佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

Số 1488

Ưu Bà Tắc Giới Kinh

(Tại Gia Bồ Tát Giới Kinh)

優婆塞戒經

Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm dịch Phạn Hán

Thích Tịnh Nghiêm dịch Hán Việt

-o0o-

PHẦN 1

Giới Thiệu Kinh Ưu Bà Tắc Giới

Phẩm Một:Tập Hội

Phẩm Hai: Phát Tâm Bồ Đề

Phẩm Ba:Tâm Đại Bi

Phẩm Bốn: Giải Thoát

Phẩm Năm: Ba Loại Bồ Đề

Phẩm Sáu:Tu Tập Nghiệp Ba Mươi Hai Tướng

Phẩm Bảy: Phát Nguyện

Phẩm Tám: Bồ Tát Giả Danh Bồ Tát Thực Nghĩa

Phẩm Chín: Tâm Kiên Cố Của Bồ Tát Thực Nghĩa

Phẩm Mười: Lợi Ḿnh Lợi Người

Phẩm Mười Một: Trang Nghiêm Ḿnh và Người

Phẩm Mười Hai: Trang Nghiêm Phước Đức Trí Tuệ

Phẩm Mười Ba: Thâu Phục Đệ Tử

Phẩm Mười Bốn: Thọ Giới

PHẦN 2

Phẩm Mười Lăm: Tịnh Giới

Phẩm Mười Sáu: Trừ Ác

Phẩm Mười Bảy: Cúng Dường Tam Bảo

Phẩm Mười Tám: Sáu Ba La Mật

Phẩm Mười Chín: Bố Thí Ba La Mật

Phẩm Hai Mươi: Thanh Tịnh Tam Quy Y

Phẩm Hai Mươi Mốt: Bát Quan Trai Giới

Phẩm Hai Mươi Hai: Ngũ Giới

Phẩm Hai Mươi Ba: Thi La Ba La Mật

Phẩm Hai Mươi Bốn: Nghiệp

Phẩm Hai Mươi Lăm: Nhẫn Nhục Ba La Mật

Phẩm Hai Mươi Sáu: Tinh Tiến Ba La Mật

Phẩm Hai Mươi Bảy: Thiền Ba La Mật

Phẩm Hai Mươi Tám: Bát Nhă Ba La Mật

 

PHẦN 1

Giới Thiệu Kinh Ưu Bà Tắc Giới

Trong lịch sử truyền giáo của Ấn Độ và Trung Hoa, vai trò của người cư sĩ luôn luôn ở địa vị thứ yếu. Tương truyển, sự hưng khởi của Phật giáo Đại thừa ở Ấn Độ, là do sự bất mãn của cư sĩ tại gia đối với nếp sinh hoạt bảo thủ của Tăng đoàn Thanh văn thời bấy giờ. Như chúng ta thấy, trong nhiều kinh điển Đại thừa vào thời sơ kỳ, các nhân vật chính đều là cư sĩ tại gia, như kinh Duy Ma Cật, kinh Thắng Man, v.v... Điều này chứng tỏ có sự quật khởi của hàng cư sĩ tại gia trong lịch sử truyền bá của Đạo Phật.

Khi Đạo Phật truyền sang Trung Hoa, Phật giáo lại y cựu là Phật giáo của hàng ngũ xuất gia, còn vai trò của cư sĩ lại trở lui vào địa vị rất là thứ yếu. Hơn nữa, trong lịch sử hoằng truyền giới luật ở nước Tàu, giới luật của hàng cư sĩ rất ít có người quan tâm đến. Phật giáo nước Tàu tuy tự hào là Đại thừa, nhưng tinh thần Đại thừa không được phát huy đúng mức. Ngài Thái Hư Đại sư, một bậc cao tăng hiện đại của Trung Hoa, vào khoảng thập niên 1930, có đến thăm viếng các quốc gia Phật giáo Nam truyền, sau khi trở lại Đại lục, ngài đã than rằng: "Nước Tàu tuy mang danh là Đại thừa, nhưng tinh thần lại thực sự là Tiểu thừa; còn các nước Nam truyền, tuy mang danh là Tiểu thừa, nhưng tinh thần lại thực sự là Đại thừa." Tại sao nói như vậy? Bởi ngài thấy các nhà sư Trung Hoa, có một tinh thần gần như tiêu cực, không chịu tham gia vào các hoạt động phước lợi cho xã hội nhân quần, mà chỉ hầu như tránh né quần chúng, lo tu cho chóng, hầu mau mau ra khỏi sinh tử luân hồi, vãng sanh Tịnh độ. Không chỉ những người tu Tịnh độ có thái độ như thế, mà ngay cả các người tu Thiền hay các tông phái khác cũng đều như thế. Điều này là một sự lệch lạc trầm trọng của tinh thần Bồ tát đạo.

Trước đời Đường Vũ Tông, các trào lưu tư tưởng Đại thừa rất phổ cập trong nhân gian. Các đại tự viện do các cao tăng trụ trì thường tọa lạc trong các thành phố lớn, thành thử, Phật giáo vẫn còn giữ được mối liên hệ mật thiết với quần chúng. Khi Đường Vũ Tông phá diệt Phật giáo vào năm 845, hầu hết những tự viện tại các đô thị đều bị phá hủy, kinh điển bị thiêu đốt, tăng ni bị bắt hoàn tục. Nói chung, các tông phái đều bị thiệt hại nặng nề, trừ Thiền tông. Lý do là vì các tu viện Thiền tông phần lớn đều ở chốn thâm sơn cùng cốc, thành thử tránh được sự dòm ngó của triều đình. Do đó, từ đời Ngũ Đại về sau, nhất là trong đời Triệu Tống, sau khi có một vị hoàng đế ra sắc lệnh khuyến cáo các vị xuất gia nên ẩn trú tại sơn lâm tu hành, thì phần lớn các chùa chiền đều được xây cất nơi thâm sơn hẻo lánh. Trong các đô thị, chỉ còn lại những ngôi chùa của các thầy chuyên đi cúng đám (Tàu gọi là ứng phó tăng). Tinh thần xa lánh trần thế của người xuất gia trở thành một phong khí rất thịnh hành thời bấy giờ. Thịnh hành đến nỗi, những kẻ xuất gia trú ngụ nơi đô  thị đều bị châm biếm mỉa mai. Ngạn ngữ Tàu có câu:

Ninh tọa thâm sơn cơ ngạ tử,
Bất tác nhân gian ứng phó tăng.

Nghĩa là chẳng thà ngồi chịu chết trong núi sâu, chứ không chịu làm ông thầy cúng nơi chốn nhân gian. Hàm ý của hai câu trên rất phong phú, và có thể giải thích nhiều cách, thế nhưng, tựu trung, ý nghĩa chính vẫn là muốn nói rằng những người tu hành chân chánh phải là những kẻ xa lánh trần tục, và hơn nữa, nếu như chúng ta nhận xét kỹ, sẽ thấy rằng quan niệm tu hành thời bấy giờ đã lưu lộ những tư tưởng yếm thế tiêu cực của Tiểu thừa. Từ đó trở đi, sự quan hệ giữa người xuất gia và quần chúng càng ngày càng trở nên phai nhạt. Mọi người bắt đầu có cái nhìn lệch lạc về Phật giáo, cho rằng những người xuất gia là những kẻ bất hiếu, chán đời, vô trách nhiệm đối với xã hội; thậm chí, còn miệt thị những kẻ xuất gia là sâu mọt, là ký sinh trùng của xã hội. Những quan niệm lệch lạc về Phật giáo như vậy, vẫn còn tồn tại cho đến ngày hôm nay.

Còn về phần những người xuất gia, vì quá tha thiết với tâm trạng mong cầu giải quyết vấn đề sinh tử đại sự, cho nên cũng ít có người quan tâm đến vấn hoằng dương Phật pháp, hoặc phát triển tinh thần chân thực của Đại thừa. Sự diễn giảng kinh điển trở thành khô cứng, hoặc chỉ chú trọng đến phần đàm huyền thuyết diệu, hoặc chỉ thuần là sự những giải thích danh tướng. Những bộ kinh được ưa chuộng nhất trong thời bấy giờ là Hoa Nghiêm, Thủ Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, Duy Ma Cật, v.v... Thế nhưng, các nhân vật tiêu biểu như Đồng tử Thiện Tài trong kinh Hoa Nghiêm, Long Nữ trong kinh Pháp Hoa, Trưởng giả Duy Ma Cật trong kinh Duy Ma Cật, đều bị nâng cao đến chín tầng mây, đều trở thành các vị Bồ tát bất khả tư nghì, không còn quan hệ gì đến hiện thực nhân gian nữa. Những ước mơ, nguyện vọng, khắc khoải được gửi gắm trong những lời nghi vấn thiết tha nồng nhiệt của Đồng tử Thiện Tài: "Thế nào để tu Bồ tát hạnh, hành Bồ tát đạo", đã biến thành những cụm mây trắng bệch trôi lững lờ vào những nẽo hoang vu. Ý nghĩa của hai chữ Đại thừa thực sự đã biến thành rỗng tuếch.

          Còn nếu bàn về phương diện giới luật của Bồ tát tại gia cũng như xuất gia, thì thịnh hành nhất là bộ kinh Bồ tát giới Phạm Võng. Thế nhưng, sự diễn giảng của bộ kinh này cũng bị kẹt vào những lỗi lầm vừa mới nêu trên. Nếu chúng ta có cơ hội đọc sách chú giải của những bậc cổ đức, sẽ thấy phần lớn đều chỉ là những sự huyền đàm về cảnh giới Lô Xá Na, còn phần giải thích các điều giới thì lại hoàn toàn là sự phân tích danh tướng một cách máy móc, y như trong các bộ luật của Tiểu thừa. Thực sự mà nói, các điều giới trong các bộ Luật chỉ là những công cụ cho người thọ giới dùng làm phương tiện trong cuộc hành trình thực thi Bồ tát đạo, mà tự chúng không phải là mục tiêu cứu cánh. Đến như giới luật của Bồ tát tại gia như bộ kinh Ưu Bà Tắc Giới, thì lại càng ít có người để ý đến. Bộ kinh này, tuy đã được ngài Đàm Vô Sấm dịch từ đời Lưu Tống (khoảng năm 420 AD), thế mà mãi đến cuối đời nhà Thanh (khoảng năm 1900 AD) vẫn không có một bộ chú giải nào cho bộ kinh này được ghi vào Đại tạng Trung Hoa. Điều này chứng tỏ bộ kinh này không được coi trọng trong lịch sử Phật giáo nước Tàu.

          Theo truyền thống Phật giáo Trung Hoa, mọi người đều cho rằng bộ Bồ tát giới Phạm Võng có thể áp dụng chung cho hai hàng tại gia và xuất gia, kỳ thực, nếu xét cho kỹ vấn đề không phải hoàn toàn như vậy. Trước khi đi vào chi tiết của vấn đề này, chúng ta sẽ nói sơ lược về sự hoằng truyền của các bộ giới luật Bồ tát trong lịch sử Phật giáo Trung Hoa. Nếu kiểm kê trong Đại tạng Phật giáo,  chúng ta sẽ thấy, giới luật Bồ tát có năm bộ chính:

          (1) Phạm Võng Bồ Tát Giới, giảng về mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh, do ngài Cưu Ma La Thập dịch vào đời Dao Tần (khoảng  năm 410AD). Bộ này áp dụng chung cho hai hàng Bồ tát tại gia và xuất gia.

          (2) Bồ Tát Thiện Giới Kinh, giảng về tám giới trọng, bốn mươi tám giới khinh, do ngài Cầu Na Bạt Ma dịch vào đời Lưu Tống. Bộ này chỉ áp dụng cho hàng Bồ tát xuất gia.

          (3) Du Già Bồ Tát Giới, giảng về bốn giới trọng, bốn mươi ba giới khinh, do ngài Huyền Tráng dịch vào đời Đường. Bộ này áp dụng chung cho hai hàng Bồ tát tại gia và xuất gia.

(4) Địa Trì Bồ Tát Giới, giảng về bốn giới trọng, bốn mươi mốt giới khinh, do ngài Đàm Vô Sấm dịch vào đời Lưu Tống. Bộ này áp dụng chung cho hai hàng Bồ tát tại gia và xuất gia.

Hai bộ (3) và (4) là hai bản dịch khác nhau của cùng một bản tiếng Phạn. Về phương diện văn chương, thì bản của ngài Huyền Tráng có phần đặc sắc, thế nhưng, về phương diện bình dị, dễ hiểu, thì bộ của ngài Đàm Vô Sấm có phần trội hơn.

          (5) Ưu Bà Tắc Giới Kinh, giảng về sáu giới trọng, hai mươi tám giới khinh, cũng do ngài Đàm Vô Sấm dịch vào đời Lưu Tống. Bộ này chỉ áp dụng cho hàng Bồ tát tại gia.

          Theo truyền thuyết, bộ Phạm Võng là bộ kinh cuối cùng mà ngài Cưu Ma La Thập phiên dịch, và cũng theo truyền thuyết, thì sau khi phiên dịch bộ kinh này, ngài đã truyền thọ giới Bồ tát cho hơn ba trăm người tại Tiêu Dao Viên.  Nếu đúng như truyền thuyết đã nói, thì ngài La Thập là người đầu tiên hoằng truyền Đại thừa Bồ tát giới ở Trung Hoa, thế nhưng lại có người cho rằng ngài Đàm Vô Sấm mới đích thực là người đầu tiên Đại thừa giới luật ở Trung quốc. Công bình mà nói, nếu ngài Đàm Vô Sấm không phải là người đầu tiên, thì ít ra ngài cũng là một đại công thần trong lịch sử hoằng truyền Đại thừa giới luật ở nước Tàu. Như chúng ta thấy, các bộ kinh Đại thừa mà ngài phiên dịch, nhất là bộ kinh Đại Bát Niết Bàn, đã có công lao trong việc thiết lập nền móng cho tư tưởng Đại thừa ở nước Tàu. Sau này, ngài Trí Khải Đại sư, tổ thứ ba của tông Thiên Thai, đã đưa bộ kinh này lên ngang hàng với bộ kinh Pháp Hoa là bộ kinh chủ yếu của tông Thiên Thai.

          Trở lại vấn đề mà chúng ta muốn tìm hiểu là địa vị của kinh Ưu Bà Tắc giới. Như trên đã nói sơ qua, suốt hơn một ngàn năm, bộ kinh này không có một địa vị nào đáng kể trong các bộ kinh được chú giải ở Trung Quốc, mãi cho đến đầu thế kỷ hai mươi, vào đời Dân Quốc, mới có ngài Thái Hư Đại sư, một bậc cao tăng hiện đại, một người có nguyện vọng chấn hưng Phật giáo Đại thừa, thực sự hoằng dương. Phật giáo Trung Quốc thời bấy giờ có thể nói là đã hoàn toàn thoát ly với xã hội hiện thực. Tuy cũng có các bậc cao tăng như ngài Ấn Quang Đại sư, ngài Hoằng Nhất Đại sư, v.v... đang cực lực hoằng dương Phật pháp, thế nhưng những nỗ lực của các ngài cũng chỉ là những sự vá víu tạm thời, chứ không thể nào là sự chỉnh đốn toàn bộ cục diện của Phật giáo. Đến ngài Thái Hư Đại sư, v́ muốn cứu vãn Phật giáo, bằng cách đưa Phật giáo trở lại nhân gian, không thể để cho quần chúng tiếp tục hiểu lầm là đạo Phật cũng giống như các ngoại đạo thờ thần thờ quỷ khác, ngài bèn chủ trương Nhân sinh Phật giáo, nghĩa là Phật giáo lấy nhân sinh làm căn bản, chứ không mơ mộng viễn vông trong những huyễn tưởng cao vời, xa lìa đời sống hiện thực của quần chúng.

          Trong bài giảng về bộ kinh này, Thái Hư Đại sư tóm lược quan điểm của ngài, mà chúng ta có thể phân làm ba đoạn chính, như sau:

I. Sự quan hệ giữa Phật giáo và nhân sinh:

          a. Thân người khó được, Phật pháp khó nghe: Thực sự mà nói, Đức Phật thuyết pháp, không phải chỉ vì loài người trên địa cầu này, mà là vì tất cả chúng sanh. Cho nên trong kinh có nói: “Vì tất cả chúng sanh trong cùng tận hư không vô biên thế giới mà thuyết pháp.” Hiện nay Phật pháp được lưu truyền trên thế giới này là do Đức Phật Thích Ca, bậc thị hiện thành Phật trong nhân gian, giảng nói. Tuy cũng chỉ là một loại chúng sinh, thế nhưng loài người lại có những ý nghĩa thù thắng. Đức Phật Thích Ca thị hiện thân người thuyết pháp, phần lớn là nhắm vào loài người mà nói. Đức Phật nói: "Thân người khó được, Phật pháp khó nghe," là muốn xác định rằng sinh ra làm người không phải dễ dàng. Nếu dùng Phật pháp quan sát loài người, thì quả thật loài người có nhiều ưu điểm. Thế nhưng, sinh được làm người chưa chắc được nghe Phật pháp. Nếu như không nghe được Phật pháp, sẽ không biết được giá trị của nhân sinh, và như thế, cả một đời người sẽ trở thành luống uỗng. Cần phải nghe Phật pháp thì mới biết được: sự tạo nghiệp sẽ đưa đến quả báo, đời ày qua đời khác, nối tiếp tương tục. Có nhân có quả thì mới sanh được thân người, thế nhưng thân người lại là vô thường. Nếu như trong đời người, hoặc làm ác, hoặc làm thiện, hoặc phát tâm cầu giải thoát, hoặc phát tâm Bồ đề, tức có thể chuyển sinh vào ác thú, thiện thú, hoặc thành A la hán, Bích chi phật, nhẫn đến thành Bồ tát hoặc thành Phật. Đây là do nghe được Phật pháp, mới biết được ý nghĩa sâu rộng của nhân sinh, và do đây mới thấy được quan hệ mật thiết giữa Phật pháp và nhân sinh.

          b. Nhân loại là chìa khóa của các sự tội phúc, phàm thánh: Con người chỉ là một loại trong vô số loại chúng sinh. Phật pháp thường chia chúng sinh làm mười loại, tức là tứ thánh, lục phàm. Tứ thánh là A la hán, Bích chi phật, Bồ tát và Phật. Bốn bậc thánh này đã vượt thoát được luân hồi sanh tử, còn những chúng sanh đang ở trong luân hồi thì gọi là lục phàm, tức là trời, người, a tu la, ngạ quỷ, súc sanh và địa ngục. Trong lục phàm, chỉ có trời là cao hơn người, còn ở dưới người thì có bốn loài: a tu la, ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục, còn gọi là bốn ác thú, tức là những chúng sanh đang thọ ác báo. A tu la, dịch là phi thiên, loại này, người bình dân thường gọi là thần, có phước báo gần như trời, nhưng không có uy đức như loài trời. Loại này tính tình hung hăng, ưa thích đấu tranh, thành thử thường hay thọ khổ. Dưới nữa là loài súc sanh, tức là loại chim muông cầm thú, mà chúng ta thường gọi là động vật. Đây là loại chúng sanh [duy nhất] mà loài người thấy được. Ngoài ra còn những chúng sanh mà loài người không thấy được, tức là chúng sanh ở cõi u minh, là hai loài ngạ quỷ và địa ngục. Hai loại chúng sanh này toàn là thọ khổ báo. Nói chung, trong mười loại chúng sanh, người và trời đứng ở chính giữa. Về phương diện hưởng thọ phước báo loài trời trội hơn loài người, thế nhưng về phương diện năng lực sáng tạo của thân tâm, thì loài trời lại kém hẳn loài người. Nếu tạo nghiệp ác thì có thể sẽ trong nhiều đời nhiều kiếp thọ ác báo, còn nếu tạo nghiệp thiện, hoặc gặp được Tam bảo, nghe pháp, trì giới, v.v..., thì có thể sẽ trong nhiều đời nhiều kiếp hưởng thọ phước báo. Hơn nữa, từ địa vị phàm phu vượt lên địa vị thánh nhân, thì chỉ có loài người là có thể làm được. Điều này trong nhiều kinh luận khác đã nói rõ.

          Từ dị sanh tánh [tức lục phàm] mà có thể sanh khởi thánh đạo, thì chỉ có loài người mới có khả năng, còn các loài loài dị sinh khác không thể làm được, do vì loài người có thể tu tập bố thí, trì giới, đa văn, v.v..., rất nhiều công đức, mà dù là loài trời cũng không thể sánh bằng. Đây là công năng thù thắng của nhân loại, cho nên gọi nhân loại là chìa khóa mở vào bốn đường thánh cùng năm đường phàm kia. Ý nghĩa như thế của nhân sinh, chỉ có Phật giáo là phát huy đến chỗ cùng cực. Nếu không có Phật pháp thì không thể biết được loài người có hy vọng siêu phàm nhập thánh.

          c. Giáng sinh nhân gian thành Phật thuyết pháp: Phật pháp là do Đức Thích Ca Mâu Ni nói ra, sau khi Ngài giáng sinh nhân gian, chứng thành Phật quả. Đức Phật có ba thân, là pháp tính thân, thọ dụng thân, và biến hóa thân. Pháp tính thân và thọ dụng thân của Phật bao trùm khắp mọi nơi, không có hình tướng để có thể thấy được. Còn như biến hóa thân, thị hiện tám tướng thành đạo [1] , tức là thân của Đức Phật mà nhân loại có thể nhìn thấy. Thân này là do Bồ tát tối hậu thân, từ trời Đâu xuất giáng sinh nhân gian, xuất gia tu đạo, thành Phật thuyết pháp. Từ tám tướng thành Phật này mới có Phật pháp được lưu truyền. Thế nhưng, Phật pháp không những lưu truyền ở nhân gian, mà còn lưu truyền ở thiên cung, long cung, v.v... Nhân vì sự thị hiện thành Phật, thuyết pháp độ sinh đều ở tại nhân gian, do đó chúng ta thấy được Phật pháp và nhân gian có một quan hệ mật thiết. Trưởng giả Bùi Hưu, khi viết bài tựa cho kinh Viên Giác, đã có câu: "Chư thiên chánh lạc, tu la phương sân, quỷ thần trầm u tù chi khổ, súc sinh hoài duật dứu chi bi, kỳ năng chỉnh tâm lự, thú Bồ đề, duy nhân đạo vi năng." Nghĩa là: loài trời chỉ lo hưởng lạc, tu la thì sân hận đấu tranh, quỷ thần chìm trong cõi khổ não tối tăm, súc sanh thì sống trong nỗi sợ hãi kinh hoàng. Còn như có thể tu sửa thân tâm, tiến bước trên con đường Bồ đề, thì chỉ có loài người là có khả năng. Cho nên biết rằng, Phật pháp tuy là vì tất cả chúng sanh, thế nhưng từ sự quan hệ thù thắng mà nói, thì loài người là chỗ Phật pháp có thể nương cậy, còn Phật pháp lại là vật cần thiết nhất cho loài người. Cho nên nhân sinh đối với Phật pháp, cần phải nghiên cứu thấu triệt, và y vào đó mà tu hành.

II. Địa vị của quyển kinh này trong Phật pháp:

          Sự lưu hành của Phật điển, đại khái có thể chia làm ba tạng: kinh, luật, luận. Lại còn những trước tác của các bậc cổ đức được xếp vào tạp tạng, thành thử tổng cộng có bốn tạng. Quyển kinh Ưu Bà Tắc Giới này thuộc về kinh tạng. Chữ kinh, tiếng Phạn là Tu đa la, tức là sự kết tập tất cả những gì mà Đức Phật đã giảng nói, để lưu truyền tại thế gian. Quyển kinh này có địa vị nào trong các kinh điển của Phật giáo? Ở đây chún ta sẽ lần lượt phân tích.

          a. Ngũ thừa cộng pháp và Đại thừa bất cộng pháp: Phật pháp có thể chia làm ba loại: (i) Ngũ thừa cộng pháp, tức là pháp chung cho người, trời, Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát. Trong ngũ thừa cộng pháp này, trời người là cơ sở cho Tam thừa xuất thế kia. (ii) Tam thừa cộng pháp, tức là pháp chung cho sự thoát ly sinh tử luân hồi, tức là pháp Tứ đế của Thanh văn, pháp Thập nhị nhân duyên của Duyên giác, và pháp Lục độ của Bồ tát. (iii) Đại thừa bất cộng pháp, tức là pháp phát tâm Bồ đề, quảng độ chúng sanh, tu học lục độ vạn hạnh để thành Phật. Quyển kinh này, trong ba loại trên, vì có tên Ưu Bà Tắc Giới, nên có thể xếp vào Ngũ thừa cộng pháp; thế nhưng, vì giảng giải về phát Bồ đề tâm, tu học lục độ, quảng độ chúng sanh, cho nên lại có thể xếp vào Đại thừa bất cộng pháp. Chúng ta có thể cho rằng quyển kinh này, vừa là Ngũ thừa cộng pháp, vừa là Đại thừa bất cộng pháp. Bởi vì những kẻ thọ trì giới pháp của bộ kinh này, thì được gọi là Bồ tát ưu bà tắc.

        b. Trong ba phần cảnh, hành, quả, quyển kinh này đặc biệt chú trọng thực hành: Phần chủ yếu của quyển kinh này, trong ba phần cảnh, hành, quả, là thuyết minh về phần nào? Trong kinh điển của Phật giáo, nói rộng về phần tính tướng của các pháp, thì được gọi là cảnh; nói rộng về trì giới, tu hành lục độ, thì gọi là hành; còn nếu nói rộng về phần phước trí trang nghiêm, công đức của Phật, thì gọi là quả. Trong các kinh điển Phật giáo, hoặc có kinh chú trọng về cảnh, hoặc có kinh chú trọng về hành, hoặc chú trọng về quả, lại có kinh chú trọng đến hai, hoặc cả ba phần. Quyển kinh này chú trọng đến sự thọ trì giới hạnh, do đó trong ba phần cảnh hành quả, có thể nói quyển kinh này chú trọng về hành.

          c. Lấy giới ưu bà tắc làm trung tâm: Quyển kinh này giảng giải về giới ưu bà tắc, cho nên có thể nói là lấy giới ưu bà tắc làm trung tâm. Hai chữ ưu bà là dịch âm, dịch nghĩa là thanh tín, hoặc dịch là cận sự, hoậc dịch là thiện túc. Nói một cách tổng quát, tức là những đệ tử của Đức Phật, có lòng tin trong sạch, thân cận hộ trì Phật pháp. Chữ tắc, cũng là dịch âm, ý muốn chỉ nam tính. Quyển kinh nảy được giảng giải là do một vị nam cư sĩ chất vấn, nếu luận về tính chất, cũng có thể gọi là Ưu Bà Di Giới kinh; chữ di, là chỉ nữ tính. Bởi vì giới ưu bà tắc không phân biệt đối tượng là nam hay nữ. Quyển kinh này nói về Phật pháp, quan hệ đến tất cả pháp mà Đức Phật đã chứng đắc, thế nhưng lại dùng giới ưu bà tắc làm trung tâm điểm, cho nên phải dùng đây làm đầu mối để quán thông tất cả. Từ quan điểm này mà nhìn, chúng ta có thể nói:  từ phẩm Phát Tâm Bồ Đề cho đến phẩm thọ Giới, là nói rộng về sự thọ giới cho những kẻ có khả năng; từ phẩm Tịnh Giới cho đến phẩm Bát Nhã Ba La Mật, là nói về sự tu hành của kẻ đã thọ giới ưu bà tắc. Cho nên gọi là Ưu bà Tắc Giới Kinh.

          Lấy Bồ tát tại gia làm trung tâm: Kinh Ưu bà Tắc Giới, hay nhất nên gọi là Kinh Bồ tát tại gia. Chúng ta có thể thấy, như trong phẩm Tập Hội đã nói rõ: "Kẻ tại gia phát tâm Bồ đề, thù thắng hơn quả vị A la hán, Bích chi phật." Lại trong phần cuối của mỗi phẩm đều có đoạn: "Kẻ tại gia phát tâm Bồ đề, v.v... đều khó khăn hơn kẻ xuất gia." Quyển kinh này, tuy quán thông tất cả Phật pháp, thế nhưng, chung cuộc vẫn lấy Bồ tát tại gia làm trung tâm điểm. Trong kinh tán thán Bồ tát tại gia phát tâm Bồ đề, thì từ cõi trời Tứ Thiên Vương cho đến cõi trời A Ca Ni Trá, đều hoan hỷ vui mừng, tôn trọng [kẻ phát tâm] như bậc thầy của trời người. Trong kinh lại có nói: "Kẻ xuất gia không phải lo việc sinh kế, thọ dụng sự cúng dường của trời người, cho nên đối với pháp Bố thí ba la mật khó có thể thành tựu viên mãn." Do đó, kinh này được Bồ tát tại gia đặc biệt tôn sùng.

III. Mục đích giảng giải bộ kinh này:

a. Vì muốn kiến lập nhân gian Đại thừa Phật giáo: Trong phần sự quan hệ giữa Phật pháp và nhân sinh, chúng ta đã nói rõ giữa Phật giáo và nhân sinh có một ý nghĩa thâm thiết. Nếu như xét kỹ ý chỉ chân chánh của Phật pháp, thì bất cứ sự chứng đắc, hay tuyên dương giáo pháp nào, đều là Phật pháp Đại thừa. Cho nên muốn hoằng dương Phật pháp, nên dùng nhân loại thế gian mà hoằng dương Đại thừa Phật pháp. Hơn nữa, chỉ có nhân sinh là đang cần Đại thừa Phật pháp nhất, cho nên phải kiến lập nhân gian Đại thừa Phật giáo. Quyển kinh này có thể làm quy củ, mô phạm cho tất cả nam tử, nữ nhân đầy đủ thiện căn, tu hành thành tựu đạo Bồ tát tại gia. Nếu như mọi người y vào kinh này, phát tâm tu hành, lợi mình lợi người, thì nhân gian Đại thừa Phật giáo sẽ do đây mà được kiến lập, nhân loại trên thế giới cũng nhờ sự lợi ích của Đại thừa Phật pháp, mà được hưởng hạnh phúc của sự hòa bình an lạc.

          b. Vì muốn đề xướng sự tu hành thực tiển: Trong các người học Phật, do sự nỗ lực nghiên cứu, hoặc có kẻ trở thành một học giả của một tông phái, hoặc có kẻ trở thành một bác học Phật giáo. Tuy đây cũng là sự kiện mà Phật giáo đang cần, thế nhưng tông chỉ của Phật pháp, xưa nay vẫn là sự tu hành thành Vô thượng giác, chứng thực thấu triệt tính tướng của các pháp, rồi từ đó khai thị tính tướng của các pháp, dẫn đạo kẻ khác tu hành thực tiển, hy vọng những kẻ khác cũng sẽ chứng thực thấu triệt tính tướng của các pháp mà thành Vô thượng giác. Vì thế các pháp mà Đức Phật giảng nói đều là chú trọng đến sự thực tiển tu hành. Như trong phẩm Tập Hội đã giảng rõ: "Thể tính của Bồ tát không phải đã tự sẳn có, cũng không phải nương vào Đức Phật mới có, mà là do nhân duyên phải tâm tu hành mới có." Đây là điểm nhấn mạnh đến sự thực hành rất đặc sắc của quyển kinh này. Hôm nay vì muốn đề xướng những người phát tâm học Phật nên thực tiển tu hành, cho nên chọn quyển kinh này để giảng giải.

          Từ căn bản giới học bắt đầu tu lên: Bồ tát chia làm hai hạng, một là tại gia, hai là xuất gia. Số người xuất gia rất ít, còn số người tại gia thì rất đông. Quyển kinh này là y vào kẻ tại gia mà phát huy sự cần thiết của giới học, cho nên đây là điều có thể phổ cập đến nhân loại một các hay nhất. Thế nhưng trong tam học giới định tuệ, trước tiên nên lấy giới học làm căn bản để tu tập, nghĩa là do giới sinh định, y vào định phát tuệ. Giới là căn bản của định tuệ. Sau khi sinh định, thì giới sẽ tương ưng với định mà trở thành định cộng giới; sau khi phát tuệ, thì giới lại tương ưng với tuệ mà trở thành đạo cộng giới. Giới có thể sinh định, là do sau khi đầy đủ giới hạnh, lý đắc tâm an, trong tâm thường sinh hoan hỷ an lạc, do an lạc mà tâm định, y vào định thể nghiệm quan sát nên phát sanh trí tuệ, tức là vô lậu thánh trí. Do đó, tu học Phật pháp phải lấy giới học làm căn bản mà tu lên.

          c. Vì muốn từ pháp lục độ phổ thông mà tu tập: Người Tàu có thói quen là muốn nhảy vượt, mà không muốn bị trói buộc vào một trình tự nào hết, hơn nữa, lại ít quan tâm đến sự thực hành bằng con đường phổ thông bình dị. Những người học Phật ưa thích chọn một bộ kinh để nghiên cứu, hay chọn một tông phái nào đó để tu tập, rồi lại tự cho mình là cao hơn tất cả, đối với các bộ kinh khác, hoặc các tông phái khác, thường sinh khởi sự tranh biện thị phi. Quyển kinh này, trong phẩm Lục Ba La Mật, có giảng rõ là chúng ta nên tu phá lục độ, là phương pháp phổ thông mà các vị Bồ tát thường tu. Hơn nữa, lạc còn phá xích những quan niệm sai lệch khác, như có người cho rằng không nhất định có pháp lục độ, hay cho rằng lục độ có thể hợp thành tứ độ, hoặc lục độ hợp thành nhất độ, v.v... Đại khái mà nói, trên phương diện đàm huyền thuyết diệu, thì mọi sự mọi vật đều có thể viên dung, một tức là tất cả, tất cả tức là một, một độ có thể thống nhiếp tất cả độ, tất cả độ có thể nhiếp vào một độ. Thế nhưng trên căn bản, trước tiên phải thành lập tướng đặc thù của mỗi độ, rồi sau đó mới có thể thể hội cái lý tưởng tương nhiếp tương dung. Thế nên, phải từ phương diện sáu độ mà tu tập, thì mới có thể tiến bước trên con đường rộng rãi bằng phẳng, từ địa vị phàm phu, tiến qua các giai vị Bồ tát mà thành Phật.

          Phần trên chúng ta trình bày sơ lược về quan điểm của ngài Thái Hư khi ngài giảng bộ kinh này tại Nam Kinh vào năm 1935. Từ những nhận xét mà ngài đã đưa ra, chúng ta có thể xác định được địa vị xứng đáng của bộ kinh này. Nhất là trong thời buổi hiện tại, khi mà thế lực của tăng đoàn càng lúc càng suy vi, và vai trò của người Phật tử tại gia càng lúc càng trở nên trọng yếu. Quyển kinh này có thể nói là cẩm nang, là quyển sách gối đầu cho người tại gia phát tâm học tập Bồ tát đạo. Bối cảnh của bộ kinh này rất bình dị, rất thực tế, không phải như những bộ Bồ tát giới khác. Chẳng hạn như bộ Phạm Võng Bồ Tát Giới là do Đức Lô Xá Na giảng cho các vị Đại Bồ tát trên cõi trời A Ca Ni Trá, hoặc là bộ Du Già Bồ Tát Giới là do Bồ tát Di Lặc giảng cho ngài Vô Trước trên cung trời Đâu Suất, hoặc như bộ Bồ Tát Thiện Giới Kinh là do Đức Thích Ca giảng cho các vị Đại Bồ tát tại Kỳ Viên Tinh Xá. Chỉ riêng bộ Ưu Bà Tắc giới này là Đức Phật giảng cho một vị cư sĩ tại gia, khi vị này bày tỏ thắc mắc về ý nghĩa của sự lễ lạy sáu phương theo phong tục Bà la môn. Đối tượng đã là người phàm, thì dĩ nhiên con đường mà Đức Như Lai vạch ra cho sự tu hành Bồ tát đạo cũng phải thực tế, có thể thực hiện được. Đây không phải là cảnh giới của những kẻ siêu phàm, mà chỉ là cảnh giới của những kẻ bằng xương bằng thịt như chúng ta. Thế nên, muốn tu Bồ tát hạnh, học Bồ tát đạo, chúng ta những kẻ học Phật sơ cơ, không cần phải bước vào những cảnh giới mênh mông huyền diệu của Đồng tử Thiện Tài trong kinh Hoa Nghiêm, hoặc đòi hỏi phải có những năng lực siêu nhiên như trưởng giả Duy Ma Cật trong kinh Duy Ma Cật, mà chỉ cần chúng ta có một ý hướng, một lòng tin nhiệt thành đối với Tam Bảo, một nghị lực vững chải, và điều quan trọng hơn hết là phải biết rõ mục tiêu mà mình muốn tìm đến. Lòng tin là bước đầu quan trọng hơn hết trong việc học Phật. Kinh Hoa Nghiêm có câu: “Tín vi đạo nguyên công đức mẫu”, lòng tin là cội nguồn của đạo, là mẹ của tất cả công đức. Lòng tin ở đây không phải như lòng tin mà ngoại đạo đã đề xướng, mà là như đã nói ở phần trên, chữ tin ở đây là sự tin sâu lý nhơn quả. Ngay trong phẩm đầu tiên là phẩm Tập hội, Đức Thế Tôn đã đả phá thuyết tự nhiên và thuyết vô nhân của ngoại đạo, đưa tất cả về thuyết duyên sinh. Sau khi chúng ta thấu rõ thuyết duyên sinh: “cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không”, từ đây sẽ thấu rõ các pháp là không có tự tính, là vô ngã, là khổ. Mình đã như thế, thì kẻ khác cũng sẽ như thế. Từ sự thể ngộ như vậy, chúng ta sẽ phát khởi tâm từ bi, nguyện mình và chúng sinh đều sẽ được thoát khỏi sự vô thường, khổ não này, và do đây mà phát tâm Bồ đề, nguyện độ chính mình và tất cả chúng sanh đều thành Phật đạo.

[1] Tám tướng: Có hai thuyết chính là: (a) Giáng sinh, nhập thai, trụ thai, xuất thai, xuất gia, thành đạo, chuyển pháp luân, nhập Niết bàn. (b) Giáng sinh, nhập thai, xuất thai, xuất gia, hàng ma, thành đạo, chuyển pháp luân, nhập Niết bàn.

Phẩm Một

Tp Hi

Tôi nghe như vầy, một thuở nọ Đức Phật ở Tinh xá Cấp Cô Độc, trong rừng Kỳ Đà, tại nước Xá Vệ, cùng với một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ khưu tăng, năm trăm vị tỳ khưu ni, một ngàn ưu bà tắc, và năm trăm người ăn mày.

Lúc bấy giờ trong pháp hội có một vị trưởng giả tên Thiện Sinh, bạch với Đức Phật:

- Kính bạch Đức Thế Tôn! Phái ngoại đạo Lục sư  thường dạy rằng: “Nếu mỗi buổi sáng kính lạy sáu phương, th́ sẽ được sống lâu, giàu có. V́ sao? Cơi phương đông thuộc về trời Đế thích; nếu người nào cúng dường, sẽ được trời Đế thích bảo hộ và giúp đỡ. Cơi phương nam thuộc về vua Diêm la; nếu người nào cúng dường, sẽ được vua Diêm la bảo hộ và giúp đỡ. Cơi phương tây thuộc về trời Bà lâu na; nếu người nào cúng dường, sẽ được trời Bà lâu na bảo hộ và giúp đỡ. Cơi phương bắc thuộc về trời Câu tỳ la; nếu người nào cúng dường, sẽ được trời Câu tỳ la bảo hộ và giúp đỡ. Cơi phương dưới thuộc về trời Lửa; nếu người nào cúng dường, sẽ được trời Lửa bảo hộ và giúp đỡ. Cơi phương trên thuộc về trời Gió; nếu người nào cúng dường, sẽ được trời Gió bảo hộ và giúp đỡ.”

Kính bạch Đức Thế Tôn! Trong Phật pháp cũng có sáu phương như vậy chăng?

Đức Phật bảo Thiện Sinh: “Trong Phật Pháp cũng có sáu phương, tức là sáu pháp Ba la mật. Phương đông tức là Bố thí Ba la mật. V́ sao? Phương đông đại biểu sự mới bắt đầu của một ngày, đem đến ánh sáng chói lọi của trí tuệ. Phương đông lại thuộc về tâm chúng sinh. Nếu người nào cúng dường  Bố thí Ba la mật, sẽ được sống lâu và giàu có. Phương nam tức là Tŕ giới Ba la mật. V́ sao? Tŕ giới Ba la mật đại biểu phía mặt. Nếu người nào cúng dường, sẽ được sống lâu và giàu có. Phương tây tức là Nhẫn nhục Ba la mật. V́ sao? Phương tây ở về phía sau, tượng trưng cho tất cả pháp ác đều bị bỏ lại ở phía sau. Nếu người nào cúng dường, sẽ được sống lâu và giàu có. Phương bắc tức là Tinh tiến Ba la mật. V́ sao? Phương bắc tượng trưng cho sự chiến thắng các pháp ác. Nếu người nào cúng dường, sẽ được sống lâu và giàu có. Phương dưới tức là Thiền định Ba la mật. V́ sao? V́ xuyên qua thiền định, chúng sinh có thể chân chánh quán sát ba đường dữ. Nếu người nào cúng dường, sẽ được sống lâu và giàu có. Phương trên tức là Bát nhă Ba la mật. V́ sao? V́ trên tức là vô thượng, vô sinh. Nếu người nào cúng dường, sẽ được sống lâu và giàu có. Thiện nam tử! Sáu phương đều thuộc về tâm của chúng sinh, không phải như bọn ngoại đạo Lục Sư đă nói.”

- Ai có thể cúng dường sáu phương như vậy?

- Thiện nam tử! Chỉ có Bồ tát mới có thể cúng dường.

- Kính bạch Đức Thế Tôn! Do nghĩa ǵ mà gọi là Bồ tát?      

Đức Phật bảo Thiện Sinh: “Người đă giác ngộ được gọi là Bồ tát, người có tính giác ngộ được gọi là Bồ tát.”

- Kính bạch Đức Thế Tôn! Nếu người đă giác ngộ được gọi là Bồ tát, như vậy lúc chưa cúng dường sáu phương, th́ thế nào được gọi là Bồ tát? Nếu v́ có tính giác ngộ mà được gọi là Bồ tát, th́ ai có tính ấy? Nếu như, người có tính nầy mới có thể cúng dường sáu phương, c̣n không có tính nầy không thể cúng dường, Đức Như Lai không thể nói là sáu phương thuộc về tâm chúng sinh.

- Thiện nam tử! Không phải được giác ngộ mà gọi là Bồ tát. V́ sao? Người được giác ngộ th́ gọi là Phật, c̣n trước khi giác ngộ th́ gọi là Bồ tát.

Thiện nam tử! Tất cả chúng sinh không có tính giác ngộ, cũng như chúng sinh không có tính trời, người, sư tử, cọp, sói, chó, v.v... Do trong đời nầy ḥa hợp nhiều nhân duyên của nghiệp lành mà chúng sinh được thân người, trời; hoặc ḥa hợp nhiều nhân duyên của nghiệp ác mà sinh vào loài bàng sinh, như sư tử chẳng hạn. Bồ tát cũng như vậy, do sự ḥa hợp nhiều nhân duyên của nghiệp lành, lại phát tâm Bồ đề, nên gọi là Bồ tát. Giả sử có người nói rằng tất cả chúng sinh đều có tính Bồ tát, nghĩa nầy không đúng. V́ sao? Nếu đă có tính Bồ tát th́ không cần tu tập những nhân duyên nghiệp lành bằng cách cúng dường sáu phương.

Thiện nam tử! Nếu chúng sinh đă có sẵn tính Bồ tát, th́ chắc không có người mới phát tâm cũng như có người thoái tâm. Do vô lượng nhân duyên nghiệp lành mà phát tâm Bồ đề, nên mới gọi là có tính Bồ tát.

Thiện nam tử! (1) Có những chúng sinh tu theo ngoại đạo, v́ không thích lư thuyết điên đảo của bọn họ mà phát tâm Bồ đề; (2) hoặc có chúng sinh ở nơi vắng lặng, nhờ nhân duyên thiện căn trong tâm mà phát tâm Bồ đề; (3) hoặc có chúng sinh quán sát lỗi lầm của sinh tử mà phát tâm Bồ đề; (4) hoặc có chúng sinh thấy nghe điều ác mà phát tâm Bồ đề; (5) hoặc có chúng sinh biết rơ sự tham dục, sân hận, ngu si, bỏn sẻn, ganh ghét của ḿnh, v́ muốn đối trị mà phát tâm Bồ đề; (6) hoặc có chúng sinh thấy bọn tiên ngoại đạo có năm phép thần thông mà phát tâm Bồ đề; (7) hoặc có chúng sinh muốn biết thế giới là hữu biên hoặc vô biên mà phát tâm Bồ đề; (8) hoặc có chúng sinh thấy nghe cảnh giới không thể nghĩ bàn của Như Lai mà phát tâm Bồ đề; (9) hoặc có chúng sinh khởi tâm thương xót cứu độ mọi loài mà phát tâm Bồ đề; (10) hoặc có chúng sinh v́ yêu mến mọi loài mà phát tâm Bồ đề.

Thiện nam tử! Tâm giác ngộ có ba bậc: thượng, trung và hạ. Nếu chúng sinh quyết định có tính giác ngộ, làm sao lại nói có ba bậc? Chúng sinh bậc hạ có thể phát tâm bậc trung, chúng sinh bậc trung có thể phát tâm bậc thượng, chúng sinh bậc thượng có thể phát tâm bậc trung, và chúng sinh bậc trung có thể phát tâm bậc hạ. Chúng sinh siêng tu vô lượng pháp lành, có thể tăng lên bậc thượng, nếu không siêng tu th́ sẽ sụt xuống bậc hạ. Nếu khéo tu tiến th́ gọi là không thoái lui, nếu không khéo tu tiến th́ gọi là thoái lui. Nếu trong tất cả thời gian thường v́ tất cả chúng sinh tu tập hạnh lành th́ gọi là người không thoái chuyển, ngược lại, th́ gọi là người thoái chuyển; những Bồ tát thoái chuyển gọi là người có tâm thoái lui, khiếp sợ. Nếu có người nào, trong tất cả thời gian v́ tất cả chúng sinh mà tu pháp lành, được quả vị bất thoái, ta sẽ thọ kư người ấy nhất định không bao lâu sẽ được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Thiện nam tử! Ba bậc giác ngộ không có tính nhất định, nếu có tính nhất định, th́ người phát tâm Thanh văn, Duyên giác không thể phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Thiện nam tử! Giống như chúng tăng không có tính nhất định, tính của ba bậc giác ngộ cũng như thế. Nếu có người nói: “Giác ngộ có tính nhất định”, người đó là ngoại đạo. V́ sao? V́ bọn ngoại đạo không tin nhân quả, như trời Tự tại của họ, phủ nhận cả nhân lẫn quả.

Thiện nam tử! Nếu có người nói tính Bồ tát giống như tính của vàng, nhất định hiện hữu trong kim khoáng, do sự tinh lọc mà hiển hiện được công dụng của vàng. Đây là thuyết của ngoại đạo Phạm chí. V́ sao? Bọn Phạm chí thường cho rằng trong hạt Ni câu đà đă có cây Ni câu đà, và trong tṛng mắt có lửa và đá. Do đó bọn Phạm chí thừa nhận không có nhân cũng không có quả. Nhân tức là quả, và quả tức là nhân. Hạt Ni câu đà đă có sẵn cây Ni câu đà. Đây là thuyết nhân quả của bọn Phạm chí. Nhưng điều nầy không đúng. V́ sao? Nhân th́ nhỏ mà quả th́ to. Vả lại, nếu nói trong con mắt nhất định có lửa, mắt sẽ bị đốt cháy, làm sao có thể thấy được?

Thiện nam tử! Bọn Phạm chí cho rằng: “Có tức là vĩnh viễn có, không tức vĩnh viễn là không, không chẳng thể sinh khởi, c̣n có th́ vĩnh viễn không diệt.” Nếu trong khoáng có tính của vàng, vàng không thể gọi là tính, mà tính cũng không thể gọi là vàng.

Thiện nam tử! Do nhiều nhân duyên nên có sự ḥa hợp, v́ ḥa hợp nên trước vốn là không mà sau mới có. Nếu vậy, bọn Phạm chí cho rằng: “không tức vĩnh viễn là không”, nghĩa nầy là thế nào? Lại như vàng ḥa hợp với thủy ngân, vàng bị biến đổi. Nếu vậy, như bọn Phạm Chí cho rằng: “có th́ vĩnh viễn không diệt”, nghĩa nầy là thế nào? Nếu nói chúng sinh có sẵn tính Bồ tát, đây là thuyết của ngoại đạo, không phải thuyết của đạo Phật.

Thiện nam tử! Ví như do nhân duyên ḥa hợp mà có tác dụng của vàng, tính Bồ tát cũng giống như vậy. Chúng sinh có tâm tư duy, gọi là tâm mong cầu, dùng tâm mong cầu đó, cùng với nhân duyên thiện nghiệp mà phát tâm Bồ đề, như vậy gọi là tính Bồ tát.

Thiện nam tử! Ví như chúng sinh trước kia không có tâm giác ngộ, sau nầy mới có, tính Bồ tát cũng vậy, trước không sau có. Thế nên, không thể nói quyết định có tính Bồ tát.

Thiện nam tử! Bất cứ người nào cầu trí tuệ rộng lớn đều gọi là Bồ tát. Bởi v́ họ muốn biết sự chân thực của tất cả các pháp, v́ muốn được sự trang nghiêm rộng lớn, v́ muốn tâm được kiên cố, độ vô lượng chúng sinh, và v́ không tiếc thân mệnh, nên được gọi là Bồ tát tu hạnh Đại thừa.

Thiện nam tử! Bồ tát có hai hạng: một là thoái chuyển, hai là không thoái chuyển. Người đă tu tập nghiệp ba mươi hai tướng, gọi là không thoái chuyển; nếu chưa thể tu tập, gọi là thoái chuyển. Lại có hai hạng: một là tại gia, hai là xuất gia. Bồ tát xuất gia, phụng tŕ tám giới trọng, hoàn toàn thanh tịnh, gọi là Bồ tát không thoái chuyển. Bồ tát tại gia, phụng tŕ sáu giới trọng, hoàn toàn thanh tịnh, cũng gọi là Bồ tát không thoái chuyển.

Thiện nam tử! Phước đức của bọn ngoại đạo đoạn được tâm tham dục, thù thắng hơn phước đức của chúng sinh trong cơi dục giới; Tu đà hoàn thù thắng hơn bọn ngoại đạo dị kiến; Tư đà hàm thù thắng hơn Tu đà hoàn; A na hàm thù thắng hơn Tư đà hàm; A la hán thù thắng hơn A na hàm; Bích chi phật thù thắng hơn A la hán; người tại gia phát tâm Bồ đề, lại thù thắng hơn Bích chi phật. Người xuất gia phát tâm Bồ đề không khó, người tại gia phát tâm Bồ đề, quả thật không thể nghĩ bàn. V́ sao? V́ người tại gia bị nhiều ác duyên ràng buộc. Lúc người tại gia phát tâm Bồ đề, th́ từ cơi trời Tứ thiên vương, cho đến cơi trời Sắc cứu cánh, tất cả đều kinh ngạc vui mừng, nói như thế nầy: “Hôm nay chúng ta đă có được vị Thầy của trời người!”.

Phẩm Hai

Phát Tâm B Đ

Thiện Sinh bạch Phật: “Kính bạch Đức Thế Tôn! Chúng sinh v́ sao phát tâm Bồ đề?”

- Thiện nam tử! (1) V́ hai việc nên phát tâm Bồ đề: một là tăng tuổi thọ, hai là thêm tài sản. (2) Lại có hai việc: một là v́ không muốn chủng tính Bồ đề đoạn tuyệt, hai là v́ muốn đoạn trừ phiền năo tội khổ của chúng sinh. (3) Lại có hai việc: một là tự quán sát ḿnh trong vô lượng đời chịu bao nhiêu là khổ năo mà vẫn không được lợi ích, hai là tuy có chư Phật xuất hiện nhiều như số cát sông Hằng, các ngài cũng không thể độ thoát ḿnh, mà chính ḿnh phải tự độ. (4) Lại có hai việc: một là tu các nghiệp lành, hai là những nghiệp lành đă tu sẽ không mất. (5) Lại có hai việc: một là v́ muốn vượt hơn tất cả quả báo của trời người, hai là v́ muốn vượt hơn tất cả quả báo của Nhị thừa. (6) Lại có hai việc: một là v́ cầu đạo Giác ngộ nên nhận chịu nhiều khổ năo, hai là v́ muốn được vô lượng sự lợi ích rộng lớn. (7) Lại có hai việc: một là quán sát chư Phật nhiều như số cát sông Hằng ở quá khứ, vị lai, đều giống như ḿnh, hai là quán sát thâm sâu rằng Bồ đề là pháp có thể chứng được, v́ thế phát tâm tu tập. (8) Lại có hai việc: một là quán sát Bồ tát lục trụ, tuy có tâm thoái chuyển, vẫn c̣n thù thắng hơn tất cả Thanh văn, Duyên giác, hai là siêng năng truy cầu quả vị Vô thượng Chánh giác. (9) Lại có hai việc: một là mong tất cả chúng sinh đều được giải thoát, hai là mong quả báo giải thoát của chúng sinh vượt hơn quả báo của ngoại đạo. (10) Lại có hai việc: một là không xả bỏ tất cả chúng sinh, hai là xa ĺa tất cả phiền năo. (11) Lại có hai việc: một là v́ đoạn trừ khổ năo của chúng sinh trong đời nầy, hai là v́ ngăn chận khổ đau của chúng sinh trong đời sau. (12) Lại có hai việc: một là v́ muốn đoạn trừ sự chướng ngại của trí tuệ, hai là v́ muốn đoạn trừ thân chướng của chúng sinh.[1]

Thiện nam tử! Do năm việc mà phát tâm Bồ đề: một là gần gũi bạn lành, hai là trừ tâm nóng giận, ba là tuân lời thầy dạy, bốn là sinh ḷng thương xót, năm là tu hành tinh tiến. Lại có năm việc phát tâm Bồ đề: một là không thấy lỗi người, hai là tuy thấy lỗi người, nhưng tâm không nghĩ nhớ đến, ba là tuy làm việc lành, vẫn không sinh ḷng kiêu mạn, bốn là thấy người làm lành, không sinh ḷng ghen ghét, năm là quán sát tất cả chúng sinh, tưởng như con một của ḿnh.

Thiện nam tử! Người trí sau khi phát tâm Bồ đề, có thể hủy diệt nghiệp ác to như núi Tu Di. Người trí v́ ba việc mà phát tâm Bồ đề: một là v́ thấy chúng sinh thọ khổ trong đời ác năm trược, hai là v́ thấy Đức Như Lai có đạo lực thần thông không thể nghĩ bàn, ba là v́ nghe tám thứ âm thanh vi diệu của Đức Như Lai.[2] Lại do hai việc: một là biết rơ sự khổ đau của thân ḿnh, hai là hiểu rơ chúng sinh khổ như ḿnh khổ, v́ muốn đoạn trừ sự khổ cho họ, cũng như trừ sự khổ cho chiùnh ḿnh.

Thiện nam tử! Nếu có người phát tâm Bồ đề, phải biết người đó có thể lễ lạy sáu phương, và sẽ được sống lâu, giàu có. Điều nầy không giống như bọn ngoại đạo đă nói.

Phẩm Ba

Tâm Đi Bi

Thiện Sinh bạch Phật: “Kính bạch Đức Thế Tôn! Bọn ngoại đạo Lục sư không nói nhân quả, Đức Như Lai lại nói nhân có hai thứ: một là sinh nhân, hai là liễu nhân. Như Đức Thế Tôn vừa nói, nguyên nhân phát tâm Bồ đề là sinh nhân hay liễu nhân?”

- Thiện nam tử! Ta v́ chúng sinh, hoặc nói một nhân, hai nhân, ba nhân, bốn nhân, năm nhân, hoặc nói sáu, bảy, cho đến mười hai nhân. Nói một nhân tức là sinh nhân. Hai nhân là sinh nhân và liễu nhân. Ba nhân là phiền năo, nghiệp chướng và khí thế giới. Bốn nhân tức là bốn Đại. Năm nhân tức là năm chi vị lai của mười hai nhân duyên.[3] Sáu nhân như trong khế kinh đă nói. Bảy nhân như trong kinh Pháp Hoa đă nói. Tám nhân tức là tám chi hiện tại của mười hai nhân duyên.[4] Chín nhân như trong kinh Đại Thành đă nói. Mười nhân, như Đức Như Lai đă giảng cho ưu bà tắc Ma Nam. Mười một nhân, như trong kinh Trí Ấn đă nói. Mười hai nhân tức là mười hai nhân duyên.

Thiện nam tử! Tất cả pháp hữu lậu có vô lượng vô biên nhân. Tất cả pháp vô lậu cũng có vô lượng vô biên nhân. Người trí, v́ muốn biết tất cả, nên phát tâm Bồ đề. Đức Như Lai, v́ biết tất cả, nên được gọi là Nhất thiết trí.

Thiện nam tử! Tất cả chúng sinh phát tâm Bồ đề, hoặc do sinh nhân, hoặc do liễu nhân, hoặc do cả hai. Nay ông nên biết, sinh nhân tức là tâm Đại bi, v́ tâm Đại bi nên mới phát tâm Bồ đề, v́ thế tâm Đại bi là sinh nhân.

- Kính bạch Đức Thế Tôn! Làm thế nào tu tập tâm Đại bi?

- Thiện nam tử! (1) Người trí thấy rơ tất cả chúng sinh bị ch́m đắm trong biển lớn sinh tử chịu nhiều khổ năo, v́ muốn cứu vớt nên sinh tâm Đại bi; (2) lại thấy chúng sinh chưa được mười Lực, bốn pháp Vô úy, tâm Đại bi, ba Niệm,[5] v.v..., bèn nghĩ như vầy: “Ta làm thế nào để cho họ được đầy đủ”, nên sinh tâm Đại bi; (3) lại tuy thấy chúng sinh ḷng đầy oán thù cay độc mà vẫn xem họ như người thân thuộc, nên sinh tâm Đại bi; (4) lại thấy chúng sinh mê mờ chánh đạo, không có người dẫn dắt, nên sinh tâm Đại bi; (5) lại thấy chúng sinh bị ch́m đắm trong vũng bùn ngũ dục, không cách nào ra khỏi, mà lại c̣n buông lung phóng dật, nên sinh tâm Đại bi; (6) lại thấy chúng sinh thường bị của cải, vợ con ràng buộc, không thể xả bỏ, nên sinh tâm Đại bi; (7) lại thấy chúng sinh do sắc đẹp, sức mạnh, sống lâu mà sinh ḷng kiêu mạn, nên sinh tâm Đại bi; (8) lại thấy chúng sinh bị ác tri thức, như bọn Lục sư chẳng hạn, dối gạt, mà vẫn tưởng là quyến thuộc, nên sinh tâm Đại bi; (9) lại thấy chúng sinh trong ba cơi, tuy chịu nhiều khổ năo mà vẫn tham luyến, nên sinh tâm Đại bi; (10) lại thấy chúng sinh tạo nghiệp thân khẩu ư xấu xa, độc ác, nhân đây chịu nhiều quả báo khổ năo, mà vẫn mê muội, nên sinh tâm Đại bi; (11) lại thấy chúng sinh thèm khát ngũ dục như người khát uống nước mặn, nên sinh tâm Đại bi; (12) lại thấy chúng sinh tuy muốn cầu vui mà không tạo nhân vui, tuy không thích khổ mà ưa gây nhân khổ, muốn hưởng cảnh vui cơi trời mà lại thiếu giới hạnh, nên sinh tâm Đại bi; (13) lại thấy chúng sinh đối với sự vật không ngă, ngă sở, mà tưởng là ngă, ngă sở, nên sinh tâm Đại bi; (14) lại thấy chúng sinh lưu chuyển một cách vô định trong năm cơi, nên sinh tâm Đại bi; (15) lại thấy chúng sinh sợ sinh, già, chết, mà cứ tạo nghiệp sinh, già, chết, nên sinh tâm Đại bi; (16) lại thấy chúng sinh thân tâm chịu nhiều thống khổ mà vẫn tạo nghiệp, nên sinh tâm Đại bi; (17) lại thấy chúng sinh đau khổ khi ân ái bị chia ĺa, mà vẫn không chịu dứt sự ân ái, nên sinh tâm Đại bi; (18) lại thấy chúng sinh ở trong sự tăm tối của vô minh, mà không biết thắp sáng đèn trí tuệ, nên sinh tâm Đại bi; (19) lại thấy chúng sinh bị lửa phiền năo đốt cháy, mà không chịu cầu nước thiền định tam muội, nên sinh tâm Đại bi; (20) lại thấy chúng sinh v́ thú vui ngũ dục mà tạo vô lượng nghiệp ác, nên sinh tâm Đại bi; (21) lại thấy chúng sinh, tuy biết sự thống khổ của ngũ dục, mà vẫn cầu măi không thôi, như người đói ăn cơm có thuốc độc, nên sinh tâm Đại bi; (22) lại thấy chúng sinh ở trong đời ác, gặp vua bạo ngược, chịu nhiều khổ sở, mà vẫn buông lung, nên sinh tâm Đại bi; (23) lại thấy chúng sinh lưu chuyển trong tám cảnh khổ, nhưng vẫn không biết cách đoạn trừ gốc khổ, nên sinh tâm Đại bi; (24) lại thấy chúng sinh, đối với cảnh đói khát, lạnh nóng, không được tự tại, nên sinh tâm Đại bi; (25) lại thấy chúng sinh hủy phạm giới luật, bị đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, nên sinh tâm Đại bi; (26) lại thấy chúng sinh h́nh dáng, sức lực, tuổi thọ, an ổn và biện tài, không được tự tại, nên sinh tâm Đại bi; (27) lại thấy chúng sinh thân thể tàn khuyết, nên sinh tâm Đại bi; (28) lại thấy chúng sinh, sinh ở nơi biên địa, không tu pháp lành, nên sinh tâm Đại bi; (29) lại thấy chúng sinh, sinh nhằm đời đói khát, thân thể ốm gầy, cướp đoạt lẫn nhau, nên sinh tâm Đại bi; (30) lại thấy chúng sinh, sinh trong kiếp đao binh, giết hại lẫn nhau, ḷng ác độc hừng hẫy, sẽ chịu vô lượng quả báo khổ, nên sinh tâm Đại bi; (31) lại thấy chúng sinh, gặp Phật ra đời nói Pháp thanh tịnh như mùi vị Cam lộ, mà không biết tu học, nên sinh tâm Đại bi; (32) lại thấy chúng sinh, tin thầy tà bạn ác, không chịu nghe lời thầy hay bạn lành, nên sinh tâm Đại bi; (33) lại thấy chúng sinh, giàu có, của cải tràn đầy, mà không chịu bố thí, nên sinh tâm Đại bi; (34) lại thấy chúng sinh, cầy sâu cuốc bẫm, buôn tảo bán tần, nhọc nhằn gian khổ, nên sinh tâm Đại Bi; (35) lại thấy chúng sinh, cha mẹ, anh em, vợ con, tôi tớ, quyến thuộc không thương mến nhau, nên sinh tâm Đại bi.

Thiện nam tử! (36) Người trí nên quán sát sự vui thiền định của cơi trời Phi tưởng Phi phi tưởng, giống như sự khổ địa ngục, mà tất cả chúng sinh đều phải nhận chịu, nên sinh tâm Đại bi.

Thiện nam tử! (1) Trước khi đắc đạo, quán sát như thế, gọi là tâm Bi; nếu đă đắc đạo, th́ gọi là tâm Đại bi. V́ sao? Lúc chưa đắc đạo, dù có quán sát, sự quán sát chỉ có giới hạn, chúng sinh cũng có giới hạn, cho nên gọi là tâm Bi; khi đă đắc đạo, sự quán sát cùng chúng sinh đều vô hạn, cho nên gọi là tâm Đại bi. (2) Hơn nữa, lúc chưa đắc đạo, tâm Bi vẫn c̣n bị lay chuyển, thế nên gọi là tâm Bi; khi đă đắc đạo, tâm Bi không c̣n bị lay chuyển, nên gọi là tâm Đại bi. (3) Khi chưa đắc đạo, không thể cứu vớt tất cả chúng sinh, nên gọi là tâm Bi; khi đă đắc đạo, có thể cứu vớt tất cả, nên gọi là tâm Đại bi. (4) Lúc chưa đắc đạo, tâm Bi chưa tương ưng với trí tuệ, nên gọi là tâm Bi; khi đă đắc đạo, tâm Bi tương ưng với trí tuệ, nên gọi là tâm Đại bi.

Thiện nam tử! Người trí tu tâm Đại bi, tuy chưa thể đoạn trừ khổ năo cho chúng sinh, đă có vô lượng lợi ích.

Thiện nam tử! Sáu pháp Ba la mật đều lấy tâm Đại bi làm gốc.

Thiện nam tử! Bồ tát có hai hạng: một là Bồ tát xuất gia, hai là Bồ tát tại gia. Bồ tát xuất gia tu tập tâm Đại bi không khó, Bồ tát tại gia tu tập tâm Đại bi mới khó. V́ sao? V́ người tại gia bị nhiều ác duyên ràng buộc.

Thiện nam tử! Người tại gia nếu không tu tập tâm Đại bi, không thể đắc giới Ưu bà tắc. Sau khi tu tập tâm Đại bi, sẽ được đắc giới.

Thiện nam tử! Bậc xuất gia chỉ có thể tu trọn vẹn năm pháp Ba la mật, không thể tu trọn vẹn Bố thí Ba la mật. Người tại gia th́ có thể tu tṛn cả sáu pháp. V́ sao? V́ họ trong tất cả thời gian, có thể tu tập bố thí tất cả. V́ thế, người tại gia trước tiên phải tu tâm Đại bi. Nếu đă tu tập tâm Đại bi, người đó sẽ được đầy đủ tŕ giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định và trí tuệ. Nếu tu tâm Đại bi, vật khó bố thí có thể bố thí, điều khó nhẫn nhịn có thể nhẫn nhịn, những việc khó làm đều có thể làm. Do đây biết rằng, tất cả các pháp lành, đều lấy tâm Đại bi làm gốc.

Thiện nam tử! Nếu có người tu tập tâm Đại bi như vậy, phải biết người ấy có thể phá tan nghiệp ác to như núi Tu di, không bao lâu sẽ chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Người ấy dù tu chút thiện, sẽ được quả lành như núi Tu di.

Phẩm Bốn

Gii Thoát

- Thiện nam tử! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân tu hạnh Đại bi, phải biết người ấy sẽ được một pháp thể, gọi là giải thoát phần.

- Kính bạch Đức Thế Tôn! Cái gọi là pháp thể đó có nghĩa ǵ?

- Thiện nam tử! Pháp thể đó, nghĩa là thân khẩu ư. Thân khẩu ư nầy, từ phương tiện mà có được. Phương tiện có hai loại: một là tai nghe, hai là suy nghĩ. Lại có ba loại: một là bố thí, hai là giữ giới, ba là nghe nhiều Phật Pháp.

- Kính bạch Đức Thế Tôn! Như Đức Thế Tôn đă nói, từ ba phương tiện được giải thoát phần. Nếu vậy, ba phương tiện đó có số lượng nhất định không?     

- Thiện nam tử! Không có số lượng nhất định. V́ sao? Có người ở trong vô lượng đời, đem vô lượng của cải bố thí cho vô lượng chúng sinh, mà vẫn không được giải thoát phần; lại có người chỉ trong một lần, đem một nắm bột bố thí cho một kẻ ăn mày, mà lại được giải thoát phần. Có người ở nơi vô lượng Phật thọ tŕ giới luật, mà vẫn không được giải thoát phần; lại có người chỉ trong một ngày một đêm thọ tŕ tám giới mà lại được giải thoát phần. Có người trong vô lượng đời, ở nơi vô lượng Phật, thọ tŕ đọc tụng mười hai phần giáo, mà vẫn không được giải thoát phần; lại có người chỉ đọc một bài kệ bốn câu mà lại được giải thoát phần. V́ sao? V́ tâm của tất cả chúng sinh không giống nhau.

Thiện nam tử! Nếu có người không thể nhất tâm quán sát tội lỗi của sinh tử, cùng sự an lạc của Niết bàn, những người như vậy, tuy đầy đủ bố thí, giữ giới, nghe nhiều Phật pháp, chung cuộc cũng không được giải thoát phần. Nếu như có thể nhàm ĺa tội lỗi của sinh tử, thấy rơ công đức an lạc của Niết bàn, những người như vậy, tuy ít bố thí, ít tŕ giới, ít nghe Phật pháp, mà vẫn có thể được giải thoát phần.

Thiện nam tử! Hành giả ở trong ba trường hợp có thể được giải thoát phần: một là lúc Phật xuất thế, hai là lúc Bích chi phật xuất thế, ba là nếu không có Phật hoặc Bích chi phật xuất thế, th́ lúc vị trời Sắc cứu cánh nói pháp giải thoát, người ấy nghe xong, liền được giải thoát phần.

Thiện nam tử! Ta lúc xa xưa, khi mới phát tâm, tuy không gặp Phật hoặc Bích chi phật, nhưng được nghe trời Tịnh cư nói pháp giải thoát, nghe xong ta liền phát tâm Bồ đề.

Thiện nam tử! Pháp giải thoát như vậy, không phải các trời cơi dục có thể chứng được. V́ sao? V́ họ buông lung theo ngũ dục. Cũng không phải các trời cơi sắc có thể chứng được. V́ sao? V́ họ không có ba phương tiện. Lại cũng chẳng phải là chỗ chứng ngộ của trời cơi vô sắc. V́ sao? V́ họ không có thân, khẩu, mà pháp thể ấy chiùnh là thân khẩu ư. Người ở châu Bắc câu lô cũng không chứng được. V́ sao? V́ họ không có ba phương tiện. Chỉ có ba hạng người được giải thoát phần, tức là Thanh văn, Duyên giác, và Bồ tát. Chúng sinh nếu gặp được thiện tri thức, th́ có thể chuyển đổi giải thoát Thanh văn thành giải thoát Bích chi phật, chuyển đổi giải thoát Bích chi phật thành giải thoát Bồ tát. Giải thoát phần của Bồ tát th́ không c̣n thoái chuyển hoặc hư hoại.

- Kính bạch Đức Thế Tôn! Người thuyết pháp làm thế nào để phân biệt rơ người nào được giải thoát phần, người nào chưa được giải thoát phần?

- Thiện nam tử! Có hai hạng người được giải thoát phần, tức là Bồ tát tại gia và Bồ tát xuất gia. Hai hạng người đó, chí tâm nghe pháp, nghe xong liền thọ tŕ. Nghe sự khổ của ba đường ác, tâm sinh sợ hăi, lông tóc dựng đứng, nước mắt tuôn trào, phát ḷng kiên quyết thọ tŕ trai giới, cho đến tội rất nhỏ cũng không dám phạm. Nên biết người ấy là người được giải thoát phần.

Thiện nam tử! Bọn ngoại đạo tuy được định Phi tưởng phi phi tưởng, sống lâu vô lượng kiếp, nếu như không được giải thoát phần, nên quán sát bọn họ chỉ là người cơi địa ngục. Lại nếu có người, tuy ở địa ngục A tỳ, lâu vô lượng kiếp, chịu tất cả sự thống khổ khốc liệt nhất, nhưng nếu được giải thoát phần, nên quán sát người ấy như người cơi Niết bàn.

Thiện nam tử! V́ thế ta đối với ông Uất Đầu Lam Phất sinh tâm thương xót, c̣n đối với ông Đề Bà Đạt Đa th́ không lo lắng ǵ cả.

Thiện nam tử! Như ông Xá Lợi Phất, trong sáu vạn kiếp cầu đạo Bồ đề, sở dĩ bị thoái chuyển là v́ chưa được giải thoát phần, dù thế, căn cơ vẫn c̣n hơn hàng Duyên giác lợi căn.

Thiện nam tử! Giải thoát phần có ba bậc: hạ, trung và thượng. Bậc hạ là Thanh văn, bậc trung là Duyên giác, bậc thượng tức là chư Phật.

Thiện nam tử! Có người chuyên cần cầu giới Ưu bà tắc, trong vô lượng kiếp, tuy y như điều đă nghe mà thực hành, mà vẫn không được giới. Có người xuất gia cầu giới Tỳ khưu, giới Tỳ khưu ni, trong vô lượng kiếp, tuy y như điều đă nghe mà thực hành, mà cũng chẳng được giới. V́ sao? V́ không được giải thoát phần. Họ chỉ có thể gọi là tu tập giới luật, mà không thể gọi là nghiêm tŕ giới luật.

Thiện nam tử! Các vị Bồ tát được giải thoát phần, tuy không c̣n tạo nghiệp sinh vào ba cơi, mà vẫn thường nguyện sinh vào các cơi có thể làm được lợi ích cho chúng sinh. Nếu biết chắc ḿnh có nghiệp sinh về cơi trời, liền hồi hướng nghiệp ấy cầu sinh cơi người. Nghiệp ấy chiùnh là bố thí, tŕ giới và tu định.

Thiện nam tử! Nếu Thanh văn được giải thoát phần, không quá ba đời sẽ được giải thoát. Bậc Bích chi phật cũng thế. Các vị Bồ tát được giải thoát phần, dù trải qua vô lượng thân, nhưng luôn luôn không thoái chuyển. Tâm không thoái chuyển nầy, vượt hẳn tất cả Thanh văn, Duyên giác.

Thiện nam tử! Nếu được giải thoát phần như vậy, tuy ít bố thí mà vẫn được vô lượng quả báo. Ít tŕ giới, ít nghe pháp cũng giống như vậy. Người ấy giả sử ở trong ba đường ác, cũng không giống như chúng sinh ở trong ba cơi ấy thọ khổ. Nếu các vị Bồ tát được giải thoát phần như vậy th́ được gọi là Điều nhu địa. V́ sao gọi là Điều nhu địa? V́ tất cả phiền năo từ từ trở nên yếu thế. Đây cũng được gọi là ngược ḍng sinh tử.

Thiện nam tử! Có bốn hạng người: một là thuận ḍng sinh tử, hai là nghịch ḍng sinh tử, ba là không thuận không nghịch, bốn là đến bờ bên kia.

Thiện nam tử! Giải thoát phần nầy, đối với hàng Thanh văn, gọi là Nhu nhuyễn địa; đối với Bồ tát cũng gọi là Nhu nhuyễn địa, lại gọi là Hoan hỉ địa. V́ nghĩa nào mà gọi là Hoan hỉ địa? V́ nghe Pháp nên không thoái chuyển. Lại c̣n gọi là Bồ tát chân thực. V́ nghĩa nào mà gọi là Bồ tát chân thực? V́ thường làm cho chúng sinh khởi tâm giác ngộ. Các vị Bồ tát đó, tuy biết rơ sách vở ngoại đạo, tự ḿnh không thọ tŕ, cũng không dạy cho người khác. Họ không được gọi là người hoặc trời, cũng không thuộc vào năm nẻo. Đây gọi là tu hành đạo không chướng ngại.

Thiện nam tử! Tâm Bồ Đề có bốn hạt giống: một là không tham của cải, hai là không tiếc thân mệnh, ba là tu hạnh nhẫn nhục, bốn là thương xót chúng sinh.

Thiện nam tử! Có năm việc làm tăng trưởng hạt giống Bồ Đề: một là không nên tự khinh, cho rằng ḿnh không thể được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; hai là thọ khổ, tâm không hối hận; ba là siêng năng tu hành, chưa từng ngơi nghỉ; bốn là cứu vớt chúng sinh đang chịu vô lượng khổ năo; năm là thường ca ngợi công đức vi diệu của Tam Bảo. Người trí khi tu tập tâm Bồ đề, thường nên tu tập năm việc trên. Lại có sáu pháp làm cho hạt giống Bồ đề nảy nở tốt tươi, tức là Bố thí Ba la mật, cho đến Bát nhă Ba la mật. Sáu pháp Ba la mật nầy, do v́ một việc mà được tăng trưởng, đó là sự không phóng dật. Bồ tát nếu phóng dật, sẽ không tăng trưởng sáu pháp Ba la mật nầy. Nếu không phóng dật th́ sẽ tăng trưởng.

Thiện nam tử! Bồ tát khi cầu Bồ đề, lại có bốn việc: (1) một là gần gũi bạn lành, (2) hai là tâm bền chắc không lay chuyển, (3) ba là có thể làm những hạnh khó làm, (4) bốn là thương xót chúng sinh. Lại có bốn việc: (5) một là thấy người khác được lợi ích, tâm sinh vui mừng; (6) hai là thường vui vẻ khen ngợi công đức người khác; (7) ba là thường thích tu tập pháp lục niệm; (8) bốn là thường nói lỗi lầm của sinh tử.

Thiện nam tử! Thật là phi lư nếu có người cho rằng không có tám pháp nầy mà được Bồ đề.

Thiện nam tử! Bồ tát khi vừa phát tâm Vô thượng Bồ đề, liền được gọi là ngôi phước điền vô thượng. Vị Bồ tát đó đă vượt lên tất cả sự vật thế gian và tất cả chúng sinh.

Thiện nam tử! Tuy có người nói rằng trong vô lượng thế giới có vô lượng Phật, nhưng Phật đạo rất khó thành tựu. V́ sao? Thế giới vô biên, chúng sinh vô biên, nên chư Phật cũng vô biên. Giả sử Phật đạo dễ thành, chỉ một Đức Phật Thế Tôn cũng có thể hóa độ tất cả chúng sinh, và như vậy th́ thế giới và chúng sinh đều có hạn lượng.

Thiện nam tử! Lúc Đức Phật ra đời, có thể độ chín vạn chín na do tha chúng sinh; mỗi một vị đệ tử Thanh văn của Phật độ một na do tha chúng sinh, mà số chúng sinh vẫn không thể độ hết được, v́ thế gọi là vô biên. Do đó, trong kinh Thanh văn, ta nói không có mười phương chư Phật. V́ sao? V́ sợ các chúng sinh xem thường Phật đạo. Thánh đạo của chư Phật không nằm trong các pháp thế gian. Nên biết, lời của Như Lai không phải hư vọng, Như Lai không có tâm ghen ghét, chỉ v́ Phật đạo khó thành, nên nói là không có chư Phật ở mười phương.

Thiện nam tử! Vô lượng chúng sinh phát tâm Bồ đề, mà không thể tu hành thành tựu đạo Bồ tát. Nếu có người hỏi: “Nếu hiện tại có vô lượng chư Phật, tại sao trong kinh chỉ nói hai đời quá khứ và vị lai có vô lượng Phật, mà không nói hiện tại có vô lượng Phật?”

Thiện nam tử! Ta nói rằng ở trong một thế giới, th́ đời quá khứ và vị lai có vô lượng Phật, c̣n đời hiện tại chỉ có một Đức Phật.

Thiện nam tử! Người nào thấu rơ nghĩa chân thực sẽ thành tựu Phật đạo. Tuy vô lượng chúng sinh tu hành Phật đạo, phần lớn đều thoái chuyển. Nếu có một người thành tựu giải thoát, người đó hiếm có, như hoa Yêm la kết trái, và như trứng cá chuyển biến thành cá lớn.

Thiện nam tử! Bồ tát có hai hạng: một là tại gia, hai là xuất gia. Bồ tát xuất gia được giải thoát phần, điều này không khó. Bồ tát tại gia được giải thoát phần, điều này mới khó. V́ sao? V́ người tại gia bị nhiều ác duyên ràng buộc.

Phẩm Năm

Ba Loi B Đ

Thiện Sinh bạch Phật: “Kính bạch Đức Thế Tôn! Như Đức Thế Tôn đă nói, Bồ tát có hai hạng: một là tại gia, hai là xuất gia. Bồ đề có ba loại: Thanh văn Bồ đề, Duyên giác Bồ đề, và Phật Bồ đề. Nếu thành tựu Bồ đề gọi là Phật, tại sao Thanh văn, Bích chi phật không được gọi là Phật? Nếu người giác ngộ pháp tính được gọi là Phật, Thanh văn, Duyên giác cũng giác ngộ pháp tính, tại sao không được gọi là Phật? Nếu người chứng được Nhất thiết trí được gọi là Phật, Thanh văn, Duyên giác cũng chứng được Nhất thiết trí, tại sao không được gọi là Phật? Ở đây nói Nhất thiết trí tức là bốn Thánh đế.”

- Thiện nam tử! Bồ đề có ba loại: một là từ sự nghe Pháp mà chứng ngộ; hai là từ sự suy tư mà chứng ngộ, ba là từ sự tu hành mà chứng ngộ. Thanh văn từ sự nghe Pháp mà chứng ngộ, nên không gọi là Phật. Bích chi phật từ sự suy tư mà chứng ngộ ít phần, nên gọi là Bích chi phật. Chư Phật là bậc không thầy, cũng không nhờ nghe Pháp, hoặc suy tư, mà chỉ do sự tu hành mà giác ngộ tất cả, thế nên gọi là Phật.

Thiện nam tử! V́ thấu rơ pháp tính, nên gọi là Phật. Pháp tính có hai loại: một là tổng tướng, hai là biệt tướng. Hàng Thanh văn chỉ biết tổng tướng, nên không gọi là Phật. Bích chi phật, tuy đồng với Thanh văn biết tổng tướng, nhưng chẳng phải do sự nghe Pháp, nên gọi là Bích chi phật. Đức Như Lai Thế Tôn, thấu rơ tất cả tổng tướng, biệt tướng. Không do sự nghe Pháp, suy tư, không nương vào thầy, chỉ nương vào sự tu hành mà được giác ngộ.

Thiện nam tử! Đức Như Lai Thế Tôn trí tuệ viên măn, biết tất cả các pháp. Thanh văn, Duyên giác tuy biết rơ bốn Thánh đế, nhưng trí tuệ chưa viên măn, do nghĩa nầy nên không gọi là Phật. Đức Như Lai Thế Tôn trí tuệ viên măn, biết tất cả các pháp, nên gọi là Phật.

Thiện nam tử! Như ba con thú: thỏ, ngựa và hương tượng, lội qua sông Hằng. Chân thỏ không chạm đến đáy sông, nổi trên mặt nước mà bơi qua. Chân ngựa th́ có lúc chạm đến đáy sông, có lúc không chạm. Chân hương tượng th́ lúc nào cũng chạm đến đáy sông. Ở đây, sông Hằng tượng trưng ḍng sông mười hai nhân duyên. Khi hàng Thanh văn vượt qua ḍng sông mười hai nhân duyên, cũng giống như thỏ qua sông; khi hàng Duyên giác vượt qua, cũng giống như ngựa qua sông; khi Đức Như Lai vượt qua, cũng giống như loài hương tượng qua sông. V́ thế Đức Như Lai được gọi là Phật. Thanh văn, Duyên giác tuy đoạn phiền năo, nhưng chưa đoạn tập khí. C̣n Đức Như Lai đă nhổ tận gốc của tất cả phiền năo và tập khí, nên gọi là Phật.

Thiện nam tử! Sự nghi có hai loại: một là phiền năo nghi, hai là vô kư nghi. Hàng Nhị thừa tuy đoạn được phiền năo nghi, nhưng chưa đoạn được vô kư nghi. Như Lai đoạn hết cả hai sự nghi, nên gọi là Phật.

Thiện nam tử! Thanh văn chán sự nghe nhiều, Duyên giác nhàm sự nghĩ sâu, chỉ có Đức Phật, đối với hai việc nầy, tâm không nhàm chán, bởi thế nên gọi là Phật. Ví như vật sạch để trong đồ đựng sạch, trong ngoài đều sạch. Thanh văn, Duyên giác, trí tuệ tuy thanh tịnh, nhưng thân tâm không thanh tịnh. Như Lai không phải thế, trí tuệ và thân tâm đều thanh tịnh, thế nên gọi là Phật.

Thiện nam tử! Sự thanh tịnh có hai loại: một là trí tuệ thanh tịnh, hai là đức hạnh thanh tịnh. Thanh văn, Duyên giác tuy có trí tuệ thanh tịnh, nhưng đức hạnh không thanh tịnh. Đức Như Lai Thế Tôn trí tuệ, đức hạnh đều thanh tịnh, thế nên gọi là Phật.

Thiện nam tử! Công hạnh của Thanh văn, Duyên giác có giới hạn, c̣n công hạnh của Đức Như Lai Thế Tôn th́ không có giới hạn, thế nên gọi là Phật.

Thiện nam tử! Đức Như Lai Thế Tôn, trong một niệm trừ diệt hai chướng: một là trí chướng, hai là giải thoát chướng, thế nên gọi là Phật. Đức Như Lai đầy đủ trí nhân và trí quả,[6] thế nên gọi là Phật.

Thiện nam tử! Như Lai nói Pháp, không có hai lời, cũng không lầm lẫn, trí tuệ vô ngại, biện tài vô ngại, đầy đủ nhân trí, thời trí, tướng trí.[7] Như Lai không có che dấu, không cần ai che chở, cũng không ai có thể nói lỗi. Như Lai biết hết phiền năo của chúng sinh, nhân duyên khởi phiền năo, cùng nhân duyên diệt phiền năo. Như Lai không bị tám pháp thế gian[8] làm ô nhiễm, và có ḷng thương thấm thiết, cứu vớt chúng sinh khổ năo. Như Lai đầy đủ mười Lực, bốn pháp Vô úy, tâm Đại bi, ba Niệm, cùng sức lực của thân tâm thảy đều viên măn.

Thiện nam tử! Sức lực của thân tâm đều viên măn là thế nào? Ví như trời Đao Lợi có một thành lớn tên là Thiện Kiến. Thành ấy bề rộng mười vạn dặm, có trăm vạn cung điện. Số các vị trời ở trong thành có đến mười triệu sáu trăm sáu mươi sáu ngàn sáu trăm sáu mươi sáu. Trong ba tháng mùa hạ, vua Đế Thích muốn đến rừng Ba Lợi Chất Đa du ngoạn. Trên núi Kiền Đà, có con hương tượng bảy đầu tên là Y La Bát Na. Vua Đế Thích vừa động niệm, th́ voi kia đă biết, và liền đến chỗ Đế Thích. Tất cả các vị trời trong thành đều ngồi trên đầu của voi mà đến rừng Ba Lợi Chất Đa, cách thành khoảng năm mươi do tuần, du ngoạn. Sức mạnh của voi Y La Bát Na hơn tất cả các hương tượng. Giả sử tụ tập một vạn tám ngàn thớt voi như Y La Bát Na, sức mạnh đó chẳng qua chỉ bằng sức lực của một lóng tay của đức Phật. Phải nên biết rằng, sức mạnh của thân Phật mạnh hơn tất cả sức lực của chúng sinh. Thế giới không ngằn mé, chúng sinh không ngằn mé, tâm lực của Đức Như Lai cũng không ngằn mé. Bởi vậy chỉ có Đức Như Lai được tôn xưng là Phật, mà chẳng phải hàng Nhị thừa có thể được xưng là Phật.

Và cũng v́ thế mà Đức Như Lai được tôn xưng là bậc Vô Thượng Sư, bậc Đại Trượng Phu; là Hương Tượng, Sư Tử, Long Vương trong loài người; là bậc Điều Ngự, bậc Đạo Sư, bậc Đại Thuyền Sư, bậc Đại Y Sư, là vua trong loài Đại Ngưu, là Ngưu Vương trong loài người, cũng gọi là Liên Hoa Thanh Tịnh, là bậc Không Thầy Tự Ngộ, làm Nhăn Mục cho chúng sinh. Lại cũng gọi là bậc Đại Thí Chủ, Đại Sa Môn, Đại Bà La Môn. Là bậc tŕ giới, tâm trí tịch tĩnh, tinh tiến tu hành, đă đến bờ bên kia, và đạt đến giải thoát.

Thiện nam tử! Hàng Thanh văn, Duyên giác tuy đă được Bồ đề, đều không được những việc như trên. Bởi thế, chỉ có những bậc đầy đủ đức hạnh như trên mới được tôn xưng là Phật.

Thiện nam tử! Bồ tát có hai hạng: một là tại gia, hai là xuất gia. Bồ tát xuất gia phân biệt ba loại Bồ đề không khó. Bồ tát tại gia phân biệt ba loại Bồ đề, điều này mới khó. V́ sao? V́ người tại gia bị nhiều ác duyên ràng buộc

Phẩm Sáu

Tu Tp Nghip Ba Mươi Hai Tướng

Thiện Sinh bạch Phật: “Kính bạch Đức Thế Tôn! Như Phật đă dạy, thân lực của Bồ tát khi nào được thành tựu?”

Đức Phật bảo Thiện Sinh: “Thiện nam tử! Bồ tát lúc mới bắt đầu tu nghiệp ba mươi hai tướng, liền được thành tựu thân lực.

Thiện nam tử! Hành giả lúc tu tập hạnh nghiệp như vậy được gọi là Bồ tát. Vị Bồ tát nầy được hai tam muội: một là tam muội giải thoát, hai là tam muội hiện hữu trong ba cơi. Lại được hai tam muội: một là tam muội biết đời quá khứ, hai là tam muội sinh ra nhân của Chánh pháp.

Thiện nam tử! Bồ tát lúc bắt đầu tu tập hạnh nghiệp ba mươi hai tướng, cho đến lúc thành bậc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, trong khoảng trung gian, nghe nhiều Phật pháp không biết nhàm chán. Bậc Đại Bồ tát khi tu hành nghiệp ba mươi hai tướng, lúc tu mỗi tướng, đều đem trăm phước trang nghiêm. Khi tu tập tâm Bồ đề được năm mươi phước, và đến khi viên măn lại được thêm năm mươi phước, v́ thế gọi là một trăm loại phước đức.

Thiện nam tử! Tất cả phước đức của thế gian, không bằng công đức của một lỗ chân lông của Đức Như Lai. Công đức của tất cả chân lông của Như Lai, không bằng công đức của một vẻ đẹp trong tám mươi vẻ đẹp. Tụ hợp tất cả công đức của tám mươi vẻ đẹp, không bằng công đức của một tướng trong ba mươi hai tướng. Tất cả công đức của các tướng, không bằng công đức của tướng Bạch hào. Công đức của tướng Bạch hào lại không bằng công đức của tướng Vô kiến đỉnh.

Thiện nam tử! Bồ tát thường ở trong vô lượng kiếp, v́ tất cả chúng sinh làm lợi ích lớn, chí tâm siêng năng làm tất cả nghiệp lành, v́ thế thành tựu đầy đủ Như Lai vô lượng công đức. Ba mươi hai tướng đó, tức là quả báo của tâm Đại bi. Chuyển luân thánh vương tuy cũng có ba mươi hai tướng, nhưng không được rơ ràng và hoàn bị như của Đức Phật. Nghiệp thể của ba mươi hai tướng đó tức là thân khẩu ư. Chỉ có người ở ba châu: Đông thắng thần châu, Nam thiệm bộ châu, và Tây ngưu hóa châu, mới có thể tu nghiệp ba mươi hai tướng đó, chứ không phải người cơi trời, hay người ở Bắc câu lô châu, vả lại, phải là thân người nam, không phải là thân người nữ, mới được ba mươi hai tướng nầy. Các vị Đại Bồ tát tu nghiệp ba mươi hai tướng được viên măn, tức là viên măn ba A tăng kỳ kiếp, sẽ chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Thiện nam tử! Khi xưa ta ở nơi Đức Phật Bảo Đỉnh, viên măn A tăng kỳ kiếp thứ nhất, ở Đức Phật Nhiên Đăng, viên măn A tăng kỳ kiếp thứ hai, và ở Đức Phật Ca Diếp, viên măn A tăng kỳ kiếp thứ ba.

Thiện nam tử! Ta ở Đức Cổ Phật Thích Ca Mâu Ni, mới bắt đầu phát tâm Vô thượng Bồ đề. Sau khi phát tâm, ta đă cúng dường chư Phật, nhiều như số cát trong vô lượng sông Hằng; trồng các căn lành, tu tập đạo hạnh, ǵn giữ giới luật, siêng năng, và nghe nhiều Phật pháp.

Thiện nam tử! Bậc Đại Bồ tát sau khi tu nghiệp ba mươi hai tướng ấy, tự biết ḿnh sẽ chứng đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, rơ ràng như xem quả Am ma lặc trong ḷng bàn tay. Nghiệp ba mươi hai tướng tuy cố định, thế nhưng, khi tu tập các nghiệp nầy, không cần phải theo thứ tự nhất định.

(1) Hoặc có người nói, Đức Như Lai trước tiên được tướng con mắt như mắt Ngưu Vương. V́ sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời, ưa đem cặp mắt hiền từ nh́n chúng sinh, v́ thế nên trước tiên được tướng mắt như Ngưu Vương, và kế đó được các tướng khác; (2) hoặc có người nói, Đức Như Lai trước tiên được tướng tám thứ Phạm âm, kế đó được các tướng khác. V́ sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời, thường dùng lời nhỏ nhẹ, lời chào đón, lời chân thực, dạy dỗ chúng sinh, v́ thế nên trước tiên được tướng tám thứ Phạm Âm; (3) hoặc có người nói, Đức Như Lai trước tiên được tướng Vô kiến đỉnh, kế đó được các tướng khác. V́ sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời, cúng dường sư trưởng, chư Phật, Bồ tát, cúi đầu lễ bái, phá tâm kiêu mạn, v́ thế nên trước tiên được tướng Vô kiến đỉnh; (4) hoặc có người nói, Đức Như Lai trước tiên được tướng lông Bạch hào, kế đó được các tướng khác. V́ sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời, đă không dối gạt tất cả chúng sinh, v́ thế nên trước tiên được tướng lông Bạch hào. Ngoại trừ Đức Phật Thế Tôn, không người nào có thể nói rành rẽ nghiệp của các tướng đó như vậy.

Hoặc có người theo thứ lớp nói rằng: (1) Đức Như Lai trước tiên được tướng ḷng bàn chân bằng phẳng, và kế đó được các tướng khác. V́ sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời, bố thí, giữ giới, tu tập đạo hạnh, tâm không lay động, v́ thế nên trước tiên được tướng ḷng bàn chân bằng phẳng; (2) được tướng ấy rồi, kế đến được ḷng bàn chân có tướng bánh xe ngàn căm. V́ sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời, cúng dường cha mẹ, sư trưởng, bạn lành, đúng như pháp ủng hộ tất cả chúng sinh, v́ thế ḷng bàn chân, bàn tay đều có tướng bánh xe ngàn căm; (3) được tướng ấy rồi, kế đến được tướng ngón tay thon dài. V́ sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, chí tâm thọ tŕ giới ưu bà tắc thứ nhất và thứ tư, v́ thế được tướng ngón tay thon dài, và tướng gót chân đầy đặn; (4) được tướng ấy rồi, kế đến được tướng hai vai đầy đặn. V́ sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, tùy thuận lời dạy của sư trưởng, cha mẹ, bạn lành, v́ thế được tướng hai vai đầy đặn; (5) được tướng ấy rồi, kế đến được tướng màng lưới giữa các ngón tay và chân. V́ sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, đem pháp Tứ nhiếp nhiếp thọ chúng sinh, thế nên được tướng màng lưới giữa các ngón tay và chân; (6) được tướng ấy rồi, kế đến được tướng tay chân mềm mại hơn các tướng khác của thân thể. V́ sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời, dùng tay thoa bóp, tắm rửa thân thể của cha mẹ, sư trưởng, làm sạch cấu nhơ, lại dùng dầu thơm thoa xức, v́ thế nên được tướng tay chân mềm mại; (7) được tướng ấy rồi, kế đến được tướng lông trên thân đều xoay lên về phía phải. V́ sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời, thường dạy dỗ chúng sinh, khiến tu bố thí, giữ giới và làm các việc lành, thế nên được tướng lông xoay lên về phía phải; (8) được tướng ấy rồi, kế đến được tướng bắp đùi như Lộc vương. V́ sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, chí tâm nghe Pháp, chí tâm nói Pháp, v́ muốn phá tan các tội lỗi sinh tử, thế nên được tướng bắp đùi như Lộc vương; (9) được tướng ấy rồi, kế đến được tướng thân thể tṛn trịa, như cây Ni câu đà. V́ sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời, thường bố thí thuốc men cho tất cả chúng sinh có bệnh, thế nên được tướng thân thể tṛn trịa; (10) được tướng ấy rồi, kế đến được tướng cánh tay dài quá đầu gối. V́ sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, không bao giờ lừa dối tất cả Hiền thánh, cha mẹ, sư trưởng, bạn bè, cùng bậc thiện tri thức, thế nên được tướng cánh tay dài quá đầu gối; (11) được tướng ấy rồi, kế đến được tướng Âm tàng của Tượng vương, Mă vương. V́ sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời, thấy người sợ hăi liền che chở, nâng đỡ họ, thường sinh tâm hổ thẹn, không nói lỗi người, lại khéo che tội cho họ, thế nên được tướng Âm tàng như vậy; (12) được tướng ấy rồi, kế đến được tướng thân mềm mại, mỗi chân lông chỉ mọc một sợi lông. V́ sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời, gần gũi người trí, ưa nghe và đàm luận Chánh pháp, nghe xong vui vẻ tu hành, lại hay sửa sang đường xá, nhặt dọn gai góc, thế nên được tướng da thịt mịn màng, mỗi chân lông mọc một sợi lông; (13) được tướng ấy rồi, kế đến được tướng thân màu hoàng kim. V́ sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời, thường bố thí chúng sinh nhà cửa, giường chiếu, thức ăn, đèn đuốc, thế nên được tướng thân màu hoàng kim; (14) được tướng ấy rồi, kế đến được tướng bảy chỗ trên thân tṛn đầy. V́ sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời, dù chỗ đáng giận cũng không sinh ḷng giận, vui vẻ bố thí những ǵ mà chúng sinh mong muốn, thế nên được tướng bảy chỗ trên thân tṛn đầy; (15) được tướng ấy rồi, kế đến được tướng chỗ những khớp xương đều viên măn. V́ sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời, khéo phân biệt tướng lành dữ, lời nói không sai lầm, không nói lời vô nghĩa, thường nói Pháp thích hợp với căn cơ chúng sinh, nếu không th́ không nói, thế nên được tướng chỗ những khớp xương viên măn; (16), (17) được tướng ấy rồi, kế đến được hai tướng: một là thân trên, hai là hai má, đều như tướng của sư tử. V́ sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời, tự ḿnh không nói đâm thọc, lại dạy người khác không nói đâm thọc, thế nên được hai tướng như thế; (18), (19), (20) được tướng ấy rồi, kế đến được ba tướng: một là có bốn mươi cái răng, hai là răng thật trắng, ba là răng mọc khít và bằng nhau. V́ sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời, dùng mười pháp lành giáo hóa, chúng sinh thọ rồi, tâm sinh vui mừng, lại thường ưa ca tụng công đức người khác, thế nên được ba tướng như vậy; (21) được tướng ấy rồi, kế đến được tướng bốn răng nanh trắng sạch. V́ sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời, tu tập tâm từ bi của cơi dục giới, thường hay suy ngẫm pháp lành, thế nên được tướng bốn răng nanh trắng sạch; (22) được tướng ấy rồi, kế đến được tướng vị giác thù thắng nhất. V́ sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời, không đợi người xin rồi sau mới bố thí, thế nên được tướng vị giác thù thắng nhất; (23), (24) được tướng ấy rồi, kế đến được hai tướng: một là tướng nhục kế, hai là tướng lưỡi rộng dài. V́ sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời, chí tâm thọ tŕ pháp Thập thiện, đồng thời giáo hóa chúng sinh, thế nên được hai tướng như thế; (25) được tướng ấy rồi, kế đến được tướng Phạm âm. V́ sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời, tự ḿnh không nói lời ác, dạy dỗ người khác không nói lời ác, thế nên được tướng Phạm âm; (26) được tướng ấy rồi, kế đến được tướng cặp mắt xanh biếc như Ngưu vương. V́ sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời, đem cặp mắt từ ái nh́n chúng sinh, thân thù b́nh đẳng, thế nên được tướng cặp mắt xanh như Ngưu vương; (27) được tướng ấy rồi, kế đến được tướng Bạch hào. V́ sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời, giảng nói Chánh pháp, chân thực không hư dối, thế nên được tướng Bạch hào; (28) được tướng ấy rồi, kế đến được tướng Vô kiến đỉnh. V́ sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời, thường cung kính lễ bái tất cả Hiền thánh, sư trưởng, cha mẹ, tôn trọng, ca ngợi, cung kính, cúng dường, thế nên được tướng Vô kiến đỉnh.

Thiện nam tử! Bồ tát có hai hạng: một là tại gia, hai là xuất gia. Bồ tát xuất gia tu nghiệp ba mươi hai tướng, điều này  không khó. Bồ tát tại gia tu nghiệp ba mươi hai tướng, điều này mới khó. V́ sao? V́ người tại gia bị nhiều ác duyên ràng buộc.

Phẩm Bảy

Phát Nguyn

Thiện Sinh bạch Phật: “Kính bạch Đức Thế Tôn! Ai là người có thể tu nghiệp ba mươi hai tướng?”  

Đức Phật bảo Thiện Sinh: “Thiện nam tử! Người trí có thể tu.”

- Kính bạch Đức Thế Tôn! Thế nào gọi là người trí?

- Thiện nam tử! Người trí là người có thể phát nguyện rộng lớn vô thượng.

Bậc Đại Bồ tát sau khi phát tâm, tất cả nghiệp lành của thân khẩu ư, đều hồi hướng, đều nguyện v́ chúng sinh, nguyện trong tương lai được thành Phật, tất cả chúng sinh cũng được thành Phật. Bậc Đại Bồ tát thường gần gũi chư Phật, Thanh văn, Duyên giác, cùng những bậc thiện tri thức, cúng dường, cung kính, thưa hỏi Phật Pháp thâm sâu, thọ tŕ không xao lăng.

Các vị Đại Bồ tát ấy phát nguyện rằng: “Con nay gần gũi chư Phật, Thanh văn, Duyên giác, và bạn lành. Thà thọ vô lượng khổ năo dữ dội, nhưng quyết không thoái chuyển đạo Bồ đề. Chúng sinh nếu dùng ḷng độc ác đến đánh đập, chửi rủa, hủy nhục con, nguyện con nhờ nhân duyên nầy, tăng trưởng tâm từ bi, không sinh niệm ác. Nguyện con đời sau, bất cứ chỗ nào, đều không thọ thân người nữ, không căn, hai căn, hoặc làm thân nô tỳ. Lại nguyện thân con được sức lực tự tại để lĩnh đạo người khác, mà không để cho họ sai sử con. Nguyện thân con không bị tàn khuyết, xa ĺa bạn ác, không sinh vào nước dữ, bộ lạc dă man, mà thường sinh vào ḍng họ cao sang, dung nhan tuấn tú, của báu tự tại. Nguyện được tâm ư hiền ḥa, tự tại, cương nghị và dũng mănh, nếu nói ra điều ǵ, người nghe đều vui nhận. Nguyện xa ĺa các chướng ngại, không c̣n phóng dật, ĺa bỏ tất cả nghiệp ác của thân khẩu ư, thường v́ chúng sinh mà làm tất cả sự lợi ích. Nguyện con v́ muốn lợi ích chúng sinh, không tham tiếc thân mệnh, không v́ thân mệnh ḿnh mà tạo nghiệp ác, khi làm lợi cho chúng sinh, không cầu sự trả ơn. Nguyện thường hay thọ tŕ mười hai phần giáo, sau khi thọ tŕ, đem dạy người khác. Nguyện con có thể dẹp tan sai lầm và nghiệp ác của chúng sinh. Nguyện con đối với tất cả sự việc trên đời, không ai hơn được, sau khi được hơn tất cả, dùng phương tiện đó giáo hóa chúng sinh. Nguyện khéo trị các chứng bệnh nặng nơi thân tâm của chúng sinh. Nguyện khi thấy người chia ly, giúp cho ḥa hợp, thấy người sợ hăi, t́m cách che chở, cứu vớt, kế đó nói pháp lành, khiến họ nghe xong, tâm ư nhu ḥa phục thiện. Nguyện con khi thấy chúng sinh đói khát, bố thí thân ḿnh, làm cho họ được no đủ, nguyện họ không sinh tâm tham ác, khi ăn thân nầy, nguyện họ không tham luyến, như ăn cây cỏ. Nguyện thường hay cúng dường sư trưởng, cha mẹ, bạn lành và bậc Hiền đức, đối người thân, kẻ thù, tâm thường b́nh đẳng. Nguyện thường tu pháp lục niệm, quán vô ngă, và mười hai nhân duyên. Nguyện con lúc không có ngôi Tam Bảo, thường ở nơi tịch tĩnh, tu tập tâm từ bi. Nguyện tất cả chúng sinh, hoặc nghe tên, hoặc nh́n thấy, hoặc xúc chạm vào thân con, đều được xa ĺa phiền năo.” Bồ tát tuy biết rằng, ngoại trừ quả vị Vô thượng Bồ đề, không nên cầu quả báo nào khác, thế nhưng v́ chúng sinh nên vẫn mong cầu, hầu làm lợi ích rộng lớn cho họ.

Thiện nam tử! Bồ tát nếu lập đại nguyện như vậy, phải biết người đó là vị trưởng giả đầy đủ vô thượng pháp tài, đang cầu ngôi vị Pháp vương mà chưa được.

Thiện nam tử! (1) Bậc Đại Bồ tát làm tṛn ba việc th́ được gọi là vị trưởng giả đầy đủ pháp tài: một là tâm không ưa thích kinh điển ngoại đạo; hai là tâm không tham luyến cảnh vui sinh tử; ba là thường ưa thích cúng dường Tam Bảo. (2) Lại có ba việc: một là v́ chúng sinh thọ khổ, tâm không hối hận; hai là đầy đủ trí tuệ vi diệu vô thượng; ba là khi đủ pháp lành, không sinh kiêu mạn. (3) Lại có ba việc: một là v́ chúng sinh mà chịu khổ địa ngục, nhưng vẫn xem như thọ sự vui của cơi Tam thiền; hai là thấy người khác được lợi, tâm không sinh ghen ghét; ba là không v́ quả báo trong sinh tử mà tạo nghiệp lành. (4) Lại có ba việc: một là thấy người thọ khổ, xem như chiùnh ḿnh thọ; hai là làm tất cả điều lành đều v́ chúng sinh; ba là khéo lập phương tiện độ người thoát khổ. (5) Lại có ba việc: một là quán sát sự vui trong sinh tử xem như rắn độc; hai là ưa trong cảnh sinh tử làm lợi ích chúng sinh; ba là quán Vô sinh pháp nhẫn có nhiều công đức. (6) Lại có ba việc: một là v́ lợi ích chúng sinh mà bố thí thân thể; hai là bố thí mạng sống; ba là bố thí của cải. (7) Lại có ba việc: một là nghe nhiều Phật pháp không nhàm chán; hai là nhẫn chịu cảnh ác; ba là dạy người khác tu nhẫn nhục. (8) Lại có ba việc: một là hay xét lỗi ḿnh; hai là khéo che lỗi người; ba là ưa tu tâm từ. (9) Lại có ba việc: một là chí tâm thọ tŕ cấm giới; hai là dùng pháp Tứ nhiếp thâu phục chúng sinh; ba là lời nói dịu dàng không thô bạo. (10) Lại có ba việc: một là đem Phật pháp bố thí chúng sinh; hai là đem tài sản bố thí chúng sinh; ba là khuyến khích chúng sinh bố thí tài sản và Phật pháp. (11) Lại có ba việc: một là thường đem pháp Đại Thừa giáo hóa chúng sinh; hai là thường tu tập để thăng tiến; ba là không khinh mạn chúng sinh. (12) Lại có ba việc: một là dù đầy phiền năo, nhưng vẫn nhẫn chịu được; hai là tuy biết phiền năo nhiều lỗi lầm, ḷng vẫn an vui không nhàm chán; ba là tuy ḿnh c̣n đầy đủ phiền năo, vẫn có thể diệt trừ phiền năo cho người khác. (13) Lại có ba việc: một là thấy người được lợi, vui như ḿnh được; hai là được sự an vui, không giữ riêng ḿnh hưởng thọ; ba là đối giáo pháp Tiểu Thừa, không sinh tâm tự măn. (14) Lại có ba việc: một là nghe sự khổ hạnh của Bồ tát, tâm không kinh sợ; hai là có người đến xin, không bao giờ từ chối; ba là không bao giờ nghĩ ḿnh hơn tất cả.

Thiện nam tử! Bồ tát nếu quán nhân, quán quả, quán nhân quả, hay là quán quả nhân,[9] Bồ tát đó có thể đoạn trừ nhân quả thế gian. Nếu Bồ tát có thể đoạn trừ nhân quả, chứng được nhân quả, th́ gọi là pháp quả, là vua của các pháp, tự tại với các pháp.

Thiện nam tử! Bồ tát có hai hạng: một là tại gia, hai là xuất gia. Bồ tát xuất gia lập nguyện như vậy, điều này không khó. Bồ tát tại gia lập nguyện như vậy, điều này mới khó. V́ sao? V́ người tại gia bị nhiều ác duyên ràng buộc.

Phẩm Tám

B Tát Gi Danh B Tát Thc Nghĩa

Thiện Sinh bạch Phật: “Kính bạch Đức Thế Tôn! Như Đức Phật đă dạy, Bồ tát có hai hạng: một là Bồ tát giả danh, hai là Bồ tát thực nghĩa. Thế nào gọi là Bồ tát giả danh? (Thế nào là Bồ tát thực nghĩa?)”

- Thiện nam tử! Chúng sinh phát tâm Bồ Đề rồi, được gọi là Bồ tát giả danh, nếu ưa học pháp thuật, cùng đọc tụng kinh điển của ngoại đạo, lại đem pháp ấy giáo hóa chúng sinh. Không thích tu tâm Từ bi, v́ thân mệnh ḿnh  mà giết hại chúng sinh. Tham mê sinh tử, thường tạo nghiệp mong hưởng cảnh vui hữu lậu. Không có ḷng tin, lại sinh tâm nghi ngờ Tam Bảo. Tham tiếc giữ ǵn thân mệnh, không thể nhẫn nhục. Lời nói cộc cằn, hối hận, buông lung, sinh ḷng tự khinh, nghĩ ḿnh không thể được quả Vô Thượng Bồ Đề. Đối với phiền năo, sinh ḷng khiếp sợ, không chịu siêng tu phương tiện tiêu diệt phiền năo. Thường sinh ḷng bỏn sẻn, ganh ghét, giận dữ, gần gũi bạn ác, biếng nhác, loạn tâm. Ưa ở trong vô minh, không tin pháp Lục độ. Không chịu tu phước đức, không chịu quán sinh tử. Thường ưa nghe theo lời ác của người khác. Những người như vậy được gọi là Bồ tát giả danh.

Thiện nam tử! Lại có chúng sinh phát tâm mong cầu quả vị Vô Thượng Bồ Đề, nghe nói phải siêng năng tu tập gian khổ, trải qua vô lượng kiếp sau đó mới được, nghe rồi sinh ḷng hối tiếc. Tuy thân tu hành đạo nghiệp, mà tâm không chân thực. Không biết hổ thẹn, không có ḷng thương người. Hay thờ phụng ngoại đạo, giết dê tế trời. Dù có chút ít ḷng tin, tâm không bền chắc. V́ sự vui ngũ dục mà tạo rất nhiều tội ác. Ỷ vào sắc đẹp, tuổi thọ và tài sản mà sinh tâm kiêu mạn. Hành động điên đảo, không đem lại lợi ích. V́ ham thú vui sinh tử mà bố thí, v́ muốn sinh cơi trời mà giữ giới, v́ muốn sống lâu mà tu thiền định. Những người như vậy gọi là Bồ tát giả danh.

Thiện nam tử! Bồ tát thực nghĩa là người có thể nghe hiểu nghĩa lư sâu xa, ưa gần bạn lành, ưa cúng dường sư trưởng, cha mẹ, bạn lành; ưa nghe mười hai phần giáo của Như Lai, thọ tŕ, đọc tụng, biên chép, suy tư nghĩa lư. V́ nhân duyên cầu Pháp, không tiếc thân mệnh, vợ con, của cải. Tâm ư kiên cố, thương xót chúng sinh. Nói lời dịu dàng, lời chào đón, lời chân thật. Không nói lời thô ác hoặc đâm thọc. Không tự khinh chiùnh ḿnh. Bố thí rộng răi không hề lưỡng lự. Thường ưa dùi mài lưỡi gươm trí tuệ. Học tập kinh sách ngoại đạo, chỉ v́ muốn phá dẹp và siêu việt tà kiến. Rành rẽ phương tiện điều phục chúng sinh. Ở giữa đám đông, tâm không khiếp sợ. Thường dạy chúng sinh rằng đạo Bồ Đề dễ được, làm cho người nghe không sinh ḷng lo sợ, mà siêng năng tu hành. Coi thường phiền năo, không để cho phiền năo lay động ḿnh. Tâm không buông lung, thường tu nhẫn nhục. V́ muốn đắc quả vị Niết Bàn mà tŕ giới và tu tập tinh tiến. Nguyện làm người phục dịch cho chúng sinh, làm cho họ được an ổn, vui sướng. V́ người khác chịu khổ, tâm không sinh hối hận. Thấy người thoái thất tâm Bồ Đề, sinh ḷng thương xót. Cứu vớt tất cả chúng sinh khổ năo, quán sát lỗi lầm và tội ác của sinh tử. Có thể viên măn sáu pháp Ba la mật vô thượng. Làm mọi sự việc đều hơn chúng sinh. Ḷng tin vững chắc, tu tập từ bi mà không mong cầu quả báo. Đối với người thân kẻ thù, tâm coi như một. Lúc bố thí tài vật tâm thường b́nh đẳng, lúc thí xả thân ḿnh cũng thế. V́ biết tướng hữu vi là vô thường, nên không tiếc thân mệnh. Dùng pháp Tứ nhiếp thâu phục chúng sinh. Biết rơ Thế tục đế nên tùy thuận chúng sinh. Khi v́ chúng sinh mà thọ khổ, tâm không lay động như núi Tu di. Tuy thấy chúng sinh tạo nhiều nghiệp ác, ít người làm lành, nhưng vẫn không bỏ rơi họ. Đối với Tam Bảo không sinh ḷng nghi, thường ưa cúng dường. Lúc có ít tài vật, trước bố thí người nghèo, sau cúng dường Tam Bảo. Làm việc ǵ, trước đều v́ người nghèo, sau mới v́ người giàu. Ưa khen ngợi sự hay của người, v́ họ mà giảng Phật pháp, hầu mở đường cho họ đến Niết Bàn. Muốn người khác học tất cả các kỹ thuật. Thấy người học hơn ḿnh, tâm sinh vui mừng. Không nghĩ đến lợi ḿnh, mà thường nghĩ đến việc lợi người. Tất cả nghiệp lành thân khẩu ư, đều không v́ chiùnh ḿnh, mà v́ chúng sinh. Đây gọi là Bồ tát thực nghĩa.

Thiện nam tử! Bồ tát có hai hạng: một là tại gia, hai là xuất gia. Bồ tát xuất gia muốn thành Bồ tát thực nghĩa, điều này không khó. Bồ tát tại gia muốn thành Bồ tát thực nghĩa, điều này mới khó. V́ sao? V́ người tại gia bị nhiều ác duyên ràng buộc.

Phẩm Chín

Tâm Kiên C Ca B Tát Thc Nghĩa

Thiện Sinh bạch Phật: “Kính bạch Đức Thế Tôn! Bồ tát thực nghĩa làm sao biết ḿnh là Bồ tát thực nghĩa?”

- Thiện nam tử! Bậc Đại Bồ tát lúc tu khổ hạnh, trước hết phải nên tự giữ tâm ḿnh.

Thiện nam tử! Ta nhớ thuở xưa lúc c̣n tu hạnh Bồ tát, trước theo ngoại đạo học pháp khổ hạnh, hết ḷng tu tập, tâm không thoái chuyển. Trong vô lượng đời, dùng tro bôi thân, mỗi ngày ăn một hạt mè, hạt đậu. Dùng chông gai, cây đá làm chỗ lót nằm. Lấy phân cùng nước tiểu làm thuốc trị bệnh. Trong mùa hè nóng bức, dùng năm thứ lửa đốt thân. Trong mùa đông buốt giá, dùng nước đá chà xát vào thân. Hoặc ăn cỏ, rễ, nhành, lá, quả; hoặc ăn đất, hoặc hớp gió. Lúc tu những sự khổ hạnh như vậy, thân ḿnh thân người đều không lợi ích. Tuy thế, tâm vẫn không thoái sụt, mà c̣n vượt hơn tất cả khổ hạnh của ngoại đạo.

Thiện nam tử! Ta thuở xưa v́ bốn việc mà hy sinh thân mệnh: một là v́ muốn phá phiền năo của chúng sinh; hai là v́ muốn làm chúng sinh được an vui; ba là v́ muốn phá trừ sự tham đắm thân thể; bốn là v́ muốn báo ơn sinh dưỡng của cha mẹ. Bồ tát nếu không tiếc thân mệnh, quyết định biết ḿnh là Bồ tát thực nghĩa.

Thiện nam tử! Trong quá khứ, v́ cầu Chánh pháp, ta đă khoét thân làm ba ngàn sáu trăm ngọn đèn. Lúc bấy giờ, ta tuy vẫn c̣n đầy phiền năo, thân thể đau đớn, nhưng v́ muốn chúng sinh được độ thoát sinh tử, ta tự an ủi khiến ḷng kiên quyết, không sinh tâm thoái chuyển. Lúc đó được đầy đủ ba việc: một là rốt ráo không c̣n thoái chuyển; hai là trở thành Bồ tát thực nghĩa; ba là được chúng sinh gọi là bậc không thể nghĩ bàn. Đây gọi là Bồ tát không thể nghĩ bàn. Lại nhớ khi xưa v́ cầu Chánh pháp, trong một đại kiếp, khắp thân chịu sự thống khổ của hàng ngàn mụt nhọt. Lúc đó, ta tuy vẫn c̣n đầy phiền năo, thân thể đau đớn, nhưng v́ muốn chúng sinh đều được độ thoát, ta tự an ủi, khiến ḷng kiên quyết, không sinh tâm thoái chuyển. Đây gọi là Bồ tát không thể nghĩ bàn. Khi xưa ta v́ một con bồ câu mà bố thí thân mệnh của ḿnh. Lúc bấy giờ ta c̣n đầy phiền năo, thân thể đau đớn, nhưng v́ muốn chúng sinh được độ thoát, ta tự an ủi, khiến ḷng kiên quyết, không sinh tâm thoái chuyển. Đây gọi là Bồ tát không thể nghĩ bàn.

Thiện nam tử! Tất cả bạn ác, phiền năo và nghiệp, chiùnh là người bạn làm trang nghiêm đạo nghiệp của Bồ tát. V́ sao? V́ tất cả phàm phu không có trí tuệ và chánh niệm, nên đem phiền năo làm kẻ oán địch; c̣n Bồ tát đầy đủ trí tuệ và chánh niệm, nên đem phiền năo làm người bạn đạo. Trường hợp bạn ác và nghiệp cũng tương tự như thế.

Thiện nam tử! Người đă đoạn phiền năo, th́ không c̣n phải thọ thân trong các cơi ác. Thế nên, Bồ tát tuy thị hiện làm nghiệp ác, thực sự không phải do thân khẩu ư làm ra, mà là do sức mạnh của thệ nguyện. Như v́ muốn điều phục loài bàng sinh, do thệ nguyện mà thọ thân thú dữ. Bồ tát tuy thị hiện thọ thân cầm thú, hiểu rơ tiếng người, lời pháp, lời chân thực, lời không thô ác, lời không vô nghĩa; tâm thường thương xót, tu tập từ bi, ḷng không buông lung. Đấy gọi là Bồ tát không thể nghĩ bàn.

Thiện nam tử! Thuở xưa lúc ta thọ thân gấu, dù vẫn c̣n đủ phiền năo, nhưng ta không c̣n bị phiền năo lay chuyển. V́ sao? V́ ta đầy đủ chánh niệm, thương xót chúng sinh, ủng hộ Chánh pháp, tu hành pháp hạnh. Thọ thân trâu, chim, thỏ, rắn, rồng, voi, kim xí điểu, bồ câu, nai, vượn, dê, gà, chim trĩ, khổng tước, anh vũ, các loài cóc nhái. Lúc ta thọ thân chim, thú như vậy, tuy vẫn c̣n đủ phiền năo, nhưng phiền năo đối với ta không c̣n sức tự tại. V́ sao? V́ ta đầy đủ chánh niệm, thương xót chúng sinh, ủng hộ Chánh pháp, tu hành pháp hạnh.

Thiện nam tử! Trong đời đói khổ, ta lập đại nguyện, do nguyện lực mà thọ thân làm loài cá lớn, làm cho chúng sinh khỏi sự đói khát. Người nào ăn thịt ta, đều tu hành, tư duy chánh đạo, không phạm tội ác. Trong đời nhiều tật dịch, ta lập đại nguyện, do nguyện lực mà thọ thân làm cây thuốc. Những người bệnh tật thấy, nghe, hoặc chạm đến thân ta, hoặc ăn da, thớ, máu, thịt, xương, tủy của ta th́ bệnh hoạn đều lành.

Thiện nam tử! Bậc Đại Bồ tát thọ khổ như vậy, tâm không thoái chuyển, gọi là Bồ tát thực nghĩa.

Lúc Bồ tát tu hành sáu pháp Ba la mật, chung qui không mong cầu quả báo, chỉ lấy sự lợi ích chúng sinh làm sự nghiệp. Bồ tát thấy rơ lỗi lầm của sinh tử, nhưng vẫn ưa ở trong sinh tử để làm lợi ích chúng sinh, khiến cho họ được an vui. Bồ tát hiểu rơ niềm vui của giải thoát, sự lỗi lầm của sinh tử, mà vẫn có thể ở trong sinh tử, đây là hạnh không thể nghĩ bàn của họ. Bồ tát làm việc ǵ, không cầu báo ơn; c̣n đối với người làm ơn cho ḿnh, th́ thường nghĩ đến sự trả ơn.

Thiện nam tử! Tất cả chúng sinh thường cầu tự lợi, Bồ tát làm việc thường mong lợi người. Đây là hạnh không thể nghĩ bàn của Bồ tát.

Thiện nam tử! Bọn ngoại đạo lúc giáo hóa chúng sinh, hoặc dùng lời hung ác, đánh đập, nhục mạ, xua đuổi, sau đó mới điều phục. Bồ tát không phải thế, lúc giáo hóa chúng sinh, không dùng lời thô tục, lời giận dữ, lời vô ích, mà chỉ dùng lời nhỏ nhẹ, lời chân thực mà giáo hóa họ. Chúng sinh nghe rồi, như hoa sen xanh dưới ánh trăng, như hoa sen đỏ dưới ánh mặt trời.

Thiện nam tử! Lúc Bồ tát bố thí, tuy ít tiền của, thấy nhiều người đến xin, không sinh tâm chán ghét. Đây là hạnh không thể nghĩ bàn của Bồ tát. Dù dạy dỗ người mù, điếc, câm, ngọng, ngu si, hoặc người dă man, hung ác, nhưng tâm vẫn không nhàm chán. Đây là hạnh không thể nghĩ bàn của Bồ tát.

Thiện nam tử! Bồ tát có bốn việc không thể nghĩ bàn: một là có thể đem vật yêu quí bố thí cho người khác; hai là tuy đầy đủ phiền năo, mà vẫn nhẫn được việc ác; ba là thấy đại chúng chia rẽ, có thể khiến ḥa hợp; bốn là dù lúc sắp chết, nếu thấy người ác, liền nói pháp để chuyển đổi họ. Đây là bốn việc không thể nghĩ bàn của Bồ tát. Lại có ba việc không thể nghĩ bàn: một là thường quở trách tất cả phiền năo; hai là ở trong phiền năo, nhưng v́ chúng sinh nên không xả bỏ phiền năo; ba là dù đầy đủ phiền năo và phiền năo nghiệp mà vẫn không dám buông lung. Đây là ba việc không thể nghĩ bàn của Bồ tát. Lại có ba việc không thể nghĩ bàn: một là lúc muốn bố thí, tâm sinh vui mừng; hai là lúc bố thí, chỉ v́ người mà không cầu quả báo; ba là lúc bố thí xong, tâm thường an vui, không sinh nuối tiếc. Đây là ba việc không thể nghĩ bàn của Bồ tát.

Thiện nam tử! Bậc Đại Bồ tát lúc tu hạnh như vậy, nên tự quán sát tâm ḿnh: “Tôi là Bồ tát giả danh hay Bồ tát thực nghĩa?” Chúng sinh nếu làm được những việc như vậy, nên biết đó là Bồ tát thực nghĩa.

Thiện nam tử! Bồ tát có hai hạng: một là tại gia, hai là xuất gia. Bồ tát xuất gia làm những việc ấy, điều này không khó. Bồ tát tại gia làm những việc ấy, điều này mới khó. V́ sao? V́ người tại gia bị nhiều ác duyên ràng buộc.

Phẩm Mười

Li Ḿnh Li Người

Thiện Sinh bạch Phật: “Kính bạch Đức Thế Tôn! Bồ đề là ǵ? Đạo Bồ đề là ǵ?”

Đức Phật dạy: “Thiện nam tử! Xa ĺa Bồ đề không có Đạo Bồ đề, xa ĺa Đạo Bồ đề không có Bồ đề. Đạo Bồ đề tức là Bồ đề, Bồ đề tức là Đạo Bồ đề. Vượt hơn tất cả quả vị của Thanh văn, Duyên giác gọi là Bồ đề, cũng gọi là Đạo Bồ đề.”

- Kính bạch Đức Thế Tôn! Đạo quả của Thanh văn, Duyên giác tức là Bồ đề, tức là Đạo Bồ đề. Tại sao gọi là vượt hơn?

- Thiện nam tử! Đạo của Thanh văn, Duyên giác không được rộng lớn, không phải là giác ngộ tất cả, bởi vậy Bồ đề, Đạo Bồ đề được gọi là vượt hơn đạo của Thanh văn, Duyên giác. Giống như trong tất cả kinh sách thế gian, mười hai phần giáo của Đức Như Lai là cao hơn hết. V́ sao? V́ lời nói trong kinh không sai lầm, không điên đảo. Đạo của Nhị thừa so với Đạo Bồ đề cũng giống như thế.

Thiện nam tử! Đạo bồ đề tức là Học, cũng tức là Học quả. V́ sao gọi là Học? Tu học đạo Bồ đề, chưa được đầy đủ tâm không thoái chuyển gọi là Học, đă được quả vị không thoái chuyển gọi là Học quả. Lúc chưa chứng được Định hữu,[10] gọi là Học; sau khi chứng được Định hữu, trong A tăng kỳ kiếp thứ ba, gọi là Học quả. Trong A tăng kỳ kiếp đầu tiên vẫn c̣n chưa có thể bố thí tất cả tài sản, bố thí trong tất cả thời gian, và bố thí đến tất cả chúng sinh. Trong A tăng kỳ kiếp thứ hai, đă có thể bố thí tất cả tài sản, nhưng vẫn chưa thể bố thí trong tất cả thời gian, hoặc bố thí đến tất cả chúng sinh. Trong hai giai đoạn nầy gọi là Học. Đến A tăng kỳ kiếp thứ ba, có thể bố thí tất cả tài sản, bố thí trong tất cả thời gian, và bố thí đến tất cả chúng sinh, đây gọi là Học quả.

Thiện nam tử! Bồ tát lúc tu tập hạnh bố thí, tŕ giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí tuệ gọi là Học. Đến lúc tất cả đều viên măn gọi là Học quả.

Thiện nam tử! Có hạnh bố thí mà không phải là Ba la mật, có hạnh Ba la mật mà không phải là Bố thí Ba la mật, có hạnh bố thí mà cũng là Ba la mật, có hạnh không phải bố thí mà cũng không phải Ba la mật.

Thiện nam tử! Hạnh bố thí mà không phải là Ba la mật là hạnh bố thí của Thanh văn, Duyên Giác, tất cả phàm phu ngoại đạo, cùng các vị Bồ tát trong hai A tăng kỳ kiếp đầu. Hạnh Ba la mật mà không phải là Bố thí Ba la mật, như Tŕ giới Ba la mật cho đến Bát Nhă Ba la mật. Hạnh bố thí mà cũng là Ba la mật, tức là hạnh bố thí của các vị Bồ tát trong A tăng kỳ kiếp thứ ba. Hạnh không phải bố thí mà cũng không phải Ba la mật, tức là hạnh tŕ giới, tu định, nhẫn nhục, từ bi của hàng Thanh văn, Duyên giác.

Thiện nam tử! Hạnh bố thí mà không phải là ba la mật gọi là Học, hạnh bố thí mà cũng là Ba la mật gọi là Học quả.

Thiện nam tử! Bồ đề tức là Tận trí và Vô sinh trí.[11] V́ muốn được hai trí nầy mà chuyên tâm tu tập ba mươi bảy phẩm trợ đạo pháp, gọi là Học. Đă chứng Bồ đề, gọi là Học quả. Trước tiên tự điều phục các căn của ḿnh, sau đó điều phục người khác, gọi là Học. Đă được giải thoát, lại độ chúng sinh được giải thoát, gọi là Học quả. Tu tập mười Lực, bốn Vô sở úy, Đại bi, ba Niệm, gọi là Học. Được đầy đủ mười tám Pháp bất cộng gọi là Học quả. V́ lợi ḿnh lợi người mà tạo tác các nghiệp lành, gọi là Học. Làm lợi chúng sinh rồi, gọi là Học quả. Học tập pháp thế gian gọi là Học, học tập pháp xuất thế gian gọi là Học quả. Nếu v́ chúng sinh mà không bỏn sẻn thân thể, tài sản, gọi là Học; c̣n nếu v́ chúng sinh mà không bỏn sẻn thân thể, tài sản, thọ mệnh, gọi là Học quả. Có thể giáo hóa chúng sinh tạo nghiệp trời, người, gọi là Học. Giáo hóa chúng sinh tạo nghiệp vô lậu, gọi là Học quả. Có thể bố thí chúng sinh tất cả tài sản, gọi là Học. Bố thí chúng sinh Phật pháp, gọi là Học quả. Tự phá bỏn sẻn, tham lam, ganh ghét, gọi là Học. Phá bỏn sẻn, tham lam, ganh ghét cho người khác, gọi là Học quả. Thọ tŕ năm thiện căn, tu tập chánh niệm, gọi là Học. Dạy người khác tu tập thành tựu năm thiện căn và chánh niệm, gọi là Học quả.

Thiện nam tử! Bồ tát có tín căn, làm lợi ḿnh xong, lại làm lợi ích cho người. Nếu chỉ làm lợi cho ḿnh, không phải là chân thực tự lợi. Làm lợi cho người mới là chân thực tự lợi. V́ sao? Bậc Đại Bồ tát v́ lợi người khác, đối với thân thể, thọ mệnh, tài sản, không sinh ḷng bỏn sẻn, đó là tự lợi. Bồ tát biết rằng, nếu đem Bồ Đề của hàng Thanh văn, Duyên giác giáo hóa chúng sinh, chúng sinh không tiếp nhận, bèn đem sự an lạc của trời người mà giáo hóa họ, đây là lợi người. Lợi ích người khác chiùnh là lợi ḿnh. Nếu Bồ tát không thể làm lợi ích cho ḿnh và người, mà chỉ làm lợi ḿnh, đây là bậc hạ. V́ sao? Vị Bồ tát đó, đối với giáo pháp, tài sản, sinh tâm tham luyến, v́ vậy không thể tự làm lợi ḿnh. Hành giả nếu làm người khác chịu khổ năo, riêng ḿnh hưởng sự an vui, Bồ tát như vậy, không thể lợi người. Nếu Bồ tát không tu tập bố thí, tŕ giới, nghe nhiều, dù có dạy người khác cũng chỉ gọi là lợi người mà không lợi ḿnh. Nếu đầy đủ năm thiện căn, sau đó đem dạy người khác, đó là Bồ tát làm lợi ḿnh lợi người.

Thiện nam tử! Lợi ích có hai loại: một là đời nầy, hai là đời sau. Bồ tát nếu làm lợi ích đời nầy, không gọi là thực sự lợi ích. Nếu làm lợi ích đời sau tức là có thể làm cho ḿnh và người đều được lợi ích.

Thiện nam tử! Sự an lạc có hai loại: một là an lạc thế gian, hai là an lạc xuất thế gian. Phước đức cũng thế. Bồ tát nếu đầy đủ hai sự an lạc và phước đức để giáo hóa chúng sinh, th́ gọi là lợi ḿnh lợi người.

Thiện nam tử! Bậc Đại Bồ tát đầy đủ một pháp th́ có thể lợi ḿnh lợi người, đó là sự không phóng dật. Lại có hai pháp có thể làm lợi ḿnh lợi người: một là thường nghe Phật pháp, hai là suy tư Phật pháp. Lại có ba pháp có thể làm lợi ḿnh lợi người: một là thương xót chúng sinh, hai là siêng năng tu hành, ba là đầy đủ chánh niệm. Lại có bốn pháp có thể làm lợi ḿnh lợi người, tức là bốn uy nghi. Lại có năm pháp có thể làm lợi ḿnh lợi người: một là đức tin, hai là giữ giới, ba là thường nghe Phật pháp, bốn là bố thí, năm là trí tuệ. Lại có sáu pháp có thể làm lợi ḿnh lợi người, tức là sáu niệm.[12] Lại có bảy pháp có thể làm lợi ḿnh lợi người, tức là phá hoại bảy loại kiêu mạn.[13]

Thiện nam tử! Nếu Bồ tát thấy sa môn, bà la môn, trưởng giả, nam nữ, hoặc trong đại chúng có người làm lỗi, trước nên tùy thuận ư của họ, rồi sau mới nói pháp làm họ được điều phục. Nếu Bồ tát không biết rằng trước nên tùy thuận chúng sinh, rồi sau mới thuyết pháp, đây là Bồ tát bậc hạ.

Thiện nam tử! Bồ tát có hai hạng: một là ưa gần gũi bạn lành, hai là không ưa gần gũi bạn lành. Người ưa gần gũi bạn lành có thể làm lợi ḿnh lợi người, c̣n người không ưa gần gũi bạn lành, ắt không thể làm lợi ḿnh lợi người.

Thiện nam tử! Có hai loại Bồ tát ưa gần bạn lành: một là ưa cúng dường, hai là không ưa cúng dường. Người ưa cúng dường có thể lợi ḿnh lợi người, người không ưa cúng dường, không thể lợi ḿnh lợi người. Người ưa cúng dường lại có hai hạng: một là chuyên tâm nghe Phật pháp, hai là không chuyên tâm nghe Phật pháp. Người chuyên tâm nghe Phật pháp có thể lợi ḿnh lợi người, người không chuyên nghe Phật pháp không thể lợi ḿnh lợi người. Người chuyên tâm nghe Phật pháp lại có hai hạng: một là hay hỏi nghĩa lư, hai là không hay hỏi nghĩa lư. Người hay hỏi nghĩa lư, có thể lợi ḿnh lợi người, người không hay hỏi nghĩa lư không thể lợi ḿnh lợi người. Người hay hỏi nghĩa lư lại có hai hạng: một là chí tâm thọ tŕ, hai là không thọ tŕ. Người chí tâm thọ tŕ, có thể lợi ḿnh lợi người, người không thọ tŕ, không thể lợi ḿnh lợi người. Người chí tâm thọ tŕ lại có hai hạng: một là hay suy tư nghĩa lư, hai là không suy tư nghĩa lư. Người suy tư nghĩa lư có thể lợi ḿnh lợi người, người không suy tư nghĩa lư không thể lợi ḿnh lợi người. Người suy tư nghĩa lư lại có hai hạng: một là hiểu rơ nghĩa lư, hai là không hiểu rơ nghĩa lư. Người hiểu rơ nghĩa lư có thể lợi ḿnh lợi người, người không hiểu rơ nghĩa lư không thể lợi ḿnh lợi người. Người hiểu rơ nghĩa lư lại có hai hạng: một là sống đúng Chánh pháp, hai là không sống đúng Chánh pháp. Người sống đúng Chánh pháp có thể làm lợi ḿnh lợi người, người không sống đúng Chánh pháp, không thể lợi ḿnh lợi người. Người sống đúng Chánh pháp lại có hai hạng: một là đầy đủ tám trí, hai là không đầy đủ tám trí. Tám trí là ǵ? Một là trí biết pháp, hai là trí biết nghĩa, ba là trí biết thời tiết nhân duyên, bốn là trí biết đủ, năm là trí biết ḿnh và người khác, sáu là trí biết tất cả sự vật, bảy là trí biết căn cơ chúng sinh, tám là trí biết sự cao thấp. Người đầy đủ tám trí nói ra điều ǵ đều đầy đủ mười sáu việc: Một là nói đúng thời, hai là nói một cách thành tâm, ba là nói có thứ lớp, bốn là nói ḥa hợp, năm là nói có nghĩa lư, sáu là nói vui vẻ, bảy là nói tùy theo ư người nghe, tám là nói mà không coi thường người nghe, chín là nói mà không trách mắng người nghe, mười là nói đúng như Chánh pháp, mười một là nói lợi ḿnh lợi người, mười hai là nói mà không tán loạn, mười ba là nói hợp với nghĩa lư, mười bốn là nói lời chân chánh, mười lăm là nói rồi không sinh ḷng kiêu mạn, mười sáu là nói mà không cầu phước báo thế gian. Những người như vậy có thể nghe người khác nói pháp; lúc nghe người khác nói pháp có đủ mười sáu việc: Một là nghe đúng thời, hai là thích nghe pháp, ba là nghe một cách thành tâm, bốn là nghe một cách cung kính, năm là nghe mà không t́m lỗi của người nói, sáu là không v́ biện luận mà nghe, bảy là không v́ thắng người khác mà nghe, tám là lúc nghe không coi thường người nói, chín là lúc nghe không khinh thường Phật pháp, mười là lúc nghe, không tự khinh ḿnh, mười một là v́ muốn xa ĺa ngũ cái mà nghe, mười hai là v́ muốn thọ tŕ, đọc tụng mà nghe, mười ba là v́ muốn diệt trừ ngũ dục mà nghe, mười bốn là v́ muốn đầy đủ ḷng tin mà nghe, mười lăm là v́ muốn điều phục chúng sinh mà nghe, mười sáu là v́ muốn đoạn trừ văn căn mà nghe.[14]

Thiện nam tử! Người có đủ tám trí, có thể nói pháp và nghe pháp. Những người như vậy có thể lợi ḿnh lợi người. Người không đủ tám trí không được gọi là người lợi ḿnh lợi người.

Thiện nam tử! Người nói pháp cũng có hai hạng: Một là thanh tịnh, hai là không thanh tịnh. Người không thanh tịnh cũng có năm việc: Một là v́ lợi mà nói pháp, hai là v́ muốn được báo ân mà nói pháp, ba là v́ muốn hơn người khác mà nói pháp, bốn là v́ muốn được quả báo thế gian mà nói pháp, năm là đem tâm nghi pháp mà nói pháp. Người nói pháp thanh tịnh cũng có năm việc: Một là trước cho ăn rồi sau mới nói pháp, hai là v́ muốn Tam Bảo hưng long mà nói pháp, ba là v́ muốn đoạn phiền năo cho ḿnh cho người mà nói pháp, bốn là v́ muốn phân biệt tà chánh mà nói pháp, năm là v́ muốn người nghe được sự thù thắng mà nói pháp.

Thiện nam tử! Người nói pháp không thanh tịnh gọi là người bẩn thỉu, là người bán pháp, là người ô nhục, là người lầm lạc, là người đánh mất ư nghĩa của sự nói pháp. Người nói pháp thanh tịnh gọi là người trong sạch, nói lời chánh đáng, nói lời chân thực, và là nơi qui tụ của Chánh pháp.

Thiện nam tử! Người nào biết toàn bộ mười hai phần giáo, thanh minh luận, nhân minh luận, trong nhân minh lại biết nhân, biết dụ, biết chỗ chủ trương của ḿnh và của người, người đó là người thuyết pháp chánh đáng. Người nghe có bốn hạng: Một là nghe ít hiểu nhiều, hai là hiểu theo sự phân biệt của chánh ḿnh, ba là hiểu theo bổn ư của người nói, bốn là hiểu theo từng chữ, từng câu. Đức Như Lai v́ ba hạng người đầu mà mà thuyết pháp, không v́ hạng người thứ tư. V́ sao? V́ họ không phải là pháp khí. Bốn hạng người trên được phân làm hai loại: Một là đă thuần thục, hai là chưa thuần thục. Người đă thuần thục là người đă được điều phục, người chưa thuần thục là người sẽ được điều phục.

Thiện nam tử! Giống như rừng cây có bốn loại: Một là dễ chặt mà khó nhổ gốc, hai là khó chặt mà dễ nhổ gốc, ba là dễ chặt lại dễ nhổ gốc, bốn là khó chặt lại khó nhổ gốc. Người tại gia cũng có bốn hạng: Một là dễ điều phục mà khó giúp họ tiến bộ, hai là khó điều phục nhưng lại dễ giúp họ tiến bộ, ba là dễ điều phục lại dễ giúp họ tiến bộ, bốn là khó điều phục lại khó giúp họ tiến bộ. Bốn hạng người như vậy, được chia làm ba loại: Một là quở trách rồi điều phục, hai là dùng lời nhỏ nhẹ điều phục, ba là dùng cả hai, quở trách cùng dùng lời nhỏ nhẹ, mà điều phục. Lại có hai loại: một là tự ḿnh có thể điều phục, không nhờ người khác, hai là tự ḿnh không thể điều phục, mà phải cần người khác. Lại có hai loại: Một là dùng sự bố thí điều phục, hai là dùng chú thuật điều phục. Sự điều phục lại có hai loại: Một là nhân lúc vui mừng, hai là nhân lúc đau khổ. Lúc thuyết pháp cho bốn hạng người như thế, cần phải có hai phương tiện: Một là biết rành việc thế gian, hai là giúp đỡ phục dịch cho họ.

Thiện nam tử! Bồ tát nếu biết hai phương tiện như thế, ắt có thể làm lợi ḿnh lợi người. Nếu không biết, ắt không thể làm lợi ḿnh lợi người.

Thiện nam tử! Bậc Đại Bồ tát, v́ muốn lợi người, trước học kinh điển ngoại đạo, sau mới học mười hai phần giáo. Chúng sinh nếu nghe mười hai phần giáo, ắt sẽ nhờm chán kinh điển ngoại đạo. Lại v́ chúng sinh nói sự lỗi lầm của phiền năo, sự giải thoát khỏi phiền năo, khen ngợi đức hạnh của bạn lành, quở trách lỗi lầm của bạn ác, tán thán công đức của bố thí, hủy báng lỗi lầm của bỏn sẻn. Bồ tát thường nên ở chỗ tịch tĩnh tu hành, khen ngợi công đức của sự tịch tĩnh, thường tu tập Phật pháp, tán thán sự tu tập Phật pháp. Nếu được như vậy, gọi là lợi ḿnh lợi người.

Bồ tát tại gia, trước phải tự điều phục ḿnh. Nếu không tự điều phục, ắt không nên xuất gia. Bồ tát tại gia có thể độ được nhiều người, Bồ tát xuất gia không được như vậy. V́ sao? Nếu không có hàng tại gia, ắt không có hàng xuất gia trong ba Thừa. Người xuất gia trong ba Thừa tu tập đạo hạnh, giữ giới, tụng kinh, ngồi thiền, đều do người tại gia hộ tŕ.

Thiện nam tử! Có Đạo và sự trang nghiêm cho Đạo. Đạo tức là sự tu tập Phật pháp, trang nghiêm cho Đạo tức là người tại gia. Bồ tát xuất gia v́ người tại gia mà tu hành đạo nghiệp, người tại gia từ bậc xuất gia mà tu học Phật pháp. Người tại gia phần lớn tu tập hai pháp: Một là thọ tŕ, hai là bố thí. Người xuất gia cũng tu tập hai pháp: Một là đọc tụng, hai là giảng dạy.

Thiện nam tử! Bậc Đại Bồ tát tu tập cả bốn pháp: thọ tŕ, bố thí, đọc tụng, giảng dạy. Như vậy gọi là lợi ḿnh, lợi người. Bồ tát nếu muốn v́ chúng sinh mà nói nghĩa thâm sâu của pháp giới, trước tiên nên nói pháp thế gian, sau đó nói nghĩa thâm sâu của pháp giới. V́ sao? V́ dễ giáo hoá. Bậc Đại Bồ tát nên chăm sóc cuộc sống tâm linh của chúng sinh. Nếu không chăm sóc, ắt không thể thâu phục tất cả chúng sinh. Bồ tát cũng phải chăm sóc thân ḿnh. Nếu không chăm sóc, cũng không thể thâu phục chúng sinh. Bồ tát tuy không tham luyến thân mệnh, tài sản, mà lại chăm sóc thân mệnh, tài sản, đều v́ muốn thâu phục chúng sinh. Bậc Đại Bồ tát, trước tiên nên tự trừ ác, sau đó dạy người khác trừ ác. Nếu không tự trừ ác, ắt không thể dạy người khác trừ ác. Bởi thế, Bồ tát trước tiên nên tu tập bố thí, giữ giới, biết đủ, tinh tiến tu hành, sau đó dạy người khác. Nếu Bồ tát không tự ḿnh tu hành, không thể giảng dạy người khác.

Thiện nam tử! Căn cơ của chúng sinh có ba loại: thượng, trung, hạ. Căn cơ của Bồ tát cũng có ba loại: thượng, trung, hạ. Bồ tát hạ căn, chỉ có thể giáo hóa người hạ căn, không thể giáo hóa người trung căn cùng thượng căn. Bồ tát trung căn, có thể giáo hóa người trung căn, hạ căn, mà không thể giáo hóa người thượng căn. Bồ tát thượng căn có thể giáo hóa cả ba.

Thiện nam tử! Bồ tát có hai hạng: Một là tại gia, hai là xuất gia. Bồ tát xuất gia tu tập lợi ḿnh lợi người, điều này không khó. Bồ tát tại gia tu tập lợi ḿnh lợi người, điều này mới khó. V́ sao? V́ người tại gia bị nhiều ác duyên ràng buộc.

Phẩm Mười Một

Trang Nghiêm Ḿnh và Người

Thiện Sinh bạch Phật: “Kính bạch Đức Thế Tôn! Bậc Đại Bồ tát đầy đủ bao nhiêu pháp mới có thể làm lợi ḿnh lợi người?”

- Thiện nam tử! Bậc Đại Bồ tát đầy đủ tám pháp, có thể làm lợi ḿnh lợi người. Tám pháp đó là ǵ? Một là tuổi thọ lâu dài, hai là dung nhan tuyệt thế, ba là sức lực mạnh mẽ, bốn là ḍng dơi tôn quí, năm là của cải tràn đầy, sáu là làm thân người nam, bảy là ăn nói hùng hồn, tám là ở giữa đám đông không sợ.

Thiện Sinh bạch Phật: “Kính bạch Đức Thế Tôn! Do nhân duyên nào mà Bồ tát được tuổi thọ lâu dài, nhẫn đến ở giữa đám đông không sợ?”

Đức Phật bảo Thiện Sinh: “Thiện nam tử! Bậc Đại Bồ tát: (1) trong vô lượng đời tu tâm từ bi không giết hại, do nhân duyên này được thọ mệnh lâu dài; (2) trong vô lượng đời thường bố thí y phục, đèn đuốc, do nhân duyên này được dung nhan tuyệt thế; (3) trong vô lượng đời thường trừ diệt sự kiêu mạn, do nhân duyên này sinh vào ḍng dơi tôn quí; (4) trong vô lượng đời thường bố thí các món ăn uống, do nhân duyên này được sức lực mạnh mẽ; (5) trong vô lượng đời thường ưa nói pháp, do nhân duyên này được của cải tràn đầy; (6) trong vô lượng đời chê trách thân người nữ, do nhân duyên này được thân người nam; (7) trong vô lượng đời chuyên tâm giữ giới, do nhân duyên này ăn nói hùng hồn; (8) trong vô lượng đời cúng dường Tam Bảo, do nhân duyên này ở giữa đám đông không sợ.

Tám pháp như vậy, có ba nhân duyên: Một là vật bố thí thanh tịnh, hai là tâm thanh tịnh, ba là phước điền thanh tịnh. Thế nào gọi là vật bố thí thanh tịnh? Vật ấy chẳng phải là vật do trộm cướp; chẳng phải vật mà bậc Thánh ngăn cấm; chẳng phải vật chung của nhiều người; chẳng phải vật của Tam Bảo; chẳng phải vật trước đă bố thí cho một người, sau lấy lại đem cho nhiều người; chẳng phải vật trước đă bố thí cho nhiều người, sau lấy lại đem cho một người; chẳng phải vật có được bằng sự năo loạn, dối gạt, hay chèn ép người khác. Đây gọi là vật bố thí thanh tịnh. Thế nào gọi là tâm thanh tịnh? Lúc bố thí không v́ quả lành trong cơi sinh tử, hoặc muốn được danh tiếng hơn người khác, hoặc muốn được sắc đẹp, sức lực, tài sản, hoặc muốn gia phong lưu truyền bất tuyệt, quyến thuộc đông nhiều, mà chỉ v́ muốn trang nghiêm Bồ Đề, muốn điều phục chúng sinh mà bố thí. Đây gọi là tâm thanh tịnh. Thế nào gọi là phước điền thanh tịnh? Nếu người nhận bố thí đă xa rời tám điều tà ngụy,[15] đây gọi là phước điền thanh tịnh.

Thiện nam tử! V́ ba nhân duyên như thế, cho nên đầy đủ tám pháp.

Thiện nam tử! Bồ tát cầu sống lâu, v́ muốn chúng sinh khen ngợi giới không sát sinh; Bồ tát cầu dung nhan tuyệt thế, v́ muốn chúng sinh thấy mặt đều vui mừng; Bồ tát cầu ḍng dơi tôn quí, v́ muốn chúng sinh khởi ḷng cung kính; Bồ tát cầu sức lực mạnh mẽ, v́ muốn tŕ giới, tụng kinh, ngồi thiền; Bồ tát cầu của cải tràn đầy, v́ muốn điều phục chúng sinh; Bồ tát cầu thân người nam, v́ muốn thành pháp khí để chứa đựng pháp lành; Bồ tát cầu ăn nói hùng hồn, v́ muốn chúng sinh nghe lời dạy dỗ của ḿnh; Bồ tát cầu ở giữa đám đông không sợ, v́ muốn phân biệt pháp chân thực.

Thiện nam tử! Bồ tát đầy đủ tám pháp như vậy có thể lợi ḿnh lợi người. Nếu có thể làm được như vậy, gọi là hạnh chân thực.

Thiện nam tử! Bậc Đại Bồ tát có tám pháp, thọ tŕ đủ mười pháp lành, ưa đem mười pháp dạy dỗ người. Cũng thế, Bồ tát thọ tŕ đủ giới Ưu bà tắc, ưa đem giới pháp dạy dỗ người. Tuy được dung nhan tuyệt thế, nhưng không v́ vậy mà sinh tâm kiêu mạn; tuy giữ giới thanh tịnh, nghe nhiều, tinh tiến, sức lực mạnh mẽ, ḍng dơi tôn quí, của cải dồi dào, cũng không v́ vậy mà sinh tâm kiêu mạn. Không đem những sự huyễn hoặc để lừa dối chúng sinh; không sinh tâm phóng dật, thường tu pháp lục ḥa. Bồ tát đầy đủ những pháp như vậy, tuy là người tại gia, mà không khác ǵ người xuất gia. Bồ tát như vậy, quyết định không v́ người khác mà làm điều ác. V́ sao? V́ tâm hổ thẹn vững chắc.

Thiện nam tử! Người tại gia, giả sử trong một đời thọ tŕ giới Ưu bà tắc như vậy, tuy đời sau sinh vào nơi không có Tam Bảo, quyết không tạo những ác duyên. V́ sao? Có hai nhân duyên: Một là có trí tuệ, hai là không phóng dật.

Thiện nam tử! Trong đời sau, ở chỗ ác mà không tạo nghiệp ác, có bốn nhân duyên: Một là hiểu rơ lỗi lầm của phiền năo, hai là không chiều theo phiền năo, ba là có thể chịu đựng được sự khổ đau, bốn là không sinh tâm khiếp sợ. Bồ tát nếu đầy đủ bốn pháp như vậy, không bị sự khổ cùng tất cả phiền năo làm lay động.

Thiện nam tử! Bồ tát đối cảnh không lay động, có năm nhân duyên: Một là ưa tu tập pháp lành, hai là phân biệt rơ sự thiện ác, ba là gần gũi Chánh pháp, bốn là thương xót chúng sinh, năm là thường biết đời trước.

Thiện nam tử! Nếu Bồ tát đầy đủ tám pháp, khi nghe người chê bai, hủy báng, tâm có thể nhẫn thọ. Nếu nghe người khen ngợi, lại cảm thấy hổ thẹn. Lúc tu hành đạo nghiệp, ḷng tuy vui mừng, nhưng không sinh kiêu mạn; có thể điều phục người ác, thấy nhóm đông chia rẽ, có thể làm cho họ ḥa hợp. Phô bày việc tốt của người, che dấu điều quấy của họ. Không nói ra những điều mà người khác hổ thẹn. Nghe việc bí mật của người, không đem nói với người khác. Không v́ việc đời mà thề thốt. Nhận chút ít ân của người, thường nghĩ trả ơn thật nhiều. Đối kẻ oán địch, thường sinh tâm lành. Nếu người thân, kẻ oán đồng chịu khổ, cứu kẻ oán địch trước. Thấy người chửi rủa ḿnh, lại đem ḷng thương xót. Thấy người đến trộm của, mặc nhiên không khua động. Thấy người đến đánh ḿnh, sinh ḷng từ bi. Coi tất cả chúng sinh như cha mẹ. Thà mất thân mạng, quyết không nói dối. V́ sao? V́ biết rơ quả báo. Xem phiền năo như kẻ thù, nh́n pháp lành như quyến thuộc. Nếu đối với pháp của ngoại đạo khởi tâm tham luyến, bèn lập tức quán sát lỗi lầm của sự tham đắm. Đối với các phiền năo khác cũng như vậy. Tuy ở lâu với kẻ ác, quyết không bao giờ thân thiện với họ. Tuy không ở chung với người lành, nhưng không bao giờ xa cách. Tuy cúng dường cha mẹ, sư trưởng, nhưng không v́ đó mà làm việc ác. Lúc thiếu tiền của, thấy người đến xin, không sinh tâm nhàm ghét. Tuy không gần gũi kẻ ác, mà vẫn sinh ḷng thương xót. Nếu kẻ ác đến hại, đem điều lành đền đáp. Lúc hưởng cảnh vui, không khinh người khác. Thấy người chịu khổ, không sinh vui mừng. Thân nghiệp thanh tịnh, giữ bốn uy nghi, lại đem pháp ấy dạy dỗ chúng sinh. Khẩu nghiệp thanh tịnh, đọc tụng mười hai phần giáo của Như Lai, lại đem pháp ấy dạy dỗ chúng sinh. Ư nghiệp thanh tịnh, tu bốn vô lượng tâm, lại đem pháp ấy dạy dỗ chúng sinh. Nếu nhân chịu khổ mà người khác được vui sướng, cũng vui vẻ cam chịu sự khổ ấy. Sự việc ở đời, đối với Bồ tát tuy không lợi ích, nhưng v́ chúng sinh, Bồ tát bèn học hỏi tất cả. Những chỗ học hỏi, đều là cao nhất thế gian. Tuy được thông thái, nhưng không sinh ḷng kiêu mạn. Đem chỗ ḿnh đă biết, siêng năng dạy dỗ chúng sinh, muốn cho việc ấy lưu truyền không dứt. Đối người thân bạn bè, không khiến họ làm ác. Ưa đem tám pháp dạy dỗ chúng sinh. Nói nhân nói quả, quyết không lầm lẫn. Lúc cùng người yêu mến chia ly, tâm không buồn khổ, v́ biết quán sát việc đời vô thường. Lúc hưởng sự vui sướng, tâm không đam mê, v́ biết quán pháp hữu vi là vô thường, là khổ.

Thiện nam tử! Bồ tát đầy đủ tám pháp, ắt có thể thực thi những việc như vậy.

Thiện nam tử! Bồ tát có hai hạng: Một là tại gia, hai là xuất gia. Bồ tát xuất gia tu tập tám pháp, điều này không khó. Bồ tát tại gia tu tập tám pháp, điều này mới khó. V́ sao? V́ người tại gia bị nhiều ác duyên ràng buộc.

Phẩm Mười Hai

Trang Nghiêm Phước Đc Trí Tu

Thiện Sinh bạch Phật: “Kính bạch Đức Thế Tôn! Bồ tát làm thế nào để trang nghiêm cho ḿnh và người?”

Đức Phật bảo Thiện Sinh: “Thiện nam tử! Bồ tát có hai pháp, có thể trang nghiêm cho ḿnh và người: Một là phước đức, hai là trí tuệ.”

- Kính bạch Đức Thế Tôn! Do nhân duyên nào mà được hai pháp trang nghiêm này?

- Thiện nam tử! Bồ tát tu tập sáu pháp Ba la mật, sẽ được hai pháp trang nghiêm: bố thí, tŕ giới, tinh tiến, được gọi là phước đức trang nghiêm; nhẫn nhục, thiền định, trí tuệ, được gọi là trí tuệ trang nghiêm. Lại có sáu pháp làm nhân cho hai pháp trang nghiêm này, tức là pháp lục niệm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, gọi là trí tuệ trang nghiêm; niệm giới, niệm thí, niệm thiên, gọi là phước đức trang nghiêm.

Thiện nam tử! Bồ tát đầy đủ hai pháp trang nghiêm này, có thể lợi ḿnh lợi người. V́ chúng sinh chịu khổ trong ba đường ác, mà trong tâm vẫn không sinh sầu khổ, hối hận. Nếu có thể đầy đủ hai pháp trang nghiêm này, sẽ được phương tiện thiện xảo vi diệu, thấu rơ pháp thế gian và xuất thế gian.

Thiện nam tử! Phước đức trang nghiêm tức là trí tuệ trang nghiêm, trí tuệ trang nghiêm tức là phước đức trang nghiêm. V́ sao? V́ người có trí tuệ, có thể tu pháp lành, đầy đủ mười điều thiện, thu hoạch được sự giàu có cùng sự tự tại. V́ được hai việc này, nên có thể làm việc lợi ḿnh lợi người.

Người có trí tuệ, tất cả những sự học hỏi đều hơn người khác, do nhân duyên này, được sự giàu có và tự tại. Bồ tát đầy đủ hai pháp như vậy, có thể trong đời này và đời sau làm lợi cho ḿnh và người. Người trí có thể phân biệt pháp thế gian và pháp xuất thế gian. Pháp thế gian tức là tất cả học thuyết cùng thiền định của phàm phu; pháp xuất thế gian là sự hiểu biết về năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới. Bồ tát hiểu rơ nhân duyên của hai pháp, nên có thể lợi ḿnh lợi người.

Thiện nam tử! Bồ tát tuy biết rơ những sự vui sướng thế gian chỉ là huyễn dối không thực, nhưng lại có thể tạo những nhân duyên cho những sự vui trên đời. V́ sao? V́ muốn lợi ích cho tất cả chúng sinh.

Thiện nam tử! Hai pháp trang nghiêm này, có hai nguyên nhân chánh: Một là tâm từ, hai là tâm bi. Tu hai nhân này, tuy vẫn tiếp tục trôi lăn trong sinh tử, nhưng tâm không sinh hối tiếc. Lại nữa, Bồ tát đầy đủ hai pháp, có thể làm trang nghiêm Vô thượng Bồ đề: Một là không tham luyến sinh tử, hai là quán sát thâm sâu pháp giải thoát, thế nên có thể làm lợi ích trong hai đời. Hiểu rơ pháp tướng, được trí tuệ rộng lớn, làm cho của cải cùng thọ mệnh của ḿnh và người đều được tăng trưởng.

Thiện nam tử! Bậc Đại Bồ tát đầy đủ hai pháp như vậy, bất cứ khi nào làm việc bố thí, đều không sinh sự hối tiếc. Thấy những sự ác, cũng đều nhẫn nhịn được. Bồ tát lúc bố thí, quán sát hai loại ruộng: Một là ruộng phước, hai là ruộng bần cùng. Bồ tát v́ muốn tăng trưởng phước đức, thế nên bố thí cho người bần khổ; v́ muốn tăng trưởng trí tuệ vô thượng, thế nên cúng dường Tam Bảo; v́ muốn tăng trưởng nhân duyên cho tất cả sự phước lạc, thế nên cúng dường Tam Bảo; v́ muốn xa ĺa nhân duyên của tất cả sự nghèo khổ, thế nên bố thí cho người bần cùng. Bồ tát nếu bố thí cho người thân quyến, chiùnh là v́ muốn trả ơn cho họ. Bồ tát nếu bố thí cho kẻ oán thù, chiùnh là v́ muốn tiêu trừ sự thù hận. Bậc Đại Bồ tát thấy người đến xin, xem như con một của ḿnh, v́ thế tùy sức ḿnh nhiều ít đều đem bố thí, thế nên gọi là Bố thí Ba la mật. Bồ tát lúc bố thí, xả bỏ tâm sẻn tiếc, thế nên gọi là Tŕ giới Ba la mật. Có thể nhẫn chịu những lời cay nghiệt của người đến xin, thế nên gọi là Nhẫn nhục Ba la mật. Tự tay ḿnh đem bố thí cho người đến xin, thế nên gọi là Tinh tiến Ba la mật. Chuyên tâm nhất ư, quán sát sự giải thoát, thế nên gọi là Thiền định Ba la mật. Không c̣n phân biệt người thân kẻ thù, thế nên gọi là Bát nhă Ba la mật.

Thiện nam tử! Như những chúng sinh, lúc khởi tâm tham mà giết hại, trong một niệm đầy đủ mười hai nhân duyên; Bồ tát, lúc bố thí cũng thế, trong một niệm đầy đủ sáu Ba la mật, thế nên gọi là trang nghiêm công đức và trí tuệ.

Lại nữa, bậc Đại Bồ tát tạo tác nhân duyên cho những pháp không cùng chung với bậc Tiểu thừa, gọi là phước đức trang nghiêm; dạy dỗ chúng sinh làm cho họ được ba loại Bồ đề, gọi là trí tuệ trang nghiêm.

Lại nữa, thiện nam tử! Bồ tát có thể điều phục chúng sinh, gọi là trí tuệ trang nghiêm, cùng với chúng sinh nhẫn chịu sự khổ năo, gọi là phước đức trang nghiêm. Bồ tát có thể làm cho chúng sinh xả bỏ những ác kiến, nên gọi là trí tuệ trang nghiêm; có thể giáo hóa chúng sinh làm cho họ tăng trưởng ḷng tin, bố thí, tŕ giới, nghe nhiều Phật pháp, trí tuệ, nên gọi là phước đức trang nghiêm.

Lại nữa, thiện nam tử! Bậc Đại Bồ tát đầy đủ năm pháp, có thể trang nghiêm Vô thượng Bồ đề. Thế nào là năm pháp? Một là ḷng tin, hai là ḷng bi, ba là can đảm, bốn là đọc sách vở thế gian không biết nhàm chán, năm là học tập nghề nghiệp thế gian không biết mỏi nhọc.

Thiện nam tử! Bồ tát đầy đủ hai pháp trang nghiêm, sẽ có được bảy tướng. Thế nào là bảy tướng? Một là tự biết lỗi ḿnh, hai là không nói lỗi của người khác, ba là ưa chăm sóc người bệnh, bốn là ưa bố thí người nghèo, năm là được tâm Bồ đề, sáu là tâm không buông lung, bảy là bất cứ lúc nào cũng thường chuyên tâm tu tập sáu pháp Ba la mật.

Thiện nam tử! Lại có bảy tướng: Một là ưa dạy dỗ kẻ oán thù, hai là dạy dỗ họ không hề biết nhàm chán, ba là làm cho nhân duyên giải thoát của chúng sinh được chín muồi, bốn là đem hết tất cả những điều học hỏi dạy cho người khác, mà không tham cầu sự cung kính cúng dường, năm là có thể nhẫn chịu tất cả những sự ác, sáu là không bao giờ nói những điều mà người khác không vui, bảy là thấy những người phá giới cùng những người tệ ác, tâm không hờn giận, mà thường sinh ḷng thương xót.

Thiện nam tử! Bậc Đại Bồ tát biết rơ bảy tướng này, th́ có thể lợi ḿnh lợi người.

Thiện nam tử! Bồ tát có hai hạng: một là tại gia, hai là xuất gia. Bồ tát xuất gia tu tập hai pháp trang nghiêm, điều  này không khó. Bồ tát tại gia tu tập hai pháp trang nghiêm, điều này mới khó. V́ sao? V́ người tại gia bị nhiều ác duyên ràng buộc.

Phẩm Mười Ba

Thâu Phc Đ T

Thiện Sinh bạch Phật: “Kính bạch Đức Thế Tôn! Bồ tát sau khi đầy đủ hai pháp trang nghiêm, làm sao thâu phục đệ tử của ḿnh?”

- Thiện nam tử! Bồ tát nên dùng pháp Tứ nhiếp thâu phục họ, làm cho họ rời xa điều ác, tăng trưởng pháp lành. Một ḷng dạy dỗ, xem họ như đứa con một của ḿnh, mà không cầu sự trả ơn, không v́ tiếng tăm, không v́ lợi dưỡng, cũng không cầu sự vui cho chiùnh ḿnh.

Thiện nam tử! Bồ tát nếu không dùng những sự việc như vậy mà thâu phục đệ tử, th́ đó là người tệ ác, là Bồ tát giả danh, không phải Bồ tát thực nghĩa, là chiên đà la, là người bẩn thỉu hôi thối, phá hoại Phật pháp. Chư Phật mười phương sẽ không đoái hoài những người như vậy.

Thiện nam tử! Bồ tát phải nên tùy lúc mà dạy dỗ khuyên răn. Tùy lúc, tức là lúc đệ tử khởi tâm tham sân si. Lúc họ khởi tâm tham, nên dạy họ những phương pháp đối trị, giúp cho họ trừ diệt tâm tham. Trừ diệt sân, si, cũng giống như thế. Kế đó dạy họ học mười hai phần giáo, thiền định, tam muội, phân biệt nghĩa lư thâm sâu, điều phục thân tâm, làm cho họ tu pháp lục niệm, không được buông lung. Khi đệ tử bệnh phải chăm sóc cho họ, mà không sinh tâm chán ghét. Nhẫn chịu những lời mắng nhiếc, hủy báng, nhục mạ, cùng sự thống khổ của thân tâm. Giả sử đệ tử bị khổ nạn, phải cứu vớt làm họ hết khổ, tiêu trừ tâm tệ ác nghi ngờ của họ. Khéo biết căn cơ của đệ tử là lợi căn, trung căn hay độn căn. Dạy đệ tử độn căn làm cho họ sinh ḷng tin đối với Phật pháp, đối với người trung căn, dạy dỗ làm cho họ thuần thục, đối với người lợi căn, dạy dỗ làm cho họ được giải thoát. Nếu Bồ tát siêng năng dạy dỗ đệ tử như vậy, th́ gọi là Bồ tát thực nghĩa, là người lành, là hoa Phân đà lợi, là hương tượng trong loài người, là bậc Điều ngự trượng phu, là bậc Đại thuyền sư.

Thiện nam tử! Chẳng thà thọ ác giới, trong một ngày giết vô lượng chúng sinh, quyết không nuôi dưỡng đệ tử ác mà ḿnh không thể dạy dỗ. V́ sao? Phạm giới ác, chỉ liên hệ đến thân ḿnh, c̣n nuôi đệ tử ác mà không dạy dỗ, có thể khiến cho vô lượng chúng sinh làm ác, có thể làm chúng sinh hủy báng vô lượng pháp lành vi diệu, phá ḥa hợp tăng, làm cho nhiều chúng sinh phạm tội ngũ nghịch. Do đó, c̣n ác liệt hơn tội ác luật nghi.

Thiện nam tử! Bồ tát có hai hạng, một là tại gia, hai là xuất gia. Bồ tát xuất gia có hai loại đệ tử: một là xuất gia, hai là tại gia. Bồ tát tại gia chỉ có một loại đệ tử tại gia.

Bồ tát xuất gia dạy đệ tử xuất gia mười hai phần giáo, tùy chỗ phạm tội, dạy họ sám hối. Lại dạy họ tám loại trí tuệ: Một là trí biết pháp, hai là trí biết nghĩa, ba là trí biết thời, bốn là trí biết đủ, năm là trí biết chiùnh ḿnh, sáu là trí biết người khác, bảy là trí biết căn cơ chúng sinh, tám là trí khéo phân biệt.

Thiện nam tử! Bậc Đại Bồ tát, nếu có thể dạy dỗ, điều phục đệ tử xuất gia như thế, cả thầy lẫn tṛ đều được vô lượng lợi ích. Thầy tṛ như thế, có thể hưng long Tam Bảo. V́ sao? V́ đệ tử đó, biết tám trí rồi, có thể siêng năng cúng dường sư trưởng, ḥa thượng, bậc trưởng lăo có đức hạnh; biết nghe lời lành, siêng năng đọc tụng, lại hay giảng nói Phật pháp, tâm không phóng túng, điều phục chúng sinh, thường hay chăm sóc những người bệnh khổ, bố thí cho người bần cùng, thiếu thốn.

Thiện nam tử! Bồ tát xuất gia, nếu có đệ tử tại gia, cũng nên dạy pháp không phóng dật. Không phóng dật, tức là tu hành Chánh pháp, cúng dường cha mẹ, cùng các bậc thầy, ḥa thượng, những bậc tuổi tác cao, những bậc có đức hạnh, đem đến sự an vui cho họ. Đem tâm chí thành thọ giới, không dám hủy phạm. Nhận vật của người gởi, không được chuyên quyền. Có thể nhận chịu sự hung hăng của người khác. Không bao giờ nói lời ác cùng lời vô nghĩa. Thương xót chúng sinh. Đối với quốc vương, trưởng giả, quan lớn, thường sinh tâm cung kính, nể sợ. Có thể tự điều phục vợ con, quyến thuộc, phân biệt người thân, kẻ thù. Không khinh thường chúng sinh, trừ diệt sự kiêu mạn, không gần bạn ác, ăn uống có chừng mực, giảm trừ ḷng tham, ít muốn biết đủ, không lân la đến chỗ tranh căi, ngay đến lúc giởn hớt cũng không nói lời ác. Như vậy gọi là pháp không phóng dật. Bồ tát xuất gia nếu nuôi đệ tử tại gia, trước nên dạy dỗ, răn nhắc pháp không phóng dật; thường cùng với đệ tử chia xẻ nỗi vui buồn. Nếu đệ tử tại gia nghèo khổ thiếu thốn, ngoại trừ sáu vật của người xuất gia, nếu họ cần dùng vật ǵ, đều nên cung cấp cho họ mà không sẻn tiếc. Nếu họ có bệnh tật, nên đi t́m những vật mà họ cần dùng. Lúc săn sóc bệnh cho họ, không nên sinh tâm nhàm chán. Nếu Bồ tát tự ḿnh không có của, nên đi khắp nơi t́m kiếm; nếu t́m không được, nên mượn vật Tam Bảo. Sau khi lành bệnh, người đệ tử tại gia phải trả lại gấp mười lần, như pháp của nước Xá Vệ của vua Ba Tư Nặc. Nếu người đệ tử tại gia không thể trả được, nên bảo họ rằng: “Ông nay mượn của Tam Bảo rất nhiều, nếu không thể trả được, ông nên phải siêng năng tu tập quả Tu đà hoàn cho đến quả A la hán, hoặc phát tâm Bồ đề, hoặc dạy được mọi người sinh ḷng tin trong sạch đối với Phật pháp, hoặc diệt trừ được sự thấy biết tà ác sâu nặng của họ.” Nếu Bồ tát xuất gia dạy đệ tử tại gia những sự việc như thế, cả hai thầy tṛ đều sẽ được vô lượng lợi ích.

Thiện nam tử! Bồ tát tại gia nếu nuôi dưỡng đệ tử tại gia, trước tiên cũng nên dạy pháp không phóng dật. Không phóng dật có nghĩa là cúng dường cha mẹ, sư trưởng, ḥa thượng, người già cả, người có đức hạnh; lại cũng cung cấp cho anh em, bạn bè, quyến thuộc, người sắp đi xa, hoặc người nơi xa đến. Khi ăn, nên đem thức ăn đến phân phát đầy đủ cho kẻ tôi tớ, sau đó tự ḿnh mới dùng. Lại làm cho họ tin tưởng Tam Bảo, chia xẻ sự khổ vui với họ. Không bao giờ tự hưởng một ḿnh. Tùy thời ban thưởng cho họ, không để họ đói lạnh. Không bao giờ đánh chưởi, hoặc dùng roi gậy làm họ khổ sở. Nên dùng lời mềm dịu mà dạy dỗ khuyên răn. Nếu họ có bệnh, phải nên săn sóc. Những ǵ mà họ cần, nên đi t́m cho. Phải dạy cho họ những việc thế gian. Khi họ lập gia thất, nên đi t́m chỗ xứng đáng, đừng chọn chỗ thấp hèn. Dạy cho họ năm bộ kinh của Như Lai.[16] Thấy người ly tán, nên làm cho họ ḥa hợp. Đă ḥa hợp xong, nên làm cho họ tăng trưởng ḷng thiện. Đối với tất cả bậc xuất gia, trong đạo cũng như ngoài đạo, tùy ư cúng dường, không nên lựa chọn. V́ sao? Trước nên dùng pháp bố thí dẫn dụ, sau đó mới điều phục họ. Đem sáu pháp Ḥa kính mà khuyến dụ họ. Nếu đệ tử v́ cầu tiền của mà kinh doanh, làm ruộng, hay làm việc cho chánh phủ, Bồ tát dạy họ phải nên chuyên tâm làm cho đúng pháp. Đă được tiền của, phải dạy họ giữ tiền đúng cách, và nên ham thích bố thí tu tập phước đức. Thấy đệ tử làm đúng như lời dạy, tâm sinh hoan hỷ. Đây gọi là pháp không phóng dật. Bồ tát tại gia nếu có thể dạy dỗ đệ tử tại gia như thế, thầy tṛ đều được vô lượng lợi ích.

Thiện nam tử! Nếu Bồ tát tại gia được thế lực làm vua nước lớn, nên bảo hộ dân chúng, coi như con một. Dạy họ xa ĺa việc ác, tu tập pháp lành. Thấy kẻ làm ác, tuy trừng phạt khiển trách, nhưng không sát hại họ. Đánh thuế dân chúng, chỉ thâu một phần sáu tài vật của họ. Thấy người sân giận, dạy họ tu pháp nhẫn nhục và không buông lung. Đem lời nhỏ nhẹ dạy dỗ dân chúng, lại khéo phân biệt người lành kẻ dữ. Không tùy tiện tra hỏi người có tội. Nếu có tiền của, tùy lực phân phát cho nhân dân. Tùy sức đọc tụng năm bộ kinh. Khéo giữ ǵn thân mệnh, của cải. Có thể dạy dỗ chúng sinh, không cho làm ác. Thấy người nghèo khổ, sinh ḷng thương xót. Đối với lănh thổ của ḿnh, thường tu pháp biết đủ. Quyết định không tin lời sàm tấu, hoặc hủy báng. Không dùng điều phi pháp bóc lột nhân dân. Như pháp bảo vệ quốc gia, xa ĺa bảy điều ác: một là không ưa cờ bạc, hai là không thích săn bắn, ba là không thích rượu chè, bốn là tâm không háo sắc, năm là không nói lời thô, sáu là không nói lời đâm thọc, bảy là không bóc lột tài sản nhân dân. Thường hay cúng dường những bậc xuất gia. Có thể làm cho người dân trong nước đối với nhà cầm quyền khởi tâm cung kính. Tin tưởng nhân quả. Thấy người hơn ḿnh, không sinh ḷng ghen ghét. Thấy ḿnh hơn người, cũng không sinh ḷng kiêu mạn. Hay nghĩ việc trả ơn. Thọ ơn nhỏ, đền ơn lớn. Có thể điều phục sáu căn, làm sạch ba nghiệp. Khen ngợi người lành, khiển trách kẻ ác. Trước khi nói lời ǵ, đều suy nghĩ kỹ. Lời nói nhỏ nhẹ. Nếu tự ḿnh không đủ thế lực, th́ có thể lệ thuộc nước khác một cách đúng pháp. Lúc chiếm nước người, không dùng bốn thứ binh. Khi chúng sinh sợ hăi, có thể cứu hộ. Thường dùng pháp Tứ nhiếp thâu phục chúng sinh. Khéo phân biệt tất cả pháp tướng. Đối với người không tin, dùng lời dịu dàng mà nhiếp phục họ.

Thiện nam tử! Bồ tát có hai hạng: một là tại gia, hai là xuất gia. Bồ tát xuất gia nuôi dạy hai loại đệ tử, điều này không khó. Bồ tát tại gia nuôi dạy đệ tử tại gia, điều này mới khó. V́ sao? V́ người tại gia bị nhiều ác duyên ràng buộc.

Phẩm Mười Bốn

Th Gii

Thiện Sinh bạch Phật: “Kính bạch Đức Thế Tôn! Bồ tát tại gia làm thế nào để được thọ giới Ưu bà tắc?”

- Thiện nam tử! Bồ tát tại gia nếu muốn được thọ giới Ưu bà tắc, trước hết nên theo thứ lớp cúng dường lễ lạy sáu phương: đông, tây, nam, bắc, dưới và trên.

Phương đông tức là cha mẹ. Nếu có người cúng dường cha mẹ: quần áo, thức ăn, giường chiếu, thuốc men, pḥng nhà, của báu, cung kính, lễ bái, ca ngợi, tôn trọng, v.v..., người đó là người cúng dường phương đông. Cha mẹ cũng phải đem năm việc đền đáp: Một là hết ḷng thương yêu; hai là không bao giờ lừa dối con cái; ba là giao hết của cải; bốn là gả con cho nhà ḍng dơi; năm là dạy con rành rơi việc đời.

Phương nam tức là sư trưởng. Nếu có người cúng dường sư trưởng: quần áo, thức ăn, giường chiếu, thuốc men, tôn trọng, ca ngợi, cung kính, lễ bái, thức khuya dậy sớm, học hỏi tu tập lời dạy hay của thầy, v.v..., người đó là người cúng dường phương nam. Sư trưởng cũng đem năm việc đền đáp: Một là dạy dỗ không để lăng phí th́ giờ; hai là dạy hết những điều ḿnh đă biết; ba là thấy học tṛ hơn ḿnh, không sinh ḷng ghen ghét; bốn là gởi gắm học tṛ đến những bậc thầy hay, bạn tốt; năm là khi chết, giao hết tài sản cho tṛ.

Phương tây tức là người vợ. Nếu có người cung cấp vợ ḿnh: quần áo, thức ăn, giường chiếu, thuốc men, anh lạc, đồ trang sức, v.v..., người đó là người cúng dường phương tây. Người vợ nên dùng mười bốn việc đền đáp: Một là làm bất cứ việc ǵ đều phải tận tâm; hai là thường siêng năng làm việc không biếng nhác; ba là làm bất cứ việc ǵ đều hoàn tất; bốn là làm việc đều nhanh chóng, không phí th́ giờ; năm là thường chăm sóc khách khứa; sáu là quét dọn nhà cửa ngăn nắp; bảy là yêu kính chồng con, nói lời mềm dịu; tám là dùng lời nhỏ nhẹ dạy dỗ tôi tớ; chín là khéo giữ tiền của; mười là thức khuya dậy sớm; mười một là khéo léo trong việc nấu nướng; mười hai là khéo nghe lời dạy bảo; mười ba là khéo che lỗi cho chồng; mười bốn là khéo chăm sóc khi chồng đau bệnh.

Phương bắc tức là bạn lành. Nếu có người cúng dường bạn lành, tùy sức cung cấp, cung kính, nói lời mềm dịu, lễ bái, ca ngợi, v.v..., người đó là người cúng dường phương bắc. Bạn lành nên dùng bốn việc báo đáp: Một là dạy dỗ tu tập pháp lành; hai là làm cho xa ĺa pháp ác; ba là cứu giúp khi gặp sợ hăi; bốn là làm cho xa ĺa sự phóng dật.

Phương dưới tức là tôi tớ. Nếu có người cung cấp quần áo, thức ăn, thuốc men cho tôi tớ, không đánh đập, mắng nhiếc họ, v.v..., người đó là người cúng dường phương dưới. Tôi tớ nên dùng mười việc báo đáp: Một là không làm điều lỗi; hai là không đợi sai bảo mới làm; ba là làm việc ǵ phải cho xong; bốn là làm nhanh chóng không để mất th́ giờ; năm là chủ tuy nghèo khổ cũng không rời bỏ; sáu là dậy sớm; bảy là giữ ǵn đồ đạc, không để thất lạc; tám là nhận ơn dù ít, đền đáp rất nhiều; chín là chí tâm kính mến; mười là khéo dấu việc xấu của chủ.

Phương trên tức là Sa môn, Bà la môn, v.v... Nếu có người cúng dường Sa môn, Bà la môn quần áo, thức ăn, nhà cửa, thuốc men, cứu giúp khi họ lâm cảnh hiểm nguy, cúng dường thức ăn lúc họ đói khát, khéo che đậy lỗi lầm, cung kính, lễ bái, tôn trọng, khen ngợi công đức của họ, v.v..., người đó là người cúng dường phương trên. Bậc xuất gia nên đem năm việc báo đáp: Một là dạy dỗ làm sinh ḷng tin; hai là dạy dỗ làm tăng trưởng trí tuệ; ba là dạy dỗ làm tăng trưởng bố thí; bốn là dạy giữ giới; năm là dạy dỗ làm cho nghe nhiều hiểu rộng.

Nếu có người cúng dường sáu phương, người đó tăng trưởng tài sản, tuổi thọ, có thể thọ tŕ giới Ưu bà tắc.

Thiện nam tử! Nếu có người thọ giới Ưu bà tắc v́ muốn tăng trưởng của cải và tuổi thọ, trước hết họ phải hỏi ư kiến cha mẹ. Nếu cha mẹ đă bằng ḷng, kế đến nên báo cho vợ con và tôi tớ. Nếu vợ con tôi tớ đều bằng ḷng, kế đó nên thưa với nhà vua. Nếu nhà vua đă cho phép, họ có thể đến bất cứ vị xuất gia nào đă phát tâm Bồ đề, cúi đầu làm lễ, cung kính thưa rằng: “Kính bạch Đại đức, con là trượng phu, đầy đủ thân người nam, nguyện thọ giới Bồ tát Ưu bà tắc. Cúi xin Đại đức từ bi cho con thọ giới.”

Lúc đó vị Tỳ khưu nên hỏi như sau: “Cha mẹ, vợ con, tôi tớ của ông và nhà vua đă cho phép chưa?”

Nếu người đó trả lời đă cho phép, nên hỏi tiếp: “Ông có thiếu nợ của Tam Bảo hoặc của người khác hay không?”

Nếu trả lời không, nên hỏi tiếp: “Thân thể hay tâm thần của ông có bệnh hoạn ǵ không?”

Nếu trả lời không, nên hỏi tiếp: “Ông có phá hoại phạm hạnh của Tỳ khưu hoặc Tỳ khưu ni hay không?”

Nếu trả lời không, nên hỏi tiếp: “Ông có tạo tội ngũ nghịch hay không?”

Nếu trả lời không, nên hỏi tiếp: “Ông có nghe trộm pháp hay không?”

Nếu trả lời không, nên hỏi tiếp: “Ông có phải là người hai căn, hoặc vô căn hay không? Ông có phá hoại Bát quan trai? Khi cha mẹ đang bị đau bệnh, ông lại bỏ đi mà không săn sóc? Trộm cắp tài sản của hiện tiền tăng? Nói đâm thọc? Nói lời thô ác? Đối với cha mẹ, chị em có làm điều loạn luân hay không? Có ở trước đại chúng nói dối hay không?”

Nếu người ấy trả lời không, lúc ấy nên bảo họ rằng: “Giới Ưu bà tắc rất khó giữ ǵn. V́ sao? V́ giới ấy làm nền tảng cho giới Sa di, giới Tỳ khưu, và giới Bồ tát, nhẫn đến làm nền tảng cho sự chứng đắc Vô thượng Bồ đề. Người nào chí tâm thọ tŕ giới Ưu bà tắc, người đó sẽ được vô lượng lợi ích của sự thọ giới. Nếu như hủy phạm giới pháp, th́ sẽ trong vô lượng đời sinh vào ba đường ác, chịu vô lượng khổ năo. Nay ông muốn được vô lượng lợi ích, có thể chí tâm thọ tŕ hay không?”

Nếu trả lời có thể, nên nói tiếp: “Giới Ưu bà tắc này rất khó thọ tŕ. Nếu đă quy y Phật, thà mất thân mệnh, quyết không quy y trời thần quỷ vật, v.v... Nếu đă quy y Pháp, thà mất thân mệnh, quyết không quy y kinh sách ngoại đạo. Nếu đă quy y Tăng, thà mất thân mệnh, quyết không quy y thầy tà, bạn ác. Ông có thể chí tâm quy y Tam Bảo như thế hay không?”

Nếu trả lời có thể, nên nói tiếp: “Thiện nam tử! Giới Ưu bà tắc này rất khó thọ tŕ, nếu có người nào quy y Tam Bảo, người ấy phải bố thí cho chúng sinh sự không sợ. Người nào có thể bố thí sự không sợ cho chúng sinh, người ấy sẽ được giới Ưu bà tắc, nhẫn đến chứng đắc Vô thượng Bồ đề. Ông có thể bố thí sự không sợ như thế cho chúng sinh hay không?”

Nếu trả lời có thể, nên bảo tiếp: “Có năm điều làm cho chúng sinh không được tăng trưởng tài sản thọ mệnh. Năm điều ấy là ǵ? Một là tham việc sát hại, hai là tham việc trộm cắp, ba là tà dâm, bốn là nói dối, năm là uống rượu. Tất cả chúng sinh, nhân v́ sát hại sinh mệnh, mà đời này mang quả báo xấu xí, ốm yếu, tiếng xấu bêu rêu, tuổi thọ ngắn ngủi, tiền của hao ṃn, quyến thuộc chia ĺa, bị các bậc Hiền thánh chê trách, người khác không tin dùng, người khác làm ác, ḿnh bị tội lây. Đây là quả báo đời này. Khi bỏ thân này rồi, sẽ bị đọa địa ngục, chịu nhiều sự khổ năo, đói lạnh, đời sống dài lâu trong địa ngục, xấu xí ốm yếu, tiếng xấu đồn xa, đây là quả báo đời sau. Nếu được thân người, h́nh mạo xấu xí, yểu mệnh nghèo khổ. V́ sức mạnh ác nghiệp của người đó ảnh hưởng đến hoàn cảnh bên ngoài, mà ngũ cốc cùng hoa quả đều bị tổn giảm; tai ương của người đó vạ lây đến mọi người trong cả một thiên hạ.

Thiện nam tử! Nếu người ưa trộm cắp, cũng sẽ bị quả báo h́nh mạo xấu xí, ốm yếu, tiếng xấu đồn xa, yểu mệnh, tiền của tiêu hao, quyến thuộc chia ĺa, người khác mất của thường hay nghi ḿnh, tuy gần gũi người khác nhưng họ không tin cậy, lại c̣n thường bị các bậc Hiền thánh quở trách. Đây gọi là quả báo hiện tại. Sau khi bỏ thân này, sẽ bị đọa vào địa ngục, nhận thọ h́nh mạo xấu xí, tiếng xấu đồn xa, đói khát, khổ năo, nhận chịu sự thống khổ lâu dài. Đây gọi là quả báo đời sau. Nếu được sinh làm người, bần cùng thiếu thốn, nếu được tiền của đều bị mất mát. Cha mẹ, anh em, vợ con thảy đều ghét bỏ. Thân thường chịu sự khổ sở, trong tâm lại thường sầu năo không nguôi. V́ sức mạnh ác nghiệp của người đó ảnh hưởng đến hoàn cảnh bên ngoài mà mọi người chung quanh tuy ăn uống đầy đủ, mà vẫn ốm yếu, tiều tụy; tai ương của người đó vạ lây đến tất cả mọi người.

Thiện nam tử! Nếu có người ưa nói dối, người ấy sẽ bị quả báo ăn nói thô tục, h́nh thù xấu xí, lời nói dù chân thực nhưng người khác vẫn không tin. Mọi người đều chán ghét, không muốn thấy mặt. Đây gọi là quả báo hiện đời. Sau khi mất thân này, sẽ bị đọa vào địa ngục, nhận chịu sự thống khổ dữ dội của đói khát và thiêu đốt. Đây gọi là quả báo đời sau. Nếu được sinh làm người, sứt môi méo miệng, tuy nói lời chân thực, người khác không tin tưởng, và t́m cách lánh xa. Dù nói Chánh pháp, người khác cũng không thích nghe. V́ sức mạnh ác nghiệp của người ấy ảnh hưởng đến hoàn cảnh bên ngoài mà sự sinh sản của các loài vật đều bị giảm bớt.

Thiện nam tử! Nếu có người ưa uống rượu, người ấy hiện đời hay mất mát tiền của, thân tâm đều nhiều bệnh tật, tiếng xấu đồn xa, tổn giảm trí tuệ, tâm không biết hổ thẹn, dung mạo xấu xí, thân thể ốm yếu, thường bị mọi người chê trách, xa lánh, không thể tu pháp lành. Đây là ác báo hiện đời của sự uống rượu. Sau khi mất thân này, sẽ bị đọa địa ngục, nhận chịu vô lượng thống khổ của sự đói khát, v.v... Đây là quả báo đời sau. Nếu sinh làm người, tâm thường cuồng loạn, không thể buộc tâm tư duy pháp lành. V́ sức mạnh ác nghiệp của người ấy ảnh hưởng đến hoàn cảnh, mà tất cả vật dụng bên ngoài đều hư nát.

Thiện nam tử! Nếu có người ưa tà dâm, người ấy không thể giữ ǵn thân ḿnh cũng như thân người khác, và thường thường bị người khác nghi ngờ. Làm mọi việc ǵ, cũng đều gian dối. Bất cứ lúc nào cũng thường nhận chịu sự khổ năo. Tâm thường tán loạn, không thể tu pháp lành. Hay mất mát của cải, vợ con đều chán ghét, tuổi thọ ngắn ngủi. Đây là quả báo hiện đời của sự tà dâm. Sau khi mất thân này, sẽ bị đọa vào địa ngục. Chịu vô lượng thống khổ của sự ốm yếu, đói khát, dung mạo xấu xí, v.v..., trong thời gian lâu dài. Đây gọi là quả báo đời sau. Nếu sinh làm thân người, h́nh mạo xấu xí, ốm yếu, ăn nói thô tục, mọi người đều xa lánh, không thể giữ ǵn vợ con. V́ nghiệp lực của người ấy ảnh hưởng đến hoàn cảnh, nà tất cả những sự vật bên ngoài đều không được tự tại.

Thiện nam tử! Ông có thể chân thực xa ĺa năm pháp ác này hay không?”

Nếu trả lời có thể, nên bảo rằng: “Thiện nam tử! Thọ giới Ưu bà tắc, có bốn pháp không nên làm. Bốn pháp đó là ǵ? Không nên gian dối v́ những nhân duyên sau: Một là tham lam, hai là giận dữ, ba là ngu mê, bốn là khiếp sợ. Ông có thể xa ĺa bốn ác pháp này hay không?”

Nếu trả lời có thể, nên bảo tiếp rằng: “Thiện nam tử! Thọ giới Ưu bà tắc, có năm chỗ không nên tới lui: Một là chỗ của bọn hàng thịt, hai là chốn lầu xanh, ba là chỗ bán rượu, bốn là chỗ của vua, năm là chỗ của kẻ đê tiện. Ông có thể xa lánh năm chỗ như thế hay không?”

Nếu trả lời có thể, nên bảo tiếp rằng: “Thiện nam tử! Thọ giới Ưu bà tắc, có năm việc không nên làm: Một là không được bán sinh mạng, hai là không buôn bán vũ khí, ba là không buôn bán thuốc độc, bốn là không được bán rượu, năm là không được ép dầu. Ông có thể ĺa xa năm việc này hay không?”

Nếu trả lời có thể, nên bảo tiếp rằng: “Thiện nam tử! Có ba việc không nên làm: Một là không nên làm nghề đan lưới, hai là không nên làm nghề thợ nhuộm, ba là không nên làm nghề thuộc da. Ông có thể xa lánh ba việc như thế hay không?”

Nếu trả lời có thể, nên bảo tiếp rằng: “Thiện nam tử! Thọ giới Ưu bà tắc, có hai việc không nên làm: Một là cờ bạc, hai là những việc ca hát nhảy múa, v.v... Ông có thể xa lánh hai việc như thế hay không?”

Nếu trả lời có thể, nên bảo tiếp rằng: “Thiện nam tử! Thọ giới Ưu bà tắc, không nên gần gũi bốn hạng người: Một là những người cờ bạc, hai là những người rượu chè, ba là những người gian dối, bốn là những người bán rượu. Ông có thể xa lánh bốn hạng người đó hay không?”

Nếu trả lời có thể, nên bảo tiếp rằng: “Thiện nam tử! Thọ giới Ưu bà tắc, không nên làm những việc phóng dật. Thế nào gọi là phóng dật? Nghĩa là không tu pháp lành trong những thời gian sau đây: khi lạnh, nóng, đói, khát, khi ăn cơm no, buổi sáng, buổi tối, lúc sợ hăi, lúc làm việc, lúc dự định công việc, lúc mất, lúc được, lúc vui, lúc có giặc cướp, lúc lúa gạo mắc mỏ, lúc bệnh hoạn, lúc c̣n trai tráng, lúc già nua, lúc giàu có, lúc nghèo nàn, lúc làm việc để sinh sống. Ông có thể xa lánh sự phóng dật như vậy hay không?”

Nếu trả lời có thể, nên bảo tiếp rằng: Thiện nam tử! Thọ giới Ưu bà tắc, trước hết phải học những kiến thức thế gian, sau khi đă thông đạt, theo đúng pháp mà làm việc kiếm tiền. Nếu có tiền của nên chia làm bốn phần: một phần dùng để nuôi sống cha mẹ, vợ con, quyến thuộc và chiùnh ḿnh, hai phần dùng để kinh doanh, một phần c̣n lại để dành, nhỡ khi có việc cần dùng. Ông có thể làm được bốn việc như vậy hay không?”

Nếu trả lời có thể, nên bảo tiếp rằng: “Thiện nam tử! Không nên giao gửi tiền bạc cho bốn chỗ: Một là người già, hai là những nơi xa xăm, ba là người xấu ác, bốn là người có quyền thế. Những nơi như vậy, không nên giao gửi tiền của. Ông có thể xa lánh được không?”

Nếu trả lời có thể, nên bảo tiếp rằng: “Thiện nam tử! Thọ giới Ưu bà tắc, nên xa lánh bốn hạng người ác: Một là ưa nói lỗi người khác, hai là ưa nói điều tà ngụy, ba là hạng người “khẩu phật tâm xà”, bốn là hạng người nói nhiều làm ít. Ông có thể xa lánh bốn hạng người như thế không?”

Nếu trả lời có thể, nên bảo người đó trong ṿng sáu tháng, phải gần gũi, hầu hạ những bậc xuất gia có trí tuệ. Bậc trí tuệ đó cũng phải quán sát bốn uy nghi của người cầu thọ giới.

Nếu biết người cầu thọ giới có thể y theo lời dạy mà thực hành, sau khi hết sáu tháng, nên triệu tập chúng tăng đủ số hai mươi người, làm pháp yết ma.

Bậc trí tuệ bạch yết ma: “Các vị Đại đức Tăng, xin chú ư nghe! Nay có (nói tên người thọ giới), đến giữa chúng Tăng cầu thọ giới Ưu bà tắc. Trong sáu tháng nay, bốn uy nghi đều thanh tịnh, chí tâm thọ tŕ giới pháp thanh tịnh trang nghiêm. Người này là bậc đại trượng phu, thân người nam đầy đủ. Nếu chúng Tăng chấp nhận, xin tất cả im lặng. C̣n vị nào không đồng ư, xin lên tiếng.”

Nếu chúng Tăng đă chấp nhận, bậc trí tuệ nên nói như sau: “Thiện nam tử! Chú ư nghe cho rơ ràng. Chúng Tăng đă ḥa hợp, cho phép ông thọ tŕ giới Ưu bà tắc. Giới này là cội gốc của tất cả pháp lành. Người nào có thể thành tựu pháp này, sẽ đắc quả Tu đà hoàn, nhẫn đến quả A na hàm. Nếu như phá giới, sau khi mất đi, sẽ đọa vào ba đường ác.

Thiện nam tử! Giới Ưu bà tắc không thể nghĩ bàn. V́ sao? V́ sau khi thọ giới này, dù hưởng thọ ngũ dục, nhưng vẫn không chướng ngại quả Tu đà hoàn, cho đến quả A na hàm. V́ thế nên gọi là không thể nghĩ bàn. Ông có thể v́ thương xót chúng sinh mà thọ giới này hay không?”

Nếu trả lời có thể, lúc ấy bậc trí giả nên v́ người ấy mà nói pháp Tam quy y. Lần thứ hai, lần thứ ba cũng nói như thế. Sau khi thọ pháp Tam quy, được gọi là ưu bà tắc. Tiếp đến, bậc trí tuệ nên bảo rằng: “Thiện nam tử! Lắng nghe cho kỹ. Đức Như Lai Chánh Giác nói giới Ưu bà tắc có nhiều tŕnh độ thọ giới khác biệt, hoặc một phần, hoặc nửa phần, hoặc không có phần, hoặc nhiều phần, hoặc toàn phần. Nếu như ưu bà tắc, sau khi thọ Tam quy, không thọ năm giới, th́ chỉ gọi là ưu bà tắc; nếu thọ Tam quy giữ một giới, th́ gọi là ưu bà tắc một phần; nếu thọ Tam quy giữ hai giới, th́ gọi là ưu bà tắc thiểu phần. Sau khi thọ Tam quy giữ hai giới, nếu phá một giới, th́ gọi là không có phần. Nếu thọ Tam quy giữ ba giới, bốn giới, th́ gọi là ưu bà tắc nhiều phần; nếu thọ Tam quy giữ năm giới, th́ gọi là ưu bà tắc toàn phần. Nay ông muốn thọ giới ưu bà tắc một phần, hay giới ưu bà tắc nhiều phần?” Sau khi người thọ nói lên ư ḿnh, bậc trí tuệ sẽ y theo sở thích của họ mà thọ giới.

Sau khi đă thọ giới, nên dạy tiếp rằng: “Giới pháp của ưu bà tắc, có sáu giới trọng. Thiện nam tử! (1) Sau khi thọ giới Ưu bà tắc, dù cho mất thân mạng, ngay đến loài trùng kiến, cũng không được giết hại. Nếu phạm giới giết hại, hoặc bảo người giết, hoặc tự ḿnh giết, sẽ lập tức mất giới Ưu bà tắc; trong hiện đời, c̣n không thể chứng được noăn pháp, huống hồ là thánh quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, hoặc A na hàm. Người đó là ưu bà tắc phá giới, ưu bà tắc xú uế, ưu bà tắc cấu ô, ưu bà tắc chiên đà la, ưu bà tắc bị triền phược. Đây là giới trọng thứ nhất. (2) Sau khi thọ giới Ưu bà tắc, dù cho mất thân mạng, ngay đến một đồng tiền, cũng không được trộm cắp. Nếu phạm giới trộm cắp sẽ lập tức mất giới Ưu bà tắc; trong hiện đời, c̣n không thể chứng được noăn pháp, huống hồ là thánh quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, hoặc A na hàm. Người đó là ưu bà tắc phá giới, ưu bà tắc xú uế, ưu bà tắc cấu ô, ưu bà tắc chiên đà la, ưu bà tắc bị triền phược. Đây là giới trọng thứ hai. (3) Sau khi thọ giới Ưu bà tắc, dù cho mất thân mạng, cũng không được đại vọng ngữ: “Tôi đă chứng được pháp quán bất tịnh”,..., hoặc: “Tôi đă chứng được thánh quả A na hàm”. Nếu phạm giới đại vọng ngữ sẽ lập tức mất giới Ưu bà tắc; trong hiện đời, c̣n không thể chứng được noăn pháp, huống hồ là thánh quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, hoặc A na hàm. Người đó là ưu bà tắc phá giới, ưu bà tắc xú uế, ưu bà tắc cấu ô, ưu bà tắc chiên đà la, ưu bà tắc bị triền phược. Đây là giới trọng thứ ba. (4) Sau khi thọ giới Ưu bà tắc, dù cho mất thân mạng, cũng không được tà dâm. Nếu phạm giới tà dâm sẽ lập tức mất giới Ưu bà tắc; trong hiện đời, c̣n không thể chứng được noăn pháp, huống hồ là thánh quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, hoặc A na hàm. Người đó là ưu bà tắc phá giới, ưu bà tắc xú uế, ưu bà tắc cấu ô, ưu bà tắc chiên đà la, ưu bà tắc bị triền phược. Đây là giới trọng thứ tư. (5) Sau khi thọ giới Ưu bà tắc, dù cho mất thân mạng, cũng không được rao nói tội lỗi của bốn chúng: tỳ khưu, tỳ khưu ni, ưu bà tắc, ưu bà di. Nếu phạm giới rao nói tội lỗi của bốn chúng sẽ lập tức mất giới Ưu bà tắc; trong hiện đời, c̣n không thể chứng được noăn pháp, huống hồ là thánh quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, hoặc A na hàm. Người đó là ưu bà tắc phá giới, ưu bà tắc xú uế, ưu bà tắc cấu ô, ưu bà tắc chiên đà la, ưu bà tắc bị triền phược. Đây là giới trọng thứ năm. (6) Sau khi thọ giới Ưu bà tắc, dù cho mất thân mạng, cũng không được bán rượu. Nếu phạm giới bán rượu sẽ lập tức mất giới Ưu bà tắc; trong hiện đời, c̣n không thể chứng được noăn pháp, huống hồ là thánh quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, hoặc A na hàm. Người đó là ưu bà tắc phá giới, ưu bà tắc xú uế, ưu bà tắc cấu ô, ưu bà tắc chiên đà la, ưu bà tắc bị triền phược. Đây là giới trọng thứ sáu.

Thiện nam tử! Nếu ưu bà tắc sau khi thọ giới có thể hết ḷng giữ ǵn không cho hủy phạm th́ sẽ đắc được thánh quả như trên. Thiện nam tử! Giới Ưu bà tắc là ngọc anh lạc trang nghiêm, là hương thơm vi diệu xông khắp mọi nơi, là quỹ luật cho pháp thiện, ngăn chận các pháp bất thiện, là kho tàng diệu bảo vô thượng, là chủng tính của ḍng dơi tôn quí, là nơi đại tịch tĩnh, là vị cam lộ, là đất sanh ra thiện pháp. Chỉ cần chân thực phát tâm thọ giới đă được vô lượng vô biên lợi ích như vậy, huống chi là nhất tâm giữ ǵn không cho hủy phạm.

Thiện nam tử! Như Đức Phật đă dạy: (1) Nếu ưu bà tắc, sau khi thọ giới, không cúng dường cha mẹ, sư trưởng, th́ sẽ phạm tội sơ ư. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là người nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (2) Nếu ưu bà tắc, sau khi thọ giới, ham mê uống rượu, th́ sẽ phạm tội sơ ư. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là người nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (3) Nếu ưu bà tắc, sau khi thọ giới, gặp người bệnh khổ, sinh khởi ác tâm, bỏ phế không chăm sóc, th́ sẽ phạm tội sơ ư. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là người nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (4) Nếu ưu bà tắc, sau khi thọ giới, thấy người đến xin, không tùy sức ḿnh mà bố thí ít nhiều, để cho người đến xin ra về tay không, th́ sẽ phạm tội sơ ư. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là người nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (5) Nếu ưu bà tắc, sau khi thọ giới, gặp các vị tỳ khưu, tỳ khưu ni, hoặc các vị ưu bà tắc thọ giới trước, không đứng dậy tiếp đón, lễ lạy, th́ sẽ phạm tội sơ ư. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là người nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (6) Nếu ưu bà tắc, sau khi thọ giới, thấy tỳ khưu, tỳ khưu ni, ưu bà tắc, ưu bà di phạm giới, bèn sinh tâm kiêu mạn, cho rằng ḿnh hơn họ, họ không bằng ḿnh, th́ sẽ phạm tội sơ ư. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là người nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (7) Nếu ưu bà tắc, sau khi thọ giới, mỗi tháng không thọ sáu ngày bát quan trai giới, không cúng dường Tam Bảo, th́ sẽ phạm tội sơ ư. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là người nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (8) Nếu ưu bà tắc, sau khi thọ giới, trong ṿng bốn mươi dặm có chỗ giảng kinh thuyết pháp mà không đến nghe, th́ sẽ phạm tội sơ ư. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là người nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (9) Nếu ưu bà tắc, sau khi thọ giới, thọ dụng đồ dùng của chư tăng, như ngọa cụ, giường, ghế, v.v..., th́ sẽ phạm tội sơ ư. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là người nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (10) Nếu ưu bà tắc, sau khi thọ giới, nghi nước có trùng mà vẫn cố ư uống, th́ sẽ phạm tội sơ ư. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là người nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (11) Nếu ưu bà tắc, sau khi thọ giới, đi một ḿnh trong chỗ nguy hiểm, th́ sẽ phạm tội sơ ư. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là người nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (12) Nếu ưu bà tắc, sau khi thọ giới, một ḿnh ngủ đêm tại chùa ni, th́ sẽ phạm tội sơ ư. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là người nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (13) Nếu ưu bà tắc, sau khi thọ giới, v́ tiền của mà đánh đập chửi rủa tôi tớ, hoặc người ngoài, th́ sẽ phạm tội sơ ư. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là người nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (14) Nếu ưu bà tắc, sau khi thọ giới, đem thức ăn thừa bố thí cho tỳ khưu, tỳ khưu ni, hoặc ưu bà tắc, ưu bà di khác, th́ sẽ phạm tội sơ ư. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là người nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (15) Nếu ưu bà tắc, sau khi thọ giới, nuôi dưỡng mèo, chồn, th́ sẽ phạm tội sơ ư. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là người nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (16) Nếu ưu bà tắc, sau khi thọ giới, nuôi dưỡng voi, ngựa, trâu, dê, lạc đà, hoặc các loại súc vật khác, không chịu tịnh thí cho người chưa thọ giới, th́ sẽ phạm tội sơ ư. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là người nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (17) Nếu ưu bà tắc, sau khi thọ giới, không chứa sẵn tăng già lê, b́nh bát, tích trượng để cúng dường chúng Tăng, th́ sẽ phạm tội sơ ư. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là người nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (18) Nếu ưu bà tắc, sau khi thọ giới, làm nghề canh tác sinh sống, không t́m chỗ nước sạch, đất cao ráo để trồng trọt, th́ sẽ phạm tội sơ ư. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là người nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (19) Nếu ưu bà tắc, sau khi thọ giới, làm nghề mua bán: lúc bán hàng, một khi đă đồng ư giá cả, không được lật lọng, đem bán cho người trả giá đắt hơn; lúc mua hàng, nếu thấy người bán cân lường gian lận, phải nói lỗi họ, để họ sửa đổi. Nếu không làm như thế, th́ sẽ phạm tội sơ ư. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là người nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (20) Nếu ưu bà tắc, sau khi thọ giới, hành dâm không đúng chỗ, không đúng thời, th́ sẽ phạm tội sơ ư. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là người nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (21) Nếu ưu bà tắc, sau khi thọ giới, làm nghề thương mại, công nghiệp, v.v..., không chịu nộp thuế, hoặc khai thuế gian lận, th́ sẽ phạm tội sơ ư. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là người nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (22) Nếu ưu bà tắc, sau khi thọ giới, vi phạm luật pháp quốc gia, th́ sẽ phạm tội sơ ư. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là người nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (23) Nếu ưu bà tắc, sau khi thọ giới, lúc lúa, trái cây, rau cải được mùa, không dâng cúng Tam Bảo trước, th́ sẽ phạm tội sơ ư. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là người nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (24) Nếu ưu bà tắc, sau khi thọ giới, Tăng già không cho phép thuyết pháp, khen ngợi, mà vẫn cứ làm, th́ sẽ phạm tội sơ ư. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là người nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (25) Nếu ưu bà tắc, sau khi thọ giới, ra đường đi trước các tỳ khưu, sa di, v.v..., th́ sẽ phạm tội sơ ư. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là người nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (26) Nếu ưu bà tắc, sau khi thọ giới, trong lúc phân phối thức ăn cho chư Tăng, sinh tâm thiên vị, lựa những món ngon, nhiều hơn phần người khác, để cúng dường thầy ḿnh, th́ sẽ phạm tội sơ ư. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là người nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (27) Nếu ưu bà tắc, sau khi thọ giới, nuôi tằm lấy tơ, th́ sẽ phạm tội sơ ư. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là người nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi. (28) Nếu ưu bà tắc, sau khi thọ giới, đi đường gặp người bệnh, không t́m phương tiện chăm sóc, hoặc gửi gắm cho người khác chăm sóc, th́ sẽ phạm tội sơ ư. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là người nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.

Thiện nam tử! Nếu ưu bà tắc nào, có thể chí tâm thọ tŕ giới pháp này, người ấy là hoa Phân đà lợi  trong hàng ưu bà tắc, là hương thơm vi diệu trong hàng ưu bà tắc, là hoa sen trong sạch trong hàng ưu bà tắc, là trân báu chân thực trong hàng ưu bà tắc, là bậc đại trượng phu trong hàng ưu bà tắc.

Thiện nam tử! Đức Phật có dạy: Bồ tát có hai hạng: một là tại gia, hai là xuất gia. Bồ tát xuất gia gọi là tỳ khưu hoặc tỳ khưu ni, Bồ tát tại gia gọi là ưu bà tắc hoặc ưu bà di. Bồ tát xuất gia tŕ giới xuất gia, điều này không khó. Bồ tát tại gia tŕ giới tại gia, điều này mới khó. V́ sao? V́ người tại gia bị nhiều ác duyên ràng buộc.

Chú Thích 


[1] Sự chướng ngại của trí tuệ,tức là sở tri chướng; thân chướng của chúng sinh, tức là phiền năo chướng.

[2] Tám thứ âm thanh vi diệu: (1) ngọt ngào, (2) mềm mỏng, (3) ḥa nhă, (4) thông tuệ, (5) không dối, (6) sâu sắc, (7) không lầm lẫn, (8) không cùng tận.

[3] Năm chi vị lai của mười hai nhân duyên, tức là ái, thủ, hữu, sinh và lăo tử.

[4] Tám chi hiện tại của mười hai nhân duyên, tức là thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ và hữu.

[5] Ba niệm, c̣n gọi là ba niệm trụ: (1) Chúng sinh tin Phật, Phật cũng không vui, mà thường an trụ trong chánh niệm, chánh tri; (2) chúng sin không tin Phật, Phật cũng không buồn, mà thường an trụ trong chánh niệm, chánh tri; (3) Đồng thời có người tin, người không tin, cũng giống như trên.

[6] Trí nhân, tức là Bồ đề tâm, v.v.., trí quả, tức là Phật quả.

[7] Nhân trí là trí biết rơ tâm hành của chúng sinh, thời trí là trí biết rơ thời gian, tướng trí là trí biết rơ tất cả tướng nhân, tướng quả, tướng sai biệt, v.v...

[8] Tám pháp thế gian, c̣n gọi là bát phong, tức là lợi, suy, hủy, dự, xưng, ky, khổ, lạc.

[9] Quán nhân quả, tức là từ nhân quán sát quả; quán quả nhân, tức là từ quả quán sát nhân, chẳng hạn như quán khổ tập, quán diệt đạo là từ quả quán sát nhân.

[10] Định hữu: Hữu phân làm ba hữu (tam giới), chín hữu, hai mươi lăm hữu và sáu mươi hai hữu. Định hữu, tức là ở cơi trời, người.

[11] Tận trí là trí tuệ, khi chứng A la hán, biết sự sinh tử của ḿnh đă chấm dứt. Vô sinh trí là trí tuệ biết ḿnh không c̣n thọ thân đời sau. Tiểu thừa cần phải chứng quả A la hán, c̣n Đại thừa th́ phải đến quả Phật.

[12] Sáu niệm (lục niệm), tức là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thí và niệm thiên.

[13] Bảy loại kiêu mạn: (1) mạn, (2) quá mạn, (3) mạn quá mạn, (4) ngă mạn, (5) tăng thượng mạn, (6) ti liệt mạn, và (7) tà mạn.

[14] Đoạn trừ văn căn: từ tŕnh độ “văn sở thành tuệ”, tiến lên tŕnh độ “tư sở thành tuệ”, mà chứng đắc căn bổn trí, tức là đoạn trừ “những lời đă được nghe” nghĩa là không c̣n chấp trước và ngữ ngôn văn tự.

[15] Tám điều tà ngụy: là tám điều tương phản với bát chánh, tức là tà ngữ, tà kiến, tà nghiệp, tà tinh tiến, tà định, tà mệnh, tà niệm và tà tư duy.

[16] Năm bộ kinh, tức là năm bộ kinh A Hàm.

 

 

back_to_top.png     next.png

 

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

 

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0