* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ | KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

KINH ĐẠI THỪA BẢN SINH TÂM ĐỊA QUÁN

Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Bát-nhă, người nước Kế tân

Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

Quyển 5

Phẩm 4: VÔ CẤU TÁNH

 

Trang Chủ

Kinh Điển

Đại Tạng Kinh

Thần Chú

Hình Ảnh

Liên Lạc

 

Số 0159

KINH ĐẠI THỪA BẢN SINH TÂM ĐỊA QUÁN 8 Quyển

Quyển 1

Quyển 2

Quyển 3

Quyển 4

Quyển 5

Quyển 6

Quyển 7

Quyển 8

 

Bấy giờ, Trưởng giả Trí Quang cùng các Trưởng giả khác đă xuất gia, pháp phục tề chỉnh năm vóc sát đất, lễ chân Phật, chắp tay cung kính bạch:

        - Bạch Đức Thế Tôn, chúng con theo Phật, nghe được những điều chưa được nghe về các lỗi lầm vốn có của tại gia; chúng con phát tâm Bồ đề, chán ĺa thế gian, cạo bỏ râu tóc làm Tỳ kheo. Chúng con kính xin Như Lai, ứng Chánh Đẳng Giác v́ tất cả chúng con và các chúng sinh diễn nói về công đức thù thắng của sự xuất gia, khiến người được nghe, phát tâm thanh tịnh, thích hạnh xa ĺa, làm cho hạt giống Phật không hề bị dứt. Thế Tôn là bậc có ân lớn, Ngài vận dụng Vô duyên từ bi thương xót chúng sinh như đối với La-Hầu-La, nay kính Đức Thế Tôn chỉ dạy cho chúng con biết: Bồ tát xuất gia nên an trụ như thế nào? Nên tu tập nghiệp vô cấu như thế nào? Và phải làm sao để điều phục tâm hữu lậu?

        Bấy giờ, Đức Thế Tôn tán thán Trí Quang cùng các Tỳ kheo:

        - Quư hóa thay! Quư hóa thay! Các ông thực là Phật tử chân chánh! Các ông v́ tất cả chúng sinh đời mai sau nên đă nêu hỏi Như Lai về những việc như vậy. Đúng như thế! Đúng như thế! Đúng như lời các ông nói, Như Lai Thế Tôn thương xót chúng sinh, b́nh đẳng không hai cũng như con một. Nay các ông hăy lắng nghe cho kỹ và nhớ nghĩ cho khéo, Ta nay sẽ v́ các ông mà phân biệt diễn nói về Bồ tát xuất gia nên an trụ như thế, tu tập các nghiệp vô cấu như thế, điều phục tâm hữu lậu như thế này.

        Các Tỳ kheo bạch:

        - Dạ! Bạch Thế Tôn, chúng con nguyện muốn nghe được lời Đức Thế Tôn dạy!

        Đức Phật bảo Tỳ kheo Trí Quang:

        - Bồ tát xuất gia an trụ tâm như vậy, thời thường quán như thế này: Ta được thân người, các căn đầy đủ, vậy ta từ nơi nào mà mất đi, mà sinh lại thế gian này? Ta ở trong ba cơi, rồi sẽ sinh vào cơi nào? Trong bốn đại châu, ta sẽ sinh vào châu nào? Trong sáu đường, ta sẽ thọ sinh vào nẻo nào? Do nhân duyên ǵ ta bỏ được cha mẹ, vợ con, họ hàng, xuất gia tu đạo, thân khỏi vướng vào tám nạn? Trong kiếp Trang nghiêm thuở quá khứ, ngàn Đức Phật đều nhập Niết bàn rồi, trong kiếp Tinh tú thuở vị lai, ngàn Phật chưa ra đời, trong Hiền kiếp hiện tại với ngàn Đức Phật, bao nhiêu Phật Như Lai đă xuất hiện ở đời, hóa duyên sắp hết và sắp nhập Bát Niết Bàn? Bao nhiêu Phật Thế Tôn chưa ra đời phải chăng là do căn duyên của các chúng sinh chưa chín, chưa được nghe chánh pháp? Lại, thời nào trong tương lai, Ngài Di Lặc từ cơi trời Đâu-suất sinh xuống nhân gian và hiện thành Phật đạo? Trong thân ta có nghiệp thiện ǵ? Học Giới, Định, Tuệ sẽ có đức ǵ? Chư Phật quá khứ đều đă chẳng gặp, Thế Tôn tương lai liệu được thấy chăng? Ta nay hiện ở trong các cơi phàm phu, vậy ba nghiệp phiền năo ǵ là nặng hơn? Một đời trở lại ta đă tạo tội nghiệp ǵ? Ta từng trồng căn lành ở nơi Đức Phật nào? Thân mạng ta đây c̣n sống được bao lâu? Ngày nay đă qua, mạng theo đấy mà giảm bớt, cũng như người dắt dê đến ḷ mổ thịt, dần dần đến chỗ chết, không c̣n nơi trốn tránh, vậy khi thân hoại, mạng chung sẽ sinh vào nơi nào? Khổ trong ba đường ác làm sao thoát khỏi được? Thân ta đây luôn yêu thích và nuôi nấng cho nó hơn lên, nhưng từng niệm từng niệm nó suy yếu, già đi, không có lúc nào tạm dừng, vậy ai là người có trí tuệ lại yêu thích thân này? Trí Quang nên biết: Bồ tát xuất gia ngày đêm thường quán sát như thế, đừng tham hưởng năm dục lạc của thế gian, dốc siêng năng tinh chuyên tu tập không chút ngừng nghỉ, coi như là cần phải bỏ đá nặng nơi đỉnh đầu, cứu lửa cháy trên đầu. Tâm thường sám hối những tội từ trước của quá khứ, an trụ vào bốn Vô cấu tánh, một ḷng tu tập mười hai hạnh Đầu đà, điều phục tâm ḿnh như hạng Chiên-đà-la. Phật tử như thế gọi là xuất gia.

        Này Tỳ kheo Trí Quang, v́ nghĩa ǵ mà gọi người chân thực tu hạnh Sa-môn như hạng Chiên-đà-la? V́ khi mỗi người Chiên-đà-la đi ra ngoài, tay đều cầm cây gậy cứng, không dám đi giữa đường, nếu có người đi gần sát tới ḿnh thời rung gậy tích cho người ta nghe thấy tránh đi. Ở trong đám đông, tâm họ thực hành sự nhún nhường, không dám khinh mạn, khi bị người quở trách, tâm không oán hận và chưa từng dám báo thù, ngay đến trường hợp bị mạ nhục, đánh đập cũng im lặng chịu đựng. Sao vậy? V́ họ tự biết ḿnh thuộc ḍng họ thấp hèn, không dự vào bậc ǵ trong xă hội, do nhân duyên ấy nên không biết giận dữ, không hề báo thù.

        Trí Quang nên biết, Bồ tát xuất gia cũng như thế! Cạo bỏ râu tóc, h́nh dáng cũng như đứa trẻ thơ, tay cầm giữ đồ ứng khí, nương tựa vào người để nuôi sống thân mạng, thân mặc áo cà sa như mặc áo giáp mũ trụ, cầm gậy tích đi như cầm giáo mác, cầm gươm trí tuệ, phá giặc phiền năo, tu hạnh như anh nhi, dốc làm lợi ích cho tất cả. Thế nên, tất cả mũi tên nhọn của tham, sân, si không thể găm vào thân bậc Sa môn chân thực được. Bồ tát xuất gia dùng ba phép quán, tu hạnh Nhẫn nhục gọi là chân xuất gia: quán các chúng sinh là Hóa thân của Phật, quán nơi thân ḿnh đúng là hàng ngu tối; quán các hữu t́nh khởi ra tưởng là bậc tôn quư, quán nơi thân ḿnh khởi ra tưởng là hàng tôi tớ; lại quán chúng sinh khởi ra tưởng coi chúng sinh như cha mẹ, quán nơi thân ḿnh khởi ra tưởng coi ḿnh như con trai, con gái. Bồ tát xuất gia thường thực hành những quán ấy, hoặc bị người đánh mắng, hoàn toàn không báo thù lại, mà chỉ t́m phương tiện khéo léo để điều phục tâm ḿnh.

        Tỳ kheo Trí Quang, các ông nghe kỹ! Thế nào là bốn Vô cấu tánh? Đó là: Quần áo, đồ nằm, thức ăn uống và thuốc men. Bốn sự như thế tùy theo chỗ có được, hoặc xấu hoặc tốt cũng vừa ḷng, xa ĺa hẳn tâm tham cầu, đó là Vô cấu tánh. Các Tỳ kheo, do nhân duyên ǵ, bốn hạnh như thế gọi là Vô cấu tánh? Trí Quang nên biết, ba mươi bảy phẩm Bồ đề phận pháp của Phật Như Lai đều từ đấy phát sinh và Phật, Pháp, Tăng bảo cũng do đó mà thường không bị đoạn tuyệt, nên được gọi là Vô cấu tánh.

        Khi ấy, Đức Thế Tôn nói bài kệ:

Tỳ kheo Trí Quang ông nghe kỹ

Bồ tát xuất gia cần nên làm.

“Vô duyên đại từ” nhiếp chứng sinh

Cũng như con một đều b́nh đẳng.

Phát tâm Bồ-đề cầu Chánh giác

Nên làm ba việc thành Phật pháp:

Tâm thường trụ bốn Vô cấu tánh

Nên tu mười hai hạnh Đầu đà,

Hạ ḿnh như hạng Chiên đà la.

Trong bốn uy nghi nghĩ thế này:

Mười phương vô lượng các Bồ tát

Sát na, sát na hướng Thánh đạo

Các vị tu chứng ta cũng thế 

V́ sao lưu chuyển trong ba cơi

Luân hồi sinh tử khổ vô lượng?

Nay thân ta đang ở cơi nào?

Sáu nẻo luân hồi ở đường nào?

Thai, noăn, thấp, hóa sinh, loài chi?

Thân, khẩu, ư nghiệp tu cái ǵ?

Trong chỗ tạo tội, tội nào nặng?

Tâm trong ba tánh, tâm nào nhiều?

Quán sát kỹ càng như thế rồi

Đại Từ, đại Bi thường tiếp nối

Đại Hỷ, đại Xả, tâm ấy trước

V́ người có duyên nói pháp diệu.

Ngày đêm tu tâm không hề ngừng

Như bỏ đá đầu, cứu đầu cháy.

Niệm ba môn quán thường chẳng rời

 Quán các chúng sinh là thân Phật

Chỉ ta riêng ở trong loại phàm

Tất cả chứng sinh đều tôn quư.

Ta làm tôi tớ ở thấp hèn

Chúng sinh trên đời như cha mẹ

Ta như trai, gái lành hiếu dưỡng

Bị người đánh mắng chẳng giận hiềm

Siêng tu nhẫn nhục không ghen, oán

Bốn sự cúng dường tâm không ham

Như thế gọi là Vô cấu tánh.

Ba mươi bảy phẩm Bồ đề phận

Cùng được quả báo thân Như Lai

Pháp vô lậu thù thắng như thế

Bốn Vô cấu tánh là căn bản.

Không hạnh buông lung, thường tu tập

Thế là xuất gia: Chân Phật tử

Mầm trí Bồ đề niệm niệm tăng

Thánh đạo Vô lậu đều thành tựu

Chóng vượt qua được vô lượng kiếp

Ngồi trên Hoa vương trong pháp giới.

Phước trí trang nghiêm đều viên măn

Trong vô biên kiếp lợi quần sinh

Do Vô cấu tánh đều thành tựu

Chứng quả thường trụ của Như Lai.

        Lại nữa Tỳ kheo Trí Quang, Bồ tát xuât gia đối với vấn đề y phục, không nên tham đắm, dù tốt dù xấu tùy chỗ ḿnh được thế nào th́ nên vậy, đối với thí chủ cần phải v́ họ mà tạo ra ruộng phước, chớ tỵ hiềm chuyện y phục thô xấu, cũng không được v́ vấn đề ấy mà nói rộng pháp yếu, nhằm khởi ra mọi phương tiện để thích ứng với tâm tham của ḿnh.

        Phàm phu trong thế gian v́ vấn đề y phục mà tham cầu phi pháp, tạo nghiệp bất thiện, phải bị đọa vào đường ác, trải qua vô lượng kiếp không được gặp chư Phật, không được nghe Chánh pháp. Chịu khổ trong các đường ác xong rồi được sinh trở lại nhân gian, th́ bị nghèo cùng khốn khổ, khổ v́ mong cầu không đạt được, ngày đêm bức bách, áo không đủ che h́nh, ăn không đủ giữ mạng. Mọi nỗi khổ như thế đều do đời trước v́ việc y phục, giết hại nhiều sinh mạng, tạo ra vô số tội lỗi.

        Bồ tát xuất gia th́ không như thế, tùy chỗ ḿnh được thế nào  cũng nên vậy, không hiềm thô xấu, chỉ luôn mang ḷng hổ thẹn để cho pháp y được sung măn, đạt được mười lợi lạc thù thắng:

1. Che thân ḿnh, xa ĺa được sự xấu hổ, đầy đủ đức biết hổ thẹn để tu hành pháp thiện.

2. Xa ĺa mọi sự lạnh, nóng, cùng bao thứ ruồi, muỗi, thú dữ, trùng độc, để an ổn tu đạo.

3. Làm hiện rơ tướng mạo Sa môn xuất gia, người ta trông thấy liền sinh tâm vui vẻ, xa ĺa được tâm tà vậy.

4. Cà sa tức là h́nh tướng của lá cờ báu trời, người, chúng sinh dốc tôn trọng kính lễ th́ được sinh cơi Phạm thiên.

5. Khi mặc cà sa sẽ sinh ư tưởng về ngôi tháp báu, có khả năng diệt được mọi tội, sinh mọi phước đức.

6. Gốc tạo ra cà sa nhuộm thành hoại sắc là nhằm để xa ĺa mọi tưởng về năm dục, không sinh tâm tham ái.

7. Cà sa là áo thanh tịnh của Phật, dứt hẳn được mọi thứ phiền năo, tạo ra ruộng phước tốt lành.

8. Thân mặc cà sa th́ mọi sự tạo tác về tội lỗi được tiêu trừ, mười nẻo thiện nghiệp, niệm niệm tăng trưởng.

9. Cà sa cũng như ruộng tốt hay làm tăng trưởng Bồ tát đạo.

10. Cà sa cũng như áo giáp, vũ trụ, các thứ tên độc phiền năo không thể hại được.

        Trí Quang nên biết, do nhân duyên ấy chư Phật trong ba đời cùng các bậc Duyên giác, Thanh văn xuất gia thanh tịnh, thân đều mặc cà sa và ba bậc Thánh ấy đồng ngồi nơi ṭa báu giải thoát, cầm gươm trí tuệ, phá ma phiền năo, cùng vào nơi cơi Niết bàn nhất vị.

        Lúc đó, Đức Thế Tôn nói bài kệ:

Tỳ kheo Trí Quang nên nghe khéo

Ao đại phước điền mười thắng lợi

Y phục thế gian thêm nhiễm dục

Áo pháp Như Lai không như thế.

Áo pháp ngăn đời sự thẹn hổ

Thẹn hổ viên măn sinh ruộng phước.

Xa ĺa rét, nắng và trùng độc

Tâm đạo vững bền được cứu cánh.

Thị hiện xuất gia ĺa tham dục

Dứt năm tà kiến, chánh tu tŕ.

Chiêm lễ cà sa, tưởng cờ báu

Cung kính sinh ra phước Phạm vương.

Phật tử mặc áo tưởng như tháp

Tội diệt, phước sinh cảm trời, người.

Dáng nghiêm chí kính: chân Sa môn

Chỗ làm không nhiễm theo trần tục

Chư Phật khen ngợi là ruộng tốt

Lợi lạc mọi loài đây hơn cả.

Thần lực cà sa không nghĩ bàn

Hay khiến trồng, tu hạnh Bồ đề.

Mầm đạo lớn thêm như lúa Xuân

Diệu quả Bồ đề như trái Thu

Kim cang bền vững thực giáp trụ

Tên độc phiền năo không hại được.

Ta nay khen qua mười thắng lợi

Nhiều kiếp nói rộng không hết được

 Nếu có thân Rồng đeo một sợi

Thoát khỏi miệng Kim sí điểu vương.

Nếu người qua biển mang áo này

Không sợ các nạn quỷ, cá, rồng.

Sấm chớp ầm ầm như trời giận

Mặc áo cà sa không sợ hăi

Tại gia nếu hay thân kính giữ

Tất cả quỷ dữ không dám gần.

Nếu hay phát tâm cầu xuất gia

Chán bỏ thế gian, tu đạo Phật

Ma cung mười phương đều chấn động

Người ấy chóng chứng thân Pháp vương.

        Lại nữa Bồ tát Trí Quang, Phật tử xuất gia thường làm hạnh khất thực, dù rằng phải xả thân mạng, chứ không bao giờ dứt tâm ấy. V́ sao thế? V́ tất cả chúng sinh đều nhờ vào việc ăn uống mà tồn tại, bởi thế nên lợi ích của việc khất thực là vô cùng. Các ông nên biết, Bồ tát xuất gia thường đi khất thực, v́ nó có mười lợi lạc thù thắng. Những ǵ là mười?

1. Thường đi khất thực để nuôi sống thân mạng ḿnh, nhưng được ra vào tự do không bị lệ thuộc vào người khác.

2. Khi đi khất thực, trước tiên nói diệu pháp cho người ta nghe, khiến họ khởi tâm thiện, sau mới xin thức ăn cho ḿnh.

3. V́ những người không biết bố thí, phát tâm đại từ bi, v́ họ nói chánh pháp, khiến họ khởi tâm xả thí, mà sinh được phước đức hơn hết.

4. Làm theo lời Phật dạy để tăng trưởng giới phẩm, phước đức được viên măn, trí tuệ vô cùng.

5. Từng đi khất thực, đối với bảy mạn, chín mạn tự nhiên tiêu diệt, mọi người cung kính xem đấy là ruộng phước tốt đẹp.

6. Khi khất thực sẽ đạt được tướng Vô kiến đỉnh của Như Lai, nhận sự cúng dường rộng lớn của thế gian

7. Phật tử các ông theo học pháp này, khiến Tam bảo luôn được duy tŕ phát triển đem lại lợi ích cho chung sinh.

8. Khi khất thực không được v́ muốn có được thức ăn uống mà dậy khởi tâm mong cầu, khen ngợi tất cả hàng nam, nữ.

9. Khi đi khất thực nên theo lần lượt, không nên phân biệt nhà nghèo, nhà giàu.

10. Thường đi khất thực, chư Phật luôn hoan hỷ, dốc tu tập đạt được Nhất thiết trí, th́ là duyên lành hơn hết.

10. Bồ tát Trí Quang, Như Lai v́ các ông mà nói qua mười sự lợi ích như vậy, nếu phân biệt rộng ra thời vô lượng vô biên. Tỳ kheo các ông, cùng những người đời sau cầu Phật đạo nên học như thế!

        Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài kệ:

Bồ tát Trí Quang ông nghe kỹ!

Đại sĩ xuất gia nên bỏ tham

Phát tâm tu hành đạo xuất thế

Khất thực Đầu đà là căn bản.

Phàm phu nương món ăn hữu lậu

Bậc Thánh chuộng món ăn vô lậu

Hữu lậu, vô lậu các phàm, Thánh

Tất cả đều dựa món ăn, sống.

Ta v́ các ông là Phật tử

Khai diễn hai lợi hạnh xuất thế

Như Lai ba đời đều khen ngợi

Công đức khất thực có mười lợi:

Riêng gọi hạnh này là tối thắng

Ra vào tự tại không ràng buộc.

Trước khiến thí chủ phát sơ tâm

Dốc hướng Bồ đề, sau mới ăn.

V́ trừ sẻn tham nối pháp mầu

Nên khởi đại xả tâm vô lượng.

Theo Đại sư dạy đi khất thực

Tăng trưởng vô lượng các phạm hạnh.

Bảy mạn, chín mạn tự trừ diệt

Được các trời, người, thường cung kính.

Đảnh tướng Như Lai không thể thấy

Chuyển xe pháp diệu độ mười phương.

Tận đời vị lai truyền pháp này

Khiến không dứt tuyệt giống Tam bảo.

Nếu v́ ăn uống khởi tâm tham

Không nên khen ngợi các nam, nữ.

Khởi ư b́nh đẳng đại từ bi

Không sinh phân biệt giàu, nghèo khó.

Thanh tịnh khất thực Phật khen ngợi

Nhất thiết chủng trí từ đấy sinh.

Như Lai ba đời hiện ra đời

V́ chúng sinh nói bốn món ăn:

Đoạn, xúc, tư, thức là bốn món

Là món ăn hữu lậu của đời.

Chỉ có Pháp hỷ, Thiền duyệt thực

Mới là món ăn của Hiền thánh

Các ông chán bỏ mùi vị đời

Nên cầu món vô lậu xuất thế

        Lại nữa Bồ tát Trí Quang, Phật tử xuất gia đối với thuốc men không nên tham đắm. Nếu khi có bệnh, thứ thuốc người ta sắc rồi bỏ đi, như các vị Ha-lê-tỳ-lê và A-ma-lặc thời nên lấy những thuốc ấy mà uống; cho đến một đời chỉ uống những thuốc bỏ đi ấy mà thôi. Và, đối với những thứ thuốc ấy vẫn thường sinh niệm biết đủ, như thế gọi là Chân thực Sa môn.

Phật tử xuất gia thường nên uống thứ thuốc bỏ đi, người ấy đạt được mười lợi lạc thù thắng. Những ǵ là mười?

1. V́ Cầu thuốc thang, nhưng không phải gần gũi với người khác, thời dứt hẳn được tâm tham cầu và an trụ trong chánh niệm.

2. Bất tịnh quán môn được thành tựu dễ dàng, tâm xuất thế được vững vàng.

3. Đối với các vị ngon quư, thường không sinh tâm tham đắm, chóng chứng được chánh trí, thọ thực Thiền duyệt.

4. Đối với tất cả tài vật thế gian, thường biết “tri túc”, chóng được giải thoát.

5. Không phải gần hàng phàm phu thế gian mà thường thân cận với những bạn lành thanh tịnh xuất thế gian.

6. V́ không hiềm ghét các thứ thuốc bỏ đi, nên đối với các thức ăn uống không tốt cũng được giải thoát.

7. Đối với những thuốc quư, quyết không mong cầu, được tất cả thế gian tôn trọng.

8. Chóng điều phục được các bệnh phiền năo, chứng được Pháp thân thường trụ của Như Lai.

9. Dứt hẳn tất cả phiền năo trong ba cơi, chữa khỏi những bệnh nặng về thân tâm của chúng sinh.

10. Thuận lời Phật dạy tu hạnh Bồ tát, phước trí viên măn, được Đại Bồ đề.

        Trí Quang nên biết, Như Lai v́ các ông nói qua mười lợi lạc thù thắng của sự uống thuốc bỏ đi, diệu hạnh như thế, Bồ tát xuất gia trong quá khứ, hiện tại, vị lai đều cùng tu học. Các ông cần nên v́ các chúng sinh mà diễn thuyết, truyền bá phương pháp này đừng để đoạn tuyệt, tức là v́ Như Lai nếu bày rộng răi sự cúng dường; dù thế gian có của đem cung kính cúng dường cũng không bằng được. Và, đối với hạnh Bồ tát lại không bị thoái chuyển, chóng chứng đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

        Khi ấy, Đức Thế Tôn nói lại ư nghĩa trên bằng lời kệ:

Tỳ kheo Trí Quang ông khéo nghe

Người xuất gia uống thuốc vô cấu

Diệu hạnh Bồ tát, đó là trước,

Chúng sinh có bệnh như ḿnh bệnh.

Lấy ân đại Bi cứu mọi khổ

Lại dùng Từ tâm cho an lạc

Thuốc hay tối thượng cho người ta

Người trước bỏ đi, ḿnh lấy uống.

Bồ tát không kén thuốc tốt, xấu

Chỉ chữa các bệnh cho an Ổn

Lấy thứ thuốc thừa người ta bỏ

Uống thuốc lấy đủ trị khỏi bệnh.

Lấy thuốc người bỏ có mười lợi

Như Lai ba đời cùng khen ngợi.

Tuy cầu thuốc men không gần người

Dứt hẳn cầu cạnh, nương chánh niệm.

Quán môn “bất tịnh” dễ thành tựu

Gây nhân Bồ đề đời xa sau.

Không ham cam vị bỏ mọi tham

Nên cầu Pháp hỷ, Thiền duyệt thực.

Của báu ở đời tri túc được

Thu được thất Thánh tài vô lậu

Bỏ kẻ phàm ngu, không ở chung

Thân cận Thánh hiền làm bạn tốt.

V́ thế không hiềm các thuốc bỏ

Với đồ ăn uống, dứt tham cầu

Cỗ quư, thuốc hay không mong chờ

Thế gian bởi thế đều tôn trọng.

Hay chữa thân tâm bệnh phiền năo

Ngộ được Chân như pháp tánh thân

Dứt hẳn tập khí trong ba cơi

Chứng được Vô thượng chân giải thoát

Thuận lời Phật dạy hướng Bồ đề

Phước trí viên thành thân quả báo

Phật tử các ông đều tu học

Sẽ ngồi nơi Kim cang đạo tràng.

        Lại nữa Trí Quang, Bồ tát xuất gia xa ĺa chỗ huyên náo, ở nơi A-lan-nhă, tu nhiếp tâm ḿnh trong vô lượng ngàn năm để cầu Phật đạo. Như Lai trong ba đời luôn bỏ những nơi ồn ào náo nhiệt, ở những nơi thanh tịnh vắng lặng, dốc tu muôn hạnh, chứng quả Bồ đề, bậc Duyên giác, bậc Thanh văn tất cả Hiền thánh chứng được Thánh quả cũng đều ở các nơi tịch tĩnh như thế. Nơi A-lan-nhă có mười thắng đức, làm cho người tu, chứng được ba quả Bồ đề. Những ǵ là mười thắng đức?

1. V́ được tự tại ở nơi A-lan-nhă, trong bốn uy nghi không bị lệ thuộc vào người khác.

2. Bỏ ngă, ngă sở nên gọi là A-lan-nhă, v́ vậy khi ở dưới gốc cây không c̣n sự chấp trước.

3. Đối với những đồ ngồi, nằm không hề ham đắm, do đó nên được nằm trên giường Tứ vô úy.

4. Nơi A-lan-nhă, ba độc ít ỏi, nên bỏ được cảnh sở duyên của tham, sân, si.

5. Thích ở nơi A-lan-nhă tu hạnh viễn ly, không cầu năm thứ dục lạc của trời, người.

6. Bỏ chốn huyên náo ở nơi tịch tĩnh thanh vắng, tu tập Phật đạo không tiếc thân mạng.

7. Ưa thích nơi tịch tĩnh, ĺa mọi ngôn từ thế tục, trừ bỏ bao thứ phàm ngu nên không hề bị tán loạn.

8. Tất cả sự nghiệp của thế gian hay xuất thế gian đều được thành tựu dễ dàng, không bị chướng ngại.

9. Nơi A-lan-nhă là ngôi nhà Tam muội nên có thể chứng được trăm ngàn pháp Tam muội lớn lao.

10. Lấy chốn Thanh tịnh như hư không làm nhà cửa, tâm không c̣n chướng ngại, đạt được đại trí tuệ.

        Trí Quang nên biết, nơi A-lan-nhă có vô lượng công đức như thế! Do nhân duyên ấy, Phật tử xuất gia thề bỏ thân mạng, không bỏ rừng núi; nếu v́ việc nghe pháp hay cúng dường cho người đau, Sư Tăng, cha mẹ mà phải ra ngoài nơi A-lan-nhă vào trong làng xóm thời nên chóng trở về nơi cũ. Nếu có nhân duyên chưa về được, th́ nên tưởng: “Nay ở nơi làng xóm này cũng như chôn núi rừng, mọi tài vật có được đều hư giả như chiêm bao và nếu ḿnh có được, th́ không nên tham đắm!”. Phật tử như thế là Ma-ha-tát.

        Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói bài kệ:

Trí Quang các ông nghe cho kỹ

Nơi ở của người không phiền năo

Xa chốn huyên náo, ở chôn tĩnh

Đó là những nơi thần tiên ở.

Bồ tát ba đời cầu Bồ đề

Ở trong Lan-nhă thành Chánh giác,

Duyên giác, Thanh văn các Thánh chúng

Cũng ở nơi này chứng Bồ đề.

Ở A-lan-nhă được mười lợi

Hay khiến chứng được quả Ba thừa:

Du hành tự tại như sư tử

Trong bốn uy nghi không ràng buộc.

Dưới cây rừng núi bậc Thánh chuộng

Không “ngă, ngă sở” là Lan-nhă.

Áo mặc, đồ nằm không buộc ràng

Ngồi ṭa sư tử “Tứ vô úy”.

Bỏ các phiền năo là Lan-nhă

Tất cả tham ái không ham đắm.

Ở ngoài sự vật chán trần lao

Không ham năm dục lạc trên đời.

Người xa huyên náo, ưa tịch tĩnh

Bỏ thân, xả mạng cầu Phật đạo.

Ở nơi tịch tĩnh không tiếng người

Tán loạn trong tâm không phát khởi.

Nghiệp thiện thế gian, xuất thế gian

Tâm không chướng ngại đều thành tựu.

Bởi thế, A-lan-nhă, căn bản

Hay sinh trăm ngàn pháp Tam muội.

Lấy “Đại không tịch” làm hư không

Thân tâm người tu không chướng ngại.

Đầy đủ được mười thắng lợi ấy

Thế nên các Thánh thường ở đó.

Trí Quang các ông, các Phật tử

Nếu muốn chóng thành Nhất thiết trí

Cho đến trong mộng không bỏ rời

Nơi A-lan-nhă: Bồ đề đạo.

Sau Ta diệt độ, người phát tâm

Thường hay ở nơi A-lan-nhă

Không lâu ngồi trên Bảo hoa vương

Chứng được pháp thân thường lạc quả.

        Khi Đức Thế Tôn giảng nói pháp ấy, vô lượng trăm ngàn các vị mới phát tâm đối với đạo Vô thượng đạt được Bất thoái chuyển. Nhóm ông Trí Quang, các chúng Bồ tát đạt được pháp Đà-la-ni, đầy đủ đại thần thông. Trăm vạn trời, người phát tâm Bồ đề, ngộ ba pháp môn giải thoát.

        Lúc đó, Như Lai bảo đại chúng:

        - Nếu có tịnh tín thiện nam, thiện nữ nào được nghe pháp môn sâu xa về bốn Vô cấu tánh như thế, thọ tŕ, đọc tụng, giảng nói, biên chép th́ những người ấy ở nơi họ sinh sống sẽ gặp được bậc thiện tri thức, tu hạnh Bồ tát măi măi không bị thoái chuyển, không bị tất cả các nghiệp phiền năo nhiễu loạn; trong đời hiện tại được phước trí lớn, nối tiếp giữ vững Tam bảo, được sức tự tại, làm cho hạt giống Phật không bị đoạn tuyệt. Và khi mạng chung quyết được sinh lên cung trời Tri túc, yết kiến Ngài Di lặc, chứng ngôi Bất thoái; trong hội đầu Long hoa được nghe chánh pháp, được thọ kư quả Bồ đề, chóng thành Phật đạo; nếu nguyện muốn sinh sang cơi nước chư Phật trong mười phương, thời tùy sở nguyện ḿnh mà được văng sinh, được thấy Phật, nghe pháp, cứu cánh bất thoái quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Phẩm 5: A-LAN-NHĂ

        Bấy giờ, trong pháp hội có một vị Đại Bồ tát tên là Thường Tinh Tấn, nhờ uy thần của Phật, liền từ ṭa ngồi đứng dậy, trịch áo vai phải, gối phải sát đất, chắp tay cung kính bạch Phật:

        - Bạch Đức Thế Tôn, như Phật nói nơi A-lan-nhă là Bồ đề đạo tràng, nếu có người nào phát tâm cầu Bồ đề, không nên ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Trong nơi A-lan-nhă ấy có nhiều chúng sinh như: hổ, báo, sài lang, trùng độc, thú dữ cho đến chim bay, thợ săn, không biết đến Như Lai, không nghe Chánh pháp, lại không kính Tăng, các chúng sinh ấy lại không tu thiện căn, xa ĺa sự giải thoát, thế mà, v́ sao Như Lai lại khiến người tu học ở nơi A-lan-nhă ấy để chóng được thành Phật? Kính xin Thế Tôn v́ các chúng sinh phân biệt, giảng dạy, giải quyết cho sự ngờ vực ấy, làm cho họ được vui vẻ phát tâm Bồ đề, khiến không bị thoái chuyển!

Đức Phật bảo Bồ tát Thường Tinh Tấn:

        - Quư hóa thay! Quư hóa thay! Thiện nam, ông đem ḷng đại từ hỏi Như Lai về sự thanh tịnh giải thoát, rất có lợi ích cho những người tu hành mai sau, công đức ấy thật vô lượng. Ông nghe kỹ, nghe kỹ và khéo nhớ nghĩ! Nay Ta v́ ông phân biệt diễn nói về vô số các công đức của nơi A-lan-nhă!

        Bồ-tát Thường Tinh Tấn bạch:

        - Dạ, bạch Thế Tôn, con nguyện muốn được nghe!

        Đức Phật bảo Bồ-tát Thường Tinh Tấn:

        - Như ông nói ở nơi A-lan-nhă được thành các bậc Thánh, nhưng trong rừng núi có nhiều chúng sinh, do nhân duyên ǵ không được thành Phật. Nghĩa ấy không phải. Sở dĩ thế là sao? Các chúng sinh kia không biết đến Tam bảo, không biết chán đủ, không biết thiện, ác; ở trong rừng núi tuy có nhiều châu báu của thế gian, mà họ vẫn không biết được nơi tiềm ẩn của chúng. Đại Bồ tát th́ không như thế. Thiện nam, Bồ tát biết Phật, Pháp, Tăng bảo là của báu xuất thế gian, bảy thứ ngọc báu ẩn tàng là của báu thế gian; các vị đều phân biệt được mọi sắc tướng của chúng, biết chúng ở đâu nhưng không tham cầu, cũng không thích thấy, huống là nhặt lấy?

        Bồ tát xuất gia phát tâm kiên cố không tiếc thân mạng, ĺa bỏ cha mẹ, thân quyến họ hàng, thích ở nơi chốn rừng núi, thường nghĩ: “Giả sử khi hết kiếp, cơi tam thiên đại thiên này bảy mặt trời mọc ra, hỏa tai bừng cháy, thiêu đốt muôn vật, mặt trời, trăng, sao, núi Tu di và bảy núi Kim sơn, núi Thiết vi..., vào lúc ấy thảy đều bị tiêu tan; ngay đến cơi cao nhất trong ba cơi là cơi trời Phi phi tưởng, khi hết tám vạn kiếp lại sinh xuống cơi đất; Chuyển luân thánh vương có ngàn con vây quanh, bảy báu, quyến thuộc và bốn châu đều phục, mà khi quả báo của thọ mạng hết th́ cũng không dừng được trong chốc lát. Nay ta cũng thế, giả sử tuổi thọ đủ trăm năm, bảy báu đều đầy đủ, hưởng thọ mọi sự an lạc, nhưng sứ giả Diễm-ma đến th́ không khỏi được vô thường.” Thấy thế nên suy nghĩ: “Nay ta không ǵ bằng việc thay thế cha mẹ ta cùng các chúng sinh tu hạnh Bồ tát, sẽ được thân kim cang bất hoại, rồi trở lại trong ba cơi độ cho cha mẹ". Phát nguyện ấy rồi ở nơi Lan-nhă v́ các chúng sinh phát ra những thệ nguyện rộng lớn.

        Bồ tát thượng căn phát nguyện:

        - Nguyện, con khi chưa thành Phật cho đến lúc chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thường ở nơi đất trong, luôn luôn ngồi không nằm.

        Bồ tát trung căn phát nguyện:

        - Nguyện, con khi chưa thành Phật, thường ngồi ở dưới cây có lá che rợp, không nằm.

        Bồ tát hạ căn phát nguyện:

        - Nguyện, con khi chưa thành Phật, thường ngồi trong nhà đá, không nằm.

        Ba căn trong hàng Bồ tát xuất gia như thế ngồi nơi ba loại ṭa, vừa nói, đều nghĩ: “Bồ tát thuở quá khứ ngồi trên ṭa này, chứng được pháp môn Đà la ni công đức tự tại; các Bồ tát trong đời quá khứ, hiện nay và mai sau, đều ở trên ṭa này được Đà la ni tu chứng tự tại; ta cũng như thế, nay ta ngồi nơi này quyết sẽ thành tựu Đà la ni, được tự tại. Nếu chưa thành tựu và đạt được tự tại, ta quyết không ĺa bỏ A-lan-nhă”.

        Hoặc có Bồ tát chưa viên măn được bốn Tâm vô lượng (Từ, Bi, Hỷ, Xả) quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ tát chưa viên măn được năm sức thần thông, quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ tát chưa viên măn được sáu pháp Ba-la-mật, quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ-tát chưa viên măn được phương tiện thiện xảo, quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ tát chưa điều phục được tất cả hữu t́nh, quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ tát chưa viên măn được bốn Nhiếp pháp, quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ tát chưa tu tập được pháp sáu niệm, quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ tát chưa thành tựu được “trí tuệ, đa văn”, quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ tát chưa thành tựu được sức tin bền vững, quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ  tát chưa dứt trừ sáu mươi hai thứ kiến chấp, quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ tát chưa tu tập được tám Chánh đạo, quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ tát chưa dứt hẳn được tập khí của phiền năo chướng, sở tri chướng, quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ tát chưa viên măn được trí tuệ vi diệu trong việc tùy bệnh cho thuốc, quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ tát chưa viên măn được tâm Đại Bồ đề, quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ tát chưa viên măn được hằng sa pháp Tam-muội, quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Họặc có Bồ tát chưa thành tựu được vô lượng thần thông, quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ tát dùng sức thần thông nơi đại định (định thông lực) thấy mười tám “không” mà tâm không hoảng sợ, đại sự như thế nếu chưa thành tựu, quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ tát chưa viên măn được Nhất thiết trí, quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ tát chưa viên măn được Nhất thiết chủng trí, quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ tát chưa tu tập được ba mươi bảy Bồ đề phận pháp, quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ tát chưa viên măn được muôn hạnh trong Thập địa, quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ tát ở trong trăm kiếp chưa tu hành được về nghiệp quả của tướng tốt, quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ-tát chưa viên măn được bốn Trí của Như Lai, quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ tát chưa viên măn được sự chứng đại Niết bàn, quyết không ĺa bỏ nơi A-lan-nhă. Hoặc có Bồ tát ngồi ṭa Kim cang mà chưa chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, quyết ngồi luôn không đứng dậy. Đó là Bồ tát thực hành hạnh A-lan-nhă.

        Này thiện nam, Bồ tát xuất gia phát tâm Bồ đề, vào trong rừng núi, ngồi trên ba loại ṭa trên, tu luyện thân tâm, trải qua ba đại kiếp, tu tập muôn hạnh, chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

        Lúc đó, Đức Thế Tôn nói lại ư nghĩa trên bằng lời kệ:

Thuở xưa chư Phật ở nhân gian

Nơi A-lan-nhă, ĺa trần tục

Đoạn, dẹp phiền năo, sở tri chướng

Vượt qua ba cơi chứng Bồ đề.

Bồ tát quá khứ tu hạnh nguyện

Lấy A-lan-nhă làm nhà cửa

Trong vô số kiếp tu phước trí

Cứu cánh Thập địa chứng Ba thân.

Bồ tát vị lai cầu quả Phật

Vào trong núi sâu Tu diệu hạnh

Dứt trừ hai chướng, nhân sinh tử

Sẽ chứng Tam không chân giải thoát.

Mười phương hiện tại các Bồ tát

Tu tŕ muôn hạnh ở “không nhà”

Không tiếc thân mạng cầu Bồ-đề

Niệm niệm chứng được Vô sinh trí.

Nếu muốn chóng chứng Tam muội sâu

Nhân Tu diệu định siêu thần thông

Nơi A-lan-nhă tâm không rộn

Biến được đại địa thành bảy báu.

Nếu muốn du hóa khắp mười phương

Đi lại tự tại vận thần thông

Cúng dường chư Phật lợi quần sinh

Ở nơi Lan-nhă không sợ hăi.

Muốn chứng trí như huyễn hữu, vô

Hiểu thấu các pháp bản lai không

Ở A-lan-nhă, Bồ đề tràng

Khiến chúng cũng vào chân giải thoát.

Nếu muốn chóng được trí Như như

Chứng hội các pháp Như như tánh

Trọn vô sô kiếp lợi quần sinh

Thường ở Lan-nhă chốn không tịch.

Nếu người muốn được trí nan tư

Tu di thu vào trong hạt cải

Tu di, hạt cải tướng bất hoại

Vào nhà thần thông trong Lan-nhă.

Nếu người muốn được trí Vô ngại

Một tiếng diệu âm dùng thuyết pháp

Tùy loại chúng sinh đều được thoát

Nên ở Lan-nhă tu diệu quán.

Nếu muốn không sinh và không diệt

Ứng hiện quốc độ khắp mười phương

Phóng quang thuyết pháp lợi quần sinh

Chớ ĺa Lan-nhă nhà không tịch.

Nếu lấy ngón chân ấn đại địa

Khiến cơi mười phương đều chấn động

Thấy tướng, phát tâm trừ tà kiến

Nên ở Lan-nhă quán tự tâm.

Nếu muốn trong khi Phật xuất hiện

Tối sơ kính dâng cúng vi diệu

Thí Ba-la-mật đều viên măn

Ở A-lan-nhă tu diệu hạnh.

Nếu người, khi Phật nhập Niết bàn

Tối hậu cúng dường thành nghĩa “Thí”

Dứt hẳn nghèo cùng và tám nạn

Thệ nguyện ở trong A-lan-nhă.

Nếu muốn phước trí đều viên măn

Chư Phật mai sau sắp Niết bàn

Nhận nguyện rộng lớn, Phật giao phó

Ở A-lan-nhă tu sáu niệm.

Sau khi chư Phật nhập Niết bàn

Kết tập Chánh pháp độ chúng sinh

Trợ tán chân thừa cửa chư Phật

Ở nhà “không tịch ” trong Lan-nhă.

Đại sư trời, người: Đấng Thế Tôn

Khó thấy, khó gặp hơn Ưu-đàm

Nếu muốn yết kiến, tu cúng dường

Nên ở Lan-nhă, bi nguyện rộng.

Mọi báu tuy quư, Pháp quư hơn

Thành Phật, hóa độ lợi do đây

Như người muốn thường được nghe pháp

Ở A-lan-nhă tu phạm hạnh.

Khởi từ thân này đến thân Phật

Thường nguyện phát tâm hoằng chánh giáo

Cho đến khi chưa được Bồ đề

Niệm niệm không bỏ A-lan-nhă.

Nếu người muôn báo ân cha mẹ

Thay thế cha mẹ phát thệ nguyện

Vào Bồ đề tràng trong Lan-nhă

Ngày đêm thường tu về diệu đạo.

Nếu muốn đời nay thêm phước trí

Mai sau không đọa trong tám nạn

Như thế, chứng sinh phát tâm thiện

Ở A-lan-nhă tu bi nguyện.

Bồ tát ba đời cầu chân giác

Được đạo Niết bàn trong Lan-nhă

Thế nên gọi là Đại đạo tràng

Thánh chúng Ba thừa đồng ở đó.

Bồ tát chán khổ vào rừng núi

V́ độ quần sinh cầu Thánh đạo

Tự chưa thành Phật, độ người trước

Sáu đạo, bốn loài đều thương xót.

Bồ tát thượng căn ngồi đất trông

Bồ tát trung căn dưới bóng cây

Bồ tát hạ căn trong thạch thất

Chưa thành Phật đạo thường không nằm.

Bồ tát ba đời ở Lan-nhă

Được sức tự tại Đà-la-ni

Nay ta cùng phát tâm Bồ đề

Chưa được Tổng tŕ, ở đây măi.

Được Đại Bồ đề tại Lan-nhă

Vào Đại viên tịch do chốn đây

Bồ tát khởi phát trí Kim cang

Đoạn hoặc, chứng chân thành Diệu giác

Rộng độ chúng sinh khắp xóm làng

V́ cầu tịch diệt, ưa rừng núi

Muôn hạnh: nhân đầy, quả cũng trọn

Tận đời vị lai độ quần sinh.

        Khi Đức Thế Tôn nói về hạnh A-lan-nhă của Bồ tát xuất gia như thế, có vô lượng Bồ tát chứng địa Cực hỷ; hằng hà sa vô số Bồ tát ĺa hẳn tướng dụng của phiền năo vi tế, chứng địa Bất động, vô số Đại Bồ tát số lượng chẳng thể nêu bày được đă dứt tất cả hoặc chướng vào địa Diệu giác; vô biên chúng hữu t́nh phát tâm Vô đẳng đẳng, Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; chín vạn bảy ngàn chúng sinh xa ĺa mọi thứ bụi bặm cấu uế, đạt được pháp nhăn thanh tịnh.

Quyển 5 Hết

KINH ĐẠI THỪA BẢN SINH TÂM ĐỊA QUÁN

Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Bát-nhă, người nước Kế tân

Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

Quyển 6

Phẩm 6: LY THẾ GIAN

        Bấy giờ, trong pháp hội có một vị Đại Bồ tát tên là Nhạo Viễn Ly Hạnh, nhờ uy lực của Phật, từ ṭa ngồi đứng dậy, ở trong đại chúng v́ các Bồ tát nêu bày về hạnh A-lan-nhă, nói với tất cả các vị Bồ tát:

        - Bồ tát xuất gia ở A-lan-nhă nên nghĩ: Do nhân duyên ǵ mà ta xa ĺa thế tục, Tu diệu hạnh thanh tịnh ở A-lan-nhă? Các Phật tử nhất tâm nghe kỹ! Tôi nay nương uy lực Phật v́ các vị phân biệt diễn thuyết về hạnh A-lan-nhă!

        Các Bồ tát nói:

        - Quư hóa thay! Đại sĩ đă v́ chúng tôi, cùng các vị cầu Bồ tát đạo ở đời mai sau, kính xin Đại sĩ cứ nói cho, chúng tôi muốn nghe!

        Khi ấy, Bồ tát Nhạo Viễn Ly Hạnh bảo đại chúng:

        - Tất cả chúng sinh ở thế gian có nhiều sự sợ hăi, Bồ tát xuất gia v́ chán những sự sợ hăi nơi thế gian ấy nên rời bỏ cha mẹ cùng các quyến thuộc đến ở nơi A-lan-nhă, tu hạnh viễn ly.

        Thế nào là những sự sợ hăi?

        Hoặc có Bồ tát nghĩ: “Ngă” là sợ hăi, v́ tất cả phiền năo từ “ngă" sinh ra. Hoặc có Bồ-tát nói “ngă sở” là sợ hăi, v́ tất cả phiền năo từ “ngă sở” sinh ra. Hoặc có Bồ tát nói “bảy thứ mạn” là sợ hăi, v́ các thứ mạn ấy đều không biết kính người thiện. Hoặc có Bồ tát lấy “ba độc” kia làm sự sợ hăi, v́ do nó tạo ra vô lượng tội, phải sa đọa vào các đường ác. Hoặc có Bồ tát lấy “năm dục” kia làm sự sợ hăi, v́ đam trước sự vui thế gian, sẽ phải sa vào tám nạn. Ví như ở đời có con rắn gọi là “Thất bộ xà”, nếu khi nó hại người, nọc độc của nó rất mạnh, người ta đi ra khỏi bẩy bước bị trúng độc thân mạng liền chết ngay. Sức một con rắn độc c̣n làm tổn hại người như thế, huống chi là năm con rắn cùng làm sự tổn hại, thời sức độc càng mạnh thêm, thân mạng khó toàn được! Năm dục của đời cũng thế, mỗi một thứ dục lạc đều có thể dẫn khởi ra tám vạn bốn ngàn thứ phiền năo cấu uế hết sức vi tế, mê hoặc kẻ ngu si, làm cho họ bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, cùng các tai nạn khác, chịu nhiều khổ năo, huống là tham đắm đầy đủ các món “trần” khác? Vô số chư Phật như số cát sông Hằng ra đời, thuyết pháp giáo hóa, thời gian vun vút như ánh sáng luồn qua chỗ hở nhanh chóng, mà kẻ ngu si hoàn toàn không được trông thấy, v́ thường ở trong các đường ác như ở nhà ḿnh, ở nơi không được ngắm nh́n thong thả mà như dạo xem trong vườn vui chơi. Thời quá khứ có Đức Phật muốn khiến cho chúng sinh chán bỏ năm dục nên nói bài kệ rằng:

Như con thiêu thân thấy ánh lửa

Lấy đó làm thích nên đua vào

Nhưng không biết tánh lửa rất nóng

Phải đành bỏ mạng cho lửa đốt.

Phàm phu trên đời cũng như thế

Ham thích sắc đẹp đi t́m ṭi

Không biết sắc đẹp nhiễm vào người

Lại bị lửa đốt, mọi khổ tới.

Ví như đàn hươu trong rừng rú

Ăn nơi cỏ ngon nuôi sống ḿnh

Thợ săn giả làm tiếng hươu mẹ

Đàn hươu trúng tên đều chết cả.

Phàm phu trên đời cũng như thế

Tham đắm mọi tiếng nghe vừa ư

Không biết tiếng kia nhiễm vào người

Khổ báo ba đường trở lại chịu.

Ví như ong mật bay đi xa

Dạo tới rừng xuân hút nhụy hoa

V́ thích mùi thơm nơi má voi

Tai voi nhân đó trập lại chết.

Phàm phu trên đời cũng như thế

Ham thích mọi mùi hương thọ dụng

Không biết hương kia nhiễm vào tâm

Sinh tử luân hồi nhiều kiếp khổ.

Ví như cá lớn ở trong nước

Bơi, lội, lặn, nổi tự vui vẻ

V́ tham mùi thơm bèn cắn câu

Ham mùi, quên mạng đều bị chết.

Phàm phu trên đời cũng như thế

Lưỡi ham mùi ngon giúp thân thể

Giết người, sống ḿnh tâm thiên lệch

Cảm báo ba đường dữ, khổ cực.

Ví như voi trắng ở núi rừng

Tự tại cũng như sư tử chúa

Ḷng dục loạn say thành mờ tối

T́m đến voi cái sinh tham nhiễm.

Tất cả phàm phu cũng như thế

Tới chỗ ái ân như voi cuồng

Ân ái ràng buộc không ngừng dứt

Chết vào địa ngục khổ khôn lường.

Trai, gái trên đời tham cầu nhau

Đều bởi ham đắm các sắc dục

Trời, người bởi thế nên ràng buộc

Đọa lạc ba đường trong tăm tối.

Nếu ĺa bỏ được tâm tham dục

Ở A-lan-nhă tu phạm hạnh

Quyết vượt qua được khổ sinh tử

Chóng vào cung “Vô vi, thường lạc”.

        Hoặc có Bồ tát lấy việc tham nhiều của cải làm sự sợ hăi. Của báu nơi ḿnh thường t́m kiếm tích góp lại, không dám thọ dụng, huống chi là đem bố thí cho chúng sinh nghèo thiếu? Đối với của báu của ḿnh sinh tâm tham đắm, c̣n đối với của báu nơi khác th́ lại muốn cho tổn giảm. Bởi nhân duyên ấy, sau khi mạng chung phải đọa vào đại địa ngục chịu vô lượng khổ. Khổ báo như thế gọi là quả báo chánh cảm thứ nhất. Từ địa ngục ra phải chịu thân súc sinh, thân thường khổ nhọc, nước cỏ không đủ và phải qua trong nhiều thời đền trả sự tổn hại của người trước. Mọi khổ như thế gọi là quả báo chánh cảm thứ hai. Chịu tội ấy xong, sinh vào trong ngạ quỷ, khôn khổ đói khát vô lượng, hàng ngàn kiếp không hề nghe thấy tên thức ăn, nước uống; cổ nhỏ như thân kim, bụng to như núi, ví dù được thức ăn uống, theo nghiệp liền biến thành lửa. Thân khổ như thế gọi là quả báo chánh cảm thứ ba. Hết tội ấy rồi, lại sinh về nhân gian, vào hạng nghèo cùng hèn hạ, bị người sai khiến; đối với các thứ của báu cầu rất khó được và đối với tất cả mọi thời đều không tự tại. Dư báo như thế gọi là “Tương tự quả”. Tất cả Bồ tát thấy biết về nhân quả rơ ràng như thế, nên thường sinh tâm sợ hăi muốn cầu giải thoát. Do chỗ sợ hăi ấy, nên xa ĺa quyến thuộc và ở nơi A-lan-nhă.

        Hoặc có Bồ tát lấy tâm khát ái làm sự sợ hăi, v́ đối với những khi chưa được tất cả của báu, ngày đêm t́m ṭi, sinh tâm khao khát. Hoặc có Bồ tát lấy “ngă, ngă sở kiến” làm sự sợ hăi, v́ nó chỗ nương tựa của các phiền năo. Hoặc có Bồ tát lấy các “pháp kiến” làm sự sợ hăi, v́ nó là chỗ nương tựa cho sở tri chướng. Hoặc có Bồ tát lấy sáu mươi hai kiến làm sự sợ hăi, v́ vào rừng tà kiến th́ khó ra khỏi được. Hoặc có Bồ tát lấy “nghi” làm sự sợ hăi, v́ đối với pháp chân chánh sinh tâm nghi hoặc. Hoặc có Bồ tát lấy “đoạn kiến” kia làm sự sợ hăi, v́ chấp không có đời sau, gạt đi, cho là không có nhân quả, sinh tà kiến nặng nề phải bị đọa vào địa ngục. Hoặc có Bồ tát lấy “thường kiến” kia làm sự sợ hăi, v́ chấp thân của chúng sinh trong năm cơi thường hằng như thế, theo nghiệp thiện, ác vẫn không biến đổi. Hoặc có Bồ tát lấy “tật đố” kia làm sự sợ hăi, v́ không chịu sự vẻ vang của người, mang tâm niệm ác. Hoặc có Bồ tát thường lấy “trạo cử” làm sự sợ hăi, v́ tâm không tịch tĩnh, sinh ra tán loạn. Hoặc có Bồ tát lấy tâm “bất tín” làm sự sợ hăi, ví như người tay không, tuy đến núi báu, nhưng hoàn toàn không thể lấy được ǵ; người không có bàn tay tin tưởng, tuy gặp Tam bảo nhưng không thu đạt được ǵ. Hoặc có Bồ tát lấy “vô tàm” kia làm sự sợ hăi, v́ bên trong không biết hổ thẹn, nên thường tạo các nghiệp ác, nghiệp chướng vô minh khó thấy được Phật. Hoặc có Bồ tát lấy tâm “vô quư” làm sự sợ hăi, v́ bên ngoài không biết xấu hổ, bỏ ân bội đức, phải sinh tử luân hồi và đọa vào ba đường dữ. Hoặc có Bồ tát lấy “phẫn hận” làm sự sợ hăi, v́ nó hay làm tổn hại ḿnh và người thành ra sự oán kết lẫn nhau, trong nhiều kiếp, làm chướng ngại đối với đạo Phật. Hoặc có Bồ tát lấy sự “vong thất” lăng quên không nhớ kia làm sự sợ hăi, v́ đối với sự nghe pháp không ghi nhớ được, quên mất văn nghĩa, thêm sự ngu si.

        Hoặc có Bồ tát cho tất cả những nghiệp đen tối bất thiện là sợ hăi. Sao vậy? V́ tất cả nghiệp bất thiện là nhân của sinh tử, xoay chuyển trong ba cơi không thoát khỏi được, đối với vô lượng vô biên sự sợ hăi ấy đều làm chướng ngại cho thắng pháp xuất thế. Hoặc có Bồ tát lấy “năm thứ che lấp” làm sự sợ hăi, v́ năm thứ phiền năo ấy che lấp tâm Bồ đề của Bồ tát. Hoặc có Bồ tát lấy tâm ghen ghét làm sự sợ hăi, đối với các chúng sinh không có tâm thương xót, nên tu hạnh Bồ đề hay bị thoái chuyển. Hoặc có Bồ tát lấy sự cấu uế do “phá giới” làm sự sợ hăi, v́ điều ấy làm nhơ nhớp Thánh pháp, khó được quả báo chân chánh. Hoặc có Bồ tát lấy “ưu năo” làm sợ hăi, v́ các vọng tưởng mạnh luôn làm mất nghiệp thiện. Hoặc có Bồ tát lấy tâm “ác tác” làm sợ hăi, v́ đối với chỗ tu thiện sinh tâm hối tiếc. Hoặc có Bồ tát nói sự “cuồng túy” là điều sợ hăi, v́ nó không biết thiện, ác, không có tôn ty. Hoặc có Bồ tát lấy sự chết không đúng thời làm điều sợ hăi, v́ không an trụ nơi chánh niệm, hướng về vô thường. Hoặc có Bồ tát lấy nghiệp vọng ngữ làm điều sợ hăi, v́ kiếp kiếp đời đời có nói năng ǵ tất cả chúng sinh đều không tin nhận. Hoặc có Bồ tát lấy bốn thứ điên đảo làm sợ hăi, v́ do bốn món điên đảo ấy nên phải bị luân hồi sinh tử, khởi nghiệp phiền năo không cầu Phật. Hoặc có Bồ tát nói “bạn ác” là điều sợ hăi, v́ theo bạn bất thiện ấy mà tạo ra nghiệp ác. Hoặc có Bồ tát lấy “ngũ uẩn ma” làm điều sợ hăi, v́ thân năm uẩn này từ phiền năo sinh ra, sinh rồi liền dấy lên vô lượng phiền năo; nhân các phiền năo mà tạo nghiệp bất thiện, do các hoặc nghiệp nên bị sa xuống hầm sâu lớn, bởi nhân duyên ấy sinh ra sợ hăi. Hoặc có Bồ tát lấy “phiền năo ma” làm điều sợ hăi, v́ các thứ đại, tiểu phiền năo nối tiếp sinh tử, làm thoái tâm Bồ đề, bị đọa vào đường ác. Hoặc có Bồ tát chán ngán và lo lắng về “tử ma” làm điều sợ hăi, v́ phát tâm Bồ đề chưa được tới chỗ bất thoái, thân nát, mạng mất, sinh tâm thoái chuyển. Hoặc có Bồ tát cho các Thiên ma là điều sợ hăi, v́ họ hàng Thiên ma đầy dẫy trong cơi Dục, làm chướng ngại người tu đạo, thoái tâm Bồ đề. Hoặc có Bồ tát lấy tâm “vô kư" làm điều sợ hăi, v́ đối với pháp thiện không tiến tu được, luống qua thời gian dài, lui mất nghiệp thiện. Hoặc có Bồ tát lấy tám nạn kia làm điều sợ hăi, v́ nếu bị đọa vào trong tám nạn ấy thời như từ chỗ tối lại vào chỗ tối, đêm dài sinh tử khó gặp được ánh sáng. Hoặc có Bồ tát quán địa ngục kia làm điều sợ hăi, v́ một khi sa vào địa ngục, thời trải qua vô lượng kiếp chịu khổ năo lớn khó được giải thoát. Hoặc có Bồ tát cho sự đọa vào hàng súc sinh là điều sợ hăi, v́ trong giới bàng sinh phải chịu quả báo ngu si, trải vô lượng kiếp khó thoát khỏi được. Hoặc có Bồ tát thấy nẻo ngạ quỷ là điều sợ hăi, v́ trong hằng sa kiếp phải chịu khổ đói khát, khó gặp được Phật, Pháp, Tăng. Hoặc có Bồ tát tưởng sự sinh trong cơi Dục làm điều sợ hăi, v́ phiền năo tạp khởi, tạo các nghiệp ác, bị đọa vào ba đường dữ. Hoặc có Bồ tát cho cơi sắc kia là điều sợ hăi, v́ các “hữu phú phiền năo” hay làm chướng ngại tu Định. Hoặc có Bồ tát cho cơi Vô sắc là điều sợ hăi, v́ trong ba cơi ấy tịch tĩnh quá, cũng như Niết bàn, nên chúng sinh vọng chấp làm cứu cánh, đến khi kiếp hết mạng mất, phải đọa vào địa ngục. Hoặc có Bồ tát cho sự nối tiếp liên tục cửa sinh tử làm điều sợ hăi, v́ sinh vào nhà tà kiến, khó ra khỏi được. Hoặc có Bồ tát cho sự chán bỏ sinh tử làm điều sợ hăi, v́ chết đây, sinh kia, thường chịu khổ năo, như thế làm chướng ngại hạnh Bồ tát cầu Niết bàn. Hoặc có Bồ tát cho giọng tiếng thế gian là điều sợ hăi, v́ nó làm cho tâm thường bị tán loạn, phương hại tới nghiệp thiện. Hoặc có Bồ tát lấy “tâm, ư, thức” làm điều sợ hăi, v́ những hành tướng sở duyên của nó là không thể biết được.

        Nếu ở nhà thế tục, do những sự sợ hăi ấy, ngày đêm nối tiếp nhau nhiễu loạn tâm thiện, không thể chứng được pháp “không sợ hăi”. Bồ tát thời quá khứ ở nơi A-lan-nhă đều chứng được pháp không sợ hăi, tức là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bồ tát đời vị lai ở nơi A-lan-nhă đều sẽ được pháp không sợ hăi, tức là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Các Đại Bồ tát trong mười phương hiện tại, ở nơi A-lan-nhă dứt bỏ tất cả chướng ngại, được pháp không sợ hăi tức là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

        Các vị nên biết, tùy theo căn khí, nên tu học về nhiếp niệm thân tâm ở nơi A-lan-nhă của các Bồ tát trong ba đời, để điều phục vọng tưởng, vĩnh viễn không sợ hăi, đạt tới cứu cánh Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

        Lại nữa, Bồ tát xuất gia ở nơi A-lan-nhă nên làm nghiệp ǵ? Nên tạo những niệm ǵ? Ngày đêm thường suy nghĩ như thế này: “Tất cả mọi sự sợ hăi hiện có của thế gian đều từ “ngă” sinh: v́ tất cả mọi sợ hăi đều do chấp trước vào “ngă” mà sinh ra; tất cả sợ hăi đều do ngă làm căn bản; tất cả sợ hăi đều do “ngă ái” sinh ra; tất cả sợ hăi đều do “ngă tưởng” sinh ra; tất cả sợ hăi đều từ “ngă kiến” sinh ra; tất cả sợ hăi đều lấy “ngă” làm trụ xứ; tất cả sợ hăi đều từ nhân là “ngă” mà sinh; tất cả sợ hăi là do phân biệt sinh ra; tất cả sợ hăi là từ phiền năo sinh ra; tất cả phiền năo đều từ “ngă ái” sinh ra. Nếu ta ở nơi A-lan-nhă mà không ĺa bỏ được chấp trước về “ngă, ngă sở”, th́ không nên ở trong A-lan-nhă ấy và không bằng trở về nhà ở tại gia c̣n hơn. Sao vậy? Nếu người có “ngă tướng” (ta), th́ không nên ở nơi A-lan-nhă. Nếu người có “nhân tướng” (người) th́ không nên ở nơi A-lan-nhă. Nếu có người đủ cả hai chấp: “ngă, ngă sở” th́ không nên ở nơi A-lan-nhă. Nếu người có “pháp kiến” th́ không nên ở nơi A-lan-nhă. Nếu người có đủ bốn thứ điên đảo chấp ấy, th́ không nên ở nơi A-lan-nhă.”

        Các vị nghe kỹ, nếu có người tu hành tạo ra tướng Niết bàn th́ cũng không nên ở nơi A-lan-nhă, huống chi là c̣n khởi ra các tướng phiền năo.

        Các vị nghe kỹ, nếu có người không chấp trước vào tất cả h́nh tướng của các pháp th́ nên an trụ nơi A-lan-nhă, như thế gọi là đang ngồi trong “Vô trước đạo tràng” đối với tất cả các pháp đều “bất khả đắc”. Nếu người tâm điều phục, nhu ḥa được, không có tranh luận, th́ nên an trụ nơi A-lan-nhă. Đối với mọi nhân duyên ở đời đều không chấp trước, th́ nên an trụ ở nơi A-lan-nhă. Đối với các pháp như sắc, thanh, hương, vị, xúc, không c̣n nương tựa vào chúng, th́ nên an trụ nơi A-lan-nhă. Đối với tất cả các pháp đều có sự thấy biết b́nh đẳng, th́ nên an trụ nơi A-lan-nhă. Đối với bốn uy nghi có thể điều phục được tâm ḿnh, th́ nên an trụ nơi A-lan-nhă. Bỏ được tất  cả các điều sợ hăi, th́ nên an trụ nơi A-lan-nhă.

        Các Phật tử, nói một cách tổng quát, những người đối với các  phiền năo đă giải thoát được, th́ nên an trụ nơi A-lan-nhă. Nếu người thành tựu được nhân Niết bàn, th́ nên an trụ nơi A-lan-nhă. Người khéo tu hành bốn Vô cấu tánh, nên an trụ nơi A-lan-nhă. Nếu người có tư tưởng ít muốn, biết đủ, nên an trụ nơi A-lan-nhă. Người có trí tuệ, đầy đủ đa văn, nên an trụ nơi A-lan-nhă. Nếu người tu hành được ba môn giải thoát, nên an trụ nơi A-lan-nhă. Người dứt hẳn được các thứ phiền năo ràng buộc, nên an trụ nơi A-lan-nhă. Người quán sát kỹ lưỡng được mười hai nhân duyên, nên an trụ nơi A-lan-nhă. Người mà chỗ tạo tác đă biện giải xong, nên an trụ nơi A-lan-nhă. Người đă bỏ được gánh nặng, nên an trụ nơi A-lan-nhă. Người chứng ngộ diệu lư sâu xa của chân như, nên an trụ nơi A-lan-nhă.

        Các vị nên biết, nơi A-lan-nhă, các loại cây thuốc, các thứ gỗ lớn, nhỏ sinh ra ở nơi ấy, từng không sợ hăi, cũng không phân biệt. Đại Bồ tát ở nơi A-lan-nhă cũng thế, quán sát thân tâm ḿnh như cây khô, như tường vách, ngói sỏi... không khác, đối với tất cả pháp, không có phân biệt. Ta quán sát thân tâm ta cũng như huyễn mộng, không thực, từng niệm, từng niệm già suy, hơi thở của ta ra rồi không vào được nữa; khi đó, do nhân thiện, ác, theo nghiệp mà chịu báo. Thân này vô thường, chóng khởi, chóng diệt, thân này hư giả, quyết không tồn tại lâu được. Như thế, trong thân không có “ngă, ngă sở” không có hữu t́nh, không có mạng, không có “dưỡng dục”, không có “sĩ phu”, không có “Bổ-đặc-già-la”, không có “tác nghiệp”, không có “hữu kiến”, mọi tướng như thế là bản lai không tịch, cũng như hư không, cũng như bọt nước. Niệm niệm thường nên thực hành quán pháp như thế thời tất cả sợ hăi đều được giải thoát, như cây gỗ kia không có sự sợ hăi. Khi ấy, các Bồ tát được ở nơi an lạc lớn lao không c̣n có sự sợ hăi sinh ra, thế gọi là Bồ tát ở nơi A-lan-nhă, cầu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

        Lại nữa, Bồ tát xuất gia ở nơi A-lan-nhă, suốt ngày đêm nên quán như thế này: “A-lan-nhă này là nơi an vui tu tập thuần bốn Vô cấu tánh. A-lan-nhă này là nơi tu tập thuần hạnh Tri túc. A-lan-nhă này là nơi giải thoát các phiền năo. A-lan-nhă này là nơi đầy đủ trí tuệ, đa văn. A-lan-nhă này là nơi điều phục và đoạn diệt các thứ phiền năo chướng, sở tri chướng. A-lan-nhă này là nơi chứng nhập ba môn giải thoát. A-lan-nhă này là nơi chứng trọn tám pháp giải thoát. A-lan-nhă này là nơi quán sát đầy đủ mười hai nhân duyên. A-lan-nhă này là nơi dứt trừ được các nghiệp chướng. A-lan-nhă này là nơi chứng Sơ quả Dự lưu. A-lan-nhă này là nơi chứng quả thứ hai Nhất lai. A-lan-nhă này là nơi chứng quả thứ ba Bất hoàn. A-lan-nhă này là nơi chứng quả thứ tư A la hán. A-lan-nhă này là nơi chứng quả Bích chi phật. A-lan-nhă này là nơi đă biện giải xong được chỗ tạo tác, được tự tại. A-lan-nhă này là nơi bỏ được các gánh nặng, đạt được mọi sự nhẹ nhàng an vui. A-lan-nhă này là nơi được “Nhị không chân như”. A-lan-nhă này là nơi tu vô lượng tâm Đại từ. A-lan-nhă này là nơi tu chứng vô lượng tâm Đại bi. A-lan-nhă này là nơi tu tập thành tựu “Hỷ vô lượng”. A-lan-nhă này là nơi tu tập thành tựu “Xả vô lượng”. A-lan-nhă này là nơi phát tâm Bồ đề. A-lan-nhă này là nơi Bồ tát tu tŕ đến Thập tín. A-lan-nhă này là nơi Bồ tát tu tiến tuần tự đến Thập trụ. A-lan-nhă này là nơi Bồ tát tu thêm dần dà đến Thập hạnh. A-lan-nhă này là nơi Bồ tát tu hạnh dần dà đến Thập hồi hướng. A-lan-nhă này là nơi tu tập thuần bốn Thiện căn. A-lan-nhă này là nơi tu hành sáu pháp Ba-la-mật. A-lan-nhă này là nơi tu hành từ Sơ địa đến Thập địa. A-lan-nhă này là nơi chứng được sáu căn thanh tịnh. A-lan-nhă này là nơi chứng được Thiên nhăn thông. A-lan- nhă này là nơi chứng được Thiên nhĩ thông và Túc trụ trí, Sinh tử trí minh, Thần cảnh, Tha tâm thông.

        A-lan-nhă này là nơi có sự tàm quư. A-lan-nhă là nơi không phóng dật. A-lan-nhă này là nơi tu tập năm căn. A-lan-nhă này là nơi chứng được vô lượng, vô biên Tam muội. A-lan-nhă này là nơi đạt được hằng sa Đà-la-ni môn, chứng tự tại. A-lan-nhă này là nơi chứng ngộ Nhẫn vô sinh. A-lan-nhă này là nơi dứt sinh tử, ra hẳn ba cơi. A-lan-nhă này là nơi đạt được Bất thoái chuyển. A-lan-nhă này là nơi hàng phục tất cả mọi ma oán địch, tiêu trừ nghiệp chướng, thấy Phật, nghe Pháp. A-lan-nhă này là nơi được pháp môn Bất cộng tối thượng của Phật. A-lan-nhă này là nơi tu tập Giới uẩn thanh tịnh. A-lan-nhă này là nơi xuất sinh Tam-ma-địa vô lậu. A-lan-nhă này là nơi sinh Bát-nhă, chứng giải thoát. A-lan-nhă này là nơi sinh Giải thoát tri kiến. A-lan-nhă này là nơi được ba mươi bảy Pháp phận Bồ đề. A-lan-nhă này là nơi khéo tu nhiếp mười hai hạnh Đầu-đà. A-lan-nhă này là nơi trụ của trí tuệ phân biệt rơ ràng nghĩa lư. A-lan-nhă này là nơi vĩnh viễn đoạn trừ mầm mống năm uẩn hữu lậu. A-lan-nhă này là nơi được giải thoát khỏi mười hai nhập. A-lan-nhă này là nơi ĺa hẳn mười tám giới hữu lậu. A-lan-nhă này là nơi quán sát mười tám không vi diệu. A-lan-nhă này là nơi dung thọ tất cả các pháp không.

        A-lan-nhă này là nơi sinh và làm tăng trưởng mười thiện pháp. A-lan-nhă này là nơi làm tăng trưởng tâm Bồ đề kiên cố. A-lan-nhă này là nơi chư Phật ba đời luôn khen ngợi. A-lan-nhă này là nơi tất cả Bồ tát đều cung kính, tán thán.

        A-lan-nhă này là nơi Đức Phật Tỳ Bà Thi thành đạo ở dưới gốc cây Ni-câu-đà. A-lan-nhă này là nơi Đức Phật Thi Khí thành đạo dưới gốc cây Thi-ly-sa. A-lan-nhă này là nơi Đức Phật Tỳ Xá Phù thành đạo dưới gốc cây A-thi-bà-đa. A-lan-nhă này là nơi Đức Phật Câu Lưu Tôn thành Bậc Đẳng Chánh Giác ở dưới gốc cây Vô Ưu. A-lan-nhă này là nơi Đức Phật Câu Na Hàm Mâu Ni thành Bậc Đẳng Chánh Giác ở dưới gốc cây Ưu-đàm. A-Lan-nhă này là nơi Đức Phật Ca Diếp thành Bậc Đẳng Chánh Giác ở dưới gốc cây Bà-đà. A-lan-nhă này là nơi Đức Phật Thích Ca thành đạo dưới gốc cây Tất-bát-la. Các ông nên biết! A-lan-nhă có vô lượng công đức thắng lợi như thế!

        Lúc đó, Bồ-tát Nhạo Viễn Ly Hạnh v́ đại chúng nói bài kệ:

Bồ tát xuất gia ở Lan-nhă

Cần nên nghĩ ǵ, làm nghiệp ǵ?

Mọi sự sợ hăi thế gian có

Đều từ “ngă kiến, ngă sở” sinh.

Nếu đoạn trừ được “ngă, ngă sở”

Tất cả sự hăi không nơi dựa.

Nếu c̣n có tâm chấp “ngă kiến ”

Rốt ráo không thành đạo Bồ đề.

Niết bàn thường trụ đều vô tướng

Huống chi phiền năo phi pháp Tướng?

Không chấp các pháp và chúng sinh

Tâm không tranh luận, tu chánh niệm

Trong bốn uy nghi điều phục tâm

Nên ở Lan-nhă thường tịch tĩnh.

Dứt được phiền năo, tâm biết đủ

Ở trong Lan-nhă nhà “Không tịch ”

Vào ba môn giải thoát Vô tướng

Ở nơi Lan-nhă ĺa trần cấu.

Hay quán mười hai pháp nhân duyên

Tứ đế, nhị không: chân diệu lư

Tám pháp thế gian không lay động

Bồ tát như thế ở Lan-nhă.

Hay quán thân ḿnh như gỗ khô

Cũng như bọt nước, như huyễn mộng

Không chấp hai bên, tướng b́nh đẳng

Bồ-tát như thế ở Lan-nhă.

Tội, nghiệp ràng buộc thân vô thường

Bản lai hư giả vốn không thực

Chấp pháp, chấp ngă, chấp tội tướng

Ở trong ba đời “bất khả đắc”,

Thân ḿnh, thân người không có hai

Tất cả các pháp cũng như thế

Xem kỹ: pháp tánh không đi, lại

Bồ tát như thế ở Lan-nhă.

Chiên-đàn thoa ḿnh và tán thán

Lấy dao cắt xẻo và mạ nhục

Với hai người ấy không yêu, ghét

Bồ tát như thế ở Lan-nhă.

Xuất gia thích ở A-lan-nhă

Ngày đêm nên quán sát như vầy:

Nơi A-lan-nhă, chân đạo tràng

Tất cả Như Lai thành Chánh giác,

Nơi A-lan-nhă, diệu pháp không

Chánh pháp xuất thế từ đấy sinh,

Nơi A-lan-nhă, Thánh tôn kính

Sinh ra ba thừa Thánh đạo vậy,

Nơi A-lan-nhă, nhà các Thánh

Tất cả Thánh hiền thường ở đó,

Nơi A-lan-nhă, cung Như Lai

Là chỗ mười phương Phật nương dựa

Nơi A-lan-nhă, ṭa Kim cang

Chư Phật ba đời đắc đạo vậy,

Nơi A-lan-nhă, điện Niết bàn

Như Lai ba đời viên tịch đây

Nơi A-lan-nhă, nhà “Đại từ”

Bồ-tát ở đó tu tâm Từ,

Nơi A-lan-nhă là ruộng “Bi”

Chư Phật ba đời tu tâm “Bi”,

Nơi A-lan-nhă, nhà “Lục thông”

Bồ tát ở đó du hóa khắp,

Nơi A-lan-nhă, đại Vô úy

Dứt trừ tất cả sự sợ hăi,

Nơi A-lan-nhă, Tam-ma-địa

Những người cầu đạo được Định ấy,

Nơi Lan-nhă được Đà-la-ni

Những người tŕ chú được thần lực,

Nơi A-lan-nhă, nhà thiện pháp

Tăng trưởng tất cả các pháp lành,

Nơi A-lan-nhă, nhà Bồ đề

Bồ tát tu đạo được pháp nhẫn,

Nếu muốn vượt hẳn khổ ba cơi

Bồ đề Niết bàn nên tu chứng,

Quang khắp pháp giới lợi quần sinh

Nên ở nhà Bồ đề Lan-nhă,

Tu về Sáu độ, Bốn nhiếp pháp

Hồi thí ba cơi và bốn ân

Ḿnh, người đều vào thành cam lộ

Đồng chứng “Nhất như chân pháp giới”.

        Khi Bồ tát Ma-ha-tát Nhạo Viễn Ly Hạnh v́ đại chúng nói pháp ấy rồi, Đức Phật bảo:

        - Quư hóa thay! Quư hóa thay! Thiện nam, ông đă v́ đại chúng và người cầu Phật đạo ở đời sau mà phân biệt diễn nói về công đức thù thắng nơi A-lan-nhă, đem lại lợi ích an lạc cho tất cả chúng sinh, trong hiện tại và vị lai hướng đến nẻo giác ngộ Bồ đề chánh chân, ông sẽ thành tựu vô lượng công đức, mà ngàn Đức Phật cùng nói cũng không cùng tận được.

          Lúc ấy, trong pháp hội Bồ tát Trí Quang, vô lượng a-tăng-kỳ đại chúng Bồ tát, nghe công đức tối thắng nơi A-lan-nhă, liền được “Văn tŕ Đà-la-ni môn”. Vô lượng chúng sinh phát tâm Vô đẳng đẳng, Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đạt được Bất thoái chuyển. Ngàn ức chúng sinh xa ĺa mọi bụi bặm cấu uế có được pháp nhăn thanh tịnh.

Phẩm 7: YẾM THÂN

        Bấy giờ, Đại Bồ tát Di Lặc liền từ ṭa đứng dậy, trịch áo vai phải, gối phải sát đất, chắp tay cung kính bạch Phật:

        - Bạch Đức Thế Tôn, chúng tôi đă ngộ được việc Đại Bồ tát xuất gia, chán bỏ thế gian, ở nơi A-lan-nhă, điều phục tâm ḿnh, tu hạnh Vô cấu. Song, Bồ tát ấy nơi tịch tĩnh, tự thân ḿnh nên thực hành pháp quán ǵ?

Đức Phật bảo Bồ tát Di Lặc:

        - Quư hóa thay! Quư hóa thay! Thiện nam, ông v́ chúng sinh khởi tâm đại bi, thỉnh vấn Như Lai về “Nhập Thánh trí quán diệu         hạnh pháp môn”. Ông nên khéo nghe, nay Ta v́ ông giảng nói về vấn đề ấy!

Bồ tát Di Lặc bạch:

        - Dạ, bạch Thế Tôn, chúng con nguyện muốn được nghe!

        - Thiện nam, Bồ tát xuất gia ở nơi A-lan-nhă, khi cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thời trong lúc đi, đứng, ngồi, nằm nên quán sát tỉ mỉ: “Thân hữu lậu này có ba mươi bảy thứ bất tịnh uế tạp, là thứ không đáng yêu và là thứ không bền chắc”.

Nên quán thân này cũng như đồ gốm, bên ngoài dùng màu sắc sặc sỡ như vàng bạc bảy báu tô điểm khéo đẹp, nhưng bên trong đầy phẩn uế, mọi thứ bất tịnh, rồi hai vai gánh đi, ai trông thấy cũng đều sinh ḷng ưa thích, mà không biết trong đồ ấy đựng đầy thứ bất tịnh. Có sáu con rắn đen ở bên trong đồ ấy, một con cựa quậy th́ đồ liền vỡ nát, sự độc hại, hôi nhơ tóe ra, không ai chịu nổi được. Người thế gian trang sức tô điểm thân ḿnh, như đồ gốm sặc sỡ đựng những thứ bất tịnh kia. Ba món: tham, sân, si là tâm bệnh, ba bệnh; bệnh phong hàn, hoàng nhiệt, đàm ấm là thân bệnh. Trong ngoài sáu bệnh hay làm hại thân tâm, như sáu con rắn ở trong đồ nhơ; mỗi một con rắn cựa quậy, đồ liền vỡ nát, thời mỗi một bệnh phát ra, thân liền vô thường, Thiện nam, Bồ tát xuất gia ở chốn thanh vắng quán sát thân này gọi là Quán tướng Bất tịnh thứ nhất.

        Trọn ngày đêm, Bồ tát xuất gia lại quán thân ḿnh nhơ nhớp chẳng sạch, cũng như thân loài chó chết. Sao vậy? V́ thân kia cũng từ thứ bất tịnh nơi cha mẹ làm duyên sinh ra.

        Bồ tát xuất gia lại quán sát thân ḿnh như tổ kiến là nơi yên ở của nhiều kiến trong đó, một hôm có một con voi trắng đi đến bên tổ, lấy ḿnh cọ vào tổ, tổ kiến liền vỡ ra. Thiện nam, tổ ấy là thân ngũ uẩn, voi trắng là sứ giả của Diễm-ma-la, thân hướng về đời sau như voi trắng phá tổ kiến.

        Bồ tát xuất gia lại quán thân ḿnh mà nghĩ rằng: “Nay thân này của ta, từ đầu đến chân, da, thịt xương, tủy cùng ḥa hợp nhau làm thành thân ḿnh cũng như cây chuối ở trong không có thực.”

Bồ tát xuất gia lại quán thân ḿnh không có sức mạnh, da thịt mỏng che phủ, như vữa tô trát tường, ức vạn lông tóc như cỏ mọc trên đất, chút gió nhẹ ra vào lỗ chân lông. Như thế, ai là người có trí tuệ lại ưa thích thân này? V́ từng sát na, sát na, sự suy bại luôn luôn nối tiếp chuyển biến!

        Bồ tát xuất gia lại quán thân ḿnh như nuôi rắn độc mà chuốc lấy hại. Nay ta tuy đem thức ăn uống quần áo giúp đỡ nuôi lớn thân này mà nó không biết ân, cuối cùng lại làm cho ḿnh phải đọa vào đường ác.

        Bồ tát xuất gia lại quán thân ḿnh ví như kẻ thù oán giả làm bạn thân, ŕnh lúc thuận tiện, đem thuốc độc làm cho mạng căn kia chết. Thân ta như thế, vốn không phải chân thực, quyết đi đến chỗ vô thường, nên bậc Thánh không hề yêu quư.

        Bồ tát xuất gia lại quán thân ḿnh như bọt nước, tuy coi đẹp đẽ như sắc ngọc lưu ly, nhưng trong sát na, nhân duyên khởi, diệt không thường, v́ nó là hữu vi, nên từng niệm niệm không ở lâu được.

        Bồ tát xuất gia quán thân ḿnh như thành Càn-thát-bà, tuy rằng hiện ra tướng trạng mà không thực có. Nay thân ta cũng như thế.

        Bồ tát xuất gia lại quán thân ḿnh cũng như ảnh tượng. Thân ta cũng thế, tuy có nhưng chẳng phải thực.

        Bồ tát xuất gia lại quán thân ḿnh ví như giặc oán cường thịnh của nước ngoài. Nay thân ta cũng như thế, giặc oán phiền năo xâm lược thiện căn của ta.

        Bồ tát xuất gia lại quán thân ḿnh như ngôi nhà hư dột, tuy cố gắng sửa sang lại, nhưng quyết sẽ hỏng nát. Thân ta cũng như thế, tuy cố gắng yêu mến nó, nhớ nghĩ đến nó, nhưng nó quyết sẽ vô thường.

        Bồ tát xuất gia lại quán thân ḿnh như ở gần nước oán địch, nhân dân thành ấp thường mang ḷng sợ hăi. Nay thân ta cũng như thế, trong ḷng từng niệm niệm sợ giặc oán vô thường.

        Bồ tát xuất gia lại quán thân ḿnh như rất nhiều củi bị lửa đốt cháy, mà lửa dữ ấy chưa từng biết đủ. Thân ta cũng thế, lấy lửa tham ái, đốt củi năm dục, tâm tham cầu càng tăng trưởng thêm cũng như thế.

        Bồ tát xuất gia lại quán thân ḿnh như con mới đẻ, mẹ hiền thương xót luôn luôn gắng công săn sóc, ǵn giữ. Thân ta cũng thế, nếu không ǵn giữ, thân tâm bị bệnh, tức không thể tu chứng được.

        Bồ tát xuất gia lại quán “bản tánh tự thân bất tịnh”. Ví như có người chán ngán và lo sợ màu than, mới đặt mọi phương tiện, lấy nước gột tẩy, qua nhiều thời gian màu đen vẫn như cũ và cho đến khi màu than hết, hoàn toàn cũng không được ích ǵ. Thân ta cũng thế, là thân hữu lậu bất tịnh, giả sử lấy nước biển cho đến hết đời vị lai mà tẩy cũng vô ích và cũng lại như thế thôi.

        Bồ tát xuất gia lại quán thân ḿnh như dầu tưới củi, lấy lửa đốt cháy, lại gặp gió lớn, thế mạnh không thể dập tắt được. Thân này cũng thế, là đống củi năm uẩn tưới dầu tham ái, phóng lửa giận dữ, sức gió ngu si không thể ngừng được.

        Bồ tát xuất gia lại quán thân ḿnh cũng như ác tật, v́ nó là chỗ ở của bốn trăm lẻ bốn bệnh, cũng như ruột già, là chỗ ở của tám vạn bốn ngàn con trùng; là chốn vô thường, v́ hơi thở ra không trở vào được, tức là vô thường; cũng như “Phi t́nh thần thức” dễ thoát v́ đồng như ngói đá; cũng như nước sông, trước sau mỗi sát na, không tạm ngừng nghỉ; cũng như ép dầu, đối với tất cả mọi sự, đều phải chịu đựng khổ nhọc. Thân này như không có chỗ nương tựa, cũng như con trẻ mất cha mẹ. Thân này như không có người cứu hộ, cũng như con ễnh ương bị rắn nuốt. Thân này như huyệt không đáy, v́ tâm, tâm sở pháp không thể biết được. Thân này thường không biết đủ, v́ đối với năm món dục lạc, tâm không biết chán. Thân này thường không được tự tại, v́ bị đoạn kiến, thường kiến ràng buộc. Thân này không biết sinh sự thẹn hổ, v́ tuy nhờ họ hàng nuôi nấng, nhưng vẫn vứt bỏ sự sống của ḿnh. Thân này như thây chết, v́ đối với ngày đêm tiếp nối đi gần đến chỗ diệt hoại. Thân này chỉ để chịu mọi khổ, v́ đối với tất cả mọi chỗ không có ǵ là sự vui chân thực. Thân này là chỗ nương tựa của khổ, v́ tất cả mọi khổ đều dựa vào thân mà có. Thân này như xóm làng trống vắng, v́ trong thân này không có chủ tể. Thân này rốt ráo là vắng lặng tịch tĩnh, v́ do tánh “Biến kế sở chấp” tạo dựng, vẽ càn ra. Thân này như tiếng vang trong hang, đều là hư vọng hiển hiện. Thân này cũng như thuyền buồm, nếu không có Thuyền sư liền bị trôi giạt. Và thân này cũng như xe lớn vận tải của báu. Sao vậy? V́ nhờ ngồi trên xe Đại thừa mà đến được cơi Bồ đề vậy.

        Thiện nam, Bồ tát xuất gia ngày đêm quán sát, cần mến tiếc thân này, v́ c̣n muốn làm cho chúng sinh ra khỏi biển sinh tử, đến bờ Niết bàn.

        Khi Đức Thế Tôn nói pháp ấy rồi, Ngài bảo Đại Bồ tát Di Lặc:

        - Thiện nam, tu hạnh như thế, là chỗ quán pháp chủ yếu của người Phật tử xuất gia. Nếu có Phật tử nào phát tâm Bồ đề v́ cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, ở nơi A-lan-nhă, tu tập ba mươi bảy phép quán như thế, lại dạy người ta cùng tu tập pháp quan trọng ấy, cùng giảng giải, viết chép, thọ tŕ, đọc tụng, xa ĺa tất cả sự chấp ngă, ngă sở, dứt hẳn sự tham đắm năm dục lạc ở đời, th́ sẽ chóng thành tựu đầy đủ được tín tâm bất hoại, cầu Đại Bồ đề, không tiếc thân mạng, huống chi là đối với các ngọc báu hiện có của thế gian. Như thế th́ thân hiện tại quyết thành tựu rốt ráo tất cả Trí ấn Kim cang của Như Lai, đối với đạo Vô thượng quyết không thoái chuyển; sáu lục, muôn hạnh chóng được viên măn, chóng thành Bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Lúc đó, trong pháp hội, tám vạn bốn ngàn Bồ tát mới phát tâm, quá chán thế gian, đạt được sức nhẫn lớn lao, đối với đạo Vô thượng  không c̣n thoái chuyển. Trăm ngàn Bà-la-môn phát tâm Bồ đề, thành tựu đầy đủ tín căn, được bất thoái chuyển. Ba vạn sáu ngàn thiện nam, thiện nữ xa ĺa trần cấu, đạt được pháp nhăn thanh tịnh.

Quyển 6 Hết

KINH ĐẠI THỪA BẢN SINH TÂM ĐỊA QUÁN

Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Bát-nhă, người nước Kế tân

Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

Quyển 7

Phẩm 8: BA-LA-MẬT-ĐA

         Bấy giờ, Đại Bồ tát Di Lặc bạch Phật:

        - Bạch Đức Thế Tôn, do nhân duyên ǵ mà Đức Thế Tôn ân cần khen ngợi sự tu hành của Bồ tát ở nơi A-lan-nhă, lại không khen ngợi sự tu hành của Bồ tát ở nơi khác? Có một thời Đức Thế Tôn ở núi Linh-thứu v́ các Bồ tát nói rộng pháp mầu, mà nói lời này: “Bồ tát, hoặc có khi ở nhà dâm nữ, hoặc thân cận với người đồ tể để chỉ dạy sự lợi ích vui vẻ cho họ, dùng vô số phương tiện đem lại lợi cho chúng sinh, v́ họ nói diệu pháp, khiến họ nhập Phật đạo”. Ngày nay Đức Thế Tôn v́ các vị mới phát tâm mà nói diệu pháp, Ngài lại không nói như thế. Song, chúng con luôn luôn thân dự trước Phật, được nghe pháp sâu xa, không có ǵ ngờ vực, nhưng kính xin Đức Như Lai v́ những người cầu Phật đạo mai sau, mà diễn nói cho những chân lư sâu xa mầu nhiệm, khiến hạnh Bồ tát của họ không bị thoái chuyển.

        Khi ấy, Đức Phật bảo Đại Bồ tát Di-Lặc:

        - Thiện nam, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cầu đạo Bồ đề có hai hạng Bồ tát: Một là tại gia. Hai là xuất gia. Bồ tát tại gia v́ nhằm giáo hóa dẫn dắt, nên các nơi chốn như pḥng dâm, hàng thịt đều được thân cận. Bồ tát xuất gia th́ không như thế.

        Tuy nhiên, Bồ tát ấy đều có chín bậc: Ba bậc thượng căn đều ở nơi A-lan-nhă, không gián đoạn sự tinh tấn làm lợi ích cho chúng sinh. Các Bồ tát trung căn và hạ căn tùy chỗ nào hợp th́ ở, nơi chốn không nhất định, hoặc ở nơi A-lan-nhă, hoặc ở nơi làng xóm, tùy duyên tạo lợi ích, an ổn cho chung sinh. Nẻo hành hóa như thế, ông nên quán sát!

        Lại nữa thiện nam, Bồ tát xuất gia tu tập Phật đạo, đă được pháp vô lậu chân thực, thời tùy duyên dốc làm lợi lạc cho tất cả chúng sinh. Nếu có Phật tử chưa được chân trí, ở nơi Lan-nhă, cần nên thân cận chư Phật, Bồ tát và nếu gặp được bậc chân thiện tri thức, thời đối với hạnh Bồ tát quyết không thoái chuyển. Do nhân duyên ấy các Phật tử cần nên dốc ḷng cầu gặp một Đức Phật và một vị Bồ tát.

        Thiện nam, như thế gọi là pháp xuất thế cốt yếu, các ông đều nên nhất tâm tu học!

        Lại nữa thiện nam, Bồ tát xuất gia chán bỏ thế gian, ở nơi A-lan-nhă biết dùng công lực thành tựu viên măn tám vạn bốn ngàn hạnh Ba-la-mật và chóng chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. V́ sao? V́ người bỏ danh lợi vào ở trong rừng núi, đối với thân mạng ḿnh cũng như của cải không c̣n tham tiếc ǵ nữa, vĩnh viễn không lệ thuộc vào nó, thời tự nhiên đầy đủ dễ dàng ba thứ Ba-la-mật-đa.

        Bồ tát Di Lặc bạch Phật:

        - Bạch Đức Thế Tôn, ở nơi A-lan-nhă, Bồ tát xuất gia không chứa cất của báu, vậy nhờ nhân duyên ǵ mà Bồ tát ấy làm viên măn được Bố thí ba-la-mật?

        Đức Phật bảo Đại Bồ tát Di Lặc:

        - Thiện nam, ở nơi A-lan-nhă, Bồ tát xuất gia vào trong xóm làng khất thực, những món ăn xin được, trước tiên nên đem phần nhỏ cho chúng sinh, sau nữa lại đem phần c̣n thừa cho những chúng sinh nào muốn, tức được gọi là Bố thí ba-la-mật. Đem thân mạng ḿnh cúng dường Tam bảo, đem đầu, mắt, tủy, óc bố thí cho người lại xin, tức được gọi là Thân cận ba-la-mật. V́ người cầu đạo nói pháp xuất thế, khiến họ phát tâm Vô thượng Bồ đề, tức được gọi là Chân thực ba-la-mật. Thiện nam, thế gọi là Bồ tát xuất gia thành tựu được Bố thí ba-la-mật-đa.

        Lại nữa thiện nam, Bồ tát xuất gia ở nơi A-lan-nhă, tu mười hai hạnh Đầu đà, nếu khi đi bộ nên nh́n kỹ xuống đất cách chừng hai khuỷu tay, để không làm tổn hại chúng sinh, tức được gọi là Tŕ giới ba-la-mật. Kiên tŕ giới cấm, không tiếc thân mạng, tức được gọi là Thân cận ba-la-mật. V́ người cầu đạo xuất thế,thuyết pháp giáo hóa, khiến họ phát tâm Vô thượng Bồ đề, tức được gọi là Chân thực ba-la-mật. Thiện nam, thế gọi là Bồ tát xuất gia thành tựu được Tŕ giới ba-la-mật-đa.

        Lại nữa thiện nam, Bồ tát xuất gia ở nơi A-lan-nhă, diệt sự giận dữ, đạt được Từ tâm tam muội và cũng không hủy nhục tất cả chúng sinh, tức được tên gọi là Nhẫn nhục ba-la-mật. Nếu v́ một người nói một câu pháp, khiến họ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, tức được gọi là Chân thực ba-la-mật. Thiện nam, thế gọi là Bồ tát xuất gia thành tựu được Nhẫn nhục ba-la-mật-đa.

        Lại nữa thiện nam, Bồ tát xuất gia v́ muốn khiến chúng sinh được thành Phật nên tu hạnh Tinh tấn: Chưa được thành Phật, phước đức, trí tuệ kém cỏi, nhưng không tham yên vui, không tạo mọi tội, đối với những hạnh khổ hạnh của chư Bồ tát xưa, sinh tâm rất mừng, cung kính, tôn ngưỡng, luôn luôn không lúc nào thôi, do nhân duyên ấy, nên gọi là Tinh tấn ba-la-mật. Bỏ thân mạng như nhổ nước bọt, trong tất cả thời chưa từng biếng nhác, tức được gọi là Thân cận ba-la-mật. Gặp người có duyên, nói đạo tối thượng, khiến họ hướng tới Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tức được gọi là Chân thực ba-la-mật. Do tâm tinh tấn, mười hạnh như thế, đời quá khứ không bị thoái chuyển, đời hiện tại được bền vững, đời vị lai chóng được viên măn. Này thiện nam, thế gọi là Đại Bồ tát xuất gia thành tựu được Tinh tấn ba-la-mật-đa.

        Lại nữa thiện nam, Bồ tát xuất gia ở nơi A-lan-nhă, tu tập Chánh định, v́ giữ cho pháp lành không tan mất, thể nhập các môn giải thoát, dứt hẳn biên kiến, hiển hiện thần thông, hóa độ chúng sinh, khiến họ được Chánh trí, dứt được gốc phiền năo, chứng nhập chân pháp giới, ngộ đạo như thực và sẽ tới Bồ đề; do nhân duyên ấy, tức được gọi là Thiền định ba-la-mật. Muốn làm cho chúng sinh như ḿnh không khác, nghĩa là đều được đầy đủ phép điều trị chúng sinh, không bỏ Chánh định, không tiếc thân mạng, tu chánh định ấy tức được gọi là Thân cận ba-la-mật. V́ các chúng sinh nói pháp sâu xa, khiến họ hướng tới đạo Vô thượng Bồ đề, tức được gọi là Chân thực ba-la-mật. Thiện nam, thế gọi là Bồ tát xuất gia thành tựu Thiền định ba-la-mật-đa.

        Lại nữa thiện nam, Bồ tát xuất gia ở nơi thanh vắng tịch tĩnh, thân cận cúng dướng chư Phật, Bồ tát, những bậc đạt Nhất thiết trí, thường thích nghe những pháp sâu xa vi diệu, tâm sinh ngưỡng mộ tôn kính luôn luôn, không hề biết chán, chưa từng biết đủ; lại hay phân biệt rành chân lư Nhị đế dứt trừ hai chướng, thông suốt năm minh, nói pháp cốt yếu, giải trừ mối nghi; do nhân duyên ấy nên gọi là Bát nhă ba-la-mật. V́ cầu nửa bài kệ mà hủy bỏ thân mạng, không sợ mọi khổ, quyết chí cầu đạo Bồ đề, tức thành tựu được Thân cận ba-la-mật. Ở trong đại hội v́ người nói pháp, đối với những nghĩa sâu xa nhiệm mầu không hề tiếc giấu, khiến người phát khởi tâm Đại Bồ đề, đối với hạnh Bồ tát đạt được Bất thoái chuyển, thường hay quán sát thân ta, Lan-nhă, tâm Bồ đề, Pháp thân chân thực: bốn thứ ấy không có sai khác; v́ quán diệu lư như thế, như thế tức gọi là Chân thực ba-la-mật. Thiện nam, đó gọi là Bồ tát xuất gia thành tựu được Bát nhă ba-la-mật-đa.

        Lại nữa thiện nam, Bồ tát xuất gia ở nơi thanh vắng tịch tĩnh, thường hay tu tập Phương tiện thắng trí ba-la-mật-đa. Dùng Tha tâm trí hiểu rơ ư muốn, phiền năo, tâm hành sai biệt của chúng sinh, tùy bệnh cho thuốc đều làm cho họ lành mạnh, được thần thông Tam muội diệu dụng tự tại, phát bi nguyện lớn, thành tựu đầy đủ cho chúng sinh, các pháp của chư Phật đều thông suốt cả v́ nhân duyên ây, tức được tên gọi là Phương tiện thiện xảo ba-la-mật-đa. V́ nhằm đem lại lợi ích cho các chúng sinh, đối với thân mạng và của cải đều không hề tham tiếc, tức được gọi là Thân cận ba-la-mật-đa. V́ các chúng sinh oán, thân đều b́nh đẳng, nói pháp vi diệu, làm cho họ chứng nhập được Phật trí, tức được gọi là Chân thực ba-la-mật-đa. Thiện nam, thế gọi là Bồ tát xuất gia thành tựu được Phương tiện thiện xảo ba-la-mật-đa.

        Lại nữa thiện nam, Bồ tát xuất gia vào trong rừng núi, v́ các chúng sinh nên thường tu tập Nguyện ba-la-mật. Tâm các vị ấy luôn luôn quán sát chân tánh của các pháp, chẳng phải “có”, chẳng phải “không” mà là diệu lư Trung đạo; đối với việc thế tục đều phân biện rơ ràng và cũng v́ nhằm hóa độ chúng sinh nên luôn luôn tu về từ bi; do nhân duyên ấy, tức được gọi là Nguyện ba-la-mật. Đem bốn lời thệ nguyện rộng lớn nhiếp thọ chúng sinh, cho đến dù bỏ thân mạng vẫn không làm hoại mất bi nguyện ấy, tức được gọi là Thân cận ba-la-mật. Nói pháp vi diệu, biện tài vô ngại, nếu có người nào lắng nghe diệu pháp ấy th́ rốt ráo không bị thoái chuyển, tức được gọi là Chân thực ba-la-mật. Thiện nam, đó gọi là Bồ tát xuất gia thành tựu được Nguyện ba-la-mật-đa.

Lại nữa thiện nam, Bồ tát xuất gia ở A-lan-nhă dùng năng lực của Chánh trí, hiểu rơ về tâm hạnh thiện, ác, thanh tịnh, không thanh tịnh của chúng sinh, v́ chúng sinh nói pháp tương ứng, khiến họ chứng nhập nghĩa sâu xa mầu nhiệm của Đại thừa, an trụ nơi cứu cánh Niết bàn; do nhân duyên ấy nên gọi là Lực ba-la-mật. Dùng mắt Chánh trí soi thấy năm uẩn vắng lặng tịch tĩnh, có thể bỏ thân mạng nhằm làm lợi ích cho chúng sinh, tức được gọi là Thân cận ba-la-mật. Dùng năng lực của diệu trí hóa độ người tà kiến, khiến họ dứt bỏ nghiệp ác sinh tử luân hồi, hướng về nẻo Niết bàn cứu cánh thường lạc, tức được gọi là Chân thực ba-la-mật. Thiện nam, thế gọi là Bồ tát xuất gia thành tựu được Lực ba-la-mật-đa.

        Lại nữa thiện nam, Bồ tát xuất gia ở A-lan-nhă, đối với tất cả các pháp biết rơ thiện hay ác, xa ĺa tà kiến, nhiếp thọ chánh pháp, không chán sinh tử, không thích Niết bàn, tức được gọi là Trí ba-la-mật. Không yêu thân ḿnh, luôn luôn thương xót chúng sinh; đối với thân mạng và của cải thường tu hạnh đại xả tức được gọi là Thân cận ba-la-mật. Dùng trí tuệ vi diệu v́ các chúng sinh nói pháp Nhất thừa, khiến họ chứng nhập đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; do nhân duyên ấy, tức được gọi là Chân thực ba-la-mật. Thiện nam, thế gọi là Bồ tát xuất gia thành tựu được Trí ba-la-mật-đa.

        Này thiện nam, những Ba-la-mật-đa ấy, do nghĩa ǵ mà Ta lại nói nó phát sinh ra tám vạn bốn ngàn sự sai khác? Các ông nên biết, v́ những người nhiều tham mà phân biệt, diễn nói ra hai ngàn một trăm Ba-la-mật-đa; v́ những người nhiều sân mà phân biệt, diễn nói ra hai ngàn một trăm Ba-la-mật-đa; v́ những người nhiều si mà phân biệt, diễn nói ra hai ngàn một trăm Ba-la-mật-đa; v́ những người đẳng phần mà phân biệt, diễn nói ra hai ngàn một trăm Ba-la-mật-đa. Thiện nam, đối với những số hai ngàn một trăm Ba-la-mật-đa ấy làm căn bản, rồi chuyển gấp hơn lên, thành tám vạn bốn ngàn Ba-la-mật- đa. Những pháp như thế, đều là hạnh lợi tha.

        Thiện nam, nếu có chúng sinh, căn tánh khó nhiếp phục, nghe pháp ấy rồi mà tâm chưa điều phục được, liền v́ họ tuyên thuyết tám vạn bốn ngàn Tam muội môn. Diệu pháp như thế đều là hạnh tự lợi! Nếu có chúng sinh tánh khí khó nhiếp phục, nghe pháp ấy rồi, mà tâm chưa điều phục được, liền v́ họ tuyên thuyết tám vạn bốn ngàn Đà-la-ni môn. Diệu pháp như thế đều là hạnh lợi tha. Thiện nam, Ta v́ dốc điều phục tất cả chúng sinh nên nói ra pháp như thế và đem vô số phương tiện thiện xảo, thị hiện mọi tướng, giáo hóa chúng sinh. Thiện nam, v́ nghĩa ấy nên tất cả trời, người đều gọi Như Lai là Đạo Sư.

        Thiện nam, chư Phật Thế Tôn trong hiện tại và vị lai đều tu tập tám vạn bốn ngàn Ba-la-mật môn, tám vạn bốn ngàn Tam-muội môn, tám vạn bốn ngàn Đà-la-ni môn, dứt hẳn tám vạn bốn ngàn phiền năo chướng vi tế, tám vạn bốn ngàn sở tri chướng vi tế và đều tới gốc cây Bồ đề nơi Lan-nhă, ngồi ṭa Kim cang, nhập định Kim cang, hàng phục tất cả thiên ma oán thù, chứng được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

        Lúc đó, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại ư nghĩa ấy Ngài nói lời kệ:

Đại Pháp vương vượt qua ba cơi

Hiện ra đời hóa độ chúng sinh

Các Bồ tát số nhiều vô lượng

Vào Phật môn trí tuệ cam lộ.

Di Lặc đắc đạo trong nhiều kiếp

Dùng tâm Đại bi mà thưa hỏi.

Lành thay, Pháp vương tử Vô cấu

Trí tuệ dốc hỏi Chân Phật thừa.

Ta đem biện tài vô úy nói

Giảng pháp Đại thừa, hướng giác ngộ.

Các ông nhất tâm lắng nghe kỹ 

Chuyển đến đời sau điều nên trao

Mười phương thế giới có thể không

Những đạo xuất thế không thể dứt

Muốn cầu đạo xuất thế giải thoát

Không ngoài ba căn, chín phẩm loại.

Ba phẩm Thượng căn tại Lan-nhă

Trung, Hạ tùy duyên ở thế gian.

Chỗ cầu đạo quả không sai khác

Đồng nói về Phật tánh chân như.

Bậc Đại sĩ chứng đắc Vô lậu

Tùy nghi ứng hiện cứu quần sinh.

Mở bày pháp môn có, không - bất nhị

Lợi người, lợi ḿnh chẳng lúc dừng.

Người Phật tử chưa chứng vô lậu

Nên tinh cần tu học ba môn

Đem căn lành dâng cho tất cả

Chỉ một ḷng hằng niệm Hồng danh.

Nguyện con thường thấy Phật, Bồ tát

Thân tướng công đức rất trang nghiêm

Nếu thường được nghe tiếng mưa pháp

Tất cả thấm nhuần tâm chẳng thoái.

Dù thân thường ở chốn địa ngục

Cũng vẫn thân cận Đại Từ Tôn,

Dù thân thường ở chốn luân hồi

Cũng vẫn được nghe pháp vi diệu.

Do nhân duyên ấy, các Phật tử

Buộc tâm thường niệm “Thiên Nhân Sư”.

Nếu có Phật tử tu Thánh đạo

Phát khởi tâm Vô thượng Bồ đề

Chán đời ở tại A-lan-nhă

Cũng được gọi là tu ba “Độ”.

Bố thí trước khi ăn mỗi ngày

Và đem Pháp bảo cho chúng sinh

“Tam luân” thanh tịnh là “Bố thí”

V́ nhân tu ấy, đức viên măn

Nên biết chứng được Ba-la-mật

Chỉ do tâm tịnh, không do vật.

Nếu dùng tâm nhiễm cho ngọc quư

Không bằng tâm tịnh thí chút phần.

Cho của tức được “Bố thí độ ”

Ba-la-mật ấy chẳng hai, ba.

Hay cho thân mạng và vợ con

Như thế gọi là “Thân cận độ”

Thiện nam, tín nữ đến cầu pháp

V́ đó nói hết kinh Đại thừa

Khiến cho phát khởi tâm Vô thượng

Mới gọi “Chân thực ba-la-mật”.

Từ bi, tịnh tín đủ thẹn hổ

Nhiếp thọ chúng sinh ĺa tham chấp

Nguyện thành Như Lai Vô Thượng Trí

Cho của, cho pháp là Sơ độ.

Giữ bền Tam tụ giới Bồ tát

Khai phát Bồ đề, ĺa sinh tử

Ủng hộ Phật pháp ở thế gian

Hối sự lầm phạm “Chân tŕ giới”.

Dẹp tâm sân giận, quán từ bi

Nên nghĩ nhân xưa trừ oán hại

Không tiếc thân mạng cứu chúng sinh

Đó là “Nhẫn nhục ba-la-mật”.

Làm hạnh khó làm không tạm bỏ

Ba tăng kỳ kiếp thường tăng tiến

Không cùng nhơ nhiễm, thường luyện tâm

V́ độ chúng sinh cầu giải thoát.

Vào ra chánh định được tự tại

Biến hóa thần thông dạo mười phương

Dứt nhân phiền năo cho chúng sinh

Tu Tam-ma-địa cầu giải thoát.

Nếu muốn thành tựu chân trí tuệ

Thân cận Bồ tát và Như Lai

Thích nghe diệu lư môn xuất thế

Tu đạt ba minh, dứt hai chướng.

Biết tâm chúng sinh thường sai biệt

Tùy bệnh cho thuốc khiến họ uống

Từ bi thiện xảo hợp căn cơ

Phương tiện lợi sinh độ hữu t́nh.

Quán chân cú nghĩa tất cả pháp

Không chấp giữa, bên, ĺa “có, không ”

Tịnh trí không ngừng ngộ chân như

Lợi ḿnh, lợi người khắp pháp giới.

Trí lực hiểu rơ tánh chúng sinh

V́ đó nói các pháp tương ứng,

Trí lực thể nhập tâm chúng sinh

Khiến dứt gốc luân hồi sinh tử,

Trí lực phân biệt pháp trắng đen

Tùy nên lấy, bỏ đều hiểu thấu.

Sinh tử, Niết bàn vốn b́nh đẳng

Thành tựu chúng sinh ĺa phân biệt.

Mười hạnh thù thắng trên như thế

Nhiếp vào số tám vạn bốn ngàn

Tùy theo phẩm loại thắng pháp môn

Mới là Bồ tát Ba-la-mật.

Tám vạn bốn ngàn Tam-ma-địa

Diệt tâm tán loạn cho chúng sinh.

Tám vạn bốn ngàn môn Tổng tŕ

Trừ diệt hoặc chướng, tan ma chúng.

Năng lực phương tiện Đấng Pháp Vương,

Ba thứ thắng pháp độ chúng sinh

Lưới “giáo” bủa giăng biển sinh tử

Đặt trời, người lên chốn an lạc.

        Khi Đức Thế Tôn nói pháp ấy, tám vạn bốn ngàn Thiên tử cơi trời Đao-lợi, dứt được các chướng trong ba cơi, chứng Hoan hỷ địa. Vô số trăm ngàn Thiên tử trong sáu cơi trời Dục ngộ Vô sinh nhẫn, được Đà-la-ni. Mười sáu đại Quốc vương lănh hội được pháp Đà-la-ni, vô lượng tứ chúng lănh hội hạnh Bồ tát hoặc đạt được địa Bất thoái, hoặc được Tam muội môn, hoặc được Đà-la-ni, hoặc được đại thần thông, hoặc có Bồ tát chứng được hai, ba địa cho đến mười địa, vui mừng hớn hở. Vô lượng trăm ngàn các trời, người... phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, không bị thoái chuyển. Tám ngàn trời, người xa ĺa trần cấu, đạt được pháp nhăn thanh tịnh.

Phẩm 9: CÔNG ĐỨC TRANG NGHIÊM

        Bấy giờ, Đại Bồ tát Di Lặc bạch Phật:

        - Bạch Đức Thế Tôn, như Phật nói ở nơi A-lan-nhă, công đức thành tựu sẽ được thành Phật, vậy Bồ tát làm sao và tu các công đức ǵ mà có thể ở trong nơi A-lan-nhă này được? Kính xin Đức Thế Tôn v́ chúng con mà giải thuyết cho.

        Lúc đó, Đức Phật bảo Đại Bồ tát Di Lặc:

        - Này thiện nam, cần tu học chỉ có một đức, là người ấy có thể ở nơi A-lan-nhă, cầu Vô thượng đạo được. Một đức ấy là ǵ? Là “quán tất cả căn nguyên phiền năo, tức là tự tâm”, hiểu thấu pháp ấy là có thể chịu đựng ở nơi A-lan-nhă được. Sở dĩ thế là sao? Ví như chó dại bị người đánh đuổi, chỉ đuổi theo ngói, đá, chứ không đuổi theo người. Trong đời mai sau, ở nơi A-lan-nhă, người mới phát tâm cũng như thế. Nếu thấy sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, tâm người ấy bị nhiễm đắm, là người ấy không biết căn bản phiền năo, không biết nguyên nhân của năm cảnh từ tự tâm sinh ra; đó tức là chưa thể an trụ ổn định nơi A-lan-nhă được. Do nhân duyên ấy, tất cả Đại Bồ tát thích ở nơi tịch tĩnh, cầu đạo Vô thượng. Nếu khi cảnh của năm dục hiện ra trước mắt, nên quán sát tự tâm và nên nghĩ thế này: "Ta từ đời vô thỉ đến ngày nay, luân hồi trong sáu cơi, không có kỳ nào ra được là nơi vọng tâm sinh ra mê hoặc, điên đảo, đối với cảnh của năm dục, tham ái nhiễm đắm”. Bồ tát như thế gọi là người có thể chịu đựng ở nơi A-lan-nhă. Nếu có người hỏi: “Chúng sinh nào ở đời mai sau sẽ được thành Phật?”. Nên chỉ người ấy trong đời sau, thoát khỏi khổ trong ba cơi, phá bốn ma quân chóng thành Bồ đề, chứng nhập trí tuệ Phật, tất cả thế gian: Thiên, Long tám bộ... đều nên cúng dường! Nếu các thiện nam và thiện nữ nào lấy tâm thanh tịnh cúng dường Phật tử ở nơi A-lan-nhă như thế, sẽ được vô lượng vô biên phước đức. Như có người đem mọi thứ châu báu cúng dường mẹ hiền được công đức thế nào, thời công đức kia cũng như thế không khác. Sao vậy? Người ấy sẽ đạt được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chuyển xe Chánh pháp, độ chúng trời, người, nối ḍng Tam bảo khiến không đoạn tuyệt và sẽ là chỗ quy y cho chúng sinh.

        Lại nữa thiện nam, có hai pháp ràng buộc người tu hành, làm cho họ không chịu đựng ở nơi A-lan-nhă được: Một là yêu thích tà pháp chấp đoạn. Hai là yêu thích của báu, đồ vui.

        Lại nữa thiện nam, có hai hạng người không chịu đựng ở nơi A-lan-nhă được: Một là hạng người đầy dẫy sự kiêu mạn. Hai là hạng người ghét giáo pháp Đại thừa.

        Lại nữa thiện nam, có hai loại người không nên ở nơi A-lan-nhă: Một là hạng người tà kiến, không tin lời Phật. Hai là hạng người tự thân phá giới, coi thường việc giữ giới. Những người như thế không nên ở nơi A-lan-nhă, cầu đạo Vô thượng.

        Lại nữa thiện nam, người đủ bốn đức cần nên an trụ nơi A-lan-nhă. Những ǵ là bốn? Một là đa văn: tóm giữ những điều nghe được không quên. Hai là phân minh: hiểu biết rành rẽ nghĩa vi diệu. Ba là chánh niệm: luôn luôn không phóng dật. Bốn là tùy thuận: như giáo lư mà thực hành. Thiện nam tử, nếu có Phật tử thành tựu được bốn thắng đức như thế, cần nên an trụ nơi A-lan-nhă, tu hạnh Bồ tát, cầu đạo Vô thượng.

        Lại nữa thiện nam, Bồ tát xuất gia lại có bốn đức, trang nghiêm tự thân, ở A-lan-nhă, cầu trí tuệ Phật. Những ǵ là bốn? Một là đại Từ. Hai là đại Bi. Ba là đại Hỷ. Bốn là đại Xả. Thiện nam, bốn pháp như thế, sinh ra tất cả phước đức, trí tuệ, đem lại lợi ích an vui cho vô lượng chúng sinh, chóng chứng pháp Đại Bồ đề Vô thượng.

        Lại nữa, Bồ-tát xuất gia lại có bốn đức, giữ giới thanh tịnh, đạt đến Bồ đề. Những ǵ là bốn? Một là thường trụ trong bốn Vô cấu tánh. Hai là thường tu tập mười hai hạnh Đầu đà. Ba là xa ĺa tại gia, xuất gia. Bốn là bỏ hẳn lừa, nịnh, ghen ghét. Thiện nam, tất cả Bồ tát y vào bốn pháp ấy, khỏi hẳn sinh tử, được Đại Bồ đề.

        Lại nữa thiện nam, Bồ tát xuất gia lại có bốn pháp tóm thâu tất cả điều thiện. Những ǵ là bốn? Một là giữ giới cấm thanh tịnh, lại có sự nghe nhiều. Hai là nhập các pháp chánh định, đầy đủ các trí tuệ. Ba là được sáu phép thần thông, tu cả chủng trí. Bốn là phương tiện thiện xảo, lại không phóng dật. Thiện nam, bốn pháp như thế, Bồ tát trong ba đời cùng tu học, Phật tử các ông cũng nên tu tập, sẽ chóng chứng được đạo Bồ đề rộng lớn vô thượng.

        Lại nữa thiện nam, Bồ tát xuất gia đủ bốn pháp, đối với hạnh Bồ tát được bất thoái chuyển. Những ǵ là bốn? Một là bố thí. Hai là ái ngữ. Ba là lợi hành. Bốn là đồng sự. Thiện nam, bốn hạnh như thế, là con đường đi tới Bồ đề, là căn bản lợi sinh, tất cả Bồ tát đều nên tu học.

        Lại nữa thiện nam, Bồ tát xuất gia lại đủ bốn đức ở nơi A-lan-nhă, giữ giới thanh tịnh, trang nghiêm tự thân. Những ǵ là bốn? Một là quán sát tự thân không có bản tánh, để dẹp dứt hai chấp (ngă, pháp) chứng lư Vô ngă. Hai là quán sát tha thân cũng không có bản tánh, để đối với kẻ oán, thân, ĺa bỏ được sự yêu, ghét. Ba là thân tâm an lạc, để tâm và tâm sở pháp không c̣n phân biệt. Bốn là được b́nh đẳng trí, để sinh tử và Niết bàn không có sự sai khác. Thiện nam, bốn pháp như thế, tất cả Bồ tát nên tu tập, Phật tử các ông cũng nên tu tập, sẽ đi tới đạo Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

        Lại nữa thiện nam, tất cả Bồ tát lại có bốn nguyện làm cho chúng sinh được thành tựu đầy đủ và giữ ǵn ngôi Tam bảo trải qua nhiều kiếp quyết không thoái chuyển. Những ǵ là bốn? Một là thề độ tất cả chúng sinh. Hai là thề đoạn tất cả phiền năo. Ba là thề học tất cả pháp môn. Bốn là thề chứng tất cả Phật quả. Thiện nam, bốn pháp như thế, Bồ tát lớn, nhỏ đều nên học tập, v́ nó là chỗ học của Bồ tát trong ba đời!

        Lại nữa thiện nam, Bồ tát xuất gia lại có bốn pháp ở nơi A-lan- nhă, giữ giới thanh tịnh. Những ǵ là bốn? Một là yêu thích “không tánh”, v́ “không lư” hiển lộ. Hai là được sự không sợ hăi, v́ chứng được chánh định. Ba là đối với các chúng sinh khởi ra bi nguyện lớn. Bốn là đối với hai thứ vô ngă, không có tâm chán ngán. Thiện nam, bốn pháp như thế là điều thiết yếu của tất cả Bồ tát chứng nhập Thánh quả, v́ nương vào bốn pháp ấy dứt bỏ được hai chướng!

        Lại nữa thiện nam, Bồ tát xuất gia lại có bốn pháp, ở nơi A-lan-nhă, khéo giữ giới cấm, trang nghiêm tự thân. Những ǵ là bốn? Một là bỏ hẳn ngă kiến. Hai là bỏ ngă sở kiến. Ba là ĺa đoạn kiến, thường kiến. Bốn là hiểu biết sâu rộng về mười hai nhân duyên. Thiện nam, bốn pháp như thế, trừ được sự hủy phạm giới cấm, giữ ǵn tịnh giới, trang nghiêm tự thân.

        Lại nữa thiện nam, Bồ tát xuất gia ở nơi A-lan-nhă, lại quán bốn pháp, giữ được giới cấm tu thêm diệu hạnh, cầu đạt Phật trí. Những ǵ là bốn? Một là quán sát năm uẩn sinh diệt. Hai là quán sát mười hai nhân duyên như làng xóm trống vắng. Ba là quán sát mười tám giới tánh đồng pháp giới. Bốn là đối với pháp Tục đế không bỏ, không tham. Thiện nam, bốn pháp như thế, tất cả Bồ tát nên tu học và v́ thế Phật tử ở nơi A-lan-nhă nên một ḷng tu tập, cầu đạo Vô thượng!

        Lại nữa thiện nam, Bồ tát xuất gia ở nơi A-lan-nhă, đầy đủ bốn pháp tŕ giới thanh tịnh, trang nghiêm tự thân. Những ǵ là bốn? Một là thành tựu quán Bất kiến thân. Hai là thành tựu quán Bất kiến ngữ. Ba là thành tựu quán Bất kiến ư. Bốn là xa ĺa sáu mươi hai kiến, thành tựu quán Nhất thiết trí. Thiện nam tử, nếu có Phật tử thành tựu bốn pháp thanh tịnh như thế, hiện thân chứng được Chánh tánh ly sinh, cho đến chóng được Vô thượng Bồ đề. Do nhân duyên ấy, Phật tử các ông quán bốn pháp môn như thế, dứt bốn nẻo ác, chứng bốn bậc Niết bàn, hết thuở vị lai, độ các chúng sinh, khiến chứng được đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

        Lại nữa thiện nam, Bồ tát xuất gia ở nơi A-lan-nhă đầy đủ tám pháp Tam muội thanh tịnh, trang nghiêm tự thân. Những ǵ là tám?

1. Ngồi một ḿnh ở nơi A-lan-nhă, thực hiện Tam muội thanh tịnh.

2. Xa ĺa lời nói thêu dệt, thực hiện Tam muội thanh tịnh.

3. Xa ĺa năm dục, thực hiện Tam muội thanh tịnh.

4. Điều phục thân tâm, thực hiện Tam muội thanh tịnh.

5. Ăn uống biết đủ, thực hiện Tam muội thanh tịnh.

6. Xa ĺa sự mong cầu, điều xấu ác, thực hiện Tam muội thanh tịnh.

7. Xa ĺa sự nhân nghe giọng tiếng khởi ra tham ái, thực hành Tam muội thanh tịnh.

8. V́ chúng nói pháp không cầu lợi dưỡng, thực hành Tam- muội thanh tịnh.

        Thiện nam, tám pháp thanh tịnh Tam muội này có thể sinh ra trăm ngàn các Tam muội khác, Phật tử các ông cần nên tu tập sẽ chóng chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề!

        Lại nữa thiện nam, Bồ tát xuất gia ở nơi A-lan-nhă, lại có tám thứ Trí tuệ thanh tịnh. Những ǵ là tám?

1. Năm uẩn thiện xảo, được trí tuệ thanh tịnh.

2. Mười hai xứ thiện xảo, được trí tuệ thanh tịnh.

3. Mười tám giới thiện xảo, được trí tuệ thanh tịnh.

4. Hai mươi hai căn phương tiện thiện xảo, đạt trí tuệ thanh tịnh.

5. Ba giải thoát môn phương tiện thiện xảo, đạt trí tuệ thanh tịnh.

6. Hay diệt tất cả phiền năo phương tiện thiện xảo, đạt trí tuệ thanh tịnh.

7. Hay diệt tùy phiền năo phương tiện thiện xảo, được trí tuệ thanh tịnh.

8. Hay diệt sáu mươi hai kiến phương tiện thiện xảo, đạt trí tuệ thanh tịnh.

        Thiện nam, tám thứ trí tuệ thanh tịnh như thế, Bồ tát các ông nên cần tu tập, sẽ chóng chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề!

        Lại nữa thiện nam, Bồ tát xuất gia ở nơi A-lan-nhă, lại có tám thứ thần thông thanh tịnh, trang nghiêm tự thân. Những ǵ là tám?

l. Đối với mọi sắc pháp không bị chướng ngại, được Thiên nhăn phương tiện thiện xảo, thần thông thanh tịnh.

2. Đối với cảnh thanh trần, không bị chướng ngại, được Thiên nhĩ phương tiện thiện xảo, thần thông thanh tịnh.

3. Đối với các tâm, tâm sở pháp của chúng sinh không bị chướng ngại, được Tha tâm trí phương tiện thiện xảo, thần thông thanh tịnh.

4. Ghi nhớ nơi sinh, nơi chết trong quá khứ không bị chướng ngại, được Túc trụ trí phương tiện thiện xảo, thần thông thanh tịnh.

5. Đi khắp vô số cơi Phật trong mười phương không bị chướng ngại, được Thần cảnh trí, phương tiện thiện xảo, thần thông thanh tịnh.

6. Biết được lậu nghiệp của chúng sinh hết hay chưa hết không bị chướng ngại, được Lậu tận trí phương tiện thiện xảo, thần thông thanh tịnh.

7. Diệt được tất cả phiền năo không bị chướng ngại được Vô lậu trí phương tiện thiện xảo, thần thông thanh tịnh.

8. Hiện thấy tất cả thiện căn nơi tự thân hồi hướng chúng sinh phương tiện thiện xảo, thần thông thanh tịnh.

        Thiện nam tử, tám thứ thần thông thanh tịnh như thế, các Bồ tát trong mười phương đồng tu học, Bồ tát các ông cũng nên tu tập, sẽ chóng chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề!

        Lại nữa thiện nam, Bồ tát xuất gia ở nơi A-lan-nhă, hiện thân được tám thứ thanh tịnh. Những ǵ là tám?

1. Thân nghiệp thanh tịnh.

2. Ngữ nghiệp thanh tịnh.

3. Ư nghiệp thanh tịnh.

4. Chánh tánh thanh tịnh.

5. Chánh niệm thanh tịnh.

6. Đầu đà thanh tịnh.

7. Ĺa siểm nịnh thanh tịnh.

8. Một niệm không quên tâm Bồ đề thanh tịnh.

        Thiện nam, nếu có Phật tử ở nơi A-lan-nhă, đầy đủ tám thứ thanh tịnh như thế, hiện thân thành tựu vô biên thiện căn, không bị thoái chuyển đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác!

        Lại nữa thiện nam, Bồ tát xuất gia có tám thứ đa văn thanh tịnh, trang nghiêm tự thân. Những ǵ là tám?

1. Tôn kính Ḥa thượng, A-xà-lê, được đa văn thanh tịnh.

2. Xa ĺa kiêu mạn, sinh tâm nhún nhường, được đa văn thanh tịnh.

3. Tinh tấn dũng mănh, được đa văn thanh tịnh.

4. An trụ chánh niệm, được đa văn thanh tịnh.

5. V́ người cầu pháp, nói ư nghĩa sâu rộng, đạt đa văn thanh tịnh.

6. Không ưa bảo hộ ḿnh, chê người đạt đa văn thanh tịnh.

7. Thường hay quán sát tất cả thiện pháp, đạt đa văn thanh tịnh.

8. Lắng nghe Chánh pháp, y như chỗ nói mà tu hành, đạt đa văn thanh tịnh.

        Thiện nam, tám thứ đa văn thanh tịnh như thế, Bồ tát các ông đều nên tu tập, sẽ chóng chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề!

        Khi Đức Thế Tôn nói những hạnh của Bồ tát như thế rồi, Ngài bảo Đại Bồ tát Di Lặc:

        - Thiện nam, sau khi Ta nhập Niết bàn chừng năm trăm năm, lúc Chánh pháp sắp diệt, vô lượng chúng sinh chán, bỏ thế gian, dốc ngưỡng mộ Như Lai, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác vào nơi A-lan-nhă, v́ đạo Vô thượng, tu tập những hạnh nguyện Bồ tát như thế, đối với đạo Đại Bồ đề được bất thoái chuyển. Vô lượng chúng sinh phát tâm như thế, khi mạng chung được sinh lên cung trời Đâu-suất, được thấy thân ông, Di Lặc Bồ tát vô lượng phước trí trang nghiêm, siêu việt sinh tử, chứng Bất thoái chuyển. Và, ở đời sau, nơi dưới cây Bồ đề của pháp hội Đại bảo Long hoa đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

        Trong lúc Đức Thế Tôn nói pháp ấy, có hai vạn năm ngàn vị Bồ tát mới phát tâm, đối với hạnh Bồ đề sắp bị thoái chuyển, nghe được pháp như thế, liền phát tâm kiên cố, vượt qua ngôi Thập tín đến ngôi thứ sáu trong Thập trụ. Ba vạn tám ngàn Bà-la-môn tịnh hạnh dứt hẳn tà kiến, được đại pháp nhẫn và Đà-la-ni. Bảy vạn sáu ngàn người đều phát tâm Vô đẳng đẳng, Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Quyển 7 Hết

KINH ĐẠI THỪA BẢN SINH TÂM ĐỊA QUÁN

Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Bát-nhă, người nước Kế tân

Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

Quyển 8

Phẩm 10: QUÁN TÂM

         Bấy giờ, Đại Bồ tát Văn Thù Sư Lợi liền từ ṭa đứng dậy sửa lại y phục, trịch áo vai phải, gối phải sát đất, cung kính chắp tay bạch Phật:

        - Bạch Đức Thế Tôn, như Phật đă nói cho nhóm ông Trưởng giả Diệu Đức năm trăm người rằng: “Ta v́ các ông diễn bày pháp môn tâm địa vi diệu”. Nay vô lượng vô biên đại chúng trời, người trong đạo tràng này đều sinh tâm khao khát mong muốn được lănh hội, con v́ tất cả những người ấy thưa hỏi Như Lai: Thế nào là “Tâm”? Thế nào là “Địa”? Kính xin Đức Thế Tôn đem tâm đại từ dứt mọi duyên chấp, tâm đại bi không c̣n chướng ngại, v́ các chúng sinh phân biệt diễn nói cho những người chưa khỏi khổ được khỏi khổ, những người chưa an vui được an vui, những người chưa phát tâm được phát tâm, những người chưa chứng quả được chứng quả, đồng nơi Nhất đạo mà được Niết bàn.

        Khi ấy, Đức Thế Tôn đem Đại diệu trí ấn thanh tịnh quyết định thắng nghĩa mà Ngài đạt được trong sự tu các phước đức, trí tuệ ở vô lượng kiếp, ấn chứng cho Bồ tát Văn Thù Sư Lợi và nói:

        - Quư hóa thay! Quư hóa thay! Nay ông thực là Phật mẫu trong ba đời! Tất cả Như Lai ở nơi tu hành, ông từng dẫn đạo các Ngài khi mới phát tín tâm; bởi nhân duyên ấy, các bậc thành Chánh giác trong mười phương quốc độ, đều lấy Văn Thù Sư Lợi làm mẹ. Song, nay thân ông, v́ nguyện lực xưa mà hiện ra h́nh tướng Bồ tát, thỉnh vấn Như Lai về pháp cao siêu không thể nghĩ bàn được. Ông nghe kỹ, nghe kỹ và nhớ nghĩ khéo! Ta v́ khắp tất cả mà phân biệt, giảng nói về vấn đề ấy.

        Bồ tát Văn Thù Sư Lợi bạch:

        - Dạ, bạch Thế Tôn, chúng con thích được nghe.

        Lúc đó, Đức Thế Tôn thành tựu tốt đẹp “Tối thắng trụ tŕ b́nh đẳng tánh trí" của tất cả Như Lai cùng mọi thứ công đức vi diệu hiếm có; Ngài đă khéo thu đạt được “Quyết định thắng pháp Đại thừa trí ấn” của tất cả chư Phật; đă khéo viên chứng được “Kim cang bí mật thù thắng diệu trí” của tất cả Như Lai; đă khéo an trụ nơi Vô ngại đại bi, tự nhiên cứu độ nhiếp phục chúng sinh trong mười phương; đă khéo làm viên măn “Diệu quán sát trí”, không quán mà như quán, không nói mà như nói.

        Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Đại Bồ tát Văn Thù Sư Lợi, bậc Đại Thánh vô cấu mẹ của chư Phật:

        - Đại thiện nam, pháp ấy là “Tối thắng bí mật tâm địa pháp môn” của Như Lai trong mười phương. Pháp ấy là pháp môn “Đốn ngộ” của tất cả phàm phu vào cảnh giới Như Lai. Pháp ấy là “Đường chánh chân thực” của tất cả Bồ tát đi tới cơi Đại Bồ đề. Pháp ấy là “Cưng báu vi diệu” của chư Phật trong ba đời, tự an hưởng pháp lạc. Pháp ấy là “Kho báu vô tận” trong tất cả lợi ích cho chúng sinh. Pháp ấy hay dẫn dắt các chúng Bồ tát đến nơi Trí tuệ “Sắc cứu cánh tự tại”. Pháp ấy là bậc Đạo sư chân thực, hay dẫn dắt hậu thân Bồ tát đi tới cội Bồ đề. Pháp ấy như ngọc Ma-ni, hóa những của cải của thế gian, xuất thế gian làm cho chúng sinh luôn măn nguyện. Pháp ấy sinh ra nguồn gốc công đức của tất cả chư Phật trong mười phương ba đời. Pháp ấy hay làm tiêu tan các nghiệp quả ác của tất cả chúng sinh. Pháp ấy hay làm cho tất cả chúng sinh sự ấn chứng về việc nguyện cầu. Pháp ấy hay độ cho tất cả chúng sinh bị sinh tử hiểm nạn. Pháp ấy hay làm ngừng sóng cồn biển khổ cho tất cả chúng sinh. Pháp ấy hay cứu vớt cấp thiết mọi hoạn nạn cho chúng sinh khổ năo. Pháp ấy làm khô kiệt biển lăo, bệnh, tử cho tất cả chúng sinh. Pháp ấy hay làm phát sinh chủng tử nhân duyên của chư Phật. Pháp ấy là đuốc trí tuệ lớn soi sáng cho chúng sinh trong đêm dài sinh tử. Pháp ấy là áo giáp, mũ trụ để phá tan binh chúng của bốn thứ ma. Pháp ấy tức là cờ xí chiến thắng của đạo quân dũng mănh. Pháp ấy tức là xe pháp vô thượng của tất cả chư Phật. Pháp ấy tức là cờ pháp tối thắng. Pháp ấy tức là gióng trống đại pháp. Pháp ấy tức là thổi loa pháp lớn. Pháp ấy tức là đại Sư tử vương. Pháp ấy tức là tiếng gầm của đại Sư tử. Pháp ấy cũng như bậc Đại Thánh vương trong nước khéo làm việc cai trị chân chánh, nếu thuận theo sự giáo hóa ấy thời được an lạc lớn, c̣n nếu trái lại th́ liền bị tru diệt.

        Thiện nam, trong ba cơi lấy “tâm” làm chủ. Người quán được tâm, th́ được giải thoát rốt ráo; người không quán được tâm, th́ ở măi trong nẻo trói buộc ch́m đắm. Tâm của chúng sinh cũng như đại địa. Mọi thứ thóc lúa hoa quả đều từ đại địa sinh ra. Như vậy tâm pháp sinh ra thiện ác thế gian và xuất thế gian năm cơi, các bậc Hữu học, bậc Vô học, bậc Độc giác, bậc Bồ tát, cũng như đối với chư Như Lai. Do nhân duyên ấy, nên ba cơi do tâm, “tâm” được gọi là “địa”. Tất cả phàm phu thân cận bạn lành, nghe pháp tâm địa, như lư quán sát, theo như lời nói tu hành, hoặc tự ḿnh làm, hoặc dạy người làm, khen ngợi khuyên gắng, đón mừng, an ủi, những người như thế, sẽ dứt được ba chướng, mau trọn muôn hạnh và chóng được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

        Đại Thánh Văn Thù Sư Lợi Bồ tát bạch Phật:

        - Bạch Đức Thế Tôn, như Phật nói: Chỉ đem tâm pháp làm chủ ba cơi, tâm pháp vốn là Không, không nhiễm bụi nhơ, tại sao tâm pháp lại nhiễm tham, sân, si? Đối với pháp trong ba đời, cái ǵ cho là tâm? Tâm quá khứ đă diệt, tâm vị lai chưa đến, tâm hiện tại không an trụ, nội tánh của các pháp t́m không thể được, ngoại tướng của các pháp t́m không thể được, trung gian của các pháp cũng đều t́m không thể được; bản lai tâm pháp không có h́nh tướng, bản lai tâm pháp không có trụ xứ, tất cả Như Lai hăy c̣n không thấy tâm, huống là người khác được thấy tâm pháp? Tất cả các pháp từ vọng tưởng sinh, vậy do nhân duyên ǵ, hôm nay Thế Tôn v́ đại chúng nói “Tam giới duy tâm”? Xin Phật thương xót, như thực giảng giải cho!

        Bấy giờ, Đức Phật bảo Bồ tát Văn Thù Sư Lợi:

        - Đúng như thế, đúng như thế! Thiện nam, như ông hỏi Ta “Bản tánh của tâm, tâm sở pháp” là vắng lặng tịch tĩnh, nay Ta sẽ nêu các thí dụ để chứng minh nghĩa ấy.

        Thiện nam, tâm như huyễn pháp, do biến kế chấp sinh, các món tâm tưởng, thọ nhận, vui, khổ. Tâm như ḍng nước chảy, niệm niệm sinh diệt, đối với đời trước, sau không hề dừng. Tâm như gió lớn, trong khoảng sát na đi qua mọi hướng. Tâm như đèn lửa, mọi duyên ḥa hợp sinh ra. Tâm như chớp sáng, chỉ khoảng chốc lát, chứ không dừng lâu. Tâm như hư không, như bị khách trần phiền năo ngăn che. Tâm như con hầu, con vượn, nhảy nhót trên cây năm dục không lúc nào dừng. Tâm như họa sĩ, vẽ ra mọi h́nh sắc thế gian. Tâm như kẻ tôi tớ, bị các phiền năo sai khiến. Tâm như kẻ độc hành, không có người thứ hai. Tâm như quốc vương, khởi ra mọi sự, đạt được tự tại. Tâm như oán gia, khiến cho tự thân chịu bao khổ năo. Tâm như bụi trần, bám nhơ tự thân, sinh ra nhớp nhúa. Tâm như ảnh tượng, đôi với pháp vô thường chấp là thường. Tâm như huyễn mộng, đối với pháp vô ngă, th́ chấp làm ngă. Tâm như Dạ xoa, ăn mất mọi pháp công đức. Tâm như con nhặng xanh, ham đồ dơ xấu. Tâm như kẻ sát nhân, hay hại thân mạng. Tâm như kẻ đối địch, thường ŕnh ṃ lầm lỗi. Tâm như giặc trộm, trộm mất các công đức. Tâm như trống lớn, thúc giục sự chiến đấu. Tâm như con thiêu thân, ưa thích màu sắc đèn sáng. Tâm như con hươu đồng, chạy theo tiếng gọi giả. Tâm như đàn lợn, thích đồ tạp uế. Tâm như đàn ong, gom góp mùi mật ngọt. Tâm như voi say mê theo voi cái.

        Này thiện nam, như thế nói về tâm, tâm sở pháp không trong, không ngoài, cũng không trung gian, đối với mọi pháp t́m không thể được, quá khứ, vị lai, hiện tại cũng không thể t́m được, siêu việt ba đời, chẳng phải có, chẳng phải không. Chúng sinh thường ôm ấp sự nhiễm đắm, nhiễm đắm từ vọng duyên khởi mà duyên không có tự tánh, nên tánh của tâm là Không. Như thế tánh Không là không sinh, không diệt, không đến, không đi, không một, không khác, chẳng phải đoạn, chẳng phải thường, vốn không có nơi sinh, cũng không có nơi diệt, cũng chẳng phải xa ĺa và chẳng phải xa ĺa.

        Những tâm như thế không khác với vô vi và thể của vô vi không khác với những tâm ấy. Thể của tâm pháp vốn không thể nói được, thời cái chẳng phải tâm pháp cũng không thể nói được. Sao vậy? Nếu vô vi là tâm, tức là đoạn kiến; nếu ĺa tâm pháp tức là thường kiến. Ĺa hẳn hai tướng, không chấp trước hai bên, ngộ được như thế gọi là “Chân đế” và người ngộ được Chân đế ấy là Hiền thánh. Tất cả Hiền thánh tánh vốn vắng lặng tịch tĩnh, trong pháp vô vi, giới không có tŕ, phạm, cũng không có lớn, nhỏ, không có tâm vương, tâm sở pháp và không có khổ, không có vui. Như thế, tự tánh của pháp giới là vô cấu, không có tướng sai biệt thượng, trung, hạ. Sao vậy? V́ tánh của pháp vô vi ấy là b́nh đẳng, như nước mọi ḍng sông chảy vào trong biển đều đồng một vị, không có tướng sai biệt. Tánh vô cấu ấy là không ǵ sánh bằng, xa ĺa mọi nẻo ngă và ngă sở. Tánh vô cấu ấy chẳng phải thực, chẳng phải hư. Tánh vô cấu ấy là Đệ nhất nghĩa, v́ nó không có tướng hết và diệt, thể nó vốn không sinh. Tánh vô cấu ấy, thường trụ bất biến, v́ là tối thắng Niết bàn gồm đủ ngă, lạc, thanh tịnh. Tánh vô cấu ấy, xa ĺa tất cả sự b́nh đẳng và bất b́nh đẳng, v́ thể của nó là không khác.

        Nếu có các vị thiện nam, thiện nữ nào muốn cầu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cần nên một ḷng tu tập quán pháp Tâm địa như thế!

        Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại ư nghĩa ấy, Ngài nói bài kệ:

Mẹ Phật ba đời - Diệu Cát Tường

Xin hỏi Như Lai: “Tâm địa pháp”

Ta nay trong đại hội chúng này

Nêu bày quán hạnh môn thành Phật.

Pháp này khó gặp hơn Ưu-đàm

Tất cả thế gian nên ngưỡng vọng.

Chư Phật mười phương chứng Đại giác

Đều từ pháp này mà tu hành.

Ta là Vô Thượng, Điều Ngự Sư,

Chuyển xe Chánh pháp khắp thế giới

Hóa độ vô lượng các chúng sinh

Nên biết, do ngộ Tâm địa quán.

Tất cả chúng sinh nghe pháp này,

Mừng tới Bồ đề được thọ kư

Những người hữu duyên được thọ kư

Tu quán môn này sẽ thành Phật.

Chư Phật tự hưởng pháp lạc lớn

Ở cung báu diệu Tâm địa quán

Nhận chức Bồ tát, ngộ Vô sinh

Quán Tâm địa môn khắp pháp giới.

Hậu thân Bồ tát ngồi cội “giác”

Nhập quán hạnh này chứng Bồ đề.

Pháp ấy hay mưa "bảy Thánh tài”

Như Ma-ni, măn nguyện chúng sinh.

Pháp ấy gọi là Phật mẫu xưa

Xuất sinh ba thân Phật ba đời.

Pháp ấy gọi là giáp Kim cang

Chống với bốn chứng các ma quân.

Pháp ấy hay làm thuyền bè lớn

Khiến qua giữa ḍng đến chốn báu.

Pháp ấy là trống pháp tối thắng.

Pháp ấy là cờ pháp nêu cao.

Pháp ấy là loa pháp Kim cang,

Pháp ấy là đuốc pháp soi đàng.

Pháp ấy cũng như đại Thánh chủ

Thưởng công, phạt tội, thuận nhân tâm.

Pháp ấy cũng như nước ngấm ruộng

Sinh thành, nuôi lớn theo thời tiết.

Ta dùng ví dụ tỏ nghĩa “không”

Thế biết ba cơi chỉ một tâm.

Tâm có đại lực sinh thế giới

Tự tại hay làm chủ biến hóa.

Tưởng ác, tâm thiện lại tạo tập

Quá, hiện, vị lai, nhân sinh tử

Nương tựa vọng nghiệp tạo thế gian

Ái, phi ái quả thường tương tục.

Tâm như nước chảy chẳng chút dừng

Tâm như gió bay qua các nước.

Cũng như hầu, vượn bám cành đùa

Cũng như sự giả, nương giả thành,

Như không, chim bay không chướng ngại

Như làng xóm vắng người qua lại.

Tâm pháp như thế vốn chẳng có

Phàm phu mê chấp cho là có

Nếu hay quán “Tâm thể tánh không ”

Hoặc chướng không sinh, liền giải thoát.

        Khi ấy, Đức Như Lai đối với các chúng sinh khởi tâm đại bi, cũng như cha mẹ nhớ đến con một, v́ muốn diệt trừ sức mạnh nơi tà kiến của thế gian, đem lại lợi ích an vui cho tất cả chúng sinh, nên Ngài tuyên thuyết thần chú quán tâm rằng: “úm, thất tha, ba la để, phệ đạn, ca lư nhị”.

        Đức Như Lai nói chân ngôn ấy rồi, bảo Đại Bồ tát Văn Thù Sư Lợi:

        - Thần chú ấy gồm đủ uy lực lớn, nếu có thiện nam, thiện nữ nào khi tŕ chú ấy, giơ tay trong sạch lên, mười ngón tay trái và phải bắt tréo lại với nhau, rồi lấy tay phải áp lên tay trái, nắm chặt lấy nhau như dây buộc, gọi là Kim cang phược ấn. Thành ấn ấy rồi, đọc tụng chân ngôn trước trọn đủ một lượt, th́ hơn cả đọc tụng mười hai bộ kinh và có được công đức không thể hạn lượng, cho đến quả vị Bồ đề không bị thoái chuyển.

Phẩm 11: PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM

        Bấy giờ, Đức Thế Tôn đă đạt được Quán đỉnh bảo quan của tất cả Như Lai, vượt qua ba cơi đă viên măn được Đà-la-ni tự tại, đă chứng đắc viên măn được Tam-ma-địa tự tại, thành tựu được tốt đẹp trí Nhất thiết trí, Nhất thiết chủng trí và hay làm mọi sự sai biệt đối với hữu t́nh.

        Khi Đức Thế Tôn v́ các chúng sinh tuyên thuyết về pháp môn Quán tâm thâm diệu rồi, Ngài bảo Đại Bồ tát Văn Thù Sư Lợi:

        - Đại thiện nam, Ta đă v́ chúng sinh nói về tâm địa rồi, nay Ta lại sẽ nói về Phát Bồ đề tâm đại Đà-la-ni, để cho các chúng sinh phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, mau viên măn được diệu quả.

        Lúc đó, Bồ tát Văn Thù Sư Lợi bạch Phật:

        - Bạch Đức Thế Tôn, Như Lai nói “Quá khứ đă diệt, vị lai chưa đến, hiện tại không trụ, tất cả tâm pháp có trong ba đời, bản tánh của nó đều không”, vậy tâm Bồ đề kia, nói vào cái ǵ mà gọi là phát? Lành thay, Thế Tôn! Xin Ngài v́ tất cả mà thuyết giảng, để cho tất cả dứt bỏ được các màn lưới ngờ vực, đạt tới nơi chốn Bồ đề!

        Đức Phật bảo Bồ tát Văn Thù Sư Lợi:

        - Thiện nam, từ trong các tâm pháp khởi ra mọi tà kiến; v́ muốn dứt trừ sáu mươi hai kiến, cùng mọi thứ tà kiến khác, nên Ta nói tâm, tâm sở pháp là không; như thế là các kiến chấp kia không c̣n chỗ nương tựa nữa, ví như rừng rú xanh tốt, um tùm, sư tử, voi trắng, hùm, beo, thú dữ... lẫn vào trong ấy nhả độc hại người, làm cho vắng bặt dấu vết người đi. Lúc đó, có bậc trí giả đem lửa đốt rừng; v́ rừng trống, các thứ dữ không c̣n sót lại. Tâm không, kiến diệt, cũng như thế!

        Lại nữa thiện nam, do nhân duyên ǵ mà lập ra nghĩa “không” ấy? V́ muốn diệt phiền năo từ vọng tâm sinh ra mà nói là “không”. Thiện nam, nếu chấp “lư không” là cứu cánh, thời ngay “không tánh” cũng không; chấp “không” thành bệnh, cũng nên trừ bỏ. Sao vậy? Nếu chấp nghĩa “không” là cứu cánh, các pháp đều không, không nhân, không quả, thời có khác ǵ với ngoại đạo Lộ-già-da-đà? Thiện nam, như thuốc A-già-đà chữa khỏi các bệnh, nếu người có bệnh uống thuốc ấy th́ quyết khỏi; bệnh đă khỏi rồi, thuốc cũng theo bệnh mà bỏ và nếu không có bệnh mà uống thuốc, thuốc trở lại thành bệnh. Thiện nam, trước đặt ra thuốc “không” là để trừ bệnh “hữu”; chấp “hữu” thành bệnh, thời chấp “không” cũng thế. Ai là bậc trí giả lại uống thuốc để mang bệnh? Thiện nam, nếu khởi ra hữu kiến, c̣n hơn khởi ra “không kiến”; có thuốc “không” trị bệnh “hữu”, chứ không có thuốc nào trị bệnh “không” cả.

        Thiện nam, do nhân duyên ấy, thuốc “không” trừ tà kiến rồi, tâm tự giác ngộ, phát ra Bồ đề, tâm giác ngộ ấy tức là tâm Bồ đề, chứ không có hai tướng. Thiện nam, tâm tự giác ngộ có bốn nghĩa. Những ǵ là bốn? Các phàm phu có hai tâm, chư Phật, Bồ tát có hai tâm.

        Thiện nam, hành tướng hai tâm của phàm phu thế nào? Một là từ nhăn thức cho đến ư thức, cùng duyên tự cảnh gọi là Tự ngộ tâm. Hai là ĺa tâm, tâm sở pháp của năm căn ḥa hợp duyên cảnh gọi là Tự ngộ tâm. Thiện nam, hai tâm như thế hay phát Bồ đề!

        Thiện nam, hành tướng hai tâm của Thánh hiền thế nào? Một là quán Chân thực lư trí. Hai là quán Nhất thiết cảnh trí. Thiện nam, bốn nghĩa như thế là Tự ngộ tâm

        Lúc đó, Bồ tát Văn Thù bạch Phật:

        - Bạch Đức Thế Tôn, tâm không có h́nh tướng cũng không có chỗ trụ, người phàm phu tu hành khi mới bất đầu phát tâm phải y vào những chỗ nào và quán những tướng ǵ?

        Đức Phật bảo:

        - Thiện nam, chỗ quán về tâm tướng Bồ đề của phàm phu, phải quán như là vành trăng tṛn đầy, trong sạch sáng ngời đứng yên trên ngực. Nếu muốn mau được Bất thoái chuyển, th́ ở nơi A-lan-nhă và nhà vắng lặng cần phải giữ thân ngay ngắn, chánh niệm, kết Kim cang phược ấn của Như Lai như trước, nhắm mắt quán sát mặt trăng sáng giữa ngực và suy nghĩ rằng: “Vành trăng tṛn đầy này to lớn năm mươi do tuần, sáng tươi thanh tịnh, trong ngoài lắng suốt, không chút bụi nhơ và vô cùng trong mát”. Mặt trăng tức là tâm, tâm tức là mặt trăng, vết trần không nhiễm thời vọng tưởng không sinh, khiến cho chúng sinh thân tâm thanh tịnh, tâm Đại Bồ đề bền vững không thoái. Kết tay ấn ấy và quán sát tŕ niệm chương cú vi diệu Đại Bồ đề tâm là Thanh tịnh chân ngôn của tất cả Bồ tát khi mới bắt đầu phát tâm: “úm, bồ địa, thất đa, mưu chí ba, đà tà, nhị.”

        Đà-la-ni này có đủ uy đức lớn khiến cho người tu hành không bị thoái chuyển. Tất cả Bồ tát trong quá khứ, vị lai, hiện tại khi tại Nhân địa mới phát tâm, đều chuyên tŕ niệm chân ngôn này, mà vào được cảnh giới Bất thoái và mau viên thành Chánh giác.

Thiện nam, khi người tu hành kia giữ thân ngay ngắn, chánh niệm, đều không dao động ǵ cả, chỉ để tâm vào vành trăng, quán sát thành thục, thế gọi là Bồ tát quán Bồ đề tâm thành Phật Tam muội. Nếu có phàm phu tu pháp quán ấy, trước kia gây ra năm tội nghịch, bốn tội trọng, mười điều ác và bất tín, th́ các tội đó đều tiêu diệt hết và liền được năm thứ pháp môn Tam-ma-địa. Những ǵ là năm? Một là Sát na tam muội. Hai là Vi trần tam muội. Ba là Bạch lũ tam muội. Bốn là Khởi phục tam muội. Năm là An trụ tam muội.

        Thế nào gọi là Sát na tam muội? Nghĩa là chỉ tạm thời an trụ tưởng niệm vào mặt trăng tṛn đầy, ví như con khỉ, thân bị buộc, xa không đi được, gần không dừng được, nhưng chỉ khi đói khát quá, nó mới dừng nghỉ được chốc lát mà thôi. Phàm phu quán tâm cũng như thế mới được Tam muội trong tạm thời chốc lát, nên gọi là Sát na.

        Thế nào gọi là Vi trần tam muội? Nghĩa là đối với Tam muội đă tương ứng được ít phần, ví như có người tự ḿnh thường ăn đồ đắng, chưa từng ăn đồ ngọt bao giờ, trong một thời kia được nếm một chút mật vào lưỡi, người ấy vui mừng quá, càng sinh hăng hái mong cầu được nhiều mật. Người tu hành ấy, qua nhiều kiếp ăn những vị đắng mà nay được cho vị Tam muội ngon ngọt, tương ứng được ít phần nên gọi Vi trần.

        Thế nào gọi là Bạch lũ tam muội? Nghĩa là, người phàm phu từ thời vô thỉ cho đến hết thuở vị lai, nay được định này, ví như nhuộm vải đen, trong màu quá đen thấy được một sợi chỉ trắng. Người tu hành ấy trong nhiều đêm sinh tử tăm tối, nay mới được Tam muội trắng sạch, nên gọi đấy là Bạch lũ (chỉ trắng).

        Thế nào gọi là Khởi phục tam muội? Nghĩa là, người tu hành quán tâm chưa thành thục, hoặc khéo thành lập hay chưa khéo thành lập, Tam muội như thế c̣n là cao, thấp nên gọi là Khởi phục.

        Thế nào gọi là An trụ tam muội? Nghĩa là tu bốn định trước, tâm được an trụ và khéo giữ ǵn được, không nhiễm vào các trần, như người trong mùa hè đi qua cơi sa mạc xa xăm, chịu đủ mọi nóng bức độc hại, tâm khát thiếu quá, hầu như không chịu nổi được nữa, bỗng gặp được ḍng nước ngọt của núi Tuyết, như vị Tô-đà cơi trời, mau khỏi được nhiệt năo, thân tâm được thư thái, nên định ấy gọi là An trụ. Nhập định ấy rồi, xa ĺa hoặc chướng, nảy mầm Vô thượng Bồ đề, chóng lên công đức Thập địa của Bồ tát.

Bấy giờ, trong pháp hội, vô lượng trời, người được lănh hội đại Đà-la-ni sâu rộng không thể nghĩ bàn này, là mẹ đẻ của Bồ tát, có chín vạn tám ngàn Bồ tát chứng được bậc Hoan hỷ, vô lượng chúng sinh phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Phẩm 12: THÀNH PHẬT

         Bấy giờ, Đức Thế Tôn an trụ trong pháp giới thanh tịnh, ba đời b́nh đẳng, không trước không sau, bất động ngưng lặng, miên mật xuyên suốt; ánh sáng đại trí soi khắp thế giới; phương tiện thiện xảo biến hiện thần thông, hóa độ mười phương quốc độ, đâu cũng cùng khắp.

        Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Đại Bồ tát Văn Thù Sư Lợi:

        - Người tu hành Du già quán vành trăng rồi, nên quán ba pháp đại bí mật. Những ǵ là ba? Một là Tâm bí mật. Hai là Ngữ bí mật. Ba là Thân bí mật.

        Thế nào gọi là pháp Tâm bí mật? Người tu hành Du già, quán trong mặt trăng tṛn đầy sinh ra cái chầy Ngũ cổ Kim cang sắc vàng, ánh sáng rực rỡ như vàng chảy, phóng ra vô số ánh sáng trắng lớn; lấy sự ấy mà quán sát gọi là Tâm bí mật.

        Thế nào gọi là Ngôn ngữ bí mật? “úm, địa thất đa, bà nhĩ la”. Đà-la-ni ấy đủ uy lực lớn, là chân ngôn của tất cả Bồ tát thành Phật, thế nên gọi là Ngữ ngôn bí mật.

        Thế nào gọi là pháp Thân bí mật? ở trong đạo tràng, giữ thân ngay ngắn, chánh niệm, tay kết ấn Dẫn đạo Vô thượng Bồ đề tối đệ nhất, đặt giữa tâm nguyệt luân nơi ngực.

        Thiện nam, Ta sẽ v́ ông nói về tướng dáng của ấn ấy: Trước tiên lấy hai ngón tay cái của hai bàn tay đều đặt vào trong mỗi ḷng bàn tay và lấy ngón trỏ, ngón giữa cùng ngón áp út của hai bàn tay nắm chặt lấy ngón tay cái, làm thành nắm tay, tức là Kiên lao Kim cang quyền ấn. Sau đó, không đổi nắm tay, chỉ duỗi một ngón trỏ của bàn tay trái, thẳng lên hư không, rồi đem nắm tay trái ấy đặt lên trái tim; ngón út của nắm tay phải nắm chặt lấy một đốt ngón trỏ của nắm tay trái, sau lại lấy đầu ngón trỏ của nắm tay phải, chỉ vào một đốt ngón tay cái của nắm tay phải và cũng để trước trái tim, thế gọi là Dẫn đạo Vô thượng Bồ đề đệ nhất trí ấn, cũng gọi là Năng diệt vô minh hắc ám đại quang minh ấn. Do kết ấn ấy, có sức gia tŕ nên được chư Phật mười phương xoa đầu hành giả và trao cho Đại Bồ đề thắng quyết định kư, là Đại Tỳ-lô-giá-na Như Lai vô thượng phước tụ đại diệu trí ấn.

        Khi hành giả kết ấn ấy rồi liền thực hiện quán này: “Tất cả chúng sinh cùng kết ấn này, tŕ niệm chân ngôn, mười phương thế giới không bị quả khổ trong ba đường ác và tám nạn, mà cùng được hưởng pháp lạc thanh tịnh thứ nhất. Nay trên đầu ta có mũ Đại bảo, trong mũ Thiên quan ấy năm Đức Phật Như Lai ngồi kết già phu, ta là Tỳ-Lô-Giá-Na Như Lai, đầy đủ viên măn ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp phóng ra hào quang sáng lớn soi khắp mười phương đem lại lợi ích an vui cho tất cả chúng sinh”. Quán sát như thế gọi là Nhập Tỳ-Lô-Giá-Na Như Lai tối thắng tam muội.

        Ví như có người ngộ được quán môn Ca-lư-la vi diệu, tự thực hành quán này: “Thân ta tức là thân chim Kim sí đầu đàn, tâm, ư, ngữ ngôn cũng lại như thế”. Dùng sức quán ấy làm tiêu tan thuốc độc, tất cả ác độc không làm hại được. Người phàm phu tu hành cũng như thế, ngồi kiểu ngồi hàng phục, thân không dao động, tay kết trí ấn, mật niệm chân ngôn, nhập vào quán này, diệt được ba độc, tiêu trừ nghiệp chướng, tăng trưởng phước trí và nguyện ở thế gian hay xuất thế gian mau được viên măn; tám vạn bốn ngàn các phiền năo chướng không hiện khởi được, hằng hà sa sở tri chướng cực trọng dần dần tiêu diệt, Vô lậu đại trí Năng đoạn Kim cang Bát nhă ba la mật viên măn hiện tiền, chóng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

        Lúc đó, Bồ tát Văn Thù Sư Lợi bạch Phật:

        - Đức Thế Tôn hiếm có! Đấng Thiện Thệ hiếm có! Đức Như Lai ra đời c̣n hiếm có hơn như hoa Ưu đàm và giả sử Ngài ra đời và nói ra pháp này cũng khó. Ba pháp bí mật Vô thượng pháp luân của Tâm địa như thế thực là lợi lạc cho tất cả chúng sinh, là đường chánh chân thực để vào Như Lai địa và Bồ tát địa. Nếu có chúng sinh nào không tiếc thân mạng mà tu hành pháp ấy sẽ chóng chứng được Bồ đề.

        Bấy giờ, Đức Phật bảo Bồ tát Văn Thù Sư Lợi:

        - Nếu có các thiện nam, thiện nữ nào muốn tu tập được ba diệu môn bí mật thành Phật, sớm được Thân công đức của Như Lai, được mặc ba mươi hai thứ áo giáp Đại kim cang của Bồ tát mà Tu diệu quán ấy, thời quyết chứng được Pháp thân thanh tịnh của Như Lai.

        Những ǵ là ba mươi hai thứ áo giáp?

        1. Áo đại giáp Thọ khổ: Ở trong vô lượng kiếp v́ chúng sinh chịu khổ mà không chán sinh tử.

        2. Áo đại giáp Bất xả: Thề độ vô lượng hữu t́nh cho đến con sâu, con kiến cũng không bỏ.

        3. Áo đại giáp Bí mật: Giác ngộ chúng sinh trong giấc mộng dài sinh tử, đặt để họ vào ba pháp bí mật.

        4. Áo đại giáp Hộ pháp: Ủng hộ Phật pháp trong tất cả thời cũng như âm vang ứng hợp với tiếng.

        5. Áo đại giáp Kim cang: Diệt hẳn sự khởi lên hai kiến “hữu, vô” và tất cả phiền năo.

        6. Áo đại giáp Năng xả: Dù là đầu, mắt, tủy, óc, vợ, con, ngọc báu... nếu có người lại xin đều xả cả.

        7. Áo đại giáp Năng thí: Tất cả vật dụng đem lại an vui mà trong nhà hưởng thọ, quyết không tham đắm, đều đem cho tất cả.

        8. Áo đại giáp Năng tŕ: Hay giữ Tam tụ tịnh giới của Bồ tát trọn không rời bỏ hạnh Đầu đà.

        9. Áo đại giáp Nhẫn nhục: Mặc áo nhẫn nhục gặp các duyên trái ngược như bị hủy nhục, mạ lỵ, đánh đập... vẫn không báo thù lại.

        10. Áo đại giáp Hồi tâm: Giáo hóa những bậc Duyên giác, Thanh văn, khiến họ hướng tâm về Nhất thừa.

        11. Áo đại giáp Tinh tấn: Luôn Tinh tấn độ các hữu t́nh, ví như gió lớn ngày đêm không ngừng.

        12. Áo đại giáp Tu hành giải thoát tam muội: Thân tâm tịch tĩnh, miệng không phạm lỗi.

        13. Áo đại giáp B́nh đẳng: Làm điều lợi ích cho chúng sinh, coi sinh tử và Niết bàn không có hai thiên kiến.

        14. Áo đại giáp Dữ lạc: Đem tâm đại từ không c̣n vướng mắc, làm lợi ích an vui cho mọi loài, luôn luôn không chán bỏ.

        15. Áo đại giáp Bạt khổ: Đem tâm đại bi vô ngại cứu độ thu nhiếp tất cả làm cho dứt sạch khổ, không có hạn lượng.

        16. Áo đại giáp Đại hỷ: Đối với các chung sinh không hề kết oán, luôn luôn làm việc lợi ích.

        17. Áo đại giáp Đại xả: Tuy thực hiện hạnh khổ nhưng không sợ nhọc mệt, luôn luôn không hề thoái chuyển.

        18. Áo đại giáp Bất yếm: Chúng sinh có sự đau khổ t́m đến nơi Bồ tát, Bồ tát chịu thay khổ cho chúng sinh kia mà không chút chán ngán.

        19. Áo đại giáp Giải thoát năng kiến: Sự xem xét, nhận thức rơ ràng như xem quả A-ma-lặc trong bàn tay, như thế là giải thoát được sự thấy.

        20. Áo đại giáp Vô trước: Thấy rơ thân năm uẩn như hạng Chiên đà la, làm tổn hại việc thiện.

        21. Áo đại giáp Yếm xả: Thấy rơ mười hai nhập như xóm làng trống vắng, thường mang ḷng sợ hăi.

        22. Áo đại giáp Đại trí: Thấy mười tám giới cũng như cảnh huyễn hóa, không có chân thực.

        23. Áo đại giáp Chứng chân: Thấy rơ tất cả pháp, đồng trong pháp giới, không c̣n thấy có mọi tướng sai khác.

        24. Áo đại giáp Xuất thế: Che điều xấu ác của người, không giấu lỗi xấu ác của ḿnh, chán bỏ ba cơi.

        25. Áo đại giáp Hóa độ: Như bậc Đại y vương, hợp bệnh cho thuốc, Bồ tát tùy nghi mà diễn hóa.

        26. Áo đại giáp Quy nhất: Thấy chân thể của Ba thừa kia vốn không khác, cứu cánh đồng tâm quay về nơi một.

        27. Áo đại giáp Độ người: Nối ḍng Tam bảo, khiến không đoạn tuyệt, chuyển xe diệu pháp độ người.

        28. Áo đại giáp Tu đạo: Phật đối với chúng sinh có ân đức lớn, v́ muốn báo ân Phật, nên dốc tu tập Phật đạo.

        29. Áo đại giáp Vô cấu: Quán bản tánh của tất cả các pháp là không tịch tĩnh, vắng lặng, không sinh, không diệt, không nhơ.

        30. Áo đại giáp Vô ngại: Ngộ pháp nhẫn Vô sinh, được Đà-la-ni, khéo thuyết giảng với biện tài vô ngại.

        31. Áo đại giáp Nhất vị: Hóa độ hữu t́nh rộng khắp khiến họ cũng được ngồi dưới cây Bồ đề, chứng đắc Phật quả.

        32. Áo đại giáp Vô dư: Trong một sát na tâm tương ứng với Bát nhă, chứng ngộ đại pháp Vô dư trong ba đời.

        Đó gọi là ba mươi hai thứ Kim cang đại giáp của Bồ tát.

        Bồ tát Văn Thù Sư Lợi, nếu có các thiện nam, thiện nữ nào thân mặc giáp trụ Kim cang như thế, nên dốc tu tập ba pháp bí mật, trong đời hiện tại đủ phước trí lớn, mau chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

        Khi ấy, Đại Thánh Văn Thù Sư Lợi Bồ tát Ma-ha-tát cùng đại chúng nghe Đức Phật nói về ba môn bí mật của tâm địa diệu pháp và ba mươi hai thứ Kim cang giáp trụ, th́ tất cả Bồ tát bậc Hữu học, mỗi vị đều cởi những chuỗi ngọc, áo báu vô giá, cúng dường lên Tỳ-Lô-Giá-Na Như Lai cùng các Thế Tôn trong mười phương mà tán thán Đức Phật:

        - Lành thay! Lành thay! Phật Thế Tôn diễn nói về vô biên hạnh nguyện của Bồ tát, đem lại lợi ích an lạc cho tất cả chúng sinh, bỏ thân phàm phu, chứng nhập Phật địa. Nay chúng con trong hải hội đại chúng này, v́ nhằm báo ân Phật, không tiếc thân mạng và v́ các chúng sinh nên xin vào khắp các quốc độ, phân biệt diễn nói pháp vi diệu này cùng thọ tŕ, đọc tụng, chép viết, truyền bá, khiến cho diệu pháp này không bị đoạn tuyệt. Kính xin Đức Như Lai tối tôn rủ ḷng hộ niệm!

        Bấy giờ, đại hội nghe diệu pháp ấy thảy đều đạt được lợi ích lớn, vô số Bồ tát không thể kể xiết đều chứng ngộ được ngôi Bất thoái và tất cả trời, người đều được lợi lạc thù thắng; cho đến tất cả hữu t́nh trong năm cơi cũng dứt bỏ được các trọng chướng, có được vô lượng sự an vui và đều sẽ đạt được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Phẩm 13: CHÚC LỤY

        Bấy giờ, Đức Thích Ca Mâu ni Như Lai bảo Bồ tát Văn Thù Sư Lợi và vô số đại chúng trong hải hội:

        - Ta ở trong vô lượng ức trăm ngàn đại kiếp, không tiếc thân mạng, đầu mắt, tay chân, máu thịt, xương tủy, cả đến vợ con, đất nước thành quách, tất cả ngọc báu, có ai lại xin, Ta đều đem bố thí, đồng thời tu tập trăm ngàn hạnh khổ khó làm, chứng được pháp môn Tâm địa quán của Đại thừa này. Nay, Ta đem pháp này phó chúc cho các ông, các ông nên biết kinh rất sâu rộng này, các bậc đạt được Thập lực vô thượng trong mười phương ba đời đều tuyên thuyết. Kinh báu nhiệm mầu tối cực như thế, làm cho hữu t́nh được mọi sự lợi lạc. Trong tam thiên đại thiên thế giới, quốc độ chư Phật trong mười phương này, có vô biên các loại hữu t́nh, chúng sinh trong bàng sinh, ngạ quỷ, địa ngục, do nhờ sức uy thần, công đức thù thắng của kinh Đại thừa Tâm Địa Quán này, mà khiến cho họ thoát khỏi các khổ năo, được hưởng sự an vui. Diệu lực của kinh và phước đức khó nghĩ bàn như thế, làm cho đất nước sở tại được mọi sự vui thịnh, không có oán địch. Ví như có người được ngọc Như ư để trong nhà, th́ có thể sinh ra tất cả vật dụng đem lại an vui kỳ diệu; kinh báu nhiệm mầu này cũng như thế, hay làm cho quốc giới được an lạc vô tận. Cũng như cái trống Mạt-ni trên cơi trời Tam thập tam thiên, hay phát ra trăm ngàn âm thanh, làm cho Thiên chúng ở đấy luôn thọ hưởng sự vui thích lợi lạc; trống pháp của kinh này cũng như thế, hay làm cho quốc giới được an vui tối thắng. Do nhân duyên ấy, đại chúng các ông nên an trụ trong sức nhẫn lớn lao mà lưu thông kinh này!

        Khi ấy, Bồ tát Văn Thù Sư Lợi bạch Phật:

        - Bạch Đức Thế Tôn, Đức Như Lai hiếm có! Đấng Thiện Thệ hiếm có! Nên Ngài mới nói ra kinh Đại thừa Tâm Địa Quán nhiệm mầu sâu rộng này, đem lại lợi ích rộng lớn cho người tu hành Đại thừa. Dạ, bạch Thế Tôn, kinh này thật là sâu nhiệm! Vậy, nếu có thiện nam, thiện nữ nào thọ tŕ kinh này, cho đến chỉ một bài bốn câu kệ, thời những người như thế được bao nhiêu phước?

        Đức Thế Tôn báo Bồ tát Văn Thù Sư Lợi:

        - Nếu có thiện nam, thiện nữ nào trong hằng hà sa Tam thiên đại thiên thế giới đầy dẫy bảy báu mà họ dùng đem cúng dường chư Phật ở mười phương; họ v́ mỗi một Đức Phật tạo lập một tinh xá bằng bảy báu trang nghiêm, đặt để đồ cúng dường Phật và Bồ tát đủ hằng sa kiếp; các Như Lai kia c̣n có vô lượng đệ tử Thanh văn, họ cũng đem cúng dường các vị ấy tất cả những đồ cần dùng, như cúng Phật không khác. Các Đức Phật và các vị Thanh văn như thế sau khi nhập Niết bàn, họ lại xây bảo tháp lớn, cúng dường xá lợi. Lại có thiện nam, thiện nữ nào tạm nghe và tin, hiểu một bài kệ bốn câu trong kinh Tâm địa này, phát tâm Bồ đề, thọ tŕ, đọc, niệm, giảng giải, viết chép, cho đến hết sức ít là v́ một người mà nói cho họ nghe, đem những công đức cung dường trên kia, so sánh với công đức thu được về việc thuyết kinh này, thời trong mười sáu phần kia cũng không bằng một phần này và cho đến toán số, thí dụ cũng không thể sánh kịp được, huống là người thọ tŕ, đọc tụng tu tập đầy đủ và rộng răi v́ người mà giảng nói, thời chỗ phước lợi đạt được không thể hạn lượng được.

        Nếu có nữ nhân phát tâm Bồ đề, thọ tŕ, học tập, viết chép, giảng nói kinh Tâm Địa này, th́ nữ nhân ấy chỉ phải làm thân nữ lần cuối cùng này thôi, sau đấy không phải chịu thân nữ nữa và không phải đọa vào nẻo ác cùng tám nạn. Và thân trong đời này cảm được mười phước thắng lợi:

1. Thọ mạng tăng thêm.

2. Trừ mọi bệnh năo.

3. Diệt trừ nghiệp chướng.

4. Phước đức trí tuệ tăng bội.

5. Không thiếu tiền của.

6. Da dẻ tươi đẹp.

7. Được người yêu kính.

8. Được con hiếu dưỡng.

9. Quyến thuộc ḥa mục

10. Tâm thiện bền vững.

        Này Văn thù sư lợi, ở nơi này, nơi khác, nếu ai hoặc đọc tập, hoặc phúng tụng, hoặc giảng nói, hoặc viết chép kinh này thời chỗ để quyển kinh này tức là tháp Phật, tất cả Thiên, Nhân, Phi nhân... nên đem những đồ châu báu quư nhất trong nhân gian, thiên thượng mà cúng dường nơi ấy. V́ sao? V́ nơi để kinh sách này tức là có Phật, Bồ tát, Duyên giác, Thanh văn ở đó. Sao vậy? V́ tất cả Như Lai do tu hành kinh này, bỏ thân phàm phu, chứng được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, tất cả Hiền thánh cũng đều từ kinh này mà được giải thoát.

        Này Văn Thù Sư Lợi, sau khi Ta nhập Niết bàn năm trăm năm, lúc chánh pháp sắp diệt, nếu có Pháp sư nào thọ tŕ, đọc tụng, giảng nói, biên chép kinh Tâm Địa này, là kinh đứng đầu trong mọi kinh, thời Pháp sư ấy cùng với Ta không khác. Nếu có thiện nam, thiện nữ nào cúng dường, tôn trọng vị Pháp sư ấy, tức là cúng dường tất cả chư Phật trong mười phương ba đời và phước đức được hưởng đều b́nh đẳng không khác. Thế gọi là “Chân pháp cúng dường Như Lai”và như thế gọi là “hạnh cúng dường” chánh đáng nhất. V́ sao thế? V́ vị Pháp Sư ấy ở trong thời không có Phật, v́ chúng sinh trong đời ác trược bị tà kiến vây bủa mà diễn nói Tâm Địa Kinh Vương rất sâu rộng này, khiến cho chúng sinh ĺa bỏ ác kiến, đi về đạo Bồ đề cùng truyền bá rộng răi, làm cho giáo pháp này an trụ lâu bền tại thế gian. Như thế gọi là “Vô tướng hảo Phật”, tất cả hàng trời, người đều nên cúng dường. Nếu có thiện nam, thiện nữ nào chắp tay cung kính vị Pháp sư ấy, th́ Ta thọ kư cho quả vị Vô thượng Đại Bồ đề và người ấy sẽ được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

        Nếu người được nghe kinh Tâm Địa này, v́ báo bốn ân, phát tâm Bồ đề, hoặc tự ḿnh viết, hay mượn người viết, hoặc đọc niệm thông suốt, th́ chỗ được phước đức của những người như thế, đem sức trí tuệ của Phật mà lường tính là nhiều hay ít cũng không thể biết được đến đâu là biên giới! Những người ấy là con người thực của chư Phật. Tất cả chư Thiên, Phạm vương, Đế Thích, Tứ đại Thiên vương, năm trăm quyến thuộc Ha-lỵ-để-mẫu, Nễ-la-bạt-đa đại quỷ thần vương, Long thần tám bộ, tất cả các quỷ thần nghe pháp ngày đêm, không rời và sẽ thường ủng hộ. Phật tử như thế luôn tăng trưởng Chánh niệm, cùng Biện tài vô ngại và thường thường giáo hóa chúng sinh, khiến họ vun trồng nhân Phật.

        Này Văn Thù Sư Lợi, thiện nam, thiện nữ như thế khi sắp mất, hiện tiền được thấy chư Phật mười phương, ba nghiệp không loạn, bắt đầu có được mười thứ nghiệp thân thanh tịnh. Những ǵ là mười?

1. Thân không thọ khổ.

2. Con ngươi nơi mắt không lộ.

3. Tay không lay động.

4. Chân không co, duỗi.

5. Tiểu tiện không rỉ ra.

6. Thân thể không toát mồ hôi.

7. Dáng bên ngoài đều b́nh yên.

8. Nắm tay xoè mở.

9. Nét mặt không đổi.

10. Quay nghiêng dễ dàng.

        Do năng lực của kinh mà có những tướng như thế!

        Thứ nữa được mười thứ nghiệp ngữ thanh tịnh. Những ǵ là mười?

1. Nói ra lời nói nhiệm mầu.

2. Nói ra lời nói dịu dàng.

3. Nói ra lời nói tốt đẹp.

4. Nói ra lời nói thích nghe.

5. Nói ra lời nói tùy thuận.

6. Nói ra lời nói lợi ích.

7. Nói ra lời nói có uy đức.

8. Nói ra lời nói không trái với họ hàng.

9. Nói ra lời nói trời, người đều yêu kính.

10. Nói ra lời khen ngợi lời Phật dạy.

        Lời nói thiện như thế, đều do nơi kinh này mà được!

        Sau nữa, được mười thứ nghiệp ư thanh tịnh. Những ǵ là mười?

1. Không sinh giận bực.

2. Không mang ḷng kết hận.

3. Không sinh tâm tham lam keo kiệt.

4. Không sinh tâm ghen ghét.

5. Không nói lời lỗi ác.

6. Không sinh tâm oán hận.

7. Không sinh tâm điên đảo.

8. Không tham mọi vật.

9. Ĺa bảy thứ khinh mạn.

10. Mong muốn chứng được tất cả Phật pháp, viên măn các pháp Tam muội.

        Này Văn Thù Sư Lợi, những công đức như thế, đều do từ diệu lực khó nghĩ bàn trong sự thọ tŕ, đọc tụng, thông suốt, giảng nói, biên chép kinh sách nhiệm mầu này. Kinh Tâm Địa này, trong vô lượng chốn, trong vô lượng thời, có những chúng sinh không thể được nghe, huống chi là được thấy và tu tập đầy đủ! Đại hội các ông nên nhất tâm phụng tŕ, sẽ chóng bỏ được thân phàm phu, thành tựu Phật đạo.

        Bấy giờ, Văn Thù Sư Lợi Pháp vương tử, vô lượng Đại Bồ tát, Bồ tát Trí Quang, nhiều vị Bồ tát mới phát tâm; A nhă Kiều Trần Như cùng nhiều vị Đại Thanh văn, Thiên, Long tám bộ, chúng Nhân, Phi nhân, tất cả cùng nhất tâm thọ tŕ lời Phật dạy và đều hoan hỷ, tín thọ phụng hành.

Quyển 8Hết

 

 

previous.png   back_to_top.png

[ TRANG CHỦ | KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0