ca (paṇḍakas)], lưỡng tính và người ở châu Uttarakuru.

Luật nghi cũng có ở loài người, ngoại trừ các trường hợp nói trên và ở cả chư thiên; v́ thế luật nghi tồn tại ở cả hai thú.

Hoạn quan không thích hợp với luật nghi; và điều này đă được nói đến ở trong kinh: “Này Đại danh (Mahānāman), giới tại gia áo trắng thuộc nam giới và có đủ nam căn…”; cũng như trong luật (tỳ-nại-da, vinaya): “Người như thế không được nhận vào”.

(Hỏi) Tại sao lại như vậy?

(Đáp) V́ những người này có các phiền năo tăng thượng thuộc cả hai giới tính, v́ họ không có khả năng (akṣama) tư trạch (pratisaṃkhyāna) đúng đắn để đánh bạt phiền năo; và v́ họ không có tâm tàm quư (hrī, apatrāpya) mạnh mẽ.

(Hỏi) Tại sao họ cũng không thích hợp với bất luật nghi?

(Đáp) V́ ư định làm điều ác (pāpāśaya) không kiên định ở họ; v́ bất luật nghi đối lập (pratidvandva) với luật nghi cho nên chỉ những ai có thể đắc luật nghi mới có thể đắc bất luật nghi.

Người ở châu Uttarakuru không có phát thệ thọ giới (samādāna), v́ thế không có luật nghi biệt giải thoát; và cũng không có định (samādhi), v́ thế không có hai loại luật nghi khác. Ngoài ra họ cũng không có ư định làm điều ác.

Ở các ác thú (āpāyika) không có các tác động mạnh mẽ của tàm quư; trong lúc đó muốn có luật nghi cần phải có tâm tàm quư mạnh mẽ; và muốn có bất luật nghi th́ cũng phải hủy hoại tâm tàm quư trước.

Cả luật nghi và bất luật nghi đều không thể sinh khởi trong thân sở y của hoạn quan, chúng sinh lưỡng tính và ở ác thú bởi v́ loại thân này giống như đất đă bị nhiễm muối cho nên cả lúa cũng như cỏ dại đều không thể mọc nổi.

(Vấn nạn) Nhưng kinh có nói: “Này các Bí-sô, có một con rồng (nāga) sinh ra từ một quả trứng, cứ đến ngày thứ tám mỗi nửa tháng lại rời khỏi chỗ ở để đi thọ tŕ tám chi trai giới” (Saṃyutta, iii. 241; Vibhāṣā, 24, 11).

Trong trường hợp của rồng, đó không phải là luật nghi mà chỉ là diệu hạnh (sucarita).

Như vậy luật nghi chỉ có ở loài người và chư thiên. Tuy nhiên chỉ có loài người mới có đủ ba loại là luật nghi biệt giải thoát, luật nghi tĩnh lự và luật nghi vô lậu.

Luật nghi tĩnh lự chỉ có ở các cơi trời Dục giới và Sắc giới mà không có ở Vô sắc giới.

Luật nghi vô lậu có ở Sắc giới - ngoại trừ những chúng sinh sinh ở tĩnh lự trung gian (dhyānāntarikas) và chúng sinh vô tưởng - và cũng có ở cả Vô sắc giới.

Tuy nhiên chư thiên ở Vô sắc giới không bao giờ thực sự có đủ (saṃmukhībhāvataḥ) loại luật nghi này bởi v́ loại này vốn thuộc sắc pháp; mà họ chỉ có thể “thành tựu”.

Nhân đang giải thích về nghiệp, luận chủ muốn định nghĩa thêm về các loại nghiệp khác nhau đă được kinh đề cập đến. Có ba loại nghiệp là thiện, ác và vô kư (Vibhāṣā, 51, 1).

安不安非業  名善惡無記

[Nghiệp an ổn, không an ổn, không phải an ổn hay an ổn

Được gọi là nghiệp thiện, nghiệp ác, nghiệp vô kư.]

Luận:  Nghiệp thiện là nghiệp làm cho an ổn; nghiệp ác là nghiệp làm cho bất an; nghiệp khác với nghiệp thiện và ác là loai nghiệp không làm cho an ổn và cũng không làm bất an.

Trên đây là định nghĩa về các nghiệp thiện, v.v. 

Nghiệp thiện (kuśāla, śubha) th́ an ổn (kṣema) bởi v́ nó có quả dị thục đáng ưa (iṣṭavipāka), và từ đó có thể tránh khổ trong một thời gian (tạm tế chúng khổ) [đây là loại nghiệp thiện hữu lậu (kuśalasāsrava)]; hoặc v́ nó giúp đạt được Niết-bàn; tức từ đó có thể thoát khổ vĩnh viễn (vĩnh tế chúng khổ) [đây là loại nghiệp thiện vô lậu].

Nghiệp ác (akuśala, aśubha) th́ không an ổn; đó là loại nghiệp có quả dị thục không đáng ưa. Loại nghiệp mà Thế Tôn không nói là thiện hay ác, tức loại nghiệp vô kư (avyākṛta), th́ không phải an ổn cũng không phải không an ổn.

Kinh có nói đến ba loại khác là phước, phi phước, v.v..  

福非福不動  欲善業名福

不善名非福  上界善不動

約自地處所  業果無動故.

[Phước, phi phước, và bất động.

Thiện nghiệp Dục giới là phước.

Nghiệp bất thiện là phi phước.

Nghiệp thiện thượng giới là bất động

V́ căn cứ tính chất bất động của nghiệp quả về tự địa xứ sở.]

Luận:  Nghiệp thiện ở Dục giới được gọi là nghiệp phước đức (guṇa) bởi v́ nó làm cho thanh tịnh, bởi v́ nó chiêu cảm một quả đáng ưa.

Nghiệp thiện ở thượng giới, tức ở các địa của hai giới cao hơn, được gọi là bất động (āniñjya).

(Hỏi) Chẳng phải Thế Tôn đă nói rằng ba tầng thiền đầu tiên đều thuộc về động (señjita) sao? Và thánh giả cũng nói rằng tầm tứ của tầng thiền thứ nhất thuộc về động?

(Đáp) Thế Tôn nói ba tầng thiền đầu tiên thuộc về động là dựa vào tính chất c̣n nhiều khuyết điểm của các tầng thiền này; chính các khuyết điểm (sāpakṣatatā) này khiến cho các tầng thiền đầu tiên vẫn c̣n động tánh. Nhưng trong kinh Iñjitasūtra, Thế Tôn lại nói rằng các tầng thiền này bất động bởi v́ ngài đă xem chúng như là một thánh đạo thuận hợp với sự bất động.

(Hỏi) Nhưng tại sao lại gọi cái thuộc về động là bất động?

(Đáp) Bởi v́ nếu xét về quả dị thục th́ loại nghiệp thuộc thượng giới không có sự chuyển đổi. Khi nói nghiệp hệ thuộc Dục giới thuộc về động là dựa vào quả dị thục. Nơi mà quả dị thục thành măn không có tính chất cố định; bởi v́ một nghiệp dẫn đến một thú như thế vẫn có thể chiêu cảm dị thục ở một thú khác, một nghiệp vốn dẫn đến một cơi trời như thế có thể chiêu cảm dị thục ở một cơi trời khác. Những nghiệp có khả năng dẫn khởi các thế lực, tầm vóc, vẻ đẹp, lạc thú, đến nơi được chiêu cảm là một cơi trời nào đó có thể bị tác động bởi các nhân duyên mà lại dẫn đến một thú khác thuộc về người, bàng sinh hoặc quỷ. Trái lại ở Sắc giới và Vô sắc giới không có một nhân duyên nào có thể làm cho loại nghiệp hệ thuộc các giới này không thể hoàn báo ở một địa (bhūmi) thuộc về chúng.

Nghiệp ác là nghiệp không có phước đức (phi phước nghiệp). Người đời hiểu rất rơ về loại nghiệp này v́ thế không cần phải giải thích nhiều.

Kinh c̣n nói đến ba loại nghiệp khác là thuận lạc thọ, v.v..  

順樂苦非二  善至三順樂

諸不善順苦  上善順非二

餘說下亦有  由中招異熟

又許此三業  非前後熟故

順受總有五  謂自性相應

及所緣異熟  現前差別故.

[Thuận lạc, thuận khổ và không thuận lạc khổ.

Thiện nghiệp cho đến đệ tam tĩnh lự là thuận lạc thọ.

Bất thiện nghiệp là thuận khổ thọ. 

Thiện nghiệp thượng giới không thuận lạc khổ.

Có thuyết cho rằng ở dưới cũng có.

V́ nghiệp “trung gian” chiêu cảm dị thục (là tĩnh lự trung gian).

Lại thừa nhận ba loại nghiệp này

Đều có quả dị thục cùng thời.

Thuận thọ có năm loại

Là tự tánh, sở ưng, sở duyên, dị thục, 

Hiện tiền khác nhau.]

Luận:  Lạc thọ (sukhā, redanā) không có ở các cơi ở bên trên tầng thiền thứ ba v́ thế nó chỉ hệ thuộc dục giới và ba tầng thiền đầu tiên. Như vậy quả dị thục của thiện nghiệp là loại thuận lạc thọ cho đến tầng thiền thứ ba. Loại nghiệp này có quả dị thục như thế nên được gọi là thuận lạc thọ nghiệp.

Lạc thọ và khổ thọ (sukhā, duḥkhā, redanā) không có ở bên trên tầng thiền thứ ba. Ở đó chỉ có xả thọ là quả dị thục độc nhất của thiện nghiệp được chiêu cảm ở bên trên tầng thiền này.

Nghiệp bất thiện là nghiệp thuận khổ thọ.

Tụng văn nói “ở dưới” là để chi cho loại nghiệp này chỉ hiện hữu ở Dục giới.

(Hỏi) Có phải quả của tất cả nghiệp này chỉ là thọ?

(Đáp) Không phải. Các nghiệp này c̣n chiêu cảm loại dị thục hỗ trợ (saṃbhāra) cho thọ (thọ tư lương).

Có thuyết cho rằng loại nghiệp trung gian (thuận phi nhị) - có nghĩa là loại nghiệp chiêu cảm một loại thọ không lạc không khổ - hiện hữu ở bên dưới tầng thiền thứ tư, tức trái với chủ trương của Tỳ-bà-sa (Vibhāṣā, 115, 4). Nếu không có loại nghiệp trung gian này ở bên dưới tầng thiền thứ tư th́ sẽ không có quả dị thục (vipāka) của nghiệp thuộc tĩnh lự trung gian (dhyānāntara) (trung gian định nghiệp); hoặc sẽ không có dị thục của bất kỳ một loại nghiệp nào cả ở tĩnh lự trung gian; bởi v́ ở đó đều không có lạc thọ và khổ thọ.

Có thuyết khác cho rằng quả dị thục của nghiệp thuộc tĩnh lự trung gian chính là lạc thọ (lạc căn, sukhendriya) của tĩnh lự này; thuyết khác lại nói rằng quả dị thục của loại nghiệp này không phải là thọ, [mà là sắc (rūpa), v.v.].

Cả hai giải thích trên đều trái với Bổn luận (ucchāstra) (Jñānaprasthāna, 11, 5): “Dị thục của một nghiệp có thể chỉ là một thọ tâm sở không? - Có, đó là dị thục của loại thiện nghiệp không có tầm (vitarka)”. Bổn luận c̣n nói: “Có thể có quả dị thục cùng thời của ba loại nghiệp không? - Có. Trong cùng một lúc có thể sinh khởi (1) quả dị thục của một nghiệp thuận lạc thọ, tức là các pháp thuộc sắc [như nhăn căn, v.v.]; (2) quả dị thục của một nghiệp thuận khổ thọ, tức là tâm và các tâm sở [ngoại trừ ưu thọ]; (3) quả dị thục của một nghiệp phi lạc phi khổ, tức là các pháp tương ưng với tâm [như mạng căn]”. Như vậy, bên ngoài Dục giới, cả ba loại nghiệp đều không thể sinh quả dị thục cùng thời bởi v́ quả dị thục của loại nghiệp thuận khổ thọ chỉ có ở Dục giới (Vibhāṣā, 118, 10).

(Hỏi) Loại nghiệp không thuận lạc khổ [khi thuộc về một địa thấp hơn tầng thiền thứ tư] là thiện hay bất thiện?

(Đáp) Là thiện, nhưng có lực rất yếu. 

(Hỏi) Nhưng chẳng phải các ông đă nói rằng “thiện nghiệp, cho đến tầng thiền thứ ba, đều là nghiệp thuận lạc thọ”?

(Đáp) Nói như vậy là dựa vào trường hợp chung (bāhulika, nirdeśa).

(Hỏi) Nhưng làm thế nào có thể nói rằng nghiệp là thuận lạc thọ (sukhavedanīya, sukhavedya)? Chẳng phải thể tánh của nghiệp vốn không phải là thọ, và không được cảm nhận sao (avedanāsvabhāva)?

(Đáp) Người ta đă nói như vậy bởi v́ nghiệp thuận hợp với lạc thọ (sukhaveanāhita, anukūla); hoặc v́ quả dị thục của nó được cảm nhận một cách thích thú (năng thọ lạc dị thục); cũng giống như khi nói “áo tắm” (snānīyakāṣāya) là để chỉ cho loại áo mặc khi tắm, th́ ở đây khi gọi nghiệp là “thuận thọ” (vedanīya) tức có ư chỉ cho loại nghiệp mà người ta có thể cảm thọ một quả dị thục của nó. 

Có tất cả năm loại thuận thọ: 

(1)                                 Tự tánh thuận thọ, là loại thọ mà thể tánh của nó là để được cảm nhận; như lạc thọ là loại kinh nghiệm (anubhava) thuộc về lạc, v.v..

(2)                                 Tương ưng thuận thọ, là loại xúc (sparśa) được cảm nhận bởi v́ nó tương ưng với thọ; như thuận lạc thọ xúc, v.v.. (Saṃyukta, 13; Saṃyutta, v. 211).

(3)                                 Sở duyên thuận thọ, là sáu cảnh (viṣaya) của sáu căn được cảm nhận như là sở duyên (ālambana). Kinh (Saṃyutta, iv, 41) nói: “Khi mắt nh́n thấy màu sắc th́ cảm nhận được màu sắc nhưng không cảm nhận màu sắc có kèm theo t́nh cảm (bất thọ sắc tham)”. Màu sắc chính là sở duyên của thọ.

(4)                                 Dị thục thuận thọ, là nghiệp được cảm thọ đứng về mặt quả báo. Kinh (Madhyama, 3, 1) nói: “Nghiệp được cảm thọ trong đời sống hiện tại (thuận hiện thọ nghiệp)”.

(5)                                 Hiện tiền thuận thọ, là loại thọ đang được cảm nhận ở hiện tại (saṃmukhībhāva). Kinh nói: “Khi cảm nhận, khi trải qua (anubhavati) một cảm giác sung sướng th́ khi đó hai cảm giác khác là khổ và không khổ không sướng đều bị ngăn chận bởi cảm giác sung sướng này” (so sánh Dīgha, ii. 66). Như vậy khi lạc thọ hiện hành (pravartate) th́ sẽ không thể cảm nhận một loại thọ khác. V́ thế nếu người ta nói rằng loại thọ này được cảm nhận (thuận thọ, vedanīya) th́ đó chỉ v́ nó đang hiện hữu (saṃmukhībhāva vedanīyatā).

(Hỏi) Ba loại nghiệp này có tính chất nhất định hay không nhất định?

Tụng đáp:   

此有定不定  定三順現等

或說業有五  餘師說四句.

[Nghiệp này có khi định có khi bất định.

Nghiệp định có ba loại là thuận hiện thọ, v.v.

Có thuyết nói nghiệp có năm loại.

Có luận sư lại phân tích qua tứ cú.]

Luận:  Loại nghiệp vừa được nói đến ở trên (thuận lạc thọ nghiệp, v.v.) có khi có tính chất nhất định (niyata), có nghĩa là nhất định được “cảm thọ”; nhưng có khi lại không có tính chất nhất định (aniyata), có nghĩa là không nhất định được “cảm thọ”.

Những nghiệp có tính chất nhất định lại được chia làm ba loại là (1) thuận hiện pháp thọ, tức được cảm thọ trong đời sống hiện tại (dṛṣṭadharmavedanīya) (2) Thuận thứ sinh thọ, tức được cảm thọ sau khi tái sinh, có nghĩa là ngay trong đời sống kế tiếp (upapadyavedanīya), (3) thuận hậu thứ thọ, tức được cảm thọ muộn hơn (aparaparyāyavedanīya). Như vậy, xét về mặt dị thục, nếu cộng thêm loại nghiệp bất định tức thành bốn loại.

Có người cho rằng nghiệp có năm loại. Tức nghiệp bất định lại được chia làm hai loại (1) loại có tính chất bất định xét nếu về thời gian của quả dị thục nhưng chắc chắn có quả dị thục (niyatavipāka); (2) loại có tính chất bất định về quả dị thục (aniyatavipāka) tức có thể không chiêu cảm quả báo.

Nghiệp thuận hiện pháp thọ là loại nghiệp được tạo tác trong đời này và “chín” hoặc có quả báo ngay trong đời này. Nghiệp thuận thứ sinh thọ là loại nghiệp có quả báo ở đời sống kế tiếp đời sống đă tạo ra nghiệp này. Nghiệp thuận hậu thứ thọ là loại nghiệp có quả báo trong đời sống về sau, tức bắt đầu từ đời thứ ba.

Nhưng có luận sư (Sautrātikas) nói rằng không thể thừa nhận một nghiệp mạnh (cường lực nghiệp) lại có quả dị thục yếu (dị thục quả thiểu). Do đó quả dị thục của loại nghiệp thuận hiện pháp thọ có thể tiếp tục ở các đời khác; tuy nhiên, v́ quả dị thục này khởi đầu (vipākārambha) ở đời hiện tại cho nên loại nghiệp này có tên là thuận hiện pháp thọ.

Các luận sư Tỳ-bà-sa không thừa nhận cách nh́n như vậy. Họ nói rằng có những nghiệp mà quả của chúng ở gần (saṃnikṛṣṭaphala) mà có những nghiệp mà quả của chúng ở xa (viprakṛṣṭa). Cũng giống như cây gai (suvarcala) mới hai tháng rưỡi đă có quả; nhưng lúa mạch (yava) và cây (godhūma) th́ phải sáu tháng mới có quả.

Có luận sư (Dārṣtāntikas, Tỷ dụ sư) lại chia ra bốn trường hợp: (1) Nghiệp có tính chất nhất định về thời gian cho quả dị thục nhưng lại không nhất định phải có quả dị thục - nếu nghiệp này có quả dị thục th́ nó nhất định cho quả vào một thời điểm nhất định nào đó; tuy nhiên nó không nhất định chiêu cảm một quả dị thục: Đó là loại nghiệp nhất định (niyata) hoặc nhất định cảm thọ (niyatavedanīya) nhưng dị thục th́ không nhất định (aniyatavipāka); (2) nghiệp có tính chất nhất định về quả dị thục nhưng lại bất định về thời gian của quả dị thục - loại nghiệp này sẽ có quả dị thục nhưng thời gian của dị thục th́ bất định: Đó là loại dị thục nhất định (niyatavipāka) nhưng cảm thọ bất định (aniyatavedanīya); (3) nghiệp có tính chất nhất định về cả hai mặt, tức dị thục nhất định và cảm thọ nhất định; (4) nghiệp không có tính chất nhất định về cả hai mặt, tức dị thục bất định và cảm thọ bất định.

Theo phân tích trên sẽ có tất cả tám loại: (1) Nghiệp thuận hiện thọ nhất định có dị thục; (2) nghiệp thuận hiện thọ nhất định có dị thục; v.v. (7) nghiệp có thể được cảm thọ ở bất kỳ đời nào (cảm thọ bất định, aniyatavedanīya) và nhất định có dị thục; (8) nghiệp có thể được cảm thọ ở bất kỳ đời nào nhưng không nhất định có dị thục.

Tuy nhiên, những nghiệp được kinh xếp vào loại thuận hiện pháp thọ, v.v. th́ luôn luôn có quả dị thục; những nghiệp được xếp vào loại bất định (aniyata) th́ có thể không có quả dị thục.  

四善容俱作  引同分唯三

諸處造四種  地獄善除現

堅於離染地  異生不造生

聖不造生後  并欲有頂退.

[Bốn loại là hợp lư; có thể tạo tác cùng một lúc;

Dẫn sinh chúng đồng phần chỉ có ba loại.

Tất cả các xứ đều có thể tạo bốn loại nghiệp.

Thiện nghiệp địa ngục không có thuận hiện pháp thọ.

Khi kiên định th́ ở nhiễm địa đă xả ly,

Dị sinh không tạo nghiệp thuận thứ sinh thọ;

Và thánh giả không tạo thuận thứ sinh hoặc thuận hậu thứ,

Kể cả thánh giả ly dục giới, hữu đảnh, và thối thất.]  

Luận:  Trong cùng một lúc một người có thể tạo tác cả bốn loại nghiệp không? - Giả sử như có người do người khác sai bảo mà phạm các tội giết hại, trộm cắp, nói dối; và chính ḿnh tự phạm tội tà dâm th́ cả bốn loại nghiệp này mặc dù thuộc bốn loại khác nhau nhưng đều phạm phải trong cùng một thời gian.

Không phải nghiệp thuận hiện pháp thọ dẫn sinh đời sống hiện tại (chúng đồng phần, nikāyasabhāga) mà đời sống này đă được dẫn sinh bởi một nghiệp trước đó.

(Hỏi) Có thể tạo tác bao nhiêu loại nghiệp trong các giới (dhātu) và các thú (gati) khác nhau?

(Đáp) Trong tam giới và ở tất cả các thú đều có thể tạo tác bốn loại nghiệp thiện hoặc bất thiện; nhưng nguyên tắc phổ quát này có nhiều giới hạn. Một mặt, v́ không có các nghiệp bất thiện ở bên trên dục giới; mặt khác, ở địa ngục chỉ có thể tạo tác thiện nghiệp thuộc loại thuận thứ sinh thọ, thuận hậu thứ thọ, hoặc thiện nghiệp bất định mà không thể tạo tác thuận hiện pháp thọ bởi v́ ở địa ngục không có quả dị thục đáng ưa (manojña, manāpa).

Khi kiên định (sthira) có nghĩa là khi không bị thối thất (aparihāṇadharma).

Người ngu (bāla) là chỉ cho dị sinh (Pṛthagjana).

Khi đă rời bỏ một tầng nào đó, khi đă xả ly sự chấp trước (virakta) đối với một địa nào đó (như Dục giới, tầng thiền thứ nhất, v.v.) th́ dị sinh không bao giờ tạo tác ở địa này một nghiệp thuận thứ sinh thọ (tức loại nghiệp được cảm thọ ở lần tái sinh kế tiếp).

Khi kiên định th́ thánh giả không tạo tác ở địa đă xả ly loại nghiệp thuận thứ sinh thọ hoặc thuận hậu thứ thọ.

Thật vậy, những dị sinh nào không bị thối thất (aparihāṇadharma) th́ trong đời sống kế tiếp sẽ không tái sinh vào địa có liên quan đến địa mà những chúng sinh này dă xả ly; và thánh giả không bị thối thất cũng không bao giờ tái sinh vào địa này. Họ chỉ tạo tác các nghiệp thuận hiện pháp thọ và nghiệp bất định ở địa họ được sinh ra.

Thánh giả không kiên định, khi xả ly Dục giới hoặc hữu đảnh, cũng giống như vậy.

Thánh giả xả ly dục giới là hàng Bất hoàn (Anāgāmin).

Thánh giả xả ly Hữu đảnh (bhavāgra) hay phi tưởng phi phi tưởng xứ (naivasaṃjñānāsaṃjñāyatana), tức tầng cuối cùng của Vô sắc giới, là A-la-hán.

Ngay cả khi bị thối thất, có nghĩa là khi đánh mất qủa đă đắc th́ các thánh giả này cũng không tạo tác nghiệp thuận thứ sinh thọ hoặc thuận hậu thứ thọ ở Dục giới hay hữu đảnh.

Chúng tôi sẽ giải thích trường hợp thánh giả bị thối thất luôn luôn đắc lại quả trước khi chết như thế nào.

(Hỏi) Chúng sinh trung hữu (antarābhava) có tạo nghiệp không?

Tụng đáp:   

欲中有能造  二十二種業

皆順現受攝  類同分一故.

[Trung hữu dục giới có thể tạo

Hai mươi hai loại nghiệp

Đều thuộc thuận hiện pháp thọ

Và chỉ có một loại đồng phần,]

Luận:  Ở bào thai trải qua năm giai đoạn là Yết-thích-lam (kala), Ách-bộ-đàm (arbuda), Bế-thi (peśin), Kiện-nam (ghana), bát-la-xà-khư (praśākhā). Khi làm người cũng trải qua năm giai đoạn là anh hài, đồng tử, thiếu niên, trung niên và lăo niên.

Chúng sinh trung hữu tạo tác các nghiệp nhất định được cảm thọ như thân trung hữu, kala, arbuda... cho đến anh hài, đồng tử,… như vậy có tất cả mười một loại định nghiệp; đối với các nghiệp bất định, họ cũng tạo tác như vậy.

Mười một loại định nghiệp của chúng sinh trung hữu đều thuộc thuận hiện pháp thọ.

(Hỏi) Tại sao như vậy?

(Đáp) Bởi v́ thân trung hữu và mười giai đoạn (avasthā) kế tiếp (nhất chúng đồng phần) đều được dẫn khởi bởi một nghiệp duy nhất. Người ta cũng không phân biệt loại nghiệp “được cảm thọ ở trung hữu” (thuận trung hữu thọ nghiệp) bởi v́ trung hữu được dẫn sinh bởi cùng loại nghiệp được cảm thọ ở đời sống kế tiếp trung hữu. 

(Hỏi) Dựa vào những tính chất ǵ để nói rằng đó là định nghiệp, tức loại nghiệp nhất định có quả báo?

Tụng đáp:   

由重惑淨心  及是恒所造

於功德田起  害父母業定.

[Do phiền năo nặng hoặc tịnh tâm dày,

Do thường tạo tác, do liên quan đến ruộng công đức, 

Do hại cha mẹ mà có định nghiệp.]  

Luận:  loại nghiệp được tạo tác bởi phiền năo sâu nặng, bởi tín tâm thanh tịnh, được tạo tác v́ thửa ruộng công đức, được tạo tác liên tục đều là định nghiệp.

Khi nói “thửa ruộng công đức” (công đức điền) là có ư chỉ cho tam bảo, hoặc chỉ cho những người nào đó, như những người đắc quả hay thánh giả (dự lưu, v.v.) và những người đắc định (như diệt tận định, v.v.). Loại nghiệp được tạo tác đối với các công đức điền này, ngay cả khi không có một tâm phiền năo sâu nặng hoặc tín tâm mạnh mẽ, vẫn có tính chất nhất định và có thể là thiện hoặc bất thiện.

Trường hợp giết hại cha hoặc mẹ, cho dù với ư định như thế nào đi nữa cũng đều thuộc về định nghiệp.

Các loại nghiệp khác, tức được tạo tác với loại phiền năo yếu ớt (mandakleśa), v.v., đều không có tính chất nhất định.

(Hỏi) Dựa vào những tính chất ǵ để nói rằng có nghiệp “thuận hiện pháp thọ”?

Tụng đáp: 

由田意殊勝  及定招異熟

得永離地業  定招現法果

[Do công đức điền hoặc ư thù thắng,

Tính chất nhất định chiêu cảm dị thục,

Và xả ly vĩnh viễn địa có nghiệp chiêu cảm

Th́ nhất định chiêu cảm hiện pháp quả.]  

Luận:  Do tính chất thù thắng của công đức điền mặc dù ư định có thể yếu liệt; tỷ dụ như vị Bí-sô chuyển thành nữ giới v́ đă nhục mạ chúng tăng “các ông chỉ là đàn bà!” (striyoyūyam) (tác nữ nhân ngữ). 

Do tính chất thù thắng của ư định; tỷ dụ như có viên hoạn quan nhờ cứu được những con ḅ khỏi bị thiến (hoàng môn sự) mà đă đắc lại giới tính của ḿnh.

Hoặc khi một người đă vĩnh viễn xả ly đối với một địa nào đó th́ sẽ không c̣n tái sinh vào địa này nữa; do đó loại nghiệp - có thể chiêu cảm dị thục ở địa này nhưng trong một đời khác - đă thay đổi mà chiêu cảm dị thục trong đời hiện tại cho dù là thiện hoặc bất thiện.

Hoặc đó là loại nghiệp nhất định có quả dị thục nhưng không nhất định về thời gian cho quả; loại nghiệp này sẽ có quả báo ở đời hiện tại.

Đối với loại nghiệp có tính chất nhất định về thời gian cho quả th́ nó sẽ chiêu cảm quả dị thục vào thời điểm đă định đặt. Một người mà những hành động của ḿnh chắc chắn phải cảm thọ quả dị thục vào lần tái sinh đầu tiên ở một địa nào đó th́ không thể ĺa bỏ được địa này.

Đối với loại nghiệp không có tính chất nhất định về quả dị thục th́ sẽ không chiêu cảm quả dị thục nếu như người tạo nghiệp ĺa bỏ được địa mà người đó lẽ ra có thể phải chịu quả báo ở đó.

(Hỏi) Loại công đức điền nào sinh khởi các nghiệp thuộc loại nhất định chiêu cảm quả báo ở đời hiện tại?

Tụng đáp:   

於佛上首僧  及滅定無諍

慈見修道出  損益業即受.

[Đối với tăng chúng có phật đứng đầu,

Tức những người ra khỏi diệt định, vô tránh,

Từ tâm, kiến đế, quả vị A-la-hán;

Dù làm lợi ích hay tổn hại đều có quả báo.]

Luận:  Nói chung đó là đoàn thể các Bí-sô có phật đứng đầu. Nếu nói về các thế th́ có tất cả năm loại: 

Những người ra khỏi Diệt tận định (nirodhasamāpatti). Ở định này hành giả đă đắc được tâm rất tịch tĩnh (śānti) v́ loại định này tương tợ như Niết-bàn. Khi hành giả xuất định (vyutthita) th́ giống như người đă nhập Niết-bàn nhưng thị hiện trở lại.

Những người ra khỏi Vô tránh định. Ở định này, chuỗi tâm tương tục (saṃtati) của hành giả chứa đầy ư lạc muốn đưa vô lượng chúng sinh đến một cảnh giới hoàn toàn vắng bóng phiền năo (vô tránh, araṇā); v́ thế đến khi xuất định, thân tương tục của hành giả thấm nhuần vô lượng công đức tối thắng.

Những người ra khỏi Từ định (maitrīsamāpatti). Ở định này, chuỗi tâm tương tục của hành giả chứa đầy ư lạc muốn cho vô lượng chúng sinh đều được an lạc; v́ thế đến khi xuất định th́ thân tương tục của hành giả cũng thấm nhuần vô lượng công đức tối thắng.

Những người ra khỏi kiến đạo. Ở thánh đạo này, hành giả đă đoạn trừ tất cả các phiền năo thuộc kiến sở đoạn; v́ thế đến khi xuất thánh đạo, thân tương tục của hành giả hoàn toàn thanh tịnh bởi v́ sở y thân (āśraya = śarīra) của hành giả vừa được đổi mới (parivṛti) (đắc thắng chuyển y).

Những người ra khỏi quả vị A-la-hán (ṭng tu đạo xuất), tức những người vừa mới chứng đắc quả A-la-hán. Họ vừa mới thành tựu sự đoạn trừ tất cả phiền năo thuộc tu sở đoạn (bhāvanā). Thân tương tục của họ thanh tịnh bởi v́ thân sở y vừa được đổi mới.

Đó là những lư do tại sao những hành động thiện hoặc bất thiện, những việc làm lợi ích (kāra) hay tổn hại (apakāra) có liên quan đến năm trường hợp trên đều mang lại quả báo ở đời hiện tại. (Vibhāṣā, 154, 3).

Đối với những con đường tu tập khác mà nhờ nó hành giả đắc được các quả Nhất lai và Bất hoàn th́ các thánh đạo này tự thân chưa được viên măn và cũng chưa đem lại kết quả thù thắng (aparipūrṇasvabhāvaphala). Những người xuất phát từ sự đắc được hai loại quả này không phải là các phước điền có thể so được với A-la-hán. Thân tương tục của họ không thanh tịnh; và thân sở y của họ cũng không phải vừa được đổi mới.

Yếu tố chủ chốt của quả dị thục (vipāka) chính là thọ.

(Hỏi) Dị thục của một nghiệp nào đó có thể chỉ là tâm thọ (caitasikī) mà không phải là thân thọ không (kāyikī)? Hoặc có thể chỉ là thân thọ mà không phải là tâm thọ không?

Tụng đáp:   

諸善無尋業  許唯感心受

惡唯感身受  是感受業異.

[Các thiện nghiệp không có tầm

Chỉ chiêu cảm tâm thọ;

Ác nghiệp chỉ chiêu cảm thân thọ.

Đó là sự khác nhau của các nghiệp chiêu cảm thọ.]

Luận:  Các nghiệp thuộc về tĩnh lự trung gian (dhyānāntara) (tức loại tĩnh lự nằm giữa tầng thiền thứ nhất và thứ hai), và các nghiệp thuộc các tầng cao hơn đều không có tầm (vitarka). Trong khi thân thọ, vốn tương ưng với năm thức thân, lại luôn luôn có tầm và tứ (vicāra) v́ thế thân thọ không thể là quả dị thục của một nghiệp không có tầm.

Thọ là quả dị thục của một nghiệp bất thiện là loại khổ thọ; như vậy loại tâm thọ thuộc về khổ chính là những ǵ được gọi là ưu (daurmanasyendriya). Trước đây chúng ta đă có giải thích nếu là ưu thọ th́ không bao giờ làm quả dị thục. (Vibhāṣā, 115, 9).

(Hỏi) Nhưng nếu ưu, tức tâm thọ khổ, không phải là dị thục th́ sự cuồng loạn thuộc về tâm hay sự cuồng loạn của tâm (cittakṣepa, tâm cuồng) vốn là một loại khổ thọ sẽ sinh khởi ở thức nào (trong số các nhăn thức, ư thức, v.v.)? Và v́ nguyên nhân ǵ mà nó sinh khởi?

Tụng đáp:   

心狂唯意識  由業異熟生

及怖害違憂  除北洲在欲.

[Tâm cuồng khởi ở ư thức

Và sinh từ quả dị thục của nghiệp,

Do sự khủng bố, làm hại, trái nghịch và sầu ưu;

Tất cả đều ở Dục giới, ngoại trừ Bắc châu.]  

Luận:  Tâm cuồng phát khởi ở ư thức. Nhóm từ manaścitta, ‘tâm ư’ được sử dụng trong tụng văn tương đương với thành ngữ manovijñāna, ‘thức của manas, ư thức’.

Năm thức thân không thể có tánh ‘cuồng điên’ (kṣipta) bởi v́ chúng không có sự tưởng tượng (phân biệt, avikalpaka), sự tra xét và sự ghi nhớ (abhinirūpaṇa, anusmaraṇa); trong lúc sự cuồng loạn thuộc về tâm chính là sự tưởng tượng ra những điều không hề hiện hữu.

Tâm cuồng sinh ra từ quả báo của nghiệp.

Những người gây phiền nhiễu và làm hại đến tâm của người khác bằng bùa ngải và chú thuật; ép buộc người khác uống thuốc độc, uống rượu khi họ không muốn uống; làm cho thú vật kinh sợ bằng cách săn đuổi, phóng hỏa đốt rừng hoặc cài chuôm bẩy; làm nhiễu loạn trí nhớ và sự tĩnh táo của người khác bằng một cách nào đó, th́ tâm của họ sẽ bị cuồng loạn, sẽ bị lấy mất sự hỗ trợ của trí nhớ (bhraṣṭasmṛtikaṃ cittaṃ vartate) do tác động của quả báo từ các nghiệp này.

Tâm cuồng c̣n sinh khởi trong các trường hợp sau:

Khi nh́n thấy những chúng sinh “không phải là người” (phi nhân, amanuṣya), thân h́nh ghê rợn, đi đến gần cho nên con người đă quá kinh hăi mà phát cuồng; khi giận giữ trước thái độ này của con người, những chúng sinh “phi nhân” đă đánh đập họ đến tổn thương (marman); khi các đại chủng của thân thể bị mất cân bằng, như sự trái nghịch nhau giữa khí, nhiệt và đàm mà khiến cho con người phát cuồng; khi bị sầu ưu làm nhiễu loạn tâm, như trường hợp của Vāsiṣṭhī (Bà-tư).

(Hỏi) Nếu tâm cuồng, tức sự cuồng loạn của ư thức, sinh ra từ quả dị thục của nghiệp th́ làm sao có thể nói rằng tâm họ không phải là quả dị thục?

(Đáp) Chúng tôi không nói rằng sự cuồng điên của tâm xuất phát từ loại nghiệp có quả báo dị thục mà chỉ nói là nó xuất phát từ quả báo dị thục của nghiệp. Các đại chủng ở vào t́nh trạng mất cân bằng chính là quả dị thục và tâm cuồng xuất phát từ t́nh trạng này; v́ thế mới nói là “sinh ra từ quả dị thục”. Người ta nói rằng tâm bị cuồng điên khi tâm, v́ có sự không thăng bằng hoặc sự trái chống nhau của các đại chủng do một nghiệp nào đó gây ra, đă trở nên xáo trộn (prakopa), mà bị giảm mất trí nhớ (bhraṣṭasmṛtika).

Có bốn trường hợp: (1) Tâm cuồng (kṣpta) nhưng không loạn (vikṣipta), như tâm phát cuồng nhưng không nhiễm ô (akliṣṭa); (2) tâm loạn nhưng không cuồng, như tâm không phát cuồng nhưng bị nhiễm ô; (3) vừa cuồng vừa loạn; (4) không cuồng cũng không loạn.

(Hỏi) Tâm cuồng phát sinh từ hạng chúng sinh nào?

(Đáp) Ở những chúng sinh dục giới, ngoại trừ châu Kuru.

Trong số chúng thiên Dục giới vẫn có kẻ phát khùng (unmattaka) huống hồ là con người, quỷ và bàng sinh.

Chúng sinh bị đọa địa ngục (nāraka) luôn luôn có tâm cuồng v́ những phần thân, trí, mạng của họ liên tục bị tổn thương bởi hàng ngàn sự hành hạ khác nhau. Họ bị đau khổ bức bách (parinunna = paripīḍita); họ không hay biết ǵ về chính bản thân ḿnh và càng không biết cần phải làm ǵ để trốn tránh. Ở đây chúng ta hăy nhắc đến trường hợp điển h́nh của một chúng sinh bị đọa đày ở địa ngục chỉ biết kêu than mà thốt lên: “Trời ơi! Tâm!”

Trừ đức phật ra, các thánh giả đều có thể bị tâm cuồng nếu như tâm của họ bị tác động bởi sự mất cân bằng (vaisaṃya) của các đại chủng. Tuy nhiên, trong trường hợp này sự mất cân bằng của các đại chủng không bao giờ là quả dị thục bởi v́ loại định nghiệp có quả báo phát sinh tâm cuồng phải được chiêu cảm trước khi một người đắc được thánh đạo; và loại nghiệp bất định th́ không thể sinh quả khi mà thánh đạo đă được đắc.

Sự khủng bố, sự làm tổn thương của những chúng sinh “phi nhân” và kể cả sự sầu ưu cũng không thể làm cho thánh giả bị cuồng tâm v́ họ đă vượt qua năm loại sợ hăi (siêu ngũ úy), v́ họ không có hành động xúc phạm nào (aprasādika) khiến cho những chúng sinh này phải giận dữ, và v́ họ đă hiểu rơ tính chất của sự vật (chứng pháp tánh).

Kinh dạy rằng có ba sự không ngay thẳng (khúc, kauṭilya); đó là sự không ngay thẳng của thân, của ngữ và của ư; đồng thời cũng có ba sự đồi bại (doṣa) và ba sự cấu nhiễm (trược, kaṣāya).  

說曲穢濁業  依諂瞋貪生

[Các nghiệp quanh co, đồi bại, cấu nhiễm

Do siễm, sân, và tham sinh.]  

Luận:  Loại thân nghiệp, ngữ nghiệp hoặc ư nghiệp sinh khởi từ sự ngụy trá (śāṭhya), tức phát xuất từ sự không ngay thẳng (kuṭilānvaya), được gọi là “khúc”; loại nghiệp sinh khởi từ sự hận thù (dveṣa), tức xuất phát từ sân, được gọi là đồi bại (uế); loại nghiệp sinh khởi từ sự chấp trước (tham, rāga), tức phát xuất từ sự bị nhuộm màu (rañjana) được gọi là nhiễm trước (trược).  

 

previous.png      Hết Chương 4a      next.png

ĐẦU TRANG | C1 | C2a | C2b | C3a | C3b | C4a | C4b | C5 | C6 | C7 | C8 | C9

 

 

 

[ TRANG CHỦ | KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

 

 

 

 

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0