* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ | KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

BỒ ĐỀ TRÀNG SỞ THUYẾT NHẤT TỰ

ĐẢNH LUÂN VƯƠNG KINH

Chùa Đại Hưng Thiện, Tam tạng Sa-môn Bất Không

Đại Quảng Trí phụng chiếu dịch.

QUYỂN THỨ HAI

Phẩm thứ Ba: Thơ Tượng Nghi Quĩ

 

Trang Chủ

Kinh Điển

Đại Tạng Kinh

Thần Chú

Hình Ảnh

Liên Lạc

 

Số 0950

BỒ ĐỀ TRÀNG SỞ THUYẾT NHẤT TỰ ĐẢNH LUÂN VƯƠNG KINH

 5 Quyển

Quyển 1

Quyển 2

Quyển 3

Quyển 4

Quyển 5

 

Bấy giờ Phật Thích Ca Mâu Ni dùng Phật nhăn xem khắp tất cả chúng sanh, bảo Bí Mật Chủ Kim Cang Thủ rằng: “ V́ lợi ích tất cả các hữu t́nh, ta nay nói nghi quĩ Đại-minh vương, tất cả chư Phật đă nói, tất cả thế gian, xuất thế gian chơn ngôn hoạ tượng. Phật đảnh Luân vương bổn thân h́nh trạng, hay trừ tất cả tội, khiến tất cả hữu t́nh được đại Niết bàn, dùng tam ma địa thù thắng biến hoá, hiện các thân sắc của Phật. Nay ta nói pháp vẽ tượng Phật đảnh Luân vương.

Người tu hành trước cần vào mạn đà la, theo thầy thọ học ấn khế nghi quĩ, vào Phật đảnh Luân vương đàn, hoặc Vô Năng Thằng Phẫn nộ đàn, hoặc Thắng Phật đảnh đàn, thấy tam muội da, thọ pháp quán đảnh được A Xà Lê ấn khả tu hành đạo vô thượng Niết bàn. Nên y theo nghi quĩ làm pháp tiên hành, pháp tiên hành làm xong, sau đó mới hoạ tượng. Khiến một đồng nữ Ba la môn, con nhà quyền quí thọ trai giới, xe dệt các sợi chỉ, y theo nghi quĩ như trong kinh đă nói, dệt thành tấm vải dài 6 khuỷu, ngang 4 khuỷu, nếu không đủ th́ 5 khuỷu cũng được. Dệt xong đem ngâm nước thơm, loại bỏ các lông tóc, dùng các tháng thần thông ngày bạch nguyệt. T́m một hoạ sĩ kính tin Tam Bảo, các căn đầy đủ, trước phải tắm rửa sạch sẽ, mặc quần áo mới, thọ  bát quan trai sau đó mới được vẽ, phải xem ngày tháng tốt lành, hoặc nơi núi non, hang động, Phật đường, tịnh thất hoặc chỗ Thánh hiền đắc đạo, xa lánh những nơi dơ uế, nước có côn trùng, mới có thể hoạ vẽ. Trước nơi giữa hoạ Phật, Thế tôn ngồi toà sư tử, toà dùng các thứ báu trang nghiêm tướng đang thuyết pháp, hào quang xoay tṛn nơi  thân, từ nơi đảnh phóng ra các ánh sáng, đầy đủ các tướng Đại trượng phu, hoạ cây Bồ đề có các lá đầy đủ, như thân cây đa ma ni, nơi các nhánh treo các dăi lụa, hoặc các thứ báu như phệ lưu lỵ, hoặc treo trái, hoặc chuông khánh hoặc các thứ nơi cơi trời, hoặc mưa tuôn xuống, các thứ hoa quả, san hô lưu ly, đều vẽ ở phía trên. Trên cây Bồ đề có các loại chim cát tường đậu, hoặc các lá, mây, mưa, sấm chớp xen nhau, gọi là Bồ đề  kiếp thọ. Hoạ ở phía sau hai bên Thế tôn, bên phải là Chuyển Luân Đại vương h́nh như Luân Vương ngồi toà sen trắng, thế đang nh́n Phật, thân màu vàng rồng, chung quanh có hào quang đầy đủ bảy báu, chỉ có Luân bảo ( bánh xe báu của Luân vương) xung quanh có hào quang để nơi hoa sen. Sau Phật Thích Ca, tưởng đảnh Luân vương, bên trái Phật không xa vẽ Bạch tán cái Đảnh vương, h́nh như Đại vương thân màu vàng, ngồi trên hoa sen, tay cầm hoa sen, mắt nh́n Luân vương. Cách Bạch tán cái Phật đảnh không xa vẽ Cao Phật Đảnh Vương, h́nh như Đại vương ngồi trên hoa sen trắng, tay cầm Câu duyên quả, mắt ngó Luân vương. Cách Đảnh Luân vương không xa vẽ Quang Tụ Phật đảnh vương, ngồi trên hoa sen trắng, xung quanh có các hào quang, thân màu vàng, tay cầm Chơn đa na mi. Nơi dưới Quang tụ Phật đảnh vương vẽ các người tŕ tụng chắp tay hồ qú chiêm ngưỡng Đảnh Luân Vương. Luân vương duỗi tay làm ấn thí nguyện, nh́n người tŕ tụng. Gần Quang tụ đảnh vương vẽ thắng Phật đảnh, thân màu vàng, tay trái cầm bảo, tay phải thí nguyện, mắt nh́n Luân vương. Như vậy các Phật đảnh vương h́nh trạng đều là Đại vương, đều có hào quang quanh thân, đều ngồi toà sen trắng, thân đều màu vàng. Bên phải Phật vẽ Bồ tát Phổ Hiền tay cầm phất trắng; bên trái Phật vẽ Bồ tát Từ Thị tay cầm phất trắng, hai vị đều nhỏ hơn Phật một chút. Phía trước Phật vẽ Bồ tát Quán tự tại, Bồ tát Kim Cang Thủ  đều ngồi toà sen báu, chắp tay thế đang lễ Phật, gần Bồ tát Phổ Hiền vẽ Bồ tát Văn Thù Sư lợi, Bồ tát Vô Cấu Huệ, Bồ tát Ninh Tịnh Huệ, Bồ tát Vô Tận Huệ, Bồ tát Hư Không Tạng, Bồ tát Hư không Vô Cấu, Bồ tát Đại Huệ, trước sau như trên mà vẽ các ngài đều ngồi toà sen, chắp tay thế đang lễ Phật, thân h́nh yên tịnh các báu trang nghiêm, thân đều màu vàng, áo quần đều bằng các thứ lụa tốt. Cách Bồ tát Từ Thị không xa vẽ Phật Nhăn Minh phi h́nh như Thiên nữ, ngồi toà sen báu, thân màu vàng, các món trang nghiêm tốt đẹp, mắt nh́n xuống chúng hội, mặc áo tơ nhẹ góc áo ḷi da ra ngoài, tay phải cầm Như Ư bảo, tay trái Thí Nguyện Ấn, hào quang rực rỡ quanh thân, cách Phật Nhăn tôn không xa vẽ Hào tướng tôn h́nh như Thiên nữ, tay phải cầm hoa sen, tay trái thí nguyện ấn, mắt nh́n Luân vương. Gần Phật Nhăn tôn nơi phía dưới vẽ Tôn Na Lị minh phi h́nh như Thiên nữ, trang nghiêm các món an lạc, thân màu xanh tay cầm hoa sen, ngồi trên núi báu, mắt nh́n Thế tôn. Gần Kim Cang Thủ nơi chân vẽ Quân Trà Lợi; gần Quân Trà Lợi vẽ Kim Cang Quân, Tô Ma Hô ba vị đều h́nh đồng tử, các món an lạc trang nghiêm nơi thân, mắt nh́n Luân vương, tư thế mạnh mẽ đáng sợ. Bên phải Bồ tát Quán Tự Tại vẽ Ha na Hật rị phạ Đại minh phi, thân như màu lửa, h́nh tướng Phẫn nộ, mũi cong, dùng rắn trang nghiêm làm ṿng đeo nơi tay, nơi cổ, nơi đầu, tóc như hoa sen đang nh́n Luân vương. Gần đó vẽ Liên hoa Tôn na lị 4 tay, bên phải tay thứ nhất cầm quyển sách, tay thứ nhất trái cầm búa, bên trái tay thứ nh́ cầm quả, tay thứ nh́ bên phải thí nguyện, ngồi hoa sen. Lại gần Luân vương Phật đảnh vẽ Vô Năng Thắng Phẫn nộ vương thân màu trắng 4 mặt, 4 tay, mặt mày nhăn nhó giận dữ, dùng da cọp làm quần, măng xà làm mâu đeo tai, Đức Xoa Ca Long Vương dây lưng, Hoa tô Chỉ Long vương làm thần tuyến, ḷi áo nơi các khủyu, dùng rắn độc trang nghiêm nơi măo, tḥng hai bên lửa cháy quanh thân. Tay thứ nhất bên phải cầm Kim Cang chuỳ, tay thứ hai cầm thí kỳ khắc ấn, tay thứ nhất bên trái cầm tam xoa, tay thứ nh́ cầm búa, mặt chính dáng cười phát ra tiếng ha tra tra ha sa, từ nơi miệng phát ra đủ thứ lửa, mặt bên phải ngó Luân vương, mặt trái nh́n người tŕ tụng, mặt trên nh́n chúng hội, đứng trên toà sen báu. Vô Năng Thắng Phẫn Nộ vương y trên mà vẽ, ở dưới vị này vẽ Địa Thiên thân màu trắng, hai tay bưng bát đầy hoa, hai gối qú nơi đất. Gần Địa Thiên vẽ Ni Liên Thiền thần sông màu đen h́nh như Long Nữ, có bảy đầu, chắp tay lễ Phật. Gần Ni Liên thiền vẽ Phạ lị ca Đại Long vương, Mẫu Chỉ Lân Đà Long vương, hai Long Vuơng nầy từng thấy vô lượng chư Phật, có 7 đầu, chấp tay qú dưới đất. Gần Địa Thiên vẽ Bạt Nan Đà Long Vương, Vô Nhiệt Năo Long vương, Sa Kiệt La Long vương cầm tràng hoa sen, cúi đầu chắp tay. Bên phải Bồ tát Đại Huệ vẽ Bạch y Quán tư Tại dùng các ṿng hoa sen trang nghiêm nơi thân, dùng lụa báu quấn quanh nơi thân, tay phải cầm chân đa ma ni, tay trái thí nguyện, vị Bồ tát này là mẹ của Liên Hoa tộc, ngồi nơi toà sen. Gần Phật hào tướng vẽ Bồ tát Ma mộ Chỉ màu lửa xanh đỏ, dùng các anh lạc trang nghiêm, thân tướng minh tịnh, ngồi nơi toà sen, trụ nơi tự tánh bát nhă ba la mật đa, tay phải cầm phạm khiếp, tay trái cầm chân đa ma ni, thế ban cho. Đây là mẹ của tất cả các Phật, Bồ tát. Đại thánh Bát nhă ba la mật đa trụ ma mộ chỉ h́nh, vị nầy là mẹ của Kim Cang tộc làm h́nh đồng nữ, thân không cao quá, rất là vui vẻ. Lại vẽ các Kim Cang quyến thuộc thuộc Kim Cang Câu, Kim Cang quyền, Kim Cang bào, các vị nầy là Đại minh phi làm quyến thuộc. Ở gần phía dưới Bạch y Quán Tự Tại, vẽ Bồ tát Đa la các món trang nghiêm, mặc áo mỏng h́nh trung b́nh, tay phải cầm hoa sen xanh, tay trái thí nguyện, ngồi toà liên hoa, thân màu lục đậm. Gần Đa la tôn vẽ Tỳ Cu chi thân màu trắng có ba mắt bốn tay, bên phải tay thứ nhất cầm gậy, tay thứ nh́ cầm xâu chuỗi, bên trái tay thứ nhất cầm b́nh, tay thứ nh́ cầm hoa sen, thân đẹp đẽ, hai bên góc tượng vẽ các Thiên tử tấu âm nhạc. Ơ phía trên Phật vẽ Tịnh cư Thiên Tử nơi trong mây tung hoa cúng dường, lại y các phương vẽ Tứ Thiên vương. Đông phương vẽ Tŕ Quốc Thiên Vương, Nam phương Dạ ma Thiên, Tây Phương Thuỷ Thiên, Bắc phương Cu vĩ la Thiên. Bốn góc phụ: Đông bắc vẽ P xá la, Đông nam Hoả Thiên, Tây nam La sát Thiên, Tây bắc phong Thiên, y theo bổn h́nh mà vẽ. Gần Phẫn Nộ Vô Năng thắng ở phía dưới vẽ người tŕ tụng y bổn h́nh, quỳ gối tay bưng lư hương, nh́n ngắm Luân vương. Kim Cang Thủ! Luân vương Phật đảnh nghi quỷ vẽ tượng nầy, vô lượng chư Phật đă nói, nếu được thấy tất cả tội chướng đều tiêu trừ, nếu vẽ được đầy đủ đúng pháp, chúng sanh có duyên thấy được năm tội vô gián đều tiêu trừ, huống là các tội khác. Nếu thấy được tượng vi diệu nấy, chư Phật đă nói người nấy hiện đời chưa quả báo, tất cả các tội trong nhiều đời nhiều kiếp do thấy được tượng thẩy đều tiêu trừ. Do thấy tượng tối thắng nầy, tất cả Tất Địa đều được hiện tiền, tất cả Như Lai Đại minh chơn ngôn đều thành tựu, tuỳ ư niệm tụng mọi vieêc đều thành. Nơi các bộ chơn ngôn khó thành tựu, đối trước tượng nấy tŕ tụng quyết được thành tựu”.

Lúc bấy giờ Thế Tôn bảo Bí mật chủ Kim Cang Thủ rằng: “ Bí mật Chủ! Ông hăy lắng nghe. Phép hoạ tượng Bạch tán cái Phật đảnh, hay thành biện tất cả sự nghiệp, lợi ích tất cả nơi luân hồi chúng sanh. Hằng hà sa cu chi Phật cũng đă nói ở trên, có thể ba khuỷu, không được dùng các keo da hoà màu sắc, hoạ sĩ phải thọ bát quan trai giới, nơi trung ương vẽ h́nh Phật màu vàng trắng, ngồi toà sư tử, đầy đủ hướng tốt; bên trái Phật vẽ Bồ tát Kim Cang Thủ, tay phải cầm phất trắng, tay trái cầm chuỳ Kim Cang; bên trái Kim Cang Thủ vẽ các Trời Tịnh cư mặc quấn áo trời, nơi trước Phật vẽ Phật Đảnh vương thân màu vàng, đầy đủ tướng tốt, tay cầm hoa sen. Phía dưới Phật vẽ người tŕ tụng tay bưng lư hương, nơi bốn bên vẽ các thứ hoa. Kim Cang Thủ! Đây là pháp hoạ tượng Bạch tán cái Phật đảnh”.

Bấy giờ Thế Tôn lại bảo Kim Cang Thủ rằng: “ Kim Cang Thủ phải lắng nghe! Cần phải chú ư, ta nay v́ ông mà nói phép vẽ tượng Quang tụ Phật đảnh vương là trên hết trong các giáo pháp thế gian, xuất thế gian. Trước lấy nước hương ngâm vải, ba khuỷu hoặc một khuỷu, không được dùng keo da. Hoạ sĩ phải thọ bát quan trai giới, vẽ Phật ngồi toà sen trắng, tướng đang thuyết pháp, đủ các tướng tốt. Nơi phía trên Phật vẽ ngọn núi, phía dưới tượng vẽ ao sen, từ nơi đảnh Phật phóng ra các hào quang. Phía dưới Phật bên phải vẽ người tŕ tụng, hồ qú tay bưng lư hương như bổn h́nh. Bí mật chủ! Đây là Quang tụng Phật đảnh vương nghi quĩ, tất cả chư Phật đă nói, để điều phục tất cả hữu t́nh. Đây là Quang Tụ Phật đảnh vương thành tựu tất cả sự nghiệp pháp hoạ thượng tối thắng”.

Bấy giờ Phật Thích Ca Mâu Ni lại bảo Bí Mật Chủ rằng: “Nay ta sẽ nói pháp hoạ tượng của Cao Phật đảnh y như Luân vương nghi quĩ, trên vải ba hoặc một khuỷu, trừ bỏ lông tóc; hoạ sĩ thọ bát giới, sau đó mới hoạ vẽ Phật Thế tôn ngồi trên toà sen bảy báu, kết già phu đầy đủ các tướng tốt, tay phải thí nguyện, tay trái ngữa để dưới rún. Từ nơi đảnh Phật phóng ra các hào quang, hai bên góc tượng vẽ Tịnh Cư Thiên tử, bên phải vẽ người tŕ tụng nh́n ngắm Như Lai. Bí Mật Chủ! Đây là pháp hoạ tượng cao Phật Đảnh vương, tất cả Phật đă nói, tất cả Phật đă ngợi khen v́ thương tưởng tất cả hữu t́nh mà nói”.

Bấy giờ Phật Thích Ca mâu Ni lại bảo Bí Mật Kim Cang Thủ rằng: “ Bí Mật chủ! Ta nay lại nói nghi quĩ hoạ tượng Thắng Phật đảnh vương, chư Phật đă ngợi khen, y Luân vương Phật đảnh nghi quĩ, dùng lụa ba hoặc một khuỷu bỏ lông tóc, hoạ sĩ vẽ thọ bát quan trai giới mà vẽ. Trước vẽ h́nh Phật màu vàng, ngồi toà sư tử, kết ấn thuyết pháp, đủ tướng tốt. Từ nơi đảnh Phật phóng ra các màu hào quang, dưới tượng vẽ người tŕ tụng y như bổn h́nh, hồ qú tay bưng lư hương đang nh́n ngắm Như Lai. Kim Cang Thủ! Đây là pháp vẽ tượng Thắng Phật Đảnh vương, tất cả Như Lai đă nói. Kim Cang Thủ! Như Lai và các Đại Bồ tát oai đức, các thân h́nh tuỳ ư mà vẽ, hoặc trên vải, trên lụa, trên giấy, trên da, trên tường cũng không có lỗi, hoặc tự vẽ, hoặc bảo người vẽ, theo bổn h́nh mà vẽ, hoặc vẽ h́nh Bồ tát hoặc vẽ chơn ngôn thánh thiện, cho đến vẽ trên trắp đựng kinh, trên vỏ cây hoa hoặc vẽ tượng Tối thắng lớn nhơ tuỳ ư, đều được không lỗi ǵ “. Bấy giờ Thế tôn lại nói kệ rằng:

Tuỳ ư mà hoạ vẽ

Lợi ích các hữu t́nh

Không có sợ tội lỗi

Cho nên phải ân cần

Luôn làm việc xả thí

Nhẫn nhục và tinh tấn

Theo vậy mà tu tập

Nếu như không vẽ tượng

Giữ ǵn các đại ấn

Kẻ trí khởi ḷng từ

Thành tựu cần suy nghĩ

V́ nhiếp thọ hữu t́nh

Thường có ḷng từ bi

Cùng giữ ǵn tịnh giới

Thiền định với bát nhă

Được tất địa không khó

Cần trụ tâm Bồ đề

Được tối thượng thành tựu..

Phẩm thứ tư: Hành.

Bấy giờ Bí Mật chủ Kim Cang Thủ bạch Phật rằng: “ Bạch Thế tôn, cúi mong Thế tôn v́ người tu hành cầu thành tựu, nói sơ pháp tu tập Phật đảnh Luân vương chơn ngôn, oai đức công hạnh xí thạnh phương tiện, ở nơi Thế tôn cầu Tất địa, do trụ Như Lai Phật Đảnh vương chơn ngôn, tất cả các chơn ngôn đều mau chóng thành tựu.

Phật bảo: “ Lành thay! Lành thay Bí mật chủ! Ông hay hỏi nghĩa như vậy, ông hăy lắng nghe, ta sẽ v́ ông mà nói chư Phật làm các phương tiện, pháp cú, dà dà, đây là pháp nhăn rất vi diệu, vô lượng Phật đă tu tập, v́ thành tựu các lợi ích”. Bấy giờ Phật Thích Ca Mâu Ni xem khắp đại chúng dùng tiếng Phạm âm mà nói pháp lư thú dà dà ở trong các pháp nhăn là tối thắng, kệ rằng:

Tự hành vô lượng Bồ đề

Bị trăm ngàn khổ làm bức năo

V́ các hữu t́nh bị bức năo

Phật Thích Ca Mâu Ni nói ra

Nếu người chí tâm tu pháp nầy

Thành Phật được thọ trời, người cúng

Do tu một pháp thành Đại giác

Chơn ngôn oai đức mọi người khen

Người nầy không lâu chứng Bồ đề

Rộng độ vô lượng các quần sanh.

Nơi tháp lớn vắng lặng

Suối rừng và hồ ao

Đại thọ hoặc trong hang

Nơi núi nhiều hoa lá

Một ḿnh tâm kiên cố

Tâm Bồ đề nhớ luôn

Pháp giải thoát Đại thừa

Trong sạch gắn tu hành

Giữ ǵn thân, khẩu, ư

Ăn uống trong 4 cách

Hành giả cần phải biết

Chơn ngôn nầy tối tôn

Được tam ma địa minh

Sanh ra các Tất địa

Dùng chơn ngôn và minh

Tuỳ ư mà tu hành

Cần mặc hai loại áo

giữ ǵn không sai xót

Tất địa được không khó

Người nấy quyết định được

Trước phải lễ chư Phật

Kẻ trí phải vững bền

Người tu hành không bạn

V́ lợi ích hữu t́nh

Được thành tựu không khó

Hiện sắc không nghĩ bàn

Đời này được thành tựu

Người quyết cầu Tất địa

Cần nên tạo các tháp

Cần hộ ma niệm tụng

Tức ngay nơi đời nầy

Mau chóng được thành tựu

Chín chắn suy nghĩ kỹ

Mạnh mẽ bền ḷng chắc

Lợi ích tâm chơn thật

Người nầy thật đáng khen

Các căn được đầy đủ

Trí tuệ luôn sáng tỏ

Hay nhẫn nơi đói khát

Người nấy đáng nên khen

Kẻ muốn cầu thành tựu

Nếu được pháp yếu nầy

Sẽ không c̣n bao lâu

Được tối thượng Tất địa.

Kim Cang Thủ! Sau khi ta diệt độ, trong đời mạt pháp các hạng Ưu bà tắc, Ưu bà di ngu si bị các người xuất gia mê mờ nói làm các việc vô ích, tham đắm mùi đời không có nhàm chán, ần gũi tiểu nhân, không hiểu Như Lai tam ma địa nơi lư thú đại thừa sâu rộng, không dơng mănh tinh tấn, các thiện xảo, luật nghi Bồ tát hạnh, không được quán đảnh, không tin Phật, Bồ tát có tam muội rộng lớn, không được thành tựu, tức sanh phỉ báng ta và các Bồ tát mà nói rằng: “ Đây la ma nói không phải Phật nói, làm nhục các Bồ tát. Nếu trụ đại thừa, Thiện nam tử, Thiện nữ nhơn, người muốn cầu thành tựu chơn ngôn, làm các việc tổn hại không có ích, do nhân duyên nầy chứa nhóm vô lượng tội chướng. Do đó Kim Cang Thủ! Nếu có Thiện nam tử Thiện nữ nhơn muốn tu hạnh Bồ tát, cần sanh ḷng tin trong sạch kiên cố, quyết định nơi các Bồ tát, dùng nguyện rộng lớn ngày đêm viết chép kinh điển đại thừa, thọ tŕ đọc tụng v́ người mà giải nói”.

         Lại nói kệ rằng:

Y nơi kinh quí báu

Tu hành ta  khen ngợi

Do bởi công hạnh nầy

Bổn tôn mau hiện tiền

Để được thành chơn ngôn

Tự thân phải siêng năng

Dùng thí, giới, nhẫn nhục

Và Định, trí huệ vậy

Chuyên chú quyết một ḷng

Mau được thành Bổn tôn.

Phẩm thứ Năm: Nghi Quĩ.

Bấy giờ Kim Cang Thủ lại bạch Phật rằng: “Bạch Thế tôn! Người tu hành Phật đảnh chơn ngôn trụ nơi nghi quĩ thanh tịnh quán tưởng Bổn tôn như thế nào? Cúi xin Thế tôn nói cho, để mau được thành tựu các Tất địa của Phật đảnh”.

Phật bảo: “Đúng vậy Kim Cang! Ông hăy lắng nghe v́ lợi ích các hữu t́nh mà nói, trong các pháp chơn ngôn dạy ba thời cần phải thanh tịnh như nghi quĩ, không có sai, thường quán Phật tam ma địa không có tán loạn, không tham đắm, phiền năo, luôn luôn tưởng Phật, dùng tam ma địa duyên khắp các hữu t́nh ba thời tắm rửa sạch sẽ, y pháp sái răi. Người trí tuệ mạnh mẽ không nên làm hại sanh mạng, mặc áo trong xong, dùng chơn ngôn mà hộ thân:

          -Úm ma ma hồng nặc.

Nếu dùng đất th́ không được dùng đất có trùng, dùng đất sạch sẽ có mùi thơm, không quá đen, quá vàng, quá đỏ, đây là pháp dùng đất thành tựu. Nếu làm pháp quá điều phục dùng đất đen, hoặc đỏ; nếu làm pháp tăng ích dùng đất vàng; tiêu trừ tai hoạ và các tội chứng dùng đất màu trắng, nếu cầu ra nhạ dùng đất không trắng không đen; nếu cầu pháp kính ái dùng đất vàng đỏ; như vậy kẻ trí y trên mà dung, trước dùng, chơn ngôn gia tŕ nơi đất.

          -Úm na ra hồng.

Dùng thổ chơn ngôn nầy

Khiến các pháp thành tựu

Lại dùng hà chơn ngôn

Gia tŕ nơi nước sông.

          -Úm nhập phạ la hồng.

Chơn ngôn gia trị nầy

Tất cả chỗ đều dùng

Chia đất thành ba đống

Để nơi chỗ thanh tịnh

Đất phải xa các chỗ

Hôi hám và nhơ bẩn

Chỗ người nữ tụ tập

Chỗ con nít giỡn chơi

Chỗ trâu ḅ lui tới

Chỗ mọi loài đông đảo

Nơi các chỗ như thế

Hành giả chớ tắm rửa

Nơi nước đọng, ngăn trở

Và có mùi dơ uế

Người trí cần phải xa

Nên t́m sông sạch sẽ

Nước trong trẻo mát mẽ

Không có các bùn đất

Lại ở bên bờ sông

Có các loại cây cối

Nơi đó nên tắm gội

Nước nầy đáng nên dùng

Lại các chỗ như trên

Không có các trùng loại

Có các hoa trang nghiêm

Hành giả nên tắm rửa

Sau lại dùng chơn ngôn

Gia tŕ nơi đất sạch.

          -Úm bát lao nhập phạ la hồng.

Lại nên phải hoàn giáp

Ngón cái để nơi tâm

Chơn ngôn tụng bảy biến

         * Bị giáp chơn ngôn:

          -Úm nhập phạ la đế nhạ hồng.

Do dùng bị giáp minh

Người tu hành ứng dụng

Tức ở khắp cả thân

Được thành đại gia hộ.

         *Bị thân giáp chơn ngôn:

          - Úm nhập phạ la, bạt ra hắc ra na hồng

Gọi là thân giáp bị

Kẻ trí cần nên làm

Tưởng ấn vào trong nước

Từ trên cho đến dưới

Chướng Tỳ na dạ ca

Các ác trùng trong nước

Do sức gia tŕ nấy

Đều không thể làm hại.

          -Úm tra hê măn đà sa phạ ha.

Biện sự chơn ngôn nầy

Là tâm của Phật đảnh

Do nhớ niệm chơn ngôn

Các chướng ở trong nước

Nếu muốn lại phá hoại

Miệng đều bị cấm bế

Dùng để hộ nơi đất

Chia đất thành ba phần

Dùng để làm sạch sẽ

Từ chân cho đến eo

Dùng đất chà cho sạch

Hết mùi hôi bụi bặm

Chư Phật dạy sạch sẽ

Lại dùng phần thứ hai

Từ eo cho đến cổ

Thứ ba chà trên đầu

Dùng đất chà cho sạch

Đất phải không có trùng

Trước cần phải chia ba

Sau đó mới cọ rửa

Dùng biện sự chơn ngôn

Đem gia tŕ nơi nước

Tụng ba biến răi đảnh

Khiến cho được sạch sẽ

Tắm gội sạch sẽ xong

Không được ngồi nói chuyện

Lại dùng Phật hào tướng

Tồi hoại Phật đảnh minh

Để gia hộ khắp cả

Dùng Phật nhăn chơn ngôn

Phổ thông cho Phật bộ

Trợ giúp các Phật đảnh

Thành tựu mạn đà la

Lại kết giới các phương

Ủng hộ nơi đồng bạn

Có thể dùng Phật đảnh

Và thành biện tất cả

Nước không trùng vẫy khắp

Tụng một biến chơn ngôn.

         *Thanh tịnh chơn ngôn:

-Nam mô tát phạ một đà mạo địa tát đát phạ nẫm. Um thú điện nổ thủ đà nẵng da sa phạ ha.

Đây là chú tẩy sái

Dùng cho Như Lai bộ

Đến khi tụng niệm thời

Chuyên chú không tán loạn

Nên nh́n  nơi trước mặt

Cách mắt khoảng ba thước

Tâm thương xót tương ưng

Và có huệ đầu đủ

Lúc khi đang niệm tụng

Nên mặc áo quần sạch

Nô cu la sô ma

Và dùng dà ma y

Kẻ trí khi niệm tụng

Đều y theo nghi quĩ

Cần tụng tịnh chơn ngôn

Và đọc biện sự minh

Gia tŕ nơi toà cỏ

Rồi để nơi trước Phật

Lại tụng niệm Bổn tôn

Khai thỉnh các Hiền Thánh

Chơn ngôn ấn tương ưng

Quán tưởng h́nh Bổn tôn

Kiết Liên hoa bộ ấn

Dùng toà mà hiến dâng

Chư Phật hộ an lành

Chân Phật sạch sẽ đẹp

Toà hoa sen Bồ tát

Là toà đáng ngợi khen

Người tu chơn ngôn nầy

Không nên ngồi sàng cao

Quán tưởng thân Bổn tôn

Cầm chuỗi mà niệm tụng

         *Xuyên châu chơn ngôn:

          -Úm a nạp bộ đế vi nhạ duệ Tất địa tất đà ra để sa phạ ha.

Xâu chuỗi hạt Bồ đề

Nhất định được thành tựu

Thượng, trung, hạ Tất địa

Dùng cho các chơn ngôn

Vàng bạc làm hạt châu

Dùng cho việc tăng ích

Thạnh tịnh bạt để ca

Thành tựu tất cả nghĩa

Dùng đồng tử xỏ hạt

Thảy đều y nghi quĩ

Rồi dùng tự mật ngôn

Như vậy mà gia tŕ

         *Gia tŕ châu chơn ngôn:

          -Nẵng mồ bà nga pha để Tất địa sa đà dă sa đà dă tất đà ra để sa phạ ha.

Nên dùng chơn ngôn nầy

Gia tŕ nơi xâu chuỗi

Cần tụng đủ bảy biến

Cầm nơi ḷng bàn tay

Ngồi nơi toà cỏ tranh

Cầu thành mọi sự việc

Cây mật phạ cát tường

Bạch đàn với Thiên mộc

Các thứ cây như vậy

Niệm châu được tăng ích

Khi niệm tụng hộ ma

Nên dùng loại châu nầy

Lấy cây khư đà la

Và mạt độ cu na

Dùng cây nầy làm châu

Để làm pháp điều phục

Lại dùng thứ cây nầy

Làm giường nằm toà ngồi

Như không có cây nầy

Lấy lá không có trùng

Dùng trải ngồi nằm được

Lại nơi ngồi quán đảnh

Lấy tro cù ma di

Trộn nước dùng sái tịnh

Y pháp tŕ chơn ngôn

Nếu mà không thành tựu

Cộng thêm đảnh Luân vương

Tŕ tụng tức thành tựu

Đọc thêm Tâm, Tuỳ tâm

Cùng nhau mà đọc tụng

Như vậy mà không thành

Đọc thêm chú Phật nhăn

Hợp lại mà tụng đó

Thế tôn Phật nhăn minh

Tất cả Phật đă nói

Chư Phật đời trước khen

Nay ta cũng như thế

Người cầu thành Phật đảnh

Nên như vậy tụng tŕ

Chung nhau mà đọc tụng

Không lâu tức thành tựu

Dầu phạm tội vô gián

Không lâu cũng thành tựu

Nếu như không hoạ tượng

Vận tâm mà quán tưởng

Chư Phật đều ngợi khen

Lại kết lẽ Phật ấn.

         *Quán tưởng tụng chơn ngôn:

          -Nẵng mồ ra đát nẵng đát ra dạ a tả ra vĩ lệ sa phạ ha.

Lại kết Đại ấn, tưởng trên ấn có vô lượng các báu, các báu thành ra núi, trên núi tưởng bảy báu thành hoa sen hoa có trăm ngàn cánh, gương sen to lớn trên gương có lầu các, trong lầu các có Phật ngồi như chơn ngôn h́nh trong pháp hoạ tượng có nói. Thế tôn ngồi kiết già phu kết Ấn thuyết pháp, đầy đủ các tướng Trượng phu trang nghiêm nơi thân: xung quanh có hào quang, tất cả đều như trong pháp hoạ tượng. Lại tưởng nơi trên gác của lầu các có bánh xe có vô lượng các báu che trên, tuỳ ư tưởng lớn ra 1 do tuần,  trăm do tuần hoặc ngàn do tuần, chuyên chú quán tưởng, không được tán loạn, tâm để nơi Bổn tôn cầu giá tŕ, thành tựu.

Dùng Vô Cấu Hải chơn ngôn gia tŕ, Đại hải chơn ngôn rằng:

-Úm vĩ ma lô nại địa hồng.

Dùng Sơn chơn ngôn gia tŕ nơi núi, Sơn chơn ngôn:

-Úm a tả la hồng.

Dùng Liên hoa chơn ngôn gia tŕ hoa sen, Liên hoa chơn ngôn:

-Úm hồng ca ma la sa phạ ha.

Dùng Nhất thiết Bảo lầu Các chơn ngôn, Lầu các chơn ngôn :

          -Nẵng mồ tát phạ dát tha nghiệt đa mẫm tát phạ tha khiếm ôn nhạ nghiệt đế

tát phả ra nhất hàm nga nga năng kiếm sa phạ ha.

Lại thỉnh Phật Thế tôn, tụng chơn ngôn tưởng Thế tôn từ Trời Đao lợi giáng lâm đến đạo tràng, tức dâng ứ già.

Đă dùng thần thông đến,

Xin thọ con cúng dường.

Sau đó dùng Lục tự Phật đảnh kết giới phương trên, tưởng tắm rửa Như Lai, Bổn tôn và ba bộ chủ, lại hiến hương xoa, hương, hoa, y phục, ẩm thực. Nếu như không có đầy đủ các món cúng dường, trong tâm quán tưởng mà dâng hiến, như vậy nghi quĩ cúng dường đă xong. Lại sám hối, tuỳ hỷ, khuyến thỉnh, hồi hướng, phát nguyện đều nên làm, sau đó để tâm nơi chót mũi một ḷng tụng niệm cho đến hết chỗ niệm tụng biến số xong, lại hiến hương hoa, hương đốt, đèn sáng, đồ ăn uống cúng dường, lại dâng ứ già lương tiển đưa Bổn tôn ra cửa phía Đông, lễ tất cả chư Phật, Bồ tát rồi đứng dậy. Ngày tu ba thời, v́ người không hoạ tượng mà nói nghi quĩ nầy.

Phẩm thứ Sáu: Phân Biệt Tướng Bí Mật

Bấy giờ  Phật Thích Ca Mâu Ni lại bảo Bí mật chủ Kim Cang Thủ rằng: “Kim Cang Thủ! Ông hăy nghe. Đây là Phật đảnh Luân vương tu hành chơn ngôn thành tựu tất cả Như Lai đă nói, muốn thành tựu Phật đảnh dùng bất hoại dà đà câu (kệ). Kim Cang Thủ! Ta nay nói lược các việc thành tựu trước sau, tức nói kệ:

Nơi thánh chúng tụ tập

Chỗ đó là linh địa,

Tịnh thất và Phật đường

Nhà trống và hang hóc

Cây lớn hoặc thi lâm

Núi rừng và sơn cốc

Niệm tụng đựơc thành tựu

Tâm luôn nghĩ Bổn tôn

Không thanh tịnh khiến tịnh

Biến mọi thứ thanh tịnh

Nơi thanh tịnh thành tựu

Dùng hai loại, hai thứ

Được gọi là thành tựu

Tu tất cả Tất địa

Uống ăn có chừng mực

Không quá no quá đói

Uống ăn vừa đủ thôi

Ngon ngọt và nồng béo

Nên bỏ chớ nên tham

Các hữu t́nh tham lam

V́ đắm say mùi vị

Do tham niệm hộ ma

Không được sanh nhất tám

Đầu hôm cho đến khuya

Trong đêm cần yên tịnh

Ngồi nơi toà cỏ tranh

Tất cả như nghi quĩ

Chơn ngôn ấn tương ứng

Nằm ngủ như sư tử

Tư thế thật mạnh mẽ

Hướng Đông và hướng Nam

Xuôi tay mà nằm ngủ

Tức, Tăng phép hộ ma

Theo hướng Đông và Nam

Đùi trái để trên phải

Tay chân đều y vậy

Xếp chân sau đó an

Ít phần dùng trang nghiêm

Đầu hướng về phía Tây

Mặt ngó qua hướng Nam

Lại cũng cần hộ thân

Và hàng phục như nhau

Dùng củi cây bạch đàn

Kiết tường ni câu đà

Và cây Ưu đàm bát

Các thứ loại cây trên

Đây là tướng thành tựu

Chim ca lăng tần già

Uyên ương và bạch hạc

Khổng tước, các chim lành

Trong mộng nếu được thấy

Các tướng trạng như vậy

Không lâu được Tất địa

Nếu trong mộng thấy máu

Đây là tướng thành tựu

Lại như thấy trong mộng

Tràng phan xen lẫn nhau

Đèn sáng nơi lầu cao

Che chở và đi chơi

Đây là tướng thành tựu

Hoặc thấy cởi thuyển bè

Tay cầm các nhạc khí

Hay thấy tháp nhiều tầng

Đều là các mộng tốt

Là tướng sắp thành tựu

Nếu như ở trong mộng

Thấy chó, chiên đà la

Và đĩa bu quanh ḿnh

Đều là tướng không tốt

Lừa ngựa và xe cộ

Nếu thấy và chạm xúc

Th́ không được thành tựu

Như vậy các mộng tướng

Tốt và có không tốt

Đây là hai loại mộng

Cầu thành tựu nên biết

Phải làm pháp hộ  ma

Đốt cánh mễ, dầu mè

Sẽ thoát các ma chướng

Tức thấy được Bổn tôn

Lại thường được kỉnh giá

Thánh giả sẽ hiện thân

Đầu đủ nơi trước mặt

Lại thiêu đốt tô, mật

Tức thấy mọi sự thật

Bỏ ăn là sự thật

Nơi đạo là chơn thật

Nếu nghi nơi Bổn tôn

Th́ nơi đêm nằm ngủ

Nguyện cầu xin hiện thân

Nếu hiện tướng trượng phu

Hoặc thấy người đàn bà

Hay sanh tâm tham đắm

Cũng đừng cho tán loạn

Khi ngủ phải gia tŕ

Niệm tung không suy nghĩ

Các tiền bạc của báu

Hiện tại và vị lai

Thận trọng chớ nghĩ đến

Không thành pháp niệm tụng

Nếu như tâm loạn động

Quán nghĩa lư chơn ngôn

Nơi định làm niệm tụng

Tâm nếu khởi tham nhiễm

Nên quán pháp bất tịnh

Nếu tâm khởi giận dữ

Nên dùng quán từ bi

Nếu ngu si phát sanh

Các loại trong tâm khởi

Cần phải chuyên chú tâm

Một ḷng mà niệm tụng

Quán tưởng rơ Bổn tôn

Nếu chưa nhập luân đàn

Dâng các loại hương hoa

Bị các ma ăn mất

Do không đúng nghi quĩ

Và không hiểu rơ ràng

Không gần A Xà Lê

Các ma nương theo đó

Như bóng đeo theo h́nh

Sức niệm tụng bị mất

Các ma ăn hương hoa

Niệm tụng và hộ ma

Bổn tôn không thọ được

Đây chơn ngôn chủ tể

Thành tựu Đảnh Luân vương

Nên dùng mà giá trị

Hộ ma làm các việc

Không có các chướng ngại

Thành tựu được Luân vương

Do đây được gia hộ

Thành tựu khắp mọi nơi

Lại tụng Vô Năng Thắng

Dùng gia tŕ tư thân

Chơn ngôn của Bồ tát

Là quyến thuộc Luân vương

Cần dùng để gia hộ

Chơn ngôn thành tựu thời

Niệm tụng hộ ma đủ

Trước phải nên hộ thân

Nếu không làm như vậy

Tất địa tức không thành

Hư không các Dạ xoa

Quỉ thần, các la sát

Cùng nhau đến phá hoại

Khiến sanh tâm nghi ngờ

Các hoa vĩ nổ phạ

Át ca độ độ ma

Thẩy đều không nên dùng

Tất cả Phật đảnh bộ

Khen tán hoa xà đề

Sen xanh Câu vật đầu

Liên hoa duệ thể hoa

và các loại hoa khác

hương thơm và sạch sẽ

Nếu biết Phật đảnh minh

Thường nên dùng cúng dường

Nếu tu không thành tựu

Hai ba lần tác pháp

Cho đến được bảy lần

Như vậy tức được thành

Lại vào sông biển lớn

Mà làm ấn tháp pháp

Hoặc một,hai, ba, bốn,

Tuỳ sức mà làm đó

Niệm tụng và ấn pháp

Cung kính và khen ngợi

Xưng tụng các diệu điển

Số số phải đầy đủ

Tháp măn ba lạc xoa

Các tội đời trước diệt

Dùng các hoa thật thơm

Hương đốt và hương xoa

Cúng dường Xuất đổ ba (tháp)

Trước mỗi tháp như vậy

Dùng chơn ngôn gia tŕ

Mỗi mỗi xuất đổ ba

Tụng ngàn tám chục biến

Nếu chơn ngôn không thành

Do tội c̣n chưa tiêu

Nên làm đàn một khuỷu

Một ngàn xuất đổ ba

Dầu tạo ngũ vô gián

Cũng nhất định thành tựu

Do niệm tụng tiêu tội

Huống chi nữa làm tháp

Nơi trong sông biển lớn

Hiến mười vạn liên hoa

Sau khi đầy đủ số

Mau chóng được thành tựu

Nơi sông biển lớn kia

Đâu cần phải hạn lượng

Thành tựu chậm hay mau

Đều là do nơi thân

Thành tựu được chân ngôn

Do phước hoặc vô phước

Nếu như nhiều phước đức

Không bao lâu th́ sẽ

Mau chóng được Tất địa

Nên tạo xuất đổ ba

Tất địa là căn bản

Cần phải nên tinh tấn

Được thành tựu bền chắc

Chơn ngôn nơi trong kinh

Không trừ các loại độc

Nghĩa lư thấy như vậy

Cần gắng công niệm tụng

Nên v́ cha, mẹ, thầy

Thọ khổ các chúng sanh

Một phần đức niệm tụng

V́ kia mà hồi hướng

V́ tiêu trừ tội chướng

Cần phải thường lạy Phật

Do lạy Phật niệm tụng

Mau chóng được thành tựu

Lễ Phật được quả báo

Phước đức thật không lường

Biết vậy nên qui mạng

Cố gắng cung kính lễ

Sau mau thành Tất địa

ở trong đời mạt pháp

Chơn ngôn không thành tựu

Do đó Thích Ca ta

Nói đệ tử oai đức

Đời sau được giải thoát

Cần xa tâm nghi ngờ

Luôn luôn phải tinh tấn

Tu tŕ các Tất địa

Không lâu được thành tựu

Người đầy đủ phước đức

Mau chóng được Tất địa

Phần nhiều là ít phước

Nên thành tựu chậm trễ

Nếu bi trí tương ưng

Mau được thắng Tất địa

Nếu không có lưu ly

Nên dùng pha lê đỏ

Tŕ Phật đảnh chơn ngôn

Được bất khả tư nghi

Nên dùng dầu thanh tịnh

Dâng hiến cho Bổn tôn

Chia ra làm ba phần

V́ thương xót hữu t́nh

Trước tiên lấy một phần

Để cúng dường Bổn tôn

C̣n lại một phần nữa

Đem cho người qua lại

Phần cuối tự ḿnh ăn

Phần cúng Bổn tôn xong

Nên đem ra bố thí

Nếu không có khách đến

Đem thí cho chim chóc

Các phần chia đă xong

Đem thí cho hết đă

V́ để nuôi thân mạng

Ban phát đầy đủ xong

Xây hướng Nam mà ăn

Đây là pháp điều phục

Không nên xây về Tây

Thường làm việc điều phục

Đông Bắc là Tức, Tăng

Thành tựu các Phật đảnh

Mặt nên xây về Đông

Nên khởi ḷng thương xót

Ba thời nên suy nghĩ

Ở nơi biển sanh tử

Ta nay cần cứu độ

Tâm đại bi tương ưng

Xuất gia và tại gia

Cho đến các Phạm Chí

Đều phải khởi ḷng từ

Niệm tụng và du hành

Cần phải luôn cẩn thận

Và phải luôn kính lễ

Các tháp miếu thờ Phật

Các chơn ngôn khó thành

Nên đọc tụng mọi lúc

Siêng tu tam ma địa

Người nầy được tự tại

Điều phục được tất cả

Thị hiện tất cả sắc

Do đó cần nên làm

Niệm tụng và hộ ma

Tắm gội và sái tịnh

Như ở trên đă nói

Sau đó lại hộ thân

Hạt cải tro kiết giới

Dùng Biện sự chơn ngôn

Hoặc dùng Tồi hoại đảnh

Gia tŕ dây và then

Cột đóng nơi bốn góc

Xong rồi lại cúng dường

Và ân cần mời thỉnh

Tất cả các Thánh chúng.

Lư hộ ma tụng niệm

Đem đặt ở nơi toà

Đây là nhơn thành tựu

Dùng phân trâu trộn đất

Để tô đắp Đàn tràng

Sắp đặt các cúng dường

Trước là các Như Lai

Y nghi quỉ dâng hiến

Lại bên Luân Vương Đảnh

Tuần tự mà cúng dường

Lại đến Quán Tự Tại

Cùng với các quyến thuộc

Lại đến Kim Cang Thủ

Dâng cúng như cúng Phật

Tất cả các hương hoa

Đều y theo các bộ

Hết thảy đủ ba bộ

Đều phải nên cúng dường

Do đây làm kỉnh giác

Tất cả trời hộ đời

Người ngu dầu cố nói

Mọi người tu chơn ngôn

Tất cả đều là vọng

Nếu không nói nghi quỉ

Bị đoạ v́ phỉ báng

Dầu mè, hạt cải trắng

Nên dung để hộ ma

Hay thành việc kính ái

Đốt dầu mè, cánh mễ

Hay thành việc tăng ích

Độc dược, cây có độc

Trộn chung mà hộ ma

Kẻ làm hại Phật Pháp

Thảy đều bị tiêu trừ

Lấy cây Vĩ nổ phạ

Vô ưu các lá trắng

Và dung bạch sâm mộc

Hộ ma thành tăng ích

Dùng các cây như vậy

Ni câu đà, Ưu đàm

Cây a thuyết có nhựa

Các cây hoạt nhi tử

Nếu làm pháp tức tai

Th́ dùng các cây nầy

Lại lấy khư đà la

Ca la ca mộc đốt

Cây ca la vỉ la

Như vậy các loại nầy

Dùng điều phục, tăng ích

Mặt xây về phương nam

Kêu tên mà thiêu đó

Ư tưởng, miệng đọc tên

Để làm pháp điều phục

Mặt xây về hướng Bắc

Ở trong câu chơn ngôn

Thêm chữ sa phạ ha

Là làm pháp tức tai

Nên tu các Phật đảnh

Ngồi xây mặt hướng Đông

Hộ ma làm tăng ích

Ngồi kiết già Tức tai

Ngồi kiết tuờng Tăng ích

Ngồi tôn cư Điều phục

Trừ hại làm Hộ ma

Gọi là pháp Điều phục

Ngăn dứt các chướng nạn

Gọi là pháp Tức tai

Cầu mọi việc  tùy ư

Gọi là pháp Tăng ích

Như vậy tất cả chỗ

Suy nghĩ mà tu hành

Kẻ ganh ghét Phật Pháp

Khiến phải bị xa ĺa

Đây là pháp tương tắng

Người tu hành thanh tịnh

Không để tóc, móng dài

Các chỗ ở như vậy

Không thể thành Tất điạ

Không ở nơi người nữ

Chỗ có nhiều gió độc

Các chỗ ở như vậy

Không thể cầu thành tựu

Chỗ ở nếu tốt đẹp

Niệm tụng làm hộ ma

Thánh chúng đêu vui vẽ

Do làm việc hộ ma

Thành tựu các sự nghiệp

Như vua không đủ tướng

Không thể làm vua được

Tùy theo sức mà làm

Niệm tụng và hộ ma

Kẻ hạ liệt tu hành

Quả báo cũng hạ liệt

Nếu cầu độc, đao, tượng

Không thể nào ban cho

Chỉ trừ pháp Kính Ái

V́ để hộ thân mạng

V́ để trừ phiền năo

Như vậy các nhân duyên

Đều không thể cho được

Người tu hành thanh tịnh

Bị chạm xúc dơ dáy

Cần phải nên tắm rữa

Tâm tụng, kết Ấn khế

Tất cả các tham đắm

Đều dung chơn ngôn tịnh

Kẻ tại gia tu hành

Để tóc không có lỗi

Khi niệm tụng hộ ma

Nếu có chỗ nghi ngờ

Bị các việc lôi cuốn

Giờ giấc không nhất định

Khi cúng dường Thánh chúng

Trong than nhiều cáu bẩn

Trên đầu rận chí sanh

Sanh ra các tội lỗi

Không nh́n mặt trời lên

Khi nhật thực không nh́n

Không được nh́n nguyệt thực

Không kính trọng tôn sư

Lúc cúng dường Thánh chúng

Không tưởng việc an lạc

Không được sạch sẽ than

Do đó, kẻ tu hành

Phải thường ở trong định

Khi trong nước đói kém

Hoặc khi có chiến tranh

Quốc chủ không hoà thuận

Không thể cầu Tất địa

Chư Thánh đă bỏ đi

Chơ quỉ thần, Dạ xoa

Nơi Long thần năo loạn

Nơi nghĩa địa xấu dơ

Nơi xe cộ đông đúc

Nơi nhiều rắn rít ở

Hoặc là chỗ hạn hán

Tụng chú và kết Ấn

Thảy đều được thanh tịnh

Các loại quĩ thần dơ

Dạ xoa, quĩ khởi thi

Và La sát thành tựu

Trên giữa nơi làm Pháp

Kẻ trí không nên nghi

Nơi suối song sạch sẽ

Tắm rữa nước Chánh pháp

Dùng huệ mà syư nghĩ

Niệm tụng đều nên làm

Đều nên ngồi kiết già

Các việc giúp lẫn nhau

Nếu khi muốn đứng dậy

Đều cần phải tắm rữa

Hoặc dung tâm trong sạch

Mọi việc thành tốt đẹp.

 

QUYỂN THỨ HAI

HẾT

 

previous.png   back_to_top.png   next.png

[ TRANG CHỦ | KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0