mp009-101x135.jpgS2.1-480135.jpgmp008-5161-135x102.jpg

HOME | 中文主頁 | 經典 | ENGLISH | SUTRA | CHỬ VIỆT | KINH ĐIỂN | GALLERY | CONTACTS ]

 

Trang Chủ

Kinh Điển

Thần Chú

Hình Ảnh

Liên Lạc

 

Kinh Thủ Lăng Nghiêm

10 Quyển

Quyển 01-05

Quyển 06-10

 

  Quyển 01-05

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM

TK Thích Duy Lực

Dịch từ Hán sang Việt và lược giải

 QUYỂN MỘT

Tôi nghe như vầy: Lúc bấy giờ tại tịnh xá Kỳ Hoàn thành Thất La Phiệt, Đức Phật và chúng Đại Tỳ Kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị, đều là Đại A La Hán, đă ra khỏi luân hồi, đầy đủ oai nghi, giúp Phật hoằng pháp nơi các quốc độ, tŕ giới thanh tịnh, làm mô phạm cho tam giới, ứng hiện vô số thân, hóa độ chúng sanh đến cùng tột vị lai ra khỏi trần lao. Hàng đệ tử được phó chúc trụ tŕ Phật pháp gồm có: Đại Trí Xá lợi Phất, Ma Ha Mục Kiền Liên, Ma Ha Câu Si La, Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử, Tu Bồ Đề, Ưu Ba Ni Sa Đà v.v... là bậc thượng thủ, và có vô số Bích Chi với môn đồ đồng đến nơi Phật cùng các Tỳ Kheo măn hạ tự tứ. Khi ấy, mười phương Bồ Tát tuân theo lời Phật sẽ cầu Mật nghĩa, hỏi đạo để quyết nghị.

Bấy giờ, Như Lai trải ṭa ngồi yên v́ đại chúng trong Hội khai thị pháp chưa từng có, nghĩa lư thâm sâu, diệu âm thuyết pháp vang khắp mười phương thế giới, hằng sa Bồ Tát đều đến tụ hợp, trong đó Văn Thù Sư Lợi là bậc Thượng thủ.

Khi ấy, vua Ba Tư Nặc nhân ngày giỗ của phụ vương làm lễ trai tăng, sắm đủ các món ăn quư báu, đích thân đến thỉnh Phật và chư Đại Bồ Tát vào cung thọ trai. Trong thành c̣n có nhiều trưởng giả, cư sĩ khác cũng cùng ngày thiết lễ trai tăng, thỉnh Phật đến thọ cúng dường. Phật sai Văn Thù dẫn đầu chư Bồ Tát và A La Hán, chia thành nhiều nhóm, ứng lời mời đến thọ trai nơi các trai chủ. Chỉ có A Nan được vị khác mời riêng, đi xa chưa về, không kịp cùng dự với tăng chúng.

Lúc ấy, trên đường trở về, một ḿnh A Nan chẳng có thượng tọa và A Xà Lê cùng đi, ngày đó lại không ai mời đi cúng dường, trong tâm mong cầu gặp được vị trai chủ sau cùng. Trước kia, A Nan đă từng nghe Phật quở Tu Bồ Đề và Đại Ca Diếp, là bậc A La Hán, mà người chuyên chọn khất thực nhà giàu, người chuyên chọn khất thực nhà nghèo, tâm chẳng b́nh đẳng, quyết tuân theo pháp b́nh đẳng bất nhị của Như Lai, để tránh mọi sự chê bai và nghi hoặc, trong tâm cho rằng: Đối với trai chủ, chẳng kể quư tộc hay hèn hạ, thức ăn dơ sạch, phát tâm từ bi để thành tựu cho tất cả chúng sanh đều được gieo trồng vô lượng công đức. Vừa nghĩ như vậy, tay ôm b́nh bát, đi từng nhà dọc theo đường phố, oai nghi nghiêm chỉnh, đúng pháp khất thực.

Lúc A Nan đang khất thực đi ngang nhà dâm, bị nàng huyễn thuật Ma Đăng Già dùng tà chú Phạm Thiên của ngoại đạo tóc vàng nhiếp vào nhà dâm, vuốt ve cám dỗ, sắp bị hoại giới thể.

Phật đă biết trước việc này, thọ trai xong, liền về, vua và đại thần, trưởng giả cư sĩ, đều đi theo Phật, xin nghe pháp yếu.

Bấy giờ, đảnh đầu Thế Tôn phóng ra hào quang bách bửu vô úy, trong hào quang nở ra bửu liên hoa ngàn cánh, trên đó có hóa thân Phật ngồi kiết già thuyết thần chú, sai Văn Thù đem chú đến cứu hộ, tà chú tiêu diệt, dắt A Nan và Ma Đăng Già về nơi Phật ở.

A Nan gặp Phật, đảnh lễ rơi lệ, hối hận xưa nay chỉ ham học rộng nghe nhiều, chưa tṛn đạo lực, nay ân cần thỉnh hỏi Như Lai về phương tiện đầu tiên của ba thứ thiền quán: Sa Ma Tha (1), Tam Ma (2) và Thiền Na (3), mà mười phương Như Lai đă tu được thành chánh giác. Khi đó có hằng sa Bồ Tát và các bậc Đại A La Hán, Bích Chi Phật nơi mười phương đều xin cùng nghe, im lặng ngồi yên để lănh thọ pháp yếu của Phật.

Khi ấy, Thế Tôn giơ tay dịu dàng rờ đầu A Nan, nói với A Nan và đại chúng:

- Có pháp Tam Ma Đề, gọi là Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Vương, bao hàm vạn hạnh, là đường lối vi diệu trang nghiêm, cũng là pháp môn đưa đến giải thoát cuối cùng của mười phương Như Lai, nay ngươi hăy chú ư nghe.

A Nan đảnh lễ, kính vâng lời Phật dạy.

Phật bảo A Nan:

- Ngươi và ta là anh em, cùng một giống ṇi, chẳng biết lúc mới phát tâm, ở nơi pháp ta, ngươi thấy tướng thù thắng ǵ liền xả ân ái sâu nặng của thế gian?

A Nan bạch Phật:

- Con thấy ba mươi hai tướng thù thắng tuyệt diệu của Như Lai, h́nh thể trong sáng như lưu ly, thường tự nghĩ tướng này chẳng phải do dục ái sanh ra. Tại sao? V́ dục ái ô nhiễm xấu xí, cấu kết tinh huyết nhơ bẩn chẳng thể sanh ra diệu tướng quang minh, thanh tịnh thù thắng như thế, do đó nên khâm mộ theo Phật xuất gia.

Phật nói:

- Lành thay! A Nan, các ngươi nên biết, tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, sanh tử liên tục, chỉ v́ chẳng biết chơn tâm thường trụ, thể tánh trong sạch sáng tỏ, lại nương theo vọng tưởng, vọng tưởng chẳng chơn nên có luân hồi. Mười phương chư Phật cùng một đạo ĺa khỏi sanh tử đều do trực tâm, v́ tâm hạnh và lời nói ngay thẳng, như thế từ đầu đến cuối, cho đến các ngôi bậc, ở khoảng giữa chẳng có các tướng quanh co.

- Nay ngươi muốn tham cứu vô thượng Bồ Đề, phát minh chơn tánh, hăy trực tâm mà trả lời câu hỏi của ta. A Nan, nay ta hỏi ngươi: lúc ngươi phát tâm duyên theo ba mươi hai tướng của Như Lai, lấy ǵ để thấy? Ai biết sự ham thích?

- Bạch Thế Tôn, dùng tâm và mắt của con thấy tướng thù thắng của Như Lai, sanh ḷng ham thích nên phát tâm, nguyện xả bỏ sanh tử.

Phật bảo:

- Như ngươi vừa nói, sự ham thích do nơi tâm và mắt. Nếu chẳng biết tâm và mắt ở đâu th́ chẳng thể hàng phục được trần lao; ví như đất nước có giặc, vua sai binh dẹp trừ, binh lính tất phải biết sào huyệt của giặc. Khiến ngươi bị luân chuyển ấy là lỗi tại tâm và mắt. Ta hỏi ngươi: Tâm và mắt của ngươi hiện đang ở đâu?

BẢY CHỖ GẠN HỎI T̀M TÂM

Phá chấp tâm ở trong thân

- Bạch Thế Tôn! Tất cả mười loại chúng sanh trên thế gian đều cho tâm thức ở trong thân. Nay con nhận được mắt con ở trên mặt con và tâm thức ở trong thân, như mắt Thanh Liên Hoa của Như Lai ở trên mặt Như Lai vậy.

Phật bảo:

- A Nan! Nay ngươi ngồi trong giảng đường của Như Lai, nh́n thấy rừng Kỳ Đà ở chỗ nào?

- Bạch Thế Tôn! Giảng đường rộng răûi thanh tịnh này trong vườn Cấp Cô Độc, c̣n rừng Kỳ Đà th́ ở ngoài giảng đường.

- A Nan! Bây giờ ngươi ở trong giảng đường trước tiên thấy ǵ?

- Bạch Thế Tôn! Con ở trong giảng đường trước thấy Như Lai, sau thấy đại chúng, rồi nh́n ra ngoài mới thấy rừng cây.

- A Nan! Ngươi thấy rừng cây, do nhân nào được thấy?

- Bạch Thế Tôn! V́ cửa sổ giảng đường mở trống nên con ở trong thấy suốt bên ngoài.

Phật bảo A Nan:

- Như ngươi vừa nói, thân ở trong giảng đường, nhờ cửa mở trống nên thấy rừng cây; mà có chúng sanh nào ở trong giảng đường chẳng thấy Như Lai, lại thấy rừng cây bên ngoài chăng?

- Bạch Thế Tôn! Ở trong giảng đường chẳng thấy Như Lai, lại thấy rừng cây bên ngoài th́ chẳng đúng.

- A Nan! Ngươi cũng như vậy, linh tâm của ngươi tất cả sáng tỏ, nếu tâm sáng tỏ hiện tiền của ngươi thật ở trong thân th́ trước tiên phải thấy rơ trong thân. Vậy có chúng sanh nào trước thấy trong thân rồi sau mới thấy vật bên ngoài chăng? Dẫu chẳng thấy được tim, gan, tỳ, vị, th́ các chỗ: móng ra, tóc dài, gân chuyển cũng phải thấy chứ, sao lại chẳng thấy? Nếu trong thân c̣n chẳng thấy th́ làm sao thấy vật bên ngoài? Cho nên ngươi nói "Cái tâm giác tri trụ ở trong thân" là chẳng đúng. (Tự tánh bất nhị, vốn chẳng có nghĩa đúng và chẳng đúng, chỉ v́ trị bệnh chấp thật nên nói chẳng đúng).

Phá chấp tâm ở ngoài thân

A Nan cúi đầu bạch Phật:

- Con nghe lời dạy của Như Lai, ngộ được tâm con thật ở ngoài thân. Tại sao? Ví như đèn thắp trong pḥng th́ trước phải chiếu sáng trong pḥng, rồi sau mới từ cửa rọi ra ngoài sân. Tất cả chúng sanh chẳng thấy trong thân, chỉ thấy ngoài thân, cũng như ngọn đèn ở ngoài pḥng chẳng thể chiếu sáng trong pḥng, nghĩa này rơ ràng, chẳng c̣n nghi ngờ, vậy so với nghĩa lư rốt ráo của Phật chẳng sai ư?

Phật bảo A Nan:

- Các Tỳ Kheo vừa theo ta khất thực trong thành rồi trở về rừng Kỳ Đà. Ta đă thọ trai xong, ngươi thử nghĩ, trong số Tỳ Kheo, chỉ một người ăn mà các vị khác được no chăng?

- Bạch Thế Tôn! Không ạ! Tại sao? Dù các Tỳ Kheo đều là bậc A La Hán, nhưng cơ thể chẳng đồng, đâu thể một người ăn mà khiến cả chúng đều no.

- A Nan! Nếu tâm giác tri của ngươi thật ở ngoài thân th́ trong ngoài khác nhau, chẳng có liên quan, hễ tâm biết th́ thân chẳng biết, thân biết th́ tâm chẳng biết. Nay ta đưa tay cho ngươi xem, trong lúc mắt thấy, tâm ngươi biết được chăng?

- Bạch Thế Tôn! Vâng biết.

- A Nan! Nếu thân và tâm cùng biết một lượt th́ sao lại nói tâm ở ngoài thân? Nên biết, ngươi nói "tâm giác tri trụ ở ngoài thân" là chẳng đúng.

Phá chấp tâm ẩn núp sau con mắt

- Bạch Thế Tôn! Như lời Phật dạy, chẳng thấy bên trong nên chẳng ở trong thân; thân tâm cùng biết một lượt chẳng thể rời nhau nên chẳng ở ngoài thân, nay con thiết nghĩ tâm ở một chỗ.

- Ở chỗ nào?

- Tâm giác tri này đă chẳng biết trong mà thấy bên ngoài, theo con nghĩ là nó ẩn núp sau con mắt. Ví như có người lấy chén lưu ly úp vào hai mắt (ngày nay có thể nói là đeo kính), tuy có vật úp ở ngoài mà chẳng ngại nhăn căn, tùy sự thấy liền phân biệt được. Tâm giác tri của con chẳng thấy bên trong v́ ở nơi con mắt, thấy rơ ràng bên ngoài v́ ẩn núp sau con mắt.

Phật bảo A Nan:

- Theo lời ngươi nói, tâm núp sau con mắt như con mắt núp sau chén lưu ly, vậy th́ lúc thấy núi sông, mắt thấy chén lưu ly chăng?

- Bạch Thế Tôn! Thật thấy chén lưu ly.

- A Nan, con mắt núp sau chén lưu ly th́ thấy được chén lưu ly; c̣n tâm núp sau con mắt sao chẳng thấy mắt? Dù cho là thấy mắt, mắt tức là cảnh, cảnh làm sao thấy cảnh? Nếu chẳng thấy mắt th́ ngươi nói "Tâm giác tri ẩn núp sau con mắt" là chẳng đúng.

Phá chấp nhắm mắt thấy tối là thấy trong thân

- Bạch Thế Tôn! Nay con lại thiết nghĩ rằng, thân thể của chúng sanh, tạng phủ ở trong, khiếu huyệt (ngũû căn) ở ngoài, nơi tạng th́ tối, nơi khiếu th́ sáng. Nay con ở trước mặt Phật, mở mắt thấy sáng gọi là thấy bên ngoài, nhắm mắt thấy tối gọi là thấy trong thân, nghĩa này thế nào?

Phật bảo A Nan:

- Khi ngươi nhắm mắt thấy tối, cái cảnh tối ấy là đối với mắt hay chẳng đối với mắt?

-  Nếu đối với mắt th́ tối ở trước mắt, tức ở ngoài thân, sao nói ở trong thân? Giả sử cho tối là trong thân th́ lúc trong pḥng tối chẳng có ánh sáng, những ǵ trong pḥng tối đều là tạng phủ của ngươi sao?

- Nếu chẳng đối với mắt th́ làm sao được thấy? Nếu ĺa sự thấy bên ngoài, thành lập sự thấy đối vào trong, khi nhắm mắt thấy tối gọi là thấy trong thân; vậy khi mở mắt thấy sáng sao chẳng thấy mặt?

- Lại, nếu chẳng thấy mặt th́ cái nghĩa "con mắt đối vào trong" chẳng thể thành lập: nếu thấy mặt th́ tâm giác tri và nhăn căn đều ở tại hư không, làm sao nói ở trong?

- Lại, nếu ở ngoài hư không th́ chẳng phải thân ngươi, tức hiện nay Như Lai thấy mặt ngươi cũng là thân ngươi sao? Vậy mắt ngươi thấy biết th́ thân ngươi chẳng biết. Nếu ngươi cho thân và mắt cùng biết một lượt, th́ phải có hai cái biết, tức một thân ngươi phải thành hai Phật! Nên biết ngươi nói "thấy tối gọi là thấy trong thân" là chẳng đúng.

Phá chấp sự suy nghĩ là tâm

- Con đă từng nghe Phật khai thị chúng rằng: Tâm sanh nên các pháp sanh, pháp sanh nên các tâm sanh. Nay con suy nghĩ, chính cái suy nghĩ ấy là tâm của con; tùy sự suy nghĩ tâm liền có, cũng chẳng ở trong, ngoài và chính giữa.

- A Nan, ngươi nói pháp sanh nên các tâm sanh, tùy sự suy nghĩ tâm liền có. Tâm chẳng có tự thể th́ chẳng thể suy nghĩ; nếu chẳng có tự thể mà suy nghĩ được th́ vô căn phải thấy được vô trần, nghĩa này chẳng đúng.

Nếu có tự thể th́ ngươi thử dùng tay tự búng thân ḿnh xem, cái tâm biết của ngươi là từ trong thân ra hay từ bên ngoài ra? Nếu từ bên trong ra th́ phải thấy trong thân; nếu từ bên ngoài ra th́ trước tiên phải thấy mặt.

- Mắt chủ sự thấy, tâm chủ sự biết, tâm không phải như mắt, nói tâm thấy là chẳng đúng nghĩa.

 Phật bảo A Nan:

- Nếu thấy là con mắt th́ ngươi ở trong pḥng, cửa biết thấy chăng? (pḥng dụ cho thân, cửa dụ cho mắt). Như kẻ đă chết con mắt vẫn c̣n, lẽ ra phải thấy được vật; nếu thấy được vật th́ sao gọi là chết?

- Lại, tâm hay biết của ngươi nếu thật có tự thể, là một thể hay nhiều thể? Nay nơi thân ngươi, tâm cùng khắp cơ thể hay chẳng cùng khắp?

- Nếu nói một thể, khi tay ngươi búng một chi, lẽ ra tứ chi đều biết, nếu đều biết th́ chỗ búng chẳng có, nếu có chỗ búng th́ chẳng phải một thể. Nếu như nhiều thể th́ thành nhiều người, vậy thể nào là của ngươi?

- Nếu nói khắp cả cơ thể th́ đồng như sự búng kể trên, nếu chẳng khắp th́ khi ngươi rờ đầu và chân, đầu có biết chân phải không biết, nhưng hiện nay ngươi lại chẳng phải như vậy. Nên biết ngươi nói: "Tùy sự suy nghĩ tâm liền có" là chẳng đúng.

Phá chấp tâm ở chính giữa

- Bạch Thế Tôn! Khi Phật với Văn Thù và các Pháp Vương Tử luận về thật tướng, con cũng nghe Phật nói tâm chẳng ở trong cũng chẳng ở ngoài. Theo như con nghĩ, v́ chẳng biết trong nên chẳng phải ở trong, thân tâm cùng biết một lượt nên chẳng phải ở ngoài, nay cùng biết một lượt mà chẳng thấy bên trong, tất phải ở giữa.

- Ngươi nói "ở giữa" th́ cái chính giữa ấy phải rơ ràng, chẳng phải không chỗ. Theo ngươi suy xét, giữa ở chỗ nào? Ở nơi xứ (12 xứ, gồm cả lục căn, lục trần) hay ở nơi thân?

- Nếu ở nơi thân, nơi ngoài da th́ chẳng phải là giữa; ở giữa th́ đồng như ở trong. Nếu ở nơi xứ, là có thể nêu ra hay chẳng thể nêu ra? Nếu chẳng thể nêu ra th́ đồng như không có; nếu có thể nêu ra lại chẳng định được chỗ nào. Tại sao? Ví như có người cắm cây nêu làm chính giữa, nh́n từ phương Đông th́ cho cây nêu ở phương Tây, nh́n từ phương Nam th́ cho cây nêu ở phương Bắc, cái thể giữa được nêu ra đă lẫn lộn th́ tâm cũng thành rối loạn, chẳng rơ ở đâu.

A Nan thưa:

- Con nói "chính giữa" chẳng phải hai thứ này. Như Thế Tôn nói: Nhăn căn và sắc trần duyên nhau sanh ra nhăn thức. Nhăn căn phân biệt, sắc trần vô tri, thức sanh nơi giữa, tức là tâm vậy.

Phật bảo:

- Nếu tâm ngươi ở giữa căn trần, vậy tâm thể này gồm cả hai hay chẳng gồm? Nếu gồm cả hai th́ vật và thể xen lộn, vật th́ vô tri, thể th́ có biết, thành hai thứ đối địch, lấy ǵ làm giữa? Nếu ĺa biết (căn) và không biết (trần) th́ chẳng có thể tánh, vậy lấy tướng nào làm chính giữa? Nên biết ngươi nói "Tâm ở chính giữa" là chẳng đúng.

Phá chấp "tất cả vô trước" là tâm

- Bạch Thế Tôn! Khi xưa con thấy Phật với bốn đại đệ tử (Mục Kiền Liên, Tu Bồ Đề, Phú Lâu Na và Xá Lợi Phất) cùng chuyển pháp luân, thường nói "cái tâm giác tri chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, cũng chẳng ở giữa, chẳng ở chỗ nào cả, tất cả vô trước gọi là tâm". Vậy con vô trước, được gọi là tâm chăng?

Phật bảo A Nan:

- Ngươi nói cái tâm giác tri chẳng ở chỗ nào cả, vậy như các loài bay trên hư không, ở dưới nước và trên bờ, gọi là tất cả vật tượng nơi thế gian mà ngươi vô trước đó, là có hay không? Không th́ đồng như lông rùa sừng thỏ, nói ǵ vô trước? Nếu có sự vô trước th́ chẳng thể gọi là không. Không tướng mới không, chẳng không th́ có tướng, tâm đă chấp có tướng, th́ c̣n nói ǵ vô trước? Nên biết, nói "Tất cả vô trước gọi là tâm giác tri" là chẳng đúng.

LƯỢC GIẢI

Ở đây nêu ra bảy chỗ gạn hỏi, ư Phật là muốn đưa A Nan thẳng đến chỗ tự ngộ, lời Phật chẳng phải chơn lư. Phật chỉ dùng thuốc giả để trị bịnh giả của A Nan. Tại sao nói là bệnh giả? V́ những kiến chấp của A Nan vốn chẳng thật. Tại sao nói thuốc giả? V́ lời phá chấp của Phật cũng chẳng thật.

Cũng như A Nan nói tâm ở trong thân, ở ngoài thân, cho đến nói vô trước là tâm, kỳ thật không phải có chỗ chẳng đúng hay chẳng sai, v́ chấp nhất định ở một chỗ, nên Phật nói chẳng đúng. Nếu bệnh chấp chưa hết th́ có thể nêu ra vô số chỗ, chứ đâu phải chỉ có bảy chỗ ư? Nếu bệnh chấp đă hết th́ một chỗ cũng chẳng có, nói ǵ đến bảy chỗ!

Tự tánh vốn bất nhị, nếu chấp theo lời Phật, cho "thật chẳng ở trong" là nhị, cho "thật chẳng ở ngoài" cũng là nhị, cho đến bất cứ có ở một chỗ nào, hay chẳng ở một chỗ nào đều là nhị. Tại sao? V́ nếu có ở một chỗ này th́ những chỗ kia không có, chỗ có chỗ không tức là nhị. Nên Phật nói: Phàm hữu ngôn thuyết, giai phi thật nghĩa (Phàm có lời nói đều chẳng phải nghĩa thật).

*****

Bấy giờ, A Nan ở trong đại chúng từ chỗå ngồi đứng dậy, trịch vai áo tay phải, quỳ gối chân phải, chắp tay cung kính bạch Phật:

- Con là em út của Như Lai, được Phật thương mến, nay dù xuất gia nhưng c̣n ỷ lại nơi ḷng thương của Phật, chỉ ham học rộng nghe nhiều, chưa được vô lậu, chẳng uốn dẹp được tà chú, bị nhiếp vào nhà dâm, chỉ v́ chẳng biết chỗ đến của Chơn Thật, kính mong Thế Tôn từ bi thương xót, khai thị cho chúng con đường lối tu thiền quán Sa Ma Tha, khiến kẻ Xiển đề xóa bỏ ác kiến.

Nói xong đảnh lễ, năm vóc gieo sát đất, cùng đại chúng khao khát kính nghe chỉ dạy.

Lúc ấy, Thế Tôn từ trên mặt phóng ra đủ thứ hào quang, sáng lạn như trăm ngàn mặt trời, chiếu khắp các thế giới Phật, khiến thành sáu thứ rung động, mười phương vô số quốc độ đồng thời hiện ra. Oai thần của Phật khiến các thế giới hợp thành một thế giới, tất cả chư Đại Bồ Tát trong thế giới đều an trụ nơi quốc độ của ḿnh, chắp tay lắng nghe.

Phật bảo A Nan:

- Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, đủ thứ điên đảo tạo thành giống nghiệp, kết tụ nghiệp nhân thành quả luân hồi. Những người tu hành chẳng được chứng quả vô thượng Bồ Đề, trở thành Thanh Văn, Duyên Giác hoặc thành cơi trời ngoại đạo, ma vương và quyến thuộc ma, đều do chẳng biết hai thứ căn bản, tu tập sai lầm, cũng như nấu cát mà muốn thành cơm, dẫu cho trải qua nhiều kiếp cũng chẳng đắc đạo.

- Thế nào là hai thứ căn bản?

            - Một là căn bản của sanh tử từ vô thỉ, tức là nay nhận tâm phan duyên làm tự tánh của ngươi và chúng sanh;

            - Hai là bản thể vốn thanh tịnh của Bồ Đề Niết Bàn từ vô thỉ, tức là cái bản thức (4) vốn sáng tỏ, hay sanh các duyên mà bị các duyên che khuất thành lạc mất của ngươi. V́ chúng sanh lạc mất bản thức sáng tỏ, dù hàng ngày sống trong bản thức mà chẳng tự biết, oan uổng vào lục đạo.

- A Nan, nay ngươi muốn biết đường tu thiền quán Sa Ma Tha, mong ra khỏi sanh tử, vậy ta hỏi ngươi.

Liền đó, Như Lai giơ cánh tay sắc vàng co năm ngón tay, bảo A Nan:

- Ngươi có thấy chăng?

A Nan đáp: 

- Thấy.

Phật bảo: 

- Ngươi thấy cái ǵ?

A Nan đáp: 

- Con thấy Như Lai giơ tay, co ngón tay thành nắm tay sáng ngời, chói tâm và mắt con.

Phật bảo: 

- Ngươi dùng cái ǵ để thấy?

- Con và đại chúng đều dùng mắt thấy.

Phật bảo A Nan:

- Theo lời ngươi đáp, Như Lai co ngón tay thành nắm tay sáng ngời, chói tâm mắt của ngươi, vậy lúc nắm tay ta chói rọi, mắt ngươi thấy được, lấy ǵ làm tâm?

A Nan đáp:

- Nay Như Lai gạn hỏi tâm ở chỗ nào, con dùng tư tưởng suy t́m, th́ cái hay suy t́m ấy, con cho là tâm.

Phật bảo:

- Sai rồi, A Nan! Cái ấy chẳng phải tâm ngươi.

A Nan giựt ḿnh đứng dậy, chắp tay bạch Phật rằng:

- Cái ấy chẳng phải tâm con th́ gọi là cái ǵ?

Phật bảo A Nan:

- Ấy là tướng vọng tưởng của tiền trần, mê hoặc chơn tánh của ngươi. Do ngươi xưa nay nhận giặc làm con, lạc mất bản thức chơn thường, nên bị luân chuyển.

- Bạch Thế Tôn! Con là em cưng của Phật, v́ mến Phật nên xuất gia. Tâm con chẳng những cúng dường Như Lai, mà c̣n muốn trải khắp hằng sa quốc độ, phụng sự chư Phật và thiện tri thức, phát tâm dũng mănh, làm những Phật sự khó làm, đều dùng tâm này; dẫu cho báng pháp, bỏ hẳn thiện căn cũng v́ tâm này. Nếu Thế Tôn phát minh cái ấy chẳng phải tâm, vậy con thành không có tâm, đồng như đất gỗ, ĺa giác tri này chẳng c̣n ǵ cả, sao Như Lai nói cái ấy chẳng phải tâm? Con thật kinh sợ, và cả đại chúng đều chẳng khỏi nghi hoặc, kính mong Thế Tôn rủơ ḷng từ bi, khai thị cho kẻ chưa ngộ.

Bấây giờ, Thế Tôn muốn cho A Nan và đại chúng đều được chứng nhập vô sanh pháp nhẫn, nơi ṭa sư tử, xoa đầu A Nan khai thị rằng:

- Như Lai thường nói: Chư pháp sở sanh, duy tâm sở hiện. Tất cả nhân quả, thế giới vi trần đều do tâm này mới thành có thể tánh. A Nan, tất cả sự vật trên thế gian, cho đến cỏ, lá, chỉ mành, cứu xét cội gốc đều có thể tánh, dẫu cho hư không cũng có danh hiệu, huống là cái tánh trong sạch sáng tỏ của tất cả tâm lại chẳng có tự thể ư? Nếu ngươi chấp thật cái tánh giác tri phân biệt cho là tâm, th́ tâm này ĺa tất cả sự vật lục trần phải riêng có tự thể (chẳng theo cảnh trần sanh diệt). Như ngươi hiện nay đang nghe thuyết pháp, là do âm thanh nên có phân biệt; dẫu cho diệt hết tất cả kiến, văn, giác, tri, trong giữ u nhàn, cũng c̣n là bóng phân biệt của pháp trần.

- Ta chẳng bảo ngươi chấp thật phi tâm, nhưng ngươi hăy xét kỹ nơi tâm: nếu ĺa tiền trần mà có tự thể của tánh phân biệt, tức là chơn tâm của ngươi. Nếu tánh phân biệt ĺa trần chẳng có tự thể, ấy là bóng phân biệt của tiền trần. Trần chẳng thường trụ, khi biến diệt th́ tâm này đồng như lông rùa, sừng thỏ, vậy pháp thân của ngươi thành ra đoạn diệt, c̣n ai tu chứng vô sanh pháp nhẫn? (Cảnh trần có hai loại: đối với ngũ căn gọi là tiền trần, đối với ư căn gọi là pháp trần).

Tức thời, A Nan cùng đại chúng im lặng ngơ ngác, chẳng c̣n lư lẽ ǵ để nói nữa.

Phật bảo A Nan:

- Tất cả người tu học trên thế gian, v́ chưa dứt sạch tập khí phiền năo, dù đă tu đến chín bậc thiền định, chẳng thành quả A La Hán, đều do chấp trước sanh tử vọng tưởng, cho là chơn thật, nên ngươi dẫu được học rộng nghe nhiều, chẳng chứng thánh quả.

A Nan nghe rồi, lại đau xót rơi lệ, năm vóc gieo sát đất, quỳ gối chắp tay bạch Phật rằng:

- Từ khi con phát tâm xuất gia, ỷ cậy oai thần của Phật, thường nghĩ rằng chẳng nhọc tự tu, cho rằng Như Lai sẽ ban cho tam muội, không biết thân tâm vốn chẳng thể thay thế nhau được, nên lạc mất bản tâm; thân dù xuất gia, tâm chẳng nhập đạo, như đứa con nghèo bỏ cha chạy trốn. Đến nay mới biết, dẫu cho học rộng nghe nhiều, nếu chẳng tu hành (5) th́ khác ǵ người chẳng nghe! Cũng như nói ăn mà không ăn th́ làm sao được no!

- Thế Tôn, hiện nay chúng con bị hai chướng ràng buộc (phiền năo chướng và sở tri chướng), v́ chẳng biết tự tánh thường tịch, mong Như Lai thương xót kẻ khốn cùng, khai phát diệu tâm, sáng tỏ đạo nhăn cho chúng con.

Lúc ấy, Như Lai từ chữ vạn ( ) trước ngực phóng ra hào quang, rực rỡ trăm ngàn màu sắc, đồng thời chiếu khắp mười phương vô số quốc độ Phật, soi khắp đỉnh đầu tất cả Như Lai trong mười phương bửu sát, rồi xoay về soi cả đầu A Nan cùng đại chúng, bảo A Nan rằng:

- Nay ta v́ ngươi dựng đại pháp tràng, khiến mười phương chúng sanh đều được diệu tâm sáng tỏ, pháp nhăn thanh tịnh. A Nan, trước ngươi trả lời thấy nắm tay chói sáng, vậy cái nắm tay này do đâu mà có? Làm sao thành nắm tay? Ngươi lấy ǵ để thấy?

A Nan đáp:

- Do tánh thanh tịnh sáng ngời như núi báu của thân Phật sanh ra hào quang, ngón tay Phật co nắm lại thành nắm tay, chính mắt con thấy tướng nắm tay vậy.

Phật bảo A Nan:

- Hôm nay ta nói thật cho nghe: Những người có trí cũng phải nhờ thí dụ mới được khai ngộ. A Nan, ví như tay của ta, nếu chẳng có cánh tay th́ chẳng thành nắm tay của ta, nếu chẳng có con mắt ngươi th́ chẳng thành sự thấy của ngươi. Vậy lấy nhăn căn của ngươi so với nắm tay của ta, hai nghĩa giống nhau chăng?

- Bạch Thế Tôn! Vâng giống. Nếu chẳng có con mắt th́ chẳng thành sự thấy của con, vậy đem nhăn căn của con so với nắm tay của Như Lai, hai nghĩa giống nhau.

Phật bảo A Nan:

- Ngươi nói giống nhau, nghĩa này chẳng đúng. Tại sao? Như người không có cánh tay th́ tuyệt nhiên chẳng có nắm tay, nhưng người không có mắt th́ chẳng phải không thấy. V́ sao? Ngươi thử hỏi người mù có thấy ǵ chăng? Người ấy ắt sẽ trả lời: "Nay trước mắt tôi chỉ thấy tối đen, chẳng c̣n thấy ǵ khác". Xét theo nghĩa này th́ tiền trần tự tối, sự thấy đâu có giảm bớt!

A Nan nói:

- Những người mù trước mắt chỉ thấy tối đen, sao gọi là thấy?

Phật bảo A Nan:

- Người mù không có mắt, chỉ thấy tối đen, so với người có mắt ở trong pḥng tối, cũng chỉ thấy tối đen, hai thứ tối đen ấy có khác hay chẳng khác?

- Bạch Thế Tôn! Thật chẳng có khác.

- A Nan, nếu người không có mắt, thấy toàn tối đen, bỗng được mắt sáng, liền thấy các sắc tướng trước mắt, gọi là "mắt thấy", người ở trong pḥng tối cũng toàn thấy tối đen, bỗng được đèn sáng, cũng thấy các sắc tướng trước mắt, th́ phải gọi là "đèn thấy". Nếu đèn có thấy th́ chẳng được gọi là đèn, lại đèn thấy th́ có dính dáng ǵ đến ngươi? Vậy biết, đèn chỉ có tác dụng hiển hiện sắc tướng, sự thấy là mắt, chẳng phải đèn; mắt chỉ có tác dụng hiển hiện sắc tướng, sự thấy là tâm, chẳng phải mắt.

A Nan và đại chúng dù nghe lời Phật nói vậy, miệng tuy im lặng, nhưng tâm vẫn chưa ngộ, mong được giảng rơ thêm, nên thành tâm chắp tay, đợi Phật dạy bảo.

Bấy giờ, Thế Tôn duỗi cánh tay sáng ngời, mở năm ngón tay, bảo A Nan và đại chúng:

- Lúc ta mới thành đạo nơi Lộc Viên, có nói với năm vị Tỳ Kheo và tứ chúng rằng: Tất cả chúng sanh chẳng thành Bồ-Đề và chứng quả A La Hán, đều tại lầm theo phiền năo khách trần. Lúc đó, các ngươi do đâu được khai ngộ, nay chứng thánh quả?

Khi ấy, Kiều Trần Như đứng dậy bạch Phật:

- Con là bậc trưởng lăo trong chúng được gọi là hiểu rộng biết nhiều, v́ ngộ hai chữ Khách Trần nên được chứng quả. Thế Tôn, ví như người đi đường vào nghỉ ở khách sạn, ăn ngủ xong rồi lên đường đi tiếp, chẳng thể ở lại, c̣n người chủ th́ cư trú tại đó, chẳng cần đi đâu. Vậy chẳng trụ là khách, trụ gọi là chủ, nên lấy sự "chẳng trụ" làm nghĩa chữ Khách.

- Cũng như mưa mới tạnh, ánh sáng mặt trời rọi qua kẽ hở, thấy rơ tướng bụi trần lăng xăng nơi hư không. Trần th́ lay động. Hư không tịch nhiên. Vậy tịch lặng gọi là không, lay động gọi là trần, nên lấy sự "lay động" làm nghĩa chữ Trần.

Phật nói:

- Đúng thế!

Tức thời Như Lai ở trong đại chúng co năm ngón tay, nắm rồi lại mở, mở rồi lại nắm, hỏi A Nan:

- Nay ngươi thấy ǵ?

A Nan đáp:

- Con thấy bàn tay của Như Lai lúc mở lúc nắm.

Phật bảo A Nan:

- Ngươi thấy tay ta mở nắm, là tay ta có mở có nắm, hay cái thấy của ngươi có mở có nắm?

A Nan đáp:

- Bàn tay của Như Lai tự mở nắm, chứ chẳng phải tánh thấy của con có mở nắm.

Phật hỏi:

- Cái nào động, cái nào tịnh?

A Nan đáp:

- Tay Phật chẳng trụ, tánh thấy của con tịnh c̣n chẳng có, làm sao có động! (Bản kiến bất nhị, động tịnh đều chẳng nhiễm).

Phật nói:

-  Đúng thế!

Liền đó, Như Lai từ trong bàn tay phóng ra một tia hào quang rọi bên phải A Nan. A Nan liền quay đầu nh́n bên phải, Phật lại phóng một tia hào quang rọi bên trái A Nan, A Nan lại quay đầu nh́n bên trái, Phật bảo A Nan:

- Đầu ngươi v́ sao lại lay động?

A Nan đáp:

- Con thấy Như Lai phóng hào quang đến hai bên cạnh con, nên theo đó nh́n qua nh́n lại, đầu tự lay động.

- A Nan, ngươi nh́n theo hào quang lay động là đầu ngươi động hay cái thấy động?

- Bạch Thế Tôn! Đầu con tự động, tánh thấy của con ngưng c̣n chẳng có, nói ǵ lay động! (Bản kiến không đối đăi, động và chẳng động đều chẳng dính dáng).

Phật nói:

- Đúng thế!

Do đó, Phật bảo đại chúng rằng:

- Nếu chúng sanh cho "lay động" là trần, "chẳng trụ" là khách, các ngươi hăy xem, như A Nan đầu tự lay động mà tánh thấy chẳng động; lại tay ta tự mở nắm mà tánh thấy chẳng mở nắm. Vậy sao các ngươi hiện nay lại cho động là thân, cho động là cảnh, từ đầu đến cuối niệm niệm sanh diệt, lạc mất chơn tánh, hành theo điên đảo. V́ tâm tánh chẳng chơn, nhận vật làm ḿnh, tự trôi lăn theo ḍng sanh tử, cam chịu luân hồi.

GHI CHÚ:

(l) Sa Ma Tha: Thiền định cực tịnh đồng như không quán.

(2) Tam Ma Đề: Thiền định phát dụng biến hóa, đồng như giả quán.

(3) Thiền Na: Thiền định tịch diệt, ĺa năng sở đối đăi, đồng như trung đạo quán.

(4) Bản thức: Bản tâm, bản kiến, bản văn, bản giác, bản tri đều là biệt danh của tự tánh.

(5) Theo đúng pháp môn thực hành, có tu có chứng, mới được gọi là tu hành.

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM

TK Thích Duy Lực

Dịch từ Hán sang Việt và lược giải

 

QUYỂN HAI

Lúc bấy giờ, A Nan và đại chúng nghe lời Phật dạy, thân tâm thư thái, nghĩ ḿnh từ vô thỉ đến nay, lạc mất bản tâm, lầm nhận bóng phân biệt của nhân duyên căn trần, hôm nay khai ngộ, như đứa bé khát sữa bỗng được gặp mẹ, chắp tay lễ Phật, mong được nghe Như Lai hiển bày chỗ chơn vọng hư thật của thân tâm, phát minh hai tánh sanh diệt và chẳng sanh diệt ngay trước mắt.

Khi ấy, vua Ba Tư Nặc đứng dậy bạch Phật:

- Xưa kia con chưa được nghe lời dạy của Phật, thấy bọn ngoại đạo Ca Chiên Diên (chấp các pháp cũng có cũng không) và Tỳ La Chi Tử (chấp măn kiếp tự nhiên đắc đạo), đều nói thân này sau khi chết đoạn diệt gọi là Niết Bàn. Nay dù gặp Phật nhưng vẫn c̣n hồ nghi, chẳng biết làm thế nào mới được chứng tỏ chỗ chẳng sanh diệt của tâm này, hiện nay hàng hữu lậu trong chúng đều mong cùng nghe.

Phật nói với vua:

- Thân ông ở đây, nay ta hỏi ông, cái nhục thân này là đồng như kim cang, thường trụ chẳng hoại hay có biến diệt?

- Bạch Thế Tôn! Cái thân vô thường biến hoại của con dù chưa từng diệt, nhưng con xét thấy trước mắt niệm niệm dời đổi, măi măi không thôi, dần dần tiêu ṃn, như lửa thành tro, sự tiêu ṃn chẳng ngừng, nên biết chắc chắn thân này rồi sẽ diệt mất.

Phật nói:

- Đúng thế, đại vương! Tuổi tác của ông nay đă già yếu, vậy mặt mày so với thuở nhỏ như thế nào?

- Bạch Thế Tôn! Xưa con c̣n nhỏ, da thịt mơn mởn, đến khi trưởng thành, khí huyết sung túc, nay th́ tuổi già, ngày thêm suy yếu, h́nh sắc khô gầy, tinh thần mệt mỏi, tóc bạc mặt nhăn, sự sống chẳng c̣n bao lâu nữa, làm sao so bằng lúc trẻ mạnh!

Phật nói:

- H́nh thể của ông đâu phải bỗng nhiên biến hoại!

- Bạch Thế Tôn! Sự biến hóa âm thầm dời đổi, con thật chẳng hay, mùa đông mùa hạ thấm thoát trôi qua, dần dần đến thế này. Tại sao? Khi hai mươi tuổi, dù gọi là trẻ, nhưng mặt mày đă già hơn lúc lên mười, khi ba mươi tuổi lại sút hơn lúc hai mươi, đến nay đă sáu mươi hai, so với lúc năm mươi th́ suy yếu hơn nhiều. Thế Tôn, con cảm thấy sự dời đổi âm thầm trôi chảy theo kỳ hạn mười năm, nhưng nếu suy xét tỉ mỉ th́ cái biến đổi ấy đâu phải từng 10 năm! Thật ra th́ mỗi năm mỗi đổi, cho đến mỗi tháng, mỗi ngày, mỗi giờ, trong mỗi sát na niệm niệm biến đổi chẳng ngừng, nên biết thân này chung quy biến diệt vậy.

Phật nói:

- Ông thấy biến hóa dời đổi chẳng ngừng, ngộ biết phải diệt. Vậy trong lúc diệt, ông c̣n biết trong thân có cái ǵ chẳng diệt chăng?

Vua Ba Tư Nặc chắp tay bạch Phật:

- Con thật chẳng biết!

Phật nói:

- Nay ta chỉ cho ông cái tánh chẳng sanh diệt. Đại Vương, ông thấy nước sông Hằng hồi mấy tuổi?

Vua đáp:

- Lúc lên ba, mẹ con dắt đi yết lễ thần Tỳ Bà Thiên, đi qua sông này, khi ấy đă biết sông Hằng.

Phật nói:

- Như lời ông nói, lúc hai mươi tuổi th́ sút hơn lúc lên mười, cho đến sáu mươi niệm niệm dời đổi theo từng ngày giờ. Vậy khi ông ba tuổi thấy nước sông, rồi đến năm mười ba, thấy nước sông, tánh thấy như thế nào?

Vua đáp:

- Tánh thấy cũng giống như khi ba tuổi, cho đến năm nay đă sáu mươi hai cũng chẳng có khác. (Bản kiến vốn chẳng sanh diệt biến đổi).

Phật nói:

- Nay ông tự than đă già, mặt ông chắc phải nhăn hơn lúc trẻ, vậy hiện nay thấy sông Hằng với lúc nhỏ thấy sông Hằng, cái tánh thấy có già trẻ ǵ chăng?

- Bạch Thế Tôn! Không ạ!

Phật nói:

- Mặt ông dù nhăn mà cái tánh của kiến tinh (năng thấy) chưa từng nhăn, có nhăn là biến, chẳng nhăn th́ bất biến; biến ắt phải diệt, bất biến vốn chẳng sanh diệt. Vậy lấy ǵ để thọ nhận sanh tử cho ông? Mà c̣n đem tà thuyết của bọn Mạt Già Lê kia, cho là thân này sau khi chết đoạn diệt!

Vua nghe Phật dạy, tin biết Bổn Kiến thật chẳng đoạn diệt, bỏ thân này sẽ được thân khác, nên cùng đại chúng vui mừng được pháp chưa từng có. Ngay đó, A Nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay đảnh lễ, quỳ gối bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu cái tánh thấy nghe này thật chẳng sanh diệt, sao Thế Tôn lại nói chúng con lạc mất chơn tánh, hành theo điên đảo? Xin Phật từ bi, rửa sạch trần cấu cho chúng con.

Tức thời, Như Lai duỗi cánh tay sắc vàng, ngón tay chỉ xuống, bảo với A Nan:

- Nay ngươi thấy tay ta là chánh hay đảo?

A Nan đáp:

- Chúng sanh thế gian cho đây là đảo, mà con th́ chẳng biết thế nào chánh, thế nào đảo.

Phật bảo A Nan:

- Nếu người thế gian cho đây là đảo th́ lấy ǵ làm chánh?

A Nan đáp:

- Như Lai đưa cánh tay chỉ lên trời gọi là chánh.

Phật liền giơ cánh tay lên, bảo rằng:

- Theo tánh thấy là chánh, theo cảnh trần là đảo; tánh thấy chẳng có chánh, đảo, cảnh trần mới có chánh, đảo, nay chẳng theo tánh thấy mà duyên theo cảnh trần, đă là một lớp điên đảo. Lại, theo lư lẽ thường, cánh tay chỉ xuống thuận theo thân là chánh, cánh tay chỉ lên nghịch với thân là đảo; nay người thế gian đầu đuôi đổi nhau, cho thuận là đảo, cho nghịch là chánh, thành điên đảo bội phần. Vậy đem thân ngươi so với pháp thân thanh tịnh của Như Lai th́ được biết rơ, thân Như Lai gọi là Chánh Biến Tri, thân các ngươi gọi là tánh điên đảo. Ngươi hăy quán xét kỹ giữa thân ngươi và thân Phật, cái cho là điên đảo ấy, ở chỗ nào gọi là điên đảo?

LƯỢC GIẢI

Thanh tịnh pháp thân tức diệu tâm sáng tỏ chơn thật (gốc), kiến văn giác tri tức là vật do diệu tâm hiện ra (ngọn); về gốc là chánh, theo ngọn là đảo, ví như bọt nổi nơi biển, nhận biển là chánh, nhận bọt là đảo. Phật hỏi A Nan: Ngươi thấy tay ta là chánh hay đảo? Khi đó A Nan nên ở nơi tánh thấy của ḿnh trực ngộ thế nào chánh, thế nào đảo, chẳng nên nơi tay Như Lai cho là chánh, là đảo. Cũng như Tu Bồ Đề tĩnh tọa trong hang, chẳng nhờ căn thức được thấy Pháp thân Như Lai, gọi là Chánh Biến Tri.  Dùng mắt A Nan để thấy tay Như Lai, lại ở nơi tay phân biệt chánh hay đảo, ấy là duyên theo lục thức, bỏ gốc theo ngọn, đă ĺa ngôi chánh nên gọi là tánh điên đảo.

*****

 Khi ấy A Nan và đại chúng ngẩn ngơ nh́n Phật không nháy mắt, chẳng biết chỗ thân tâm điên đảo, Phật mở ḷng từ bi thương xót A Nan và đại chúng, phát hải triều âm bảo khắp trong Hội rằng:

- Các thiện nam tử! Ta thường nói: các duyên tâm và sắc với các tâm sở (buồn, vui, yêu, ghét v.v...) các pháp sở duyên (cảnh trần) đều do tâm biến hiện, thân tâm của ngươi cũng là vật do diệu tâm hiện ra, vậy sao các ngươi lại lạc mất cái bản tánh vốn tṛn đầy sáng tỏ của diệu tâm, nhận lầm cái mê (vọng tâm) nơi ngộ (diệu tâm) cho là tâm tánh, bèn mê diệu minh (diệu tâm sáng tỏ) trở thành vô minh, từ vô minh biến thành ngoan không, vô minh là năng biến, ngoan không là sở biến, năng sở ḥa hợp biến ra tứ đại, là ngoại sắc của y báo, sắc lẫn lộn với tâm vọng tưởng thành có chúng sanh, là nội sắc của chánh báo, tưởng (vọng tưởng), tướng (vọng sắc) làm thân, nhiếp tŕ thân tâm là thức thứ tám, tụ duyên lay động bên trong là thức thứ bảy, dong ruổi theo cảnh bên ngoài là thức thứ sáu, từ vô minh biến khởi vọng duyên vọng trần, mà nhận tướng nhiễu loạn lăng xăng này, mê muội cho là tự tâm ở trong sắc thân, chẳng biết sắc thân, núi sông, đất đai cho đến hư không đều là vật do diệu tâm biến hiện, ví như bỏ cả trăm ngàn biển lớn, chỉ nhận một bọt nước cho đó là bao gồm tất cả nước biển, cũng như các ngươi, tự bỏ Bản Kiến, lại ở nơi tay ta phân biệt chánh, đảo, thật là mê lại thêm mê. Như Lai nói là kẻ đáng thương xót vậy.

A Nan thọ nhận ḷng từ bi dạy bảo thâm sâu của Phật, rơi lệ chắp tay bạch Phật rằng:

- Con dù được nghe diệu âm, ngộ biết chỗ bản lai thường trụ viên măn của diệu tâm mà con hiện nay dùng tâm phan duyên nghe tiếng thuyết pháp của Phật, dẫu ngộ được tâm này, nhưng chưa dám cho là bản tâm, mong Phật thương xót khai thị diệu pháp, nhổ trừ gốc nghi ngờ của con, để được đến đạo vô thượng.

Phật bảo A Nan:

- Các ngươi nay c̣n dùng tâm phan duyên để nghe pháp, vậy pháp này cũng là duyên, chẳng hợp pháp tánh. Cũng như có người dùng tay chỉ mặt trăng cho người khác xem, người ấy nên nhờ ngón tay để thấy mặt trăng; nếu nh́n ngón tay cho là mặt trăng th́ chẳng những bỏ mất mặt trăng, cũng chẳng biết ngón tay. Tại sao? V́ cho ngón tay là mặt trăng, chẳng những không biết ngón tay, lại cũng chẳng phân biệt được sáng tối. Tại sao? V́ cho cái bản thể của ngón tay là tánh sáng của mặt trăng, chẳng rơ được hai tướng sáng tối vậy. Các ngươi cũng thế, nếu dùng ư thức phân biệt tiếng thuyết pháp của ta, cho là tâm của các ngươi, th́ tâm này phải ĺa sự phân biệt âm thanh, riêng có tánh phân biệt. Ví như người đi đường ở lại khách sạn, nghỉ tạm rồi đi, chẳng được thường trú, c̣n người giám đốc khách sạn th́ khỏi đi đâu cả, nên gọi là chủ. Nay cũng như thế, nếu là chơn tâm (chủ) của ngươi th́ khỏi cần đi đâu, sao lại ĺa âm thanh chẳng có tự thể của tánh phân biệt? Thế th́, cái tâm phân biệt âm thanh dung mạo này, ĺa các sắc tướng chẳng có tự thể của tánh phân biệt cho đến sự phân biệt cũng chẳng có, phi sắc phi không, mà bọn ngoại đạo Câu Xá Ly mê muội cho là Minh Đế (thần ngă). Nếu ĺa các pháp nhân duyên chẳng có tự thể của tánh phân biệt th́ tâm tánh các ngươi đều có chỗ trả về, lấy ǵ làm chủ?

A Nan nói:

- Nếu tâm tánh của con đều có chỗ trả về, th́ cái diệu tâm sáng tỏ của Như Lai nói, sao chẳng có chỗ trả về? Xin Phật thương xót, khai thị cho con.

Phật bảo A Nan:

- Nay ngươi thấy được ta là do cái kiến tinh sáng tỏ (đệ nhị nguyệt), kiến tinh này chẳng phải là diệu tâm sáng tỏ (đệ nhất nguyệt), gượng nói như mặt trăng thứ hai, cũng chẳng phải bóng của mặt trăng thứ nhất vậy. Ngươi hăy chú ư nghe, bây giờ ta sẽ chỉ rơ chỗ chẳng thể trả về. A Nan, như đây, giảng đường mở cửa bên đông, mặt trời mọc lên th́ sáng, nửa đêm không trăng th́ tối; chỗ có cửa nẻo th́ thông, chỗ có vách tường th́ nghẽn, chỗ phân biệt là duyên, nơi hư không là trống rỗng, bụi trần nổi lên th́ thấy mịt mù, mưa tạnh trời thanh th́ thấy sáng sủa, A Nan, ngươi xem các tướng biến hóa này, nay ta trả về chỗ bản nhân của nó! Sao gọi là bản nhân? Các tướng biến hóa này, sáng trả về mặt trời, tại sao? V́ không mặt trời th́ chẳng sáng, sáng thuộc mặt trời, nên trả về mặt trời, tối trả về đêm không trăng, thông trả về cửa nẻo, nghẽn trả về vách tường, duyên trả về phân biệt, trống rỗng trả về hư không, mịt mù trả về bụi trần, sáng sủa trả về mưa tạnh, tất cả việc thế gian không ngoài những loại này, vậy c̣n kiến tinh thấy được tám thứ kể trên đó, ngươi định trả về đâu? Nếu trả cho sáng th́ lúc không sáng chẳng thể thấy tối, thế th́ sáng tối chẳng thể phân biệt, c̣n bảy thứ kia cũng giống như vậy. Những cái trả về được tất nhiên chẳng phải ngươi, cái không thể trả về, chẳng phải ngươi là ai? Vậy biết tâm ngươi vốn diệu minh trong sạch, ngươi tự mê muội lạc mất bản tâm, cam chịu luân hồi, thường bị trôi lăn trong ṿng sanh tử, nên Như Lai nói là đáng thương xót!

A Nan nói:

- Con dù biết tánh kiến này chẳng thể trả về, nhưng làm sao biết là chân tánh của con?

Phật bảo A Nan:

- Ta hỏi ngươi, nay ngươi chưa đắc quả vô lậu, nhờ thần lực của Phật, được thấy cơi sơ thiền chẳng có ngăn ngại, mà A Na Luật thấy cơi Ta Bà như xem trái Yêm Ma La trong bàn tay, các Bồ Tát thấy trăm ngàn cơi, mười phương Như Lai cùng tột vô số quốc độ Phật, chẳng chỗ nào không thấy khắp, mà sức thấy của chúng sanh th́ chẳng quá vài dặm. A Nan, nay ta cùng ngươi xem cung điện của Tứ Thiên Vương, từ đó trở xuống, xem tất cả h́nh tượng sáng tối khắp hư không, dưới nước và trên bờ, đều bị chướng ngại nơi tiền trần phân biệt, nay ta cho ngươi phân biệt trong sự thấy, xét xem cái nào là tự thể của tánh thấy, cái nào là vật tượng? A Nan, cùng tột sức thấy của ngươi, từ cung trăng cho đến Thất Kim Sơn, quán xét cùng khắp, dù có đủ thứ ánh sáng cũng đều là vật chứ chẳng phải ngươi, dần dần xem đến mây bay, chim hót, gió động, bụi nổi, cho đến núi sông, đất đai, người thú, cỏ lá...  đều là vật chứ chẳng phải ngươi. A Nan, các tánh vật xa gần dù có khác biệt, nhưng đều do kiến tinh trong sạch của ngươi mà nh́n thấy. Vậy th́ các loài vật tự có sai biệt mà tánh kiến chẳng khác, cái kiến tinh diệu minh này chính là tánh thấy của ngươi.

- Nếu kiến tinh là vật th́ ngươi cũng có thể thấy kiến tinh của ta, nếu cùng thấy gọi là thấy kiến tinh ta, th́ lúc ta chẳng thấy, sao ngươi không thấy chỗ chẳng thấy của ta? Nếu thấy được chỗ chẳng thấy của ta th́ chẳng phải cái tướng chẳng thấy; nếu không thấy chỗ chẳng thấy của ta, th́ kiến tinh tất nhiên phi vật, sao lại chẳng phải ngươi?

- Nếu kiến tinh là vật, th́ vật cũng có tánh thấy, lúc ngươi thấy vật, vật cũng thấy ngươi, thể tánh lẫn lộn th́ ngươi và ta với tất cả thế gian chẳng thể an lập. A Nan, nếu lúc ngươi thấy là ngươi chẳng phải ta thấy, th́ cái tánh thấy cùng khắp đó không phải ngươi là ai? Sao lại tự nghi chơn tánh của ngươi cho là chẳng chơn, mà cầu sự thật nơi ta?

LƯỢC GIẢI

Tại sao nói kiến tinh này là ngươi chẳng phải vật? Nếu kiến tinh là vật th́ kiến tinh của ta ngươi cũng thấy được, nhưng sự thật th́ kiến tinh của ta ngươi chẳng thể thấy.

Nếu nói ta thấy ngươi thấy, lúc cùng thấy tức là thấy kiến tinh của ta, vậy th́ lúc ta thấy, ngươi đă thấy được rồi, lúc ta chẳng thấy, ngươi cũng phải thấy được chứ, mà sự thật lại chẳng như thế.

Nếu nói lúc thấy là dùng cái thấy để thấy, lúc chẳng thấy là dùng cái chẳng thấy để thấy, gọi là thấy chỗ chẳng thấy của ta, vậy đă chẳng tự thấy, lấy ǵ để thấy cái tướng chẳng thấy kia? Nếu cái tướng chẳng thấy kia cho ngươi thấy được, tức là tướng thấy, lại chẳng phải tướng chẳng thấy. Vậy biết: chỗ chẳng thấy của ta, ngươi nhất định chẳng thể thấy được; lúc ta chẳng thấy, ngươi đă chẳng thể thấy được th́ lúc cùng thấy cũng chẳng thể thấy, thấy và chẳng thấy đều chẳng thể chỉ ra kiến tinh, vậy kiến tinh của ta rơ ràng phi vật. Kiến tinh của ta phi vật th́ kiến tinh của ngươi cũng là phi vật vậỵ. Kiến tinh của ngươi đă phi vật th́ chẳng thuộc nơi vật, làm sao chẳng phải ngươi? Đây là dùng cái nghĩa chẳng thể thấy để sáng tỏ kiến tinh phi vật. Nếu kiến tinh có thể thấy được th́ kiến tinh cũng là vật vậy, làm sao được làm chủ vạn tượng mà an lập cơi thế gian.

*****

- Bạch Thế Tôn! Nếu tánh thấy này chắc là con chứ chẳng phải ai khác, th́ khi con và Như Lai xem cung điện của Tứ Thiên vương và cung trăng, tánh thấy này cùng khắp cơi Ta Bà, khi lui về tịnh xá, chỉ thấy vườn chùa, trước cửa giảng đường chỉ thấy hành lang. Thế Tôn, tánh thấy như vậy, bản thể vốn cùng khắp một cơûi, nay ở trong pḥng th́ chỉ một pḥng, vậy là do tánh thấy rút lớn thành nhỏ, hay do vách tường làm cho ngăn cách? Nay con chẳng biết nghĩa này thế nào, mong Phật từ bi giảng rơ.

Phật bảo A Nan:

- Tất cả sự vật lớn, nhỏ trong, ngoài trên thế gian đều thuộc về tiền trần, chẳng nên nói rằng cái thấy có co giăn, ví như trong khuôn vuông thấy có hư không vuông, ta lại hỏi ngươi: Hư không vuông ở trong khuôn vuông này là vuông nhất định hay chẳng nhất định? Nếu vuông nhất định, đặt lại khuôn tṛn th́ hư không ấy chẳng thể tṛn; nếu chẳng nhất định th́ trong khuôn vuông chẳng có hư không vuông. Ngươi nói chẳng biết nghĩa này thế nào, nghĩa tánh như thế, đâu c̣n thế nào nữa! A Nan, nếu muốn hiển bày chẳng có vuông tṛn, chỉ cần trừ bỏ khuôn vuông, hư không vốn chẳng có h́nh thể vuông tṛn, chớ nên nói "trừ bỏ tướng vuông của hư không" (khuôn dụ cho vọng thức phân biệt, hư không dụ cho bản tâm).

- Cũng như ngươi hỏi: Khi vào pḥng rút cái thấy cho nhỏ lại, vậy khi nh́n mặt trời th́ phải kéo cái thấy cho bằng với mặt trời sao? Nếu xây vách tường làm cho cái thấy bị ngăn cách, vậy khi đục một lỗ nhỏ, sao chẳng thấy dấu tích nối liền của sự thấy? Nghĩa này chẳng đúng.  Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, mê ḿnh là vật, lạc mất bản tâm, tùy vật xoay chuyển, nên thấy lớn thấy nhỏ. Nếu chuyển được vật th́ đồng với Như Lai, ngồi bất động đạo tràng, thân tâm tṛn đầy sáng tỏ, gồm mười phương quốc độ trên đầu một mảy lông.- Bạch Thế Tôn! Nếu kiến tinh này là diệu tánh của con, th́ diệu tánh nay ở ngay trước mắt; diệu tánh đă là con th́ thân tâm con lại là vật ǵ?

- Nếu nói thân tâm chẳng phải diệu tánh th́ nay thân tâm thật hay phân biệt sự vật; nếu nói trước mắt đều là diệu tánh, th́ cái kiến tinh kia sao lại chẳng phân biệt được thân con?

- Nếu nói kiến tinh vô h́nh, mà có tự thể đồng như các vật, có cảm ứng mới sanh khởi sự dụng kia, thật là bản tâm của con th́ phải cho con thấy ngay, vậy kiến tinh trước mắt là thật con, c̣n thân này th́ chẳng phải con, thế th́ kiến tinh đă ở bên ngoài thân, sao được gọi là diệu tánh của con? Có khác ǵ Như Lai trước kia đă hỏi gạn rằng: "Vật thấy được con"? Mong Phật từ bi khai thị cho kẻ chưa ngộ.

Phật bảo A Nan:

- Nay ngươi nói kiến tinh ở trước mắt ngươi, nghĩa này chẳng đúng. Nếu thật ở trước mắt ngươi mà ngươi thật thấy được, th́ kiến tinh này đă có phương sở, chẳng phải không chỉ ra được. Nay ta cùng ngươi ngồi trong rừng Kỳ Đà, xem khắp rừng suối và điện đường, trên từ nhật nguyệt, dưới đến sông Hằng, ngươi hăy ở trước ṭa Sư Tử của ta, dùng tay chỉ rơ đủ thứ tướng ấy, chỗ mát là rừng, sáng là mặt trời, ngăn ngại là vách, thông là hư không, cho đến cỏ cây, chỉ mành, lớn nhỏ dù khác, hễ có h́nh tướng th́ đều chỉ ra được. Nếu kiến tinh thật ở trước mắt ngươi, th́ ngươi phải dùng tay xác thật chỉ rơ cái nào là kiến tinh. A Nan nên biết, nếu hư không là kiến tinh th́ cái nào là hư không? Nếu vật là kiến tinh th́ cái nào là vật? Ngươi hăy ở nơi vạn tượng phân tích kỹ càng, chỉ cho ta xem cái kiến tinh sáng tỏ ấy, rơ ràng đồng như các vật, chẳng được lầm lẫn!

A Nan nói:

- Nay con ở giảng đường này; nh́n ra từ sông Hằng, trên đến nhật nguyệt, tùy nơi tay chỉ mắt nh́n, những ǵ chỉ được đều là vật chứ chẳng phải kiến tinh. Thế Tôn, như lời Phật vừa nói; chẳng những hàng hữu lậu sơ học Thanh Văn như chúng con, cho đến Bồ Tát, cũng chẳng thể ở nơi vạn tượng chỉ ra cái kiến tinh ĺa tất cả vật riêng có tự tánh.

Phật nói:

- Đúng thế! Đúng thế!

Phật lại bảo A Nan:

- Như lời ngươi nói, chẳng có kiến tinh ĺa tất cả vật riêng có tự tánh, vậy th́ trong các vật mà ngươi chỉ, chẳng có cái nào là kiến tinh. Nay ta lại bảo ngươi: ngươi và Như Lai ngồi trong rừng Kỳ Đà, xem từ rừng cây cho đến nhật nguyệt, đủ thứ h́nh tướng sai biệt, nhất định chẳng có kiến tinh cho ngươi chỉ, ngươi hăy phát minh nơi những vật kể trên cái nào chẳng phải kiến tinh?

A Nan đáp:

- Con xem khắp cả rừng Kỳ Đà, thật chẳng biết trong đó cái nào chẳng phải kiến tinh. Tại sao? Nếu cây chẳng phải kiến tinh th́ sao lại thấy cây? Nếu cây là kiến tinh th́ chẳng nên gọi là cây; như vậy cho đến nếu hư không chẳng phải kiến tinh th́ sao lại thấy hư không? Nếu hư không là kiến tinh th́ chẳng nên gọi là hư không. Con lại suy xét kỹ càng, phát minh trong vạn tượng không vật nào chẳng phải kiến tinh cả.

Phật nói:

- Đúng thế! Đúng thế!Bấy giờ, những người chưa đến bậc vô học trong chúng nghe Phật nói vậy, ngơ ngác chẳng hiểu đầu đuôi của nghĩa này, đánh mất lư lẽ đă hiểu biết từ xưa nay, bỗng nhiên cảm thấy run sợ,

Như Lai biết họ băn khoăn lo sợ, sanh ḷng thương xót, an ủi A Nan và đại chúng:

- Các thiện nam tử, lời chơn thật của Vô Thượng Pháp Vương chẵng dối chẳng vọng, như sở như thuyết, chẳng phải như bốn thứ tà thuyết càn loạn bất tử của bọn Mạc Già Lê, các ngươi hăy suy xét kỹ, chớ nên làm mất ḷng tự tin!

LƯỢC GIẢI

Tại sao ngơ ngác chẳng biết đầu đuôi của nghĩa này? V́ trước th́ nói kiến tinh chẳng phải vật, sau lại nói kiến tinh đều là vật; trước nói diệu tánh hiện tiền, sau lại nói chẳng thể chỉ ra, nên ngơ ngác đánh mất lư lẽ đă hiểu biết từ xưa nay vậy.

“Nói lời chơn thật, như sở như thuyết” v.v... tức ngũ ngữ trong Kinh Kim Cang. Phật thuyết chơn ngữ là nghĩa chung với nhị thừa (có sanh tử để diệt, có Niết Bàn để chứng); thật ngữ là nghĩa chung với Bồ Tát (nghĩa đại thừa, sanh tử và Niết Bàn đều như hoa đốm trên không); như ngữ là nghĩa chẳng chung với tam thừa (trí huệ chẳng thể suy lường, lời nói chẳng thể diễn tả); vô thật vô hư; vô hư nên bất cuồng ngữ (chẵng dối), vô thật nên bất dị ngữ (thấy trước việc chưa đến gọi là Bất Dị). Ở đây chỉ dùng hai chữ “chẳng vọng” để bao gồm.

Bà Sa Luận nói: Ngoại đạo chấp cơi trời thường trụ gọi là Bất tử, cho ”chẵng đáp càn” được sanh cơi trời ấy, nếu thật chẳng biết mà đáp càn, sợ thành càn loạn, nên có ai hỏi th́ đáp rằng “Lời bí mật chẳng nên nói hết”, hoặc đáp chẳng định. Phật quở rằng: họ thật là kẻ càn loạn vậy.

*****

Lúc ấy, Pháp Vương Tử Văn Thù Sư Lợi thương xót tứ chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, chắp tay cung kính bạch Phật rằng:

- Đại chúng trong Hội này chẳng ngộ hai nghĩa Thị, Phi Thị với Kiến Tinh và Sắc Không của Như Lai vừa hiển bày. Thế Tôn, những hiện tượng sắc không nơi trước mắt, nếu là kiến tinh th́ phải chỉ ra được, nếu chẳng phải kiến tinh th́ chẳng thể thấy. Nay chẳng biết nghĩa ấy do đâu, nên có kinh sợ chứ chẳng phải v́ xưa kia thiện căn thiếu kém, mong Như Lai từ bi, phát minh những vật tượng và kiến tinh, trong đó chẳng có Thị và Phi Thị kia vốn là vật ǵ?

Phật bảo Văn Thù và Đại Chúng:

- Mười phương Như Lai và Đại Bồ Tát tự trụ nơi chánh định, thoát khỏi căn trần, kiến tinh (năng kiến) với sắc không (sở kiến), ư năng tưởng, tướng sở tưởng vốn chẳng thật có, cũng như hoa đốm trên không, vậy kiến tinh và sắc không vốn là diệu thể trong sạch sáng tỏ của Vô Thượng Bồ Đề, sao lại có Thị hay Phi Thị ở trong đó? Văn Thù, nay ta hỏi ngươi, như ngươi là Văn Thù, lại có Văn Thù nào Thị Văn Thù hay Phi Thị Văn Thù chăng?

- Bạch Thế Tôn! Đúng thế, con là chơn Văn Thù, chẳng Thị Văn Thù. Tại sao? Nếu có Thị tức có hai Văn Thù, mà nay chẳng phải không có Văn Thù, trong đó thật chẳng có hai tướng Thị và Phi.

Phật nói:

- Bản kiến diệu minh với hư không và lục trần cũng đều như thế, vốn là chơn tâm sáng tỏ, tṛn đầy trong sạch của Vô Thượng Bồ Đề, vọng thành sắc không và kiến văn, như đệ nhị nguyệt, vậy cái nào là Thị nguyệt, cái nào là Phi nguyệt? Văn Thù, chỉ một chơn nguyệt, trong đó vốn chẳng Thị nguyệt Phi nguyệt. Cho nên nay ngươi phát minh đủ thứ kiến tinh và cảnh trần, gọi là vọng tưởng, chẳng thể chỉ ra Thị hay Phi Thị. V́ giác tánh tinh diệu sáng suốt, nên khiến ngươi được vượt khỏi ”chỉ và phi chỉ” vậy.

A Nan bạch Phật rằng:

- Đúng như Pháp Vương nói, Bản Giác khắp mười phương thế giới, trạm nhiên thường trụ, tánh chẳng sanh diệt. Vậy với cái chấp Minh Đế của bọn Sa Tỳ Ca La và những ngoại đạo nói có Chơn Ngăû cùng khắp mười phương có ǵ sai biệt? Thế Tôn đă từng ở núi Lăng Già giảng dạy nghĩa này cho Đại Huệ rằng: “Bọn ngoại đạo thường nói tự nhiên, ta thuyết nhân duyên, chẳng phải cảnh giới của họ”.   Nay con xét thấy cái giác tánh tự nhiên này phi sanh phi diệt, xa ĺa tất cả hư vọng điên đảo, h́nh như chẳng phải nhân duyên, vậy so với cái thuyết tự nhiên của bọn ngoại đạo như thế nào? Xin Phật khai thị để cho chúng con khỏi lọt vào bọn tà, được giác tánh chơn thật sáng tỏ của diệu tâm.

Phật bảo A Nan:

- Nay ta dùng phương tiện chơn thật như vậy khai thị cho ngươi, ngươi c̣n chưa ngộ, lại lầm cho là tự nhiên. A Nan, nếu chắc là tự nhiên th́ tự phải xét rơ cái thể của tự nhiên, ngươi hăy quán xét trong bản kiến diệu minh này, lấy ǵ làm tự thể?  Lấy sáng làm tự thể hay lấy tối làm tự thể? Lấy rỗng không làm tự thể hay lấy ngăn bít làm tự thể? Nếu sáng là tự thể th́ chẳng thể thấy tối, nếu rỗng không là tự thể th́ chẳng thể thấy ngăn bít, như vậy cho đến nếu lấy tướng tối làm tự thể, th́ khi sáng, tánh thấy đă đoạn diệt, sao lại thấy sáng?

A Nan nói:

- Nếu bản tánh diệu kiến này chẳng phải tự nhiên, nay con phát minh là do nhân duyên sanh, nhưng tâm c̣n chưa rơ. Xin hỏi Như Lai: Nghĩa này như thế nào mới hợp với tánh nhân duyên?

Phật bảo:

- Ngươi nói nhân duyên, ta lại hỏi ngươi, nay ngươi nhân kiến tinh mà có tánh thấy hiện tiền, vậy cái thấy này nhân sáng có thấy hay nhân tối có thấy? Nhân rỗng không có thấy hay nhân ngăn bít có thấy?

-  A Nan, nếu nhân sáng có thấy th́ chẳng thể thấy tối; nếu nhân tối có thấy th́ chẳng thể thấy sáng. Như vậy cho đến nhân rỗng không, nhân ngăn bít, đều đồng như sáng tối.

- Lại nữa, A Nan, kiến tinh này duyên sáng có thấy hay duyên tối có thấy? Duyên rỗng không có thấy hay duyên ngăn bít có thấy?

- A Nan, nếu duyên rỗng không có thấy th́ chẳng thể thấy ngăn bít; nếu duyên ngăn bít có thấy th́ chẳng thể thấy rỗng không. Như vậy cho đến duyên sáng duyên tối, đều đồng như rỗng không và ngăn bít.

- Nên biết cái bản giác diệu minh này phi nhân duyên, phi tự nhiên, phi bất tự nhiên. Vô Phi và Bất Phi, Vô Thị và Phi Thị, ĺa tất cả tướng, là tất cả pháp. Nay ngươi sao lại ở trong đó dùng chấp tâm đuổi theo những danh tướng hí luận của thế gian, vọng khởi phân biệt, cũng như dùng tay nắm bắt hư không, chỉ tự lao nhọc, hư không làm sao cho ngươi bắt được?- Bạch Thế Tôn! Nếu bản kiến diệu minh phi nhân phi duyên, tại sao Thế Tôn thường nói với các Tỳ Kheo rằng: Tánh thấy gồm đủ bốn thứ nhân duyên, tức là nhân không, nhân sáng, nhân tâm, nhân mắt, vậy nghĩa này thế nào?

Phật nói:

- Ta thuyết những tướng nhân duyên của thế gian chẳng phải đệ nhất nghĩa. A Nan, ta lại hỏi ngươi: người thế gian nói “tôi thấy”, vậy cho thế nào gọi là thấy, thế nào gọi là chẳng thấy?

A Nan đáp:

- Người thế gian nhờ ánh sáng nhật nguyệt và đèn, thấy tất cả tướng gọi là thấy, nếu không có ba thứ ánh sáng này th́ chẳng thể thấy.

- A Nan, nếu lúc không sáng gọi là chẳng thấy, th́ chẳng thể thấy tối, nếu thấy tối chỉ là không sáng th́ sao gọi là chẳng thấy?

- A Nan, nếu lúc tối chẳng thấy sáng gọi là chẳng thấy; mà lúc sáng chẳng thấy tối cũng phải gọi là chẳng thấy, vậy th́ hai tướng sáng tối đều gọi là chẳng thấy.

- Do hai tướng sáng tối tự đoạt mất nhau, chẳng phải tánh thấy của ngươi tạm thời không có. Vậy th́ cả hai đều là thấy, sao nói chẳng thấy?

- A Nan nên biết, trong lúc thấy sáng, kiến tinh chẳng phải sáng; trong lúc thấy tối, kiến tinh chẳng phải tối; trong lúc thấy rỗng không kiến tinh chẳng phải rỗng không; trong lúc thấy ngăn bít, kiến tinh chẳng phải ngăn bít, bốn thứ nghĩa này vốn sẵn như vậy.

- Lại ngươi nên biết: Kiến kiến chi thời, kiến phi thị kiến, kiến do ly kiến, kiến bất năng cập, tại sao lại nói nhân duyên, tự nhiên và tướng ḥa hợp? Hàng Thanh Văn như các ngươi trí kém tâm hẹp, chẳng thông đạt thật tướng trong sạch, nay ta dạy ngươi nên khéo suy tư, hăy siêng năng tinh tấn, thẳng vào diệu đạo Bồ Đề.

LƯỢC GIẢI

Hai chữ Kiến Kiến tức là bản kiến tự hiện, chẳng có năng kiến, sở kiến, Phật đă giải thích kỹ càng trong quyển nh́ này; nếu có năng sở, đều là kiến bệnh đă thành từ vô thỉ, có năng kiến năng giác đều là bệnh. V́ bản kiến bản giác chẳng ở trong bệnh mới gọi là kiến kiến, tức là kiến tánh. Tự tánh chẳng phải sở kiến, nên cũng chẳng có năng kiến để kiến tự tánh, vậy lúc kiến kiến (Kiến kiến chi thời), dù nói kiến nhưng chẳng phải là kiến (Kiến phi thị kiến), v́ chẳng có năng kiến và sở kiến, cho nên nói kiến c̣n phải ĺa kiến (kiến do ly kiến), v́ Năng kiến chẳng thể thấy đến, nên nói Kiến bất năng cập.

*****

- Bạch Thế Tôn! Phật v́ chúng con hiển bày các tướng nhân duyên, tự nhiên, ḥa hợp và chẳng ḥa hợp, tâm c̣n chưa rơ, nay lại nghe nói Kiến Kiến Phi Kiến, khiến con càng thêm mê muội, cúi xin Phật mở ḷng từ bi, khai thị cho chúng con được diệu tâm sáng tỏ trong sạch.

Nói xong, rơi lệ đảnh lễ, kính nghe lời dạy của Phật.

Bấy giờ, Thế Tôn thương xót A Nan và đại chúng, sắp khai giảng pháp tổng tŕ (tổng nhất thiết pháp, tŕ nhất thiết nghĩa), những đường tu vi diệu của các thiền quán Tam Ma Đề, bảo A Nan rằng:

- Ngươi dù nhớ hay, nhưng chỉ thêm phần học rộng nghe nhiều, đối với sự quán chiếu vi diệu của pháp Sa Ma tha, tâm c̣n chưa rơ, nay ngươi hăy chú ư nghe, ta sẽ v́ ngươi khai thị từng lớp một, cũng khiến hàng hữu lậu tương lai sẽ được chứng quả Bồ Đề.

- A Nan, tất cả chúng sanh cam chịu luân hồi, là do hai thứ vọng kiến điên đảo phân biệt, ngay đó phát sanh, ngay đó theo nghiệp luân chuyển. Thế nào là hai thứ vọng kiến?

            - Một là vọng kiến Biệt Nghiệp của chúng sanh.

            - Hai là vọng kiến Đồng Phận của chúng sanh.

- Sao gọi là vọng kiến Biệt Nghiệp?

- A Nan! Như người thế gian con mắt bị nhặm, ban đêm thấy ánh sáng, riêng có bóng tṛn ngũ sắc bao phủ. Ư ngươi thế nào? Cái bóng tṛn hiện nơi ánh đèn này là màu sắc của ngọn đèn hay là màu sắc của kiến tinh?

- Nếu là màu sắc của ngọn đèn, th́ người không nhặm sao chẳng cùng thấy, mà chỉ có người nhặm mới thấy bóng tṛn này? Nếu là màu sắc của kiến tinh, kiến tinh đă thành màu sắc, th́ người nhặm thấy bóng tṛn kia gọi là cái ǵ?

- Lại nữa A Nan! Nếu ĺa ngọn đèn riêng có bóng tṛn này, th́ khi nh́n qua b́nh phong, bàn ghế, phải có bóng tṛn hiện ra, nếu ĺa kiến tinh riêng có bóng tṛn th́ chẳng phải mắt thấy, vậy sao người nhặm lại thấy bóng tṛn?

- Nên biết, màu sắc ở nơi đèn, do mắt bị bệnh mới thấy bóng tṛn, bóng tṛn và cái thấy đều là bệnh nhặm, kẻ thấy được nhặm th́ chẳng phải bệnh; chớ nên nói bóng tṛn là đèn, là thấy, hoặc nói chẳng phải ngọn đèn chẳng phải cái thấy.

- Ví như đệ nhị nguyệt chẳng phải bản thể, cũng chẳng phải bóng của đệ nhất nguyệt. Tại sao? V́ do dụi mắt mới thành có đệ nhị nguyệt. Người trí chẳng nên truy cứu cái đệ nhị nguyệt này là h́nh bóng hay chẳng phải h́nh bóng, là kiến tinh hay chẳng phải kiến tinh, v́ đó là do dụi mắt sanh ra, thế th́ cái bóng tṛn này cũng vậy, do mắt nhặm mà thành, nay muốn gọi cái nào là màu sắc của ngọn đèn, cái nào là màu sắc của kiến tinh? Huống c̣n vọng sanh phân biệt, cho là chẳng phải màu sắc của ngọn đèn, chẳng phải màu sắc của kiến tinh ư?

Sao gọi là vọng kiến Đồng Phận?

- A Nan! Ở cơi Ta Bà này, trừ biển cả ra, phần đất bằng gồm có ba ngàn châu, ở giữa là đại châu, Đông Tây bao gồm hai ngàn ba trăm nước, ngoài ra các tiểu châu ở giữa biển hoặc có từ hai trăm đến ba trăm nước, hoặc có từ một, hai cho đến bốn mươi, năm mươi nước. A Nan, ví như trong đó có một tiểu châu, chỉ có hai nước, dân một nước th́ đồng cảm ác duyên, khiến cả nước cùng thấy tất cả cảnh giới chẳng lành, như những ác tướng do nhựt nguyệt, tinh tú và khí trời hiện ra v.v... chỉ cả nước này thấy đủ thứ ác tướng như vậy, c̣n dân nước kia lại chẳng hề thấy nghe những ác tướng đó.

- A Nan, nay ta v́ ngươi đem hai việc kể trên so sánh cho rơ: Như chúng sanh kia vọng kiến biệt nghiệp, thấy bóng tṛn hiện nơi ánh đèn, dù h́nh như có cảnh tượng trước mặt, nhưng cái thấy ấy vốn do mắt nhặm mà thành, nhặm tức là kiến bệnh, chẳng phải màu sắc sở tạo, nhưng người thấy được nhặm th́ chẳng có kiến bệnh (Biết Phật tánh vẫn là bệnh, phải được thấy Phật tánh mới hết bệnh).

- Như ngươi hôm nay, dùng con mắt thấy núi sông đất đai và chúng sanh, đều là cái kiến bệnh đă thành từ vô thỉ. Tại sao? V́ có năng thấy và sở thấy, nên tựa như cảnh tượng hiện ra trước mắt, giống cái giác minh của ngươi duyên cái sở thấy thành nhặm.

- Bản giác có năng thấy tức là nhặm, ”Bổn giác minh tâm” là tự tánh, cái giác ấy vốn chẳng phải bệnh, có năng giác sở giác mới thành bệnh. Nếu bổn giác không ở trong bệnh, đó mới thật là Kiến Kiến (tức là kiến tánh). Đă được kiến tánh th́ đâu c̣n tên gọi là Kiến, Văn, Giác, Tri nữa!

- Cho nên, ngươi hôm nay thấy ta, thấy ngươi và thấy tất cả chúng sanh đều do kiến bệnh, nếu chẳng phải kẻ có kiến bệnh, th́ cái kiến ấy chơn thật, thể tánh chẳng bệnh nên chẳng gọi là Kiến.

- A Nan! Vọng kiến Đồng Phận của cả nước, cũng như vọng kiến Biệt Nghiệp của một người. Người mắt nhặm thấy bóng tṛn kia là do biệt nghiệp sở sanh; cả nước đồng phận sở dĩ thấy tướng chẳng lành này là do cộng nghiệp tạo nên. Cả hai đều là kiến bệnh đă thành từ vô thỉ.

- Tất cả chúng sanh cơi Ta Bà, cho đến mười phương các nước hữu lậu, đều v́ đem cái sáng tỏ vô lậu của diệu tâm, cùng với bệnh duyên hư vọng của kiến, văn, giác, tri, ḥa hợp vọng sanh, ḥa hợp vọng tử. Nếu được xa ĺa các duyên ḥa hợp và chẳng ḥa hợp, th́ diệt trừ được những cái nhân sanh tử, tự hiện tánh đầy đủ chẳng sanh diệt của Bồ Đề, nên được bản tâm trong sạch bản giác thường trụ.

- A Nan! Ngươi dù đă ngộ bản giác diệu minh, thể tánh phi nhân duyên phi tự nhiên, nhưng c̣n chưa rơ bản giác này chẳng phải do ḥa hợp sanh, cũng chẳng phải không ḥa hợp. A Nan, ta dùng sự tiền trần hỏi ngươi, nay ngươi c̣n bị những tánh nhân duyên vọng tưởng ḥa hợp của thế gian mà tự nghi hoặc, lại cho sự chứng tâm Bồ Đề là do ḥa hợp sanh khởi. Vậy th́ cái kiến tinh vi diệu trong sạch này là ḥa với sáng hay ḥa với tối? Ḥa với thông hay hoà với nghẽn?

- Nếu ḥa với sáng, th́ khi ngươi thấy sáng hiện tiền, kiến tinh xen lộn ở đâu? Tướng thấy c̣n có thể phân biệt, cái h́nh tướng xen lộn là như thế nào?

- Nếu chẳng phải kiến tinh th́ làm sao thấy sáng? Nếu là kiến tinh th́ làm sao kiến tinh lại thấy kiến tinh?

- Nếu kiến tinh đầy khắp th́ c̣n chỗ nào ḥa với sáng? Nếu sáng đầy khắp th́ c̣n chỗ nào để ḥa với kiến tinh. Kiến tinh phải khác với sáng, khi xen lộn th́ làm mất tánh sáng, nếu mất tánh sáng, nói ḥa với sáng là chẳng đúng. Ḥa tối, ḥa thông, ḥa nghẽn nghĩa cũng như vậy.

- Lại nữa, A Nan! Kiến tinh của ngươi là hợp với sáng hay hợp với tối? Hợp với thông hay hợp với nghẽn?

- Nếu hợp với sáng, th́ khi tối, tướng sáng đă diệt, th́ kiến tinh này chẳng thể hợp với tối, làm sao thấy tối? Nếu lúc thấy tối chẳng hợp với tối, th́ khi hợp với sáng cũng chẳng phải thấy sáng. Đă chẳng thấy sáng, sao nói hợp với sáng, và biết cái sáng chẳng phải tối? Hợp tối, hợp thông, hợp nghẽn nghĩa cũng như vậy.

- Bạch Thế Tôn! Theo con suy nghĩ, cái bản giác này với các cảnh trần và cái tâm niệm tưởng là chẳng ḥa hợp.

Phật bảo:

- Nay ngươi lại cho là chẳng ḥa hợp, ta lại hỏi ngươi, cái kiến tinh này nếu chẳng ḥa hợp, là chẳng ḥa với sáng hay chẳng ḥa với tối? Chẳng ḥa với thông hay chẳng ḥa với nghẽn?

Nếu chẳng hoà với sáng, th́ kiến tinh với cái sáng phải có ranh giới, vậy ngươi hăy xét xem chỗ nào là sáng? Chỗ nào là kiến tinh? Giữa kiến tinh với sáng, ranh giới ở đâu?

- A Nan! Nếu ở nơi sáng chẳng có kiến tinh th́ sáng và kiến tinh chẳng tiếp xúc nhau, làm sao thấy được tướng sáng để thành lập ranh giới? Ḥa tối, ḥa thông, ḥa nghẽn nghĩa cũng như vậy.

- Lại nữa, kiến tinh của ngươi nếu chẳng ḥa hợp, là chẳng ḥa hợp với sáng hay chẳng ḥa hợp với tối? Chẳng hợp với thông hay chẳng hợp với nghẽn?

- Nếu chẳng hợp với sáng, th́ kiến tinh với sáng hai tánh trái ngược nhau, cũng như lỗ tai với sáng chẳng thể tiếp xúc, thế th́ cái thấy c̣n chẳng biết chỗ của tướng sáng, làm sao xét rơ cái lư hợp hay chẳng hợp? Hợp tối, hợp thông, hợp nghẽn nghĩa cũng như vậy.

- A Nan! Ngươi c̣n chưa rơ tất cả tướng huyễn hóa nơi tiền trần, tùy nơi nhân duyên sanh ra, theo nơi nhân duyên diệt mất, thể tánh của tướng huyễn hóa hư vọng này vốn là diệu giác sáng tỏ, như vậy cho đến ngũ ấm, lục nhập, thập nhị xứ, thập bát giới, v́ nhân duyên ḥa hợp, hư vọng cho là có sanh, nhân duyên tan ră, hư vọng cho là có diệt, mà chẳng biết sanh diệt khứ lai vốn là Như Lai Tạng, cũng gọi là diệu minh thường trụ, bất động chu viên (cùng khắp không gian), diệu tánh chơn như, nơi tánh chơn thường t́m sự khứ lai, mê ngộ, sanh diệt đều bất khả đắc. 

NGŨ ẤM VỐN VÔ SANH

- Sao nói Ngũ Ấm vốn là Như Lai Tạng, cũng là Diệu tánh chơn như?

l.          SẮC ẤM VỐN VÔ SANH

- A Nan! Ví như có người dùng con mắt trong sạch, nh́n hư không sáng sủa chỉ có trống rỗng, hẳn không thấy ǵ, người ấy khi không ngó hẳn một chỗ chẳng nháy mắt, ngó lâu mắt mỏi th́ thấy hoa đốm hiện nơi hư không (hoa đốm dụ cho sắc ấm), hoặc thấy những tướng lăng xăng giả dối. Nên biết sắc ấm cũng vậy.

- A Nan! Những hoa đốm này chẳng từ hư không ra, cũng chẳng từ mắt ra. Nếu từ hư không ra, ắt phải trở vào hư không, nếu có ra vào th́ chẳng phải hư không. Nếu hư không chẳng phải hư không th́ tự nhiên chẳng thể dung nạp tướng hoa đốm sanh diệt trong đó, cũng như thân thể A Nan chẳng dung nạp được một A Nan nữa.

- Nếu hoa đốm từ con mắt ra th́ phải trở vào con mắt; nếu từ mắt ra, ắt phải có tánh thấy, nếu có tánh thấy th́ khi xoay về, lẽ ra phải thấy mắt. Nếu chẳng có tánh thấy, khi ra đă che mờ hư không, th́ khi về phải che mờ con mắt. Lại, khi thấy hoa đốm, lẽ ra mắt phải không mờ, vậy sao nói thấy hư không sáng sủa mới gọi là con mắt trong sạch? Nên biết sắc ấm hư vọng, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, cũng chẳng phải tánh tự nhiên.

2.         THỌ ẤM VỐN VÔ SANH

- A Nan! Ví như có người tay chân khỏe mạnh, thân thể điều ḥa, cuộc sống yên ổn, quên hẳn sự thuận nghịch, người ấy vô cớ hai bàn tay xoa nhau, vọng sanh các tướng trơn, rít, lạnh, nóng nơi hai bàn tay. Nên biết thọ ấm cũng vậy.

- A Nan! Những xúc giác huyễn hóa này (xúc giác dụ cho thọ ấm), chẳng từ hư không ra, cũng chẳng từ bàn tay ra. A Nan, nếu từ hư không ra, đă tiếp xúc với bàn tay, sao chẳng tiếp xúc với thân thể? Chẳng lẽ hư không lại biết lựa chỗ để tiếp xúc ư?

- Nếu từ bàn tay ra th́ chẳng cần đợi hai bàn tay hợp lại mới có xúc giác; lại, đă từ bàn tay ra, lúc hai tay hợp lại biết có xúc giác, lúc hai tay rời ra th́ xúc giác phải chạy vào, vậy xương tủy, cánh tay cũng phải biết được cái dấu tích của xúc giác khi vào. Nếu có tâm biết ra biết vào, th́ phải có một vật đi lại trong thân, đâu cần đợi hai tay hợp rồi mới gọi là tiếp xúc!

- Nên biết thọ ấm hư vọng, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, cũng chẳng phải tánh tự nhiên.

3.         TƯỞNG ẤM VỐN VÔ SANH

- A Nan! Ví như nghe người nói đến trái mơ chua th́ tiết ra nước miếng, nghĩ đến leo dốc cao th́ ḷng bàn chân ghê rợn, (nước miếng và ghê rợn dụ cho tưởng ấm), nên biết tưởng ấm cũng vậy.

- A Nan! Cái tiếng chua này chẳng từ trái mơ ra, cũng chẳng từ miệng ra. Nếu từ trái mơ ra th́ trái mơ tự biết nói, đâu cần đợi người nói? Nếu từ miệng ra th́ miệng phải tự nghe tiếng, đâu cần đợi tai nghe? Nếu chỉ riêng tai có nghe th́ nước miếng sao chẳng từ tai chảy ra? Tưởng tượng ḿnh leo dốc th́ cũng như vậy. Nên biết tưởng ấm hư vọng, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, cũng chẳng phải tánh tự nhiên.

4.         HÀNH ẤM VỐN VÔ SANH

- A Nan! Ví như ḍng nước chảy mạnh (ḍng nước dụ cho Hành Ấm), làn sóng nối tiếp, lớp trước lớp sau chẳng vượt khỏi nhau, nên biết Hành Ấm cũng vậy.

- A Nan! Tánh ḍng nước như thế chẳng do hư không sanh ra, chẳng do nước mà có, chẳng phải tánh của nước, cũng chẳng ĺa hư không và nước.

- Nếu do hư không sanh ra th́ mười phương vô tận hư không đều thành ḍng nước vô tận, và tự nhiên thế giới đều bị ch́m đắm cả. Nếu do nước mà có th́ nước là năng có, ḍng nước là sở có, hai tướng khác nhau th́ tánh của ḍng nước lẽ ra chẳng phải là nước; nếu ḍng nước tức là tánh của nước th́ khi nước trong lặng lại chẳng phải tự thể của nước. Nếu ĺa hư không và nước th́ hư không vốn chẳng có trong và ngoài, và ngoài nước ra chẳng có ḍng nước. Nên biết hành ấm hư vọng, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, cũng chẳng phải tánh tự nhiên.

5.         THỨC ẤM VỐN VÔ SANH

- A Nan! Ví như có người lấy một cái b́nh (cái b́nh dụ cho nghiệp thân), trong đựng đầy hư không (hư không dụ cho thức ấm), bít kín miệng b́nh đem xa ngàn dặm tặng cho nước khác, nên biết Thức Ấm cũng vậy.

- A Nan! Hư không này chẳng phải từ phương kia ra, cũng chẳng phải từ phương này vào. Nếu từ phương kia ra, trong b́nh đă đựng hư không đem đi, th́ phương kia phải thiếu hư không. Nếu từ phương này vào, khi mở miệng b́nh trút ra th́ phải thấy hư không ra. Nên biết thức ấm hư vọng, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, cũng chẳng phải tánh tự nhiên.

LƯỢC GIẢI

Trung Quán Luận có bài kệ rằng:

Các pháp chẳng tự sanh,

Cũng chẳng phải tha sanh,

Chẳng cộng chẳng vô nhân,

Cho nên nói Vô Sanh.

Sao nói các pháp chẳng tự sanh? V́ phải đợi nhân duyên ḥa hợp mới được sanh. Sao nói chẳng tha sanh? V́ các duyên đều chẳng có tự tánh. Sao nói chẳng cộng sanh? V́ tự và tha c̣n chẳng có, lấy ǵ để cộng? Sao nói chẳng vô nhân sanh? V́ bản thể sáng tỏ của diệu tâm, phải do tu hành đến giác ngộ mới được hiển bày, chẳng tự nhiên mà thành. Vậy biết tất cả sự vật trên thế gian vốn là Vô Sanh, v́ chẳng có lư do nào để sanh vậy.

Nếu ngộ tất cả pháp vô sanh th́ Sắc như dụi mắt thấy hoa đốm trên không; Thọ như xoa bàn tay sanh những xúc giác trơn, rít, lạnh, nóng; Tưởng như nghe nói trái mơ tiết ra nước miếng; Hành như ḍng nước chảy, chẳng có năng sanh sở sanh (nước chẳng phải năng sanh, ḍng nước chẳng phải sở sanh); Thức như cái b́nh đựng đầy hư không, b́nh dụ cho nghiệp thân, hư không dụ cho vọng thức. Bản Giác tánh không, cùng khắp pháp giới, hễ mê thành vọng thức th́ thành hư không ở trong b́nh, nhét bít miệng b́nh dụ cho vọng phân đồng dị, có trong có ngoài, kỳ thật trong b́nh ngoài b́nh chỉ cùng một hư không (dụ cho tánh và thức vốn là một thể), hư không chẳng khứ lai dụ cho tánh chẳng sanh diệt. B́nh dụ vọng nghiệp, hư không dụ vọng thức, nghiệp kéo thức chạy theo, như đem b́nh đựng hư không đi các nước khác, dụ cho đi khắp lục đạo, cam chịu luân hồi.

Lục nhập, thập nhị xứ, thập bát giới, cho đến thất đại ở quyển sau, đều sáng tỏ nghĩa này (Vạn Pháp Vốn Vô Sanh).

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM

TK Thích Duy Lực

Dịch từ Hán sang Việt và lược giải 

QUYỂN BA

LỤC NHẬP 

- Lại nữa, A Nan! Sao nói Lục Nhập vốn là Như Lai Tạng, cũng là diệu tánh chơn như?

l.          NHĂN NHẬP VỐN VÔ SANH

- Ví như dùng mắt ngó hẳn một chỗ, lâu tự mỏi mệt, cả con mắt và cái mỏi mệt đó, đều là tướng ngó lâu mỏi mệt của tánh Bồ Đề. Do hai thứ vọng trần Sáng và Tối hiện ra cái thấy, thu nạp cảnh trần, gọi là tánh thấy; cái thấy này ĺa Sáng và Tối vốn chẳng có tự thể.

- A Nan nên biết! Kiến tinh này chẳng từ sáng, tối ra, chẳng từ con mắt ra, cũng chẳng từ hư không ra. Tại sao? Nếu từ chỗ sáng ra, th́ khi tối, kiến tinh đă theo sáng diệt, lẽ ra chẳng thể thấy tối; nếu từ chỗ tối ra, th́ khi sáng, kiến tinh phải theo tối diệt, lẽ ra chẳng thể thấy sáng. Nếu từ con mắt ra th́ chẳng có sáng tối, vậy biết kiến tinh vốn chẳng có tự tánh. Nếu từ hư không ra, th́ nh́n ra ngoài thấy cảnh trần, xoay về phải thấy con mắt; lại, hư không tự thấy có liên quan ǵ chỗ nhập của ngươi? Vậy biết Nhăn Nhập hư vọng, vốn chẳng phải tánh nhân duyên cũng chẳng phải tánh tự nhiên.

2.         NHĨ NHẬP VỐN VÔ SANH

- A Nan! Ví như có người lấy hai ngón tay bịt chặt hai lỗ tai, do lỗ tai mỏi mệt, trong đầu hóa ra có tiếng; cả hai tai cùng cái mỏi mệt đó, đều là tướng ngó lâu mỏi mệt của tánh Bồ Đề. Do hai thứ vọng trần Động và Tịnh hiện ra cái nghe, thu nạp cảnh trần, gọi là tánh nghe; tánh nghe này ĺa Động và Tịnh, vốn chẳng có tự thể.

- A Nan nên biết! Cái nghe này chẳng từ động tịnh ra, chẳng từ tai ra, cũng chẳng từ hư không ra. Tại sao? Nếu cái nghe từ chỗ tịnh ra, th́ khi động, cái nghe đă theo tịnh diệt, lẽ ra chẳng thể nghe động; nếu từ chỗ động ra, th́ khi tịnh, cái nghe đă theo động diệt, lẽ ra chẳng biết được tịnh. Nếu từ lỗ tai ra th́ chẳng có động tịnh, vậy biết cái nghe vốn chẳng có tự tánh. Nếu từ hư không ra, hư không đă thành tánh nghe th́ chẳng phải hư không; lại hư không tự nghe, có liên quan ǵ chỗ nhập của ngươi? Vậy biết Nhĩ Nhập hư vọng, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, cũng chẳng phải tánh tự nhiên.

3.         TỶ NHẬP VỐN VÔ SANH

- A Nan! Ví như có người hít mạnh hai lỗ mũi, hít lâu mỏi mệt, th́ trong lỗ mũi có xúc giác thấy mát. Do xúc giác phân biệt thông, nghẽn, hư, thật, cho đến các mùi thơm thối, cùng lỗ mũi và cái hít lâu mỏi mệt đó, đều là tướng ngó lâu mỏi mệt của tánh Bồ Đề. Do hai thứ vọng trần Thông và Nghẽn, hiện ra cái ngửi, thu nạp cảnh trần, gọi là tánh ngửi! Cái ngửi này ĺa thông và nghẽn vốn chẳng có tự thể.

- A Nan nên biết! Cái ngửi này chẳng từ thông nghẽn ra, chẳng từ lỗ mũi ra, cũng chẳng từ hư không ra. Tại sao? Nếu từ chỗ thông ra, th́ khi nghẽn, cái ngửi đă mất, làm sao biết nghẽn? Nếu từ nghẽn ra, th́ khi thông, chẳng c̣n cái ngửi, làm sao biết các mùi thơm thối? Nếu từ lỗ mũi ra, th́ chẳng có thông nghẽn, vậy biết cái ngửi vốn chẳng có tự tánh. Nếu từ hư không ra, th́ hư không phải ngửi lỗ mũi của ngươi; lại hư không tự ngửi, có liên quan ǵ chỗ nhập của ngươi? Vậy biết Tỷ Nhập hư vọng vốn chẳng phải tánh nhân duyên, cũng chẳng phải tánh tự nhiên.

4.         THIỆT NHẬP VỐN VÔ SANH

- A Nan! Ví như có người dùng lưỡi liếm mép, liếm măi mỏi mệt, người có bệnh thấy có vị đắng, người chẳng bệnh thấy có chút vị ngọt, do vị giác thấy ngọt và đắng, tỏ rơ cái lưỡi lúc chưa phát dụng vốn chẳng có vị giác. Cả cái lưỡi cùng cái mỏi mệt đó, đều là tướng ngó lâu mỏi mệt của tánh Bồ Đề. Do hai thứ vọng trần Ngọt và Đắng, hiện ra vị giác, thu nạp cảnh trần gọi là tánh nếm; tánh nếm này ĺa ngọt và đắng vốn chẳng có tự thể.

- A Nan nên biết! Cái biết đắng biết ngọt này chẳng từ ngọt đắng ra, chẳng từ lưỡi ra, cũng chẳng từ hư không ra. Tại sao? Nếu từ đắng ra, th́ khi ngọt, tánh nếm đă diệt, làm sao biết ngọt? Nếu từ ngọt ra, th́ khi đắng, tánh nếm đă diệt, làm sao biết đắng? Nếu từ lưỡi ra th́ chẳng có ngọt đắng, vậy biết vị giác vốn chẳng có tự tánh. Nếu từ hư không ra, th́ hư không tự nếm chứ chẳng phải ngươi nếm; lại, hư không tự nếm, có liên quan ǵ đến chỗ nhập của ngươi? Nên biết Thiệt Nhập hư vọng, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, cũng chẳng phải tánh tự nhiên.

5.         THÂN NHẬP VỐN VÔ SANH

- A Nan! Ví như có người dùng bàn tay lạnh tiếp xúc với bàn tay nóng, nếu bên lạnh nhiều hơn th́ bên nóng cũng thành lạnh theo; nếu bên nóng nhiều hơn th́ bên lạnh cũng thành nóng theo, cái xúc giác của hai tay hợp lại là nhờ khi hai tay rời ra mới được biết rơ, sở dĩ thế nóng nhiều liền theo nóng, thế lạnh nhiều liền theo lạnh, là do nơi xúc giác mỏi mệt mà thành. Cả cái thân và cái mỏi mệt đó, đều là tướng ngó lâu mỏi mệt của tánh Bồ Đề. Do hai thứ vọng trần Ly và Hợp, hiện ra xúc giác, thu nạp cảnh trần, gọi là tánh xúc giác; tánh xúc giác này ĺa sự ly, hợp, thuận, nghịch vốn chẳng có tự thể.

- A Nan nên biết! Xúc giác này chẳng từ ly hợp ra, chẳng từ thuận nghịch ra, chẳng từ thân thể ra, cũng chẳng từ hư không ra. Tại sao? Nếu từ hợp ra, th́ khi ly, tánh xúc giác đă diệt, làm sao biết ly? Đối với hai tướng thuận nghịch th́ cũng như vậy. Nếu từ thân thể ra th́ chẳng có ly, hợp, thuận, nghịch, vậy biết xúc giác của ngươi vốn chẳng có tự tánh. Nếu từ hư không th́ hư không tự hay biết, có liên quan ǵ đến chỗ nhập của ngươi? Nên biết Thân Nhập hư vọng, vốn chẳng phải tánh nhân duyên cũng chẳng phải tánh tự nhiên.

6.         Ư NHẬP VỐN VÔ SANH

- A Nan! Ví như có người mệt nhọc th́ ngủ, ngủ đă bèn thức, gặp cảnh th́ nhớ, không nhớ th́ quên, như cảnh mộng giả dối cho là chơn thật, ấy là điên đảo. Các tướng sanh, trụ, dị, diệt, tùy duyên thay đổăi từng sát na, chẳng vượt khỏi nhau. Gom sự hiểu biết trong đó thành tướng mỏi mệt; cả ư căn cùng cái mỏi mệt đó, điều là tướng ngó lâu mỏi mệt của tánh Bồ Đề.

- Do hai thứ vọng trần Sanh và Diệt, vọng khởi pháp trần bên trong, thành cái biết của ư căn. Ư căn như ḍng nước, sự trước mắt nhờ tai mắt thấy nghe tiền trần bên ngoài là thuận lưu (đồng thời ư thức); sự tưởng nhớ chẳng nhờ tai mắt được thấy nghe pháp trần bên trong là nghịch lưu (độc đầu ư thức), khi chảy ngược vào chỗ tai mắt chẳng thể đến (sự vật đă qua hoặc cách xa), chỉ có ư căn mới biết, gọi là tánh hay biết của ư căn; tánh hay biết này ĺa thức, ngủ, sanh, diệt, vốn chẳng có tự thể.

- A Nan nên biết! Cái hay biết của ư căn chẳng từ thức ngủ ra, chẳng từ sanh diệt ra, chẳng từ ư căn ra, cũng chẳng từ hư không ra. Tại sao? Nếu từ thức ra, th́ khi ngủ, ư căn đă theo thức diệt, lấy ǵ để biết ngủ? Nếu từ sanh mà ra, th́ khi diệt đồng như không, ai biết sự diệt? Nếu từ diệt ra th́ khi sanh đă không có, ai biết sự sanh? Nếu từ ư căn ra th́ chẳng có tướng thức, ngủ, vậy cái hay biết của ư căn đồng như hoa đốm trên không, vốn chẳng có tự tánh. Nếu từ hư không ra, th́ hư không tự biết, có liên quan ǵ đến chỗ nhập của ngươi? Nên biết, Ư Nhập hư vọng, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, cũng chẳng phải tánh tự nhiên.

THẬP NHỊ XỨ

- Lại nữa A Nan! Sao nói Thập Nhị Xứ vốn là Như Lai Tạng, cũng là diệu tánh Chơn Như?

l.          NHĂN CĂN VỚI SẮC TRẦN VỐN VÔ SANH

- A Nan! Ngươi hăy xem rừng cây và các suối ao trong vườn Kỳ Đà này, ư ngươi thế nào? Ấy là sắc trần sanh ra nhăn căn, hay nhăn căn sanh ra sắc tướng?

- A Nan! Nếu nhăn căn sanh ra sắc tướng, vậy khi nh́n hư không chẳng phải sắc tướng, th́ tánh sắc phải mất; hễ mất th́ tất cả chẳng có, sắc tướng chẳng có th́ làm sao rơ được tánh không? Sự không cũng như thế.

- Lại, nếu sắc trần sanh ra nhăn căn, th́ khi nh́n hư không chẳng phải sắc, nhăn căn liền mất, nhăn căn đă mất th́ lấy ǵ để phân biết Sắc và Không.

- Nên biết sự thấy và sắc không đều chẳng xứ sở, tức sắc trần và sự thấy, hai xứ đều hư vọng, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, cũng chẳng phải tánh tự nhiên.

2.         NHĨ CĂN VỚI THANH TRẦN VỐN VÔ SANH

- A Nan! Ngươi lại nghe trong vườn Kỳ Đà này, khi đến bữa ăn th́ đánh trống, khi hợp chúng th́ đánh chuông, tiếng chuông tiếng trống trước sau nối nhau. Ư ngươi thế nào? Ấy là cái tiếng đến bên nhĩ căn, hay nhĩ căn đến chỗ cái tiếng?

- A Nan! Nếu cái tiếng đến bên nhĩ căn, cũng như ta khất thực trong thành Thất La Phiệt, ở trong rừng Kỳ Đà chẳng có ta. Cái tiếng này ắt phải đến chỗ nhĩ căn của A Nan, th́ Mục Liên, Ca Diếp đều chẳng thể cùng nghe, huống là trong này có 1250 vị Sa Môn, đồng nghe tiếng chuông cùng đến trai đường!

- Nếu nhĩ căn của ngươi đến bên cái tiếng, cũng như ta đă về rừng Kỳ Đà, trong thành Thất La Phiệt chẳng có ta. Vậy khi ngươi nghe tiếng trống, nhĩ căn đă đến chỗ đánh trống rồi, khi ấy tiếng chuông đồng phát ra, th́ chẳng thể cùng nghe một lượt, huống là các tiếng voi, ngựa, trâu, dê v.v...Nếu nhĩ căn và cái tiếng chẳng khứ lai th́ cũng chẳng thể nghe.

- Nên biết, sự nghe và âm thanh đều chẳng xứ sở, tức sự nghe và âm thanh hai xứ đều hư vọng, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, cũng chẳng phải tánh tự nhiên.

3.         TỶ CĂN VỚI HƯƠNG TRẦN VỐN VÔ SANH

- A Nan! Ngươi hăy ngửi mùi hương chiên đàn trong lư này, hương này nếu đốt đến một thù (độ một chỉ), th́ thành Thất La Phiệt trong 40 dặm, đồng thời ngửi được mùi hương. Ư ngươi thế nào? Mùi hương này từ cây chiên đàn ra, từ tỷ căn ra, hay từ hư không ra?

- Nếu mùi hương này từ tỷ căn của ngươi ra th́ tỷ căn chẳng phải chiên đàn, tại sao trong tỷ căn lại có mùi hương chiên đàn, mà gọi là ngươi ngửi được mùi hương? Lại trong tỷ căn phát ra mùi hương, mà nói là ngửi được th́ chẳng đúng nghĩa.

- Nếu từ hư không ra, th́ tánh hư không thường c̣n, mùi hương cũng phải thường có, đâu cần đợi đốt cây chiên đàn trong lư rồi mới có mùi hương?

- Nếu mùi hương từ cây chiên đàn ra, tức là chất hương này do đốt thành khói, tỷ căn ngửi được là nhờ hơi khói, th́ tại sao khói ấy bay lên trên hư không chưa được bao xa, mà trong 40 dặm đă ngửi được mùi hương?

- Nên biết mùi hương và cái ngửi đều chẳng xứ sở, tức cái ngửi và mùi hương hai xứ đều hư vọng, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, cũng chẳng phải tánh tự nhiên.

4.         THIỆT CĂN VỚI VỊ TRẦN VỐN VÔ SANH

- A Nan! Ngươi thường hai thời ở trong chúng ôm b́nh bát khất thực, đôi lúc gặp những món tô, lạc, đề hồ, gọi là vị ngon, ư ngươi thế nào? Mùi vị từ hư không ra, từ thiệt căn ra, hay từ đồ ăn ra?

- A Nan! Nếu mùi vị này từ thiệt căn của ngươi ra, th́ trong miệng ngươi chỉ có một thiệt căn, thiệt căn bấy giờ đă thành vị tô rồi, nếu gặp đường phèn, lẽ ra vị tô chẳng dời đổi; nếu chẳng dời đổi th́ chẳng được nói là biết mùi vị, c̣n nếu dời đổi th́ thiệt căn chẳng phải nhiều thể, làm sao một thiệt căn lại biết được nhiều mùi vị?

- Nếu từ đồ ăn ra, th́ đồ ăn chẳng tri giác, làm sao tự biết được mùi vị? Lại đồ ăn tự biết th́ cũng đồng như người khác ăn, có liên quan ǵ đến ngươi mà gọi là tánh biết vị của ngươi?

- Nếu từ hư không ra, th́ ngươi hăy nếm thử hư không xem là mùi vị ǵ? Hư không nếu là vị mặn, th́ đă làm mặn thiệt căn của ngươi, ắt phải làm mặn mặt ngươi, và mọi người trong cơi này đều như cá biển, đă thường chịu cái mặn, chẳng c̣n biết thế nào là lạt nữa; và nếu chẳng biết lạt, th́ cũng chẳng phân biệt được mặn. Nếu chẳng biết mặn lạt, th́ làm sao gọi là biết mùi vị?

- Nên biết, mùi vị và sự nếm đều chẳng có xứ sở, tức nếm và mùi vị hai xứ đều hư vọng, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, cũng chẳng phải tánh tự nhiên.

5.         THÂN CĂN VỚI XÚC TRẦN VỐN VÔ SANH

- A Nan! Ngươi thường buổi sáng lấy tay xoa đầu, ư ngươi thế nào? Cái xúc giác khi xoa đầu này từ đâu mà ra? Từ nơi tay hay từ nơi đầu?

- Nếu từ nơi tay th́ cái đầu chẳng biết, làm sao thành có xúc giác? Nếu từ nơi đầu mà chẳng dùng tay th́ làm sao gọi là xúc giác được? Nếu cả hai mỗi mỗi tự có xúc giác, th́ một ḿnh ngươi phải có hai thân.

- Nếu đầu và tay chỉ một xúc giác sanh ra, th́ đầu và tay thành một thể; nếu một thể th́ xúc giác ở bên nào? Ở bên năng th́ chẳng ở bên sở, ở bên sở th́ chẳng ở bên năng, chẳng lẽ hư không và ngươi mà thành lập được cái xúc giác đó ư?

- Nên biết, xúc giác và thân căn đều chẳng xứ sở, tức cái thân và xúc giác hai xứ đều hư vọng, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, cũng chẳng phải tánh tự nhiên.

6.         Ư CĂN VỚI PHÁP TRẦN VỐN VÔ SANH.

- A Nan! Ngươi thường dùng ư thức duyên theo ba tánh thiện, ác và vô kư, sanh khởi pháp trần. Vậy pháp trần này từ nơi tâm ra, hay ĺa tâm riêng có phương sở?

- A Nan! Nếu từ tâm ra th́ pháp trần chẳng phải cảnh trần, chẳng phải là cái sở duyên của tâm, làm sao thành xứ được?

- Nếu ĺa tâm riêng có phương sở, th́ tự tánh của pháp trần là biết hay chẳng biết? Biết tức gọi là tâm, tâm này ĺa tâm ngươi th́ chẳng phải pháp trần của ngươi biết, đồng như tâm của người khác; nếu ĺa tâm ngươi lại c̣n có tâm biết, th́ tâm ngươi thành hai sao? Nếu chẳng biết th́ pháp trần này đă chẳng phải sắc, thanh, hương, vị, ly, hợp, lạnh, nóng và tướng hư không, th́ phải ở chỗ nào? Hiện nay nơi sắc, không đều chẳng thể nêu ra, chẳng lẽ trong thế gian lại có cái ở ngoài hư không ư? Lại tâm chẳng phải sở duyên th́ xứ từ đâu mà an lập?

- Nên biết, pháp trần và tâm đều chẳng có xứ sở, tức ư căn và pháp trần hai xứ đều hư vọng, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, cũng chẳng phải tánh tự nhiên.

THẬP BÁT GIỚI

- Lại nữa A Nan! Sao nói Thập Bát Giới vốn là Như Lai Tạng, cũng là diệu Tánh Chơn Như?

l. NHĂN CĂN, SẮC TRẦN, NHĂN THỨC GIỚI VỐN VÔ SANH

- A Nan! Như ngươi đă rơ, nhăn căn và sắc trần làm duyên với nhau, sanh ra nhăn thức. Vậy thức này là từ nhăn căn ra, lấy nhăn căn làm giới; hay từ sắc trần ra, lấy sắc trần làm giới?

- A Nan, nếu từ nhăn căn ra mà chẳng có Sắc Không th́ chẳng thể phân biệt, dẫu cho có cái thức của ngươi cũng chẳng dùng được. Sự thấy của ngươi chẳng phải xanh, vàng, đỏ, trắng, chẳng thể nêu ra, vậy từ đâu để lập giới?

- Nếu từ sắc trần ra, hư không chẳng phải sắc trần th́ thức ngươi phải diệt, sao được biết tánh hư không? Nếu lúc sắc trần biến đổi, thức ngươi cũng biết sắc trần biến đổi, mà thức ngươi chẳng biến, vậy giới từ đâu mà an lập? Theo sự biến đổi là biến đổi, giới tướng vốn chẳng có; chẳng biến đổi th́ thường c̣n, thức đă từ sắc trần ra, lẽ ra chẳng biết được chỗ hư không?

- Nếu do căn trần cộng sanh cái giới ở giữa, khi căn trần hợp lại th́ chẳng thể lập giới, tức là ĺa trung; khi ĺa căn th́ phải hợp trần, ĺa trần th́ phải hợp căn, vậy thể tánh lẫn lộn, làm sao thành giới?

- Nên biết, nhăn căn và sắc trần làm duyên với nhau, sanh nhăn thức giới, ba chỗ đều không tức nhăn căn, sắc trần và nhăn thức giới, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, cũng chẳng phải tánh tự nhiên.

LƯỢC GIẢI

Thập Bát Giới này chỉ phá lục thức, nên nói Thức này chẳng từ Nhăn ra để làm giới, v́ thức chủ phân biệt, nếu chẳng có Sắc, Không th́ chẳng thể phân biệt. Cũng chẳng từ Sắc ra để làm giới, v́ sắc có biến diệt, thức chẳng biến đổi, nếu chỉ từ Sắc ra th́ chẳng thể phân biệt hư không. Cũng chẳng từ Nhăn và Sắc cộng sanh làm giới, v́ nhăn th́ có biết, sắc th́ vô tri, tri và vô tri hai cái đối nghịch, làm sao mà hợp? Nếu hợp th́ từ đâu mà lập giới? Giới chính giữa đă chẳng có, nên nói Ĺa Trung. Nếu nói ĺa căn trần mà sanh thức, th́ ĺa căn phải hợp với trần, ĺa trần phải hợp với căn, vậy thức thuộc bên nào? Nên nói thể tánh lẫn lộn, ba chỗ đều sai, giới làm sao an lập?

*****

2.         NHĨ CĂN, THANH TRẦN, NHĨ THỨC GIỚI VỐN VÔ SANH.

- A Nan! Như ngươi đă rơ, nhĩ căn, thanh trần làm duyên với nhau, sanh ra nhĩ thức. Vậy thức này từ nhĩ căn ra, lấy nhĩ căn làm giới; hay từ thanh trần ra, lấy thanh trần làm giới?

- A Nan! Nếu từ nhĩ căn ra, mà chẳng có hai tướng động tịnh th́ chẳng thành cái biết của nhĩ căn, tức chẳng có biết, biết c̣n chẳng có, vậy cái thức là h́nh tướng ǵ?

- Nếu do lỗ tai nghe th́ lúc chẳng có động tịnh, cái nghe chẳng thành, chỉ có h́nh tướng của lỗ tai, cũng như sắc trần tiếp xúc với thanh trần, cả hai đều chẳng có thức để phân biệt th́ nhĩ thức giới từ đâu mà lập?

- Nếu từ thanh trần ra, nhĩ thức do thanh trần mà có, th́ chẳng liên quan ǵ đến cái nghe, chẳng nghe th́ cũng chẳng biết tướng thanh trần ở đâu. Lại, nếu nhĩ thức từ thanh trần ra dầu cho thanh trần do cái nghe mà có tướng, th́ cái nghe phải nghe được nhĩ thức, nếu chẳng nghe được th́ chẳng phải là giới, nếu nghe được th́ thức cũng đồng như thanh trần, và thức đă là sở nghe th́ ai biết nghe cái thức? C̣n nếu chẳng biết th́ đồng như cỏ cây. Chẳng lẽ thanh trần và cái nghe lẫn lộn, thành giới ở giữa? Giới chính giữa đă chẳng có, tướng trong và ngoài từ đâu mà lập?

- Nên biết, nhĩ căn, thanh trần làm duyên với nhau, sanh nhĩ thức giới, ba chỗ đều không, tức nhĩ căn, thanh trần và nhĩ thức giới, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, cũng chẳng phải tánh tự nhiên.

3.         TỶ CĂN, HƯƠNG TRẦN, TỶ THỨC GIỚI VỐN VÔ SANH

- A Nan, như ngươi đă rơ, tỷ căn, hương trần làm duyên với nhau, sanh ra tỷ thức. Vậy thức này từ tỷ căn ra, lấy tỷ căn làm giới; hay từ hương trần ra, lấy hương trần làm giới?

- A Nan! Nếu từ tỷ căn ra, th́ trong tâm ngươi lấy ǵ làm tỷ căn? Lấy cái mũi bằng thịt hay lấy tánh ngửi biết?

- Nếu lấy cái mũi bằng thịt này th́ chất thịt thuộc thân căn, thân biết tức là xúc giác, gọi là thân th́ chẳng phải tỷ căn; gọi là xúc giác tức là ngoại trần, vậy tỷ căn c̣n chẳng có tên gọi, làm sao lập giới?

- Nếu lấy tánh ngửi biết làm tỷ căn, th́ trong tâm ngươi lấy ǵ làm cái có ngửi biết? Nếu lấy lỗ mũi bằng thịt này, th́ cái biết của da thịt là xúc trần chứ chẳng phải tỷ căn; nếu lấy hư không làm tánh ngửi biết, th́ hư không tự biết, c̣n da thịt lẽ ra chẳng biết, thế th́ hư không là ngươi, thân ngươi chẳng có biết th́ hiện nay ngươi cũng chẳng c̣n ở đây nữa.

- Nếu lấy hương trần làm tánh ngửi biết, th́ cái biết thuộc về hương trần, có liên quan ǵ đến ngươi?

- Nếu các mùi thơm thối ắt phải từ tỷ căn ra, th́ mùi thơm, thối chẳng từ cây y lan và cây chiên đàn ra, khi hai mùi đó chẳng đến, ngươi tự ngửi tỷ căn xem là thơm hay thối? Thối th́ chẳng thơm, thơm th́ chẳng thối, nếu cả hai đều ngửi được, th́ một ḿnh ngươi phải có hai tỷ căn, và nay hỏi đạo với ta phải có hai A Nan, vậy ai là thể của ngươi? C̣n nếu tỷ căn là một, thơm thối không hai, th́ thối đă thành thơm, thơm phải thành thối, hai tánh đă chẳng có, giới từ đâu lập?

- Lại như con mắt có thấy mà chẳng tự thấy mắt. Cũng vậy, nếu thức do hương trần ra, th́ đáng lẽ chẳng biết được hương trần. Nếu biết được th́ chẳng phải do hương trần ra; nếu chẳng biết th́ lại chẵng phải là tỷ thức.

- Hương trần chẳng phải nhờ ngửi biết mới có th́ cái giới của hương trần chẳng thành; thức chẳng biết hương trần th́ giới chẳng thể do hương trần mà lập, đă chẳng có giới chính giữa th́ chẳng thành trong ngoài, và tất cả những ǵ ngửi được đều là hư vọng.

- Nên biết, tỷ căn, hương trần làm duyên với nhau, sanh tỷ thức giới, ba chỗ đều không, tức tỷ căn, hương trần, tỷ thức giới, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, cũng chẳng phải tánh tự nhiên.

4.         THIỆT CĂN, VỊ TRẦN, THIỆT THỨC GIỚI VỐN VÔ SANH

- A Nan! Như ngươi đă rơ, thiệt căn, vị trần làm duyên với nhau, sanh ra thiệt thức, vậy thức này từ thiệt căn ra, lấy thiệt căn làm giới; hay từ vị trần ra, lấy vị trần làm giới?

- A Nan! Nếu từ thiệt căn ra, th́ các thứ trên thế gian như mía ngọt, mơ chua, hoàng liên đắng, muối mặn, tế tân, gừng, quế th́ cay, tất cả đều chẳng mùi vị, ngươi tự nếm lưỡi là ngọt hay đắng? Nếu tánh của thiệt căn là đắng th́ ai biết nếm thiệt căn? Thiệt căn chẳng tự nếm th́ lấy ǵ để biết? Tánh của thiệt căn chẳng phải đắng, vị trần cũng chẳng tự ra, làm sao lập giới?

- Nếu từ vị trần ra, thức đă là mùi vị th́ cũng đồng như thiệt căn, chẳng thể tự nếm, làm sao biết được là mùi vị hay chẳng phải mùi vị? Lại các mùi vị chẳng từ một vật mà ra, mùi vị đă do nhiều thứ sanh ra, th́ thức cũng phải có nhiều thể. Thể của thức nếu một, ắt phải do một vị trần sanh ra, th́ khi các vị mặn, ngọt, chua, cay ḥa hợp cùng sanh, các tướng khác nhau biến đổi thành một mùi vị th́ chẳng thể phân biệt; phân biệt đă không th́ chẳng gọi là thức, làm sao c̣n gọi là thiệt thức giới? Chẳng lẽ hư không lại sanh ra cái thức của ngươi? Nếu thiệt căn và vị trần ḥa hợp mà sanh, nơi giữa vốn chẳng có tự tánh th́ giới từ đâu mà lập?

- Nên biết, thiệt căn, vị trần làm duyên với nhau, sanh thiệt thức giới, ba chỗ đều không, tức thiệt căn, vị trần, thiệt thức giới, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, cũng chẳng phải tánh tự nhiên.

5.         THÂN CĂN, XÚC TRẦN, THÂN THỨC GIỚI VỐN VÔ SANH

- A Nan, như ngươi đă rơ, thân căn, xúc trần làm duyên với nhau, sanh ra thân thức. Vậy thức này từ thân căn ra, lấy thân căn làm giới; hay từ xúc trần ra, lấy xúc trần làm giới?

- A Nan! Nếu từ thân căn ra, ắt chẳng có hai duyên ly và hợp, chẳng có ly hợp th́ thân căn làm sao biết được? Nếu từ xúc trần ra, ắt chẳng phải thân căn của ngươi, vậy có ai chẳng có thân mà biết ly và hợp ư?

- A Nan! Nếu vật chẳng xúc giác, thân biết có xúc, biết thân tức là xúc, biết xúc tức là thân, tức xúc chẳng phải thân, tức thân chẳng phải xúc, hai tướng thân căn và xúc trần vốn chẳng xứ sở, hợp thân tức là tự thể của thân, ĺa thân tức như tướng hư không, trong và ngoài chẳng thành th́ chính giữa từ đâu lập? Giữa chẳng thể lập th́ trong ngoài tánh không, vậy thức ngươi từ đâu mà lập?

- Nên biết thân căn, xúc trần làm duyên với nhau, sanh thân thức giới, ba chỗ đều không, tức thân căn, xúc trần và thân thức giới, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, cũng chẳng phải tánh tự nhiên.

6.         Ư CĂN, PHÁP TRẦN, Ư THỨC GIỚI VỐN VÔ SANH

- A Nan! Như ngươi đă rơ, ư căn, pháp trần làm duyên với nhau, sanh ra ư thức. Vậy thức này từ ư căn ra, lấy ư căn làm giới; hay từ pháp trần ra, lấy pháp trần làm giới?

- A Nan! Nếu từ ư căn ra, th́ trong ư ngươi ắt phải có suy tư mới phát minh được ư ngươi; nếu chẳng suy tư th́ ư chẳng thể sanh, ĺa duyên th́ chẳng có h́nh tướng, vậy thức dùng để làm ǵ? Thức của ngươi với sự suy tư và tánh hiểu biết là đồng hay khác? Nếu đồng với ư tức là ư căn, sao nói từ ư căn ra? Nếu khác với ư th́ chẳng phải ư căn, chẳng phải ư căn th́ không có năng biết, năng không ắt sở cũng không, nếu không có sở biết th́ sao nói từ ư căn ra? Nếu có sở biết th́ làm sao biết ư căn? Vậy hai tánh đồng và dị đă chẳng có th́ giới từ đâu lập?

- Nếu từ pháp trần ra, th́ các pháp trong thế gian chẳng ngoài ngũ trần, ngươi hăy xét xem, các pháp sắc, thanh, hương, vị, xúc đều có tướng rơ ràng để đối với ngũ căn, chẳng thuộc phạm vi của ư căn, nếu thức ngươi nhất định từ pháp trần ra, th́ ngươi hăy xét kỹ h́nh tướng của mỗi pháp như thế nào? Nếu ĺa sắc, không, thông, nghẽn, ly, hợp và sanh, diệt, ngoài các tướng này chẳng có sở đắc, sanh th́ các pháp sắc, không cùng sanh, diệt th́ các pháp sắc, không cùng diệt, vậy cái nhân sanh ra đă không, làm sao có thức? Thức đă chẳng có, giới từ đâu lập?

- Nên biết ư căn, pháp trần làm duyên với nhau sanh ra ư thức giới, ba chỗ đều không, tức ư căn, pháp trần, ư thức giới vốn chẳng phải tánh nhân duyên, cũng chẳng phải tánh tự nhiên.

A Nan bạch Phật:

- Như Lai thường giảng về nhân duyên ḥa hợp rằng: Tất cả các thứ biến hóa trên thế gian đều do tứ đại ḥa hợp mà sanh”, sao Như Lai lại bác bỏ cả hai nghĩa nhân duyên và tự nhiên? Nay con chẳng biết nghĩa này thế nào, xin Phật thương xót, khai thị pháp liễu nghĩa chẳng hư luận của trung đạo cho con và chúng sanh được rơ.

Lúc bấy giờ, Thế Tôn bảo A Nan:

- Trước đây, ngươi nhàm chán các pháp Tiểu Thừa Thanh Văn, Duyên Giác, phát tâm cầu đạo Vô Thượng Bồ Đề nên ta v́ ngươi khai thị Đệ Nhất Nghĩa Đế, sao ngươi lại c̣n đem những hư luận của thế gian, vọng tưởng cho là nhân duyên mà tự ràng buộc? Ngươi dù học rộng nghe nhiều, như người chỉ dùng miệng nói thuốc, khi thuốc thật hiện tiền th́ lại chẳng biết, Như Lai gọi là thật đáng thương xót. Nay ngươi hăy nghe kỹ, ta sẽ v́ ngươi khai thị từng lớp một, cũng khiến những người tu đại thừa sau này thông đạt được thật tướng.

A Nan yên lặng kính vâng thánh chỉ của Phật.

- A Nan! Như ngươi đă nói, tứ đại ḥa hợp sanh ra các thứ biến hóa trên thế gian. A Nan, nếu thể tánh của tứ đại chẳng phải ḥa hợp th́ chẳng thể lẫn lộn nhau, cũng như hư không, chẳng thể ḥa hợp với các sắc tướng; nếu là ḥa hợp th́ đồng như biến hóa, đầu đuôi duyên nhau, sanh diệt tương tục, sanh rồi diệt, diệt rồi sanh, sanh sanh diệt diệt như ṿng lửa quay tṛn. A Nan, cũng như nước thành băng, băng lại thành nước, chẳng hề ngừng nghỉ.

THẤT ĐẠI

l.          TÁNH ĐỊA ĐẠI VỐN VÔ SANH

- Ngươi xem tánh Địa, thô là đại địa, tế là vi trần, cho đến cực vi là lân hư trần, là sắc tướng nhỏ tột, nếu phân tách nữa th́ thành tánh hư không.

- A Nan, nếu cái lân hư trần đó tách được thành hư không, th́ hư không cũng sanh được sắc tướng. Nay ngươi hỏi rằng, do ḥa hợp mà sanh các tướng biến hóa trên thế gian, th́ ngươi hăy xét, cái lân hư trần này phải dùng bao nhiêu hư không hợp lại mới có? Chẳng lẽ lân hư trần hợp thành lân hư trần? Lại lân hư trần đă tách thành hư không, th́ dùng bao nhiêu sắc tướng hợp lại mới được thành hư không? Nếu lúc hợp sắc, sắc chẳng phải hư không; nếu lúc hợp không, hư không chẳng phải là sắc, sắc c̣n có thể tách ra được, chứ hư không làm sao mà hợp?

- Ngươi vốn chẳng biết, trong Như Lai Tạng (Tự tánh), tánh Sắc chơn Không (thể tánh của Sắc chẳng phải thật, tức là Chơn Không), tánh Không chơn Sắc (thể tánh của Không chẳng phải thật, tức là Chơn Sắc), tự tánh vốn thanh tịnh, đầy khắp mười phương pháp giới, tùy theo mức độ hiểu biết của tâm chúng sanh tạo thành nghiệp, và nương theo nghiệp ấy biến hiện các cảnh giới hiện hữu. Người thế gian chẳng biết những hiện tượng đó chỉ là mở mắt chiêm bao, lại mê lầm cho là nhân duyên và tự nhiên, ấy đều là do tâm thức phân biệt suy lường. Phàm là lời nói đều chẳng phải nghĩa thật.

2.         TÁNH HỎA ĐẠI VỐN VÔ SANH

- A Nan! Tánh Hỏa chẳng có tự thể, nhờ các trợ duyên mà phát sanh. Ngươi xem các nhà, khi muốn nhúm lửa nấu cơm th́ cầm tấm kiếng đưa dưới ánh sáng mặt trời mà lấy lửa.

- A Nan! Cái gọi là ḥa hợp, cũng như ta cùng ngươi và 1250 vị Tỳ Kheo, nay hợp thành một chúng; chúng dù là một, xét về căn bản th́ mỗi người đều có thân riêng biệt, có tên gọi và họ hàng của ḿnh, như Xá Lợi Phất thuộc ḍng Bà La Môn, Ưu Lâu Tần Loa thuộc ḍng Ca Diếp Ba, cho đến ngươi th́ thuộc ḍng họ Cù Đàm.

- A Nan! Nếu tánh lửa này do ḥa hợp mà có, th́ khi người cầm kiếng lấy lửa nơi ánh sáng mặt trời, lửa này từ trong kiếng ra, từ bùi nhùi ra, hay từ mặt trời ra?

- A Nan! Nếu lửa từ mặt trời ra, đốt được bùi nhùi trong tay người ấy, th́ những rừng cây mà ánh sáng mặt trời chiếu qua, lẽ ra đều bị đốt cả. Nếu từ trong kiếng ra, có thể đốt cháy bùi nhùi, sao cái kiếng lại không chảy? Cả cái tay người cầm kiếng c̣n chẳng thấy nóng th́ làm sao kiếng lại chảy được? Nếu do bùi nhùi ra th́ cần ǵ ánh sáng mặt trời với kiếng tiếp xúc nhau rồi mới có lửa?

- Ngươi lại xét kỹ, kiếng do tay cầm, mặt trời th́ ở trên không, c̣n bùi nhùi th́ từ đất sanh ra, vậy lửa từ phương nào mà đi đến chỗ này? Mặt trời và kiếng cách xa nhau, chẳng ḥa chẳng hợp, chẳng lẽ tánh lửa khi không tự có?

- Ngươi c̣n chẳng biết, trong Như Lai Tạng, tánh hỏa chơn không, tánh không chơn hỏa, tự tánh vốn thanh tịnh, đầy khắp mười phương pháp giới, tùy theo mức độ hiểu biết của tâm chúng sanh tạo thành nghiệp và nương theo nghiệp ấy biến hiện các cảnh giới hiện hữu. A Nan nên biết, người thế gian ở nơi này cầm kiếng th́ nơi này bốc lửa; nếu khắp pháp giới đều cầm kiếng th́ khắp pháp giới bốc lửa, lửa cháy khắp thế gian, đâu có xứ sở, chỉ tùy theo nghiệp thức của chúng sanh mà biến hiện. Người thế gian chẳng biết lại mê lầm cho là tánh nhân duyên và tự nhiên ấy đều là do tâm thức phân biệt suy lường. Phàm là lời nói đều chẳng phải nghĩa thật.

3.         TÁNH THỦY ĐẠI VỐN VÔ SANH

- A Nan! Tánh Thủy chẳng định, ngưng và chảy không chừng. Như trong thành Thất La Phiệt, các ông Ca Tỳ La, Chước Ca La và các nhà đại huyễn thuật Bát Đầu Ma Ha Tát Đa, khi muốn cầu Thái Âm Tinh để ḥa các thuốc huyễn thuật, th́ các ông ấy ở giữa đêm trăng sáng, tay cầm hạt châu, hứng nước dưới ánh trăng. Vậy nước này từ hạt châu ra, từ hư không ra, hay từ mặt trăng ra?

- A Nan! Nếu từ mặt trăng ra, ánh trăng đă có thể từ phương xa làm cho hạt châu chảy nước, th́ những rừng cây mà ánh trăng chiếu qua, lẽ ra đều phải chảy nước. Nếu chảy nước th́ khỏi đợi hạt châu mới có nước chảy; nếu không chảy nước th́ rơ ràng nước chẳng phải từ mặt trăng ra. Nếu từ hạt châu ra, th́ trong hạt châu phải thường chảy nước, đâu cần đợi ánh trăng trong lúc nửa đêm? Nếu từ hư không ra th́ hư không vô tận, nước cũng vô biên, vậy từ cơi người đến cơi Trời đều bị ch́m ngập cả, làm sao lại có các loài ở dưới nước, trên bờ và trên không?

- Ngươi hăy xét kỹ, mặt trăng ở trên trời, hạt châu ở nơi tay, c̣n mâm đựng hạt châu hứng nước th́ do người đặt ra, vậy nước từ phương nào mà chảy đến đây? Mặt trăng và hạt châu cách xa nhau, chẳng ḥa chẳng hợp, chẳng lẽ nước khi không tự có?

- Ngươi c̣n chẳng biết, trong Như Lai Tạng, tánh thủy chơn không, tánh không chơn thủy, tự tánh vốn thanh tịnh, cùng khắp mười phương pháp giới, tùy theo mức độ hiểu biết của tâm chúng sanh tạo thành nghiệp, và nương theo nghiệp ấy biến hiện các cảnh giới hiện hữu. Hễ nơi này cầm hạt châu th́ nơi này chảy nước; khắp pháp giới cầm hạt châu th́ khắp pháp giới chảy nước. Tánh thủy cùng khắp thế gian, đâu có xứ sở, chỉ theo nghiệp thức, của chúng sanh mà biến hiện. Người thế gian chẳng biết lại mê lầm cho là tánh nhân duyên và tự nhiên, ấy đều là do tâm thức phân biệt suy lường. Phàm là lời nói đều chẳng phải nghĩa thật.

4.         TÁNH PHONG ĐẠI VỐN VÔ SANH

- A Nan! Tánh Phong chẳng có tự thể, động tịnh không chừng.

- Ngươi thường ở nơi chúng mà sửa áo, chéo áo Tăng Già Lê chạm đến người bên cạnh th́ có chút gió phất qua mặt người kia, vậy gió này từ chéo áo Cà Sa ra, từ hư không ra, hay từ mặt người kia ra?

- A Nan! Nếu gió từ chéo áo Cà Sa ra th́ ngươi đă mặc luôn cả gió, lẽ ra cái áo phải tung bay ra, rời khỏi thân ngươi. Nay ta rũ áo ở trong Hội này, ngươi hăy xem cái áo ta, gió núp ở chỗ nào? Chẳng lẽ trong áo lại có chỗ chứa gió ư?

- Nếu gió từ hư không ra, khi cái áo ngươi chẳng động, th́ sao lại chẳng phất? Tánh hư không thường trụ th́ gió phải thường sanh, vậy lúc chẳng gió, hư không phải diệt; gió diệt c̣n có thể thấy được, hư không diệt th́ là h́nh tướng ǵ? Nếu có sanh diệt th́ chẳng gọi là hư không, đă gọi là hư không th́ làm sao lại có gió ra?

- Nếu gió từ mặt người bị phất sanh ra, th́ đă từ mặt người đó ra, lẽ ra phải phất lại ngươi, sao tự ngươi sửa áo mà phất ngược lại người kia?

- Ngươi hăy xét kỹ; sửa áo do ngươi, cái mặt th́ thuộc người kia, hư không th́ vắng lặng chẳng lay động, vậy gió từ phương nào dong ruổi đến đây? Tánh gió và tánh hư không khác nhau, chẳng ḥa chẳng hợp, chẳng lẽ tánh gió khi không tự có ư?

- Ngươi c̣n chẳng biết, trong Như Lai Tạng, tánh phong chơn không, tánh không chơn phong, tự tánh vốn thanh tịnh, cùng khắp mười phương pháp giới, tùy theo mức độ hiểu biết của tâm chúng sanh tạo thành nghiệp, và nương theo nghiệp ấy, biến hiện các cảnh giới hiện hữu. A Nan, như một ḿnh ngươi hơi động cái áo th́ có chút gió ra, khắp pháp giới đều phất th́ khắp pháp giới đều ra gió, tánh phong đầy khắp thế gian, đâu có xứ sở, chỉ theo nghiệp thức của chúng sanh mà biến hiện. Người thế gian chẳng biết, lại mê lầm cho là tánh nhân duyên và tự nhiên, ấy đều là do tâm thức phân biệt suy lường. Phàm là lời nói đều chẳng phải nghĩa thật.

5.         TÁNH KHÔNG ĐẠI VỐN VÔ SANH

- A Nan! Tánh Không vô h́nh, nhờ sắc tướng mới được hiển bày. Như trong thành Thất La Phiệt, chỗ cách xa sông, những ḍng Sát Lỵ, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà, Phả La Đọa, Chiên Đà La v.v... khi dựng nhà xong, đào giếng lấy nước, đào ra một thước đất th́ có một thước hư không; như vậy cho đến đào ra một trượng đất th́ lại được một trượng hư không, hư không sâu hay cạn là tùy theo đất đào ra được nhiều hay ít. Vậy hư không này từ đào đất ra, do đào mà có, hay vô nhân tự sanh?

- A Nan! Nếu hư không vô nhân tự sanh, th́ khi chưa đào đất, sao nơi đó lại chẳng vô chướng ngại, mà chỉ thấy đất liền, chẳng thấy trống rỗng?

- Nếu từ đào đất ra, th́ khi đất ra, phải thấy hư không vào; nếu đất ra trước mà không thấy hư không vào, th́ sao nói hư không từ đào đất mà ra? Nếu chẳng ra vào th́ hư không với đất vốn chẳng có khác, chẳng khác tức là đồng, th́ lúc đào đất ra, hư không sao chẳng ra? Nếu do đào mà có, th́ phải đào ra hư không, chứ chẳng phải đào ra đất; nếu chẳng do đào mà có, th́ làm sao lại thấy hư không?

- Ngươi hăy xét kỹ, đào do tay người vận động, đất theo sự đào mà dời chỗ, vậy hư không từ đâu mà ra? Đào th́ có thật chất, hư không th́ trống rỗng, chẳng tác dụng với nhau, chẳng ḥa chẳng hợp, chẳng lẽ hư không khi không tự ra?

- Vậy, tánh hư không cùng khắp, vốn chẳng lay động. Nên biết hiện tiền địa, thủy, hỏa, phong và hư không gọi là Ngũ Đại, tánh chất viên dung, đều là Như Lai Tạng, vốn chẳng sanh diệt.

- A Nan! Tâm ngươi mê muội, chẳng ngộ được tứ đại vốn là Như Lai Tạng, ngươi hăy xem hư không là ra hay vào; hoặc chẳng ra vào? Ngươi c̣n chẳng biết trong Như Lai Tạng, tánh giác chơn không, tánh không chơn giác, tự tánh vốn thanh tịnh, cùng khắp pháp giới, tùy theo mức độ hiểu biết của tâm chúng sanh tạo thành nghiệp, và nương theo nghiệp ấy biến hiện các cảnh giới hiện hữu.

- A Nan, như đào một giếng th́ ra một giếng hư không, vậy mười phương hư không cũng như thế, tánh Không cùng khắp mười phương, đâu có xứ sở, chỉ theo nghiệp thức của chúng sanh mà biến hiện. Người thế gian chẳng biết, lại mê lầm cho là tánh nhân duyên và tự nhiên, ấy đều là do tâm thức phân biệt suy lường. Phàm là lời nói đều chẳng phải nghĩa thật.

6.         TÁNH KIẾN ĐẠI VỐN VÔ SANH

- A Nan! Bổn kiến, Bổn giác vốn chẳng có năng tri sở tri, v́ Sắc và Không mới có lập năng sở. Như ngươi hôm nay ở vườn Kỳ Đà, ngày sáng đêm tối, nếu nửa đêm có trăng th́ sáng, không trăng th́ tối, do kiến tinh phân biệt nên có sáng và tối. Vậy kiến này với tướng sáng, tối và hư không, là một thể hay chẳng phải một thể? Hoặc đồng, chẳng đồng? Hoặc khác, chẳng khác?

- A Nan! Nếu cái kiến này cùng với sáng, tối, hư không vốn là một thể, th́ sáng và tối hai tướng nghịch nhau, khi sáng chẳng tối, khi tối chẳng sáng. Nếu cùng với tối đồng một thể th́ khi sáng, cái kiến biến mất, hễ cùng với sáng đồng một thể, th́ khi tối, cái kiến ấy phải diệt, đă diệt th́ lấy ǵ để thấy sáng thấy tối? Nếu sáng tối khác nhau, kiến chẳng sanh diệt th́ đâu có thể nói là một thể được?

- Nếu cái kiến này cùng với sáng tối chẳng phải một thể, th́ ngươi ĺa sáng, tối và hư không, phân tách cái kiến tinh xem là h́nh tướng ǵ? Ĺa sáng, tối và hư không th́ kiến tinh đồng như lông rùa sừng thỏ. Sáng, tối, hư không ba thứ đều khác biệt, vậy từ đâu mà lập kiến tinh? Sáng, tối nghịch nhau, làm sao nói đồng được? Ĺa ba thứ vốn chẳng có, làm sao nói khác được? Hư không và kiến tinh vốn chẳng có ranh giới, làm sao nói chẳng đồng? Thấy sáng thấy tối, sở kiến thay đổi, làm sao nói chẳng khác?

- Ngươi cần phải xem xét vi tế kỹ càng, xét tới cứu cánh triệt để. Sáng do mặt trời, tối do đêm không trăng, thông thuộc về hư không, nghẽn thuộc về đại địa, kiến tinh có giác, hư không vô tri, chẳng ḥa chẳng hợp, vậy kiến tinh từ đâu mà ra? Chẳng lẽ khi không tự ra?

- Nên biết Kiến, Văn, Giác, Tri, thể tánh viên măn cùng khắp mọi nơi, vốn chẳng lay động, với hư không vô biên chẳng động, và địa, thủy, hỏa, phong, lay động, cùng gọi là Lục Đại, thể tánh viên dung, đều là Như Lai Tạng, vốn chẳng sanh diệt.

- A Nan! Ngươi đánh mất tự tánh, chẳng ngộ kiến, văn, giác, tri của ngươi vốn là Như Lai Tạng. Ngươi hăy xem cái kiến, văn, giác, tri này là sanh hay diệt, là đồng hay dị, là chẳng sanh diệt hay chẳng đồng dị? Ngươi c̣n chẳng biết, trong Như Lai Tạng, tánh kiến giác minh, giác tinh minh kiến (cái bổn kiến là tự tánh vốn giác vốn minh, cái tinh thể của bổn giác vốn minh vốn kiến), vốn tự nhiên thanh tịnh, cùng khắp pháp giới, tùy theo mức độ hiểu biết của tâm chúng sanh tạo thành nghiệp, và nương theo nghiệp ấy mà biến hiện các cảnh giới hiện hữu. Như một “kiến tinh” thấy cùng pháp giới, cho đến tai nghe, mũi ngửi, miệng nếm, thân xúc, ư biết, sự diệu dụng rơ ràng viên măn, cùng khắp mười phương pháp giới, đâu có xứ sở, chỉ theo nghiệp thức của chúng sanh biến hiện. Người thế gian chẳng biết, lại mê lầm cho là tánh nhân duyên và tự nhiên, ấy đều do tâm thức phân biệt suy lường. Phàm là lời nói đều chẳng phải nghĩa thật.

7.         TÁNH THỨC ĐẠI VỐN VÔ SANH

- A Nan! Tánh của Thức vốn chẳng có nguồn gốc, duyên theo sáu thứ căn trần hư vọng mà sanh. Nay ngươi hăy xem khắp thánh chúng trong hội này khi mới dùng con mắt lướt qua, chưa khởi phân biệt th́ thấy chúng chỉ như bóng tượng trong gương, rồi tâm thức của ngươi theo thứ tự phân biệt đây là Văn Thù, đây là Phú Lâu Na, rồi tới Mục Kiền Liên, Tu Bồ Đề, Xá Lợi Phất v.v...Vậy sự biết của thức này từ kiến tinh ra, từ sắc tướng ra, từ hư không ra, hay khi không vô nhân mà ra?

- A Nan! Giả sử thức của ngươi từ kiến tinh ra, nếu chẳng có sáng tối và sắc không, th́ chẳng có kiến tinh, kiến tinh c̣n chẳng có, vậy thức từ đâu mà ra?

- Nếu thức của ngươi từ sắc tướng ra, chẳng từ kiến tinh ra, th́ chẳng thấy sáng, cũng chẳng thấy tối, sáng tối đă chẳng thấy tức chẳng có sắc không, sắc tướng kia c̣n chẳng có th́ thức do đâu mà ra?

- Nếu từ hư không ra, chẳng phải sắc tướng, cũng chẳng phải kiến tinh. Nếu chẳng phải kiến tinh th́ chẳng thể phân biệt, tự nhiên không thể biết được các tướng sáng tối và sắc không. Nếu chẳng phải sắc tướng th́ sở duyên diệt mất, vậy kiến, văn, giác, tri chẳng có chỗ an lập. Giữa hai thứ chẳng phải kể trên, nếu “không” th́ thức đồng như chẳng có; nếu “có” th́ thức đồng như các vật, dẫu cho có thức của ngươi cũng thành vô dụng.

LƯỢC GIẢI

Hư không vô h́nh, vốn chẳng có bản thể, nếu tâm thức từ hư không ra th́ cũng giống như hư không, chẳng có bản thể để nương tựa, tức là thức chẳng phải sắc tướng, cũng chẳng phải kiến tinh. Giữa hai thứ chẳng phải kể trên, nếu cho là “không bản thể” th́ thức đồng như không có; nếu cho là “có bản thể” th́ thức đồng như các vật; vật th́ vô tri, chẳng có tánh phân biệt, vậy dẫu cho có thức cũng thành vô dụng.

*****

- Nếu khi không vô nhân mà ra, th́ sao chẳng cho mặt trời là mặt trăng?

- Ngươi hăy suy xét kỹ càng, cái thấy phải nhờ mắt ngươi, sắc tướng là cảnh của tiền trần; những ǵ có tướng mới thành có, chẳng tướng ắt thành không, như vậy thức từ đâu mà ra?

- Thức th́ linh động, kiến tinh th́ trong lặng, chẳng ḥa chẳng hợp, kiến, văn, giác, tri đều như thế, chẳng lẽ thức khi không tự ra?

- Nếu thức này vốn chẳng từ chỗ nào ra, sự dụng của kiến, văn, giác, tri trạm nhiên viên măn, tánh chẳng năng sở. Vậy địa, thủy, hỏa, phong, hư không và bổn kiến, bổn thức, gọi là Thất Đại, thể tánh chơn thật viên dung, ấy đều là Như Lai Tạng, vốn chẳng sanh diệt.

- A Nan! Tâm ngươi vọng chấp, chẳng ngộ kiến, văn, giác, tri, vốn là Như Lai Tạng, ngươi hăy xét sáu chỗ tâm thức này là đồng hay dị, là có hay không, là chẳng đồng dị hay chẳng có không?

- Ngươi c̣n chẳng biết, trong Như Lai Tạng, tánh thức minh tri, giác minh chơn thức (tánh của bổn thức rơ ràng chơn tri, bổn giác vốn sáng tỏ là giác minh, phân biệt mà chẳng năng sở đối đăi là chân thức), diệu giác trạm nhiên, như như bất động, chẳng thể nghĩ lường được, đầy trùm pháp giới, hiển bày khắp mười phương hư không đâu có xứ sở, tùy theo nghiệp của chúng sanh biến hiện các cảnh giới hiện hữu. Người thế gian chẳng biết, lại mê lầm cho là tánh nhân duyên và tự nhiên, ấy đều là do tâm thức phân biệt suy lường. Phàm là lời nói đều chẳng phải nghĩa thật.Bấy giờ, A Nan và đại chúng được sự khai thị vi diệu của Phật, thân tâm phẳng lặng, chẳng c̣n ngăn ngại, mỗi mỗi tự biết tâm thức cùng khắp mười phương, thấy mười phương hư không như xem các vật trong bàn tay; tất cả vật tượng trên thế gian đều vốn là tánh Bồ Đề sáng suốt của diệu tâm. Tâm tánh tṛn đầy, cùng khắp mười phương, xem lại cái thân của cha mẹ sanh ra, như mảy bụi lửng lơ trong mười phương hư không thoạt c̣n thoạt mất; như một bọt nước trôi trong biển cả, chẳng biết sanh diệt từ đâu. Rơ ràng tự biết được cái bổn lai thường trụ chẳng diệt của diệu tâm, được pháp chưa từng có, nên chắp tay lễ Phật và nói kệ tán thán Phật rằng:

Diệu trạm tổng tŕ bất động tôn,

Thủ Lăng Nghiêm Vương thế hy hữu.

Tiếu ngă ức kiếp điên đảo tưởng.

Bất lịch tăng kỳ hoạch pháp thân.

Nguyện kim đắc quả thành Bửu Vương

Hườn độ như thị hằng sa chúng.

Tương thử thâm tâm phụng trần sát,

Thị tắc danh vi báo Phật ân.

Phục thỉnh Thế Tôn vi chứng minh,

Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập.

Như nhất chúng sanh vị thành Phật,

Chung bất ư thử thủ nê hoàn,

Đại hùng đại lực đại từ bi,

Hy cánh thẩm trừ vi tế hoặc.

Linh ngă tảo đăng vô thượng giác,

Ư thập phương giới tọa đạo tràng,

Thuấn Nghĩa Đa tánh khả tiêu vong,

Thước Ca Ra tâm vô động chuyển.

Dịch nghĩa:

Trong lặng vạn năng chẳng động tịnh (l)

Lăng Nghiêm Đại Định đời hy hữu (2)

Tiêu điên đảo tưởng từ vô thỉ,

Chẳng nhọc nhiều kiếp được Pháp thân.

Nguyện nay đắc quả thành Chánh Giác,

Độ thoát chúng sanh như hằng sa.

Hết ḷng phụng sự vô số cơi,

Thế mới gọi là đền ơn Phật,

Cúi xin Thế Tôn chứng minh cho,

Ngũ trược ác thế nguyện vào trước,

Nếu một chúng sanh chưa thành Phật,

Quyết chẳng tự ḿnh chứng Niết Bàn,

Đại hùng đại lực đại từ bi,

Mong dứt trừ tập khí vi tế.

Khiến con mau đến Vô Thượng Giác,

Mười phương thế giới tọa đạo tràng.

Dẫu cho hư không bị tiêu mất,

Bổn tâm kiên cố chẳng lay động.

GHI CHÚ:

(1) Trong lặng vạn năng chẳng động tịnh.

Tại sao “Diệu trạm tổng tŕ bất động tôn” dịch là “Trong lặng vạn năng chẳng động tịnh”?

Chữ “Trạm” nghĩa là trong lặng chẳng động, nhưng chưa phải là “Diệu Trạm”; chẳng động chẳng tịnh cũng chẳng trụ nơi chẳng động tịnh, mới được gọi là “Diệu Trạm”.

Tổng nhất thiết pháp, tŕ nhất thiết nghĩa, tổng tŕ tất cả pháp nghĩa, nên nói là “Vạn Năng” vậy.

(2) Lăng Nghiêm Đại Định đời hy hữu:

Tại sao “Thủ Lăng Nghiêm Vương” dịch là “Lăng Nghiêm Đại Định”? V́ Thủ Lăng Nghiêm chỉ là tên của Kinh, Kinh đă phổ biến trên đời th́ chẳng phải là hy hữu, cần phải theo đó tu chứng được Đại Định mới là hy hữu.

Có nhập định, xuất định, chưa phải là “Đại Định”,”Đại Định” th́ chẳng có xuất nhập, lúc đang náo động vẫn là Định, nên gọi là Đại Định, vậy mới được làm vua trong tất cả định (Thủ Lăng Nghiêm Vương

 KINH THỦ LĂNG NGHIÊM

TK Thích Duy Lực

Dịch từ Hán sang Việt và lược giải

QUYỂN BỐN

Lúc bấy giờ, Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử ở trong chúng liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo tay phải, quỳ gối chân phải, chắp tay cung kính bạch Phật rằng:

- Thế Tôn có oai đức lớn, khéo v́ chúng sanh hiển bày đệ nhất nghĩa đế của Như Lai. Thế Tôn thường khen con là bậc nhất trong những người thuyết pháp, mà nay con nghe pháp âm nhiệm mầu của Như Lai, cũng như người điếc, cách xa trăm bước mà nghe tiếng muỗi bay, vốn chẳng thể thấy, huống là được nghe! Phật dù chỉ rơ, khiến con dứt trừ lỗi lầm, nhưng con c̣n chưa thấu suốt chỗ chẳng nghi hoặc của nghĩa này.

- Thế Tôn, hàng hữu lậu như A Nan, dù được khai ngộ, nhưng chưa dứt tập khí phiền năo, c̣n chúng con là bậc vô lậu trong hội này, nay nghe pháp âm của Như Lai c̣n mắc phải những điều nghi ngờ.

- Thế Tôn, nếu tất cả các thứ căn, trần, ấm, xứ, giới v.v... của thế gian đều là Như Lai Tạng, bản tánh vốn trong sạch, sao lại bỗng sanh các tướng hữu vi như núi sông, đất đai, thành rồi hoại, hoại rồi thành, thành hoại chẳng ngừng?

- Lại Như Lai nói Địa, Thủy, Hỏa, Phong, bản tánh viên dung, cùng khắp pháp giới, trạm nhiên thường trụ. Thế Tôn, nếu tánh Địa cùng khắp, th́ làm sao dung nạp được Thủy? Nếu tánh Thủy cùng khắp th́ Hỏa chẳng thể sanh; sao lại nói hai tánh Thủy và Hỏa đều cùng khắp hư không, chẳng đoạt mất nhau?

- Thế Tôn, tánh Địa th́ ngăn ngại, tánh không th́ trống rỗng, làm sao hai tánh ấy đều cùng khắp pháp giới? Nay con chẳng biết nghĩa này thế nào, xin Phật từ bi, khai mở ḷng mê muội của con và đại chúng.

Nói xong, năm vóc gieo sát đất, kính mong lời dạy Vô Thượng của Như Lai.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Phú Lâu Na và hàng A La Hán lậu tận vô học trong Hội rằng:

- Hôm nay, Như Lai v́ cả chúng trong Hội này hiển bày tánh chơn thắng nghĩa trong thắng nghĩa, khiến hàng định tánh Thanh Văn và tất cả A La Hán chưa được Nhị Không (nhân ngă không và pháp ngă không), phát tâm hướng về thượng thừa, đều được chỗ tu hành chơn chánh, thiết thực chẳng xao động của cảnh giới tịch diệt nhất thừa, các ngươi hăy chú ư nghe.

Phú Lâu Na và đại chúng kính vâng pháp âm của Phật, yên lặng ngồi nghe.

Phật bảo:

- Phú Lâu Na, như lời ngươi nói, bản tánh trong sạch, sao lại bỗng sanh núi sông đất đai. Ngươi chẳng thường nghe Như Lai dạy rằng: Tánh giác diệu minh, bản giác minh diệu hay sao?

LƯỢC GIẢI

Tức diệu thường minh mà chẳng lập sở minh, cũng chẳng phải bất minh, nên nói diệu minh, tức minh thường diệu, mà chẳng bị kẹt nơi minh, nên nói minh diệu. Nếu chấp thật cho là giác minh, bèn lọt vào t́nh thức, thành ra ĺa giác chẳng minh, th́ đâu thể nói là diệu, nên Kinh nói: "Do giác minh thành lỗi lầm" vậy.

*****

- Bạch Thế Tôn, vâng ạ, con thường nghe Phật khai thị nghĩa này.

Phật bảo:

- Ngươi nói giác minh, là do tánh minh được gọi là giác; hay là cái giác bất minh, gọi là minh giác?

Phú Lâu Na nói:

- Nếu cái bất minh này gọi là giác, th́ chẳng có sở minh.

Phật bảo:

- Nếu chẳng có sở minh th́ chẳng có minh giác, có sở chẳng phải là giác, không sở chẳng phải là minh, chẳng minh lại chẳng phải tánh trạm nhiên sáng tỏ của bản giác. V́ tánh giác ắt minh, vọng cho là minh giác, bổn giác chẳng phải sở minh, do chấp sự minh nên lập sở minh, sở minh đă vọng lập, th́ sanh cái năng minh hư vọng của ngươi.

- Ở trong chẳng đồng dị, vọng chấp thành dị, khác với cái dị này, do sự dị mà lập sự đồng, tướng đồng dị đă sanh, từ đó lại lập ra cái chẳng đồng chẳng dị. Nhiễu loạn như thế, đối đăi nhau sanh ra mỏi mệt, mỏi lâu thành trần, tự hỗn tạp lẫn nhau, do đó sanh ra trần lao phiền năo, khởi dậy thành thế giới, tịch lặng thành hư không; hư không là đồng, thế giới là dị, do đồng dị lập ra chẳng đồng chẳng dị, ấy là pháp hữu vi, cái vốn chẳng đồng dị của bản giác, mới thật là pháp vô vi.

- Bản giác tánh không, chẳng minh chẳng vô minh, tùy theo nghiệp thức biến hiện nên vô minh bắt đầu; một niệm vô minh bỗng khởi, th́ bản giác ĺa tánh không mà sanh vọng minh, tánh không cũng ĺa bản giác mà sanh ám muội. Bản giác sanh vọng minh th́ phát ra thức, chỗ trong lặng chẳng lay động của thức tinh (nguồn gốc của thức) tức là Thủy, tánh "không" sanh ám muội, kết tụ thành sắc, tức là Địa (trái đất), Địa và Thủy nhiễu loạn nhau thành Phong (Bầu khí quyển bao phủ trái đất). V́ tánh "không" bị ám muội, cố chấp cái năng minh thành chướng ngại, nên vọng cho bản giác là sở minh, năng sở nhiễu loạn, nên vọng có tánh biến hóa của Hỏa, ngọn Hỏa xông lên, nên có hơi Thủy khắp cả mười phương hư không.  Hỏa bốc lên, Thủy chảy xuống, giao lộn vọng lập th́ Thủy ướt thành biển cả, đất khô thành lục địa. Do nghĩa này, nên trong biển cả Hỏa thường phun lên, trong lục địa sông ng̣i thường chảy. Thế Thủy kém thế Hỏa th́ kết thành núi, nên khi đập đá núi th́ có tia lửa; thế Địa kém thế Thủy th́ mọc lên thành cỏ cây, nên đốt cỏ cây th́ thành đất, vắt ra th́ có nước. Tứ đại giao lộn lẫn nhau vọng sanh nhân quả, do nhân duyên này nên thế giới tương tục.

LƯỢC GIẢI

Theo lư thuyết Ngũ hành là sáng lập từ Trung Quốc, người Ấn Độ th́ chẳng biết học thuyết này. Nên các Kinh Phật chỉ nói tứ đại, ngũ uẩn, lục nhập, thập nhị xứ, thập bát giới, cho đến thất đại, đoạn này từ tiếng Phạn dịch sang tiếng Hán, mà dịch giả mượn ngũ hành để sáng tỏ nghĩa Kinh, lư thuyết ngũ hành người xưa c̣n có thể hiểu được, đời nay th́ ít người thấu suốt. Cho nên độc giả đời nay cảm thấy rất khó hiểu, nếu không hiểu được th́ đánh mất tác dụng của lời kinh. V́ Phật thuyết pháp, hay dùng những sự vật của chúng sanh đă hiểu biết, để chứng tỏ tri kiến của chúng sanh chẳng đúng. Do đó, nên chúng tôi lược bỏ phần ngũ hành, chỉ dựa theo tứ đại mà dịch đoạn kinh này, xin độc giả từ bi hoan hỉ cho.

*****

- Lại nữa, Phú Lâu Na, cái minh hư vọng này chẳng phải ǵ khác, do giác minh thành lỗi lầm; sở minh đă vọng lập, thành lư minh có ngằn mé. V́ vậy, nên nghe chẳng ra ngoài tiếng, thấy chẳng vượt khỏi sắc, sáu thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp đă vọng lập, do đó chia ra Kiến, Văn, Giác, Tri. Cộng nghiệp ràng buộc lẫn nhau mà có hợp, ly, thành, hóa; do kiến chấp của sở minh nên sanh khởi sắc tướng, do năng minh của kiến chấp th́ thành tư tưởng, ư kiến khác với ḿnh th́ thành ghét, tư tưởng đồng với ḿnh th́ thành yêu, gieo cái yêu thành hạt giống, thu nạp tư tưởng thành cái thai, giao cấu phát sanh, hấp dẫn cộng nghiệp, nên có nhân duyên sanh ra bào thai.

- Các loài thai sanh, noăn sanh, thấp sanh, hoá sanh, tùy theo sự cảm ứng mà thành: noăn do tưởng niệm mà sanh, thai do ái t́nh mà có, thấp sanh do hợp mà cảm ứng, hóa sanh do tách ly mà hiện.  T́nh, tưởng, hợp, ly, thay đổi lẫn nhau, các loài thọ nghiệp theo đó mà thăng trầm, do nhân duyên này, nên chúng sanh tương tục.

- Phú Lâu Na, do tư tưởng thương yêu liên kết thành nghiệp, yêu măi không rời th́ những cha mẹ con cháu trong thế gian sanh nhau chẳng ngừng, ấy đều từ gốc Dục Tham sanh khởi.

- Ḷng tham ái giúp nhau tăng trưởng, tham măi không thôi th́ các loại thai, noăn, thấp, hóa trong thế gian, tùy sức mạnh yếu, ăn nuốt lẫn nhau, ấy đều từ gốc Sát Tham sanh khởi.

- Người ăn thịt dê, dê chết làm người, người chết làm dê, như vậy cho đến mười loại chúng sanh, chết sống sống chết, ăn nuốt lẫn nhau, ác nghiệp lan tràn cùng tột đời vị lai, ấy đều từ gốc Đạo Tham (trộm cắp) sanh khởi.

- Ngươi nợ mạng ta, ta trả nợ ngươi, do nhân duyên này, trải qua trăm ngàn kiếp, thường ở trong ḍng sanh tử; ngươi yêu tâm ta, ta ưa sắc ngươi, do nhân duyên này trải qua trăm ngàn kiếp, thường ở trong ḍng ràng buộc, ấy đều từ gốc Sát, Đạo, Dâm sanh khởi. Do nhân duyên này nên nghiệp quả tương tục.

- Phú Lâu Na, ba thứ điên đảo kể trên tương tục như vậy, đều do sự lỗi lầm của giác minh cho là có tánh liễu tri của năng minh rồi biến hiện sắc tướng, từ vọng kiến đó sanh khởi các tướng hữu vi như núi sông đất đai, theo thứ tự dời đổi, v́ hư vọng này nên xoay chuyển chẳng ngừng.

Phú Lâu Na nói:

- Thế Tôn! Nếu Diệu Giác này vốn nhiệm mầu sáng tỏ, cùng với tâm Như Lai chẳng thêm, chẳng bớt, khi không bỗng sanh các tướng hữu vi như núi sông, đất đai; nay Như Lai đă chứng Diệu Giác, làm sao núi sông đất đai và các tập khí hữu lậu c̣n được sanh trở lại?

Phật bảo Phú Lâu Na:

- Ví như người mê ở một xóm làng, nhận lầm phương Nam thành phương Bắc, vậy sự mê lầm này từ mê ra hay từ ngộ ra?

Phú Lâu Na đáp:

- Người mê như vậy chẳng từ mê ra, cũng chẳng từ ngộ ra? Tại sao? Mê vốn chẳng gốc, làm sao từ mê ra? Ngộ chẳng sanh mê, sao nói từ ngộ ra?

Phật nói:

- Người mê kia đang trong lúc mê, bỗng có người ngộ chỉ thị cho ngộ, Phú Lâu Na, ư ngươi thế nào? Người ấy dẫu mê, đối với xóm làng này, c̣n mê lại nữa chăng?

- Bạch Thế Tôn, không ạ!- Phú Lâu Na, mười phương Như Lai cũng như vậy, sự mê này vốn chẳng có gốc, tánh rốt cuộc là không, xưa vốn chẳng mê, do vọng chấp nên tựa như có mê có giác, giác được cái mê th́ mê liền diệt, giác chẳng sanh mê.

- Cũng như người nhặm thấy hoa đốm trên không, nếu trừ được bệnh nhặm th́ hoa đốm nơi không liền diệt. Bỗng có người ngu ở chỗ hư không mà hoa đốm đă diệt kia, mong đợi hoa đốm sanh nữa, ngươi xét người này là ngu hay trí?

Phú Lâu Na đáp:

- Hư không vốn chẳng có hoa đốm, vọng thấy có sanh diệt, thấy hoa đốm diệt đă là điên đảo rồi, lại c̣n muốn hoa đốm sanh nữa, th́ thật là điên dại, làm sao c̣n gọi người điên như vậy là ngu hay trí!

Phật bảo:

- Theo như ngươi hiểu, sao lại c̣n hỏi Diệu Giác của chư Phật lại sanh núi sông đất đai nữa! Cũng như quặng vàng, đất cát lộn với vàng ṛng, khi quặng đă luyện thành vàng ṛng th́ chẳng trở thành quặng nữa; như cây đă đốt thành tro, th́ chẳng trở lại thành cây nữa. Bồ Đề Niết Bàn của chư Phật cũng như vậy.

- Phú Lâu Na, ngươi c̣n hỏi về bản tánh viên dung, cùng khắp pháp giới của Địa, Thủy, Hỏa, Phong nghi rằng tánh Thủy và Hỏa sao chẳng đoạt mất nhau, và hỏi sao hư không và tánh Địa đều khắp pháp giới, lẽ ra chẳng dung nạp nhau.

- Phú Lâu Na, ví như hư không chẳng phải các tướng, cũng chẳng ngăn ngại các tướng phát huy. Tại sao? Phú Lâu Na, ở nơi hư không, mặt trời chiếu th́ sáng, mây che th́ tối, gió thổi th́ động, trời tạnh th́ trong, sương mù th́ đục, bụi nổi th́ mờ, nước lặng th́ lóng lánh, ư ngươi thế nào? Các tướng hữu vi khác nhau như vậy, là tự sanh hay từ hư không ra? Phú Lâu Na, nếu mỗi mỗi tự sanh, khi lúc mặt trời chiếu, đă là mặt trời chiếu sáng, th́ mười phương hư không đều thành màu sắc của mặt trời, tại sao lại c̣n thấy mặt trời trên không? Nếu hư không tự sáng, th́ hư không phải tự chiếu sáng, tại sao lúc giữa đêm mây mù lại chẳng thấy sáng? Nên biết cái sáng như vậy chẳng phải mặt trời, chẳng phải hư không, cũng chẳng ngoài mặt trời và hư không. Xét các tướng ấy vốn là hư vọng, chẳng thể chỉ bày, cũng như muốn hoa đốm trên không kết thành quả hư không, làm sao c̣n hỏi cái nghĩa chẳng đoạt mất nhau? Diệu Tâm sáng tỏ, vốn chẳng phải thủy, hỏa, tại sao lại c̣n hỏi về nghĩa chẳng dung nạp nhau?

- Tánh sáng tỏ của Diệu Tâm cũng vậy, nếu ngươi phát minh cái hư không th́ hư không hiện ra; địa, thủy, hỏa, phong mỗi mỗi phát minh th́ mỗi mỗi hiện ra, nếu cùng phát minh th́ cùng hiện ra.

- Thế nào là cùng hiện? Phú Lâu Na, như trong một ḍng nước, hiện ra bóng mặt trời, hai người cùng xem bóng đó, rồi người đi phương Đông, người đi phương Tây, mỗi người đều thấy mặt trời theo ḿnh, một cái đi về phương Đông, một cái đi về phương Tây, chẳng có nhất định. Không nên hỏi rằng: Mặt trời là một, sao lại mỗi cái đi theo mỗi người? Bóng mặt trời trong nước đă thành hai, tại sao trên trời chỉ có một? Sự hư vọng quanh lộn như thế chẳng có căn cứ.

- Phú Lâu Na, ngươi cho tướng Sắc, Không đoạt mất lẫn nhau nơi Như Lai Tạng, th́ Như Lai Tạng tùy theo sắc không cùng khắp pháp giới, nên ở trong đó, gió thổi th́ động, hư không th́ lặng, mặt trời th́ sáng, mây mù th́ tối, chúng sanh mê muội, trái giác tánh, hợp cảnh trần, phát khởi trần lao, nên có tướng thế gian.

- Ta dùng tánh chẳng sanh diệt của diệu tâm sáng tỏ hợp với Như Lai Tạng, th́ Như Lai Tạng chỉ duy nhất một diệu tâm sáng tỏ, tṛn đầy chiếu khắp pháp giới, nên ở trong đó, một là vô lượng, vô lượng là một, trong nhỏ hiện ra lớn, trong lớn hiện ra nhỏ, đạo tràng chẳng động mà khắp mười phương thế giới, thân thể bao hàm vô tận hư không, nơi đầu một mảy lông hiện ra cơi Phật, ngồi trong vi trần chuyển đại pháp luân, nghịch cảnh trần, hợp giác tánh, nên hiện ra tánh Chơn Như sáng tỏ của diệu tâm.

- Cái diệu tâm sáng tỏ này, phi tâm, phi không, phi địa, thủy, hỏa, phong; phi nhăn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ư; phi sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; phi nhăn thức giới cho đến phi ư thức giới; phi minh, phi vô minh, phi minh vô minh tận, như thế cho đến phi lăo phi tử, phi lăo tử tận; phi khổ, tập, diệt, đạo; phi trí, phi đắc, phi bố thí, tŕ giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định, trí huệ; phi đến bờ bên kia, cho đến phi Như Lai, phi Ứng Cúng, phi chánh Biến Tri; phi Đại Niết Bàn, phi thường đức, lạc đức, ngă đức, tịnh đức, (tứ đức của Niết Bàn), cho đến các pháp thế gian và xuất thế gian đều phi cả.

- Cái diệu tâm sáng tỏ này tức tâm, tức không, tức địa, thủy, hỏa, phong; tức nhăn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ư; tức sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; tức nhăn thức giới, cho đến tức ư thức giới; tức minh, tức vô minh, tức minh vô minh tận; cho đến tức lăo, tức tử, tức lăo tữ tận, tức khổ, tập, diệt, đạo; tức trí, tức đắc; tức bố thí, tŕ giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định, trí huệ; tức đến bờ bên kia, cho đến tức Như Lai, tức Ứng Cúng, tức Chánh Biến Tri; tức Đại Niết Bàn, tức thường đức, lạc đức, ngă đức, tịnh đức; cho đến các pháp thế gian và xuất thế gian đều tức như thế cả.

- Cái diệu tâm sáng tỏ này ĺa Tức ĺa Phi, cũng Tức cũng Phi Tức, tại sao chúng sanh tam giới của thế gian và các hàng Thanh Văn, Duyên Giác của xuất thế gian muốn dùng cái tâm sở tri để suy lường Vô Thượng Bồ Đề của Như Lai; muốn dùng lời nói của thế gian để nhập Tri Kiến Phật, đâu có thể được!

- Ví như những cây đàn: cầm sắt, tỳ bà, dù có diệu âm, nếu chẳng có sự khéo léo của ngón tay, th́ diệu âm chẳng thể phát ra.  Cũng vậy, cái diệu tâm chơn thật của ngươi và chúng sanh mỗi mỗi vốn sẵn đầy đủ. Nhưng nơi ta khi búng tay th́ hải ấn phát ra ánh sáng, (hải ấn là: lâu đài bỗng hiện trên mặt biển, dụ cho sức dụng vô biên của tự tánh tự hiện), c̣n nơi các ngươi, vừa móng tâm th́ trần lao đă khởi; ấy là do chẳng cầu vô thượng Bồ Đề, ham thích tiểu thừa, được ít cho là đủ.

Phú Lâu Na nói:

- Diệu tâm sáng tỏ của con và Như Lai đều viên măn không hai. Nơi con, v́ xưa kia mắc phải vọng tưởng từ vô thỉ, chịu luân hồi đă lâu, nay dù chứng được thánh quả, nhưng chưa đến chỗ rốt ráo. Nơi Thế Tôn th́ tất cả vọng tưởng đều diệt, chỉ diệu tâm chơn thường hiện hành. Vậy xin hỏi Như Lai: Tất cả chúng sanh v́ sao có vọng, tự che khuất diệu tâm, cam chịu ch́m đắm?

Phật bảo Phú Lâu Na:

- Ngươi dù trừ được ḷng nghi, nhưng c̣n có mê hoặc chưa dứt sạch, nay ta đem những việc của thế gian hỏi ngươi. Ngươi há chẳng nghe trong thành Thất La Phiệt, có ông Diễn Nhă Đạt Đa, buỗi sáng lấy gương soi mặt, nh́n thấy mặt mày, bỗng ưa cái đầu trong gương, rồi tự trách đầu ḿnh sao chẳng tự thấy mặt mũi, cho là yêu mị, khi không phát điên bỏ chạy. Ư ngươi thế nào? Người ấy v́ sao khi không bỏ chạy?

Phú Lâu Na đáp:

- Người ấy tâm điên, chứ chẳng do ǵ khác.

Phật nói:

- Diệu tâm vốn tṛn đầy sáng tỏ, đă gọi là vọng, làm sao có nhân? Nếu có cái nhân, sao c̣n gọi là vọng? Chỉ do các vọng tưởng xoay vần, tự làm nhân cho nhau, từ mê thêm mê, trải qua vô lượng kiếp, dù được Phật phát minh đại nghĩa, c̣n chẳng chịu quay về.  Cái nhân mê như vậy, do mê tự có, biết cái mê vô nhân th́ vọng chẳng chỗ dựa; sanh c̣n chẳng có, lấy ǵ để diệt?

- Người đắc đạo Bồ Đề, như người tỉnh giấc nói việc trong chiêm bao; tâm dù rơ ràng, làm sao lấy được những vật trong chiêm bao ra? Huống là vô nhân, vốn chẳng có ǵ! Như Diễn Nhă Đạt Đa, đâu có nhân duyên ǵ mà tự sợ đầu ḿnh bỏ chạy. Nếu bỗng nhiên hết điên, cái đầu đâu phải từ ngoài mà được; dù chưa hết điên, đầu cũng chẳng mất. Phú Lâu Na, tánh vọng như thế, làm sao có nhân?

- Nếu ngươi chẳng duyên theo thế gian, nghiệp quả, chúng sanh, ba thứ phân biệt này xoay chuyển liên tục, ba duyên đă diệt th́ ba nhân chẳng sanh, tánh điên của Diễn Nhă Đạt Đa trong tâm ngươi tự dứt, dứt tức là Bồ Đề. Vậy diệu tâm sáng tỏ vốn khắp pháp giới, chẳng từ người khác mà được, chẳng nhờ nhọc nhằn tu chứng mà có.

- Ví như có người, nơi áo ḿnh có hạt châu như ư mà chẳng tự biết, nghèo nàn rách rưới, ăn xin nơi phương xa. Người ấy dù nghèo, hạt châu chưa từng mất, bỗng được người trí chỉ ra hạt châu, liền thành giàu sang tùy theo ư muốn, mới ngộ bảo châu chẳng từ bên ngoài mà có.

Tức thời, A Nan ở trong chúng đảnh lễ chân Phật, bạch Phật rằng:

- Nay Thế Tôn, nói ba nghiệp Sát, Đạo, Dâm diệt rồi th́ ba nhân chẳng sanh, và tánh điên của Diễn Nhă Đạt Đa trong tâm tự dứt, dứt tức là Bồ Đề, chẳng từ người khác mà được. Thế th́ rơ ràng là nhân duyên rồi, làm sao Như Lai bác bỏ nghĩa nhân duyên? Chính con do nhân duyên mà tâm được khai ngộ.

- Thế Tôn, nghĩa này chẳng những hàng Thanh Văn hữu học trẻ tuổi như chúng con, cả Đại Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất và Tu Bồ Đề trong hội này, đều từ nơi ông lăo Phạn Chí nghe cái thuyết nhân duyên của Phật, tâm được khai ngộ, thành quả vô lậu. Nay Phật nói Bồ Đề chẳng do nhân duyên, vậy th́ cái thuyết tự nhiên của bọn ngoại đạo Câu Xá Ly lại thành đệ nhất nghĩa sao? Xin Phật đại bi, khai phá chỗ mê muội cho chúng con.

Phật bảo A Nan:

- Như Diễn Nhă Đạt Đa, nếu diệt trừ được cái nhân duyên phát điên, th́ tánh chẳng điên tự nhiên hiện ra, lư cùng tột của nhân duyên và tự nhiên là vậy.

- A Nan! Nếu đầu của Diễn Nhă Đạt Đa vốn tự nhiên, đă là tự nhiên, th́ tại sao sợ đầu bỏ chạy? Ấy là do nhân duyên nào?

- Nếu đầu tự nhiên do nhân duyên nên phát điên, tại sao chẳng tự nhiên do nhân duyên mà mất đi? Đầu vốn chẳng mất, tại sao vẫn c̣n vọng sanh điên sợ? Thế th́ đâu phải nhờ nhân duyên?

- Nếu bản tánh vốn tự nhiên có điên sợ, vậy khi chưa điên, cái điên ẩn núp ở chỗ nào? Nếu tánh chẳng điên là tự nhiên, đầu vốn chẳng vọng, sao lại bỏ chạy?

- Nếu ngộ được cái đầu vốn chẳng mất, tánh điên cuồng vốn vọng danh, th́ nhân duyên và tự nhiên đều là hư luận.

- Cho nên ta nói ba duyên diệt rồi tức là tâm Bồ Đề. Tâm Bồ Đề sanh, th́ tâm sanh diệt được diệt, ấy cũng là sanh diệt; khi sanh và diệt đều sạch, mới gọi là vô công dụng đạo.

- Nếu có sự chẳng sanh, chẳng diệt gọi là tự nhiên, th́ tâm tự nhiên này là do sanh diệt đă sạch mà hiện, ấy cũng là pháp sanh diệt, chẳng phải Bồ Đề. Cái lư chẳng sanh diệt kia gọi là tự nhiên, cũng như các tướng lẫn lộn thành một thể của thế gian, gọi là tánh ḥa hợp; cái chẳng ḥa hợp th́ gọi là tự nhiên. Tự nhiên chẳng phải tự nhiên, ḥa hợp chẳng phải ḥa hợp, tự nhiên và ḥa hợp đều ĺa, có ĺa có hợp đều sai, đến chỗ này mới được gọi là pháp chẳng hư luận.

- Nếu dựa vào chỗ này để thủ chứng Vô Thượng Bồ Đề và Niết Bàn th́ quả Phật vẫn c̣n cách xa lắm. Tại sao? V́ chấp do dụng công tu chứng mà có sở đắc vậy. Kỳ thật, Bồ Đề Niết Bàn vốn sẵn đầy đủ, chỉ có thể sát na ngộ nhập, chẳng do nhiều kiếp siêng năng tu chứng mà được, dẫu cho nhớ hết diệu lư thanh tịnh như cát sông Hằng trong mười hai bộ Kinh của mười phương Như Lai, chỉ càng thêm hư luận.

- Ngươi dù nói lư nhân duyên, tự nhiên chắc chắn rơ ràng, người đời khen ngươi đa văn bậc nhất, với cái huân tập đa văn nhiều kiếp này, chẳng thể tránh khỏi nạn Ma Đăng Già, phải nhờ thần chú của ta, làm cho Ma Đăng Già dập tắt lửa dâm, sông ái khô cạn, chứng quả A Na Hàm, nơi pháp ta thành tựu tinh tấn, khiến ngươi giải thoát. A Nan, ngươi dù nhiều kiếp ghi nhớ những lời bí mật nhiệm mầu của Như Lai, chẳng bằng một ngày tu nghiệp vô lậu, xa ĺa hai khổ yêu, ghét của thế gian. Như Ma Đăng Già xưa kia là dâm nữ, do sức thần chú, tiêu diệt ḷng ái dục, nay trong pháp ta gọi là Tỳ Kheo Ni Tánh với Gia Du Đà La (mẹ của La Hầu La), cùng ngộ nhân xưa, biết được nhân duyên nhiều kiếp, đều do tham ái làm khổ, chỉ một niệm huân tu pháp vô lậu thiện, nay người th́ ra khỏi ràng buộc, người th́ được Phật thọ kư, sao ngươi c̣n tự dối, kẹt nơi thấy nghe?

A Nan và đại chúng nghe lời Phật dạy, nghi hoặc tiêu trừ, tâm ngộ thật tướng, thân ư khinh an, được pháp chưa từng có, rơi lệ đảnh lễ chân Phật, quỳ gối chắp tay bạch Phật rằng:

- Ḷng trong sạch vô thượng đại bi của Phật, khéo khai ngộ cho tâm chúng con, dùng đủ thứ nhân duyên và phương tiện d́u dắt kẻ ch́m đắm ra khỏi biển khổ. Thế Tôn, nay con dù được nghe pháp âm như thế, nhận biết diệu tâm sáng tỏ khắp mười phương thế giới, trùm chứa các cơi Phật thanh tịnh trang nghiêm trong mười phương quốc độ. Như Lai lại trách con đa văn vô ích, chẳng bằng tu tập, nay con như người phiêu bạt, bỗng được Thiên Vương ban cho cái nhà sang, dù được nhà lớn, nhưng phải biết chỗ cửa vào. Vậy xin Như Lai từ bi khai thị cho những kẻ mê muội trong hội này, ĺa bỏ tiểu thừa, đều được bước lên con đường đă phát tâm từ xưa nay, thẳng đến Vô Dư Niết Bàn của Như Lai, khiến hàng hữu lậu biết cách uốn dẹp tâm phan duyên từ lâu đời, được pháp tổng tŕ, chứng nhập Tri Kiến Phật.

Nói xong, năm vóc gieo sát đất, cả chúng trong hội một ḷng mong đợi lời dạy của Phật.

Lúc bấy giờ, Thế Tôn thương xót hàng Thanh Văn, Duyên Giác trong hội chưa được tự tại nơi tâm Bồ Đề, và những chúng sanh phát tâm Bồ Đề trong đời mạt pháp, khai thị pháp tu nhiệm mầu của Vô Thượng Thừa, bảo A Nan và đại chúng rằng:

- Các ngươi quyết định phát tâm Bồ Đề, đối với pháp Tam Ma Đề nhiệm mầu của chư Phật, chẳng sanh mỏi mệt, trước hết nên biết hai nghĩa quyết định trong lúc mới phát tâm.

- Thế nào là hai nghĩa quyết định lúc mới phát tâm?

- A Nan! Nghĩa thứ nhất: Nếu các ngươi muốn ĺa bỏ Thanh Văn, tu Bồ Tát Thừa, nhập Tri Kiến Phật, th́ nên xét kỹ chỗ phát tâm của nhân địa, với chỗ giác ngộ của quả địa là đồng hay là khác? A Nan, nếu ở nơi nhân địa, dùng tâm sanh diệt làm cái nhân tu hành, để cầu cho được quả chẳng sanh diệt của Phật thừa th́ chẳng đúng.

- Do nghĩa này, ngươi nên xét kỹ vạn vật trên thế gian, các pháp có thể tạo ra đều phải biến diệt. A Nan, ngươi hăy xem các pháp có thể tạo ra, có cái nào chẳng hoại chăng? Nhưng chẳng bao giờ nghe nói hư không biến hoại. Tại sao? V́ hư không chẳng phải là vật sở tạo, cho nên chẳng thể biến hoại.

- Vậy th́ trong thân ngươi, tánh cứng là Địa, ướt nhờn là Thủy, hơi ấm là Hỏa, lay động là Phong, do tứ đại ràng buộc, mà chia cái diệu tâm sáng tỏ của ngươi ra thành Kiến, Văn, Giác, Tri từ vô thỉ, tạo thành năm lớp ô trược.

- Sao gọi là trược? A Nan, ví như nước trong bản tánh thanh khiết, và những thứ bụi, đất, tro, cát, bản chất ngăn ngại, thể tánh vốn khác nhau. Bỗng có người lấy đất cát bỏ vào nước trong, làm cho đất mất ngăn ngại, nước mất thanh khiết, thành tướng vẩn đục, nên gọi là trược. Năm lớp ô trược của ngươi cũng vậy.

- A Nan! Ngươi thấy hư không khắp mười phương thế giới, hư không và kiến tinh chẳng thể phân ra rơ ràng; hư không th́ chẳng có bản thể, tức là ngoan không; kiến tinh th́ chẳng có bản giác, tức là vô minh, cả hai giao kết lẫn nhau, vọng thành lớp thứ nhất, gọi là Kiếp Trược.

- Kiến, Văn, Giác, Tri vốn chẳng ngăn ngại, v́ kẹt nơi tứ đại nên thành ngăn ngại; Địa, Thủy, Hỏa, Phong vốn chẳng giác tri, v́ xoay chuyển theo lục căn thành có giác tri, các điều đó giao kết lẫn nhau, vọng thành lớp thứ hai, gọi là Kiến Trược.

- Lại, trong tâm ngươi, tánh tưởng nhớ học tập phát ra tri kiến, dung nạp lục trần, ĺa trần th́ chẳng có tướng, ĺa giác th́ chẳng có tánh, từ đó giao kết lẫn nhau vọng thành lớp thứ ba gọi là Phiền Năo Trược.

- Lại tâm niệm của ngươi ngày đêm sanh diệt chẳng ngừng, tri kiến th́ muốn ở măi trên thế gian, nhưng nghiệp báo xoay vần lại thường dời đổi trong lục đạo, những điều ấy giao kết lẫn nhau, vọng thành lớp thứ tư, gọi là Chúng Sanh Trược.

- Tánh kiến văn của các ngươi vốn chẳng khác biệt, do lục trần ngăn cách, bỗng thành khác biệt, tánh biết th́ đồng, sự dụng th́ khác, đồng và khác chẳng định, từ đó giao kết lẫn nhau, vọng thành lớp thứ năm, gọi là Mệnh Trược.

- A Nan! Nay ngươi muốn cho Kiến, Văn, Giác, Tri khế hợp với tứ đức Thường, Lạc, Ngă, Tịnh của Như Lai, trước hết phải lọc bỏ cội gốc sanh tử, dựa theo tánh trong lặng chẳng sanh diệt của diệu tâm, để xoay các thứ sanh diệt hư vọng trở về bản giác. Được tánh chẳng sanh diệt của bản giác làm cái tâm nhân địa, rồi mới viên thành sự tu chứng của quả địa. Như lắng nước đục trong đồ đựng nước, để yên măi chẳng lay động, đất cát tự ch́m và nước trong hiện ra, ấy gọi là bắt đầu uốn dẹp được khách trần phiền năo; gạn bùn hết sạch, chỉ c̣n nước trong, gọi là dứt hẳn căn bản vô minh, tướng minh thuần nhất th́ tất cả biến hiện đều chẳng gây ra phiền năo, và đều hợp với diệu đức trong sạch của Niết Bàn.

- Nghĩa thứ hai: Các ngươi nếu muốn phát tâm Bồ Đề nơi Bồ Tát Thừa, sanh ḷng đại dũng mănh, quyết định ĺa bỏ các tướng hữu vi, nên suy xét kỹ cái cội gốc phiền năo của nhuận (nhuần) nghiệp vô minh và nhuận sanh vô minh từ vô thỉ này là ai làm, ai chịu?

LƯỢC GIẢI

Xét kỹ chỗ phát tâm của nhân địa là để hợp cái Chơn; xét kỹ cội gốc của phiền năo là để tuyệt cái Vọng, vọng đă chẳng vọng th́ tức vọng tức chơn.

Cội gốc của phiền năo có hai: một là Nhuận Nghiệp Vô Minh (nhuận là thấm nhuần), tức là phiền năo của những kiếp quá khứ; hai là Nhuận Sanh Vô Minh, tức là khi đầu thai, nơi t́nh thức sanh khởi yêu, ghét đối với cha mẹ. Hai thứ phiền năo này vốn chẳng tự tánh, nếu ngộ biết chẳng tự tánh th́ chẳng có kẻ làm, chẳng có kẻ chịu, ngay đó "không tịch", c̣n ai phiền năo?  Người tiểu thừa chẳng ĺa công dụng hữu vi, cho thật có phiền năo cần phải phá trừ, ấy do chẳng biết căn trần là hư vọng.  Người đại thừa th́ khác, thẳng đến Vô Thượng Bồ Đề, chỉ cần xét kỹ nơi căn trần ai làm ai chịu, bỗng được khám phá, th́ căn bản vô minh tức thời tan ră.

*****

- A Nan! Người tu đạo Bồ Đề, nếu chẳng suy xét cội gốc phiền năo, th́ chẳng thể biết căn trần hư vọng đó điên đảo ở chỗ nào; chỗ c̣n chẳng biết th́ làm sao uốn dẹp được nó, để chứng nhập quả vị của Như Lai?

- Cũng như người thế gian, khi muốn mở cái thắt kết, nếu chẳng thấy cái chỗ thắt kết th́ làm sao biết mở? Nhưng chưa từng nghe nói hư không bị người ta phá hủy. Tại sao? V́ hư không chẳng h́nh tướng, chẳng thể thắt mở. Vậy th́ hiện tiền lục căn của ngươi làm mai mối cho giặc, tự cướp của báu trong nhà, vọng thành sự thắt kết (phiền năo). Do sự thắt kết này nên thế giới chúng sanh tự sanh ràng buộc từ vô thỉ, chẳng thể ra khỏi thế gian vậy.

- A Nan! Sao gọi là thế giới chúng sanh? Thế là dời đổi, Giới là phương vị, nên biết: Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, phương trên phương dưới là giới; quá khứ, hiện tại, vị lai là Thế. Về phương vị của không gian có mười, về sự lưu chuyển của thời gian có ba. Không gian, thời gian cùng với sự dời đổi trong thân của tất cả chúng sanh giao lộn lẫn nhau, nên thành thế giới chúng sanh. Tánh giới (không gian) dù thiết lập thành mười phương, nhưng phương vị nhất định mà người thế gian có thể rơ được, chỉ có Đông, Tây, Nam, Bắc tứ phương, c̣n phương trên, phương dưới và chính giữa th́ chẳng có vị trí nhất định.

- Tứ phương nhân với tam thế, thành số mười hai, rồi nhân với lớp thứ ba, thành 12 x 100 = 1200 (Nguyên văn có nêu ra 4 lớp: l, l0, l00, l000). Tổng quát lại, trong lục căn mỗi mỗi có đến một ngàn hai trăm công đức.

- A Nan! Ngươi nên ở trong lục căn xác định chỗ hơn kém của mỗi căn.

- Như Nhăn Căn chỉ thấy phía trước, chẳng thấy phía sau, ngó qua hai bên th́ ba phần chỉ thấy được hai. Tóm lại, công đức của nhăn căn chỉ được hai phần ba, vậy biết nhăn căn chỉ có tám trăm công đức.

- Như Nhĩ Căn nghe khắp mười phương chẳng sót, lúc động th́ tựa như có xa gần, lúc tịnh th́ chẳng bờ bến, vậy biết nhĩ căn đầy đủ một ngàn hai trăm công đức.

- Như Tỷ Căn ngửi biết khi thở ra hít vào, có ra có vào, mà sót khoảng giữa khi ra vào giao tiếp, vậy ba phần thiếu một, nên biết Tỷ Căn chỉ có tám trăm công đức.

- Như Thiệt Căn tuyên dương cùng tột trí thế gian và xuất thế gian; lời nói dù có chừng ngằn, nhưng nghĩa lư th́ vô cùng, vậy biết thiệt căn đầy đủ một ngàn hai trăm công đức.

- Như Thân căn ở nơi thuận nghịch sanh ra xúc giác; (khi hợp th́ năng giác có xúc giác), khi ĺa th́ bất tri (chẳng xúc giác), ĺa chỉ có một, hợp th́ thành hai, (khi ĺa chỉ có một năng hoặc một sở chẳng định, khi hợp th́ gồm đủ năng sở thành có hai), vậy ba phần thiếu một, nên biết thân căn chỉ có tám trăm công đức.

- Như Ư Căn thầm lặng mà cùng khắp tất cả pháp thế gian và xuất thế gian trong mười phương tam thế, cùng tột thánh phàm, đều bao gồm trong đó, vậy biết ư căn đầy đủ một ngàn hai trăm công đức.

- A Nan! Nay ngươi muốn ngược ḍng sanh tử, trở về nguồn gốc của lưu chuyển, đến chỗ chẳng sanh diệt, th́ nên xét kỹ sự thọ dụng của lục căn này, cái nào hợp, cái nào ĺa; cái nào sâu, cái nào cạn; cái nào viên thông, cái nào chẳng viên thông. Nếu ngươi ngay nơi những căn này ngộ được căn nào viên thông, nương theo căn viên thông đó mà xoay ngược ḍng nghiệp hư vọng từ vô thỉ th́ so với các căn khác, hiệu quả gấp nhiều lần, một ngày bằng một kiếp.

- Nay ta đă hiển bày một số công đức của lục căn như vậy, tùy ngươi lựa chọn căn nào dễ nhập, th́ ta sẽ phát minh, khiến ngươi được thêm tinh tấn. Mười phương Như Lai nơi thập bát giới, mỗi người mỗi chọn một giới theo đó mà tu hành, đều được Vô thượng Bồ Đề, trong đó vốn chẳng hơn kém. V́ ngươi nay c̣n thấp kém, chưa thể phát huy trí huệ tự tại, nên ta khai thị căn viên thông, khiến ngươi từ một cửa đi vào. Vào sâu một cửa đến chỗ chẳng vọng, th́ tất cả lục căn đều nhất thời trong sạch.

- Bạch Thế Tôn, tại sao ngược ḍng sanh tử đi sâu vào một căn, có thể khiến lục căn đều nhất thời trong sạch?

Phật bảo A Nan:

- Nay ngươi đă được quả Tu Đà Hoàn, diệt được kiến hoặc của chúng sanh ba cơi trên thế gian, nhưng c̣n chưa biết những tập khí hư vọng đă tích chứa trong căn từ vô thỉ, tập khí ấy phải nhờ tu đạo mới được dứt trừ. Khi đă dứt trừ, tức là đến bậc vô học, chẳng những biết được quá tŕnh dời đổi của sanh, trụ, dị, diệt nơi một chúng sanh, mà c̣n biết được những hành tướng vi tế, niệm niệm dời đổi của tất cả chúng sanh trong đại thiên thế giới.

- Nay ngươi hăy xét lục căn này là nhất hay lục? A Nan, nếu cho là nhất, th́ tai sao chẳng thấy, mắt sao chẳng nghe, đầu sao chẳng đi, chân sao chẳng nói? Nếu cho là lục, như ta ở trong hội v́ ngươi chỉ dạy pháp môn nhiệm mầu, vậy lục căn của ngươi căn nào lănh thọ?

A Nan đáp:

- Con dùng tai nghe.

Phật nói:

- Tai ngươi tự nghe, có liên quan ǵ đến thân miệng, mà miệng th́ hỏi đạo, thân tỏ cung kính? Vậy biết phi nhất thành lục, phi lục thành nhất; kỳ thật căn ngươi chẳng phải vốn nhất vốn lục. A Nan nên biết cái căn phi nhất phi lục này, v́ vọng chấp điên đảo, ch́m nổi từ vô thỉ, nên ở nơi bản tánh viên thông, sanh ra cái nghĩa nhất lục. Ngươi là bậc Tu Đà Hoàn, dù được tiêu lục, nhưng chưa diệt nhất, ví như hư không đặt vào nhiều khuôn h́nh, do khuôn h́nh khác nhau nên nói hư không có khác, nếu trừ bỏ khuôn h́nh, xem lại hư không th́ nói hư không là một, hư không làm sao lại v́ ngươi mà thành đồng hay dị, huống chi c̣n gọi là một hay chẳng phải một! Vậy biết, sự thọ dụng của lục căn cũng như vậy.

LƯỢC GIẢI:

A Nan nghi: sao một căn sâu vào có thể khiến lục căn đều nhất thời trong sạch?

Phật giải thích rằng: Giả sử lục căn vốn một, vốn tự trong sạch, th́ chẳng cần nói chi "lục tặc", giả sử lục căn vốn lục, chẵng hỗ dụng nhau, làm sao có thể nhất thời trong sạch? Như hư không vốn chẳng khác biệt, do đặt nhiều khuôn h́nh thành có khác biệt; v́ khuôn h́nh khác biệt, bèn cho hư không cũng khác biệt, nên nói sáu chẳng phải một, nếu trừ bỏ khuôn h́nh, xem lại hư không, th́ nói hư không là một, tức là sáu tiêu một c̣n, đây là dụ cho sanh ra nghĩa nhất lục. Thật ra, hư không và khuôn h́nh chẳng thể ḥa hợp, tất nhiên chẳng có đồng dị, đă chẳng đồng dị th́ có chỗ nào để gán cái tên nhất lục ư? Đây là dụ cho vốn chẳng nhất lục.  Thấy được chỗ vốn chẳng nhất lục, th́ tánh viên thông thường tịch hiện tiền, đâu c̣n chỗ nào chẳng trong sạch!

Tu Đà Hoàn gọi là "nhập lưu", mà chẳng có sở nhập, chẳng nhập sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, tức là lục tiêu, nhưng c̣n chấp thật có Niết Bàn, nên chưa diệt nhất. Kỳ thật, Nhất từ đâu đến, Không từ đâu khởi? Chỗ này cần phải tham cứu đến tự ngộ mới được rơ.

*****

- Nhăn căn nơi diệu viên, tánh vốn trong lặng, do hai thứ sáng và tối tỏ bày lẫn nhau, dính bụi thành cái thấy; cái thấy gặp sắc trần, kết sắc trần thành căn, gốc căn thuộc nơi thanh tịnh tứ đại, gọi là bản thể con mắt như trái nho tươi. Phù căn tứ trần lưu chuyển theo sắc trần, tạo đủ thứ nghiệp.

- Nhĩ căn nơi diệu viên, tánh vốn trong lặng, do hai thứ động và tịnh đối chọi lẫn nhau dính bụi thành cái nghe, cái nghe gặp thanh trần, cuốn thanh trần thành căn, gốc căn thuộc nơi thanh tịnh tứ đại gọi là bản thể lỗ tai như lá cây cuốn. Phù căn tứ trần lưu chuyển theo thanh trần tạo đủ thứ nghiệp.

- Tỷ căn nơi diệu viên, tánh vốn trong lặng, do hai thứ thông và nghẽn phát hiện lẫn nhau, dính bụi thành cái ngửi, cái ngửi gặp hương trần, thu nạp hương trần thành căn, gốc căn thuộc nơi thanh tịnh tứ đại, gọi là bản thể cái mũi như hai móng tay rũ xuống. Phù căn từ trần lưu chuyển theo hương trần, tạo đủ thứ nghiệp.

- Thiệt căn nơi diệu viên, tánh vốn trong lặng, do hai thứ lạt và vị xen lộn lẫn nhau, dính bụi thành cái nếm, cái nếm gặp vị trần, thu hút vị trần thành căn, gốc căn thuộc nơi thanh tịnh tứ đại, gọi là bản thể cái lưỡi như trăng lưỡi liềm. Phù căn tứ trần lưu chuyển theo vị trần, tạo đủ thứ nghiệp.

- Thân căn nơi diệu viên, tánh vốn trong lặng, do hai thứ ly và hợp xoa nhau, dính bụi thành xúc giác, xúc giác gặp xúc trần, nắm xúc trần thành căn, gốc căn thuộc nơi thanh tịnh tứ đại, gọi là bản thể cái thân như dáng trống cơm. Phù căn tứ trần lưu chuyển theo xúc trần, tạo đủ thứ nghiệp.

- Ư căn nơi diệu viên, tánh vốn trong lặng, do hai thứ sanh và diệt tương tục lẫn nhau, dính bụi thành cái biết; cái biết gặp pháp trần, ôm pháp trần thành căn, gốc căn thuộc nơi thanh tịnh tứ đại, gọi là cái ư suy tư như sự thấy trong pḥng tối. Phù căn tứ trần lưu chuyển theo pháp trần tạo đủ thứ nghiệp.

- A Nan! Lục căn như thế, do giác minh kia có năng minh để minh cái giác, th́ đánh mất cái tinh minh liễu triệt ấy (tự tánh), thành ra dính mắc nơi hư vọng, rồi phát ra ánh sáng (cái ánh sáng do hư vọng phát ra, th́ sáng chẳng phải sáng thật). Cho nên ngươi hôm nay, ĺa tối ĺa sáng th́ chẳng có cái thấy; ĺa động ĺa tịnh th́ vốn chẳng cái nghe; không thông không nghẽn th́ cái tánh ngửi chẳng sanh; không vị không lạt th́ sự nếm chẳng ra; bất ly bất hợp th́ xúc giác vốn chẳng có; không sanh không diệt th́ sự liễu tri đặt ở chỗ nào?

- Ngươi chỉ cần chẳng duyên theo sự động tịnh, hợp ly, vị lạt, thông nghẽn, sanh diệt, sáng tối, mười hai tướng hữu vi này, tùy tiện nhổ ra một căn, thoát khỏi sự dính mắc, trở về bản tánh chân thật, hiện ra sự chiếu soi của tự tánh. Tánh chiếu soi phát ra ánh sáng, th́ sự dính mắc của ngũ căn kia liền cùng được giải thoát và tri kiến khởi lên, chẳng do cảnh trần. Chiếu soi chẳng duyên theo lục căn, mà nhờ lục căn phát ra ánh sáng, do đó, sự dụng của lục căn dung thông lẫn nhau.

LƯỢC GIẢI

Bản tánh diệu viên trong lặng, gặp sắc trần th́ thành cái thấy, gặp thanh trần th́ thành cái nghe, v.v... nên gọi là diệu viên.   Nước trong lặng vốn chẳng dính mắc, do bụi trần lọt vào thành có dính mắc. Tánh của địa, thủy, hỏa, phong vốn đều không tịch, nên gọi là thanh tịnh tứ đại, gốc căn ẩn bên trong, trần phù bên ngoài, nên gọi là phù căn, tướng của địa, thủy, hỏa, phong vốn đều lay động, nên gọi là tứ trần. Nếu như sự thấy trong pḥng tối th́ đâu thể có phù căn tứ trần? V́ tánh "không" ĺa bản giác thành ám muội, cái ám muội này kết với tối đen thành sắc trần; tối đen và sắc trần xen lộn với vọng tưởng, lay động bên trong thành có đen tối để thấy, cũng có thể gọi là phù căn tứ trần vậy, nên nói như sự thấy trong pḥng tối.

Thanh tịnh tứ đại là một danh từ để tỏ rơ cái nghĩa của thắng-nghĩa-căn, hai chữ Thắng Nghĩa là để hiển bày cái nghĩa lư siêu việt hơn nghĩa lư thông thường. V́ hay chiếu soi cảnh trần, phát ra cái thức phân biệt, cũng gọi là tịnh-sắc-căn (gốc căn chẳng có h́nh sắc để đối với mắt, nên gọi tịnh-sắc-căn). Phù căn tứ trần là một danh từ để tỏ rơ cái nghĩa của phù-trần-căn, v́ hay lưu chuyển theo cảnh trần, tạo đủ thứ nghiệp vậy.

*****

- A-Nan! Ngươi há chẳng biết hiện trong hội này, A Na Luật Đà chẳng mắt mà thấy; rồng Bạt Nan Đà chẳng tai mà nghe; thần nữ Căng Già chẳng mũi mà ngửi hương; Kiều Phạm Bát Đề lưỡi trâu mà biết vị; thần Thuấn Nhă Đa bản chất là gió, vốn chẳng tự thể, do ánh sáng tự tánh, tạm hiện h́nh bóng, nên chẳng có thân mà biết xúc; các hàng Thanh văn được diệt tận định trong hội này như Ma Ha Ca Diếp, ư căn đă diệt từ lâu mà vẫn rơ biết khắp nơi, chẳng do tâm niệm.

- A Nan! Nếu các căn của ngươi đều đă được giải thoát, th́ sự dụng của tự tánh tự hiện, như trong lặng mà phát ra ánh sáng, vậy phù trần và các tướng biến hóa trong thế gian đều tiêu, như nước sôi làm tan băng đá, ngay đó liền hóa thành Vô Thượng Tri Giác.

- A Nan! Như người thế gian cho sự thấy do con mắt, nếu bỗng nhắm mắt lại th́ tướng tối hiện ra, lục căn mịt mù, đầu và chân giống nhau. Người ấy dùng tay rờ thân người khác, mắt dù chẳng thấy, nhưng vẫn phân biệt được đầu và chân, vậy sáng tối dù khác, mắt dù chẳng thấy, nhưng vẫn phân biệt được đầu và chân, vậy sáng tối dù khác, tánh biết vẫn đồng. Nếu duyên sáng mới có thấy th́ khi tối thành chẳng thấy, nếu chẳng duyên sáng mà phát ra tánh thấy, th́ các tướng tối chẳng thể làm mờ được. Căn trần đă tiêu, th́ giác tánh đâu thể chẳng thành diệu viên?

A Nan bạch Phật rằng:

- Như lời Phật dạy, nếu muốn cầu được quả thường trụ, th́ chỗ phát tâm của nhân địa và quả địa phải cân xứng với nhau. Thế Tôn, trong quả vị Như Lai, bảy thứ: Bồ Đề, Niết Bàn, Chơn Như, Phật tánh, Am Ma La Thức, Không Như Lai Tạng, Đại Viên Cảnh Trí, tên gọi dù khác, nhưng thể tánh trong sạch viên măn kiên cố như Kim Cang Vương, thường trụ chẳng hoại.

- Nếu cái thấy nghe này ĺa những tướng sáng tối, động tịnh, thông nghẽn vốn chẳng tự thể; cũng như tâm niệm ĺa nơi tiền trần vốn chẳng có ǵ cả, th́ tại sao lại có thể đem sự đoạn diệt này làm nhân tu, mà mong cầu bảy quả thường trụ của Như Lai.

- Thế Tôn, nếu ĺa sáng tối th́ cái thấy thành không có; nếu chẳng có tiền trần th́ tâm niệm tịch diệt, nghĩ tới nghĩ lui, suy xét tỉ mỉ, vốn chẳng có cái tâm và tâm sở của con, vậy lấy ǵ làm nhân để cầu quả Vô Thượng Giác? Như Lai trước kia đă nói tánh giác trạm nhiên thường trụ, vậy lời nói trái với lẽ thường th́ chỉ thành hư luận, làm sao nhận được lời nói của Như Lai là chơn thật? Xin Phật từ bi khai mở chỗ mê muội của con.

Phật bảo A Nan:

- Ngươi chỉ học rộng nghe nhiều, chưa dứt sạch tập khí phiền năo, trong tâm dù biết rơ cái nhân điên đảo, mà điên đảo thật hiện tiền th́ chẳng biết, e rằng ngươi c̣n chưa thiệt ḷng tín phục, nay ta thử đem những việc trần thế để phá trừ cái nghi của ngươi.

Tức thời, Như Lai bảo La Hầu La đánh một tiếng chuông, hỏi A Nan:

- Nay ngươi nghe chăng?

A Nan và đại chúng đều đáp:

- Có nghe!

Khi tiếng chuông dứt rồi, Phật lại hỏi: 

- Các ngươi nghe chăng?

A Nan và đại chúng đều đáp:

- Chẳng nghe!

Khi đó La Hầu La lại đánh thêm một tiếng, Phật lại hỏi: 

- Các ngươi nghe chăng?

A Nan và đại chúng đều đáp:

- Có nghe!

Phật hỏi A Nan:

- Ngươi cho thế nào là có nghe, thế nào là chẳng nghe?

A Nan và đại chúng đều bạch Phật rằng:

- Khi tiếng chuông đánh lên th́ chúng con được nghe. Khi tiếng chuông ngưng rồi, âm vang đều dứt th́ chẳng nghe.

Như Lai lại bảo La Hầu La đánh chuông, rồi hỏi A Nan:

- Nay có tiếng chăng?

A Nan và đại chúng đều đáp:

- Có tiếng.

Ít lâu tiếng ngưng, Phật lại hỏi:

- Nay có tiếng chăng?

A Nan và đại chúng đều đáp:

- Không tiếng.

Lát sau, La Hầu La lại đánh một tiếng chuông. Phật lại hỏi:

- Nay có tiếng chăng?

A Nan và đại chúng đều đáp:

- Có tiếng.

Phật hỏi A Nan:

- Ngươi cho thế nào là có tiếng, thế nào là chẳng có tiếng?

A Nan và đại chúng đều bạch Phật rằng:

- Khi tiếng chuông đánh lên th́ gọi là có tiếng, khi tiếng chuông ngưng rồi, âm vang đều dứt, th́ gọi là chẳng có tiếng.

Phật bảo A Nan và đại chúng:

- Lời nói các ngươi sao tự càn loạn với nhau!

Đại chúng và A Nan đồng thời bạch Phật:

- Sao gọi chúng con là càn loạn?

Phật nói:

- Ta hỏi về nghe th́ các ngươi nói nghe, ta hỏi về tiếng th́ ngươi nói tiếng, cái nghe và tiếng trả lời chẳng định như thế, không phải càn loạn là ǵ?

- A Nan! Tiếng dứt chẳng âm vang th́ ngươi nói là chẳng nghe, nếu thật chẳng nghe th́ tánh nghe phải diệt, đồng như cây khô, khi tiếng chuông lại đánh lên, th́ ngươi làm sao biết được? Biết có biết không ấy là thanh trần, hoặc có hoặc không đâu phải tánh nghe v́ ngươi mà thành có thành không? Nếu tánh nghe thật không th́ ai biết không nghe?

- A Nan! Thanh trần ở trong tánh nghe tự có sanh diệt, chẳng phải tánh nghe của ngươi theo thanh trần sanh diệt khiến tánh nghe thành có thành không. Ngươi c̣n điên đảo nhận lầm thanh trần là tánh nghe, lạ ǵ chẳng mê muội cho Thường là Đoạn?

- Tóm lại, chẳng nên cho rằng ĺa các tướng động, tịnh, thông, nghẽn, nói chẳng có tánh nghe.

Như người đang ngủ mê trên giường, trong nhà có người giă gạo, người ấy trong chiêm bao nghe tiếng giă gạo, tưởng thành tiếng khác, hoặc cho là tiếng trống, hoặc cho là tiếng chuông, trong chiêm bao liền lấy làm lạ, sao tiếng chuông lại như tiếng cây đập vào đá, khi chợt tỉnh dậy nghe tiếng chày, bảo với người nhà rằng, trong lúc chiêm bao đă lầm tiếng chày cho là tiếng trống. A Nan, người đó trong chiêm bao đâu nhớ những sự động, tịnh, thông, nghẽn. Thân h́nh dù ngủ, nhưng tánh nghe chẳng mất, vậy dẫu cho h́nh tướng tiêu tan, thân mạng dời đổi, làm sao tánh nghe này lại v́ ngươi mà tiêu diệt.

- Do các chúng sanh từ vô thỉ, nương theo sắc thanh, đuổi theo vọng niệm mà lưu chuyển, chưa từng khai ngộ bản tánh trong sạch thường trụ, chẳng theo tánh chơn thường, lại đuổi theo sanh diệt, do đó đời đời bị xoay vần trong ṿng tạp nhiễm.

- Nếu bỏ sanh diệt, giữ tánh chơn thường, th́ ánh sáng của Chơn Thường tự hiện, căn, trần, tâm thức, ngay đó liền tiêu; tướng vọng tưởng là trần, tánh phân biệt là cấu, cả hai đều xa ĺa, th́ pháp nhăn của ngươi liền được trong suốt, làm sao lại chẳng thành Vô Thượng Tri Giác?

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM

TK Thích Duy Lực

Dịch từ Hán sang Việt và lược giải

QUYỂN NĂM

A Nan bạch Phật rằng:

- Như Lai dù đă khai thị nghĩa thứ hai, nhưng con xét những người mở thắt kết, nếu chẳng biết cái gốc của thắt kết, th́ con tin chắc người ấy chẳng bao giờ mở được. Thế Tôn, con và hàng hữu học Thanh văn trong hội cũng như vậy; chúng con với vô minh cùng sanh cùng diệt từ vô thỉ, dù được thiện căn đa văn, mang tiếng là xuất gia, mà sự tu như người sốt rét cách nhật, lúc có lúc không.  Xin Phật từ bi thương xót kẻ ch́m đắm, khai thị thế nào là cái thắt kết của thân tâm hiện hữu này, làm sao được mở, cũng khiến chúng sanh khổ năo đời vị lai được ra khỏi luân hồi.   Nói xong, cùng đại chúng năm vóc gieo sát đất, cung kính rơi lệ, mong đợi lời khai thị vô thượng của Phật.

Bấy giờ, Thế Tôn thương xót A Nan và hàng hữu học trong hội, đồng thời làm nhân xuất thế gian, chỉ đường cho tất cả chúng sanh đời vị lai, lấy tay xoa đầu A Nan. Liền đó, sáu thứ rung động khắp mười phương thế giới, vô số Như Lai trong các cơi ấy, mỗi mỗi đều từ đỉnh đầu phóng ra hào quang, đồng thời chiếu đến rừng Kỳ Đà, rọi vào đỉnh đầu Như Lai, cả chúng đều được pháp chưa từng có.Lúc ấy, A Nan và đại chúng đều nghe mười phương Như Lai đồng thanh bảo A Nan rằng:

- Lành thay, A Nan! Ngươi muốn biết cái Câu Sinh Vô Minh (căn bản vô minh), là gốc thắt kết khiến ngươi lưu chuyển trong ṿng sanh tử ấy, chính là lục căn của ngươi chứ chẳng phải vật khác; ngươi lại muốn biết đạo Vô Thượng Bồ Đề khiến ngươi mau chứng quả tự tại giải thoát, tịch lặng thường trụ ấy, cũng chính là lục căn của ngươi chứ chẳng phải vật khác.

A Nan dù được nghe pháp âm như vậy, tâm c̣n chưa rơ, cúi đầu bạch Phật:

- Tại sao khiến con bị sanh tử luân hồi và được tự tại giải thoát, đều là lục căn, chẳng phải vật khác?

Phật bảo A Nan:

- Căn trần cùng gốc, thắt mở chẳng hai, tánh thức hư vọng như hoa đốm trên không. A Nan, do trần phát tri, v́ căn kiến tướng; kiến và tướng chẳng có tự tánh, như những cây sậy gác vào nhau, cho nên ngươi nay lập tri kiến thành tri, tức là căn bản của vô minh, nếu đối với tri kiến chẳng chấp là tri kiến, ấy tức là Niết Bàn, trong sạch vô lậu, làm sao trong đó c̣n có thể dung nạp vật khác.

Bấy giờ, Thế Tôn muốn lập lại nghĩa trên, bèn nói kệ rằng:

Chơn tánh hữu vi không

Duyên sanh cố như huyễn

Vô vi vô khởi diệt,

Bất thật như không hoa

Ngôn vọng hiện chư chơn,

Vọng chơn đồng nhị vọng,

Do phi chơn phi chơn,

Vân hà kiến sở kiến?

Trung gian vô thật tánh,

Thị cố nhược giao lô,

Kết giải đồng sở nhân,

Thánh phàm vô nhị lộ,

Nhữ quán giao trung tánh,

Không hữu nhị câu phi.

Mê hối tức vô minh,

Phát minh tiện giải thoát,

Giải kết nhân thứ đệ,

Lục giải nhất diệc vong,

Căn tuyển trạch viên thông,

Nhập lưu thành Chánh Giác,

Đà Na vi tế thức,

Tập khí thành bạo lưu.

Chơn phi chơn khủng mê,

Ngă thường bất khai diễn

Tự tâm thủ tự tâm,

Phi huyễn thành huyễn pháp

Bất thủ vô phi huyễn,

Phi huyễn thượng bất sanh,

Huyễn pháp vân hà lập?

Thị danh Diệu Liên Hoa,

Kim Cang Vương Bửu Giác

Như huyễn Tam Ma Đề,

Đờn chỉ siêu vô học

Thử A Tỳ Đạt Ma,

Thập phương Bạt Già Phạn,

Nhất lộ Niết Bàn môn.

Dịch nghĩa:

Tánh hữu vi vốn không,

Duyên sanh nên như huyễn

Vô vi không sanh diệt,

Chẳng thật như hoa đốm,

Nói vọng để hiển chơn,

Vọng chơn là hai vọng

Phi chơn phi bất chơn

Làm sao kiến sở kiến?

Trong đó chẳng thật tánh,

Nên như sậy gác nhau.

Thắt, mở đồng một nhân,

Thánh phàm chẳng hai đường,

Ngươi xem tánh gác nhau,

Không, Hữu thảy đều sai.

Mê muội tức vô minh,

Phát minh liền giải thoát.

Mở, thắt theo thứ tự,

Lục mở nhất cũng tiêu

Chọn căn nào viên thông,

Nhập lưu thành Chánh Giác.

Đà Na (thức thứ tám) thức vi tế,

Tập khí như nước dốc.

Sợ chấp Chơn phi chơn,

Nên ta chẳng khai giảng

Tự tâm chấp tự tâm,

Phi huyễn thành pháp huyễn.

Chẳng chấp chẳng phi huyễn

Phi huyễn c̣n chẳng sanh,

Pháp huyễn làm sao lập?

Đây gọi Diệu Liên Hoa

Bửu giác như Kim Cang

Tu theo Tam Ma Đề,

Búng tay siêu vô học

Pháp này chẳng ǵ bằng,

Mười phương chư Như Lai,

Chỉ một cửa Niết Bàn.

LƯỢC GIẢI

Trước kia, A Nan hỏi Phật những phương tiện đầu tiên về ba thứ Thiền Quán: Sa Ma Tha, Tam Ma và Thiền Na, mà mười phương Như Lai đồng thanh đáp lại A Nan rằng: “Ngươi muốn biết cái Câu Sinh Vô Minh, là gốc thắt kết khiến ngươi lưu chuyển trong ṿng sanh tử ấy, chính là lục căn của ngươi chứ chẳng phải vật khác; ngươi lại muốn biết Đạo Vô Thượng Bồ Đề, khiến ngươi mau chứng quả tự tại giải thoát, tịch lặng thường trụ ấy, cũng chính là lục căn của ngươi, chứ chẳng phải vật khác”.

Cũng như lời thí dụ băng nước kể trên, nước đóng th́ thành băng, đâu thể cho lộn vật khác mà thành băng; băng tan th́ thành nước, đâu thể cho lộn vật khác mà thành nước.

Lục căn làm mai mối cho giặc, tự cướp của báu trong nhà, ấy là lục căn; lục mở nhất tiêu, mau chứng Chánh Giác, cũng là lục căn. Vậy tức vọng tức chơn, tức chơn tức vọng, chỗ này cần phải có diệu ngộ mới được, chữ Diệu này lời nói chẳng thể diễn tả, ắt phải chuyển thức thành trí, khế hợp với Diệu Tâm sáng tỏ, mới có thể nói là Vô Thượng Bồ Đề.

Bửu Giác như Kim Cang: tánh Kim Cang hay phá hủy tất cả, Thập Địa đều gọi là Tâm Kim Cang, như phá hủy sơ địa lên nhị địa, phá hủy nhị địa lên tam địa v.v... Nếu Bửu Giác này được hiện ra, chẳng những căn bản vô minh liền tiêu, cả Tri kiến Bồ Tát và Tri Kiến Phật cũng không c̣n. Ba thứ Thiền quán Sa Ma Tha, Tam Ma và Thiền Na chỉ cần tự ngộ, hễ ngộ th́ liền đến địa vị Phật, nên trong búng ngón tay siêu việt bậc vô học của nhị thừa. Bậc vô học v́ c̣n chấp vô kiến, tức c̣n lọt vào công dụng, đây chơn tánh hiện tiền, hữu vô đều ĺa, một cửa sâu vào, chẳng phải nhờ công dụng, nên gọi là cửa Đốn Ngộ vậy. (chẳng nhờ công dụng là chẳng phải chẳng cần công phu).

*****

A Nan và đại chúng nghe lời dạy vô thượng và bài tụng tinh túy, diệu lư trong suốt của Phật, tâm được sáng tỏ, tán thán pháp chưa từng có. A Nan chắp tay đảnh lễ bạch Phật:

- Nay con dù nghe pháp tánh chơn thật, vi diệu trong sạch của Phật, nhưng tâm c̣n chưa thấu nghĩa “lục mở nhất tiêu” theo thứ tự của mở thắt, xin Phật rủ ḷng từ bi, thương xót cả hội này và chúng sanh đời vị lai, bố thí pháp âm và rửa sạch trần cấu cho chúng con.

Tức thời, Như Lai từ nơi ṭa sư tử, chỉnh áo trong và sửa đại y, dựa vào ghế thất bảo, lấy cái khăn bông của cơi Trời Dạ Ma cúng dường ở trước mặt đại chúng thắt một cái kết, rồi hỏi A Nan:

- Đây gọi là ǵ?

A Nan và đại chúng đều đáp:

- Gọi là thắt kết.

Như Lai thắt thêm một kết nữa, lại hỏi A Nan:

- Đây gọi là ǵ?

A Nan và đại chúng lại đáp:

- Đây cũng gọi là thắt kết.

Phật tuần tự thắt sáu cái kết trên khăn, mỗi khi thắt xong một cái, đều lấy cái kết vừa thắt hỏi:

- A Nan, Đây gọi là ǵ?

A Nan và đại chúng cũng tuần tự đáp lại Phật:

- Đây gọi là thắt kết.

Phật bảo A nan:

- Khi ta mới thắt cái khăn th́ ngươi gọi là thắt kết, khăn bông này vốn chỉ có một, tại sao lần thứ hai, lần thứ ba các ngươi cũng gọi là thắt kết?

A Nan bạch Phật:

- Khăn này dù chỉ có một theo con nghĩ: Như Lai thắt một lần th́ được gọi là một cái kết, nếu thắt đến trăm lần th́ phải gọi là trăm cái kết, huống là khăn này chỉ có sáu kết, không lên đến bảy, cũng không ngưng ở năm, tại sao Như Lai chỉ cho cái đầu tiên được gọi là thắt kết, c̣n cái thứ hai, thứ ba th́ chẳng gọi là thắt kết?

Phật bảo A Nan:

- Ngươi biết khăn bông này vốn chỉ là một, khi ta thắt sáu lần th́ gọi là sáu kết. Ngươi hăy xét kỹ, bản thể của khăn là đồng, do thắt kết mà thành khác. Ư ngươi thế nào? Cái thắt kết đầu tiên th́ gọi là kết thứ nhất, như vậy cho đến cái kết thứ sáu, nay ta muốn gọi cái kết thứ sáu thành kết thứ nhất, có được chăng?

- Bạch Thế Tôn! Sáu kết nếu c̣n th́ cái thứ sáu chẳng thể gọi là cái thứ nhất, dẫu cho con dùng hết biện tài nhiều kiếp để sáng tỏ nghĩa lư, cũng chẳng thể khiến sáu thắt kết lộn tên được.

Phật nói:

- Đúng thế! Sáu kết chẳng đồng chỉ do một khăn tạo ra, nhưng muốn làm cho sáu kết đảo lộn tên gọi, th́ chẳng thể được. Lục căn của ngươi cũng vậy, trong rốt cuộc đồng, sanh rốt cuộc khác, ngươi ắt chê sự khác nhau của sáu kết, mà mong muốn thành đồng một, th́ phải làm sao mới được.

A Nan đáp:

- Thắt kết nếu c̣n th́ thị phi mống khởi, trong đó tự sanh phân biệt kết này chẳng phải kết kia, kết kia chẳng phải kết này. Nếu hôm nay Như Lai giải tỏa tất cả, thắt kết chẳng sanh nữa th́ không có bỉ thử, nhất c̣n chẳng có, làm sao thành lục?

Phật bảo:

- Cái nghĩa ”Lục mở nhất tiêu” cũng như thế, do tâm ngươi cuồng loạn từ vô thỉ, vọng sanh tri kiến, sanh măi không thôi, như con mắt ngó lâu mỏi mệt phát ra cảnh trần, th́ có hoa đốm lăng xăng vọng khởi nơi tánh trong lặng, các tướng thế gian như núi sông, đất đai, sanh tử, Niết Bàn v.v... tất cả đều là tướng hoa đốm điên đảo do mỏi mệt mà phát sanh.

A Nan hỏi:

- Cái mỏi mệt này cũng như cái thắt kết kia, làm sao mở được?

Như Lai lấy tay cầm khăn đă thắt, kéo riêng mối bên trái, rồi hỏi A Nan:

- Thế này có mở được chăng?

- Bạch Thế Tôn! Không ạ. Phật lại lấy tay kéo riêng mối bên phải, hỏi A Nan:

- Thế này có mở được chăng?

- Bạch Thế Tôn! Không ạ.

Phật bảo A Nan:

- Nay ta lấy tay kéo mối hai bên mà chẳng mở được, vậy ngươi có cách nào để mở chăng?

- Bạch Thế Tôn! Nên mở nơi trung tâm thắt kết th́ tan ră ngay.

Phật nói:

- Đúng thế! Đúng thế! Muốn giải tỏa thắt kết th́ phải mở nơi trung tâm thắt kết. A Nan, ta thuyết pháp từ nhân duyên ra, chẳng phải lấy tướng thô ḥa hợp của thế gian. Như Lai phát minh pháp thế gian và xuất thế gian, đều biết rơ bản nhân của nó theo sở duyên ǵ mà ra; cho đến quá tŕnh dời đổi của một giọt mưa ở ngoài hằng sa thế giới, trước mắt các thứ ṭng thẳng, gai cong, c̣ trắng, quạ đen v.v.. đều rơ nguyên do. A Nan! Nay tùy ngươi lựa chọn một căn nơi Lục căn, nếu giải tỏa được gốc căn th́ tướng trần tự diệt, vọng tưởng liền tiêu, vậy chẳng phải chơn là ǵ?

- A Nan! Ta lại hỏi ngươi: Cái khăn sáu kết này nếu cùng một lượt mở ra, có được chăng?

- Bạch Thế Tôn! Không ạ! Kết này khi thắt có thứ tự, nay mở cũng phải theo thứ tự. Sáu kết dù đồng thể, nhưng thắt chẳng cùng thời, th́ làm sao có thể mở cùng một lượt?

Phật nói:

- Giải tỏa lục căn cũng như vậy, căn này vừa bắt đầu giải tỏa th́ được Nhân Ngă Không, nếu tánh Không sáng tỏ, th́ Pháp Ngă giải thoát, thành tựu pháp giải thoát xong, cả hai thứ Không đều chẳng sanh, ấy gọi là từ Tam Ma Địa, chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn của Bồ Tát.

A Nan và đại chúng nghe Phật khai thị huệ giác viên thông, chẳng c̣n nghi hoặc, bèn chắp tay đảnh lễ, bạch Phật rằng:

- Nay chúng con thân tâm rơ ràng vô ngại, dù đă ngộ cái nghĩa “nhất lục đều tiêu”, nhưng c̣n chưa thấu đạt nguồn gốc của viên thông. Thế Tôn, chúng con bị trôi lăn lẻ loi từ nhiều kiếp, ngờ đâu lại được làm con của Phật, như đứa bé khát sữa bỗng được gặp mẹ, nếu nhân cơ hội này mà thành đạo, được mật ngôn của Phật, đồng với bổn ngộ của con, th́ mới tự rơ: nghe và chưa nghe chẳng có sai biệt. Xin Phật rủ ḷng từ bi ban cho bí nghiêm để con được thành tựu lời khai thị cuối cùng của Như Lai. Nói xong, năm vóc gieo sát đất, lui về chỗ ẩn mật, mong Phật âm thầm mật thọ.

LƯỢC GIẢI

Phật khai thị “Huệ giác viên thông” tức “Lục mở nhất tiêu” và đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn kể trên, do “Lục mở” nên thân được vô ngại; do “nhất tiêu” nên tâm được vô ngại, dù chưa đến nơi lục căn thanh tịnh, nhưng nhổ nhất th́ lục tiêu, lục tiêu th́ nhất diệt, đă rơ ràng chẳng c̣n nghi hoặc, nhưng A Nan c̣n chưa ngộ nguồn gốc của viên thông ở đâu; căn nào viên thông nhất; dựa theo căn nào sâu vào mới mau chứng được viên thông.

Sự dựa theo căn viên thông, chứng quả viên thông, nơi A Nan th́ do đó thành đạo, nơi Như Lai th́ là lời khai thị cuối cùng, nên A Nan mong Phật chẳng tiếc bí nghiêm (pháp vi diệu nhiệm mầu), mà âm thầm mật thọ. Nếu nói về căn viên thông th́ có thể hiển bày, so sánh căn nào viên thông nhất để dựa theo đó vào Tam Ma Địa c̣n có thể được; nếu muốn ngay đó chứng ngộ th́ phải mỗi mỗi tự tu tự chứng, đâu thể nhờ lời nói mà đến được! Lời nói c̣n chẳng thể đến th́ làm sao có thể mật thọ?

Nhưng theo ư của A Nan, mong Phật mật thọ, tức là Phật chẳng dùng lời nói để nói, gọi là mật ngôn; A Nan chẳng dùng cái nghe để nghe, gọi là bổn ngộ, nên nói “được mật ngôn của Phật, tức đồng bổn ngộ của con”, có nghe đồng như chưa nghe, thường nghe khi chưa nghe, gọi là chơn nghe, nên lui về chỗ ẩn mật mà mong cầu mật thọ.

Giả sử Phật có thể truyền thọ, A Nan có thể đắc được, th́ chẳng phải là bí mật rồi, nếu do đó mà được chứng viên thông th́ chẳng phải viên thông rồi. Sự chứng ngộ phải do tự ngộ, đâu thể do người khác ban cho mà được!

*****

Lúc bấy giờ, Thế Tôn bảo khắp chư Đại Bồ Tát và hàng vô lậu Đại A La Hán trong chúng rằng:

- Các ngươi là hàng Bồ Tát và A La Hán trong pháp ta, đă chứng quả vô học, nay ta hỏi các ngươi: trong lúc mới phát tâm, nơi thập bát giới, ở giới nào mà ngộ được viên thông, và do phương tiện ǵ được vào Tam Ma Địa.

Kiều Trần Na trong nhóm năm vị Tỳ Kheo, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật mà bạch rằng:

- Con ở Lộc Uyển và Kê Viên được lời dạy của Phật khi mới thành đạo, do âm thanh Phật ngộ Tứ Thánh Đế. Khi đó, Phật hỏi các Tỳ Kheo, con là người ngộ giải trước tiên, Như Lai ấn chứng cho con tên là A Nhă Đa (ngộ giải), được diệu âm mật viên. Con do âm thanh mà đắc quả A La Hán, Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, th́ Âm Thanh là hơn cả.

Ưu Ba Ni Sa Đà liền đứng dậy, đảnh lễ bạch Phật:

- Con cũng được lời dạy của Phật khi mới thành đạo, con quán tướng bất tịnh, sanh ḷng nhàm chán, ngộ các tánh sắc đều là bất tịnh như xác chết, xương cốt thúi mục hóa ra vi trần, rồi cuối cùng trở thành hư không. Sắc và Không cả hai vốn chẳng có nên thành đạo vô học. Như Lai ấn chứng cho con tên là Ni Sa Đà (tánh không), tướng trần đă sạch, th́ diệu sắc mật viên. Con do sắc tướng mà đắc quả A La Hán, Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con th́ Sắc Tướng là hơn cả.

Hương Nghiêm Đồng Tử liền đứng dậy đảnh lễ bạch Phật:

- Con nghe Như Lai dạy quán các tướng hữu vi, khi về trai đường tĩnh tọa, đang lúc thiền quán, thấy các Tỳ Kheo đốt hương trầm thủy, mùi hương lặng lẽ bay vào lỗ mũi. Con quán mùi hương này phi gỗ phi không, phi khói phi lửa, chẳng từ đâu đến, chẳng đi về đâu, do đó, ư căn tiêu diệt, phát minh vô lậu, Như Lai ấn chứng cho con hiệu là Hương Nghiêm, hương trần đă diệt th́ diệu hương mật viên. Con do hương nghiêm đắc quả A La Hán, Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, th́ Hương Trần là hơn cả. 

Hai vị Pháp Vương Tử Dược Vương và Dược Thượng, cùng với năm trăm Phạn Thiên trong hội, liền đứng dậy đảnh lễ bạch Phật:

- Chúng con làm lương y nơi thế gian nhiều kiếp từ vô thỉ, trong miệng từng nếm những cỏ cây, kim thạch trong cơi Ta Bà này, đến mười vạn tám ngàn thứ, nên biết hết các vị đắng, chua, mặn, lạt, ngọt, cay v.v... và sự biến đổi của các vật ḥa hợp hay tự sanh, là tánh thuốc nóng hay mát, có độc hay chẳng độc, thảy đều biết cả.

- Từ khi phụng sự Như Lai, rơ biết tánh vị phi không phi hữu, phi tức thân tâm, phi ĺa thân tâm, do phân biệt bản nhân của vị trần mà khai ngộ, được Phật ấn chứng cho anh em chúng con cái danh hiệu Dược Vương và Dược Thượng Bồ Tát; nay ở trong hội này, làm Pháp Vương Tử. Chúng con do vị trần mà giác ngộ, lên bậc Bồ Tát, Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của chúng con, th́ Vị Trần là hơn cả.

Bạt Đà Bà La cùng các bạn mười sáu Đại Sĩ liền đứng dậy đảnh lễ bạch Phật:

- Chúng con trước kia ở nơi Phật Oai Âm Vương nghe pháp rồi xuất gia, đến giờ tắm, chúng con theo lệ vào pḥng tắm, bỗng ngộ tánh nước đă chẳng rửa bụi, cũng chẳng rửa thân, khoảng giữa an nhiên, vốn vô sở đắc. Cho đến hôm nay theo Phật xuất gia, v́ sự huân tập từ xưa chẳng quên, khiến đắc quả vô học, Như Lai đặt tên con là Bạt Đà Bà La (hiền hộ) do phát minh diệu xúc, thành Pháp Vương Tử, Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con th́ Xúc Trần là hơn cả.

Ma Ha Ca Diếp và Tử Kim Quang Tỳ Kheo Ni liền đứng dậy đảnh lễ bạch Phật:

- Kiếp xưa, trong cơi này có Phật Nhật Nguyệt Đăng ra đời, con được thân cận nghe pháp tu học, sau khi Phật diệt độ, con thắp đèn liên tục cúng dường Xá Lợi, lại lấy vàng Tử Kim Quang tô thếp h́nh tượng Phật. Từ đó đến nay, đời đời kiếp kiếp, thân thể thường viên măn sáng ngời như vàng Tử Kim Quang. Tử Kim Quang Tỳ Kheo Ni này, tức quyến thuộc cùng phát tâm khi xưa của con.

- Con quán thế gian, lục trần đều biến hoại, chỉ y theo Pháp Không Tịch, tu Diệt Tận Định, th́ thân tâm mới có thể trải qua trăm ngàn kiếp như búng ngón tay. Con do quán Pháp Không, đắc quả A La Hán. Thế Tôn khen con tu hạnh đầu đà bậc nhất, diệu pháp sáng tỏ, tiêu diệt phiền năo, Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, th́ Pháp Trần là hơn cả.

A Na Luật Đà liền đứng dậy đảnh lễ bạch Phật:

- Lúc con mới xuất gia, thường ham nằm ngủ. Như Lai quở con là loài súc sinh, nghe lời Phật quở, con khóc lóc tự trách, suốt bảy ngày không ngủ, hư cả hai con mắt. Thế Tôn dạy con tu pháp “Lạc Kiến Chiếu Minh Kim Cang Tam Muội” chẳng nhờ con mắt, xem thấy mười phương rỗng suốt như trái cây trong bàn tay; Như Lai ấn chứng cho con đắc quả A La Hán. Phật hỏi về viên thông như chỗ chứng của con, th́ Xoay Cái Thấy Trở Về Bản Tánh là hơn cả.

Châu Lợi Bàn Đặc Ca liền đứng dậy đảnh lễ bạch Phật:

- Con kém trí nhớ, chẳng thể tụng tŕ, khi mới gặp Phật, nghe Pháp rồi xuất gia, con cố nhớ một câu kệ của Như Lai, trong một trăm ngày mà chẳng thuộc ḷng, hễ nhớ trước th́ quên sau, nhớ sau th́ quên trước, Phật thương xót con ngu muội, dạy con an cư, tu Sổ Tức Quán. Con quán hơi thở đến chỗ cùng tột, thấy các hành tướng vi tế dời đổi từng sát na nơi sanh, trụ, dị, diệt, tâm con bỗng ngộ, được đại vô ngại, cho đến phiền năo dứt sạch, đắc quả A La Hán, trước pháp tọa của Phật, được ấn chứng thành bậc vô học. Phật hỏi về viên thông như chỗ chứng của con, th́ Xoay Hơi Thở Trở Về Tánh Không là hơn cả.

Kiều Phạm Bạt Đề liền đứng dậy đảnh lễ bạch Phật:

- Con có khẩu nghiệp khinh rẻ Sa Môn trong kiếp quá khứ, nên đời đời mắc bệnh nhai như trâu, Như Lai dạy con pháp môn: “Nhất Vị Thanh Tịnh Tâm Địa”. Con quán tánh biết vị chẳng phải thân thể, chẳng phải ngoại vật, ngay đó được siêu thoát những tập khí thế gian, bên trong giải thoát thân tâm, bên ngoài ĺa bỏ thế giới, xa ĺa tam giới như chim sổ lồng, ĺa cấu tiêu trần, pháp nhăn thanh tịnh, đắc quả A La Hán. Như Lai ấn chứng cho con lên bậc vô học. Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, th́ Xoay Cái Biết Vị Trở Về Tự Tánh là hơn cả.

Tất Lăng Già Bà Ta liền đứng dậy, đảnh lễ bạch Phật:

- Khi con mới phát tâm theo Phật, thường nghe Như Lai dạy về những việc chẳng vui trong thế gian. Lúc đi khất thực trong thành, đang suy nghĩ pháp môn, bất giác bị gai góc đâm vào chân, cả thân đau đớn con nghĩ: Có cái năng biết mới biết sự đau đớn này; dù biết đau đớn, nhưng bản giác trong sạch, vốn chẳng có năng đau và sở đau. Con lại suy nghĩ: Một thân đâu thể có hai giác?  (năng giác và sở giác). Nhiếp niệm chưa bao lâu, thân tâm bỗng thành không tịch, trong 21 ngày, các tập khí phiền năo đều dứt sạch, đắc quả A La Hán. Như Lai ấn chứng cho con lên bậc vô học.  Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, th́ Quên Thân Thuần Giác là hơn cả.

Tu Bồ Đề liền đứng dậy đảnh lễ bạch Phật:

- Con từ nhiều kiếp đến nay, tâm được vô ngại, tự nhớ thọ sanh nhiều đời như hằng sa; lúc c̣n trong thai đă biết tánh Không Tịch, cũng khiến chúng sanh chứng được tánh Không, như thế cho đến mười phương đều thành tánh Không. Nhờ Như Lai phát minh Giác Tánh Chơn Không, nên tánh Không được sáng tỏ, đắc quả A La Hán, đốn nhập Tánh Không sáng tỏ của Biển Giác, đồng Tri Kiến Phật, được ấn chứng thành bậc vô học, về giải thoát tánh Không, con là bậc nhất, Phật hỏi về viên thông như chỗ chứng của con th́ chư tướng phi tướng, cả năng phi và sở phi đều sạch, xoay Pháp Về Tánh Không là hơn cả.

Xá Lợi Phất liền đứng dậy, đảnh lễ bạch Phật:

- Con từ nhiều kiếp đến nay, Tánh Kiến của bản tâm trong sạch, thọ sanh nhiều đời như hằng sa, đối với các pháp biến hóa của thế gian và xuất thế gian, hễ thấy liền thông suốt, được chẳng ngăn ngại. Con ở giữa đường gặp anh em Ca Diếp Ba thuyết nghĩa nhân duyên, ngộ tâm chẳng bờ bến. Con theo Phật xuất gia, giác ngộ Tánh Kiến sáng tỏ, được đại vô úy, đắc quả A La Hán, do pháp âm của Như Lai hóa sanh, làm trưởng tử của Phật. Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, th́ Tánh Kiến Của Bản Tâm Sáng Tỏ, Sự Sáng Tỏ Đến Chỗ Cùng Cực, Đồng Tri Kiến Phật là hơn cả.

Phổ Hiền Bồ Tát liền đứng dậy đảnh lễ bạch Phật:

- Con đă từng làm Pháp Vương Tử cho hằng sa Như Lai, mười phương Như Lai dạy những đệ tử có căn cơ Bồ Tát, tu hạnh Phổ Hiền, hạnh đó theo con mà lập tên. Thế Tôn, con dùng Tánh Văn của bản tâm, phân biệt tất cả tri kiến của chúng sanh. Nếu ở phương khác, ngoài hằng sa thế giới, mỗi thế giới đều có chúng sanh phát tâm theo hạnh Phổ Hiền, th́ liền trong lúc đó con cỡi voi sáu ngà, phân thân thành trăm ngàn, đồng thời đến mọi nơi, dẫu cho họ nghiệp chướng c̣n sâu, chưa thấy được con, con cũng thầm xoa đầu họ, ủng hộ an ủi, khiến cho họ được thành tựu hạnh nguyện. Phật hỏi về viên thông, nơi bản nhân của con th́ Tánh Văn của Bản Tâm Sáng Tỏ, Phân Biệt Tự Tại là hơn cả.

Tôn Đà La Nan Đà liền đứng dậy, đảnh lễ bạch Phật:

- Lúc con mới theo Phật xuất gia, dù giữ đủ giới luật, nhưng với pháp Tam Ma Địa, tâm thường tán loạn, chưa được vô lậu. Thế Tôn dạy con và Câu Si La quán nơi chót mũi, lúc con mới bắt đầu tu quán này, trải qua 21 ngày, thấy hơi thở ra vào như khói, thân tâm sáng tỏ, chiếu khắp thế giới thành rỗng không, trong sạch như lưu ly; tướng khói dần dần tiêu tan, hơi thở hóa thành màu trắng, tâm được khai ngộ, tập khí dứt sạch, những hơi thở ra vào hóa thành ánh sáng chiếu khắp mười phương thế giới, đắc quả A La Hán. Thế Tôn thọ kư cho con sẽ được Bồ Đề. Phật hỏi về viên thông, con do Quán Sổ Tức, Tiêu Diệt Hơi Thở, Quán Lâu Phát Minh Sáng Tỏ, Dứt Sạch Phiền Năo là hơn cả.

Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử liền đứng dậy, đảnh lễ bạch Phật:

- Con từ nhiều kiếp đến nay, được biện tài vô ngại, thuyết pháp Khổ Không, thông đạt thật tướng, như thế cho đến pháp môn bí mật của hằng sa Như Lai, đều vi diệu khai thị cho chúng sanh được sức vô úy. Thế Tôn biết con có biện tài lớn, dạy con dùng âm thanh giúp Phật chuyển pháp luân, hoằng dương Chánh Pháp. Con do thuyết pháp, đắc quả A La Hán. Thế Tôn ấn chứng cho con thuyết pháp bậc nhất. Phật hỏi về viên thông, con do Pháp Âm Hàng Phục Tà Ma Ngoại Đạo, Tiêu Diệt Tập Khí Phiền Năo là hơn cả.

Ưu Ba Ly liền đứng dậy, đảnh lễ bạch Phật:

- Con theo Phật, vượt thành xuất gia. Như Lai sáu năm khổ hạnh, hàng phục tà ma, chế phục ngoại đạo, giải thoát tham dục phiền năo của thế gian, tất cả con đều đích thân được thấy. Phật dạy con tŕ giới, cho đến ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh, các Tánh Nghiệp và Giá Nghiệp thảy đều trong sạch, thân tâm tịch diệt, đắc quả A La Hán. Con là người điều hành kỷ luật trong chúng. Thế Tôn ấn chứng cho con tu thân tŕ giới bậc nhất. Phật hỏi về viên thông, con do Tŕ Thân, Th́ Thân Được Tự Tại, Lần Đến Tŕ Tâm, Tâm Được Thông Suốt, Rồi Cả Thân Tâm Đều Thông Triệt là hơn cả.

Đại Mục Kiền Liên liền đứng dậy, đảnh lễ bạch Phật:

- Trước kia con khất thực giữa đường, gặp ba anh em Ca Diếp Ba là: Ưu Lâu Tần Loa, Già Gia, và Na Đề, giảng về nghĩa nhân duyên thâm sâu của Như Lai, con liền phát tâm, được đại thông đạt. Như Lai ban cho con áo cà sa đắp trên ḿnh, râu tóc tự rụng, con đi khắp mười phương được chẳng ngăn ngại, phát ra thần thông là bậc nhất, đắc quả A La Hán. Chẳng những Thế Tôn, cả mười phương Như Lai đều khen thần lực con sáng tỏ trong sạch, tự tại vô úy. Phật hỏi về viên thông, con do xoay Ư Thức Lăng Xăng, Trở Về Tịch Lặng, Nên Diệu Tâm Sáng Tỏ, như lắng nước đục lâu thành trong sáng là hơn cả.

Ô Xô Sắt Ma chắp tay đảnh lễ bạch Phật:

- Con thường nhớ những kiếp xưa, tánh hay tham dục. Lúc ấy có Phật Không Vương ra đời, nói người đa dâm như đống lửa hồng, dạy con quán khắp hơi lạnh và nóng trong cơ thể, ánh sáng tự tánh lặng đứng nơi trong, hóa tâm đa dâm thành lửa trí huệ, từ đó chư Phật đều gọi con là Hỏa Đầu. Con nhờ sức ”Hỏa Quang Tam Muội”, đắc quả A La Hán; trong tâm phát đại nguyện, chư Phật thành đạo, con sẽ làm lực sĩ, uốn dẹp bọn tà ma. Phật hỏi về viên thông, con do Quán Hơi Ấm Nơi Thân Tâm Lưu Thông Chẳng Ngại, Phiền Năo Dứt Sạch, Sanh Lửa Trí Huệ, Chứng Vô Thượng Giác là hơn cả.

Tŕ Địa Bồ Tát liền đứng dậy, đảnh lễ bạch Phật:

- Con nhớ kiếp xưa, khi Phật Phổ Quang ra đời, con làm Tỳ Kheo, thường hay sửa sang những đoạn đường, bến nước, nơi gập ghềnh, lồi lơm làm cản trở xe cộ, hoặc làm cầu cống, hoặc gánh đất cát, siêng năng chịu cực, trải qua nhiều đời Phật. Hoặc có chúng sanh ở nơi chợ búa cần người mang đồ, con liền mang giúp đến nơi đến chốn mà chẳng lấy tiền.

- Khi Phật Tỳ Xá Phù ra đời, nhằm lúc đói kém, con cơng giúp người, chẳng kể xa gần, chỉ lấy một xu; hoặc có xe trâu bị sa xuống bùn lầy, con dùng thần lực xô kéo, khiến ra khỏi khổ năo.  Thuở đó, vua thiết trai cúng dường Phật, con bèn sửa đường, chờ Phật đi qua, Tỳ Xá Như Lai xoa đỉnh đầu con và bảo rằng: “Nên b́nh tam địa, th́ tất cả địa trên thế giới đều b́nh”. Con liền khai ngộ, thấu vi trần của thân thể với tất cả vi trần tạo thành thế giới đều chẳng sai biệt; vi trần tự tánh không, nên mỗi mỗi chẳng đụng chạm nhau, cho đến binh lính giao chiến cũng chẳng đụng chạm. Con do pháp tánh ngộ Vô Sanh Nhẫn, đắc quả A La Hán, hồi tâm hướng Đại Thừa, vào ngôi vị Bồ Tát, nghe chư Phật khai diễn Diệu Pháp Liên Hoa, nhập Tri Kiến Phật, con được chứng minh là bậc thượng thủ. Phật hỏi về viên thông, con do Quán Thân Thể Và Thế Giới Hai Thứ Vi Trần Chẳng Sai Biệt, Vốn Là Như Lai Tạng, Do Hư Vọng Phát Ra Cảnh Trần; Trần Tiêu th́ Trí Hiện, Thành Vô Thượng Đạo là hơn cả.

Nguyệt Quang Đồng Tử liền đứng dậy, đảnh lễ bạch Phật:

- Con nhớ hằng sa kiếp trước, có Phật Thủy Thiên ra đời, dạy chư Bồ Tát tu tập Thủy Quán, vào Tam Ma Địa. Con quán tánh thủy trong thân từ nước mũi, nước bọt, cho đến các thứ dịch vị, tinh huyết, đại tiểu tiện, lưu chuyển trong thân, đều đồng một tánh thủy, thấy nước trong thân cùng nước các bể Hương Thủy của Liên Hoa Tạng Thế Giới đều chẳng khác.

- Khi con mới tu thành quán này, tuy được thấy nước, chưa được quên thân. Lúc ấy, con là Tỳ Kheo tọa thiền trong pḥng, đệ tử con từ cửa sổ nh́n vào, thấy nước trong đầy khắp pḥng, nó nhỏ dại không biết, liền lấy một miểng ngói ném vào nước phát ra tiếng, thích thú bỏ đi, khi con xuất định, liền thấy đau tim như Xá Lợi Phất bị quỷ Vi Hại đập. Con tự nghĩ: Nay con đă đắc quả A La Hán, ĺa khỏi bệnh duyên đă lâu, sao bỗng bị đau tim, chẳng lẽ đă bị lui sụt chăng? Lúc bấy giờ, đệ tử đến kể lại việc trên, con mới bảo nó sau này nếu lại thấy nước th́ nên mở cửa, vào lấy miểng ngói ra. Đệ tử vâng lời, khi con nhập định, nó lại thấy nước với miểng ngói rơ ràng, liền mở cửa lấy ra, sau đó con xuất định th́ thân thể lại được như cũ.

- Con trải qua nhiều đời, gặp vô số Phật, đến đời Sơn Hải Tự Tại Thông Vương Như Lai, th́ con mới được quên thân. Từ đó, cả thân đều hóa thành nước, cùng với nước các bể Hương Thủy nơi mười phương thế giới đồng một tánh Chơn Không, chẳng hai chẳng khác; nay ở nơi Như Lai, được danh hiệu là Đồng Chơn, dự hội Bồ Tát.  Phật hỏi về viên thông, con do Quán Tánh Nước Một Mực Lưu Thông, Được Vô Sanh Nhẫn, Bồ Đề Viên Măn là hơn cả.

Lưu Ly Quang Pháp Vương Tử liền đứng dậy đảnh lễ bạch Phật:

- Con nhớ hằng sa kiếp trước, có Phật Vô Lượng Thanh ra đời, khai thị bản giác diệu minh cho hàng Bồ Tát, dạy quán thế giới và thân chúng sanh đều theo sức gió của vọng duyên xoay chuyển.

- Bấây giờ, con quán sự an lập của không gian, sự động chuyển của thời gian, hành động của thân thể, sự động tịnh của tâm niệm, những cái động ấy đều chẳng hai chẳng khác. Lúc đó, con liền giác ngộ tánh của những thứ động ấy, chẳng từ đâu đến, chẳng đi về đâu, mười phương vô số điên đảo chúng sanh đều đồng một hư vọng, như vậy cho đến tất cả chúng sanh trong một tam thiên đại thiên thế giới, giống như hàng trăm con muỗi đựng trong b́nh, vo ve kêu ầm, ở nơi nhỏ hẹp phát ra náo loạn. Con gặp Phật chưa bao lâu, được Vô Sanh Nhẫn, lúc bấy giờ khai ngộ, thấy cơi Phật Đông Phương Bất Động, làm Pháp Vương Tử, phụng sự mười phương Phật, thân tâm phát ra ánh sáng, thấu triệt chẳng ngại. Phật hỏi về viên thông, con do Quán Sức Gió Chẳng Nơi Nương Tựa, Ngộ Tâm Bồ Đề, Vào Tam Ma Địa, Khế Hợp Với Diệu Tâm Của Mười Phương Phật là hơn cả.

Hư Không Tạng Bồ Tát liền đứng dậy, đảnh lễ bạch Phật:

- Con cùng Như Lai chứng vô biên thân nơi Phật Định Quang. Lúc ấy, tay con cầm bốn hạt châu lớn, chiếu sáng mười phương vô số Phật Sát đều hóa thành hư không, lại ở nơi tự tâm hiện Đại Viên Cảnh, hào quang vi diệu, soi khắp Liên Hoa Tạng Thế Giới và tận mười phương hư không, đều vào trong Viên Cảnh, xen nhập thân con, như xen vào hư không, chẳng ngăn ngại nhau.  Thân con hay vào vô số quốc độ, tùy thuận đại thần lực, rộng làm Phật sự. Con quán tứ đại chẳng nơi nương tựa, vọng tưởng, sanh diệt, với hư không và cơi Phật vốn đồng, do phát minh tánh đồng, đắc Vô Sanh Nhẫn. Phật hỏi về viên thông, con do Quán Hư Không Vô Biên, Vào Tam Ma Địa, Diệu Lực sáng tỏ là hơn cả.

Di Lặc Bồ Tát liền đứng dậy, đảnh lễ bạch Phật:

- Con nhớ vô số kiếp trước, có Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh ra đời, con dù theo Phật xuất gia, c̣n ham danh dự thế gian, ưa giao du với các quư tộc. Lúc ấy, Thế Tôn dạy con tu tập Duy Tâm Thức Định, vào Tam Ma Địa. Từ nhiều kiếp đến nay, dùng Tam Muội này phụng sự hằng sa chư Phật, sự ham cầu danh dự đă dứt sạch. Đến đời Phật Nhiên Đăng, con mới được thành “Vô Thượng Diệu Viên Thức Tâm Tam Muội”, ngộ các pháp dơ, sạch, có, không, nơi tất cả cơi Phật, đều do tâm thức biến hiện.

- Thế Tôn! V́ con ngộ Duy Tâm thức như thế, nên từ tánh thức hiện ra vô số Như Lai, nay được thọ kư sẽ thừa kế ngôi Phật ở cơi này. Phật hỏi về viên thông, con do Quán Mười Phương Duy Thức, Tâm Thức Sáng tỏ, Chứng Nhập Viên-Thành-Thật, Xa Ĺa Tánh Y-Tha-Khởi Và Biến-Kế-Chấp, Đắc Vô Sanh Nhẫn là hơn cả.

LƯỢC GIẢI

Từ bắt đầu tu tập Duy Tâm Thức Định, đến khi thành “Vô Thượng Diệu Viên Thức Tâm Tam Muội”, tức là đă chuyển thức thành trí, nên nói vào Viên-Thành-Thật. Khi chưa chuyển thức, c̣n bị cảnh buộc, gọi là Biến-Kế-Chấp; phá được Biến-Kế-Chấp, c̣n bị pháp buộc, gọi là chấp Y-Tha-Khởi.

Ham danh dự thế gian, thích giao du với quư tộc, là cái tướng Biến-Kế-Chấp: sự ham cầu danh dự của thế gian đă dứt sạch, là cái tướng Chấp-Y-Tha-Khởi. Đến khi liễu ngộ tất cả duy tâm thức, nên thức tánh hiện ra vô số Như Lai, ấy là tướng Viên-Thành-Thật vậy.

Kinh Giải Thâm Mật có nói: Người mắt nhặm như Biến-Kế-Chấp, hiện màu xanh, vàng như Y-Tha-Khởi, con mắt trong sáng như Viên-Thành-Thật vậy.

*****

Đại Thế Chí Pháp Vương Tử cùng với 52 vị Bồ Tát đồng tu, liền đứng dậy, đảnh lễ bạch Phật:

- Con nhớ hằng sa kiếp trước, có Phật Vô Lượng Quang ra đời, thuở đó, mười hai vị Như Lai kế nhau thành Phật trong một kiếp. Vị Phật sau cùng hiệu là Siêu Nhựt Nguyệt Quang, dạy con tu  “Niệm Phật Tam Muội”, ví như có người th́ chuyên nhớ, người th́ chuyên quên, nếu hai người ấy nhớ nhau, không kể gặp hay chẳng gặp, thấy mặt hay chẳng thấy; cứ nhớ măi sâu vào tâm niệm, cho đến đời này, đời khác, th́ như h́nh với bóng, chẳng cách xa nhau.

- Mười phương Như Lai tưởng nhớ chúng sanh như mẹ nhớ con, nếu con trốn tránh th́ dù nhớ cũng chẳng làm ǵ được; nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ con, th́ đời đời mẹ con chẳng xa cách. Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật, niệm Phật, th́ hiện nay hay về sau nhất định thấy Phật, cách Phật không xa, chẳng nhờ phương tiện, tâm tự khai ngộ, như người ướp hương th́ thân có mùi thơm, ấy gọi là Hương Quang Trang Nghiêm. Bản nhân của con là dùng tâm niệm Phật, đắc vô sanh nhẫn, nay ở cơi này tiếp dẫn người niệm Phật về cơi Tịnh Độ. Phật hỏi con về viên thông, con do Nhiếp Cả Lục Căn, Tịnh Niệm Tương Tục Vào Tam Ma Địa là hơn cả.LƯỢC GIẢI

Người niệm Phật chẳng có một sát na niệm ngũ dục của thế gian, mới được gọi là tịnh niệm (tâm niệm trong sạch). Tịnh niệm tương tục như con nhớ mẹ, là miệng niệm tâm nhớ, oai nghi nghiêm chỉnh, nhiếp cả lục căn, là nhăn chẳng thấy tướng xấu đẹp, nhĩ chẳng nghe tiếng khen chê, tỷ chẳng ngửi mùi thơm thối, thiệt chẳng nếm vị ngon dở, thân chẳng tiếp xúc lạnh, ấm, ư chẳng phân biệt buồn vui, ấy mới được gọi là nhiếp cả lục căn, cho đến nhất tâm bất loạn, như thế trong Tam Ma Địa, ắt phải thấy Phật.

Nói chẳng nhờ tu tập, tự được khai ngộ, như người ướp hương, chẳng mong mùi hương mà tự có mùi hương, ấy là nguyện lực bất khả tư ngh́ của Phật Di Đà. Dù nói nhờ nguyện lực của Phật Di Đà, nhưng cần phải có đại nguyện của chính ḿnh để tương ưng với đại nguyện của Phật th́ mới được thành tựu.

Đại nguyện nếu chỉ dùng tâm nghĩ miệng nói ấy là nguyện suông, cần phải thực hành đúng theo đại nguyện của chính ḿnh phát ra, mới là nguyện chơn thật, và mới có thể tương ưng với đại nguyện của Phật

----------------

 

 Arrow-U-30x60.jpg   Arrow-R-30x60.jpg

 

HOME | 中文主頁 | 經典 | ENGLISH | SUTRA | CHỬ VIỆT | KINH ĐIỂN | GALLERY | CONTACTS ] 

 

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0