* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ | KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

LUẬN CÂU-XÁ
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân
Hán dịch Huyền Trang

Việt dịch: Đạo Sinh

--o0o--

Chương 5 : Phân biệt tùy miên

Phần 18

Trước đây có nói rằng những sự khác nhau của thế gian là do nghiệp sinh ra; và  nghiệp có thể tăng trưởng chính là nhờ các pháp tùy miên (anuśayas); nếu không có tùy miên, nghiệp sẽ không có khả năng chiêu cảm (abhinirvartana) một đời sống mới (punarbhava) (vô cảm hữu năng).

(Hỏi) Có bao nhiêu loại tùy miên?

Tụng đáp:  

隨眠諸有本                  此差別有六
       謂貪瞋亦慢                  無明見及疑.

[Tùy miên là gốc của sự tái sinh;

Tùy miên có sáu loại 

Là tham, từ đó có sân, mạn,

Vô minh, kiến và nghi.]  

Luận:  Phiền năo (kleśa) khi hiện khởi sẽ có mười tác dụng: (1) Làm cho gốc của nó thêm kiên cố, có nghĩa là sự đắc được (prāpti) phiền năo của một người có phiền năo đă khiến cho phiền năo không thể bị đoạn trừ; (2) tạo thành một chuỗi liên tục (saṃtatim avasthāpayati), có nghĩa là tiếp tục sinh khởi; (3) điều chỉnh “môi trường sinh trưởng” (điền) của nó, tức là làm cho người có phiền năo (āśraya, sở y) trở nên thích hợp với sự sinh khởi với phiền năo; (4) sinh sản con cái của nó (niṣyanda), tức các tùy phiền năo (upakleśas), như sự oán ghét sinh ra sự tức giận, v.v.; (5) dẫn đên (abhinirharati) nghiệp; (6) kết nạp nhân của nó (svasaṃbhāraṃ parigṛhṇāti), tức sự xét đoán sai lạc (ayoniśomanaskāra, phi lư tác ư); (7) làm cho người có phiền năo bị lầm lạc đối với đối tượng của nhận thức (sở duyên); (8) uốn cong (namayati) chuỗi tương tục của tâm về phía sở duyên hoặc hướng đến sự tái sinh (đạo thức lưu); (9) làm thối đọa (vyutkrāmayati, parihāpayati) các thiện pháp (kuśalapakṣa); (10) trở thành sự trói buộc (bandhaṇa, phược) và ngăn cản sự vượt qua giới địa của các phiền năo này.

(Hỏi) Tùy miên có bao nhiêu loại?

(Đáp) Có sáu loại là tham và từ đó có sân, mạn, vô minh, kiến và nghi.

Khi nói “từ đó” (tathā) là hàm ư chính v́ có tham mà các tùy miên khác mới “có chỗ của chúng” (anuśayana) nơi các cảnh sở duyên (ư cảnh tùy tăng). Điều này sẽ được giải thích ở phần sau.

Nếu phân tích tham thành hai loại, sẽ có tất cả bảy loại tùy miên: (1) Tùy miên tham dục (kāmarāgānuśaya), (2) tùy miên sân hận (pratigha), (3) tùy miên tham hữu (bhavarāga), (4) tùy miên mạn (māna), (5) tùy miên vô minh (avidyā), (6) tùy miên tà kiến (dṛṣṭi), (7) tùy miên nghi (vicikitsā, vimati).

(Hỏi) Tùy miên tham dục có nghĩa là ǵ? Đó có phải là một tùy miên có tên là tham dục hay đó là một loại tùy miên tham dục khác với tham dục (kāmarāga)? Nếu cho rằng tham dục chính là tùy miên tức trái với kinh. Kinh (Saṃtukta, 33, 10, 35, 11) nói: “Người nào an trụ trong một thời gian với tâm không bị làm mồi (paryavasthita) cho tham dục, và mỗi khi sự trói buộc (paryavasthāna) của tham vừa mới sinh khởi, lại biết được cách xả ly th́ sự trói buộc của tham sẽ hoàn toàn bị mất hết thế lực mạnh mẽ của nó và người này sẽ đoạn trừ được tùy miên.” Ở đây khi nói tham dục bị đoạn trừ - và tham dục này vốn cùng thời với tùy miên của nó - là hàm ư tham dục và tùy miên của nó là hai pháp tách rời nhau. Nếu giải thích rằng đây là một loại tùy miên của tham dục tức dă lập tùy miên thành một pháp (dharma) không tương ưng với tâm [và hàm nghĩa có sự đắc được (prāpti) tham dục] th́ lại trái với Bổn luận. Bổn luận (Jñānaprasthāna, 6, 4) dạy rằng “tùy miên tham dục (kāmarāgānuśaya) tương ưng với [tức có thể được kèm theo bởi] ba thọ, lạc, hỷ và xả”. Một pháp nếu không tương ưng với tâm tức không có các cảm thọ này kèm theo.

Theo Tỳ-bà-sa, tùy miên tham dục là một tùy miên có tên là tham dục; chính tham dục là tùy miên. Đối với các phiền năo khác cũng vậy: Chính nghi (vicikitśa) là tùy miên của nghi.

(Hỏi) Nhưng đoạn kinh vừa được trích dẫn ở trên đă nói tham dục được đoạn trừ cùng với tùy miên của nó; như vậy tùy miên không phải là tham dục?

(Đáp) Tỳ-bà-sa cho rằng khi nói “cùng với tùy miên của nó” (tịnh tùy miên) có nghĩa là “cùng với hệ quả (anubandha) của nó” (tịnh tùy phược). Hoặc kinh đă dùng từ anuśaya với nghĩa “sự hoạch đắc” (prāpti) v́ sự hoạch đắc chính là nhân của tùy miên. Tuy nhiên, Bổn luận v́ chỉ căn cứ vào thực nghĩa để tŕnh bày cho nên đă nói rằng tùy miên chính là phiền năo; và v́ thế tùy miên là các pháp tương ưng với tâm.

(Hỏi) Dựa vào lư chứng nào để biết rằng đó là các pháp tương ưng với tâm?

(Đáp) Bởi v́ tùy miên làm cho tâm nhiễm ô, ngăn che tâm, đối nghịch với thiện pháp, và khi thiện pháp sinh khởi th́ tùy miên lại không tương ưng với tâm.

Điều này cho thấy chính v́ tùy miên mà tâm bị nhiễm ô, các thiện pháp chưa sinh bị ngăn chặn không cho sinh ra, bị thối thất các thiện pháp đă sinh; do đó tùy miên không phải là các pháp không tương ưng với tâm.

(Hỏi) Nhưng các pháp không tương ưng với tâm vẫn có thể có khả năng như thế.

(Đáp) Không thể như vậy. Nếu tùy miên không tương ưng với tâm th́ nó sẽ luôn luôn hiện khởi; và giả như nó có khả năng như thế th́ thiện pháp sẽ không thể nào sinh khởi được. Nhưng trên thực tế th́ thiện pháp vẫn sinh v́ thế tùy miên không phải là pháp không tương ưng với tâm.

(Giải thích) Các luận sư chủ trương tùy miên không tương ưng với tâm đều không thừa nhận ba tác dụng trên thuộc về ttùy miên, mà đúng ra là thuộc về phiền năo (kleśa) [tức thuộc về các triền phược (paryavasthāna) và các pháp này th́ không phải lúc nào cũng hiện khởi]. V́ thế chủ trương của Kinh bộ là dúng nhất. Kinh bộ nói rằng nhóm từ “tùy miên tham dục” có nghĩa là “tùy miên của tham dục”. Nhưng không phải tùy miên tương ưng với tâm và cũng không phải không tương ưng với tâm bởi v́ nó không phải là một thực pháp (dravya) riêng biệt. Những ǵ được gọi là tùy miên (anuśaya) chính là phiền năo ở trạng thái ngủ yên (thùy vị); và những ǵ được gọi là triền phược (paryavasthāna) chính là phiền năo ở trạng thái tỉnh thức (giác vị). Phiền năo ngủ yên là loại phiền năo không hiện hành, tức đang c̣n ở t́nh trạng của chủng tử; phiền năo tỉnh thức là loại phiền năo đang hiện hành. Khi nói “chủng tử” là nhằm chỉ cho một loại năng lực (śakti) sinh khởi phiền năo, một khả năng thuộc về người được nói đến (āśraya, ātmabhāva) và được sinh ra bởi phiền năo trước đó. Cũng giống như trong một người nào đó có tồn tại khả năng sinh khởi một cái biết thuộc về sự nhớ lại (niệm) và khả năng này có được là do một cái biết thuộc về sự toàn măn (anubhavajñāna, chứng trí) sinh ra; cũng giống như khả năng sinh ra hạt lúa - một khả năng vốn thuộc về cây lúa, mầm mộng, - lại được sinh ra từ chính hạt giống lúa. Những luận sư nào cho rằng chủng tử của phiền năo là một pháp tách rời với phiền năo, không tương ưng với tâm, và được gọi tên là tùy miên, th́ lẽ ra sẽ phải thừa nhận có một thực pháp không tương ưng với tâm và là nhân của một cái biết thuộc về sự nhớ lại; cũng giống như trường hợp của cây lúa.

(Hữu bộ) Các ông không có quyền giải thích nhóm từ “tùy miên tham dục” là “tùy miên của tham dục” bởi v́ kinh đă dạy rơ tùy miên chính là tham dục. Kinh Lục Lục (Ṣaṭṣaṭkasūtra) nói: “Người này có tham tùy miên (rāgānuśaya) đối với lạc thọ”. [Rơ ràng kinh muốn nói rằng vào lúc khởi lạc thọ th́ có một phiền năo (tham, rāga) hiện hành (samudācar); và kinh đă gọi loại phiền năo đang hiện hành này là tùy miên.]

(Kinh bộ) Kinh nói: “Có tham tùy miên”, chứ kinh không nói: “lúc đó có tham tùy miên”. [Vào sát-na của lạc thọ th́ tùy miên của tham đang trong tiến tŕnh sinh ra (utpadyate) mà vẫn chưa hiện khởi. Nói cách khác, vào sát-na của lạc thọ, có một tham hiện hành, một loại tham “tỉnh thức”;] khi lạc thọ này chấm dứt, tham sẽ lùi về t́nh trạng ngủ yên; và lúc đó chỉ có tùy miên của tham; một loại tham ngủ yên và làm mầm mộng cho loại tham “tỉnh thức” trong vị lai. Hoặc có thể khi nói tùy miên tham (rāgānuśaya) là kinh muốn chỉ cho tham (rāga): Tùy miên tham chỉ là quả của tham và đây là trường hợp nhân được gọi tên theo quả.

Sự bàn luận thêm về vấn đề này nên dừng lại ở đây và hăy trở lại vấn đề chính.

(Hỏi) Tham được kinh phân thành hai loại tham dục và tham hữu là có ư nghĩa ǵ? Tham hữu là ǵ?

(Đáp) Sự chấp trước vào Sắc giới và Vô sắc giới được gọi là tham hữu (bhavarāga) [tức trái nghịch với tham dục (kāmarāga) vốn là sự chấp trước dục lạc (kāma, kāmaguṇa) chỉ thuộc riêng Dục giới.]

(Hỏi) Tại sao tham hữu chỉ dùng để chỉ riêng cho hai giới ở trên?

(Đáp) Sở dĩ có tên như vậy là v́ đây là loại tham chỉ hướng về bên trong và v́ để gạt bỏ ư tưởng cho rằng hai giới này là cơi giải thoát. Truyền thuyết (kila) giải thích: “Nh́n chung th́ sự tham trước của chúng sinh ở hai giới này đều bám vào định (samāpatti), [chính xác hơn là duyên vào loại tĩnh lự (dhyāna) “có thể thọ hưởng được” (āsvādanasaṃprayuktadhyāna)]. Ở đây khi nói “nh́n chung” (đa) là hàm ư những chúng sinh này cũng có sự tham trước đối với các cung điện (vimāna), v.v. của họ. Sự tham trước vốn chỉ thuộc về các giai tầng thiền định này đều quay hướng về bên trong (antarmukhapravṛtta) cho nên mới có tên là tham hữu.

Ngoài ra có chúng sinh lại nghĩ rằng hai giới này tạo thành sự giải thoát (mokṣa); v́ thế Thế tôn đă gọi sự tham trước đối với hai giới này là tham hữu.

[theo chúng tôi], ở đây “hữu” (bhava) được dùng để chỉ cho thân sở y (ātmabhāva, āśraya). Những chúng sinh này sống trong thiền định và vừa thọ dụng thiền định (đẳng chí) vừa thọ dụng chính bản thân họ (sở y chỉ, svāśraya, svātmabhāva). Chính v́ đă xa ĺa sự tham trước các dục lạc (kāmavītarāga) nên họ chỉ thọ hưởng chính bản thân họ (tự thể) chứ không phải các vật ở ngoài. Đó là lư do tại sao sự tham trước hai giới trên được gọi là tham hữu.

(Hỏi) Tại sao sáu tùy miên này lại được phân thành mười loại như Bổn luận (Jñānaprasthāna, 5, 11) đă nói ở trên.

Tụng đáp:  

六由見異十                  異謂有身見
      邊執見邪見                  見取戒禁取.

[Do kiến khác nhau nên sáu lập thành mười.

Các loại kiến khác nhau là hữu thân kiến,

Biên chấp kiến, tà kiến,

Kiến thủ, giới cấm thủ.]  

Luận:  V́ kiến (dṛṣṭi) có năm loại, nên sáu tùy miên mới được lập thành mười loại. Như vậy tự thể của năm loài tùy miên tham (rāga), sân (pratigha), mạn (māna), vô minh (avidyā) và nghi (vicikitsā) không thuộc về kiến; và năm loại tùy miên hữu thân kiến (satkāyadṛṣṭi), tà kiến (mithyādṛṣṭi), biên chấp kiến (antagrāhadṛṣṭi), kiến thủ (dṛṣṭiparāmarśa) và giới cấm thủ (śīlavrataparāmarśa) đều có thể tánh thuộc về kiến.

Ngoài ra Bổn luận c̣n dạy rằng mười tùy miên này lại được lập thành ba mươi sáu tùy miên thuộc Dục giới, ba mươi mốt tùy miên thuộc Sắc giới, ba mươi mốt tùy miên thuộc Vô sắc giới; tổng cộng là chín mươi tám loại tùy miên.

(Hỏi) Dựa vào ư nghĩa ǵ để lập thành tất cả các loại tùy miên trên?

Tụng đáp: 

六行部界異                  故成九十八
      欲見苦等斷                  十七七八四
      謂如次具離                  三二見見疑
      色無色除瞋                  餘等如欲說.

[Do hành, bộ, giới khác nhau nên sáu tùy miên

Được lập thành chín mươi tám loại.

Ở Dục giới, kiến Khổ Đế, v.v.

Đoạn trừ mười, bảy, bảy, tám, bốn tùy miên;

Tức theo thứ tự trên loại trừ

Ba kiến, hai kiến, tất cả kiến và nghi.

Sắc giới và Vô sắc giới loại trừ sân,

Số c̣n lại giống như ở Dục giới.]

Luận:  Tất cả mười tùy miên nói trên đều được đoạn trừ bởi kiến Khổ Đế ở Dục giới.

Bảy tùy miên được đoạn trừ bởi kiến Tập Đế, bảy tùy miên được đoạn trừ bởi kiến Diệt Đế; tức loại trừ hữu thân kiến, biên chấp kiến và giới cấm thủ.

Tám tùy miên được đoạn trừ bởi Kiến đạo Đế; tức loại trừ hữu thân kiến và biên chấp kiến.

Như vậy có tất cả ba mươi hai tùy miên có thể được đoạn trừ bởi kiến Tứ Đế, bởi v́ chỉ cần kiến Tứ Đế cũng đă đủ để đoạn trừ chúng.

Bốn tùy miên được đoạn trừ bởi Tu đạo; đó là tham, sân, si, mạn bởi v́ những ai đă kiến đế đều có thể đoạn trừ các tùy miên này nhờ sự tu tập Thánh đạo (mārgābhyāsa).

Như vậy, hữu thân kiến (tát-ca-da, satkāya) chỉ thuộc về một loại (nhất bộ, ekaprakāra) v́ được đoạn trừ bởi kiến Khổ Đế (kiến khổ sở đoạn); biên chấp kiến cũng giống như vậy. Tà kiến thuộc về bốn loại v́ có thể được đoạn trừ bởi kiến Khổ Đế, kiến Tập Đế, kiến Diệt Đế và Kiến đạo Đế; đối với kiến thủ (dṛṣṭiparāmarśa) và nghi (vicikitsā) cũng vậy. Giới cấm thủ thuộc hai loại v́ có thể được đoạn trừ bởi kiến Khổ Đế và Kiến đạo Đế. Tham, sân, mạn, vô minh đều thuộc năm loại v́ có thể được đoạn trừ bởi kiến Tứ Đế và Tu đạo.

(Hỏi) Tùy miên thuộc loại kiến khổ đoạn cho đến loại Tu đoạn có những tính chất ǵ?

(Đáp) Khi sở duyên (ālambana) của một tùy miên thuộc về loại có thể đoạn trừ bởi sự nh́n thấy một đế nào đó th́ người ta nói rằng tùy miên này có thể được đoạn trừ bởi sự nh́n thấy chính loại đế này. Các tùy miên khác có thể được đoạn trừ bởi Tu đạo.

Như vậy có tất cả mười hai kiến (dṛṣṭis), bốn nghi (vicikitsās), năm tham (rāgas), năm sân (pratighas), năm mạn (mānas), năm vô minh (avidyās); tổng cộng thành ba mươi sáu tùy miên thuộc Dục giới.

Các loại tùy miên trên, ngoại trừ năm loại tùy miên sân, tạo thành ba mươi mốt tùy miên thuộc Sắc giới cũng như Vô sắc giới.

V́ thế Bổn luận (Jñānaprasthāna) nói: Sáu loại tùy miên này được lập thành chín mươi tám loại dựa vào sự khác nhau về hành tướng (ākāra), bộ loại (prakāra) hoặc cách thức đoạn trừ, và giới (dhātu).

Trong chín mươi tám tùy miên này, có tám mươi tám loại tùy miên thuộc kiến sở đoạn v́ chúng bị làm tổn hại bởi nhẫn (kṣānti) và mười loại thuộc tu sở đoạn bởi v́ chúng bị làm tổn hại bởi trí (jñānas).

(Hỏi) Sự phân chia như trên có nhất định không?

Tụng đáp:  

忍所害隨眠                  有頂唯見斷
      餘通見修斷                  智所害唯修.

[Tùy miên do nhẫn làm tổn hại

Nếu ở Hữu đảnh th́ thuộc Kiến đoạn,

Nếu ở chỗ khác thuộc kiến và Tu đoạn

Tùy miên do trí làm tổn hại chỉ thuộc Tu đoạn.]  

Luận:  Ở đây khi nói “nhẫn” (kṣānti) là nhằm chỉ cho pháp trí nhẫn (dharmajñānakṣāntis) và loại trí nhẫn (anvayajñānakṣāntis).

Trong số các tùy miên bị nhẫn làm tổn hại, chỉ có những tùy miên thuộc về Hữu đảnh (bhavāgra) mới được đoạn trừ bởi Kiến đạo v́ chỉ có loại trí nhẫn mới giúp đoạn trừ chúng. [Chỉ hàng thánh giả nhờ nương vào Thánh đạo vô lậu mới đoạn trừ các tùy miên này].

Các tùy miên thuộc về tám địa khác (bhūmis) (tức Dục giới, Sắc giới và ba tầng thiền đầu của Vô sắc giới) có thể được đoạn trừ bởi Kiến đạo hoặc Tu đạo: Hàng thánh giả đoạn trừ các tùy miên này bằng Kiến đạo chứ không phải bằng Tu đạo, nhờ vào pháp trí nhẫn hoặc loại trí nhẫn tùy theo các loại tùy miên này thuộc về Dục giới hay các địa cao hơn; dị sinh chỉ đoạn trừ bằng Tu đạo chứ không phải Kiến đạo bởi v́ các tùy miên này có thể được đoạn trừ nhờ sự tu tập thế tục trí (lokasaṃvṛtijñāna).

Các tùy miên bị trí làm tổn hại đều được đoạn trừ bởi Tu đạo ở tất cả các địa cho dù đó là thánh giả hay dị sinh. Nếu thánh giả th́ đoạn trừ nhờ sự tu tập vô lậu trí (anāsravajñāna), nếu dị sinh th́ nhờ sự tu tập thế tục trí.

Có luận sư khác cho rằng ngoại đạo (bāhyaka) không thể đoạn trừ các loại tùy miên thuộc Kiến đoạn; bởi v́ kinh Đại phân biệt chư nghiệp (Mahākarmavibhāgasūtra) dạy rằng loại tà kiến duyên Dục giới vẫn c̣n hiện hành ở ngoại đạo đă xả ly dục tham, tức dă đoạn trừ loại tham (rāga) duyên Dục giới vốn là loại có thể đoạn trừ bằng Tu đạo. Và kinh Phạm vơng (Brahmajālasūtra) nói rằng ngoại đạo ly dục vẫn c̣n tất cả các loại kiến (dṛṣṭi) duyên Dục giới: Trong số họ vẫn có những người tự tạo ra các học thuyết về quá khứ (tiền tế phân biệt luận, pūrvāntakalpaka), những người chủ trương tất cả đều thường hằng (śāśvatavādin), có một phần thường hằng, hoặc tất cả đều không có nhân. [Nếu ở đây có người đưa ra vn rằng các loại “kiến” của những người xả ly Dục giới đều hệ thuộc Sắc giới th́] Dục giới, trong trường hợp này, không thể nào làm sở duyên cho các phiền năo (kleśa) hệ thuộc Sắc giới bởi v́ những người này đều đă xả ly Dục giới; và như vậy họ chưa đoạn trừ được các loại kiến hệ thuộc Dục giới.

Tỳ-bà-sa đă giải thích vấn đề này khi nói rằng những người “ly dục” bị thối thất [sự ly dục này] ngay khi họ khởi kiến; cũng giống như trường hợp Đề-bà-đạt-đa (Devadatta) bị thối thất thần thông (ṛddhi).

(Hỏi) Trước đây có nói kiến được chia làm năm loại dựa vào các hành tướng (ākāra) của chúng; như vậy năm loại kiến này là ǵ?

Tụng đáp:

我我所斷常                  撥無劣謂勝
      非因道妄謂                  是五見自體.

[Loại kiến về ngă và ngă sở,

Về đoạn và thường,

Về sự phủ nhận, về sự lấy thấp làm cao,

Về sự nhận lầm nguyên nhân và Thánh đạo.

Đó chính là năm loại kiến.]  

Luận: (1) Chấp ngă và ngă sở (ātmātmayagrāha) chính là hữu thân kiến (satkāyadṛṣṭi). Nói “hữu” (sat, tát) là v́ đang hủy hoại; nói “thân” (kāya, ca-da) là v́ tích tụ; như vậy “hữu thân” có nghĩa là “sự tích tụ của các vật đang hủy hoại”, tức là ngũ thủ uẩn (upādānaskandhas).

Trong nhóm từ “hữu thân” được dùng ở đây, khi nói “hữu” là nhằm loại bỏ ư tưởng về sự thường hằng và “thân” là nhằm loại bỏ ư tưởng về sự thuần nhất (piṇḍagrāha). Sở dĩ cho rằng các uẩn chính là ngă là v́ trước đó đă có ư tưởng về sự thường hằng và thuần nhất.

Hữu thân kiến có nghĩa là kiến chấp về hữu thân.

Thật ra, tất cả các loại kiến có sở duyên thuộc về hữu lậu (sāsravālambana) như biên chấp kiến (antagrāhadṛṣṭi), v.v., đều là các loại kiến về hữu thân, tức là về ngũ uẩn. Tuy nhiên, v́ tất cả đều là tất cả các loại kiến về hữu thân cho nên chúng không phải là loại “kiến về ngă và ngă sở”. (Vibhāṣā, 49, 11)

Theo giáo huấn của Thế tôn, chính sự chấp ngă và ngă sở đă được gọi là hữu thân kiến: “Này các Bí-sô, tất cả Sa-môn hoặc Bà-la-môn nào ở thế gian này đă tin vào ngă th́ những ǵ mà họ xem như là ngă chỉ là năm thủ uẩn.” (Saṃyukta, 21, 17; Madhyama, 58, 1; Vibhāṣā, 8, 7).

(2) Đối với những ǵ đă chấp làm ngă, nếu cho rằng chúng là thường hằng hoặc đoạn diệt đều là loại biên chấp kiến; bởi v́ đó chính là sự tin tưởng sai lầm các luận thuyết cực đoan (anta) về thường hoặc về đoạn.

(3) Đối với những ǵ đang thực sự tồn tại, đối với sự thật về khổ, v.v., đều bác bỏ (apavāda) mà cho rằng “không có” (nāsti) th́ đó là tà kiến (mithyādṛṣṭ). Tất cả các kiến giải sai lầm đều là tà kiến; tuy nhiên chỉ có những sự bác bỏ như trên mới được gọi là tà kiến bởi v́ đó là loại kiến giải sai lầm nhất (dĩ quá thậm cố), cũng giống như khi nói hôi là để chỉ cho một mùi quá hôi. Chỉ tà kiến mới có tính chất bác bỏ (apavāda) trong khi những loại kiến chấp khác lại có tính chất khẳng định, có sự chấp trước sai lạc (samāropikā).

(4) Đối với những ǵ bất thiện, thấp kém, cần phải đoạn trừ (hīna) lại cho là thiện, cao cả (ucca) th́ đó là kiến thủ (dṛṣṭiparāmarśa). Ở đây khi nói “cần phải đoạn trừ” (hīna) là chỉ các pháp ǵ? - Đó là các pháp hữu lậu (sāsrava) bởi v́ chúng đều được thánh giả đoạn trừ (prahīna). Loại kiến bao gồm sự chấp thủ này chỉ được gọi là “thủ” (parāmarśa).

Lẽ ra nên nói là “kiến đẳng thủ” (dṛṣṭiādiparāmarśa) nhưng đă lược bỏ chữ “đẳng” cho nên chỉ gọi là kiến thủ.

(5) Đối với những ǵ không phải là nhân, không phải là Thánh đạo lại cho rằng đó là nhân, là Thánh đạo th́ đó là giới cấm thủ (śīlavrataparāmarśa): Như cho rằng nguyên nhân của thế giới là Đại tự tại (Maheśvara), Sinh chủ (Prajāpati), hoặc tất cả các thực thể khác vốn không phải là nguyên nhân của thế giới; như cho rằng nguyên nhân được sinh vào các cơi trời là các nghi lễ cúng tế, đi trong lửa, đi dưới nước, v.v., vốn là những việc làm không thể dẫn đến sự tái sinh ở cơi trời; như cho rằng con đường dẫn đến giải thoát chỉ có các giới luật và các sự tu tập khổ hạnh (śīlavratamātraka) trong khi không phải chỉ có các giới luật và các sự tu tập này mới là con đường dẫn đến giải thoát; như cho rằng các loại trí (jñāna) của Số luận (Sāṃkhyas) và Yoga cũng là con đường giải thoát trong khi thật ra không phải như vậy; v.v..

Trên đây là năm loại kiến.

(Hỏi) Nếu loại kiến đối với các pháp không phải là nhân của thế giới lại nhận lầm đó là nhân và v́ thế được gọi là giới cấm thủ th́ tại sao loại kiến này không được đoạn trừ bởi kiến Tập Đế (samudayasatya) bởi v́ nó vốn là sự nhận thức sai lạc (vipratipannatva) về nhân?

Tụng đáp:  

於大自在等                  非因妄執因
      從常我倒生                  故唯見苦斷.

[Đối với đại tự tại, v.v., không phải là nhân nhưng lại chấp làm nhân

Là v́ đă xem đó là thường, ngă,

V́ thế chỉ do kiến khổ đoạn.]  

Luận:  Nếu xem Đại tự tại (Īśvara) hoặc Sinh chủ (prajāpati) là nhân của thế giới tức phải xem họ là những chúng sinh thường hằng, độc nhất, có ngă thể (ātman), có tạo tác (kartar). Loại kiến chấp vào sự thường hằng và vào ngă thể của Đại tự tại hoặc Sinh chủ vốn được đoạn trừ chỉ bởi kiến Khổ Đế; v́ thế khi loại này bị đoạn trừ th́ kiến chấp Đại tự tại hoặc Sinh chủ làm nhân của thế giới cũng sẽ được đoạn trừ.

(Hỏi) Loại kiến chấp cho rằng nếu tự vẩn bằng cách thiêu đốt hoặc nhảy xuống nước sẽ tái sinh vào cơi thiên, và loại kiến chấp cho rằng thọ tŕ các giới cấm tu tập các pháp khổ hạnh sẽ dẫn đến sự thanh tịnh (śuddhi) đều không liên quan đến các loại tà kiến về thường và ngă; tại sao lại nói rằng các kiến chấp này được đoạn trừ bởi kiến Khổ Đế? Đúng ra chúng phải do kiến Tập Đế đoạn trừ.

Bổn luận (Jñānaprasthāna, 20, 11) nói: “Có ngoại đạo khởi loại kiến chấp cho rằng nếu một người (puruṣapudgala) thọ tŕ các giới của trâu (gośāila), của dă thú (mṛga), của chó th́ sẽ đắc được sự thanh tịnh, sự giải thoát, sự xuất ly (niḥsaraṇa); sẽ hoàn toàn vượt qua khổ và lạc [của tam giới]; sẽ đến được nơi không c̣n khổ lạc. Tất cả các loại kiến chấp cho là nhân các pháp không phải là nhân đều thuộc về giới cấm thủ và giới cấm thủ th́ luôn luôn được đoạn trừ bởi kiến Khổ Đế.” V́ thế Tỳ-bà-sa mới nói rằng cả hai loại kiến chấp trên đều được kiến Khổ Đế đoạn trừ bởi chúng đều có sự mê mờ (vipratipannatva) đối với khổ.

(Hỏi) Lập luận này đă đi quá xa (atiprasanga)! Tất cả các phiền năo () có sở duyên là pháp hữu lậu đều có sự mê mờ đối với khổ [bởi v́ tất cả pháp hữu lậu đều là khổ]. Hơn nữa, loại giới cấm thủ nào sẽ được Kiến đạo Đế đoạn trừ? Nếu Tỳ-bà-sa nói rằng đó là loại duyên với một pháp thuộc Kiến đạo đoạn, tức là duyên với một trong tám tùy miên (anuśayas), trong đó tùy miên đầu tiên chính là tà kiến, th́ lẽ ra giới cấm thủ cũng phải có sự mê mờ đối với khổ. Vả lại làm thế nào có thể nói rằng giới cấm thủ duyên các pháp thuộc Kiến đạo đoạn; bởi v́ (1) đối với một người (pudgala) có tà kiến (mythyādṛṣṭi) hoặc nghi (vicikitsā) có nghĩa là “không có Thánh đạo” th́ thử hỏi làm thế nào để người đắc được thanh tịnh nhờ vào tà kiến hoặc nghi này? (2) Nếu người này nhờ đi theo (parāmṛśya, gṛhītvā) con đường giải thoát do Số luận, v.v. lập ra và nói rằng: “Đây mới là Thánh đạo; phật đạo không phải là Thánh đạo” th́ chính kẻ ngoại đạo này đă tưởng tượng rằng ḿnh đă đắc được sự thanh tịnh nhờ vào “Thánh đạo” của Số luận chứ không phải nhờ vào loại tà kiến duyên với Thánh đạo. Hơn nữa, khi một người nghĩ rằng ḿnh đă đắc được thanh tịnh nhờ vào loại tà kiến được đoạn trừ bởi kiến Tập Đế hoặc kiến Diệt Đế th́ tại sao giới cấm thủ của người này lại không thể được đoạn trừ bởi chính hai loại kiến này?

Như vậy vấn đề này cần phải được t́m hiểu thêm.

(Hỏi) Ở trên có nói đến hai loại đảo kiến (viparyaya, viparyāsa) về thường và ngă; như vậy có phải chỉ có hai loại này mà thôi?

(Đáp) Có đến bốn loại: (1) Chấp vô thường (anitya) là thường (nitya), (2) chấp khổ (duḥkha) là lạc (sukha), (3) chấp bất tịnh (aśuci, aśubha) là tịnh (śuci), (4) chấp vô ngă (anātman) là ngă (ātman).

(Hỏi) Thể tánh của bốn loại này là ǵ?

Tụng đáp:  

四顛倒自體                  謂從於三見
      唯倒推增故                  想心隨見力.

[Tự thể của bốn đảo kiến

Xuất phát từ ba đảo kiến

Do sai lầm, suy đạc, quả quyết;

Tưởng và tâm là do lực của kiến.]  

Luận:  Tự thể của bốn đảo kiến xuất phát từ ba loại kiến. Đảo kiến thứ nhất là phần chấp thường của biên kiến, đảo kiến thứ hai và thứ ba là hai phần chấp lạc và tịnh của kiến thủ, đảo kiến thứ tư là phần chấp ngă của hữu thân kiến.

Có luận sư cho rằng toàn bộ hữu thân kiến tạo thành đảo kiến về ngă (ātmaviparyāsa) chứ không phải chỉ có ngă kiến (ātmadṛṣṭi), tức bao hàm cả ngă sở kiến (ātmīyadṛṣṭi).

Tỳ-bà-sa nói: “Làm sao ngă kiến có thể tạo thành một phần của đảo kiến về ngă? Bởi v́ kinh Tứ đảo (Viparyāsas) không nói đến điều này. [Kinh chỉ nói: “Đối với vô ngă lại cho là ngă th́ đó là đảo kiến”] Và kinh c̣n nói: “Người nào cho rằng ngă có lực tự tại đối với ngũ thủ uẩn (upādānaskandhas) tức có ngă sở kiến”. [V́ thế ngă sở kiến khác với ngă kiến vốn là nơi xuất phát của nó.]

Tuy nhiên, chúng tôi nghĩ rằng ngă kiến có hai nhánh (dvimukhī) là kiến chấp về ngă và kiến chấp về những ǵ thuộc ngă (aḥmkāra, manakāra). Nếu kiến chấp về những ǵ thuộc ngă khác với kiến chấp về ngă th́ các kiến chấp trong các trường hợp khác như kiến chấp “do ngă” (māya), kiến chấp “đối với ngă” sẽ tạo thành nhiều loại chấp ngă khác nhau. V́ thế toàn bộ hữu thân kiến đều được bao hàm trong loại đảo kiến về ngă.

Các phiền năo (kleśa) khác không phải là đảo kiến bởi v́ chúng không đủ ba tính chất: (1) Hoàn toàn sai lầm (nhất hướng đảo), (2) sự suy đạc (saṃtīraka) và (3) sự quả quyết (vọng tăng ích). Kiến chấp về đoạn diệt (ucchedadṛṣṭi), tức là một phần của biên chấp kiến (antagrāhadṛṣṭi) và tà kiến (mithyādṛṣṭi) không có tính chất quả quyết, tức không có sự quy kết sai lầm (samāropa), bởi v́ cả hai đều hướng đến sự không tồn tại của một hiện hữu nào đó (abhāvamukhapravṛtta, vô môn chuyển).

Giới cấm thủ có sự quả quyết rằng giới luật và các sự tu tập khổ hạnh có thể dẫn đến sự thanh tịnh; điều này cũng có nghĩa rằng giới cấm thủ không phải hoàn toàn là đảo kiến bởi v́ giới luật và các sự tu tập khổ hạnh có góp phần vào sự thanh tịnh.

Các loại phiền năo khác không có sự suy đạc và v́ thế không phải là đảo kiến.

(Hỏi) Nhưng Thế tôn có nói: “Đối với vô thường lại cho là thường th́ đó chính là tưởng đảo (saṃjnāviparyāsa), tâm đảo (cittaviparyāsa) và kiến đảo (dṛṣṭviparyāsa)”, đối với khổ, bất tịnh, vô ngă cũng vậy (Mahāsaṃgītidharmaviparyāsa; Anguttara, ii. 52; Vibhanga, 376; Visuddhimagga, 683); trong khi cả tưởng và tâm đều không có sự suy đạc. Như vậy định nghĩa về đảo kiến được tŕnh bày ở trên không chính xác.

(Đáp) Thật ra chỉ có kiến (dṛṣṭi) là thuộc về điên đảo; nhưng v́ tưởng và tâm có tương ưng với kiến và có cùng hành tướng của kiến cho nên chúng cũng được gọi là đảo.

(Hỏi) Nếu vậy tại sao thọ và các tâm sở tương ưng với kiến không được gọi là đảo?

(Đáp) Bởi v́ người đời thường nói về sự điên đảo của tưởng, của tâm chứ không hề nói đến sự điên đảo của thọ.

Hàng Dự lưu (Srotāpanna) đoạn trừ tất cả các đảo kiến (Jñānaprasthāna, 8, 4); bởi v́ sự nh́n thấy (darśana) Tứ Đế (kiến đế) vốn có khả năng đoạn trừ các loại kiến chấp (dṛṣṭi), cũng có thể đoạn trừ luôn các tưởng và tâm tương ưng với kiến.

Có bộ phái khác (Vibhajyavādins) cho rằng loại đảo kiến nhận lầm vô thường là thường tạo thành ba loại điên đảo là tưởng đảo, tâm đảo và kiến đảo; đối với các loại nhận lầm vô ngă là ngă, v.v., cũng vậy. V́ thế có tất cả mười hai loại điên đảo xuất phát từ bốn đảo kiến này.

Trong số mười hai loại trên, có tám đảo kiến thuộc về Kiến đoạn và có bốn đảo kiến, tức các tưởng và tâm tương ưng với lạc (sukha), tịnh (śuci), thuộc về cả Kiến đoạn và Tu đoạn.

Thật vậy, hàng thánh giả (Āryas) vốn được xem như đă được đoạn trừ tất cả các tùy miên (anuśayas) thuộc Kiến đoạn chắc chắn có thành tựu các loại tưởng thuộc về lạc và tịnh; bởi v́ khi họ chưa xả ly tham dục (avītarāga) th́ sự chấp trước dục lạc vẫn c̣n sinh khởi ở họ.

Các luận sư Tỳ-bà-sa không thừa nhận lập luận này. Nếu chỉ v́ thánh giả vẫn c̣n loại tưởng lạc tịnh mà kết luận rằng họ vẫn c̣n điên đảo đối với lạc tịnh th́ lẽ ra phải thừa nhận rằng họ vẫn c̣n điên đảo đối với ngă (ātmaviparyāsa), tức là một trong tám loại điên đảo mà lẽ ra họ không thể có, bởi v́ chắc chắn họ vẫn c̣n các loại tưởng và tâm thuộc về hữu t́nh (sattva): Sự chấp trước đối với dục tham (kāmarāga) có liên quan đến phụ nữ hoặc đến tự ngă chính là những biểu hiện của loại tưởng và tâm thuộc về hữu t́nh.

Hơn nữa, khế kinh c̣n nói: “Thánh giả đa văn thấy và biết như thật: Đây là sự thật về khổ, v.v.. Khi đó các loại tưởng, tâm và kiến điên đảo như chấp vô thường là thường, v.v., đều bị đoạn trừ ở các vị này”; v.v.. Như vậy chỉ có các loại tưởng và tâm do kiến sinh khởi và có tương ưng với kiến (dṛṣṭisamuttha, dṛṣṭisaṃprayukta) mới được gọi là điên đảo chứ không phải các loại khác, tức các tưởng và tâm thuộc về Tu đoạn.

Thật ra, thánh giả do bị tạm thời mê hoặc lúc mới nh́n thấy sự vật cho nên mới sinh khởi chấp trước dục tham (kāmarāga); cũng giống như trường hợp vừa mới nh́n thấy ṿng lửa hoặc bức họa về Dược-xoa (Yakṣa).

Tuy nhiên, tôn giả Khánh hỷ (Ānanda) có nói với tôn giả Biện tự tại (Vāgīśa): “Do sự điên đảo của tưởng mà tâm của ông bị thiêu cháy.” Nếu thừa nhận lập luận trên của Tỳ-bà-sa th́ làm sao có thể giải thích lời nói này?

V́ thế bậc hữu học không hoàn toàn đoạn trừ tám loại điên đảo về tưởng và tâm. Thật ra, các loại đảo kiến này chỉ được đoạn trừ bởi sự thấy biết đúng các đế (như thực kiến tri thánh đế, yathābhūtaparijñānāt) chứ không do bất cứ điều ǵ khác v́ thế kinh văn được Tỳ-bà-sa trích dẫn ở trên chỉ nhằm chỉ cho cách thức (phương tiện, upāya) đoạn trừ các loại đảo kiến này; và không trái với đoạn kinh nói về Biện tự tại.

(Hỏi) Tùy miên và kiến (dṛṣṭi) có nhiều loại khác nhau; các tùy miên khác có như vậy không?

(Đáp) Tùy miên về mạn (māna) cũng như vậy.   

慢七九從三                  皆通見脩斷
      聖如殺纏等                  有脩斷不行.

[Có bảy mạn; chín loại mạn được tạo thành từ ba mạn;

Tất cả đều được đoạn trừ bởi Kiến đạo và Tu đạo.

Ở thánh giả, các tùy miên như sát triền, v.v.

Tuy thuộc Tu đoạn nhưng không hiện hành.]  

Luận:  Có tất cả bảy loại mạn: Mạn (māna), quá mạn (adhimāna), mạn quá mạn (mānatimāna), ngă mạn (asmimāna), tăng thượng mạn (abhimāna), ty mạn (ūnamāna), tà mạn (mithyāmāna).

Sự ngạo mạn của tâm được gọi chung là mạn. V́ vận hành (pravṛtti, prakāra) khác nhau nên mạn được chia làm bảy loại: (1) Mạn, là sinh tâm cao ngạo khi nghĩ rằng “ḿnh cao cả hơn” (viśiṣta) hoặc ḿnh ngang hàng (sama) so với người thấp kém hơn (hīna), hoặc bằng ḿnh; (2) quá mạn, là khi nghĩ rằng “ḿnh cao cả hơn” hoặc “ḿnh ngang hàng” so với người bằng ḿnh hoặc cao hơn ḿnh; (3) mạn quá mạn, là khi nghĩ rằng “ḿnh cao cả hơn” so với người cao hơn ḿnh; (4) ngă mạn, là sinh tâm cao ngạo khi chấp trước ngũ thủ uẩn là ngă và ngă sở; (5) tăng thượng mạn, là khi chưa chứng đắc các pháp thù thắng (viśeṣa), tức các pháp vô lậu hoặc hữu lậu nương vào thiền định (samādhisaṃniśrita) nhưng lại nghĩ rằng ḿnh đă chứng đắc; (6) ty mạn, là khi nghĩ rằng “ḿnh chỉ hơi thấp kém” so với người thực sự cao hơn ḿnh nhiều; (7) tà mạn là khi cho rằng ḿnh có đủ các phẩm tánh (guṇa) mà ḿnh thực sự không có.

Bổn luận (Jñānaprasthāna, 20, 6) phân tích mạn thành chín loại: (1) Ngă thắng mạn, (2) ngă đẳng mạn, (3) ngă liệt mạn, (4) hữu thắng ngă mạn, (5) hữu đẳng ngă mạn, (6) hữu liệt ngă mạn, (7) vô thắng ngă mạn, (8) vô đẳng ngă mạn, (9) vô liệt ngă mạn.

Chín loại này phát xuất từ ba trong số bảy loại ở trên; đó là mạn, quá mạn và ty mạn.

Ba loại mạn đầu tiên (ngă thắng mạn, ngă đẳng mạn, ngă liệt mạn) chính là các loại dựa vào ngă kiến. Trước tiên v́ nghĩ đến “ngă” cho nên tiếp đó mới lần lượt nảy sinh quá mạn, mạn và ty mạn; trong đó có trường hợp được gọi là mạn v́ nói rằng “ta cao cả hơn”, có trường hợp được gọi là quá mạn v́ dựa vào kiến (dṛṣṭi), v.v..

Ba loại mạn tiếp theo, theo thứ tự của chúng, chính là ty mạn, mạn và quá mạn.

Ba loại cuối cùng, theo thứ tự của chúng, chính là mạn, quá mạn và ty mạn.

(Hỏi) Đối với người cao hơn ḿnh nhiều nhưng lại nghĩ rằng “ḿnh chỉ hơi thấp kém” th́ đó là ty mạn bởi v́ tâm cao ngạo đă nảy sinh; nhưng trong trường hợp nghĩ rằng “không có người nào thấp kém hơn ḿnh” (vô liệt ngă mạn) th́ làm sao có thể gọi đó là cao ngạo (cao xứ, unnatisthāna)?

(Đáp) Vẫn có thể gọi là cao ngạo bởi v́ khi so với một nhóm người nào đó cao cả hơn ḿnh mà vẫn nghĩ rằng ḿnh cao cả hơn mặc dù tự biết rơ rằng ḿnh thực sự thấp kém hơn.

Trên đây đă tŕnh bày giải thích của Phát trí luận (Jñānaprasthāna); tuy nhiên theo Phẩm loại Túc luận (Prakaranapāda), loại mạn thứ nhất “ngă thắng mạn” xuất phát từ ba trong số bảy mạn là mạn, quá mạn và mạn quá mạn bởi v́ đă nghĩ rằng ḿnh cao hơn so với người thấp hơn, ḿnh cao hơn so với người ngang bằng, và ḿnh cao hơn so với người cao nhất (quán liệt đẳng thắng cảnh biệt).

(Hỏi) Bảy loại mạn này được đoạn trừ như thế nào?

(Đáp) Tất cả các loại, kể cả ngă mạn (asmimāna), đều được đoạn trừ bởi Kiến đạo và Tu đạo.

(Hỏi) Các loại tùy miên thuộc Tu đoạn chưa được đoạn trừ ở hàng thánh giả có thể tiếp tục hiện hành (samudācaranti) không?

(Đáp) Điều này không nhất định. Có loại tùy miên thuộc Tu đoạn nhưng nhất định không hiện hành ở thánh giả như trường hợp triền phược (paryavasthāna) thuộc về sát sinh (sát sinh triền); tuy loại triền phược này thuộc về Tu đoạn nhưng không thể hiện hành ở các thánh giả.

Ở đây nói “sát sinh triền” là để chỉ cho loại phiền năo (kleśa) khiến người ta cố ư phạm tội giết hại; nói “đẳng” là để chỉ cho các trường hợp khác như trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, vô hữu ái, một phần hữu ái.

Vô hữu ái (vibhavatṛṣṇā) cũng thuộc loại được đoạn trừ bởi Tu đạo. Ở đây nói “vô hữu” là để chỉ cho tính chất vô thường của tam giới (traidhātukī anityatā); vô hữu ái là sự tham cầu (prārthana) đối với tính chất vô thường này.

Một phần hữu ái (bhavatṛṣṇā) là chỉ cho sự mong muốn được làm Long vương Airāvaṇa (Yết-la-phiệt-nă), v.v..

(Hỏi) trên đây đă nói về các loại mạn, v.v.; trong đó có loại thuộc về Tu đoạn và chưa được đoạn trừ nhưng tại sao chúng không thể hiện hành ở thánh giả?

Tụng đáp:

慢類等我慢                  惡作中不善
      聖者而不起                  見疑所增故.

[Mạn loại, v.v., ngă mạn,

Và ố tác bất thiện,

Đều không khởi ở thánh giả,

V́ được tăng trưởng bởi kiến, nghi.]  

Luận:  Các loại mạn (mānavidhā), v.v., không thể sinh khởi, không thể hiện hành ở thánh giả; ngay cả ngă mạn cũng vậy. Ở đây khi nói “đẳng” là để chỉ cho các tùy miên khác như sát sinh triền, vô hữu ái, một phần hữu ái.

(Hỏi) Tại sao như vậy?

(Đáp) Bởi v́ tất cả tùy miên đều được kiến (dṛṣṭi) nuôi dưỡng; và khi sự nuôi dưỡng chúng đă bị phá vỡ th́ chúng cũng không c̣n năng lực sinh khởi [hoặc thánh giả không thể khởi chúng trở lại].

Các loại mạn (māna) và ngă mạn (asmitā) được nuôi dưỡng bởi hữu thân kiến (satkāyadṛṣṭi); các triền phược của sự giết hại, v.v., được nuôi dưỡng bởi tà kiến; vô hữu ái được nuôi dưỡng bởi đoạn kiến (ucchedadṛṣṭi), một phần hữu ái được nuôi dưỡng bởi thường kiến (śāsvatadṛṣṭi).

Về ố tác bất thiện, mặc dù thuộc về Tu đoạn nhưng vẫn không thể hiện hành ở thánh giả bởi v́ chúng được nuôi dưỡng bởi nghi (vicikitsā).

(Hỏi) Trong chín mươi tám tùy miên, tùy miên nào thuộc về biến hành (sarvaga, sarvatraga), tùy miên nào không phải là biến hành?

Tụng đáp:

見苦集所斷                  諸見疑相應
      及不共無明                  遍行自界地
      於中除二見                  餘九能上緣
      除得餘隨行                  亦是遍行攝.

[Kiến nghi thuộc kiến khổ tập đoạn,

Vô minh tương ưng với chúng,

Và vô minh bất cọng,

Duyên tất cả các pháp thuộc tự giới;

Trong số này, trừ hai kiến,

Chín tùy miên c̣n lại đều duyên thượng địa.

Trừ đắc ra, các pháp cùng khởi với tùy miên

Đều thuộc về biến hành.]

Luận:  gồm mười một tùy miên: Năm loại kiến thuộc kiến sở đoạn; tà kiến và kiến thủ thuộc kiến tập đoạn; hai loại nghi và hai loại vô minh thuộc kiến khổ đoạn và kiến tập đoạn. Mười một loại tùy miên này được gọi là biến hành v́ chúng duyên toàn bộ giới địa của chúng.

(Hỏi) Ở đây khi nói biến duyên là hàm ư duyên lần lượt tất cả các pháp thuộc tự giới hay duyên tất cả trong cùng một lúc? Nếu duyên lần lượt th́ các tùy miên khác lẽ ra cũng thuộc về biến hành; nếu duyên tất cả trong cùng một lúc th́ điều này không thể chấp nhận được bởi v́ không có người nào lại xem toàn bộ thế giới này là phương tiện đạt đến thanh tịnh mà chỉ có một vài sự tu tập nào đó mới là đối tượng của giới cấm thủ; đồng thời cũng không có ai lại xem toàn bộ các pháp thuộc giới địa này là nguyên nhân của thế giới.

(Trả lời của Tỳ-bà-sa) Không phải các pháp biến hành đều duyên toàn bộ tự giới trong cùng một lúc mà thật ra chúng chỉ duyên tự giới theo năm loại khác nhau (ngũ bộ); ở đây khi nói “toàn bộ” là có ư chỉ cho tất cả năm loại này (prakārasarvatā).

(Hỏi) Nếu hiểu biến hành theo nghĩa như trên th́ ái (tṛṣṇā) và mạn cũng thuộc về biến hành. Nếu đă có ngă kiến (ātmadṛṣṭi) đối với ngũ thủ uẩn th́ cũng sẽ có ngă ái (ātmatṛṣṇā) ) đối với ngũ thủ uẩn; đă có thắng kiến (agradṛṣṭi hoặc tkiến thủ, dṛṣṭiparāmarśa), tịnh kiến (śuddhidṛṣṭi, hoặc giới cấm thủ, śīlavrataparāmarśa) đối với một sự vật nào đó th́ cũng sẽ có sự hy cầu (prārthanā) đối với sự vật này. Và trong tất cả các trường hợp trên cũng sẽ phải có mạn.

(Tỳ-bà-sa) Nếu nói như vậy th́ ái và mạn sẽ được đoạn trừ như thế nào? Trong trường hợp của hữu thân kiến, v.v., th́ sở duyên của chúng được đoạn trừ bởi Kiến đạo và Tu đạo; và như vậy, có phải ái và mạn cũng được đoạn trừ bởi kiến hoặc Tu đạo?

(Luận chủ) Nếu tạp duyên (vyāmiśra) th́ ái và mạn được đoạn trừ bởi Tu đạo. Hoặc cũng có thể được đoạn trừ bởi Kiến đạo v́ có lực của kiến dẫn khởi (dṛṣṭibalādhānavartitva).

(Tỳ-bà-sa) Ái và mạn là các phiền năo mang tính chất riêng biệt (biệt tướng, svalakṣṇa) chứ không phải tính chất chung (cộng tướng, sāmānya); v́ thế chúng không phải là biến hành. [Ái và mạn có thể sinh khởi đối với một sở duyên đă có ngă kiến nhưng không thể khởi đối với toàn bộ sở duyên này trong cùng một lúc (vô đốn duyên lực)].

Trên đây là mười một tùy miên biến hành [có khả năng duyên tất cả các loại (ngũ bộ)] ở giới địa riêng của chúng, tức là những tùy miên đang hiện hành ở một người đang thuộc về một giới địa nào đó (sabhāgadhātusarvatraga).

Trừ thân kiến và biên chấp kiến ra chín tùy miên c̣n lại cũng có tính chất biến hành ở một giới địa khác (visabhaga); các tùy miên này có khi chỉ duyên một nhưng có khi lại duyên đến hai giới địa khác như Bổn luận (Prakaraṇapāda, 5, 10) nói: “Có các tùy miên thuộc về Dục giới (tức các tùy miên sinh khởi ở chúng sinh thuộc về Dục giới) có thể duyên các pháp thuộc Sắc giới, các pháp thuộc Vô sắc giới, các pháp thuộc Sắc giới và Vô sắc giới. [Có các tùy miên thuộc Sắc giới có thể duyên các pháp thuộc Vô sắc giới]”.

(Hỏi) Khi chúng sinh ở Dục giới đối với Đại phạm đă khởi tưởng rằng Đại phạm cũng là một chúng sinh (hữu t́nh kiến, sattvadṛṣṭi), Đại phạm là thường hằng (thường kiến, nityadṛṣṭi) th́ những chúng sinh này đă có thân kiến và biên chấp kiến đối với một sự vật thuộc về một giới địa khác cao hơn. Như vậy thật sai lầm khi loại trừ hai loại kiến này ra khỏi số các tùy miên biến hành thuộc về một giới địa khác.

(Đáp) Thật ra, v́ không khởi tưởng về ngă và ngă sở đối với Đại phạm cho nên loài hữu t́nh kiến được nói đến ở trên không phải là thân kiến. Và đă là biên chấp kiến th́ phải có thân kiến mới có thể sinh khởi v́ thế loại thường kiến được nói đến ở trên cũng không phải là biên chấp kiến. (Vibhāṣā, 18, 18).

(Hỏi) Nếu vậy loại kiến nào mới được gọi là hữu t́nh kiến và thường kiến đối với Đại phạm?

Các luận sư Đối pháp (Ābhidhārmikas) nói: “Trong trường hợp này không có kiến (dṛṣṭi) mà chỉ có tà trí (mithyājñāna).

(Hỏi) Tại sao những loại kiến chấp khác đối với Đại phạm đều được xem là kiến nhưng hữu t́nh kiến và thường kiến th́ lại không?

(Đáp) Bởi v́ đă căn cứ vào bổn tông để quyết định. (Vibhāṣā, 18, 18)

(Hỏi) Có phải chỉ có các tùy miên mới có tính chất biến hành?

(Đáp) Trừ các pháp đắc (prāptis) ra các pháp tùy hành với các tùy miên biến hành cũng được gọi là biến hành. Các pháp tùy hành như thọ (vedanā), v.v., đều thuộc về biến hành nhưng các pháp đắc th́ không bởi v́ đắc (prāpti) và sở đắc (prāpya) không có quả chung.

V́ thế câu hỏi được đặt ra ở đây là các tùy miên biến hành có phải đều là nhân biến hành không? Và câu trả lời là nên giải thích vấn đề này qua bốn trường hợp: (1) Các tùy miên biến hành thuộc về vị lai không phải là nhân biến hành; (2) các pháp tùy hành với các tùy miên biến hành (bỉ câu hữu pháp) thuộc quá khứ và hiện tại đều là nhân biến hành nhưng các tùy miên biến hành này không phải là nhân biến hành; (3) các tùy miên biến hành thuộc quá khứ và hiện tại là nhân biến hành; (4) các pháp tùy hành với các tùy miên biến hành thuộc vị lai không phải là tùy miên biến hành cũng không phải là nhân biến hành.

(Hỏi) Trong chín mươi tám tùy miên, có bao nhiêu loại duyên pháp vô lậu (anāsrava), tức diệt và Đạo Đế, và có bao nhiêu loại duyên pháp hữu lậu (nāsrava)?

Tụng đáp:

見滅道所斷                  邪見疑相應
      及不共無明                  六能緣無漏
       於中緣滅者                  唯緣自地滅
      緣道六九地                  由別治相因
      貪瞋慢二取                  並非無漏緣
      應離境非怨                  靜淨勝性故.

[Kiến nghi thuộc kiến diệt đạo đoạn,

Vô minh tương ưng với chúng,

Vô minh bất cọng,

Là sáu loại tùy miên duyên pháp vô lậu;

Trong đó các tùy miên duyên diệt pháp

Chỉ duyên diệt pháp thuộc tự địa;

Các tùy miên duyên Đạo Đế ở sáu và chín địa

Do tính chất đối trị và hỗ tương khác nhau.

Tham, sân, mạn và hai thủ

Đều không duyên pháp vô lậu

V́ phải nên xả ly,

Không phải là cảnh gây oán.

Là cảnh tịch tĩnh, thanh tịnh, thù thắng.]  

Luận:  Có ba loại tùy miên được đoạn trừ bởi sự nh́n thấy Diệt Đế (kiến diệt sở đế) là tà kiến, nghi và vô minh tương ưng với chúng hoặc vô minh bất cọng; và ba loại tùy miên được đoạn trừ bởi sự nh́n thấy Đạo Đế (Kiến đạo sở đoạn) giống như trên; tất cả tạo thành sáu loại tùy miên có sở duyên là pháp vô lậu. Ngoài sáu loại này ra, tất cả các tùy miên khác đều duyên pháp hữu lậu.

Ba loại tùy miên (tà kiến, nghi, vô minh) được đoạn trừ bởi kiến Diệt Đế và có sở duyên là diệt pháp nhưng không duyên toàn bộ các diệt pháp: Khi chúng thuộc về Dục giới th́ chúng chỉ duyên diệt pháp của Dục giới và lần lượt ở các địa khác cũng như vậy; cho đến khi chúng thuộc về Hữu đảnh (bhavāgra) th́ chúng cũng chỉ duyên diệt pháp của Hữu đảnh.

Ba loại tùy miên có sở duyên là Đạo Đế khi chúng thuộc về Dục giới th́ chúng sẽ duyên toàn bộ Đạo Đế, một phần các pháp trí (dharmajñānas), cùng với sáu địa của chúng, tức vị chí (anāgamya), tĩnh lự trung gian (dhyānāntara), bốn tĩnh lự (dhyānās). Khi chúng thuộc về Sắc giới hoặc Vô sắc giới, tức bốn tĩnh lự và bốn tầng Vô sắc giới (ārūpyas), th́ chúng sẽ duyên toàn bộ Đạo Đế, một phần các Loại trí (anvayajñānas) cùng với chín địa của chúng, tức sáu địa ở trên cộng thêm ba tầng vô sắc đầu tiên. Các đạo đều hỗ tương tùy thuộc vào nhau.

Cho dù pháp trí và loại trí có hỗ tương tùy thuộc vào nhau đi nữa th́ v́ loại trí không đối nghịch với (bất trị) Dục giới cho nên cả ba loại tùy miên hệ thuộc Dục giới và lấy Đạo Đế làm sở duyên đều không duyên đạo dế và một phần các loại trí.

Tuy nhiên đối với pháp trí v́ có khả năng đối nghịch với (năng trị) Dục giới cho nên cũng có khả năng đối nghịch với Sắc giới và Vô sắc giới; và v́ thế pháp trí cũng sẽ là sở duyên của ba loại tùy miên lấy Đạo Đế làm sở duyên của hai giới này.

Không phải toàn bộ pháp trí đều đối nghịch với Sắc giới và Vô sắc giới bởi v́ các pháp trí thuộc Khổ Đế (khổ pháp trí) và Tập Đế đều không đối nghịch với hai giới này. [V́ thế chúng không phải là sở duyên của ba tùy miên thuộc hai giới này.] 

Pháp trí cũng không đối nghịch với toàn bộ Sắc giới và Vô sắc giới [bởi v́ nó không đối nghịch với các pháp thuộc Kiến đoạn]. Do đó nó không phải là sở duyên [của ba loại tùy miên thuộc hai giới này] bởi v́ hai loại pháp trí đầu tiên không đối nghịch với các giới này (ādyābhāvān na bhavaty ālambanam), và v́ nhóm tùy miên đầu tiên của hai giới này, tức các tùy miên thuộc kiến sở đoạn, không bị bất cứ loại pháp trí nào ngăn ngại (ādyeṣu cābhāvāt).

(Hỏi) Tại sao tham (rāga), sân (pratigha), mạn (māna), kiến thủ (dṛṣṭiparāmarśa), giới cấm thủ (śīlavrataparāmarśa) không duyên các pháp vô lậu, không duyên diệt đạo?

(Đáp) Bởi v́ tham tùy miên (rāgānuśaya) phải được đoạn trừ: Nếu duyên pháp vô lậu tức sẽ không được xả ly; cũng giống như trường hợp của sự tham muốn các thiện pháp (kuśladharmacchanda) [tuy mang h́nh thức của dục (abhilāṣa) nhưng lại là chánh kiến ()]. Sân sinh khởi trước một sự việc gây ra oán hận (apakāra, āghātavastu); trong khi một pháp vô lậu như diệt pháp hoặc Đạo Đế lại không phải là sự việc gây oán hận (phi sân cảnh). Người ta cũng không thể khởi mạn đối với diệt đạo v́ các pháp này vốn tịch tĩnh (śānta). Giới cấm thủ là đối với các pháp không phải là nhân của sự thanh tịnh nhưng lại mê chấp là nhân của sự thanh tịnh; trong khi vô lậu thật sự là pháp thanh tịnh (bhutārthasuddhi) v́ thế không thể là cảnh sở duyên của giới cấm thủ. Kiến thủ là đối với các pháp không phải thù thắng lại mê chấp là thù thắng; trong khi vô lậu thật sự là pháp thù thắng v́ thế không thể là cảnh sở duyên của kiến thủ.

(Hỏi) Trong chín mươi tám tùy miên, bao nhiêu tùy miên có thể tùy tăng nhờ vào sở duyên (ālambanato ‘nuśerate), bao nhiêu tùy miên có thể tùy tăng nhờ sự tương ưng (saṃprayogata eva) [tức nhờ vào các pháp tương ưng với tâm, thọ, v.v.]?

Tụng đáp:  

未斷遍隨眠                  於自地一切
      非遍於自部                  所緣故隨增
      非無漏上緣                  無攝有違故
      隨於相應法                  相應故隨增.

[Các tùy miên biến hành chưa đoạn

Tùy tăng ở tất cả các địa của chúng;

Loại phi biến hành chỉ tùy tăng ở tự bộ;

Nhờ sở duyên nên có thể tùy tăng.

Không tùy tăng nếu duyên vô lậu và thượng địa

V́ chúng không thuộc (sở nhiếp) và tương vi với tùy miên.

Tương ưng với pháp nào

Th́ có thể tùy tăng nhờ tương ưng với pháp đó.]

Luận:  Về mặt sở duyên, các tùy miên biến hành có thể tùy tăng ở năm nhóm (ngũ bộ) thuộc tự địa. Các tùy miên khác chỉ tùy tăng ở nhóm riêng của chúng: Loại tùy miên thuộc kiến khổ đoạn tùy tăng ở các pháp thuộc kiến khổ đoạn, v.v., cho đến loại tùy miên thuộc Tu đoạn chỉ tùy tăng ở các pháp thuộc Tu đoạn. Nguyên tắc phổ quát này mang tính chất nhất định.

Sáu tùy miên duyên pháp vô lậu, tức Niết-bàn hoặc Thánh đạo, và chín tùy miên duyên thượng địa không tùy tăng ở sở duyên (ālambana) bởi v́ người ta không thể khiến cho loại sở duyên (vastu) này trở thành cái của ḿnh (svīkṛta) bằng ngă kiến (ātmadṛṣṭi) hoặc ái (tṛṣṇā). 

Đối với sự vật được xem như là ngă [do có hữu thân kiến] hoặc được xem như thuộc về ḿnh do có ái th́ các tùy miên khác sẽ tùy tăng ở sự vật này cũng giống như bụi bặm có thể bám vào một chiếc áo ướt. Tuy nhiên, các pháp vô lậu và thượng địa không thể được xem như là ngă hay ngă sở; v́ thế những tùy miên nào lấy chúng là sở duyên đều không thể tùy tăng từ các sở duyên này.

Trước đây có nói loại ham muốn (prārthana) hướng đến pháp vô lậu hoặc một địa cao hơn đều không phải là loại tùy miên được gọi là ái mà đó chỉ là một loại dục hướng đến các thiện pháp.

Hơn nữa, các pháp vô lậu như Niết-bàn hoặc Thánh đạo vốn đối nghịch với những phiền năo nào lấy chúng làm sở duyên; các pháp thuộc thượng địa đều đối nghịch với các phiền năo thuộc các địa thấp hơn; do đó những phiền năo này không thể nương vào đó để tùy tăng, có nghĩa là không thể nào an trú ở đó được (pratiṣṭhāṃ labhante); cũng giống như bàn chân không thể đứng được trên một ḥn đá đỏ lửa.

Đến đây chúng ta đă có thể hiểu được chữ “tùy tăng” (anuśayana, anuśete) với ư nghĩa là “an trụ” (pratiṣṭhālābha). Có luận sư cho rằng tùy tăng chính là tùy thuận (ānuguṇya). Niết-bàn, v.v., không thuận hợp (anuguṇa) với sự sinh trưởng của tà kiến, v.v., (na tadupapattaya, āṇuguṇyena vartante); cũng giống như khi người ta nói rằng không có sự tùy tăng của loại thức ăn đắng đối với người bị phong thấp (vātika) (Vyākhyā, i. 4, tr. 13)

Tất cả các tùy miên tương ưng với một pháp nào đó đều có thể tùy tăng nhờ sự tương ưng với pháp này. (yena haḥ saṃprayukto ‘tra sa eva saṃprayogataḥ //).

Ở đây khi nói “với một pháp nào đó” là hàm ư tương ưng với thọ, v.v..

Chữ eva nhằm chỉ cho sự giới hạn (về nghĩa) có nghĩa là “khi mà các tùy miên chưa được đoạn trừ”.

(Hỏi) Có loại tùy miên không duyên pháp vô lậu, không duyên thượng địa (visabhāga) và chỉ tùy tăng nhờ sự tương ưng chứ không nhờ vào sở duyên (ālambanatas) không?

(Đáp) Có, đó là loại tùy miên biến hành duyên vào thượng địa. [Tức là các tùy miên biến hành thuộc tầng thiền thứ nhất có sở duyên là ba tầng thiền cao hơn].

(Hỏi) Trong chín mươi tám tùy miên, loại nào bất thiện (akuśala), loại nào vô kư, có nghĩa là không phải dị thục (avyākṛta)?

Tụng đáp:  

上二界隨眠                  及欲身邊見
      彼俱癡無記                  此餘皆不善.

[Tùy miên của hai giới trên, thân kiến, biên kiến và si câu hữu của Dục giới

Đều thuộc tánh vô kư;

Ngoài ra tất cả đều bất thiện.]

 

Luận:  Tất cả các tùy miên thuộc Sắc giới và Vô sắc giới đều có tánh vô kư bởi v́ dị thục của tất cả các nhiễm pháp đều là khổ (duḥkha). Như vậy, khổ sẽ không tồn tại ở hai giới này bởi v́ tất cả các nhân (vyāpāda, v.v) của việc làm hại người khác (paravyābādhahetu) đều không có ở đó.

Ở Dục giới, hữu thân kiến, biên chấp kiến và vô minh tương ưng với chúng đều thuộc tánh vô kư.

Thật vậy, những tùy miên này không tương vi với bố thí và các thiện nghiệp khác. V́ nghĩ rằng: “Ta sẽ được sung sướng ở vị lai!” Cho nên người ta bố thí và tŕ giới.

Loại đoạn kiến (ucchedadṛṣṭi) lại thuận hợp với giải thoát. Chính v́ thế mà Thế tôn nói: “Trong số các kiến giải (kiến thú, dṛṣṭigata) của ngoại đạo (Tīrthikas), kiến giải thù thắng nhất (viśiṣṭa) là khi họ nói ‘ta không hiện hữu, những ǵ của ta không hiện hữu, những ǵ của ta sẽ không hiện hữu’”.

Hữu thân kiến và biên chấp kiến chỉ là những mê lầm đối với những sự vật làm nên một cá thể hư giả (svadravyasaṃmuḍhatva) chứ không làm hại người khác v́ thế cũng thuộc về vô kư.

(Hỏi) Nếu như vậy th́ những lư do như không tương vi với bố thí, v.v., cũng có thể áp dụng cho các trường hợp tham trước cơi thiên (svargatṛṣṇā) và ngă mạn (asmimāna), và chúng cũng sẽ là vô kư. Tuy nhiên Bổn tông lại không thừa nhận điều này.

(Đáp) Các luận sư đời trước (pūrvācārya) có nói: “Loại hữu thân kiến bẩm sinh (câu sinh, sahaja) có ở loài cầm thú đều thuộc vô kư; nhưng loại hữu thân kiến sinh khởi do sự phân biệt (vikalpitā) th́ lại thuộc tánh bất thiện”, [đối với trường hợp của biên chấp kiến bẩm sinh và phân biệt sinh cũng thế].

Tất cả các tùy miên khác ở Dục giới đều có tánh bất thiện (aśubha, akuśala).

(Hỏi) Trong chín mươi tám tùy miên, bao nhiêu loại có gốc bất thiện?

Tụng đáp:  

不善根欲界                  貪瞋不善癡

[Các căn bất thiện 

Là tham, sân và si bất thiện của Dục giới.]  

Luận:  Tất cả tham (rāga), sân (pratigha) và si (mūḍḥi = moha) ở Dục giới, ngoại trừ loại si thuộc hữu thân kiến và biên chấp kiến, theo thứ này là các căn bất thiện (lobha, dveṣa, moha).

Hữu thân kiến và biên chấp kiến không phải là căn bất thiện bởi v́ chỉ có các phiền năo thuộc tánh bất thiện và vốn là căn bất thiện mới được lập thành bất thiện căn. Các tùy miên khác không phải là căn bất thiện.

(Hỏi) Có bao nhiêu tùy miên là căn vô kư?

Tụng đáp:

無記根有三                  無記愛癡慧
      非餘二高故                  外方立四種
      中愛見慢癡                  三定皆癡故.

[Có ba căn vô kư

Là ái, si và tuệ vô kư,

Chứ không phải là các tùy miên khác v́ có hai loại và cao cử.

Luận sư nước ngoài lập thành bốn loại;

Trong số ái, kiến, mạn và si

Có ba loại thuộc định v́ đều do si.]  

Luận:  Các luận sư Tỳ-bà-sa ở Kaśmīr nói rằng các loại ái (tṛṣṇās), vô minh (avidyas) và tuệ vốn thuộc tánh vô kư - không kể thuộc bất kỳ loại vô kư nào trước đó và trong đó có cả loại tuệ do dị thục sinh - đều là các căn vô kư.

Nghi (vicikitsā) không thể được xem như là một căn v́ có tánh di động và có đến hai loại (nhị thú). Mạn (māna) vốn là sự cao ngạo của tâm (unnati) cũng không phải là căn bởi v́ mạn bao hàm sự nâng cao, không phù hợp với căn. Mọi người đều biết các căn phải chắc cứng và hướng xuống phía dưới (adhovṛtti).

Các luận sư nước ngoài (Aparāntakas) nói rằng bốn loại ái (tṛṣṇā), kiến (dṛṣṭi), mạn (māna) và si (moha) đều là vô kư: Thật vậy, v́ có vô minh nên có ba loại thuộc định. Người ta phân thành ba loại “định của ái” (tṛṣṇottaradhyāyin), “Định của kiến” (dṛṣṭyuttaradhyāyin), “định của mạn” (mānottaradhyāyin). Các loại này được gọi như thế là do si (moha) hoặc vô minh (avidyā).

(Hỏi) Khế kinh (Saṃyutta, 32, 1; 34, 12; Ekottara, 43, 13) có nói đến mười bốn điểm thuộc về vô kư (vô kư sự, avyākṛtavastu). Như vậy có phải chúng cũng thuộc loại vô kư được nói đến ở trên?

(Đáp) Không phải. Mười bốn điểm vô kư được nói đến trong kinh nhằm để chỉ cho loại câu hỏi cần phải từ chối (ưng xả trí vấn, sthāpanīyapraśna): Có nghĩa là loại câu hỏi này được gọi là “không được trả lời” (vô kư, avyākṛta); nó không được giải thích (kathita) bởi v́ nó phải bị khước từ. Đối tượng của một câu hỏi như thế được gọi là vô kư sự.

Có bốn loại câu hỏi:   

應一向分別                  反詰捨置記
      如死生殊勝                  我蘊一異等.

[Nên trả lời dứt khoát, bằng cách phân biệt,

Bằng cách hỏi lại, bằng cách từ chối,

Như được hỏi về chết, sống, thù thắng,

Ngă và uẩn là một hay khác, v.v.]  

Luận:  (1) Nếu có người hỏi “có phải tất cả chúng sinh đều sẽ chết?” Th́ cần trả lời một cách dứt khoát là “tất cả sẽ chết”. 

(2) Nếu có người hỏi “có phải tất cả chúng sinh đều sẽ sinh ra?” th́ cần trả lời bằng cách phân biệt: “Những chúng sinh có phiền năo (kleśa) sẽ sinh ra; những chúng sinh không có phiền năo sẽ không sinh ra”.

(3) Nếu có người hỏi “con người cao cả (viśiṣṭa) hay thấp kém (hīna)?” th́ cần phải trả lời bằng một câu hỏi “khi so sánh với ai?” Nếu nói là so sánh với trời th́ cần trả lời là “con người thấp kém hơn”. Nếu nói là so sánh với chúng sinh ở các thú th́ cần trả lời là “con người cao cả hơn”.

(4) Nếu có người hỏi “các uẩn đồng nhất hay khác biệt với chúng sinh?” th́ đây là câu hỏi cần phải từ chối bởi v́ cái được gọi là “chúng sinh” không thực hữu; cũng giống như khi từ chối trả lời câu hỏi: “Con của người đàn bà không sinh đẻ là đen hay trắng?”

(Hỏi) Làm sao có thể nói là “đă trả lời” câu hỏi thứ tư này khi không đưa ra được câu trả lời là các uẩn đồng nhất hay khác biệt với chúng sinh?

(Đáp) Khi nói rằng câu hỏi này phải được “từ chối” tức đă đưa ra câu trả lời.

Có luận sư (Tôn giả Rāma) nói rằng loại câu hỏi thứ hai cũng dẫn đến một câu trả lời dứt khoát giống như câu hỏi thứ nhất là “tất cả chúng sinh đều không sinh ra”. Tuy nhiên theo luận chủ, để chứng minh cho tỷ dụ của Tỳ-bà-sa về loại câu hỏi thứ hai, tức đối với những ai có thể hỏi: “Những người bị chết có thể sinh ra không?”, th́ cần phải trả lời bằng cách phân biệt: [“Không phải tất cả những người bị chết đều sẽ sinh ra, những người có phiền năo mới sinh ra, chứ những người không có phiền năo th́ không”.]

Tôn giả Rāma c̣n nói rằng loại câu hỏi thứ ba cũng dẫn đến một câu trả lời dứt khoát bởi v́ con người cùng lúc có thể cao hoặc thấp tùy theo trường hợp so sánh. Cũng giống như khi có người hỏi: “Thức là quả hay nhân?”, [th́ cần phải trả lời: “Là nhân nếu so với quả; và là quả nếu so với nhân”.] Nhưng luận chủ nói rằng đối với người đưa ra câu hỏi theo cách dứt khoát như: “Con người cao cả hay thấp kém?”, th́ sẽ không thích hợp để trả lời một cách dứt khoát là “con người cao cả” hay “con người thấp kém” mà cần phải trả lời bằng cách phân biệt: Có nghĩa là trước tiên phải hỏi lại ư định của người hỏi.

Các luận sư Đối pháp nói về bốn loại câu hỏi: 

(1)                                   Loại trả lời dứt khoát là khi có người hỏi: “Thế tôn có phải là Như lai ứng cúng chánh đẳng giác (Tathāgata Samyaksaṃbuddha)? Giáo pháp được ngài nói ra có phải là thiện thuyết không? Chúng tăng thanh văn (Śrāvaka) có được khéo léo dẫn dắt không? Có phải sắc (rūpa) là vô thường? … “có phải thức (vijñāna) là vô thường? Khổ có được tŕnh bày rơ ràng không? … Đạo có được tŕnh bày rơ ràng không?”, những câu hỏi như thế cần được trả lời một cách dứt khoát v́ có lợi ích chân thực (arthopasaṃhitatvāt).

(2)                                   Loại trả lời bằng phân biệt là khi có người thành tâm (aśaṭha) hỏi: “Con muốn tôn giả thuyết pháp cho con” th́ cần phải phân biệt là pháp có nhiều loại như pháp quá khứ, pháp hiện tại, pháp vị lai mà người hỏi muốn nghe loại pháp ǵ. Nếu người hỏi muốn nghe pháp quá khứ th́ cần phải phân biệt pháp quá khứ cũng có nhiều loại như sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Nếu người hỏi muốn nghe giảng về sắc pháp th́ cũng cần phải phân biệt sắc pháp có ba loại thiện, bất thiện, vô kư. Nếu người hỏi muốn nghe loại sắc pháp thiện th́ cũng phải phân biệt là sắc pháp thiện có đến bảy loại là giới sát, v.v., cho đến vọng ngữ. Nếu người hỏi muốn nghe giảng về giới sát th́ cần phải phân biệt có ba loại giới sát xuất phát từ ba thiện căn là vô tham, vô sân, vô si. Nếu người hỏi muốn biết về loại giới sát sinh khởi từ vô tham th́ phải phân biệt hai loại là giới sát hữu biểu và giới sát vô biểu và hỏi xem người hỏi muốn nghe về loại nào. 

(3)                                   Trả lời bằng câu hỏi: Cùng một câu hỏi nhưng nếu do một người không thành tâm (śaṭha) nêu ra th́ phải trả lời bằng cách đưa ra một câu hỏi (paripṛcchāvyākaraṇa). Nếu người này hỏi: “Tôi muốn tôn giả thuyết pháp cho tôi” th́ phải hỏi lại là pháp th́ có nhiều nhưng người hỏi nghe pháp nào. Trong trường hợp này không cần phân biệt các pháp quá khứ, vị lai, hiện tại mà chỉ tiếp tục hỏi lại cho đến khi người này phải chịu im hoặc tự giải thích lấy (vyākar). (Vibhāṣā, 15, 14)

(Tôn giả Rāma) nếu người không thành tâm và người thành tâm đều không hỏi mà chỉ cầu xin hăy thuyết pháp cho họ; và nếu không trả lời họ, không giải thích cho họ mà chỉ hỏi lại họ là muốn thuyết pháp loại pháp nào th́ làm sao có thể nói rằng đó là hỏi và trả lời?

(Luận chủ) Nếu có người hỏi: “Xin chỉ đường cho tôi” tức đă đưa ra câu hỏi về đường đi, cũng giống như nói: “Đâu là đường đi?”. Mặt khác khi hỏi lại tức đă giải thích cho người hỏi những ǵ người này muốn hỏi: Như vậy chẳng phải đường đi đă không được giải thích (vyākṛta) sao?

(Tôn giả Rama) Nếu vậy trong trường hợp của câu hỏi thứ hai và thứ ba vẫn có câu trả lời bằng cách hỏi lại?

(Luận chủ) Không thể như vậy. Trong trường hợp trên, câu trả lời sẽ khác bởi v́ có khi trả lời bằng sự phân biệt và có khi trả lời mà không phân biệt.

(4)                                   Loại câu hỏi phải từ chối. Nếu có người hỏi: “thế gian hữu hạn hay vô hạn?” th́ phải từ chối trả lời. 

Luận chủ cho rằng cần phải dựa vào khế kinh để t́m ra định nghĩa của bốn loại câu hỏi và trả lời này (praśnavyākaraṇa): Các bậc tôn túc của Đại chúng bộ (Māhāsāṃghikas) trích kinh (Dīrgha, 8, 16; Madhyama, 29, 6) nói: “Này các Bí-sô, có bốn cách trả lời các câu hỏi. Bốn cách đó là ǵ? - Có những câu hỏi cần phải trả lời thật dứt khoát…; có loại câu hỏi cần phải từ chối không trả lời. Loại câu hỏi ǵ cần phải trả lời dứt khoát? - Đó là câu hỏi có phải tất cả các uẩn đều vô thường. Loại câu hỏi ǵ cần phải trả lời bằng cách phân biệt? - Đó là câu hỏi loại nghiệp cố ư (hữu cố tư tạo tác nghiệp, saṃcetnīya) chiêu cảm loại quả ǵ. Loại câu hỏi ǵ cần phải trả lời bằng một câu hỏi? - Đó là câu hỏi có phải tưởng (saṃjñā) là ngă (ātman) của con người; lúc đó phải hỏi ngược lại là người này nghĩ ǵ về ngă. Nếu họ trả lời rằng ngă th́ thô hiển (andārika) tức phải trả lời rằng tưởng khác với ngă (Dīgha, i. 195). Loại câu hỏi ǵ cần phải từ chối không trả lời? - Đó là câu hỏi có phải thế giới là thường, là vô thường, vừa thường vừa vô thường, không phải thường cũng không phải vô thường; có phải thế giới là hữu hạn, là vô hạn, vừa hữu hạn vừa vô hạn, không phải hữu hạn cũng không phải vô hạn; có phải Như lai vẫn tồn tại sau khi chết…; có phải mạng khác với thân. Này các Bí-sô, những câu hỏi như thế cần phải từ chối.”

Phần 19

Ở thân chúng sinh (pudgala), tùy miên luôn luôn đeo bám (anuśete) vào một sự vật và khi đó chúng sinh sẽ bị ràng buộc với sự vật bởi chính tùy miên này. Chúng ta hăy xét xem chúng sinh bị ràng buộc với sự vật ǵ và bởi loại tùy miên nào, quá khứ, hiện tại hay vị lai.

若於此事中                  未斷貪瞋慢
      過現若已起                  未來意遍行
      五可生自世                  不生亦遍行
      餘過未遍行                  現正緣能繫.

[Bị ràng buộc với sự vật

Bởi tham, sân, mạng chưa đoạn,

Quá khứ hoặc hiện tại và đă sinh khởi;

Ư thuộc vị lai ràng buộc tất cả các sự vật.

Thuộc ngũ thức, khả sinh sẽ ràng buộc sự vật cùng thời;

Thuộc bất sinh sẽ ràng buộc tất cả.

Các phiền năo khác thuộc quá khứ vị lai ràng buộc tất cả;

Khi duyên hiện tại tức ràng buộc với sự vật hiện tại.]

Luận:  Tùy miên (anuśayas) hay phiền năo (kleśa) có hai loại: (1) Phiền năo tự tướng (svalakṣaṇakleśa) là tham, sân, mạn; (2) phiền năo cộng tướng (sāmānyakleśa) là kiến, nghi và vô minh.

Khi các phiền năo tự tướng đă khởi (utpanna) đối với một sự vật nào đó - thuộc quá khứ, hiện tại, vị lai, hoặc thuộc Kiến đoạn, v.v., - và v́ thế các phiền năo này phải thuộc về quá khứ hoặc hiện tại; và khi chúng chưa được đoạn trừ th́ chúng sinh có các phiền năo này sinh khởi sẽ bị ràng buộc với sự vật này bởi chính các phiền năo tự tướng này. Bởi v́ nếu đă thuộc loại tự tướng th́ các phiền năo này không nhất thiết phải khởi ở tất cả mọi người đối với tất cả mọi sự vật mà trái lại chúng chỉ sinh khởi ở một người nào đó đối với một sự vật nào đó.

Chúng sinh bị ràng buộc với tất cả các sự vật quá khứ, hiện tại, vị lai, [thuộc cả ngũ bộ và được đoạn trừ bởi Kiến đạo, v.v., tùy từng trường hợp] bởi chính các phiền năo tự tướng vị lai khi các phiền năo này thuộc về ư thức (manovijñāna). Bởi v́ ư giới bao hàm cả ba thời (tam thế).

Chúng sinh bị ràng với các sự vật vị lai bởi tham và sân thuộc vị lai và khác với các loại trên - có nghĩa là các tham và sân này không thuộc về ư, tức chỉ liên quan đến năm thức thân; bởi v́ năm thức thân chỉ tri nhận sự vật cùng thời với chúng.

Tuy nhiên nguyên tắc này chỉ liên quan đến các tham sân vị lai thuộc loại “nhất định sinh” (utpattidharmin); nếu không thuộc loại “nhất định sinh” th́ lại khác.

Chúng sinh bị ràng buộc với tất cả các sự vật thuộc quá khứ, hiện tại và vị lai bởi chính các tham sân không thuộc loại “nhất định sinh” này.

Đối với các phiền năo khác, tức các phiền năo cộng tướng - loại phiền năo này có sở duyên là ngũ thủ uẩn, có khả năng sinh khởi ở tất cả chúng sinh, đối với tất cả các sự vật - th́ chúng sinh sẽ bị ràng buộc với tất cả các sự vật thuộc ba thời, thuộc cả năm bộ tùy theo trường hợp và ở cùng thời điểm của các phiền năo được nói đến này.

(Kinh bộ) Các phiền năo và các sự vật quá khứ và vị lai có thực hữu hay không? Nếu nói rằng chúng thực hữu tức phải thừa nhận pháp hữu vi (saṃskṛta) luôn luôn hiện hữu và như vậy pháp hữu vi sẽ là thường; nếu không thực hữu th́ làm thế nào có thể nói rằng chúng sinh bị ràng buộc (saṃyukta) hay không bị ràng buộc (visaṃyukta) với sự vật bởi các phiền năo này?

Tỳ-bà-sa cho rằng các pháp quá khứ và vị lai đều thực hữu (dravya); tuy nhiên các pháp hữu vi không thường hằng bởi v́ chúng có các tính chất (lakṣaṇas) của hữu vi (hữu vi tướng) để làm sáng tỏ ư kiến của Tỳ-bà-sa, cần tŕnh bày tóm tắt tông chỉ của họ: 

三世有由說                  二有境果故
      說三世有故                  許說一切有.

[Tam thế thực hữu do phật thuyết

V́ có hai điều kiện, có cảnh, có quả.

V́ chủ trương tam thế thực hữu

Nên được nhận là nhất thiết hữu bộ.]

Luận:  Thế tôn đă dạy về sự hiện hữu của quá khứ và của vị lai bằng những lời lẽ rất rơ ràng (kaṇṭhatas): “Này các Bí-sô, nếu sắc pháp quá khứ không hiện hữu th́ thánh giả thanh văn sẽ không được dạy rằng “đừng để tâm đến sắc pháp quá khứ… Nếu sắc pháp vị lai không hiện hữu th́ thánh giả thanh văn sẽ không được dạy rằng “đừng thỏa thích trong sắc pháp vị lai. Chính v́ sắc pháp vị lai có hiện hữu mà thánh giả thanh văn được dạy rằng…”. (Saṃyuktakāgama, iii. 14)

Thế tôn cũng đă ngầm dạy (arthatas) về điều này khi ngài nói: “Thức (vijñāna) khởi là do hai (điều kiện). Hai điều kiện là ǵ? - Đó là nhăn căn và sắc… ư và pháp” (Saṃyutta, ii. 72, v.v). V́ thế nếu pháp quá khứ và vị lai không hiện hữu th́ ư thức (manovijñāna) sẽ không sinh khởi do hai (điều kiện).

Trên đây là phần giáo chứng; tiếp theo là phần lư chứng:

V́ có sở duyên (ālambana) nên thức có thể sinh; thức không thể sinh nếu sở duyên không có.

Nếu các sự vật quá khứ và vị lai không hiện hữu th́ sẽ có loại thức không có sở duyên; v́ thế nếu thiếu sở duyên th́ sẽ không có thức.

Nếu quá khứ không hiện hữu, làm thế nào các nghiệp thiện ác có thể cho quả ở vị lai? Thật vậy, vào lúc quả được sinh ra th́ nhân dị thục (vipākahetu) đă là quá khứ.

Dựa vào các giáo chứng và lư chứng trên, Tỳ-bà-sa khẳng định sự hiện hữu của quá khứ và vị lai.

Các luận sư tự xưng là Thuyết nhất thiết hữu (Sarvāstivādin) cho rằng quá khứ và vị lai hiện hữu như các thực pháp (dravya).

Luận sư nào khẳng định sự hiện hữu của tất cả ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai được xem như thuộc về bộ phái Thuyết nhất thiết hữu. Luận sư nào khẳng định sự hiện hữu của hiện tại và một phần quá khứ, tức là loại nghiệp khôgn cho quả, và khẳng định sự không hiện hữu của vị lai và một phần quá khứ, tức là loại nghiệp đă cho quả, th́ được xem như thuộc về bộ phái Phân biệt thuyết (Vibhajyavādin) chứ không phải Nhất thiết hữu.

(Hỏi) Trong bộ phái này có bao nhiêu chủ trương? Có bao nhiêu cách giải thích về sự hiện hữu của tất cả các pháp? Và cách giải thích nào hay nhất?

Tụng đáp:  

此中有四種                  類相位待異
      第三約作用                  立世最為善.

[Trong đó có bốn chủ trương về

Loại, tướng, vị, đăi khác nhau.

Chủ trương thứ ba dựa vào tác dụng

Để lập thành các thời là đúng nhất.]  

Luận:  Tôn giả Pháp cứu (Bhadanta Dharmatrāta) bảo vệ chủ trương về loại (bhāvānyathātva) có nghĩa là ngài khẳng định ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai khác nhau là do sự không đồng nhất về loại (bhāva).

Khi một pháp vận hành từ thời điểm này sang thời điểm khác th́ thể (dravya) của nó không thay đổi nhưng loại lại thay đổi. Tỷ dụ sau đây cho thấy sự khác biệt về h́nh (ākṛti): Một chiếc b́nh bằng vàng bị đập vỡ và làm cho biến dạng th́ h́nh dáng (saṃsthāna) có thay đổi nhưng màu sắc (varṇa) th́ không thay đổi. Tỷ dụ sau đây cho thấy sự khác biệt về phẩm chất (guṇa): Khi sữa được đun sôi th́ vị, năng lượng, tính chất tiêu hóa của nó không c̣n nữa nhưng màu sắc vẫn c̣n. Cũng giống như vậy, khi một pháp vị lai chuyển từ vị lai vào hiện tại th́ “loại” vị lai (anāgatabhāva) của nó bị xả bỏ và đắc được “loại” hiện tại nhưng thể (dravya) của nó th́ vẫn như cũ; khi chuyển từ hiện tại vào quá khứ th́ “loại” hiện tại bị xả bỏ và đắc được “loại” quá khứ nhưng thể của nó vẫn đồng nhất.

Tôn giả Diệu âm (Bhadanta Ghoṣaka) bảo vệ chủ trương về tướng (lakṣaṇānyathātva):

Pháp vận hành qua các thời kỳ. Khi ở quá khứ, mặc dù nó mang (yukta) tính chất (lakṣaṇa) của quá khứ nhưng không phải không có (aviyukta) các tính chất của hiện tại và vị lai; khi ở vị lai nó lại mang tính chất của vị lai nhưng không phải không có các tính chất của hiện tại và quá khứ; khi ở hiện tại nó mang tính chất của hiện tại nhưng không phải không có các tính chất của quá khứ và vị lai. Cũng giống như khi một người đàn ông đang say đắm (rakta, nhiễm) một người đàn bà th́ không có nghĩa là “không say đắm” (avirakta) đối với những người đàn bà khác.

Tôn giả Thế hữu (Bhadanta Vasumitra) bảo vệ chủ trương về vị (avasthānyathāva): Các thời kỳ khác nhau là do sự khác nhau về vị thế (avasthā). Một pháp khi vận hành qua các thời kỳ đều ở vào (prāpya) một vị thế nào đó v́ thế sở dĩ có khác nhau là do sự khác nhau về vị thế chứ không phải về thể (dravya); cũng giống như một chiếc thẻ (vartikā, gulikā) ghi tiền: Nếu được đặt ở hàng đơn vị th́ được gọi là một, đặt ở hàng chục th́ được gọi là mười, đặt ở hàng trăm th́ được gọi là trăm.

Tôn giả Giác thiên (Bhadanta Buddhadeva) chủ trương về sự đối đăi (anyonyathātva) tức các thời kỳ được thiết lập qua sự tương quan. Một pháp khi vận hành qua các thời kỳ đều mang những tên gọi khác nhau do có quan hệ với nhau, có nghĩa là pháp này được gọi là quá khứ, vị lai hay hiện tại là do sự tương quan của nó với những ǵ trước đó hay sau đó; tỷ dụ như một phụ nữ vừa là con nhưng cũng vừa là mẹ.

V́ những lư lẽ trên, bốn luận sư này đă chủ trương tất cả đều hiện hữu. Trong đó chủ trương thứ nhất về sự chuyển biến (pariṇāma) cần được bác bỏ như đă bác bỏ Số luận (Sāṃkhyas). Nếu theo chủ trương thứ hai th́ các thời quá khứ, hiện tại và vị lai sẽ bị tạp loạn (adhvasaṃkara) bởi v́ cả ba tính chất này đều được t́m thấy khắp nơi. Hơn nữa tỷ dụ được dẫn trưng thiếu tính chất tương đồng bởi v́ trong trường hợp của con người th́ mặc dù có tham hiện hành đối với một phụ nữ (rāgasamudācāra, rāgaparyavasthāna) nhưng đối với những phụ nữ khác th́ chỉ có sự thành tựu tham (rāgaprāpti). Nếu theo chủ trương thứ tư th́ cả ba thời đều hiện hữu cùng lúc; chẳng hạn như một pháp quá khứ sẽ là quá khứ trong tương quan với cái trước đó, sẽ là vị lai nếu tương quan với cái sau đó, và là hiện tại nếu tương quan với cái trước đó và sau đó.

Như vậy chủ trương đúng đắn nhất là của Thế hữu; theo đó, các thời kỳ và các vị thế được lập thành (vyavasthapita) là nhờ vào tác dụng hay sự hoạt động (kāritra): Khi một pháp chưa có tác dụng th́ nó là vị lai; khi có tác dụng th́ nó là hiện tại; và khi tác dụng đă chấm dứt th́ nó là quá khứ.

(Kinh bộ) Nếu quá khứ hoặc vị lai đều hiện hữu như các thực pháp th́ chúng là hiện tại; tại sao lại gọi là quá khứ hay vị lai?

(Đáp) trên đây có nói rằng chính tác dụng chưa được thể hiện, đang được thể hiện hoặc đă được thể hiện của một pháp quyết định thời kỳ của pháp này.

(Hỏi) Nếu vậy, trong trường hợp của loại nhăn bỉ đồng phần (tatsabhāga) sẽ có những tác dụng ǵ? Tác dụng của nhăn là nh́n thấy mà nhăn bỉ đồng phần th́ không nh́n thấy. Và có phải các ông sẽ nói rằng tác dụng của nó là phát khởi và cho ra một quả (phaladānaparigraha)? Nếu sự cho quả chính là “tác dụng” th́ các nhân đồng loại (sabhāgahetu) cũng cho quả khi ở quá khứ và người ta sẽ kết luận rằng chúng là quá khứ; chúng cũng sẽ thể hiện tác dụng của chúng và như vậy chúng sẽ là hiện tại. Hoặc là nếu tác dụng này, v́ muốn cho hoàn tất mà đ̣i hỏi phải có sự phát khởi và cho quả th́ các nhân quá khứ này ít ra cũng là một nửa hiện tại. Như vậy các thời kỳ sẽ trở nên loạn tạp.

Chúng ta hăy tiếp tục bàn về vấn đề này:

何礙用云何                  無異世便壞
      有誰未生滅                  此法性甚深.

[Điều ǵ ngăn ngại tác dụng;

Nếu không khác nhau không thể lập thành thế;

Nếu thực hữu th́ cái ǵ chưa sinh, diệt.

Pháp tánh này rất sâu xa.]

Luận:  Nếu đă hằng hữu, tại sao pháp không thể khởi dụng vào tất cả mọi thời? Chướng ngại nào khiến cho pháp khi th́ khởi dụng khi th́ không? Không thể nói rằng sự không khởi dụng của một pháp là do sự không có mặt của các nhân nào đó bởi v́ chính các nhân này cũng luôn luôn hiện hữu.

Làm thế nào tự thân tác dụng có thể là quá khứ, v.v.? Các ông có tưởng tượng ra một tác dụng phụ của tác dụng này không? Điều này sẽ quá phi lư. Nếu chính tự thân tác dụng (svarūpasattāpekṣayā) là quá khứ,v.v., th́ tại sao không thừa nhận rằng đối với các pháp cũng như vậy? Và nói rằng thời gian tùy thuộc vào tác dụng quá khứ, v.v., để mà làm ǵ?

Có phải các ông có ư nói rằng tác dụng không phải là quá khứ, không phải là vị lai, cũng không phải là hiện tại; và nếu như vậy th́ nó là cái ǵ? Nếu tác dụng là vô vi (asaṃskṛta) th́ chúng phải thường hằng (nitya); hơn nữa, làm sao có thể nói rằng pháp là vị lai khi chưa khởi dụng, pháp là quá khứ khi không c̣n khởi dụng?

(Hữu bộ) Nếu chủ trương tác dụng khác biệt với pháp th́ mới phạm phải các sai lầm nói trên; nhưng thật ra tác dụng không khác với pháp.

(Luận chủ) Nếu tác dụng cùng thể với pháp th́ pháp vốn luôn luôn hiện hữu tức tác dụng cũng sẽ phải luôn luôn hiện hữu. Như vậy, tại sao và làm thế nào có thể nói rằng tác dụng khi th́ quá khứ khi th́ vị lai? V́ thế, sự khác biệt giữa các thời kỳ vẫn chưa được chứng minh.

(Hữu bộ) Tác dụng chưa được hứng minh ở điểm nào? Thật ra một pháp hữu vi nếu chưa sinh th́ được gọi là vị lai; nếu đă sinh nhưng chưa diệt th́ gọi là hiện tại; nếu đă diệt tức gọi là quá khứ.

(Kinh bộ) Nếu có pháp quá khứ và vị lai th́ phải hiện hữu cùng một thể tánh (tevaivātmanā) giống như khi hiện hữu ở hiện tại. Và nếu tự tánh của pháp đă liên tục hiện hữu th́ làm thế nào pháp này có thể là chưa sinh hay đă diệt? Trước đó v́ thiếu cái ǵ và v́ không có sự hiện hữu của cái ǵ mà nói rằng pháp này chưa sinh? Và sau đó v́ c̣n thiếu cái ǵ và v́ không có sự hiện hữu của cái ǵ mà nói rằng pháp này đă diệt? V́ thế, nếu không thừa nhận rằng “một pháp chỉ hiện hữu sau khi đă không hiện hữu (abhūtvā bhāvaḥ) và không c̣n hiện hữu sau khi đă hiện hữu (bhūtvā abhāvaḥ)” th́ sẽ không thành lập được ba thời điểm khác nhau.

Ở đây cần xem xét lập luận của Hữu bộ: (1) Theo bộ phái này v́ có thành tựu các tính chất của hữu vi (sinh, trụ, v.v.) nên pháp hữu vi không thể thường hằng mặc dù chúng hiện hữu trong quá khứ và vị lai. Đây chỉ là lời nói bậy bạ bởi v́ nếu đă luôn luôn hiện hữu th́ pháp không thể sinh và cũng không thể diệt. Khi nói “pháp là thường, và pháp không phải là thường” tức đă tự mâu thuẫn về mặt ngôn từ (apūrvaiṣā vāco yuktiḥ). Đó là điều mà bài tụng sau đây giải thích: “Tự thể th́ luôn luôn hiện hữu nhưng lại không mong muốn pháp hiện hữu là thường, cũng không mong muốn pháp khác biệt với tự thể: Rơ ràng đây là việc làm của ông hoàng”. 

(2) Một lập luận khác của Hữu bộ cho rằng Thế tôn đă từng dạy về sự hiện hữu của quá khứ và vị lai: Thế tôn nói rằng: “Có nghiệp quá khứ, có nghiệp vị lai” cho nên Hữu bộ cũng nói rằng có quá khứ, có vị lai (astīti). Thật ra có quá khứ là v́ đă từng hiện hữu (yadbhūtapūrvam); có vị lai là v́ sẽ hiện hữu (yad bhaviṣyati) khi có nhân: Chính v́ ư nghĩa này nên [Thế tôn] mới nói rằng có quá khứ, có vị lai; tuy nhiên chúng không hiện hữu thực sự (dravyatas) như hiện tại.

(Hữu bộ) Ai nói chúng hiện hữu như hiện tại?

(Kinh bộ) Nếu không hiện hữu như hiện tại th́ chúng phải hiện hữu như thế nào?

(Hữu bộ) Chúng hiện hữu với tự tánh của quá khứ và vị lai.

(Kinh bộ) Nhưng nếu chúng không hiện hữu, làm sao có thể gán ghép cho chúng tự tánh của quá khứ và vị lai? Thực ra, trong đoạn kinh Hữu bộ trích dẫn ở trên, Thế tôn chỉ nhằm ngăn chặn loại kiến chấp bác bỏ nhân quả (báng nhân quả kiến). Ngài nói “có quá khứ” là hàm ư “đă có quá khứ” và “có vị lai” là hàm ư “sẽ có vị lai”. Chữ “có” (asti) là một cách dùng đặc biệt (nipāta) [trong ngữ pháp] như thường thấy trong các cách nói: “Có (asti) sự không hiện hữu trước đó của cây đèn” (hữu đăng tiên vô), “có sự không hiện hữu sau đó của cây đèn” (hữu đăng hậu vô), và cũng như người ta thường nói: “Ngọn đèn có tắt, nhưng không phải tôi tắt nó”. Những cách nói này cũng giống như kinh nói: “Có quá khứ”, “có vị lai”. Nếu không hiểu theo cách này th́ quá khứ, nếu “hiện hữu”, sẽ không c̣n là quá khứ.

(Hữu bộ) Chúng tôi thấy rằng Thế tôn có nói với các tu sĩ (parivrājakas) thuộc ngoại đạo Trượng kế (Lāgudaśikhīvakas) như thế này: “Nghiệp quá khứ bị hủy hoại đă diệt, đă chấm dứt, nghiệp này có”. Giải thích này hàm ư: “Đă có nghiệp này”. Như vậy chúng tôi có thể giả thiết rằng ngoại đạo trên vốn không thừa nhận đă có nghiệp quá khứ?

(Kinh bộ) Khi Thế tôn nói rằng có nghiệp quá khứ là ngài có ư chỉ cho công năng cho quả, công năng của loại nghiệp trước đó ở trong chuỗi tương tục của tác nhân. Nếu không hiểu như vậy, nghiệp quá khứ nếu có tự tánh thực hữu (svena bhāvena vidyāmānam) th́ làm sao có thể xem nó là quá khứ?

Vả lại, trong kinh Thắng nghĩa không (Paramārthaśūnyatāsutra) Thế tôn đă nói: “Này các Bí-sô, nhăn căn khi sinh không từ đâu đến; khi diệt cũng không tụ tập về đâu. V́ vậy, này các Bí-sô, nhăn căn hiện hữu sau khi đă không hiện hữu và sau khi đă hiện hữu th́ nhăn căn biến mất”. Nếu có nhăn căn vị lai th́ Thế tôn đă không nói là nhăn căn hiện hữu sau khi đă không hiện hữu. Ở đây có lẽ Hữu bộ sẽ nói rằng câu nói “hiện hữu sau khi đă không hiện hữu” có nghĩa là “sau khi đă không hiện hữu ở hiện tại” (vartamāne ‘dhvany abhūtvā), tức muốn nói “sau khi đă không hiện hữu về mặt hiện tại” (vartamānabhāvena abhūtvā). Tuy nhiên lập luận này không thể chấp nhận được v́ thời gian (hiện thế tánh) không khác biệt với nhăn căn.

(Hỏi) Có phải Hữu bộ có ư cho rằng nên hiểu câu nói trên với nghĩa “sau khi đă không hiện hữu về mặt tự tánh (svalakṣaṇatas)?”

(Đáp) Nếu nói như vậy tức đă tự nhận nhăn căn vị lai không hiện hữu.

(3) Về lập Luận:  “Quá khứ và vị lại hiện hữu v́ thức sinh khởi là do hai điều kiện”. Có phải lập luận này hàm nghĩa ư thức sinh khởi là nhờ vào ư căn (manas) và các pháp quá khứ, vị lai và hiện tại; và như vậy th́ các pháp này là điều kiện của ư thức cũng giống như nhăn căn, tức có khả năng làm duyên năng sinh (janakapratyaya)? Hay chúng chỉ là cảnh sở duyên (ālambanamātra)? Rơ ràng là các pháp vị lai sẽ sinh khởi sau hàng ngàn năm hoặc sẽ không bao giờ sinh khởi th́ không thể làm duyên năng sinh cho ư thức; và rơ ràng Niết-bàn, vốn tương vi với tất cả các trường hợp sinh khởi, cũng không thể làm duyên năng sinh. Nếu pháp chỉ có thể làm sở duyên cảnh th́ chúng tôi nói rằng các pháp vị lai và quá khứ cũng chỉ là sở duyên.

(Hữu bộ) Nếu các pháp quá khứ và vị lai không hiện hữu, làm sao chúng có thể làm sở duyên của thức?

(Kinh bộ) Chúng hiện hữu theo cách được xem như là sở duyên. Và chúng được xem như là sở duyên theo cách nào? Chúng được xem như là sở duyên nhờ có sự ghi nhớ rằng chúng đă hiện hữu, chúng sẽ phải hiện hữu. Thật vậy, một người khi nhớ về một sắc pháp (rūpa) hoặc một cảm thọ quá khứ th́ họ không nh́n thấy sắc pháp hoặc cảm thọ này “đang có” mà chỉ chỉ nhớ là chúng “đă có”; một người nh́n thấy trước vị lai th́ không nh́n thấy vị lai như đang hiện hữu mà chỉ thấy trước vị lai như sẽ phải hiện hữu (bhaviṣyat). Mặt khác, sự nhớ lại (vốn chỉ là một phần trăm của ư thức) chỉ nắm bắt được sắc pháp giống như sắc pháp đă từng được nh́n thấy, nắm bắt được cảm thọ giống như cảm thọ đă từng được cảm nhận, có nghĩa là chỉ nắm bắt các sắc pháp và cảm thọ này ở t́nh trạng hiện tại. Nếu một pháp được người ta nhớ lại mà có thực giống như cái mà người nắm bắt được nhờ vào trí nhớ th́ chắc chắn sự tri nhận của kư ức đă có một cảnh sở duyên không hiện hữu (duyên vô cảnh thức). 

Nếu nói rằng vẫn có sự hiện hữu của sắc pháp quá khứ hoặc vị lai nhưng không nhất thiết phải ở hiện tại bởi v́ sắc pháp này không là ǵ khác hơn các cực vi (paramāṇu) đang ở vào t́nh trạng phân tán (viprakīrṇa) th́ cũng không có lư. Bởi v́ (1) khi nhờ vào sự nhớ lại hoặc sự nh́n thấy trước mà thức có thể nắm bắt một cảnh là sắc pháp quá khứ hoặc vị lai th́ thức không thể nắm bắt loại cảnh này ở t́nh trạng phân tán mà phải ở t́nh trạng hội tụ (saṃcita); (2) nếu sắc pháp quá khứ hoặc vị lai cũng chính là sắc pháp hiện tại và chỉ khác một điều là các cực vi này đang bị phân tán (paramāṇuśo vibhaktam) th́ như vậy các cực vi này sẽ thường hằng; có nghĩa là chúng không bao giờ sinh khởi (utpāda), cũng không bao giờ biến diệt mà chỉ có hội tụ hoặc phân tán. Nếu chủ trương như vậy tức đă đi ngược học thuyết của phái Tà mạng mà bác bỏ khế kinh của bậc Thiện thệ (Sugata); bởi v́ kinh nói: “Này các Bí-sô, nhăn căn khi sinh đă không từ đâu đến…”; (3) lập luận này không đúng đối với trường hợp của cảm thọ và các pháp thuộc loại “không thô” (amūrta) khác: Nếu không có tập hợp các cực vi (paramāṇusaṃcita), làm thế nào có thể có sự phân tán của cực vi trong quá khứ và vị lai. Thật ra, người ta nhớ lại loại cảm thọ giống như đă được cảm nhận vào lúc nó hiện hữu; và người ta nh́n thấy trước loại cảm thọ giống như cảm thọ sẽ được cảm nhận vào lúc nói hiện hữu. Nếu cảm thọ quá khứ và vị lai là loại người ta nắm bắt được nhờ vào sự nhớ lại hoặc nh́n thấy trước th́ nó sẽ trở thành thường hằng. V́ thế loại ư thức có tên là “nhớ lại” này chỉ có một cảnh sở duyên không hiện hữu, đó là loại cảm thọ không có thực.

(Tỳ-bà-sa) Nếu cái không thực hữu vẫn có thể làm sở duyên cho thức th́ một xứ (āyatana) thứ mười ba cũng có thể làm sở duyên của thức.

(Luận chủ) Nếu vậy, theo các ông cái ǵ là sở duyên của loại thức nghĩ rằng “không có xứ thứ mười ba”? Nếu các ông nói rằng chính tên gọi của nó, tức “xứ thứ mười ba”, là cảnh sở duyên th́ nó cũng chỉ là một tên gọi và cảnh sở duyên vẫn không thực hữu. Hơn nữa, cái ǵ sẽ là cảnh sở duyên thực hữu của sự tri nhận (năng duyên thức) về sự không hiện hữu trước đó của thanh (prāgabhāva) (duyên thanh tiên phi hữu).

(Tỳ-bà-sa) Cảnh sở duyên của thức này chính là thanh chứ không phải là sự không hiện hữu của thanh.

(Luận chủ) Nếu vậy th́ người t́m kiếm (prārthayate) sự không hiện hữu của thanh (cầu thanh vô giả) sẽ phải tạo ra tiếng động (phát thanh)!

(Tỳ-bà-sa) Không phải như vậy bởi v́ loại âm thanh không hiện hữu trước đó (thanh vô) vẫn hiện hữu ở t́nh trạng vị lai, và chính âm thanh ở t́nh trạng vị lai này là cảnh sở duyên của cái biết về sự không hiện hữu trước đó.

(Luận chủ) Nếu âm thanh vị lai không hiện hữu trước đó vẫn thực hữu th́ làm sao có thể quan niệm rằng nó không hiện hữu (nāsti)?

(Tỳ-bà-sa) Nó không hiện hữu là so với hiện tại (vartamāno nāsti); v́ thế mới quan niệm rằng “nó không hiện hữu”.

(Luận chủ) Không thể nói như vậy bởi v́ chỉ có một pháp nhưng lại vừa là quá khứ vừa là hiện tại, vừa là vị lai. Hoặc nếu có sự khác biệt giữa thanh vị lai và thanh hiện tại, và quan niêm “nó không” (đang) hiện hữu” là dựa vào sự khác biệt này th́ hăy thừa nhận rằng đặc tính của hiện tại là hiện hữu sau khi không hiện hữu (bổn vô kim hữu); và v́ thế vẫn phải chấp nhận rằng cái hiện hữu (bhāva) và cái không hiện hữu (abhāva) đều có thể làm cảnh sở duyên của thức.

(Tỳ-bà-sa) nếu cái không hiện hữu cũng có thể làm sở duyên (ālambana) cho thức, làm sao Bồ-tát vào kiếp sống cuối cùng của ḿnh lại có thể nói: “Ta không thể biết, ta không thể thấy cái không hiện hữu trên thế gian này”?

Theo chúng tôi, ư nghĩa của đoạn kinh trên đă rất rơ ràng: “Ta không giống như những kẻ tăng thượng mạn khác (ābhimānika) tự cho rằng “có sự sáng suốt” (avabhāsa) không thực hữu: Đối với ta, ta chỉ thấy là thực những ǵ có thực.” Ngoài ra nếu thừa nhận chủ trương của các ông th́ cảnh sở duyên của tất cả mọi ư tưởng (giác, buddhi) sẽ đều là thực (sadviṣayā); nếu tất cả những ǵ được nghĩ dến đều thực th́ sẽ không c̣n chỗ cho sự nghi ngờ hoặc xem xét (vimarśa, vicāra): Sẽ không có sự khác nhau giữa Bồ-tát và những người khác.

Thật ra mọi ư tưởng đều có cảnh sở duyên hiện hữu và không hiện hữu (sadasadālambana) v́ Thế tôn đă nói rơ về điều này ở các nơi khác: “Bắt đầu từ khi ta nói với họ rằng ‘hăy đến đây, Bí-sô!’ th́ các đệ tử của ta đều được ta dẫn dắt từ sáng đến tối từ tối đến sáng: Họ biết được cái ǵ thực hữu là thực hữu (sac ca satto jñāsyati), cái không thực hữu là không thực hữu, cái ǵ không thù thắng nhất là không thù thắng nhất, cái ǵ thù thắng nhất (anuttarā = Nīrvaṇa) là thù thắng nhất.” (Saṃyukta, 26, 25)

V́ thế lư do “bởi v́ cảnh sở duyên của thức phải là pháp có hiện hữu” mà Hữu bộ đă dẫn trưng để chứng minh sự hiện hữu của quá khứ và vị lai là không đúng.

(5)                                   Hữu bộ c̣n rút ra một lập luận khác dựa vào quả của nghiệp nhưng Kinh bộ lại không thừa nhận quả sinh khởi trực tiếp từ nghiệp quá khứ mà chỉ sinh khởi từ một t́nh trạng đặc biệt của chuỗi tương tục (cittasaṃ ‘ānaviśeṣāt), một t́nh trạng xuất phát từ nghiệp (tatpūrvakāt); điều này chúng ta sẽ t́m thấy ở phần cuối (phá ngă phẩm) của cuốn luận này, tức ở phần bác bỏ học thuyết của Vātsīputrīyas.

Tuy nhiên những luận sư khẳng định tính chất thực hữu (dravyata) của quá khứ và vị lai phải thừa nhận tính chất thường hằng của quả; và như vậy th́ họ sẽ có thể gán ghép thêm loại công năng ǵ cho nghiệp? Loại công năng cho sự phát khởi (utpāda)? Loại công năng ǵ cho sự “trở thành hiện tại” (vartanānīkaraṇa)?

Như vậy nên thừa nhận rằng sự sinh khởi này chỉ hiện hữu sau khi đă không hiện hữu (abhūtvā bhavati). Nếu cho rằng tự thân sự sinh khởi đă hiện hữu từ trước th́ các ông c̣n có thể thêm vào loại công năng ǵ cho những pháp ǵ nữa? Các ông đă không làm ǵ khác hơn là chỉ đi theo ngoại đạo Vārṣagaṇayas bởi v́ họ vốn cho rằng “cái ǵ có tất có, cái ǵ không tất không; cái ǵ không có th́ không sinh; cái ǵ có th́ không diệt.”

Ngoài ra khi nói “trở thành hiện tại” là hàm ư ǵ? Có phải đó là sự dẫn dắt đến một nơi khác (deśantarākarṣaṇa)? Nếu chủ trương như vậy tức sẽ gặp pải ba vấn đề nan giải: (1) Loại quả được dẫn khởi theo cách như thế sẽ trở thành thường hằng; (2) trong trường hợp của các quả không phải là sắc pháp (arūpin) th́ chúng sẽ được dẫn khởi như thế nào?; (3) đối với những ǵ được dẫn khởi th́ chúng chỉ hiện hữu sau khi đă không hiện hữu.

Có phải “trở thành hiện tại” là làm thay đổi tự thể của loại quả đă hiện hữu trước đó (svabhāvaviśeṣaṇa)? Nếu hàm nghĩa như vậy th́ chẳng phải đă có sự xuất hiện (bhāvanā, prādurbhāva) của một sự thay đổi không thực hữu trước đó sao?

Như vậy chủ trương “tất cả đều thực hữu” (sarvāstivāda) của Hữu bộ nhằm khẳng định sự thực hữu của quá khứ và vị lai không phải là chủ trương đúng trong Phật giáo. Nhóm từ “tất cả đều thực hữu” không nên được hiểu theo nghĩa trên. Nhóm từ này theo đúng nghĩa của nó nhằm khẳng định sự hiện hữu của tất cả; và chữ tất cả phải được hiểu theo nghĩa đă được tŕnh bày trong khế kinh. Khế kinh đă khẳng định “tất cả đều hiện hữu” như thế nào? - “Này Phạm chí (Brāhmane), khi người ta nói ‘tất cả đều hiện hữu’ là để chỉ cho mười hai xứ (ayatanas): Đó là nhóm từ mang nghĩa tương tự”. Hoặc tất cả đều hiện hữu chính là tam thế. Và cách thức tam thế hiện hữu đă được tŕnh bày như thế này: “Cái đă hiện hữu trước đó chính là quá khứ, v.v..”

(Hữu bộ) Nếu quá khứ và vị lai không thực hữu, làm sao có thể bị ràng buộc (saṃyukta) với một sự vật (vastu) quá khứ hoặc vị lai bởi một phiền năo (kleśa) quá khứ hoặc vị lai?

(Kinh bộ) Người ta bị ràng buộc bởi phiền năo quá khứ là do sự hiện hữu của một tùy miên ở trong chuỗi tương tục, tùy miên này sinh từ phiền năo quá khứ; người ta bị ràng buộc bởi phiền năo vị lai là do sự hiện hữu của một tùy miên làm nhân cho phiền năo vị lai. Người ta bị ràng buộc với một sự vật quá khứ hoặc vị lai là do tùy miên của một phiền năo đă có hoặc sẽ có sự vật này làm cảnh sở duyên.

Tỳ-bà-sa: “Quá khứ và vị lai thực sự hiện hữu. Về những ǵ không thể giải thích th́ nên biết rằng thể tánh của các sự vật (pháp tánh) rất sâu xa: Pháp tánh này không thể được lập thành nhờ vào lư luận (phi tầm tư cảnh).” [Do đó không nên bác bỏ quá khứ và vị lai] (đây là phần thêm vào của Chân đế).

Có thể nói (asti paryāyaḥ) rằng chính cái sinh ra là cái biến diệt: Tỷ dụ như sắc có sinh th́ sắc có diệt [nhưng thực thể th́ vẫn như cũ (dravyānanyatvāt)]. Người ta cũng có thể nói rằng cái được sinh ra khác với cái bị diệt bởi v́ cái được sinh ra chính là vị lai và cái bị diệt chính là hiện tại. Thời gian cũng có sinh ra bởi v́ những ǵ sinh khởi đều được bao hàm trong thời gian, có thể tánh là thời gian; và pháp (dharma) sinh khởi từ thời gian là nhờ có nhiều sát-na của đời vị lai.

Đến đây chúng ta chấm dứt vấn đề mà luận thuyết về các pháp tùy miên đă đặt ra.

(Hỏi) Khi một người đoạn trừ một sự vật (yad vastu prahīṇam) nhờ xả bỏ sự hoạch đắc đă có đối với sự vật này (prātivigamāt) th́ ở người này có thể có sự xa ĺa (ly hệ) đối với sự vật này (tadvisaṃyoga) nhờ đă chặt đứt loại phiền năo có sự vật làm sở duyên không (tadālambakakleśaprahāṇāt)? Và ngược lại, nếu đă xa ĺa th́ có phải là đă đoạn trừ không?

(Đáp) Sự xa ĺa một sự vật luôn luôn kèm theo sự đoạn trừ sự vật này; nhưng vẫn có thể có trường hợp đoạn trừ mà không xa ĺa.  

於見苦已斷                  餘遍行隨眠
      及前品已斷                  餘緣此猶繫.

[Đă đoạn các sự thuộc kiến khổ đoạn

Nhưng vẫn c̣n ràng buộc với tùy miên biến hành;

Phẩm đầu tiên đă đoạn

Nhưng phiền năo khác c̣n duyên nên vẫn hệ phược.]

Luận:  Trong trường hợp một người đang ở vào giai đoạn của Kiến đạo và đă có kiến khổ sinh khởi nhưng kiến tập th́ chưa; như vậy người này đă đoạn trừ các sự vật (vastu) thuộc kiến khổ đoạn nhưng vẫn chưa xa ĺa bởi v́ người này vẫn tiếp tục bị ràng buộc với những sự vật đầu tiên này (tiền phẩm) qua các phiền năo biến hành - những phiền năo mà sự đoạn trừ chúng phải tùy thuộc vào kiến tập và vẫn c̣n liên hệ với những sự vật đầu tiên này.

Ở giai đoạn của Tu đạo vốn phải xả bỏ liên tục chín phẩm phiền năo, khi phẩm đầu tiên được đoạn trừ mà chưa phải là các phẩm khác th́ các phẩm này - vốn lấy phẩm đầu tiên làm phẩm sở duyên - vẫn tiếp tục ràng buộc.

(Hỏi) Có bao nhiêu tùy miên đeo bám (tùy tăng, anuśerate) mỗi sự vật?

(Đáp) Không thể bàn hết mọi chi tiết của vấn đề này. Các luận sư Tỳ-bà-sa (Vibhāṣā, 87, 5) đă tŕnh bày một cách vắn tắt như sau: Nh́n chung có thể nói rằng có mười sáu loại pháp (dharmas), tức mười sáu loại sự vật (vastu) mà các tùy miên đeo bám: Ở mỗi giới có năm nhóm (nhóm thuộc kiến khổ đoạn, v.v.); cộng thêm các pháp vô lậu (anāsrava). Số lượng các thức năng duyên (citta; vijñāna) cũng giống như vậy. Khi nắm được có bao nhiêu pháp khác nhau làm cảnh sở duyên (ālambana) cho một thức nào đó th́ có thể tính được có bao nhiêu loại tùy miên đeo bám các pháp này.

(Hỏi) Những pháp nào làm sở duyên cho những thức nào?

Tụng đáp:

見苦集脩斷                  若欲界所繫
      自界三色一                  無漏識所行
      色自下各三                  上一淨識境
      無色通三界                  各三淨識緣
      見滅道所斷                  皆增自識行
      無漏三界中                  後三淨識境.

[Các pháp thuộc kiến khổ tập Tu đoạn

Nếu hệ thuộc Dục giới

Là cảnh của ba thức tự giới, một thức Sắc giới,

Và thức vô lậu;

Nếu hệ thuộc Sắc giới là cảnh của ba thức tự giới, ba thức hạ giới,

Một thức thượng giới và tịnh thức;

Nếu hệ thuộc Vô sắc giới là cảnh

Của ba thức của mỗi giới và tịnh thức;

Nếu thuộc kiến diệt đạo đoạn

Đều tăng thêm thức thuộc tự loại;

Pháp vô lậu là cảnh

Của ba thức cuối của ba giới và tịnh thức.]  

Luận:  (1) Các pháp thuộc kiến sở đoạn, kiến tập đoạn và Tu đoạn của Dục giới là sở duyên của ba thức thuộc giới này, của một thức ở Sắc giới và của thức vô lậu.

Tất cả các pháp này là sở duyên của năm thức; gồm ba thức của Dục giới thuộc kiến khổ đoạn, kiến tập đoạn và Tu đoạn (abhyāsa); một thức của Sắc giới thuộc Tu đoạn; và thức vô lậu.

(2) Các pháp thuộc kiến khổ đoạn, kiến tập đoạn và Tu đoạn của Sắc giới là sở duyên của ba thức Sắc giới, của ba thức Dục giới, của một thức Vô sắc giới và của thức vô lậu.

Ba thức của Dục giới và của Sắc giới cũng giống như trên, tức đều thuộc về kiến khổ đoạn, kiến tập đoạn và Tu đoạn. Thức Vô sắc giới là thức thuộc về Tu đoạn. Tất cả các pháp này là sở duyên của tám thức.

(3) Các pháp thuộc về kiến khổ đoạn, kiến tập đoạn và Tu đoạn của Vô sắc giới là sở duyên của ba thức thuộc giới này và của thức vô lậu. Tất cả các pháp này là sở duyên của mười thức.

(4) Tất cả các pháp thuộc kiến diệt đoạn và Kiến đạo đoạn đều là sở duyên của cùng các thức này cộng thêm các thức thuộc về loại riêng của chúng.

(a) Các pháp Dục giới thuộc kiến diệt đoạn là sở duyên của năm thức nói trên, cộng thêm loại thức thuộc kiến diệt đoạn; như vậy tất cả là sáu thức. 

(b) Các pháp Dục giới thuộc Kiến đạo đoạn là sở duyên của năm thức nói trên, cộng thêm loại thức thuộc Kiến đạo đoạn; như vậy tất cả là sáu thức.

(c) Các pháp Sắc giới và Vô sắc giới thuộc kiến diệt đoạn và Kiến đạo đoạn là sở duyên của chín thức [nếu thuộc kiến diệt đoạn] và của mười một thức [nếu thuộc Kiến đạo đoạn].

(5) Các pháp vô lậu là sở duyên của ba thức cuối cùng của ba giới và của thức vô lậu.

Chúng là sở duyên của mười thức, tức là của các thức ở ba giới thuộc kiến diệt đoạn, Kiến đạo đoạn, thuộc Tu đoạn và của thức vô lậu.

Đây là hai bài tụng tóm tắt: “Các pháp trong ba giới thuộc kiến khổ đoạn, kiến tập đoạn và Tu đoạn, theo thứ tự của ba giới trên, là sở duyên của năm thức, của tám thức, của mười thức.”

“Về kiến diệt đoạn và Kiến đạo đoạn, hăy thêm vào một thức thuộc loại riêng của chúng. Các pháp vô lậu là sở duyên của mười thức”.

Trên đây là mười sáu loại pháp làm sở duyên của mười sáu loại thức. Đến đây phải xét xem những loại tùy miên nào đeo bám các loại pháp (sự, vastu) nào.

Nếu phân tích tất cả các trường hợp th́ quá chi ly v́ thế ở đây chỉ đưa ra một trường hợp đặc trưng:

(1)                                  Trong số các cảnh được chấp trước (sở hệ sự, sṃayogavastu), lạc căn (sukhendriya) có bao nhiêu tùy miên đeo bám?

Lạc căn có tất cả bảy loại: Một ở Dục giới, thuộc Tu đoạn; năm ở Sắc giới, thuộc cả năm nhóm (ngũ bộ); một thuộc vô lậu.

Lạc căn vô lậu không bị các tùy miên đeo bám.

Lạc căn ở Dục giới bị các tùy miên thuộc Tu đoạn và tất cả tùy miên biến hành đeo bám.

Lạc căn ở Sắc giới bị tất cả tùy miên biến hành đeo bám.

(2)                                  Có bao nhiêu tùy miên đeo bám loại thức lấy lạc căn làm sở duyên?

Có tất cả mười hai loại thức lấy lạc căn làm sở duyên: (a) bốn thức ở Dục giới thuộc cả bốn nhóm (tức loại trừ loại thức thuộc nhóm kiến diệt đoạn); (b) năm thức ở Sắc giới thuộc cả năm nhóm; (c) hai thức ở Vô sắc giới, gồm một thức thuộc Kiến đạo đoạn và một thức thuộc Tu đoạn; (Đáp) thuộc thức vô lậu.

Khi bị đeo bám, các thức theo thứ tự xếp loại (yathāsaṃbhavam) ở trên sẽ có: (a) Bốn nhóm tùy miên ở Dục giới; (b) các tùy miên ở Sắc giới lấy pháp hữu vi làm sở duyên; (c) hai nhóm tùy miên ở Vô sắc giới; (Đáp) các tùy miên biến hành. (Vibhāṣā, 88, 2)

(3)                                  Có bao nhiêu tùy miên đeo bám loại thức có cảnh sở duyên là một thức duyên lạc căn?

Chính mười hai loại thức duyên lạc căn vừa kể trên làm cảnh sở duyên của một trong số mười bốn loại thức, gồm mười hai loại giống như trên cộng thêm hai loại thức Vô sắc giới thuộc kiến khổ đoạn và kiến tập đoạn.

Khi bị đeo bám, các thức theo thứ tự [của mười bốn loại] này có (a) các tùy miên vừa được tŕnh bày ở trên nếu là trường hợp của hai giới đầu tiên, và (b) nếu là trường hợp của Vô sắc giới th́ cộng thêm bốn nhóm tùy miên (tức loại trừ nhóm tùy miên thuộc kiến diệt đoạn).

Các pháp c̣n lại (hai mươi hai căn) sẽ được loại suy từ tỷ dụ này.

(Hỏi) Nếu v́ có tùy miên mà tấm được gọi là “cùng với tùy miên” (hữu tùy miên, sānuśaya) th́ trong trường hợp này có phải các tùy miên đều tăng trưởng, “nằm ngủ” (tùy miên, anuśerate) trong loại tâm “hữu tùy miên” này?

(Đáp) Điều này không nhất định. Trong trường hợp “nằm ngủ” ở đó (santy anuśayānāḥ) là các tùy miên chưa đoạn, cảnh của chúng chưa đoạn và chúng tương ưng (saṃprayukta) với loại tâm này. Trường hợp không “nằm ngủ” là các tùy miên đă đoạn tương ưng với loại tâm này.  

有隨眠心二                  謂有染無染
      有染心通二                  無染局隨增

[Tâm “hữu tùy miên” có hai loại

Là nhiễm và vô nhiễm.

Tâm nhiễm có cả hai trường hợp;

Tâm vô nhiễm chỉ tùy tăng.]  

Luận:  Tâm nhiễm được gọi là “hữu tùy miên” là do (1) có các tùy miên “nằm ngủ” trong đó; chúng có tâm này tương ưng và có cảnh sở duyên chưa được đoạn trừ; (2) có các tùy miên không “nằm ngủ” trong đó; chúng đă được đoạn trừ và có tâm này tương ưng bởi v́ loại tâm này vẫn tiếp tục có các tùy miên này làm pháp câu hành (tatsahitatvāt).

Tâm vô nhiễm được gọi là tùy miên là do các tùy miên “nằm ngủ’” trong đó; chúng tương ưng với tâm và chưa được đoạn trừ.

(Hỏi) Mười tùy miên này sinh khởi theo thứ tự nào?

Tụng đáp:  

無明疑邪身                  邊見戒見取
      貪慢瞋如次                  由前引後生.

[Vô minh, nghi, tà kiến, thân kiến,

Biên kiến, giới cấm thủ, kiến thủ,

Tham, mạn, sân, theo thứ tự này,

Cái trước dẫn sinh cái sau.]

Luận:  Trước tiên v́ vô minh nên mê mờ (saṃmuhyate) đối với các đế, không muốn (icchati) quán sát Khổ Đế, không thừa nhận Khổ Đế. Từ mê mờ nên khởi nghi (vicikitsā); khi nghe nói về hai thuyết th́ không biết khổ là thật hay phi khổ là thật. Từ nghi nên khởi tà kiến (mithyādṛṣṭi), tức do sự giảng giải và suy nghĩ sai lạc mà dẫn đến sự quán xét rằng đây không phải là khổ. Từ tà kiến sinh khởi thân kiến (satkāyadṛṣṭi) bởi v́ khi không  nhận chân được các uẩn là khổ th́ sẽ xem chúng là những thành phần tạo thành ngă. Từ đó phát sinh biên chấp kiến (antagrāhadṛṣṭi), bởi v́ khi đă tin vào ngă th́ sẽ chấp ngă là thường hoặc đoạn. Từ đó có sự coi trọng giới luật và các cách tu tập (śīlavrataparāmarśa, giới cấm thủ) là phương tiện của sự thanh tịnh hóa, từ sự coi trọng này phát sinh sự coi thường các pháp thấp kém hơn (dṛṣṭiparāmarsa, kiến thủ). Từ đó khởi tham đối với kiến giải riêng của ḿnh (svadṛṣṭau), khởi kiêu mạn đối với kiến giải này; và rồi khởi sân (pratigha) bởi v́ khi chỉ biết đến kiến giải riêng của ḿnh th́ sẽ ghét bỏ các kiến giải đối nghịch lại của người khác. Có luận sư cho rằng ở đây sân (tăng hiềm) sinh khởi là do khi thay đổi (thủ xả) kiến giải riêng của ḿnh; v́ tham và các tùy miên khác thuộc Kiến đoạn đều lấy thân tương tục và kiến giải riêng của ḿnh làm sở duyên (svasaṃtānikadṛṣṭi).

(Hỏi) Phiền năo sinh khởi do bao nhiêu nhân?

Tụng đáp:

由未斷隨眠                  及隨應境現
      非理作意起                  說或具因緣.

[Do tùy miên chưa đoạn,

Sự xuất hiện của cảnh,

Và phi lư tác ư mà sinh khởi,

Nên nói là phải đủ nhân duyên.]  

Luận:  Tỷ dụ như trường hợp dục tham (kāmarāga) sinh khởi là (1) khi tùy miên tham (rāgānuśaya) chưa đoạn - tức sự thủ đắc (prāpti) loại tùy miên này chưa được chặt đứt - và chưa được tri nhận hoàn toàn (aparijñāta, vị biến tri) - tức sự ngăn ngại (pratipakṣa) chưa sinh; (2) khi các pháp giúp dục tham sinh khởi (kāmarāgaparyavasthānīya) như sắc, v.v., hiện tiền; (3) và khi có sự phán đoán sai lạc (ayoniśomanaskāra, phi lư tác ư).

Tùy miên là nhân (hetu), các pháp là cảnh (viṣaya), phi lư tác y là gia hành trực tiếp (prayoga): Đây là ba lực (bala) khác biệt nhau.

Sự sinh khởi của các phiền năo khác cũng như vậy. 

Trên đây là trường hợp các phiền năo sinh khởi do có đủ các nhân duyên; ngoài ra, phiền năo cũng có thể sinh khởi chỉ do lực của cảnh (viṣayabala), như trong trường hợp của các A-la-hán bị thối thất.

Theo khế kinh, chín mươi tám tùy miên cùng với mười triền (paryavasthānas) tạo thành ba lậu (āsravas) là Dục lậu (kāmāsrava), Hữu lậu (bhavāsvara), vô minh lậu (avidyāsrava); bốn bộc lưu (ogha) là dục bộc lưu (kāmaugha), hữu bộc lưu (bhavaugha), kiến bộc lưu (dṛṣṭyogha), vô minh bộc lưu (avidyaugha); bốn ách (yoga) là dục ách (kāmayoga), hữu ách (bhavayoga), kiến ách (dṛṣṭyoga), vô minh ách (avidyāyoga); bốn thủ (upādānas) là dục thủ (kāmopādāna), kiến thủ (dṛṣṭyupādāna), giới cấm thủ (śīlavratopādāna) và ngă ngữ thủ (ātmavādopādāna).

(Hỏi) thể của lậu là ǵ?

Tụng đáp:  

欲煩惱并纏                  除癡名欲漏
      有漏上二界                  唯煩惱除癡
      同無記內門                  定地故合一
      無明諸有本                  故別為一漏
      瀑流軛亦然                  別立見利故
      見不順住故                  非於漏獨立
      欲有軛并癡                  見分二名取
      無明不別立                  以非能取故.

[Phiền năo và triền của Dục giới,

Loại trừ si, được gọi là Dục lậu.

Hai giới ở trên, hữu lậu

Chỉ là phiền năo, nhưng loại trừ si,

Cùng có tánh vô kư, nội môn chuyển,

Và thuộc về định không hợp làm một.

Vô minh là gốc của các hữu

Nên lập riêng thành một lậu.

Bộc lưu và ách cũng vậy.

Kiến được lập riêng v́ mănh lợi;

V́ không thuận trụ

Nên không lập riêng thành lậu.

Dục ách, hữu ách cộng với si

Và hai kiến là các thủ;

Vô minh không được lập riêng; 

V́ không phải là năng thủ.]  

Luận:  Bốn mươi mốt sự vật (dravyas), tức các phiền năo của Dục giới - ngoại trừ năm loại si (avidyās) - cùng với mười triền chính là dục lậu.

Năm mươi hai sự vật của Sắc giới và Vô sắc giới, tức hai mươi sáu tùy miên của mỗi giới - ngoại trừ các loại si - chính là hữu lậu (bhavāsrava).

Tuy nhiên, ở hai giới trên lại có hai loại triền là hôn trầm (styāna) và trạo cử (auddhatya). Phẩm loại Túc luận (Prakaraṇa) viết: “Hữu lậu là ǵ? - Trừ vô minh ra, các kiết sử (saṃyojana), các hệ phược (bandhana), tùy miên, tùy phiền năo (kleśa) và các triền của Sắc giới và Vô sắc giới đều được gọi là hữu lậu.” Các luận sư Tỳ-bà-sa ở Kaśmīr cho rằng các triền không được kể đến như là một phần của hữu lậu bởi v́ ở hai giới này chúng không có tính chất tự tại.

(Hỏi) Tại sao các tùy miên ở hai giới trên được hợp chung thành một hữu lậu?

(Đáp) Chúng có ba tính chất chung là vô kư, hướng về bên trong (tức không phụ thuộc vào cảnh sở duyên: na viṣayapradhānāḥ), và đều thuộc về các cảnh giới của định cho nên chúng được hợp thành một loại lậu (āsrava). Và chúng c̣n được gọi là hữu lậu (bhavāsrava) v́ những lư do giống như trong trường hợp của hữu tham (bhavarāga).

Từ những ǵ được nói đến ở trên, có thể biết rằng chính mười lăm loại vô minh ở ba giới đă tạo thành vô minh lậu.

(Hỏi) Tại sao các vô minh được lập riêng thành một loại lậu?

(Đáp) V́ vô minh là gốc của tất cả tùy miên.

Bộc lưu và ách cũng được giải thích giống như cách giải thích về lậu. Nhưng kiến (dṛṣṭi) th́ lại tạo thành một loại bộc lưu và ách riêng v́ tính chất mănh lợi của chúng.

Dục lậu (rāgāsrava), ngoại trừ kiến, cũng chính là dục bộc lưu và dục ách; đối với hữu lậu (bhavāsrava) cũng thế, tức trừ kiến ra th́ hữu lậu cũng chính là hữu bộc lưu và hữu ách. Theo luận chủ, chính v́ tính chất mănh lợi (gsal-ba, paṭu) của chúng mà các kiến được lập thành một loại bộc lưu và ách riêng.

(Hỏi) Tại sao các kiến không được lập riêng thành một lậu?

(Đáp) Về ư nghĩa của lậu sẽ được giải thích ở dưới đây: Sở dĩ có tên như vậy là v́ các lậu giúp cho sự đ́nh trụ (āsayantīty āsravāṇāṃ nirvacanam). Nếu chỉ có một ḿnh (asahāya) các kiến th́ sẽ không thuận hợp với sự đ́nh trụ (āsana) bởi v́ chúng vốn mănh lợi. V́ thế kiến không thể được lập thành một loại lậu riêng biệt; chúng có tên trong nhóm các lậu nhưng được hợp chung với các tùy miên khác.

Như vậy có tất cả (1) hai mươi chín sự vật thuộc dục bộc lưu là năm tham, năm sân, năm mạn, bốn nghi và mười triền; (2) hai mươi tám sự vật thuộc hữu bộc lưu là mười tham, mười mạn và tám nghi; (3) ba mươi sáu sự vật thuộc kiến bộc lưu là mười hai kiến của mỗi giới trong ba giới; (4) mười lăm sự vật thuộc vô minh bộc lưu là năm vô minh của mỗi giới trong ba giới. Đối với các ách cũng như vậy.

Thủ có bốn loại: (1) Dục thủ gồm dục ách cộng thêm các vô minh của Dục giới; tức có tất cả ba mươi bốn sự vật là năm tham, năm sân, năm mạn, năm vô minh, bốn nghi và mười triền; (2) ngă ngữ thủ gồm hữu ách cộng thêm các vô minh của hai giới trên; tức có tất cả ba mươi tám sự vật là mười tham, mười sân, mười vô minh và tám nghi; (3) kiến thủ gồm các kiến ách nhưng trừ đi giới cấm thủ (śīlavrataparāmarśa), tức có tất cả ba mươi sự vật; (4) giới cấm thủ (śīlavratopādāna) gồm sáu sự vật c̣n lại của ách kiến.

(Hỏi) Tại sao lại tách rời giới cấm (śīlavrata) ra khỏi các kiến và lập thành một loại thủ riêng?

(Đáp) V́ giới cấm đối nghịch với Thánh đạo (mārgapratidvandva) và làm mê mờ (vipratilambhana) hai hạng (pakṣa): Không phải là Thánh đạo nhưng lại chấp là Thánh đạo nên hàng tại gia cho rằng có thể sinh lên cơi trời bằng cách nhịn ăn và hàng xuất gia th́ cho rằng có thể đắc được thanh tịnh (śuddhipratyāgamana) bằng cách từ bỏ các vật khả ái (Vibhāṣā, 48, 4).

(Hỏi) Nhưng tại sao vô minh không được lập thành một thủ riêng?

(Đáp) V́ vô minh không có khả năng chấp thủ. Nó có tính chất “bất liễu tri” (asaṃprakhyāna) lại không mănh lợi v́ thế không có khả năng chấp thủ (agrāhikā). Nếu là thủ th́ phải phối hợp với các phiền năo khác. 

(Hỏi) Nhưng Thế tôn có nói trong khế kinh: “Dục ách là ǵ? - Đối trước dục cảnh, những người không biết được nguồn gốc của chúng sẽ có dục tham (kāmarāga), dục dục (kāmacchanda), dục thân, dục ái, dục lạc, dục muộn, dục đam, dục thị, dục hỷ, dục tàng, dục tùy, dục trước triền áp tâm: Đó chính là dục ách”. Đối với các loại ách khác, Thế tôn cũng định nghĩa như vậy. Trong một kinh khác, ngài nói rằng dục tham (chandarāga) được gọi là thủ. V́ thế dục tham đối với các dục cảnh, các kiến, v.v., được gọi là dục thủ (kāmopādāna), v.v..

(Hỏi) Tùy miên, lậu, bộc lưu, ách, thủ có nghĩa là ǵ?

Tụng đáp:  

微細二隨增                  隨逐與隨縛
      住流漂合執                  是隨眠等義.

[Vi tế, tùy tăng theo hai cách

Tùy trục, tùy phược,

Làm đ́nh trụ, tuôn chảy, cuối trôi, đeo bám, nắm bắt,

Là ư nghĩa của tùy miên, v.v.]

Luận:  Khi các phiền năo hiện tiền, chúng có hành tướng rất khó tri nhận nên gọi là vi tế. Chúng đeo bám nhờ sự đeo bám của sự hoạch đắc (prāptis) được chúng: Chúng tùy tăng theo hai cách, vừa nương vào cảnh sở duyên vừa nương vào các pháp tương ưng. Chúng ràng buộc liên tục (tùy phược) bởi v́ cho dù trong trường hợp không cố gắng phát khởi hoặc ngay cả khi cố gắng ngăn chặn th́ các phiền năo vẫn tiếp tục sinh khởi. Tùy miên định đặt khiến cho chúng sinh đ́nh trụ (āsayanti) trong ṿng sinh tử (saṃsāra); chúng lưu chuyển (āsravanti, gacchanti) từ cơi trời cao nhất (bhavāgra, hữu đảnh) cho đến địa ngục Vô gián (Avīci); chúng chảy rỉ qua sáu căn như các vết thương nên có tên là lậu (āsravas). Chúng cuốn trôi (haranti) nên gọi là bộc lưu. Chúng làm cho hữu t́nh đeo bám (śleṣayanti) nên gọi là ách. Chúng nắm bắt (upādadati, upagṛhṇanti) nên gọi là thủ.

Cách giải thích hay nhất là như thế này: (1) Do các tùy miên mà chuỗi tâm tương tục trôi chảy (āsravati) qua các cảnh sở duyên (cảnh giới, viṣayeṣu); v́ thế mà tùy miên chính là lậu (āsrava). Điều này phù hợp với tỷ dụ của kinh (Saṃyukta, 18, 9): “Giống như khi phải nỗ lực lớn (mahātābhisaṃskāreṇa) để kéo một con thuyền đi ngược nước và cũng giống như khi các nổ lực này bị yếu dần đi (teṣāṃ saṃskārāṇāṃ pratipraśrabdhyā) th́ con thuyền lại bị cuốn theo (haryate) ḍng nước; [cũng vậy chính nhờ sự chịu khó mà chuỗi tâm tương tục được kéo ra khỏi các cảnh sở duyên bởi các thiện pháp.]” (2) Khi các tùy miên trở nên quá mănh liệt (thế tăng thượng) th́ được gọi là bộc lưu; bởi v́ chúng cuốn trôi những ǵ có ràng buộc với chúng (tadyukta) và những ǵ chịu sự tác động của chúng (tadanuvidhānāt). (3) Khi không hiện hành quá mănh liệt th́ các tùy miên được gọi là ách (anatimātrasamudācārin) bởi v́ chúng nối kết với đủ loại đau khổ của ḍng sinh tử hoặc v́ chúng đeo bám rất dai dẳng (abhikṣṇānusanga). (4) Các tùy miên c̣n được gọi là thủ bởi v́ nhờ có chúng mới có sự chấp dục (kāmādyupādāna), v.v..  

Phần 20

Trước đây trong phần nói về tùy miên và triền, Thế tôn chỉ nói đến các loại lậu (āsrava), bộc lưu (ogha), v.v. mà thôi hay c̣n có các loại khác?  

由結等差別                  復說有五種.

[Do sự khác nhau của kết, v.v.

Nên lại nói có năm loại.]

Luận:  V́ các phiền năo kết sử (saṃyojana), hệ phược (bandhana), tùy miên (anuśaya), tùy phiền năo (upakleśa), và triền (paryavasthāna) khác biệt nhau nên lại nói rằng có đến năm loại.

(Hỏi) Kết sử là ǵ?

Tụng đáp:  

結九物取等                  立見取二結
      由二唯不善                  及自在起故
      纏中唯嫉慳                  建立為二結
      或二數行故                  為賤貧因故
      遍顯隨惑故                  惱亂二部故.

[Chín kết có vật, thủ như nhau

Nên lập thành hai loại là kiến kết và thủ kết

Do tính chất bất thiện

Và tự tại sinh khởi nên

Trong số các triền, chỉ tật và kiên

Được lập thành hai loại kết;

Hoặc v́ hai loại này thường hiện hành,

V́ là nhân của sự nghèo hèn,

V́ hoàn toàn hiển lộ ở tùy phiền năo,

V́ năo loại hai bộ.]

Luận:  Có chín loại kết sử là ái (anunaya) khuể (pratigha), mạn (māna), vô minh (avidya), kiến (dṛṣṭi), thủ (parāmarśa), nghi (vicikitsā), tật (īrṣyā), kiên (mātsarya).

Ái kết (anunayasaṃyojana) là tham của cả tam giới (traidhātuka rāga). Tính chất của các loại c̣n lại được giải thích tùy theo từng trường hợp riêng của chúng; (tỷ dụ như các loại kết sử thứ hai, thứ tám và thứ chín chỉ có riêng ở Dục giới).

Kiến kết (dṛṣṭisaṃyojana) bao gồm ba loại kiến đầu tiên là thân kiến, biên chấp kiến và tà kiến.

Thủ kết (parāmarśasaṃyojana) bao gồm hai loại kiến cuối cùng là kiến thủ và giới cấm thủ.

Có một vấn đề được đặt ra ở đây: Có trường hợp một người bị trói buộc với các pháp tương ưng với kiến (tức các thọ, v.v. tương ưng với thủ) là chỉ do ái kết chứ không phải kiến kết, và trong lúc đó loại kiến tùy miên (dṛṣṭyanuśaya) lại không thể tùy tăng ở nơi các pháp này không? - Vẫn có trường hợp này. Chúng ta hăy xét đến trường hợp một người đă khởi cái biết về “tập” (tập trí, samudayajñāna) nhưng chưa khởi cái biết về “diệt” (diệt trí, nirodhajñāna). Lúc đó người này có khởi ái kết đối với các pháp tương ưng với các kiến (dṛṣṭ) về kiến thủ và giới cấm thủ, tức là các pháp được đoạn trừ bởi Diệt Đế và Đạo Đế. Người này lúc đó sẽ bị ràng buộc với các pháp này do bởi ái kết chứ không phải kiến kết; bởi v́ người này đă đoạn trừ loại kiến kết biến hành (sarvatraga) thuộc kiến khổ tập đoạn, và lúc đó không có loại kiến kết phi biến hành duyên các pháp này hoặc tương ưng với chúng. Tuy nhiên kiến tùy miên vẫn tùy tăng đối với các pháp này bởi v́ hai loại kiến và thủ (thủ kết) nếu chưa được đoạn th́ vẫn tùy tăng.

(Hỏi) Tại sao lập ba loại kiến đầu làm thành một loại kiết sử (kiến kết) và hai loại cuối cùng làm một loại kết sử khác (thủ kết)?

(Đáp) V́ có số lượng các sự vật (dravyas) bằng nhau, v́ đều có chung tính chất “thủ” (parāmarśa) nên hai loại kiến cuối cùng được lập riêng thành một kết.

Ba loại kiến đầu tiên tạo thành mười tám sự vật riêng biệt. Tà kiến thuộc Dục giới được đoạn trừ bởi mỗi một trong bốn đế; và hai loại kiến cuối cùng - gồm mười hai kiến thủ và sáu giới cấm thủ - cũng như vậy.

Khác với ba loại kiến đầu tiên, hai loại cuối cùng đều có thể tánh thuộc về thủ. Chúng lấy ba loại kiến đầu tiên làm cảnh nhưng ba loại đầu tiên lại không thể làm như vậy.

(Hỏi) Tại sao tật và kiên được lập thành hai loại kết khác nhau trong khi các loại triền khác lại không thể làm như vậy?

(Đáp) Tật và kiên được lập thành kết v́ trong số các triền th́ chúng là loại vừa có tánh bất thiện lại vừa sinh khởi tự tại - ở đây khi nói “tự tại” là hàm ư chúng chỉ bị ràng buộc với vô minh - trong khi các loại triền khác lại không có đủ cả hai tính chất này trong cùng một lúc. Có ư kiến cho rằng lư do trên chỉ hợp lư đối với các luận sư chỉ thừa nhận tám loại triền; đối với các luận sư thừa nhận có đến mười loại triền th́ lư do trên không giải quyết được khó khăn này bởi v́ phẫn (krodha) và phú (mrakṣa) đều có cùng lúc hai tính chất bất thiện và tự tại sinh khởi, và như vậy lẽ ra chúng cũng được xếp vào loại kết sử.

Ở các nơi khác (Madhyama, 56, 12; Majjhima, i. 432; Saṃyukta, 21, 21), Thế tôn nói rằng trong số các kết sử có năm kết sử thuộc “phần dưới” (thuận hạ phần).  

又五順下分                  由二不超欲
      由三復還下                  攝門根故三
      或不欲發趣                  迷道及疑道
      能障趣解脫                  故唯說斷三.

[Lại có năm kết thuộc loại thuận hạ phần,

V́ hai kết không vượt được Dục giới,

Và ba kết phải trở lại Dục giới.

V́ bao hàm môn, căn nên chỉ có ba;

Hoặc v́ sự không muốn đi,

Sự mê mờ và nghi ngờ chính đạo

Thường chướng ngại sự đi đến giải thoát

Nên chỉ nói đoạn ba.]

Luận:  Năm loại này là hữu thân kiến, giới cấm thủ, nghi, dục tham (kāmacchanda) và sân khuể (vyāpādā). Chúng được gọi là thuận hạ phần (avarabhāgīya) bởi v́ chúng có liên hệ và thuận hợp với “phần ở phía dưới” (avarabhāga), tức chỉ cho Dục giới (Vibhāṣā, 49, 2).

Như vậy trong số này có hai kiết sử khiến cho người ta không thể vượt qua được Dục giới và ba kết sử khiến cho người ta phải trở lại Dục giới.

Dục tham và sân khuể ngăn chận sự xuất ly Dục giới; thân kiến và hai loại kết sử c̣n lại làm cho những người đă xuất ly Dục giới phải trở lại ở đó; chúng không giống như viên cai ngục và các ngục tốt.

Các ư kiến khác cho rằng v́ ba kết sử trên mà người ta không thể thoát khỏi t́nh trạng tồn tại một cách thấp hèn (sattvāvaratā), tức chỉ cho tính chất của dị sinh (Pṛthagjana); và v́ hai loại kết sử trên mà người ta không thể thoát ra khỏi cảnh giới ở bên dưới, tức chỉ cho Dục giới; đây là lư do tại sao năm loại này có tên là “hạ phần”. 

(Hỏi) Thế tôn có nói đắc được quả Dự lưu (Srotāpanna) là nhờ đoạn trừ toàn bộ ba kết sử được nói đến ở trên (paryādāya trisaṃyojanaprahāṇāt); nhưng nếu là Dự lưu th́ cũng phải đoạn trừ thêm ba loại kiến là biên chấp kiến, tà kiến và kiến thủ. Như vậy đối với trường hợp của dị sinh, lẽ ra Thế tôn phải gọi các kiến này là kết sử?

(Đáp) Lẽ ra phải như vậy nhưng v́ ba loại đầu có bao hàm cả “cửa” và căn (nhiếp môn căn). Có ba nhóm phiền năo (kleśa): (1) Nhóm đơn (duy nhất thông, ekaprakāra) được đoạn trừ bởi kiến Khổ Đế, tức thân kiến và biên chấp kiến; (2) nhóm đôi (nhị thông) được đoạn trừ bởi kiến Khổ Đế và Kiến đạo Đế, tức giới cấm thủ; (3) nhóm bộ tứ (tứ bộ) được đoạn trừ bởi kiến Tứ Đế, tức nghi, tà kiến và kiến thủ. V́ thế khi nói đến ba loại kết sử đầu tiên, Thế tôn có ư chỉ cho “cánh cửa” của các phiền năo khác, tức là nơi bắt đầu của mỗi một nhóm phiền năo. Ngài cũng có ư chỉ cho căn bởi v́ biên chấp kiến vận hành được (pravartita) là nhờ thân kiến; kiến thủ vận hành được là nhờ giới cấm thủ, và tà kiến vận hành được là nhờ nghi.

Có thuyết cho rằng sở dĩ ba kết này được nói đến là v́ có ba sự việc ngăn ngại giải thoát là sự không muốn đi (bất dục phát), sự mê mờ chánh đạo, và sự nghi ngờ chánh đạo. Cũng giống như trên thế gian ba sự việc này có thể ngăn cản sự đi đến một nơi khác th́ đối với Thánh đạo chúng cũng có thể có sự ngăn ngại như vậy: (1) Thân kiến gây ra sự sợ hăi đối với giải thoát và khiến người ta không muốn đạt đến đó; (2) giới cấm thủ th́ v́ nương vào một con đường tu tập khác nên làm cho người ta bị mê mờ chánh đạo; (3) và nghi chính là sự nghi ngờ đối với chánh đạo. Thế tôn v́ muốn dạy rằng hàng Dự lưu đă đoạn trừ được ba loại chướng ngại này cho nên mới nói là họ đă đoạn trừ ba kết sử.

Giống như trường hợp của năm kết sư “thuận hạ phần”, Thế tôn cũng đă dạy về năm loại kiết sử “thuận thượng phần”.  

順上分亦五                  色無色二貪
      掉舉慢無明                  令不超上故.

[Thuận thượng phần cũng có năm kết

Là hai loại tham thuộc sắc và Vô sắc giới,

Trạo cử, mạn, và vô minh

V́ cản trở sự vượt qua thượng giới.]

Luận:  Năm kiết sử này được gọi là “thượng phần”. Điều này hàm ư người ta không thể vượt qua các giới ở trên (thượng giới) nếu chưa đoạn được các kiết sử này. Đến đây đă kết thúc phần nói về kiết sử.

(Hỏi) Có bao nhiêu loại phược?

Tụng đáp:  

縛三由三受

[Có ba loại phược v́ có ba thọ]  

Luận:  Phược có ba loại là tất cả các tham (rāga), tất cả các sân (dveṣa), và tất cả các si (moha).

(Hỏi) tại sao chỉ có ba loại này được gọi là phược?

(Đáp) Là v́ có ba thọ. Tham tùy tăng theo lạc thọ, lấy lạc thọ làm sở duyên và tương ưng với nó; đối với khổ thọ th́ có sân; đối với xả thọ th́ có si; và cũng có cả tham lẫn sân nhưng không bằng si. Hoặc khi nói “có ba phược v́ có ba thọ” là nhằm chỉ cho loại cảm thọ cá nhân (tự tương tục).

(Hỏi) Đă giải thích về phược, vậy tùy miên là ǵ?

Tụng đáp:  

隨眠前已說.

[Tùy miên đă được nói ở trên.]  

Luận:  [Tùy miên có sáu loại, bảy loại, mười loại, hoặc chín mươi tám loại như đă nói ở trên.]

(Hỏi) Tùy phiền năo là ǵ?

Tụng đáp:  

隨煩惱此餘                  染心所行蘊.

[Ngoài số này ra tùy phiền năo 

C̣n là các nhiễm tâm sở thuộc hành uẩn.]

 

Luận:  Các phiền năo c̣n được gọi là tùy phiền năo (upakleśa) v́ chúng làm cho tâm nhiễm ô (cittopakleśanāt = cittakleśakaraṇāt).

Ngoài phiền năo ra, các tâm sở nhiễm ô thuộc về hành uẩn (saṃskāraskandha) cũng được gọi là tùy phiền năo; có nghĩa là các tâm sở này được t́m thấy ở cạnh phiền năo hoặc các phiền năo được t́m thấy ở cạnh chúng. Chúng không phải là phiền năo bởi v́ chúng không phải là căn; và đă được nói đến ở kinh Tạp sự (Kṣudravastuka).

Tiếp theo đây sẽ là phần tŕnh bày sự liên hệ giữa phiền năo với các triền và phiền năo cấu (kleśamalas).  

纏八無慚愧                  嫉慳并悔眠
      及掉舉惛沈                  或十加忿覆
      無慚慳掉舉                  皆從貪所生
      無愧眠惛沈                  從無明所起
      嫉忿從瞋起                  悔從疑覆諍.

[Tám triền là vô tàm, vô quư,

Tật, kiên, hối, miên,

Trạo cử và hôn trầm;

Hoặc mười triền nếu kể thêm phẫn và phú.

Vô tàm, kiên, trạo cử,

Đều sinh khởi từ tham;

Vô quư, miên, hôn trầm,

Do vô minh sinh khởi;

Tật và phẫn sinh khởi từ sân;

Hối từ nghi; phú từ tránh.]  

Luận:  Phiền năo c̣n được gọi là triền như trong khế kinh có nói: “Người ta trải quả một nỗi khổ xuất phát từ triền; triền này chính là tham.”

Phẩm loại Túc luận dạy rằng có tám loại triền; Tỳ-bà-sa lại nói đến mười loại, tức thêm vào phẫn (krodha) và phú (mrakṣa): (1) - (2) vô tàm (āhrīkya) và vô quư (anapatrāpya) giống như đă được giải thích trước đây; (3) tật (īrṣyā) là tâm đố kỵ trước sự hưng thịnh của người khác; (4) kiên (mātsarya) là tâm keo kiệt, đi ngược lại sự bố thí về pháp (dharma) và tài vật (āmiṣa); (5) trạo cử (auddhatya) giống như đă tŕnh bày ở trước; (6) hối (kaukṛtya) có hai loại thiện và bất thiện nhưng chỉ có loại nhiễm ô mới gọi là triền; (7) hôn trầm (styāna), giống như đă được tŕnh bày ở trước; (8) miên (middha) là sự bạc nhược, sự dằn nén (abhisaṃkṣepa) của tâm khiến cho tâm không c̣n khả năng điều khiển thân (kāyasaṃdhāraṇa); miên có ba loại là thiện, nhiễm và vô kư nhưng chỉ có loại nhiễm ô được gọi là triền; (9) phẫn là tâm giận dữ đối với chúng sinh (sattva, t́nh) cũng như với các sự vật (asattva, phi t́nh); nhưng không giống như sân (vyāpāda) và hại (vihiṃsā); (10) phú là sự che dấu lỗi lầm của ḿnh.

(Hỏi) Nguồn gốc của các triền là ǵ?

(Đáp) Vô tàm (āhrīkya), trạo cử (auddhatya), và kiên (mātsarya) xuất phát từ tham (rāga); hôn trầm (styāna), miên (middha), và vô quư (anapatrāpya) xuất phát từ vô minh (avidyā); hối (kautṛtya) xuất phát từ nghi (vicikitsā); tật (īrṣyā) và phẫn (krodha) xuất phát từ sân (pratigha). Ở đây khi nói “xuất phát” là hàm ư “tuôn chảy” (niṣyanda, đẳng lưu). Về phú (mrakṣa) đă có nhiều ư kiến trái ngược nhau. Có người cho rằng phú xuất phát từ ái (tṛṣṇā); có người cho rằng xuất phát từ vô minh; có người cho rằng có thể xuất phát từ ái hoặc vô minh tùy theo trường hợp liễu tri hay không liễu tri.

Như vậy mười tùy phiền năo trên đây chính là đẳng lưu của các phiền năo.

[Các phiền năo cấu tiết ra từ các phiền năo, cũng giống như các chất cấu bẩn tiết ra từ thân thể.] Như vậy các phiền năo cấu là ǵ?

煩惱垢六惱                  害恨諂誑憍
      誑憍從貪生                  害恨從瞋起
      惱從見取起                  諂從諸見生.

[Sáu phiền năo cấu là năo,

Hại, hận, siễm, cuống, kiêu.

Cuống, kiêu, khởi từ tham

Hại, hận khởi từ sân;

Năo khởi từ kiến thủ;

Siễm khởi từ các kiến.]  

Luận:  Cuống (māya) lừa phỉnh người khác (paravañcanā); siễm (śāṭhya) là sự không thẳng thắn của tâm khiến cho người ta không nói đúng sự thật hoặc là không chịu bác bỏ những lúc cần phải bác bỏ, hoặc là giải thích theo một cách mơ hồ; kiêu (mada), giống như đă được tŕnh bày ở trước; năo (pradāśa) là sự cố chấp việc ác (sāvadyavastuparāmarśa, chấp chư hữu tội sự) khiến cho người ta không chịu nghe theo các lời khuyên can; hận (upanāha) là sự thù hận; hại (vihiṃsā) là sự oán ghét được biểu hiện qua các việc làm và lời nói có hại cho người khác.

Cuống và kiêu xuất phát từ tham; hận và hại xuất phát từ sân; năo xuất phát từ kiến thủ (dṛṣṭiparāmarśa); siễm xuất phát từ kiến.

Siễm là đẳng lưu của kiến (dṛṣṭi) bởi v́ có bài tụng nói: “Sự khuất khúc (kauṭilya) là ǵ? - Đó là ác kiến”.

Triền và cấu sinh khởi từ phiền năo; v́ thế chúng được gọi là tùy phiền năo.

(Hỏi) Tùy phiền năo được đoạn trừ như thế nào?

Tụng đáp:

纏無慚愧眠                  惛掉見修斷
      餘及煩惱垢                  自在故唯修.

[Các triền vô tàm, vô quư, miên,

Trôn trầm, trạo cử thuộc kiến tu sở đoạn;

Các triền c̣n lại và phiền năo cấu

Vốn tự tại nên chỉ thuộc Tu đoạn.]

Luận:  Trong số mười triền nói trên th́ năm loại đầu tiên - bắt đầu từ vô tàm (āhrikya) - v́ tương ưng với hai phiền năo nên được đoạn trừ bởi Kiến đạo và Tu đạo. Chúng được đoạn trừ bởi Kiến đạo khi loại phiền năo mà chúng tương ưng cũng thuộc về Kiến đoạn. Số c̣n lại (tật, v.v.) chỉ được đoạn trừ bởi Tu đạo v́ chúng thuộc loại “tự tại” (svatantra) và chỉ tương ưng với vô minh. Các phiền năo cấu cũng được đoạn trừ giống như vậy.

(Hỏi) Có phải tất cả tùy phiền năo đều thuộc tánh bất thiện?

Tụng đáp:  

欲三二餘惡                  上界皆無記.

[Ba tùy phiền năo ở Dục giới

Thuộc hai tánh; số c̣n lại là ác;

(tùy phiền năo) ở thượng giới đều thuộc tánh vô kư]  

Luận:  Hôn trầm, trạo cử và miên thuộc tánh bất thiện và vô kư. Bên trên Dục giới, ở nơi nào có các tùy phiền năo th́ ở nơi đó chỉ có loại vô kư (avyākṛta).

(Hỏi) Có bao nhiêu tùy phiền năo ở các giới khác nhau?

Tụng đáp:

諂誑欲初定                  三三界餘欲.

[Siễm, cuống ở Dục giới và sơ định;

Ba loại ở cả ba giới; số c̣n lại thuộc Dục giới.]  

Luận:  Siễm và cuống chỉ có ở hai giới là Dục giới và Sắc giới. Không thể nghi ngờ về điều này bởi v́ Đại phạm vương (Mahābrahman) đă có ư lừa phỉnh Bí-sô Mă thắng (Āyuṣman Aśvajit) khi tự đưa ra một định nghĩa không chính xác. Điều này đă được nói đến trước đây nhưng v́ có liên quan đến tùy phiền năo nên được nhắc lại ở đây. Ba loại hôn trầm, trạo cử, và kiêu có ở cả ba giới. Trong số mười sáu tùy phiền năo - mười triền và sáu cấu - th́ mười một loại chỉ tồn tại ở Dục giới; tức loại trừ siễm, cuống, hôn, trầm, trạo cử và kiêu.

(Hỏi) Trong số các phiền năo và tùy phiền năo, có bao nhiêu loại chỉ có ở giới địa của ư căn (manas), và có bao nhiêu loại ở giới địa của sáu thức (ṣaḍvijñānabhūmika)?

Tụng đáp:   

見所斷慢眠                  自在隨煩惱
      皆唯意地起                  餘通依六識.

[Loại thuộc Kiến đoạn, mạn, miên,

Và các tùy phiền năo tự tại,

Đều khởi từ ư địa;

Số c̣n lại nương vào sáu thức.]

 

Luận:  Các phiền năo và tùy phiền năo thuộc Kiến đoạn chỉ nương vào ư thức (manovijñāna); mạn và miên, vốn thuộc Tu đoạn, cũng có sở y là ư thức bởi v́ cả hai loại này đều là giới địa của ư ở cả ba giới. Các tùy phiền năo “tự tại” thuộc tu sở đoạn cũng thế.

Các phiền năo và tùy phiền năo khác đều nương vào sáu thức. Đó là tham thuộc Tu đoạn, sân, vô minh; các tùy phiền năo tương ưng với chúng là vô tàm, vô quư, hôn trầm, trạo cử, và các phiền năo thuộc nhóm đại phiền năo địa pháp.

(Hỏi) Phiền năo và tùy phiền năo tương ưng (saṃprayukta) với những loại căn nào của thọ?

(Đáp) Trước hết hăy kể đến các phiền năo thuộc Dục giới: 

欲界諸煩惱                  貪喜樂相應
      瞋憂苦癡遍                  邪見憂及喜
      疑憂餘五喜                  一切捨相應
      上地皆隨應                  遍自識諸受.

[Các phiền năo Dục giới

Có tham tương ưng với hỷ và lạc;

Sân tương ưng với ưu và khổ;

Si tương ưng với tất cả;

Tà kiến tương ưng với ưu và hỷ;

Nghi tương ưng với ưu; năm phiền năo c̣n lại tương ưng với hỷ

Tất cả đều tương ưng với xả.

Ở thượng địa th́ tương ưng 

Với các thọ phù hợp với loại thức riêng của chúng.]

Luận:  Tham tương ưng với lạc căn (sukhendriya) và hỷ căn (saumanasyendriya), sân (pratigha = dveṣa) tương ưng với khổ căn (duḥkhendriya) và ưu căn (daurmanasyendriya); bởi v́ tham và sân có hành tướng là sự hoan hỷ hoặc sự âu lo (harṣa, dainyākāravartin), và v́ cả hai đều thuộc về sáu thức.

Vô minh tương ưng với tất cả năm thọ v́ tương ưng với tất cả các phiền năo.

Tà kiến tương ưng với ưu trong trường hợp của người có tạo tác thiện nghiệp nhưng đă âu lo v́ các nghiệp này không sinh quả; trong trường hợp của người tạo nghiệp ác th́ tương ưng với hỷ.

Nghi tương ưng với ưu bởi v́ khi đă nghi ngờ tức mong muốn biết được thật chính xác (cầu quyết định tri).

Các phiền năo khác, tức các kiến ngoại trừ tà kiến và mạn, đều tương ưng với hỷ v́ chúng có hành tướng là sự hoan hỷ.

(Hỏi) Những tùy miên nào đă được bàn đến từ trước đến nay?

(Đáp) Đó là các tùy miên thuộc Dục giới. Sau khi tŕnh bày sự khác nhau của các tùy miên này, luận chủ đă đưa ra một tính chất chung là tất cả các tùy miên này đều tương ưng với xả căn (upekṣendriya) bởi v́ vào lúc chuỗi tương tục các phiền năo bị suy kiệt th́ nhất định phải có xả (upekṣā saṃtiṣṭhate).

(Hỏi) Đối với các phiền năo ở thượng địa th́ như thế nào?

(Đáp) Chúng sẽ tương ưng với loại thọ phù hợp với chúng bất cứ khi nào có loại thọ này hiện hữu.

Ở tầng thiền thứ nhất - nơi có bốn loại thức (vijñāna) nhăn, nhĩm thân và ư - các tùy miên sinh khởi cùng với mỗi một trong số các thức này sẽ tương ưng với loại thọ phù hợp với loại thức này: Như vậy sẽ có (1) lạc thọ tương ưng với nhăn thức, nhĩ thức và thân thức; (2) hỷ thọ tương ưng với ư thức; (3) xả thọ tương ưng với cả bốn thức.

Ở tầng thiền thứ hai, v.v. - nơi chỉ có ư thức - th́ các tùy miên sinh khởi cùng với loại thức này đều tương ưng với các thọ phù hợp với thức này ở tầng thiền riêng của ḿnh: Như vậy ở tầng thiền thứ hai sẽ có hỷ và xả; ở tầng thiền thứ ba có lạc và xả; tầng thiền thứ tư và các tầng thuộc Vô sắc giới chỉ có xả.

Về các tùy phiền năo:   

諸隨煩惱中                  嫉悔忿及惱
      害恨憂俱起                  慳喜受相應
      諂誑及眠覆                  通憂喜俱起
      憍喜樂皆捨                  餘四遍相應.

[Trong các tùy phiền năo,

Tật, hối, phẫn, năo,

Hại, hận đều cùng khởi với ưu; 

Kiên tương ưng với hỷ thọ;

Siễm, cuống, miên, phú

Cùng khởi với ưu và hỷ;

Kiêu tương ưng với hỷ lạc;

Tất cả đều tương ưng với xả;

Bốn loại c̣n lại tương ưng với tất cả các thọ.]

Luận:  Sáu tùy phiền năo tật, hối, phẫn, năo, hại và hận đều tương ưng với ưu v́ chúng đều có hành tướng là sự lo âu và đều thuộc về giới địa của ư.

Kiên tương ưng với hỷ và có hành tướng là sự hoan hỷ v́ kiên xuất phát từ sự ham muốn (lobhānvayatvena).

Siễm, cuống, miên, phú, ưu tương ưng với hỷ trong trường hợp lừa phỉnh người khác với tâm hoan hỷ nhưng nếu lừa phỉnh với tâm lo âu th́ lại tương ưng với ưu.

Kiêu tương ưng với hỷ và lạc. Ở tầng thiền thứ ba, kiêu tương ưng với lạc thọ; ở các địa phía dưới th́ tương ưng với hỷ; ở các địa trên th́ tương ưng với xả.

Như vậy, tất cả đều tương ưng với xả; cũng giống như trường hợp tất cả các phiền năo và tùy phiền năo đều tương ưng với vô minh và không có trường hợp ngoại lệ.

Bốn triền là vô tàm, vô quư, hôn trầm và trạo cử đều tương ưng với năm thọ bởi v́ hai loại triền đầu thuộc nhóm đại bất thiện địa pháp (akuśalamahābhūmika), hai loại sau thuộc nhóm đại phiền năo địa pháp (kleśamahābhūmika).

Khi phân tích từ một quan điểm khác (y dị môn) th́ khế kinh (Saṃyukta, 26, 28; Ekottara, 24, 2) lại tuyên bố rằng có năm loại chướng ngại (nīravaṇas) trong số các phiền năo và tùy phiền năo được nói ở trên:   

蓋五唯在欲                  食治用同故
      雖二立一蓋                  障蘊故唯五.

[Cái chỉ có ở Dục giới

V́ cùng có thực, trị, và dụng giống nhau.

Tuy hai loại lập thành một cái 

Nhưng v́ chướng ngại các uẩn nên chỉ có năm cái.]  

Luận:  Năm cái là dục tham (kāmacchanda), sân khuể (vyāpāda), hôn miên (styānamiddha), trạo hối (auddhatyakaukṛtya) và nghi (vicikitsā).

(Hỏi) Ba loại hôn, trạo và nghi được nói đến ở đây chỉ có ở Dục giới hay ở cả ba giới?

(Đáp) Khế kinh (Saṃyutta, v. 145) nói rằng tất cả các cái đều thuộc tánh bất thiện v́ thế chỉ có ở Dục giới.

(Hỏi) Tại sao hôn trầm và miên cũng như trạo cử và hối lại được lập thành hai loại cái riêng?

(Đáp) Được lập thành một cái là chúng có cùng thức ăn, sự đối trị và tác dụng như nhau.

Ở đây khi nói “đối trị” (vipakṣa) là có ư chỉ cho sự “ngược lại” (pratipakṣa), tức những ǵ chống lại thức ăn.

Kinh dạy rằng hôn trầm và miên có cùng một loại thức ăn, một loại chống lại thức ăn (anāhāra).

(Hỏi) Thức ăn của hôn trầm và miên là ǵ?

(Đáp) Đó là năm pháp đặng mông (tandrī), bất lạc (arati), tần thân (vijṛmbhikā), thực bất b́nh (bhakte śamatā), tâm muội liệt (cetaso līnatva).

(Hỏi) Loại chống lại thức ăn của hôn trầm và miên là ǵ?

(Đáp) Đó là quang minh tưởng (ālokasaṃjñā).

Hôn trầm và miên đều có chung tác dụng (kṛtya kriyā) là làm cho tâm mê muội (līna).

Giống như hôn trầm và miên, trạo cử và hối cũng có chung một loại thức ăn, loại chống lại thức ăn, và có chung tác dụng. Loại thức ăn là bốn pháp thân lư tầm (jñātivitarka), quốc độ tầm (janapadavitarka), bất tử tầm (amaravitarka), sự nhớ lại những việc vui thích đă làm trong quá khứ (pūrva ... saṃsargacaryānusmṛti); loại chống lại thức ăn là sự tịch tĩnh (śamatha); tác dụng là làm cho tâm không được tịch tĩnh.

(Hỏi) Tất cả các phiền năo đều là cái (nivaraṇa); tại sao kinh chỉ nói đến năm loại trên?

(Đáp) V́ chúng hủy hoại các uẩn và v́ nghi. Dục tham (kāmacchanda) và khuể (vyāpāda) hủy hoại giới uẩn (śīlaskandha); hôn miên hủy hoại tuệ uẩn (prajñāskandha); trạo hối hủy hoại định uẩn (samādhiskandha). V́ không có tuệ và định nên khởi nghi đối với Tứ Đế.

(Hỏi) Nếu giải thích trên là chính xác th́ trong số các cái, trạo hối vốn là loại chướng ngại định lẽ ra phải được nói đến trước loại hôn miên. Và nếu theo thứ tự như vậy th́ hai loại cái trên sẽ hủy hoại các uẩn thuộc định và tuệ bởi v́ tác hại đối với những người tu (prayukta) định chính là hôn miên; và tác hại đối với những người tu tuệ (dharmapravicaya, trạch pháp = prjñā) chính là trạo hối.

Có luận sư lại đưa ra một giải thích khác.

(Hỏi) Họ giải thích như thế nào?

(Đáp) Một người tu vào lúc đi (varāgata, hành vị) th́ tri nhận một sự vật khả ái hoặc không khả ái và biết đó là khả ái hoặc không khả ái; nhưng khi người này đ́nh trụ (vihāragata) th́ dục tham và sân khuể vốn sinh khởi từ ấn tượng khả ái hoặc không khả ái này trước tiên sẽ gây chướng ngại cho sự nhập định của người này. Sau đó khi đă nhập định, th́ v́ không thể tu tập chỉ quán nên lại khởi hôn miên, trạo hối lần lượt ngăn ngại định (samādhi = śamatha) và tuệ (prjñā = vipaśyanā, tỳ-bát-xá-na). Cuối cùng vào lúc xuất định, khi tư trạch các pháp (dharmanidhyānakāta) th́ nghi (vicikitsā) lại gây ra chướng ngại. V́ thế chỉ lập thành năm loại cái.

Ở đây có một vấn đề cần suy nghĩ là chúng ta hăy xét đến các phiền năo biến hành thuộc về một giới địa khác (visabhāgadhātusarvatraga) - tức là các phiền năo tạo thành nhóm tà kiến (mithyādṛṣṭi), v.v., thuộc kiến khổ tập đoạn, và có sở duyên là hai giới ở trên. Sở duyên này được tri nhận hoàn toàn (prajñāyate, biến tri) nhờ vào Khổ loại trí và Tập loại trí (anvayajñānas) có sở duyên là các giới địa ở trên. Tuy nhiên không phải các phiền năo nói trên được đoạn trừ vào lúc sinh khởi hai loại trí này bởi v́ các phiền năo này vốn cũng có sở duyên là Dục giới (kāmāvacaratvāt) cho nên đă được đoạn trừ trước đó bởi khổ pháp trí và tập pháp trí vốn sinh khởi trước Loại trí (anvayajñānas).

Ngược lại đối với các phiền năo có sở duyên hữu lậu (sāsravālambana) và thuộc kiến diệt đạo đoạn - tức là các phiền năo thuộc nhóm kiến thủ (dṛṣṭiparāmarśa) - th́ không phải chúng được đoạn trừ vào lúc sở duyên của chúng [tức là nhóm tà kiến thuộc kiến diệt đạo đoạn] được biến tri [nhờ có khổ tập loại trí hoặc khổ tập pháp trí] mà chúng chỉ được đoạn trừ về sau nhờ vào kiến diệt và Kiến đạo.

(Hỏi) Như vậy làm sao có thể nói rằng hai nhóm phiền năo này được đoạn trừ bởi cái biết về sở duyên (ālambanaparijñānāt, biến tri sở duyên)?

(Đáp) Không phải tất cả phiền năo chỉ được đoạn trừ bởi sở duyên trí mà chúng c̣n có thể được đoạn trừ theo bốn cách:   

遍知所緣故                   斷彼能緣故
      斷彼所緣故                  對治起故斷.

[Do biến tri sở duyên,

Đoạn trừ năng duyên, đoạn trừ sở duyên, và đối trị khởi nên đoạn.]  

Luận:  Các phiền năo thuộc Kiến đoạn được đoạn trừ bởi: (1) Biến tri sở duyên: Đây là trường hợp của (a) các phiền năo duyên vào giới địa mà chúng hệ thuộc (svabhūmyālambana), được đoạn trừ bởi kiến khổ tập; và (b) các phiền năo có sở duyên vô lậu, được đoạn trừ bởi kiến diệt đạo.

(2) Sự đoạn trừ loại phiền năo có các phiền năo thuộc Kiến đoạn (kiến sở đoạn hoặc) được nói đến ở trên làm sở duyên; loại phiền năo này chính là các phiền năo biến hành ở một giới địa khác (visabhāgadhātusarvatraga) thuộc kiến khổ tập đoạn. Các “kiến sở đoạn hoặc” là sở duyên của loại phiền năo biến hành ở giới địa riêng của chúng (sabhāgadhātu, tự giới): Có nghĩa là nhờ loại phiền năo này được đoạn trừ nên các phiền năo trên mới được đoạn trừ. 

(3) Sự đoạn trừ sở duyên của các “kiến sở đoạn hoặc”; tức là các phiền năo có một sở duyên hữu lậu và thuộc loại kiến diệt đạo đoạn. Các phiền năo này duyên loại phiền năo có sở duyên vô lậu; và khi loại phiền năo (có sở duyên vô lậu) này được đoạn trừ th́ các phiền năo kia cũng được đoạn trừ.

Các phiền năo thuộc Tu đoạn được đoạn trừ bởi sự sinh khởi của pháp đối trị (pratipakṣodayātkṣayaḥ). Khi loại Thánh đạo đối nghịch với nhóm phiền năo nào đó được sinh khởi th́ nó sẽ giúp đoạn trừ nhóm phiền năo này.

(Hỏi) Loại Thánh đạo nào đối trị nhóm phiền năo nào?

(Đáp) Điều này sẽ được giải thích chi tiết: “Loại Thánh đạo thuộc hạ hạ phẩm đối trị nhóm phiền năo thuộc thượng thượng phẩm… loại Thánh đạo thuộc thượng thượng phẩm đối trị nhóm phiền năo thuộc hạ hạ phẩm”.

(Hỏi) Có bao nhiêu loại đối trị?

Tụng đáp:  

對治有四種                  謂斷持遠厭.

[Đối trị có bốn loại

Là đoạn, tŕ, viễn, yếm.]  

Luận:  Pháp đối trị có bốn loại: (1) Đoạn đối trị (prahāṇapratipakṣa) chính là vô gián đạo (ānantaryamārga); (2) tŕ đối trị (adhārapratipakṣa) là loại Thánh đạo (vimuktimārga) đi liền sau Thánh đạo trên và có công năng tŕ giữ sự đoạn trừ mà Thánh đạo trên đă đắc được; (3) viễn phần đối trị (dirībhāvapraptipakṣa) là loại Thánh đạo đi liền sau giải thoát đạo và có công năng giúp xa ĺa sự hoạch đắc (prāpti) các phiền năo đă được đoạn trừ trước đây (sở đoạn hoặc đắc). Có luận sư cho rằng giải thoát đạo cũng thuộc loại viễn phần đối trị bởi v́ nó cũng có công năng xa ĺa sự hoạch đắc phiền năo; (4) yếm đoạn đối trị (vidūṣaṇāpraptipakṣa) là loại Thánh đạo làm cho chán ghét (vidūṣayati) một giới (dhātu) nào đó v́ cho rằng giới này có quá nhiều khuyết điểm (doṣato darśanam) [như vô thường, v.v.]. Tuy nhiên sau đây là thứ tự chính xác nhất của các loại đối trị trên: (1) Yếm hoàn đối trị, tức gia hành đạo (prayogamārga); (2) đoạn đối trị, tức toàn bộ các vô gián đạo; (3) trị đối trị, tức giải thoát đạo; (4) viễn phần đối trị, tức thắng tiến đạo (viśeṣamārga).

(Hỏi) Các phiền năo được đoạn trừ là nhờ sự tách rời với cái ǵ?

Tụng đáp:  

應知從所緣                  可令諸惑斷.

[Nên biết rằng từ sở duyên

Mà các hoặc được đoạn trừ.]  

Luận:  Không thể tách rời phiền năo với các pháp tương ưng (saṃprayoga) [tức là các pháp tương ưng với tâm như thọ, v.v.] mà chỉ có thể tách rời chúng với sở duyên để chúng không thể sinh khởi trở lại khi duyên sở duyên này.

(Hỏi) Các phiền năo vị lai có thể tách rời khỏi sở duyên của chúng như đối với phiền năo quá khứ th́ sao? [Bởi v́ sự vật mà phiền năo này lấy làm sở duyên vẫn c̣n được chấp làm sở duyên].

(Đáp) Có phải các ông cho rằng khi nói “đoạn trừ nhờ tách rời với sở duyên” (ālambanātprahātavyaḥ) là hàm ư “đoạn trừ nhờ sự tri nhận toàn bộ sở duyên” (ālambanaparijñānāt prahātavyaḥ, biến tri sở duyên cố đoạn)? Nếu được hiểu như vậy th́ không hợp lư v́ không có tính chất phổ quát. V́ thế vấn đề cần phải giải quyết ở đây là: V́ sao các phiền năo được gọi là “đoạn” (prahīṇa)? - Loại phiền năo của riêng bản thân ḿnh (svāsaṃtānika, tự tương tục) được đoạn trừ là nhờ đoạn trừ được sự hoạch đắc (prāpti) loại phiền năo này. Đối với các phiền năo của người khác (parasaṃtānakleśa, tha tương tục trung chư phiền năo) đối với sắc pháp (rūpa) thuộc nhóm của chúng [như thiện (kuśala), v.v.] và đối với các pháp bất nhiễm th́ tất cả đều được đoạn trừ nhờ đoạn trừ được loại phiền năo “tự tương tục” vốn lấy các pháp trên làm sở duyên. (Vibhāṣā, 53, 7; 79, 18).

(Hỏi) Có bao nhiêu loại thuộc tánh “viễn phần” (dūratā)?

Tụng đáp:  

遠性有四種                   謂相治處時
      如大種尸羅                  異方二世等.

[Viễn tánh có bốn loại

Là tướng, trị, xứ và thời;

Giống như đại chủng, thi-la,

Dị phương, dị thế.]  

Luận:  Theo truyền thuyết (Vibhāṣā, 17, 2; Prakaraṇa, 6, 11), có bốn loại viễn tánh.

(1)                                  Tướng viễn tánh, tức là sự viễn ly do sự khác nhau của tướng (vailakṣaṇya); mặc dù các đại chủng (mahābhūta) cùng sinh khởi với nhau (câu tại nhất tụ trung sinh) nhưng chúng vẫn xa rời nhau v́ có thể tánh khác nhau.

(2)                                  Trị viễn tánh, tức là sự viễn ly do sự đối nghịch nhau (vipakṣtva = pratipakṣatva); tỷ dụ như sự phạm giới (dauḥśīlya) th́ xa rời với các giới hạnh (śīla).

(3)                                  Xứ viễn tánh (deśaviccheda) là sự xa cách về nơi chốn; giống như sự xa cách của biển đông và biển tây.

(4)                                  Thời viễn tánh là sự xa cách về thời gian; như quá khứ và vị lai.

(Hỏi) Quá khứ và vị lai đều xa cách; nhưng chúng xa cách với cái ǵ?

(Đáp) Xa cách với hiện tại.

(Hỏi) Quá khứ vừa mới diệt và vị lai th́ đang sinh như vậy làm sao có thể nói chúng xa cách với hiện tại?

(Đáp) Theo chúng tôi, chính v́ sự khác nhau về thời gian (adhavanānātra) nên quá khứ và vị lai được gọi là cách xa chứ không phải v́ chúng nằm xa trong quá khứ hoặc trong tương lai (nacirabhūtabhāvitvena).

(Hỏi) Nếu vậy hiện tại cũng được gọi là xa cách bởi v́ nó cũng tạo thành một thời điểm khác biệt.

(Đáp) Chúng tôi cho rằng quá khứ và vị lai cách xa là do tác dụng (kāritra).

(Hỏi) Các pháp vô vi vốn không có tác dụng th́ làm sao có thể gọi là gần (antike)?

(Đáp) Bởi v́ hai loại diệt pháp (nirodha) có thể được hoạch đắc ở khắp nơi. 

(Hỏi) Nếu vậy giải thích này cũng đúng với quá khứ và vị lai. (Bởi v́ người ta vẫn đắc được các thiện pháp, v.v., quá khứ và vị lai); và làm thế nào hư không (ākāśa) vốn không thể hoạch đắc lại được gọi là gần?

(Đáp) Chúng tôi nói rằng quá khứ và vị lai cách xa nhau v́ chúng được tách rời bởi hiện tại; và hiện tại được gọi là gần v́ gần với quá khứ và vị lai: Pháp vô vi sở dĩ được gọi là gần v́ không bị tách rời, không bị ngăn ngại bởi bất cứ sự vật nào cả.

(Luận chủ) nếu vậy trong cùng một lúc quá khứ và vị lai có thể vừa xa vừa gần: Xa là v́ cách xa nhau và gần là v́ gần với hiện tại.

Sau đây là lời giải thích hợp lư nhất: Vị lai cách xa tự tướng của các pháp (dharmasvalakṣaṇāt) bởi v́ đă không đạt đến tự tướng này; quá khứ cách xa tự tướng của các pháp v́ đă thối thất (pracyuta) tự tướng này.

(Hỏi) Trên đây có nói phiền năo được đoạn trừ nhờ có sự sinh khởi của pháp đối trị. Như vậy có phải vẫn có sự “tiếp tục đoạn trừ” (viśeṣaprahāṇa) các phiền năo nhờ vào thắng tiến đạo?

Tụng đáp:  

諸惑無再斷                  離繫有重得
      謂治生得果                  練根六時中.

[Các hoặc không được đoạn lần thứ hai;

Ly hệ có thể đắc được nhiều lần;

Vào sáu thời điểm của trị sinh, đắc quả,

Và luyện căn.]

Luận:  Mỗi một phiền năo chỉ được đoạn trừ một lần bởi loại Thánh đạo được gọi là “đoạn đạo” (prahāṇamārga) của chính loại phiền năo này. Nhưng việc hoạch đắc sự ly hệ đối với các phiền năo này lại xảy ra nhiều lần.

(Hỏi) Sự đắc được ly hệ xảy ra ở bao nhiêu thời điểm?

(Đáp) Ở sáu thời điểm. Đó là lúc trị đạo sinh khởi, lúc đắc quả và lúc rèn luyện các căn.

Ở đây khi nói “trị đạo” là nhằm chỉ cho giải thoát đạo (vimuktimārga); nói “quả” là để chỉ cho bốn quả của thánh giả Dự lưu (Srotāpanna), v.v.; nói “rèn luyện căn” có nghĩa là chuyển căn (indriyasaṃcāra).

Vào sáu thời điểm này th́ đắc được sự ly hệ các phiền năo. Có trường hợp phải đủ cả sáu thời mới đắc được sự ly hệ các phiền năo nhưng cũng có trường hợp chỉ cần đến hai thời. Sự ly hệ (visaṃyoga), trong một số trường hợp, c̣n có tên gọi là biến tri (prajñā) (Vibhāṣā, 79, 1). Người ta phân biệt hai loại biến tri: Trí biến tri (jñānaparijñā), tức vô lậu trí; và Đoạn biến tri (prahāṇaparijñā), tức là sự đoạn trừ bởi v́ đây là trường hợp quả được đặt tên theo nhân.

(Hỏi) Có phải tất cả các sự đoạn trừ đều lập thành một loại biến tri?

Tụng đáp:  

斷遍知有九                  欲初二斷一
      二各一合三                  上界三亦爾
      餘五順下分                  色一切斷三.

[Có chín đoạn biến tri:

Đoạn trừ hai loại (phiền năo) đầu tiên của Dục giới là một biến tri,

Hai loại c̣n lại mỗi loại là một biến tri; tất cả là ba (biến tri);

Thượng giới cũng có ba (biến tri) như vậy.

Ba biến tri khác là sự đoạn trừ năm kiết sử thuận hạ phần,

Sắc giới (kết sử) toàn bộ (kiết sử).]  

Luận:  Có tất cả chín biến tri.

Trước tiên, sự đoạn trừ hai loại đầu tiên của Dục tạo thành một biến tri. Đó là sự đoạn trừ hai loại phiền năo đầu tiên của Dục giới, tức các phiền năo thuộc kiến khổ đoạn và kiến tập đoạn.

Sự đoạn trừ các phiền năo Dục giới thuộc kiến diệt đoạn tạo thành một biến tri; sự đoạn trừ các phiền năo Dục giới thuộc Kiến đạo đoạn cũng như vậy.

Giống như sự đoạn trừ phiền năo Dục giới thuộc Kiến đoạn tạo thành ba biến tri; ở hai giới trên (thượng giới), sự đoạn trừ các phiền năo thuộc kiến khổ đoạn và kiến tập đoạn tạo thành một biến tri, sự đoạn trừ các phiền năo thuộc kiến diệt đoạn tạo thành biến tri thứ hai, sự đoạn trừ các phiền năo thuộc Kiến đạo đoạn tạo thành biến tri thứ ba.

Như vậy sáu biến tri đối với sự đoạn trừ phiền năo đều thuộc về tam giới và đều được đoạn trừ bởi kiến đế (satyadarśanageya).

Ngoài ra c̣n có ba biến tri khác: 

Sự đoạn trừ các kiết sử thuận hạ phần (avarabhāgīyas), tức là các kiết sử (āsravas) Dục giới, tạo thành một biến tri.

Sự đoạn trừ các kiết sử Sắc giới - c̣n được gọi là sắc ái tận biến tri (rūparāgakṣyaparijñā) - tạo thành một biến tri.

Biến tri thứ ba là sự đoạn trừ toàn bộ các kiết sử, và c̣n có tên là “Nhất thiết kiết viễn tận biến tri” (sarvasaṃyojanaparyādānaparijñā).

Ba loại biến tri này đều là sự đoạn trừ các phiền năo thuộc Tu đạo (bhāvanāheya).

Đối với sự đoạn trừ các phiền năo thuộc Tu đoạn, người ta đă phân biệt hai trường hợp thuộc Sắc giới và Vô sắc giới; nhưng đối với sự đoạn trừ các phiền năo thuộc Kiến đoạn th́ không có sự phân biệt này bởi v́ chúng cùng có đạo đối trị giống nhau.

(Hỏi) Trong chín loại biến tri này có bao nhiêu đạo quả?

Tụng đáp:  

於中忍果六                  餘三是智果
      未至果一切                  根本五或八
      無色邊果一                  三根本亦爾
      俗果二聖九                  法智三類二
      法智品果六                  類智品果五.

[Trong đó có sáu nhẫn quả,

Ba quả c̣n lại là trí quả;

Tất cả đều là Vị chí quả,

Năm hoặc tám Căn bổn quả,

Một quả của Vô sắc biên;

Ba định căn bổn cũng như vậy;

Hai quả của thế đạo;

Chín của Thánh đạo;

Ba quả của pháp trí; hai quả của loại trí;

Sáu quả của pháp trí phẩm;

Năm quả của loại trí phẩm.]  

Luận:  Sáu biến tri đầu tiên, tức sự đoạn trừ các phiền năo thuộc kiến đế, đều là quả của nhẫn (kṣāntis).

Ba loại biến tri, mà loại đầu tiên là sự đoạn trừ các kết sử thuộc thuận hạ phần, đều đắc được nhờ vào Tu đạo (bhāvanāmārga) và v́ thế chúng đều là quả của trí (jñāna).

(Hỏi) Làm sao biến tri lại có thể là quả của nhẫn (Vibhāṣā, 62, 9)?

(Đáp) Bởi v́ các nhẫn đều là quyến thuộc của trí, cũng giống như quyến thuộc của vua nên tạm mượn tên vua; hoặc v́ nhẫn và trí có chung quả.

(Hỏi) Ở tầng định này th́ đắc được biến tri?

(Đáp) Tất cả đều là quả của Vị chí định (anāgamya); năm hoặc tám biến tri là quả của Căn bổn định (mauladhyānas).

Theo Tỳ-bà-sa (Vaibhāṣikas), có năm biến tri là quả của Căn bổn định - tức là các biến tri bao gồm sự đoạn trừ các phiền năo thuộc Sắc giới và Vô sắc giới. Sự đoạn trừ các phiền năo thuộc Dục giới chỉ là quả của Vị chí định, tức là của loại định chuẩn bị cho tầng định đầu tiên.

Theo tôn giả Diệu âm (Bhadanta Ghoṣaka), có tám biến tri là quả của Căn bổn định. Nếu một người đă xả ly Dục giới nhờ vào thế tục đạo hoặc hữu lậu đạo (sāsrava, laukikamārga) mà nhập vào kiến đế (satyadarśana) hoặc Kiến đạo (darśanamārga; vô lậu đạo) nhờ nương vào các tầng thiền định th́ sự đoạn trừ các phiền năo Dục giới thuộc Kiến đạo của người này, tức là sự hoạch đắc ly hệ đối với các phiền năo của người này, phải được xem như là quả của Kiến đạo bởi v́ sự hoạch đắc này vốn thuộc vô lậu. Chỉ có loại biến tri đối với các kết sử thuận hạ phần là quả của Vị chí định.

Trung gian định (dhyānāntara) cũng giống như Căn bổn định.

Sắc ái tận biến tri là quả của cận phần địa (sāmantaka) của Không vô biên xứ (ākāśānantyāyatana). [Để nhập vào tầng vô sắc đầu tiên, người ta phải xả ly các phiền năo thuộc Sắc giới; và đây chính là việc được làm ở Cận phần địa này].

Nhất thiết kết vĩnh tận biến tri là quả của ba tầng vô sắc căn bổn.

Tất cả chín loại biến tri đều đắc được nhờ Thánh đạo vô lậu; tuy nhiên hai loại biến tri thứ bảy và tám cũng có thể đắc được nhờ đạo hữu lậu.

Hai loại biến tri cuối cùng là quả của loại trí (anvayajñāna) (tức là loại trí duyên khổ, v.v., của hai giới ở trên) được bao hàm trong Tu đạo.

Ba loại biến tri cuối cùng là quả của pháp trí (dharmajñāna) (tức là loại trí duyên khổ, v.v., của Dục giới) được bao hàm trong Tu đạo bởi v́ loại trí này đối trị các phiền năo thuộc Tu đạo (bhāvanāheya) ở cả ba giới.

Có sáu biến tri là quả của nhóm “pháp trí”, tức là các biến tri làm quả của các pháp nhẫn (dharmakṣānti) và của các pháp trí (dharmajñānas).

Có năm biến tri là quả của nhóm “loại trí”, tức là các biến tri làm quả của các loại nhẫn (anvayakṣāntis) và các loại trí (anvayajñānas). Ở đây khi nói “nhóm” (pakṣa, phẩm) là nhằm chỉ cho các loại nhẫn và trí.

(Hỏi) Tại sao không phải tất cả các sự đoạn trừ (prahāṇa) đều được xem là biến tri?

Tụng đáp:  

得無漏斷得                  及缺第一有
      滅雙因越界                  故立九遍知.

[V́ có sự hoạch đắc ly hệ vô lậu,

Khiếm khuyết Hữu đảnh,

Diệt hai nhân và siêu việt giới

Nên lập thành chín loại biến tri.]

Biến tri có ba tính chất là (1) hoạch đắc ly hệ thuộc tánh vô lậu, (2) đoạn trừ một phần Hữu đảnh (bhavārga) và (3) diệt trừ hai nhân. Chỉ có sự đoạn trừ nào có na tính chất này mới được gọi là biến tri.

Sự đoạn trừ của dị sinh có thể bao hàm sự diệt trừ hai nhân; nhưng dị sinh không bao giờ hoạch đắc ly hệ vô lậu, không bao giờ “làm khuyết” một phần của Hữu đảnh.

Đối với thánh giả, kể từ khi nhập vào Kiến đạo cho đến sát-na thứ ba (duḥkhe ‘nvayajñānakṣānti, khổ loại trí nhẫn) th́ sự đoạn trừ của họ có được sự hoạch đắc ly hệ vô lậu, nhưng chưa “làm khuyết” Hữu đảnh, chưa diệt trừ được hai nhân biến hành (sarvatragahetu) thuộc kiến khổ đoạn và kiến tập đoạn. Vào sát-na thứ tư (duḥkhe ‘nvayajñāna, khổ loại trí) th́ Hữu đảnh mới bị “làm khuyết”, và vào sát-na thứ năm cũng như vậy (samudaye dharmajñānakṣānti, tập pháp trí nhẫn); tuy nhiên hai nhân vẫn chưa được diệt trừ. Phải ở vào các sát-na thứ sáu, thứ mười và mười bốn (dharmajñāna) và các sát-na thứ tám, thứ mười hai và thứ mười sáu (anvayajñānas, loại trí) th́ sự đoạn trừ mới có đủ cả ba tính chất để được gọi là biến tri.

Đối với ba loại biến tri bao hàm sự đoạn trừ là các quả của trí (jñāna), th́ chúng được nêu tên như vậy là do có ba tính chất trên cộng thêm tính chất thứ tư là “vượt qua một giới” (việt giới); có nghĩa là hành giả đă hoàn toàn tách khỏi (vairāgya) một giới nào đó (tỷ dụ như tách rời Dục giới ở loại biến tri thứ bảy, v.v.).

Có luận sư cho rằng vẫn c̣n một nhân thứ năm là sự xả ly hai hệ phược (ubhayasaṃyogaviyoga). Nếu chỉ mới đoạn trừ được một loại phiền năo (thuộc Kiến đạo) th́ chưa đủ mà cần phải đoạn trừ thêm các phiền năo (thuộc kiến và Tu đạo) vốn có loại phiền năo trên làm cảnh sở duyên. 

Tuy nhiên, loại nhân này đă được bao hàm trong tính chất “diệt trừ hai nhân” và tính chất “việt giới”; v́ thế không cần phải lập thành một loại nhân riêng (ato na punar brūmaḥ).

(Hỏi) Có thể thành tựu bao nhiêu loại biến tri?

Tụng đáp:

住見諦位無                  或成一至五
      修成六一二                  無學唯成一.

[Ở giai đoạn kiến đế, chưa thành tựu,

Hoặc thành tựu một đến năm;

Ở Tu đạo, thành tựu sáu, một, hai;

Và ở vô học đạo chỉ thành tựu một.]

Luận:  Không có biến tri đối với dị sinh.

Ở Kiến đạo, thánh giả vẫn chưa thành tựu được biến tri cho đến giai đoạn của tập pháp trí nhẫn; thánh giả bắt đầu thành tựu được một biến tri ở giai đoạn của tập pháp trí và tập loại trí nhẫn; thành tựu hai biến tri ở giai đoạn của tập loại trí và Diệt pháp trí nhẫn (nirodhedharmajñānakṣānti); thành tựu ba biến tri ở giai đoạn của diệt pháp trí và Diệt loại trí nhẫn; thành tựu bốn biến tri ở giai đoạn của diệt loại trí và Đạo pháp trí nhẫn (mārgedharmajñānakṣānti); thành tựu năm biến tri ở giai đoạn của đạo pháp trí và đạo loại trí nhẫn.

Ở Tu đạo, thánh giả thành tựu sáu biến tri kể từ giai đoạn của đạo loại trí cho đến khi chưa đắc được sự xả ly Dục giới - hoặc cho đến khi bị thối thất sau khi đă đắc (ly dục thối). Khi đắc được sự xả ly này - hoặc trước hoặc sau khi kiến đế (abhisamaya = kiến đạo) - th́ thánh giả chỉ đắc được loại biến tri thuận hạ phần (avarabhāgīyaprahāṇaparijñā, thuận hạ phần tận biến tri).

Thánh giả đắc quả A-la-hán chỉ thành tựu loại biến tri Nhất thiết kết vĩnh tận (sarvasaṃyojanaparyādānaparijñā).

Thánh giả bị thối thất quả vị A-la-hán do một phiền năo thuộc Sắc giới vẫn c̣n thuộc hàng các thánh giả đă xả ly Dục giới; và v́ thế chỉ thành tựu loại biến tri Thuận hạ phần tận. Nếu bị thối thất do bị phiền năo của Dục giới th́ thuộc hàng các thánh giả chưa xả ly Dục giới; và thành tựu sáu biến tri nếu thối thất do một phiền năo của Vô sắc giới th́ thuộc hàng các thánh giả đă xả ly Sắc giới; và thành tựu hai loại biến tri Thuận hạ phần tận và Sắc ái tận (rūparāgakṣayaparijñā).

(Hỏi) Tại sao đối với hàng Bất hoàn và A-la-hán chỉ lập một loại biến tri?

Tụng đáp:  

越界得果故                  二處集遍知.

[V́ việt giới và đắc quả

Nên hai xứ đều tổng tập biến tri.]  

Luận:  Tất cả biến tri được tổng hợp (saṃkalana, tổng tập) thành chỉ một loại khi thánh giả xả ly một giới (việt giới) và đắc được một quả. Chỉ có Bất hoàn và A-la-hán có đủ hai điều kiện này nên các biến tri của họ được tổng tập thành chỉ một loại.

(Hỏi) Bao nhiêu biến tri được xả và đắc (Vibhāṣā, 63, 1)?

Tụng đáp:

捨一二五六                  得亦然除五.

[Xả một, hai, năm, sáu;

Đắc cũng như vậy, chỉ trừ trường hợp đắc năm]

Luận:  Thánh giả bị thối thất quả A-la-hán hoặc thối thất sự xả ly Dục giới bị mất một loại biến tri.

Bất hoàn đă xả ly Sắc giới nếu bị thối thất sự xả ly Dục giới bị mất hai loại biến tri.

Đối với trường hợp các thánh giả đă xả ly Dục giới trước khi nhập vào Kiến đạo th́ khi đến được sát-na thứ mười sáu (đạo loại trí) sẽ xả bỏ năm loại biến tri bởi v́ lúc đó họ sẽ đắc được loại biến tri Thuận hạ phần tận.

Trong trường hợp chưa xả ly Dục giới trước khi nhập Kiến đạo th́ họ đắc được loại biến tri thứ sáu mà họ sẽ xả bỏ cùng với năm biến tri khác khi xả ly được Dục giới.

Trong cả hai Thánh đạo, nếu người nào đắc được một loại biến tri chưa đắc được trước đó th́ gọi là đắc một biến tri.

Những người bị thối thất sự xả ly Vô sắc giới th́ thành tựu được hai loại biến tri (thứ sáu và thứ bảy).

Những người thối thất quả Bất hoàn th́ thành tựu sáu biến tri.

 

previous.png      Hết Chương 5      next.png

ĐẦU TRANG | C1 | C2a | C2b | C3a | C3b | C4a | C4b | C5 | C6 | C7 | C8 | C9

 

 

 

[ TRANG CHỦ | KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

 

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0