佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

 TRANG CHỦ*--KINH ĐIỂN*--ĐẠI TẠNG KINH*--THẦN CHÚ*--HÌNH ẢNH*--中文*--ENGLISH

 

Q1    Q2    Q3    Q4    Q5    Q6    Q7    Q8

KINH LỤC ĐỘ TẬP

Hán Dịch: Đời Đông Ngô, Sư-Môn Khương Tăng Hội,Người Nước Khương Cư.

Việt Dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 5

Chương III: NHẪN NHỤC ĐỘ VÔ CỰC

        Thế nào gọi là Nhẫn nhục độ vô cực?

        Bồ-tát suy nghĩ sâu xa: “Thần thức của chúng sinh bị ngu si khuất lấp nên cống cao, tự đại, thường muốn hơn kẻ khác. Những sự tốt đẹp của quan tước, đất nước, sáu t́nh đều muốn riêng ḿnh giành hết. Nếu thấy người ta có th́ đâm ra ganh ghét, tham lam một cách ngu si. Trong th́ hừng hực tham lam, ganh ghét, ngoài mặt th́ sân giận bừng bừng, không biết dừng lại. Những cái đó làm cho con người say sưa điên cuồng nên măi măi ở trong cảnh tối tăm, lần hồi trong năm đường, nơi ngục Thái sơn thiêu nấu, trong nẻo ngạ quỷ, súc sinh... chồng chất không biết bao nhiêu lần khổ”.

        Bồ-tát thấy những điều đó liền hiểu ra, buồn bă than:

        -Chúng sinh do đó mà mất nước, tan nhà, hại thân mạng, diệt họ hàng. Họ sống th́ chịu những hoạn nạn ấy, chết th́ chịu khổ nơi ba đường ác. Họ phải chịu như vậy đều do không thể ôm nhẫn làm lành.

        Bồ-tát hiểu ra điều đó, liền tự thệ:

        -Ta thà chịu cái đau đớn của nước sôi, lửa bỏng, cái hoạn nạn bị băm vằm, trọn không hề sân hận, gây độc hại đối với chúng sinh. Phàm nhẫn những điều không thể nhẫn là cội nguồn của muôn phước.

Từ khi Bồ-tát biết rơ như vậy trở về sau, đời đời tu hạnh từ bi. Chúng sinh có theo ḿnh mắng chửi, đánh đập, cướp đoạt của báu, vợ con, đất nước, nguy thân, hại mạng Bồ-tát liền dùng phước đức nơi sức nhẫn của chư Phật để diệt trừ độc hại của sân giận, luôn từ bi, thương xót, t́m đến để tế độ giúp đỡ họ. Nếu chúng sinh ấy thoát khỏi tội lỗi th́ Bồ-tát lấy làm hoan hỷ.

* *

42-  Thuở xưa, có vị Bồ-tát thấy đời dơ đục, vua tôi vô đạo, bỏ chân theo tà, khó đem đạo pháp ra hóa độ, nên mới che khôn giấu bóng, ẩn thân nơi một nghĩa địa để tu tập hạnh nhẫn. Trong nghĩa địa có con trâu nghé, Bồ-tát thường lấy phân và nước tiểu của nó làm đồ ăn, thức uống kéo dài mạng sống. Dung mạo đen xấu, mọi người đều gớm ghiếc, người trong nước thấy ngài thường bảo nhau:

        -Đất này có quỷ.

        Nh́n thấy Bồ-tát không ai là không thóa mạ, lại ném cả đất đá nữa. Nhưng Bồ-tát không mảy may giận dữ, c̣n lấy tâm Từ thương xót:

        -Khổ thay! V́ những người này không hiểu biết kinh Phật nên làm những việc ác ấy.

        Bèn thề:

        -Khi ta thành Như Lai Vô Sở Trước Chánh Chân Giác Đạo, ta quyết độ hết họ.

        Bồ-tát thực hành pháp Nhẫn độ vô cực đă nhẫn nhục như vậy.

* *

43-  Thuở xưa, có vị Bồ-tát tên là Thiểm, thường mang ḷng Từ rộng lớn thấm nhuần khắp chúng sinh, thương xót hạng ngu muội không thấy ba ngôi báu, bèn đem cha mẹ ḿnh vào ở trong chốn núi đầm. Cha mẹ tuổi đă cao, đôi mắt lại mù ḷa, nên Thiểm lấy làm thương xót, khổ sở, nói ra rơi nước mắt. Đêm đêm, ông thức dậy ba lần để chăm sóc, hàn huyên, hạnh chí hiếu tỏa đức thơm lừng trời đất. Thần đất, rồng biển, người trong nước... đều hay biết. Ông phụng thờ Phật, làm mười điều thiện, không giết hại chúng sinh, không nhặt của rơi trên đường, giữ trinh không cưới vợ, các họa của thân đều dứt sạch. Nói hai lưỡi, nói lời ác độc, nói dối, nói thêu dệt, khen chê tà vạy... lỗi nơi miệng cũng đều diệt hết. Những dơ bẩn trong ḷng như ganh ghét, sân giận, tham lam, tâm cấu uế... cũng đều tịch tịnh cả. Ông tin làm thiện được phước, làm ác mang họa, lấy cỏ tranh làm lều, lấy rơm rác làm chiếu, thanh tịnh vô dục, chí như vàng trời. Trong núi có suối chảy, giữa ḍng sen mọc, quanh bờ trái cây ngon ngọt đầy khắp. Sớm dậy đi hái quả, chưa từng dành phần trước, ḷng nhân từ ấy thấu xa, cầm thú gần gũi cậy nhờ.Một hôm, ông Thiểm đi lấy nước về cho cha mẹ dùng th́ gặp phải lức vua nước Ca-di vào núi săn bắn. Nhà vua giương cung lắp tên bắn hươu nai núi, nhưng lại nhầm trúng vào ngực Thiểm. Chất độc của mũi tên hoành hành, đau đớn không thể tả. Ông ngoái trông hai bên, rồi khóc kêu lớn:

        -Ai đă dùng một mũi tên mà giết chết ba đạo sĩ? Song thân ta tuổi cao, lại đều bị mù ḷa, một ngày không có ta, chắc đều phải mất mạng.

        Lại cất tiếng than:

        -Voi chết v́ ngà, tê giác chết v́ sừng, chim thúy chết v́ lông... ta đây không ngà, không sừng, cũng không lông rực rỡ th́ v́ cái ǵ mà chết?

        Nhà vua nghe tiếng kêu thảm thương, liền xuống ngựa, hỏi:

        -Nhà ngươi làm ǵ trong núi sâu?

        Đáp:

        -Tôi đem cha mẹ vào ở trong núi này để từ bỏ sự dơ bẩn của cuộc đời, tinh tấn tu học đạo lớn.

        Nhà vua nghe Thiểm thưa, nghẹn ngào rơi nước mắt, càng đau đớn thương xót ông, nên nói:

        -Ta là kẻ bất nhân, tàn hại sinh mạng loài vật, lại c̣n giết chết người con chí hiếu.

        Rồi cất tiếng than thở:

        -Sao lại đến nỗi này?

        Quần thần lớn nhỏ không ai là không nghẹn ngào. Nhà vua lại nói:

        -Ta đem cả nước để cứu mạng ngươi. Xin chỉ chỗ song thân ngươi ở, ta muôn đến để tạ tội.

        Ông Thiểm nói:

        -Nhân theo lối nhỏ này, đi đến chỗ kia không xa thấy một lều cỏ, cha mẹ tôi ở trong ấy. Xin nhà vua v́ tôi nói với song thân: tôi từ đây xin vĩnh biệt, những năm tháng c̣n lại xin thận trọng, không nên luyến nhớ.

Thiểm nói rồi lại càng đau xót, chốc lát th́ mất. Nhà vua cùng quân sĩ lại một lần nữa thổn thức. Họ t́m theo đường đă chỉ đến đúng chỗ cha mẹ ông Thiểm ở. Nhà vua đi có nhiều người theo, tiếng cỏ cây sột soạt, cha mẹ Thiểm nghi là có người lạ, lên tiếng hỏi:

        -Người nào đi đó?

        Nhà vua đáp:

        -Là vua nước Ca-di.

        Cha mẹ Thiểm nói:

        -Nhà vua đến đây rất tốt, nhà chỉ có chiếu cỏ xin ngài nghỉ mát, có quả ngọt để ngài dùng, con tôi đi lấy nước sắp về ngay đây.

        Nhà vua thấy cha mẹ ông ấy đem ḷng thương đợi con về, lại nghẹn ngào lần nữa. Nhà vua gọi họ bảo:

        -Ta thấy hai đạo sĩ đă thương đợi con về, ḷng ta xót đau không lường, ông Thiểm con của đạo sĩ bị ta bắn chết rồi.

        Cha mẹ Thiểm kinh hăi nói;

        -Con tôi v́ tội ǵ mà giết nó thế? Tánh khí của nó nhân từ, đạp đất c̣n sợ đất đau. Nó có tội ǵ mà nhà vua giết nó?

        Nhà vua nói:

        -Quả thật con ông là một người con chí hiếu, là một bậc thượng hiền, ta săn bắn hươu nai, nhầm trúng ông ấy thôi.

        Cha mẹ Thiểm nói:

        -Con tôi đă chết! Chúng tôi biết sẽ nương vậy vào đâu, hôm nay chắc phải chết thôi. Xin đại vương đưa giúp hai mạng già chúng tôi đến chỗ thi thể của con, quyết gặp lần cuối, hầu chết được chung mồ. Nhà vua nghe lời nói ấy, càng thêm xót thương, rồi đích thân dẫn cha mẹ Thiểm đến chỗ xác chết. Người cha lấy tay sờ lên đầu gối, người mẹ th́ ôm lấy chân con trai, hôn chân con thành tiếng, cả hai đều dùng tay sờ lên vết thương bị tên, đấm ngực, đập má, ngẩng đầu kêu:

        -Thần trời, thần đất, thần cây, thần nước... con ta là Thiểm đó, thờ Phật, tin Pháp, tôn kính Hiền thánh, hiếu thuận song thân, ḷng nhân từ rộng răi hơn hết, thấm nhuần đến cả cỏ cây.

        Rồi họ lại nói:

        -Nếu xét thấy con ta ḷng thành phụng Phật, chí hiếu thấu đến trời cao, th́ tên phải được nhổ ra, độc hại được tiêu trừ, con được sống lại, làm tṛn cái hạnh chí hiếu ấy. C̣n nếu hạnh của con không được như vậy, lời của cha mẹ không thành th́ xin được chết theo luôn để cùng làm tro đất một thể!

        Trời Đế Thích, Tứ đại Thiên vương, Thần đất, Rồng biển, nghe lời thảm thương của cha mẹ Thiểm, đều tin lời nói ấy, ai ai cũng động ḷng. Trời Đế Thích hóa thân xuống gọi song thân Thiểm bảo:

        -Người con chí hiếu ấy ta có thể làm sống lại được.

        Rồi ngài dùng thần dược của trời rót vào miệng Thiểm, bỗng nhiên ông được sống lại. Cha mẹ và Thiểm, vua cùng quần thần tháp tùng đều vui buồn lẫn lộn, thảy cùng bậc khóc. Nhà vua nói:

        -Do đức hạnh thờ Phật, chí hiếu, nên mới được như thế. Rồi vua ra lệnh cho quần thần từ nay về sau thúc đẩy dân chúng phải thờ phụng Phật và mười đức lành, tu theo hạnh chí hiếu của Thiểm.

        Cả nước đều làm theo, sau đấy nước giàu dân mạnh, nên được thái b́nh. Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

        -Ta đời đời phụng thờ hạnh chí hiếu của chư Phật, đức cao, phước thịnh, nên đạt Bậc Thiên Trung Thiên, một ḿnh qua lại ba cơi, ông Thiểm lúc ấy là thân Ta, c̣n quốc vương là A-nan, cha,của Thiểm là cha Ta hôm nay, bà mẹ ấy nay là Xá Diệu mẹ Ta, trời Đế Thích là Di-lặc.

        Bồ-tát thực hành pháp Nhẫn độ vô cực đă nhẫn nhục như vậy.

* *

44-  Thuở xưa, Bồ-tát lúc làm Phạm chí, tên là San-đề-ḥa, sống tại núi đầm, ngồi thiền bên gốc cây, dùng trái rừng, nước suối làm đồ ăn thức uống. Tâm cấu nhiễm được gột sạch, ở chỗ vắng lặng, sáu căn rộng tỏ, biết được hết mọi thứ. Hương thơm trí tuệ tỏa lừng tám hướng và trên dưới. Mười phương các Đức Phật, Duyên giác, Ứng nghi, cùng Thánh chúng không ai là không khen ngợi. Phạm vương, Đế Thích, Tứ thiên vương, rồng biển, thần đất... sớm chiều cung kính chắp tay cúi đầu, vâng theo đúng cách, ủng hộ nước ấy, gió mưa thuận thời, ngũ cốc được mùa, độc hại tiêu trừ, tai ương diệt hết, vua tôi giàu thịnh.

        Vua nước này tên là Ca-lê vào núi săn bắn, đuổi theo hươu nai, t́m dấu chân chúng. Khi đi qua trước chỗ Bồ-tát, nhà vua hỏi đạo sĩ:

        -Dấu thú qua đây, chúng về hướng nào?

        Bồ-tát im lặng suy nghĩ: “Chúng sinh luôn bị rối loạn chỉ v́ thân mạng, ham sống sợ chết, ḷng ta nào có khác! Giả như ta chỉ cho nhà vua th́ là bạo ngược, giết hại bất nhân, tội đồng với vua. C̣n ta nói không thấy th́ là nói dối gạt”. Ḷng cảm thấy xấu hổ, nên cúi đầu không nói. Nhà vua liền nổi giận, bảo:

        -Người ăn mày đáng chết! Ta là bậc chí tôn trong một nước mà hỏi ngươi không trả lời c̣n giả vờ cúi đầu ư?

        Nước kia có lệ cho khảy móng tay là không nói.

        Bồ-tát buồn bă, khảy móng tay nói “không biết”. Bèn nói rơ với vua là ḿnh không thấy.

        Vua bảo:

        -Dấu chân thú qua đây mà nói rằng không thấy, th́ với thế lực lớn của nhà vua không giết ông được ư?

        Bồ-tát nói:

        -Tôi xin nghe theo lời vua.

        Nhà vua hỏi:

        -Ông là ai vậy?

        Đáp:

        -Tôi là người nhẫn nhục.

        Vua nổi giận rút kiếm chém cánh tay phải. Bồ-tát nghĩ: “Chí ta chuộng đạo pháp, không tranh với đời, mà ông vua này c̣n dùng dao hại ta, huống ǵ là đối với dân chúng! Ta nguyện khi thành Phật sẽ trước độ ông ấy, để cho chúng sinh khỏi bắt chước theo những hành vi độc ác.”

        Nhà vua lại hỏi:

        -Ông là ai?

        Đáp:

        -Tôi là người nhẫn nhục.

        Vua lại chặt cánh tay trái của Bồ-tát. Rồi cứ một lần hỏi là một lần chặt một bộ phận nơi thân thể. Vua chặt chân, cắt mũi, cắt tai..., máu chảy như suối, đau đớn vô lượng. Trời đất v́ việc này mà chấn động, mặt trời liền tối sầm lại. Bốn Đại thiên vương đều kịp thời đến, giận dữ đồng thanh nói:

        -Tên vua này tàn ác hết mực, thật không ai bằng!

        Rồi họ nói với đạo sĩ.

        -Không phải bận ḷng, chúng tôi sẽ giết bỏ tên vua này, cả vợ con, cùng tiêu diệt luôn cả nước để nêu rơ cái ác của hắn.

        Đạo sĩ đáp:

        -Mấy ông nói ǵ thế? Cái tai ương này là do đời trước không vâng theo lời dạy của Đức Phật, đă gia hại ông ấy. Do đó làm ác th́ họa theo như bóng theo h́nh. Xưa gieo trồng ít mà nay gặt hái nhiều. Ta nếu thuận theo ư của các vị th́ họa như trời đất, phải nhiều kiếp chịu tội lỗi, há có thể hết được sao?

        Chúng dân thấy có biến vội vàng chạy đến, nhận lỗi, đồng thanh nói:

        -Đạo sĩ ở đây, ân lớn giúp đỡ khắp đất nước, tai ương qua hết, dịch bệnh tiêu trừ, mà ông vua này quá ư ngu si không biết phải trái, không rồ nẻo tới lui, mà giết hại đức Thánh! Cúi xin Thánh nhân đừng đem chúng con, tâu lên Thượng đế!

        Bồ-tát đáp:

        -Vua đem điều ác vô cùng làm khốn khổ thân ta, nhưng ḷng ta vẫn thương xót như mẹ hiền thương con. C̣n chúng dân đây th́ đâu có lỗi ǵ mà ta oán họ! Nếu c̣n nghi ngờ th́ các ngươi cầm cánh tay của ta đă bị chặt đem lại đây.

        Dân chúng cầm lấy, th́ ḍng sữa vọt ra. Bồ-tát nói:

        -V́ ta có nỗi xót thương của người mẹ hiền nên nay bằng chứng ấy đă hiện ngay đây.

        Dân chúng thấy được bằng chứng rộng lớn, không ai là không vâng theo lời dạy và vui mừng lui về.

        Bồ-tát có người em, cũng đă thấy được nguồn đạo, đang ở tại một núi khác, dùng Thiên nhăn nh́n thấu suốt, thấy Trời, Thần, Quỷ, Rồng hội nhau bàn bạc về cái ác của vị vua kia, không ai là không phẫn nộ. Sợ người anh ḿnh có chỗ tổn hại đến tâm đức nên dùng thần lực đi đến chỗ người anh, hỏi:

        -Những vết thương ấy có đau đớn lắm không?

        Bồ-tát đáp:

        -Không sao! Nếu em muốn rơ về bằng chứng của ta th́ hăy lấy tay, chân, tai, mũi rời ra đó sắp vào chỗ cũ. Nếu nó liền lại th́ niềm tin của ta đă hiện rơ.

        Người em nối các thi thể của anh, tức th́ chúng đă liền lại. Người anh nói:

        -Niềm tin về ḷng Từ bi rộng khắp của ta đến nay đă hiện rơ.

        Thần trời, Thần đất không ai là không vui mừng, cúi đầu khen ngợi, rồi khuyến khích dắt dẫn nhau lập chí tu hạnh cao, thọ giới mà lui về.

        Từ đó về sau mặt trời mặt trăng, không c̣n ánh sáng, năm sao cũng hết thấy dạng, yêu quái dẫy đầy, thời tiết khô hạn, ngũ cốc khan hiếm, dân chúng khốn khổ đều đem ḷng oán thán vị vua. Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

        -Ông San-đề-ḥa khi ấy là thân Ta, người em là Đức Di-lặc, nhà vua nay là La-hán Câu-lân.

        Bồ-tát thực hành pháp Nhẫn độ vô cực đă nhẫn nhục như vậy.

* *

45-  Ngày xưa, có vị Bồ-tát sinh vào một gia đ́nh nghèo. Gia đ́nh nghèo này không nuôi, bèn bọc trong tấm áo lót, chờ đến tối vắng người, đem bỏ ở ngă tư đường với một ngàn đồng tiền đặt trên đầu. Tục của nước này lấy ngày hôm ấy là ngày lành, cả nước tổ chức lễ hội. Người quân tử, kẻ tiểu nhân đều theo từng loại tổ chức ăn uống, vui chơi. Có một Phạm chí tham gia buổi hội vui, khen:

        -Vui thay! Những người dự hội hôm nay, riêng có kẻ như lúa canh gạo trắng thuần không chút lẫn lộn, mùi hương thơm phức. Nếu ngày này mà ai sinh được con trai, hay con gái th́ đă quư lại hiền.

        Ngồi trong buổi hội này, có một vị Lư gia cô độc không con nối dơi, nghe lời nói ấy th́ mừng thầm, liền sai người đến khắp các ngă tư t́m đứa con nào bị bỏ rơi. Kẻ đi t́m hỏi người qua đường:

        -Có thấy đứa trẻ nào bị bỏ rơi không?

        Người đi đường đáp:

        -Có một người mẹ góa nhận về nuôi rồi.

        Người đi t́m, lần đến nhà bà lăo th́ gặp được đứa bé. Ông ấy nói với bà lăo:

        -Nhà chủ của tôi giàu có mà không con nối dơi, nếu bà đem đứa bé này đến giao lại th́ sẽ được nhiều của báu.

        Bà mẹ nói:

        -Được.

        Rồi bà giữ lại tiền, đưa đứa bé đến để kiếm của cải. Bà mẹ được của cải như ư muôn. Lư gia nuôi đứa bé được vài tháng th́ người vợ có thai, ông nói:

        -Ta v́ không có con nối dơi nên mới nuôi đứa bé khác họ này. Nay trời trao cho ta con nối ḍng th́ nuôi nó làm ǵ nữa.

        Rồi ông bọc đứa trẻ trong cái áo lót, đang đêm đem bỏ nơi cái giếng cạn. Bầy dê nhà ban ngày hay tựu về đó cho đứa bé bú, người chăn dê đi t́m th́ thấy có đứa bé, liền than:

        -Thượng đế v́ sao làm rơi đứa bé ở đây?

        Rồi ông mang nó về nuôi bằng sữa dê. Lư gia biết được, vặn hỏi:

        -V́ sao ngươi trộm sữa?

        Người chăn dê thưa:

        -Tôi được đứa con rơi của trời nên lấy sữa để nuôi.

        Tứ tánh buồn bă, hối hận, đem đứa trẻ về nuôi, được vài tháng th́ vợ sinh một con trai, niệm ác lại dấy, ông cũng làm như lần trước, lấy áo lót bọc đứa trẻ rồi đem đặt vào trong vết bánh xe. Đứa trẻ tâm tư nghĩ đến Phật và Tam bảo, ḷng thương hướng về cha mẹ. Rạng ngày sau có hàng trăm thương nhân đi qua con đường ấy, trâu dừng lại không chịu bước tới, một thương nhân đến xem xét thử v́ sao, th́ thây một đứa trẻ, cả kinh nói:

        -Con của vua trời v́ sao lại ở chỗ này?

        Ông liền bồng đứa bé vào trong xe th́ trâu liền tiến nhanh như nước chảy. Đi tới phía trước chừng hai mươi dặm, họ dừng trâu nghỉ ngơi. Có một bà mẹ cô độc thưa với vị thương nhân xin đứa trẻ đề giúp đỡ bà lúc tuổi già cùng khốn. Vị thương nhân liền cho bà. Người mẹ này nuôi đứa bé chưa được bao lâu th́ Tứ tánh lại hay được, áy náy nói:

        -Ta đến nỗi bất nhân tàn hại đức trời thế ư!

        Rồi ông lại lấy của báu đến xin đem đứa bé trở về nhà ḿnh, nghẹn ngào tự trách, nuôi dưỡng hai đứa trẻ như nhau. Nuôi được khoảng vài năm, ông thấy đứa bé trí tuệ kỳ lạ biến hóa dọc ngang, th́ niệm ác lại nảy sinh, nghĩ:

        -Đứa bé này thông minh quá đỗi, con ta chắc thua! Không nên để nó làm ǵ!

        Ông lại bọc nó bằng áo lót, đem vào núi bỏ trong bụi trúc, không cho ăn, ất phải chết. Đứa bé ấy ḷng Từ niệm:

        -Ta sau này được làm Phật, quyết sẽ tế độ mọi đau khổ của chúng sinh.

        Gần núi có một lạch nước, đứa trẻ tự sức ḿnh rung lay theo trúc rơi xuống đất, lần hồi ḅ đến bên bờ nước kia. Cách lạch nước lối hai mươi dặm, có một đám khiêng người chết và đông đảo người đi lấy củi, thấy xa xa có đứa trẻ, họ kéo đến xem và than:

        -Thượng đế làm rơi đứa con ḿnh xuống đây ư?

        Rồi họ bồng về nuôi dưỡng. Tứ tánh hay được cũng lại ân hận như trước, rồi đem của quư báu đến, buồn khóc xin rước về. Ông dạy cho đứa trẻ về sách lư số, ngẩng xem thiên văn, cúi xem quẻ bói... học thuật của các đạo, hễ qua mắt đứa bé th́ liền giỏi ngay. Bẩm tánh nó lại nhân, hiếu, lời nói ra liền trở thành giáo hóa, dẫn dắt mọi người, cả nước tôn xưng là Thánh, kẻ có học khắp nơi kéo về. Người cha lại sinh niệm dữ, tánh ác càng nặng. Trước nhà cách thành bảy dặm, có một người thợ đúc. Muốn mưu giết đứa trẻ, ông Tứ tánh viết thư báo với người thợ đúc:

        “Xưa nuôi đứa trẻ này làm con. Từ khi nó vào trong nhà ta th́ bệnh tật liên miên, của cải hao tổn, gia súc chết nhiều. Quan thái bốc đoán: Đứa trẻ đă đem tới tai vạ ấy. Thư này đến th́ hăy bắt lấy nó ném vào trong lửa ngay”.

        Đối với đứa trẻ th́ ông giả vờ nói:

        -Ta nay tuổi đă xế bóng, lại thêm bệnh nặng, vậy con hăy đến nhà người phường đúc, kê tính rơ tiền bạc, châu báu, đó là tài sản trọn đời của con.

        Đứa trẻ vâng lời ra đi. Đến trong cửa thành, nó thấy em cùng với bọn trẻ đang chơi tṛ bắt trái bồ đào, đứa em nói:

        -Anh đến thật may cho em quá! Anh hăy v́ em đánh thắng bọn nó đi.

        Anh nói:

        -Cha sai anh đi có việc! Em nói:

        -Để em đi cho!

        Rồi nó giật lấy thư đi đến nhà phường đúc. Người phường đúc theo lời trong thư, bắt đứa bé ném vào lửa. Ḷng người cha nôn nao lo sợ, bèn sai người đi t́m đứa trẻ. Người nhà thấy đứa anh, hỏi:

        -Em đâu rồi?

        Đứa anh cứ như thật trả lời, rồi nó về nhà nói lại sự việc. Người cha vội lấy ngựa đuổi theo, đến nơi th́ con ḿnh đă ra tro rồi. Người cha vật ḿnh kêu trời, tức khí uất nghẹn, trở thành phế tật. Ông lại sinh ư độc ác, nói:

        -Ta giờ đă không người nối dơi, th́ chẳng cần để đứa bé ấy làm ǵ, giết phứt đi cho rồi.

        Người cha có một ṭa lâu đài cách kinh thành lối một ngàn dặm, nhân đó sai đứa bé đi, bảo:

        -Ông đó đă làm tiêu tán tài sản của ta, vậy con đến nơi ấy tính xem, nay ta cho con ṭa lâu đài ở đấy, có một phong thư khằn kín bằng sáp ong, con mau đi gấp!

        Trong thư người cha ngầm dặn:

        -Đứa trẻ này đến liền lấy đá buộc vào lưng rồi d́m xuống vực sâu.

        Đứa trẻ nhận lệnh, cỡi ngựa thong thả ra đi. Được nửa đường, đứa trẻ gặp một Phạm chí ở xa, vốn cảm phục người cha, thường qua lại hỏi nhau về sách cổ. Vị Phạm chí này có một người con gái, rất hiền lành, thông minh, biết tường tận về chuyện lành dữ, coi thiên văn, bói toán.... Đứa trẻ đến chỗ Phạm chí ở, nghĩ: “Cha ta với Phạm chí là chỗ thân quen, ta nên nghỉ lại nơi đây”. Rồi gọi người đi theo bảo:

        -Ta muốn qua đó chào hỏi ông Phạm chí, có nên không?

        Người đi theo nói:

        -Tốt.

        Liền đi qua hầu thăm. Ông Phạm chí vui mừng, nói:

        -A! Con trai anh ta đến kia!

        Ông bèn cho gọi các học sĩ, nho sinh, những bậc kỳ lăo, đạo cao đức trọng cùng đến hội họp, yến tiệc vui chơi. Họ cùng nhau hỏi han các việc c̣n thắc mắc, không ai là không thỏa thích. Trọn ngày,hết đêm, ai nấy đều mệt mỏi, ngủ say. Người con gái trộm nh́n người con trai, thấy ngay lưng có mang một phong thư, bèn lén mở lấy đem về, đọc được lời trong thư th́ buồn bă, than:

        -Yêu quái nào đây, nỡ giết hại người con trai nhân từ thế này? Nàng liền xé phong thư ấy viết lại thư khác, rằng: “Tuổi ta đă xế bóng, bệnh nặng ngày một khốn đốn, ông Phạm chí kia với ta là chỗ thân quen. Con gái ông đă hiền lại thông minh, nay thật xứng đôi với con ta. Hăy sắm đầy đủ lụa là, châu báu, làm sính lễ. Xin lo cho thật tốt tiểu lễ dạm hỏi này, c̣n lễ cưới, ngày cưới, th́ căn cứ vào lời dặn nơi thư này”. Viết thư xong, nàng phong kín để lại như cũ.

        Rạng ngày, người con trai lên đường, Phạm chí, các nho sĩ không ai là không đến khen ngợi. Người ở lâu đài được thư vâng lệnh sẩm đủ lễ vật đến nhà ông Phạm chí. Vợ chồng ông Phạm chí bàn nhau:

        -Phàm về chuyện hôn nhân th́ trước hết phải chọn người đi hỏi tên xem tuổi, nếu bên ấy đă sắm đầy đủ lễ vật th́ ta mới nhận lời. Nay bên trai không có mai mối lại đem sính lễ đến, phải chăng họ xem thường ta?

        Rồi trở vào nằm nghỉ, lại nghĩ: “Từ xưa trai gái làm bạn trăm năm với nhau đều như thế. Hơn nữa trai hiền, gái trinh gặp nhau cũng khó”. Bèn nhận lễ vật, họp cả chín họ lại, đều vui mừng nói: Đây là niềm vinh dự truyền đời.

        Lễ cưới đă xong, người ở lâu đài vội báo tin cho Tứ tánh biết. Nghe được việc này, bệnh của Tứ tánh càng nặng thêm. Đứa trẻ nghe cha bệnh, nghẹn ngào nói:

        -Ôi! Mạng sống khó bảo toàn, đúng là như huyễn, không thật! Vị Phạm chí muốn chọn ngày tốt mới cho trở về, ḷng Bồ-tát đau đớn nên không nghe theo lời ông ấy, bèn đem cả vợ vội trở về, đến nơi lên nhà cúi đầu lạy cha. Vợ t́m đến bái lạy, khóc rũ rượi, cứ ba bước lại một lần bái lạy, rồi xưng tên:

        -Con là vợ của con trai cha đó. Cha mẹ đặt tên con là ... phải phụng thờ tổ tiên, làm kẻ nâng khăn sửa túi, tận t́nh giữ lễ, hết ḷng hiếu kính, cầu xin đại nhân bệnh lành, phước đến, giữ măi tuổi thọ không chết, cho con thỏa ḷng, có được cái đức của người con dâu hiếu thảo.

        Ông Tứ tánh kết giận, uất nghẹn mà chết. Bồ-tát thương xót lo việc tông táng đầy đủ, t́nh nghĩa đậm đà. cả nước đều khen là hiếu. Đám tang xong ngài dốc tu hành, tiếng thơm xông tỏa mười phương.

        Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

        -Đồng tử ấy là thân Ta, vợ là Câu-di, c̣n ông Tứ tánh là Điều-đạt.

        Bồ-tát thực hành pháp Nhẫn độ vô cực đă nhẫn nhục như vậy.

* *

46-  Thuở xưa, Bồ-tát làm đại quốc vương, thường đem bốn thứ tâm để nuôi dưỡng, hộ tŕ chúng sinh, tiếng tăm vang động xa gần, không ai là không khen ngợi. Người cậu làm vua ở một nước khác, tánh t́nh tham lam không biết hổ thẹn, lấy hung tàn làm sức mạnh, các bậc Khai sĩ đều than trách. Bồ-tát mang ḷng nhân huệ của trời đất, c̣n ông cậu th́ chuyên dối trá, vu khống, chê bai, tạo mối hiềm khích, để dấy binh muốn đoạt nước của Bồ-tát. Bồ-tát cùng quần thần đều nói:

        -Thà làm kẻ giữ đạo nhân của trời mà nghèo, chứ không thèm làm giống sài lang mà sang giàu.

        Dân chúng th́ nói:

        -Thà làm loài vật của người hữu đạo, c̣n hơn làm dân của người vô đạo.

        Rồi họ tuyển chọn vơ sĩ, bày binh, bố trận. Quốc vương lên đài quan sát quân t́nh, khóc lóc, nước mắt chảy quanh cổ, nói:

        -V́ ta, chỉ một thân này mà hủy hoại hàng triệu mạng dân. Mất nước khó phục hồi, thân người khó giữ được, ta trốn đi xa th́ cả nước được yên, sẽ không có ai bị hoạn nạn!

        Nhà vua cùng nguyên phi bỏ nước ra đi. Người cậu vào cai trị nước ấy, lấy tham tàn làm quốc sách, giết hại kẻ trung trinh, tin dùng kẻ nịnh hót, độc hại. Chánh sự hà khắc, dân t́nh khốn khổ, oán than đẩy dẫy. Họ ca ngợi, nhớ nghĩ đến vua cũ, như người con hiếu luôn canh cánh bên ḷng về cha mẹ ḿnh.

        Bây giờ, vua và nguyên phi đang ở nơi núi rừng. Biển có một con rồng tà, mê sắc đẹp của nguyên phi, nên hóa làm một Phạm chí, giả bộ chắp tay, cúi đầu ngồi yên lặng suy nghĩ, giống như lúc đạo sĩ tư duy thiền định. Nhà vua nh́n thấy, ḷng hớn hở, ngày ngày đi hái trái cây cúng dường. Con rồng ŕnh chờ nhà vua đi khỏi, trộm gắp lấy vương phi mang đi, đem về chỗ cư trú ở biển. Đường nó đi là một lối tắt kẹp giữa hai ngọn núi. Núi có chim lớn, giương cánh chận lôi đi, cùng với rồng đánh nhau. Rồng dùng sẩm sét đánh xệ cánh bên phải của chim, nên thoát được đem nguyên phi trở về biển. Nhà vua hái quả trở về, không thấy người phi của ḿnh, bùi ngùi nói:

        -Ta kiếp trước làm chuyện sai trái, nay tội vạ xảy ra mau thế ư?

        Rồi cầm cung, mang tên, đi qua khắp ngọn núi để t́m kiếm nguyên phi. Thấy có một ḍng suối đầy, lầm t́m theo đến tận nguồn th́ gặp một con vượn lớn đang buồn thảm. Nhà vua thương xót hỏi:

        -Ngươi sao buồn vậy?

        Vượn đáp:

        -Tôi cùng với người cậu họ hợp nhau làm vua. Cậu dùng thế mạnh đoạt hết người của tôi. Chỉ biết than thở chứ c̣n biết kiện ai. C̣n ông nay sao lại phiêu bạt đến núi này?

        Bồ-tát đáp:

        -Ta cùng ngươi có nỗi buồn như nhau. Nhưng ta lại mất người phi chưa biết nàng ở đâu?

        Vượn nói:

        -Ông giúp tôi chiến đấu giành lại quân sĩ của tôi, tôi sẽ v́ ông t́m lại nàng phi cho. Thế nào rồi cũng t́m được thôi.

        Nhà vua đồng ư nói:

        -Được.

        Rạng ngày, con vượn cùng cậu nó đánh nhau. Vua lấy cung lắp tên vào, cánh tay và đùi vế đang ở vào tư thế giương cung bắn. Con vượn cậu từ xa trông thấy sợ run lên, vội t́m đường chạy trốn. Đám quân của vua vượn đều quay trở lại. Vua vượn liền ra lệnh cho chúng:

        -Người phi của vua người lạc mất tại núi này, các ngươi phải tỏa ra t́m cho cùng khắp.

        Bọn vượn đều ra đi, gặp con chim bị đau ở cánh, chim hỏi:

        -Các ngươi đi t́m cái ǵ vậy?Đáp:

        -Vua trời bị mất nguyên phi, chúng tôi đi t́m bà ấy.

        Chim nói:

        -Con rồng đă bắt trộm bà ấy rồi. Thế lực ta không bằng hắn, nên hiện nay hắn đang ở bẽn cồn lớn, trong biển cả đó.

        Nói xong th́ chim chết. Vua vượn đốc suất chúng vượn theo đường tắt đến biển. Đang buồn lo không biết làm sao để vượt biển, th́ trời Đế Thích hóa làm con vượn thân bệnh ghẻ lở, tiến đến thưa:

        -Nay muốn vượt biển, quân sĩ đông nhiều như thế sao lại lo không đến được cồn kia. Nay hăy ra lệnh ai nấy đều vác đá lấp biển, có thể làm thành núi cao th́ không những chỉ thông đến cồn kia mà thôi.

        Vua vượn liền phong cho nó làm giám sát, điều khiển bọn vượn. Theo kế hoạch ấy vác đá lấp biển thành công, bọn vượn qua được biển, bao vây cồn ấy trùng điệp. Rồng tung mù độc, bọn vượn bị bệnh đều ngă lăn ra đất. Hai vua buồn bă, con vượn nhỏ lại thưa:

        -Cứ để con làm chúng khỏi bệnh, khỏi nhọc đến Thánh ư.

        Nó liền dùng thuốc trời truyền vào trong mũi chúng, bọn vượn hắt hơi rồi đứng lên, sức mạnh vượt hơn trước. Rồng liền nổi gió mây che tối cả mặt trời, chớp ḷa sáng biển, đột nhiên nổi trận lôi đ́nh chấn động trời đất. Vượn nhỏ nói:

        -Vua người bắn giỏi, chỗ trắng lóa đó tức rồng đấy, nên buông tên trúng vào chỗ ấy để trừ hung ác, đem lại phước cho dân, các Thánh không hề trách đâu.

        Chờ khi sấm sét, nhà vua buông tên trúng ngay ngực rồng. Rồng bị bắn chết, bọn vượn khen tốt, vượn nhỏ rút khóa nhà rồng, mở cửa đem vị phi ra. Trời, quỷ đều vui mừng. Hai vua trở về núi cũ, cùng nhau từ tạ, nhún ḿnh nhường nhau. Trong lúc đó, ông vua cậu chết không có con nối dơi, thần dân vội vàng đi t́m kiếm vua cũ, đến chỗ núi non hiểm trở kia th́ vua tôi gặp nhau, cùng thương khóc trở về. Vua cũ lên làm vua, sáp nhập luôn nước của cậu vào, hàng triệu dân vui mừng, tung hô vạn tuế. Nhà vua ra lệnh đại xá, thi hành chính sách khoan thứ, ḷng dân hân hoan, vừa đi vừa mỉm cười. Vua nói:

        -Đàn bà xa chồng, đi riêng chỉ một đêm thôi mà mọi người c̣n nghi ngờ dị nghị, huống ǵ nàng đi cả hai tuần! Nàng nên trở về lại nhà nàng cho hợp với lễ nghi xưa.

        Nguyên phi nói:

        -Tôi tuy ở trong hang loài vật dơ bẩn, nhưng cũng như hoa sen ở nơi bùn lầy. Nếu lời tôi thành thật đáng tin th́ xin đất chỗ này nứt rễ.

        Lời vừa dứt th́ đất nứt toác ra. Nguyên phi nói:

        -Ḷng thành tín của tôi đă hiện rơ rồi đấy.

        Nhà vua nói:

        -Hay thay! Sự trinh khiết ấy là hạnh của bậc Sa-môn.

        Từ đó trong nước, người buôn bán th́ nhường lợi, kẻ sĩ th́ từ chối địa vị, người hào hiệp có thể nhịn kẻ tiện, kẻ mạnh không lăng nhục kẻ yếu. tất cả là nhờ đức của vua. Đàn bà dâm đăng cải đổi thành tiết hạnh, dù nguy hiểm đến tánh mạng vẫn giữ trinh tiết, kẻ lừa dối chuộng trung tín, đứa xảo ngụy giữ ḷng ngay thật... tất cả là nhờ đức cảm hóa của nguyên phi.

        Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

        -Quốc vương khi đó là thân Ta, nguyên phi là Câu-di, người cậu là Điều-đạt, Thiên đế Thích là Di-lặc.

Bồ-tát thực hành pháp Nhẫn độ vô cực đă nhẫn nhục như vậy.

* *

47-  Thuở xưa, Bồ-tát thân làm con vượn, sức quản bầy nhỏ, minh triết hơn người, thường mang ḷng Từ rộng lớn cứu vớt chúng sinh. Một hôm, leo cây hái trái, vượn thấy trong hang núi có người bị rớt xuống đấy không thể tự lên được, suốt ngày khóc thương, kêu trời xin được sống. Nghe tiếng kêu bi ai, vượn rơi nước mắt, nghĩ: “Ta thề dốc thành Phật là v́ những chúng sinh như thế. Nay nếu không đem được người này ra khỏi hang th́ anh ta sẽ chết. Ta phải t́m cách xuống hang cơng hắn ra.” Vượn liền xuống hang tối, bảo người ấy tựa vào ḿnh, rồi níu vịn cỏ leo lên núi, đặt vào chỗ đất bằng, chỉ đường cho hắn, rồi nói:

        -Tại đây ngươi đi được rồi, từ nay về sau phải thận trọng, không nên làm điều ác.

        Đem người ra khỏi hang mệt nhọc quá, nên vượn nằm lăn ra nghỉ. Người ấy nghĩ: “Ở trong hang bị đói khát, nay ra ngoài cũng vậy, nào có khác ǵ đâu!”. Ḷng hắn nghĩ phải giết con vượn này ăn thịt, để cứu mạng ḿnh, chẳng phải là nên lắm sao! Rồi hắn dùng đá đập vào đầu vượn, máu tuôn đỏ cả đất. Vượn đang nằm cả kinh thức dậy, leo vội lên cây, nhưng ḷng không ư giận, c̣n từ bi thương xót cho người đă mang ḷng ác độc. Rồi vượn tự nghĩ: “Sức ta không thể độ được, xin nguyện đời sau thường gặp được chư Phật, tin theo đạo giáo và tu hành theo đó để được độ, đời đời chớ có niệm ác như người này.”

        Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

        -Con vượn là thân Ta, c̣n người ở trong hang là Điều-đạt.

        Bồ-tát thực hành pháp Nhẫn độ vô cực đă nhẫn nhục như vậy.

* *

48-  Thuở xưa, Bồ-tát cùng A-nan đều có tội phải làm thân rồng. Một con rồng nói:

        -Ta với anh cùng ở trong biển, không chỗ nào là không trông thấy, nay chúng ta có thể lên đất liền dạo chơi chăng?

        Một con đáp:

-Người ở trên đất liền hay dấy ḷng ác, nếu gặp phải chuyện bất thường th́ ḿnh không thể thoát ra.

        Rồng nọ lại nói:

        -Hay ta hóa làm rắn nhỏ! Nếu đường không người th́ ta t́m đường lớn đi chơi, gặp người th́ trốn, nào lo sợ ǵ?

        Cả hai đều đồng ư, liền lên đất liền dạo chơi. Ra khỏi biển chưa bao lâu, giữa đường gặp con rắn hổ ngậm độc. Con rắn hổ thấy hai con rắn nhỏ th́ niệm ác phát sinh, ḷng muốn đến hại, liền phun bọt độc vào hai con rắn nhỏ. Một con rắn nảy ư muốn dùng thần oai giết chết con rắn hổ kia. Một con th́ tâm Từ nhịn nhục, can ngăn:

        -Phàm là kẻ cao sĩ th́ phải xá cho bọn ngu dại chứ. Phải nhẫn được điều không thể nhẫn được, đó mới là đại giới chân chánh của Phật. Liền nói kệ:

        Tham dục làm điên dại

        Không có ḷng nghĩa nhân

        Ganh ghét muốn hại Thánh

        Chỉ lặng nhẫn là yên.

        Ai phi pháp khổng tuân

        Trong ḷng không thương xốt

        Tham ác hại bố thí

        Chỉ lặng nhẫn là yên.

        Người phóng dật không giới

        Khốc hại mang ḷng ác

        Không vâng thuận đạo đức

        Chỉ lặng nhẫn là yên.

        Quên ân không đền đáp

        Giả vờ làm dối nịnh

        Ấy là ngu sỉ quá

        Chỉ lặng nhẫn là yên.

        Một con rắn th́ ca tụng đức nhẫn nhục, nói kệ để nêu bày đủ nghĩa lư, c̣n một con th́ cung kính thọ tŕ nên không hại con rắn hổ độc kia. Một con rắn nói:

        -Thôi chúng ta trở về biển, nên chăng?

        Rồi cùng nhau đồng ư ra về, trổ oai thần làm chấn động cả trời đất, nổi mây sa mưa, rồng thiên biến hóa làm sáng rực cả vùng biển, người quỷ đều kinh hăi. Con rắn hổ kinh hoàng sợ hăi, chết giấc không biết, bảy ngày bỏ cả ăn uống.

        Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

        -Con rồng muốn hại con rắn độc lúc bấy giờ là ông A-nan, con rồng nói pháp nhẫn là thân Ta, c̣n con rắn hổ ngậm độc là Điều- đạt.

        Bồ-tát đời đời tu hành nhẫn nhục. Tuy ở loài cầm thú mà không hề quên hạnh ấy.

        Bồ-tát thực hành pháp Nhẫn độ vô cực đă nhẫn nhục như vậy.

* *

49-  Thuở xưa, có đất Nước tên là Ma-thiên-la, vị vua tên là Nan, học thông thần minh, không chỗ tối nào là không thấy. Biết rơ cơi đời là vô thường, nên nói:

        -Thân ta rồi sẽ mục nát làm phân bón cho đời, th́ đất nước làm sao giữ măi được!

        Bèn từ bỏ vinh hoa dục lạc, mặc pháp phục của bậc Đại sĩ, một bát ăn là đủ, thọ giữ giới luật của Sa-môn, lấy núi rừng làm chỗ ở đă ba mươi năm. Ớ mé rừng cây, có cái hầm, hầm sâu những ba mươi trượng. Một hôm, có tên thợ săn vội đuổi bắt hươu bị rơi vào hầm. Cùng lúc, có con quạ và một con rắn do kinh sợ nên bị rơi xuống đấy, thân thể đều bị thương, cùng khốn đốn cả. Cả ba ngửa mặt lên trời kêu khóc, tiếng than thật bi ai, thê thảm. Vị đạo sĩ nghe bùi ngùi, dùng lửa soi thấy chúng nước mắt ràn rụa, đến bên hầm bảo:

        -Các ngươi đừng buồn, ta sẽ cứu các ngươi khỏi nạn lớn này.

        Đạo sĩ liền làm một sợi dây treo tḥng xuống để chúng leo lên. Ba người, vật hoặc ngậm bằng miệng, hoặc nắm bằng tay, đều được cứu toàn mạng, tất cả cúi đầu lạy tạ ân đạo sĩ, nói:

-Mạng sống chúng tôi như ngọn đuốc leo lét trước gió, đạo sĩ nhân từ rộng khắp vô lượng, nên hôm nay chúng tôi mới c̣n nh́n thấy ánh mặt trời. Xin nguyện trọn đời này chu cấp mọi thứ ǵ ngài c̣n thiếu thốn để báo đền ân sâu trong muôn một.

        Vị đạo sĩ nói:

        -Ta là quốc vương nước lớn, dân nhiều, cung báu, thể nữ... đứng trên các nước, cầu ǵ có ngay, muốn ǵ chẳng được. Nhưng ta cho đất nước là hang oán thù, cho sắc, thinh, hương, vị, y phục phô trương, niệm tà là sáu lưỡi kiếm chặt đứt thân ta, lạ sáu mũi tên bắn vào mạng ta. Do sáu thứ tà này mà phải luân chuyển chịu khổ khốc liệt trong ba đường, khó nhẫn, khó kham, nên ta rất chán mới bỏ đất nước để làm Sa-môn, nguyện chứng được Bậc Như Lai Vô sở Trước Chánh Chân Giác Đạo Tối Chánh Giác Đạo Pháp Ngự Thiên Nhân Sư, để giáo hóa dẫn dắt chúng sinh khiến họ trở về với cội nguồn của ḿnh, há chỉ cứu có ba các ngươi thôi sao? Các ngươi trở về nơi ở cũ, gặp người thân của ḿnh th́ hăy khiến họ quy y ba ngôi báu, không làm trái điều Phật dạy.

        Tên thợ săn nói:

        -Tôi sống ở đời nhiều năm, tuy thấy các nho sĩ tích đức làm thiện nhưng há có ai như đệ tử của Đức Phật, quên ḿnh cứu người, ở ẩn mà không nêu danh ư! Nếu đạo sĩ có đi khất thực, nguyện xin ngài đến nhà để tôi cúng dường.

        Quạ nói:

        -Con tên là Bát, nếu đạo sĩ gặp nạn th́ xin gọi tên là con vội vàng đến ngay.

        Rắn nói:

        -Con tên là Trường, nếu đạo sĩ gặp hoạn nạn ǵ th́ xin gọi tên là con nhất định đến để đền ân.

        Nói xong lời từ biệt, chúng đều lui về hết. Một ngày kia, đạo sĩ đi đến nhà người thợ săn. Tên này từ xa trông thấy đạo sĩ đến th́ nói với vợ:

        -Người tới kia là kẻ chẳng lành, nếu ta có bảo làm cơm th́ cứ thong thả mà nấu nướng, lăo ấy quá ngọ là không ăn nữa.

        Người vợ thấy đạo sĩ đến làm ra vẻ vồn vă, giả bộ lưu lại để đăi cơm, nhưng rồi cứ ngồi đó nói chuyện suông đến quá ngọ, đạo sĩ bèn cáo lui ra về. Đến núi thấy quạ, gọi tên Bát, con quạ hỏi:

        -Ân nhân đi đâu về?

        Đáp:

        -Từ nhà thợ săn về.

        Quạ hỏi:

        -Ngài đă ăn ǵ chưa?

        Đáp:

        -Hắn làm cơm chưa xong th́ đă quá ngọ rồi, không đúng giờ ăn nên ta đành lui về.

        Quạ nói:

        -Đồ quỷ tội lỗi, hung ác! Gặp nạn, người ta đem ḷng Từ cứu vớt cho, vậy mà trái nhân, bội ân, là tội hung nghịch lớn nhất. Con không có đồ ăn thức uống để cúng dường, xin ngài hăy nán ngồi lại đây, con đi giây lát sẽ trở về.

        Rồi nó bay đến nước Bàn-già, vào hậu cung của nhà vua thấy hoàng hậu nằm ngủ, trong các bảo vật trang sức trên đầu có hạt ngọc minh nguyệt, quạ liền gắp lấy rồi vội bay về, đem dâng lên cho đạo sĩ. Phu nhân của vua thức dậy t́m không thấy ngọc, liền tâu lên vua. Nhà vua ra lệnh cho thần dân, ai t́m được th́ thưởng cho vàng, bạc, mỗi thứ một ngàn cân, trâu ngựa mỗi loài một ngàn con, nếu ai t́m được mà không đem dâng th́ bị tội diệt cả ḍng họ.

        Đạo sĩ được ngọc rồi đem cho tên thợ săn. Tên thợ săn liền bắt ngài trói lại đem đến tâu với vua. Nhà vua hỏi:

        -Ngươi được ngọc này từ đâu?

        Vị đạo sĩ thầm nghĩ: “Nếu ta nói thực ra th́ loài quạ trên cả đất nước đều bị chết hết. C̣n nếu nói trộm lấy được th́ không phải là đệ tử Phật”. Rồi ngài nín lặng chịu mọi sự tra khảo, bị đánh đập hàng ngàn gậy, không chút oán vua, cũng không hề thù tên thợ săn, chỉ khởi tấm ḷng Từ rộng lớn, thề nguyện:

        -Nguyện được làm Phật để cứu độ hết khổ của chúng sinh.

        Nhà vua bảo:

        -Đem chôn sống đạo sĩ, chỉ chừa cái đầu để ngày mai sẽ chém.

        Lúc này đạo sĩ mới gọi tên con rắn:

        -Trường ơi!

        Con rắn thầm nói:

        -Thiên hạ không ai biết tên ta, chỉ có đạo sĩ thôi! Nay đă tiếng gọi tên th́ ắt phải có chuyện ǵ đấy.

        Nó vội vàng chạy đến th́ thấy đạo sĩ bị hoàn cảnh như thế. Nó cúi đầu hỏi:

        -V́ sao ngài phải đến nỗi này?

        Vị đạo sĩ thuật lại đầy đủ sự việc như trên. Rắn rơi nước mắt nói:

        -Ḷng nhân từ của đạo sĩ như trời đất mà c̣n bị tai họa, huống chi kẻ vô đạo th́ có ai giúp đỡ được? Trời nhân từ không oán! Ông vua này chỉ có thái tử là con duy nhất, không ai nối dơi. Con sẽ vào cung cắn chết thái tử, ngài dùng thần dược của con truyền cho thái tử là khỏi ngay.

        Đêm đến, rắn ḅ vào cung cấn chết thái tử, nhà vua cho quàng xác ba ngày và ra lệnh:

        -Ai cứu sống được thái tử ta sẽ chia nước mà cai trị!

        Rồi chở thái tử vào núi để hỏa táng, đường đi qua bên cạnh chỗ chôn đạo sĩ. Đạo sĩ hỏi: •

        -Thái tử bệnh ǵ mà đến nỗi phải chết? Hăy khoan hỏa táng, ta có thể làm cho thái tử sống lại được.

        Kẻ tùy tùng nghẽ nói, vội về tâu lên vua. Nhà vua buồn vui lẫn lộn, ḷng lại càng xót thương, nói:

        -Ta sẽ xá tội và chia nước cho ngươi làm vua!

        Đạo sĩ đem thuốc truyền vào thân thái tử, thái tử bỗng đứng lên nói:

        -Tại sao ta lại ở đây?

        Kẻ tùy tùng thưa rơ đầy đủ nguyên nhân. Thái tử trở về, trong cung lớn nhỏ đều vui mừng, nhảy múa. Nhà vua chia nước ban cho, đạo sĩ một mực từ chối. Nhà vua sực tỉnh nghĩ ra:

        -Chia nước c̣n không nhận th́ há có việc trộm ngọc báu ư?

        Nhà vua hỏi:

        -Ngài là người nước nào? V́ sao lại làm Sa-môn? Ngọc này ngài có được từ trường hợp nào? Hạnh cao như thế bỗng mắc phải hoạn nạn này là do từ đâu?

        Đạo sĩ liền thuật rơ hết cả đầu đuôi. Nhà vua thương xót khóc, nước mắt đầy cả mặt. Rồi vua cho gọi tên thợ săn đến nói:

        -Nhà ngươi có công lao với nước, hăy cho gọi hết bà con đến đây, ta muốn ban thưởng trọng hậu.

        Người thân của tên thợ săn bất kể lớn nhỏ đều kéo nhau đến cửa cung. Nhà vua nói với họ:

        -Bất nhân, bội ân, đứng đầu các tội ác, hăy giết hết chúng đi.

        Từ đó đạo sĩ vào núi học đạo, tinh tấn không mệt mỏi, sau khi mạng chung được sinh lên cơi trời.

        Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

        -Vị đạo sĩ khi đó là thân Ta, con quạ là Thu Lộ Tử, con rắn là A-nan, tên thợ săn là Điều-đạt, c̣n vợ tên thợ săn là con gái của Hoài Bàn.

        Bồ-tát trải ḷng nhân độ vô cực, đă thực hành nhẫn nhục như vậy.

* *

50-  Thuở xưa, vua nước Câu-thâm tên là úc-ca-đạt, nước ấy rộng lớn, dân chúng đông đúc, vua dùng pháp chánh trị nước, không ép uổng muôn dân. Nhà vua có hai người con, một trai, một gái, trai tên là Tu-đạt, gái tên là An-xà-nan, đều giữ hạnh thanh tịnh, nhà vua rất yêu quư, xây cho ao tắm bằng vàng để hai con vào tắm. Trong ao có con rùa tên là Kim, mù một mắt cũng ở trong nước đùa giỡn, chạm phải thân hai đứa trẻ, khiến chúng cả kinh hét lớn. Nhà vua hỏi nguyên do, chúng đáp:

        -Trong ao có con ǵ chạm phải, làm chúng con sợ.

        Nhà vua nổi giận:

        -Ao là để cho bọn trẻ tắm. Con ǵ vào ở được khiến con ta kinh sợ!

        Rồi vua ra lệnh quăng lưới bắt lấy. Quỷ rồng, kỳ quái đều phải bắt cho được hết.

        Phường chài tóm được rùa. Nhà vua nói:

        -Phải giết như thế nào đây?

        Bầy tôi, hoặc có người nói:

        -Chặt đầu.

        Hoặc có người thưa:

        -Thiêu sống.

        Hoặc có người bảo:

        -Chặt khúc ra nấu canh.

        Một vị bề tôi tâu:

        -Giết như thế chưa phải là ghê gớm. Chỉ việc đem ném nó vào sông lớn, đó mới gọi là ghê gớm.

        Rùa cười thầm:

        -Chỉ có thế mới là ghê gớm chăng!

        Nhà vua sai đem ném rùa vào sông to. Con rùa thoát chết, vui mừng chạy vội đến chỗ long vương, tự thưa bày rơ:

        -Vua người ức-ca-đạt có con gái đẹp đẽ, đoan chánh, sánh ngang Thiên nữ, nhưng ḷng vua c̣n so đo. Đại vương muốn đem cô gái ấy cùng với vua rồng kết làm vợ chồng.

        Vua rồng hỏi:

        -Người nói thật không?

        Rùa thưa: Thật như thế đấy.

        Vua rồng thết đăi rùa một bữa tiệc lớn, toàn dùng đồ vật báu. Rùa nói:

        -Nên sớm sai hiền thần ra đi, vua tôi muốn biết được quyết định của ngài.

        Vua rồng liền sai mười sáu vị hiền thần theo rùa đến dưới thành của nhân vương. Rùa nói:

        -Các ngươi dừng ở đây, để ta đến tâu lên vua trước.

        Rồi rùa liền trốn đi mất, không trở lại nữa. Mười sáu hiền thần đều tức giận, lo lắng, cùng vào thành yết kiến đức vua. Nhà vua hỏi:

        -Các rồng đến làm ǵ?

        Họ đáp:

        -Xin thiên vương nhân huệ tiếp bọn thần. Nghe đức vua muốn cho quư nữ làm phi vua chúng tôi, nên vua của chúng thần sai đến để nghinh đón.

        Vua nghe liền nổi giận nói:

        -Con gái của vua người đâu có thể gá nghĩa với loài rồng rắn?

        -Đại vương đă sai rùa thần đến truyền mệnh lệnh kia mà. Chúng thần chẳng phải đến suông.

        Nhà vua không chịu hứa gả. Các rồng bèn biến hóa khiến cho trong cung mọi vật đều thành ảnh rồng, nhiễu ṿng quanh trước sau nhà vua. Vua sợ quá, kêu thét lên, quần thần ngạc nhiên đều đến dưới điện hỏi rơ nguyên do. Vua kể hết mọi chuyện vừa rồi. Các bề tôi đều nói:

        -Chẳng lẽ v́ một người con gái mà phải mất nước sao?

        Thế rồi vua và quần thần đi đến bờ sông tiễn đưa công chúa. Nàng về làm phi vua rồng sinh được hai con, một trai, một gái, con trai tên là Bàn-đạt. Khi vua rồng chết, con trai nối ngôi làm vua, muốn bỏ cái nhơ bẩn của sự vinh hoa nơi thế gian, học theo chí của người hạnh cao. Hàng vạn bà vợ đều t́m đi theo, chạy trốn vào nơi khó tới nhưng cũng không tránh được. Khi lên đất liền, vua rồng đến bên gốc cây Tư-lê ẩn ḿnh biến làm một con rắn khoanh tṛn mà nằm. Đêm đến th́ gốc cây kia sáng choang đèn lửa có đến mười ngọn. Ban ngày th́ mưa xuống đủ các loài hoa, màu sắc đẹp đẽ, hương thơm ngạt ngào trên đời chưa hề thấy có.

        Trong nước có một người giỏi ếm rồng tên là Pha-đồ, vào núi t́m rồng, định làm vật dùng đi kiếm sống. Gặp đứa trẻ chăn trâu, hắn hỏi có thấy rồng không? Đứa trẻ đáp:

        -Tôi thấy có một con rắn khoanh tṛn nằm dưới gốc cây kia, đêm đến trên cây có tới mười ngọn đèn lửa, ánh sáng rực rỡ, ban ngày hoa rơi như tuyết, sắc thắm hương thơm, thật khó nói hết. Tôi lấy thân ḿnh dựa vào, nó cũng không có ḷng làm hại.

        Tên thuật sĩ nói:

        -Hay thay, ta được toại nguyện rồi!

        Hắn liền dùng độc dược thoa vào răng nanh rồng, làm cho răng nanh rụng hết. Rồi hắn dùng gậy đánh rồng khiến cho da bị thương, xương bị găy tên thuật sĩ dùng tay vặn mạnh từ đầu đến đuôi làm rồng đau đớn vô cùng, nhưng ḷng rồng cũng không chút oán hận, tự cho đó là tội lỗi của ḿnh từ kiếp trước nên mới bị tai họa này. Rồng thề:

        -Xin cho ta thành Phật để cứu vớt quần sinh, khiến họ đều được an ổn, không bị như ta hiện nay.

        Tên thuật sĩ bắt rồng bỏ trong cái tráp nhỏ, tự mang đi để xin ăn. Mỗi khi đến một nước nào, hắn bắt rồng múa. Quần thần các nước không ai là không sợ hăi. Tên thuật sĩ nói:

        -Xin cho vàng bạc mỗi thứ ngàn cân, nô tỳ mỗi loại một ngàn người, voi ngựa trâu xe mỗi thứ một ngàn.

        Đến nước nào, hắn cũng thu được như vậy. Lần hồi hắn đến nước tổ phụ của vua rồng. Lúc này, mẹ và anh em của vua rồng đều đă lên đất liền để t́m kiếm, đều hóa làm chim bay nương cạnh vương cung. Lúc tên thuật sĩ đến đây, vua rồng hóa làm con rồng năm đầu vừa sắp ra múa th́ thấy anh em và mẹ nên xấu hổ rụt trở lại không ra múa nữa. Tên thuật sĩ gọi năm, sáu lần, rồng vẫn cúi đầu. Mẹ rồng hiện lại h́nh người, cùng với vua tương kiến, tŕnh bày đầu đuôi sự việc ấy. Nhà vua và thần dân không ai là không dấy ḷng thương xót. Nhà vua muốn giết tên đạo sĩ, vua rồng xin:

        -Hành vi kiếp trước con đă gieo th́ nay phải nhận lấy quả báo, không nên giết nó v́ như vậy chỉ thêm nặng cái oán cho kiếp sau. Cứ nên theo chỗ nó xin mà ban cho. Ḷng Từ rộng lớn như thế th́ Phật đao mới thành.

        Nhà vua liền làm gương cho các nước khác, ban cho đầy đủ những ǵ mà tên thuật sĩ ưa thích. Tên thuật sĩ được nhiều của báu, nên vui mừng rời khỏi đất nước, đến biên giới nước khác th́ gặp giặc cướp, thân mạng bị băm vằm, tài vật bị lấy sạch.

        Mẹ con rồng cùng nhà vua nói lời từ biệt:

        -Nếu đại vương nhớ đến tôi, cứ gọi tên là tôi đến ngay, không nên quá buồn bă!

        Nhà vua cùng toàn thể thần dân đều đến băi biển tiễn đưa mẹ con rồng. Cả nước thương xót không ai là không vật vă.

        Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

        -Vua rồng Bàn-đạt là thân Ta, quốc vương úc-ca-đạt là A- nan, bà mẹ vua rồng là mẹ ta ngày nay, người em là Thu Lộ Tử, người em gái là Tỳ-kheo-ni Thanh Liên Hoa, tên thuật sĩ hại rồng là Điều-đạt.

        Bồ-tát thực hành pháp Nhẫn độ vô cực đă nhẫn nhục như vậy.

* *

51- Kinh Vua Sẻ.

        Thuở xưa, Bồ-tát thân làm vua sẻ, ḷng Từ luôn cứu giúp chúne sinh, hơn cả mẹ hiền thương các con gian khổ, thân sơ b́nh đẳng, thây người thọ nhận đạo pháp th́ vui mừng như chính ḿnh làm được, thương yêu nuôi dưỡng muôn loài như tự chăm sóc vết thương nơi thân ḿnh.

        Có một con cọp ăn thịt thú vật, xương mắc vào răng, bệnh khốn sắp chết. Chim sẻ thấy thế động ḷng Từ bi, nghĩ: “Chư Phật cho ăn uống là tai họa, việc ấy quả nhiên!”. Rồi sẻ chui vào miệng cọp mổ rỉa lấy xương, cứ ngày ngày như vậy nên mỏ chim sẻ bị thương, thân thể trở nên gầy ốm. Lấy được xương ra, cọp b́nh phục lại. Chim sẻ bay lên cây nói:

        -Kinh Phật dạy rằng sát sinh là hung ngược, việc ác ấy không nhỏ. Nếu kẻ khác giết ḿnh, há vui được sao! Phải biết quên ḿnh độ người, là có tấm ḷng nhân của trời đất. Người nhân thương khắp, cứu giúp quả lành ứng liền, hung ngược giết hại chúng sinh th́ họa liền theo như bóng. Ngươi hăy ghi nhớ lời ta.

        Cọp nghe chim sẻ răn dạy, đột nhiên tức giận nói:

        -Ngươi vừa mới rời khỏi miệng ta, mà c̣n dám nhiều lời ư?

        Chim sẻ thấy không hóa độ được cọp, ḷng bùi ngùi thương xót liền vội bay đi.

        Đức Phật bảo các thầy Tỳ-kheo:

        -Vua sẻ là thân Ta, cọp là Điều-đạt. Bậc Khai sĩ đời đời có ḷng thương cứu giúp chúng sinh, lấy việc người lo lắng như tự lo cho chính bản thân.

        Bồ-tát thực hành pháp Nhẫn độ vô cực đă nhẫn nhục như vậy.

* *

52- Kinh Đến Nước Khỏa Thân

        Thuở xưa, Bồ-tát là hai anh em chú bác, đều có vốn liếng trong nước. Một lần họ đem của cải đến quê hương người khỏa thân. Người em nói:

        -Người nhiều phước th́ ăn mặc tự nhiên đầy đủ, c̣n kẻ bạc phước th́ nhờ đến sức lực của ḿnh. Nay quê hương người khỏa thân ấy không có Phật, không có Pháp, không có chúng Sa-môn, đáng gọi là đất không có người. Chúng ta đến đó tranh thủ ư của họ đâu phải là chuyện dễ. Thôi th́ vào nước họ phải theo phong tục của họ, tiến lui phải hợp nghi thức, tánh t́nh mềm mỏng, lời nói từ tôn, giấu sự sáng suốt, bày vẻ ngu dốt, ấy là lo nghĩ của bậc Đại sĩ.

        Người anh nói:

        -Lễ nghi không nên giảm bớt, đạo đức không nên thoái lui, há có thể khỏa thân để hủy hoại các nghi lễ trước của ta sao?

        Người em nói:

        -Phép tắc lớn của bậc Tiên thánh là thà mất thân chứ không mất hạnh, đó là đạo thường của giới. Trong vàng ngoài đồng để thích nghi theo thời, trước chê sau khen, đó là cái lớn của đạo quyền biến.

        Rồi họ cùng đi đến nước ấy. Người anh bảo:

        -Nay chú vào trước, xem thử sự thể thế nào rồi sai người về bảo thật cho ta.

        Người em nói:

        -Thưa vâng.

        Khoảng mười ngày th́ ông sai người về báo cho anh: “Nhất định phải theo đúng lễ nghi, phong tục của họ”.

        Người anh nói ngay:

        -Bỏ phong cách của người mà theo kiểu sống loài vật, đâu phải là hành động của người quân tử? Chú làm theo c̣n ta th́ nhất định không.

        Phong tục nước ấy th́ cứ lấy ngày rằm tháng cuối, đêm thường tổ chức vui chơi, dùng dầu mè, mỡ thấm ướt đầu, đất trắng vẽ thân, cổ đeo các loại xương, lấy hai viên đá đập vào nhau, rồi trai gái nắm tay nhau nhởn nhơ ca múa.

        Bồ-tát cũng làm theo họ, nên người trong nước đều hân hoan. Vua yêu dân kính người khách đến với ḿnh. Vua lấy hết của cải mua lại với giá thập bội. Người anh đi xe vào nước ấy, nói năng ra vẻ nghiêm túc, làm trái ḷng dân, nên vua giận dân khinh, đă đoạt hết của cải mà c̣n đánh đập nữa. Người em cầu xin măi mới được thả ra. Rồi cả hai trở về nước ḿnh. Kẻ đưa tiễn người em đầy đường, c̣n người anh th́ bị mắng rát cả tai. Người anh xấu hổ, giận nói:

        -Bọn ấy cùng chú sao lại thân, cùng ta sao lại thù? Chú th́ họ đem cho của cải c̣n ta th́ chúng đoạt lấy, há không phải do chú gièm pha ǵ sao?

        Rồi buộc đai người em, nói tiếp:

        -Từ nay về sau, đời đời hại nhau, chứ không tha chú đâu!

        Bồ-tát bùi ngùi rơi nước mắt, thề:

        -Xin cho ta đời đời gặp Phật, thấy Pháp, thân phụng Sa-môn, rộng báo đáp bốn ân, cứu giúp chúng sinh, thờ anh như chính bản thân, không hề trái lời thề này.

        Từ đó về sau người anh luôn cản trở, gây khó người em, c̣n người em th́ thường cứu giúp người anh.

        Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

        -Người em thuở ấy là thân Ta, người anh là Điều-đạt.

        Bồ-tát thực hành tâm Bi nhu ḥa độ vô cực đă nhẫn nhục như vậy.

* *

53- Kinh Sáu Năm Nhịn Đói Trả Xong Tội.

        Thuở xưa, Bồ-tát làm vua nước lớn, quy kính ba ngôi báu, phụng giữ đủ mười điều thiện, đức bao trùm gần xa, không ai là không thuận theo. Binh đao không dấy, lao ngục không có, gió mưa đúng thời, nước mạnh dân giàu, bốn phương b́nh an, trên đường không lời ta thán. Sách tà nhảm nhí cả nước không đọc, lời chân của sáu độ mọi người đều tụng.

        Bấy giờ có một người Phạm chí giữ khí tiết thanh tịnh, sống ẩn nơi núi rừng, không dự vào ṿng tục lụy, chỉ lấy việc tu đức làm chính. Một đêm kia, khát nước nên đi uống, uống nhầm nước ao trồng sen của người trong nước. Uống rồi tự nghĩ: “Người kia mua ao này lấy hoa dâng cúng chùa, đền Phật, c̣n quả th́ tự dùng. Ta uống nước ấy mà không xin chủ, tức là uống trộm. Phàm tạo cái họa ăn trộm th́ trước phải vào ngục Thái sơn, thứ đến là làm súc sinh bị mổ thịt đem ra chợ bán để đền nợ kiếp trước, rồi nếu được làm người phải chịu kiếp nô tỳ, chẳng bằng ngay đời này ta sớm trả hết, không để họa về sau”.

        Bèn đến thẳng cung vua tự cáo:

        -Tôi đă phạm tội ăn trộm, cúi xin đại vương dùng luật pháp mà trị, đền xong đời này đời sau khỏi tội.

        Nhà vua bảo:

        -Đó là nước tự nhiên, không phải là vật báu, làm ǵ có tội? Thưa:

        -Phàm mua nhà tức là có giếng, chiếm ruộng tức là có cỏ. Múc nước, cắt cỏ, không báo cho chủ là không lấy. Tôi không báo cho chủ mà uống nước, há chẳng phải là ăn trộm sao? Xin vua xét xử.

        Nhà vua nói:

        -Việc nước c̣n nhiều, ông vào vườn ngự mà chờ.

        Thái tử bảo Phạm chí vào sâu trong vườn ngồi chờ. Nhà vua v́ bận bịu công việc nên quên bang đến sáu ngày. Bỗng nhiên vua nhớ ra, hỏi:

        -Vị Phạm chí c̣n ở đó ư? Mau gọi ông ấy lại đây!

        Phạm chí giữ giới, đói khát sáu ngày, đến đứng trước mặt vua, thân thể gầy g̣, đứng dậy mà muốn ngă xuống đất. Nhà vua nh́n thấy rơi nước mắt, nói:-Lỗi ta nặng lắm!

        Hoàng hậu mỉm cười. Nhà vua sai người tắm rửa cho Phạm chí, sắm đủ các món ngon, rồi đích thân vua cúng dường, cúi đầu hối lỗi, nói:

        -Ta làm vua, để dân đói tức là ta đói, dân rét tức là ta lạnh, huống chi lại tỏ ra sơ sót đôi với bậc giữ đạo thi đức! Phước của thiện sĩ cả nước không bằng cái đức của bậc hiền giả hạnh cao. Đất nước, dân chúng, được an ổn, bốn mùa thuận hợp, lúa thóc dồi dào, nếu không phải do đức của giới hạnh th́ ai có thể làm được?

        Rồi vua nói với đạo sĩ:

        -Ưống nước không báo, tội c̣n như thế, huống ǵ là thực sự ăn trộm th́ không có tội nặng hay sao? V́ vậy, ta tha cho ngài, ắt sau không c̣n họa nữa.

        Phạm chí nói:

        -Tốt lắm, xin đội ân lớn của vua.

Từ đó về sau, luân chuyển trong cơi sinh tử không bờ. Măi đến khi sắp thành Phật, phải không ăn sáu năm, tội hết đạo thành. Do Câu-di tự giải, La-vân mới sinh ra. Thái tử bỏ nước, chuyên ở chốn núi rừng, bọn tà kiến đều cho là điên cuồng, tiếng bài báng không phải ít. Thái tử nghe được, nhịn nhục những lời chê bai ấy, dùng ḷng Từ bi tế độ để đáp lại, phước đức nhiều lên, đạo quả được thành, chư Thiên nhóm lại cúi đầu vâng theo, vua chúa, thần dân không ai là không quy mạng.

        Đức Phật bảo các thầy Tỳ-kheo:

        -Đức vua thời đó là thân Ta, phu nhân ấy là Câu-di, thái tử là La-vân. Phàm chuộng ác th́ họa theo liền, thi ân đức th́ phước về ngay, có thể không cẩn thận ư! Nhà vua quên đạo sĩ, khiến đói sáu ngày, nên phải chịu tội nhịn đói sáu năm mới dứt. Sáu ngày sau vua đích thân cúng dường, nên nay sáu năm tai ương qua rồi, đạt thành đạo quả. Câu-di mỉm cười nên nay phải mang thai La- vân sáu năm bệnh nặng. Thái tử đem Phạm chí vào ở sâu trong vườn ngự, nên phải ở sáu năm nơi chốn tối tăm. Người ngu mê muội không rơ đường đi lối về, đem tâm ác đối với Phật, Sa-môn, Phạm chí. Chặt tay, cắt mũi th́ đó chỉ khổ một đời. Dối dùng tay đánh, dùng miệng chê bai càn bậy th́ khi chết sẽ đọa vào địa ngục Thái sơn, bị quỷ kéo lưỡi ra đặt vào cát nóng, rồi đem trâu đến cày trên đó, lại c̣n dùng đinh cháy đóng lên năm vóc, muốn chết cũng không được. Họa dữ như thế, nên phải thận trọng, đừng làm theo nẻo tà vạy.

        Bồ-tát thực hành pháp Nhẫn độ vô cực đă nhẫn nhục như vậy.

* *

54- Kinh Nhà Họ Thích Hết Tội.

        Thuở xưa có Bồ-tát giữ giới hạnh thanh tịnh, tích lũy công đức, nên mới chứng được đạo quả Như Lai Vô Sở Trước Chánh Chân Giác Đạo Tối Chánh Giác. Khi đi du hóa ở nước Xá-vệ, trời, rồng, quỷ thần, vua chúa, thần dân, không ai là không theo về với ngài. Đạo tà, thuật quấy gặp thời Phật hưng thịnh, giống như trước ánh mặt trời th́ lửa đom đóm phải tàn lụi. Tham lam ganh ghét nổi lên, không thấy lửa cháy đốt mất thân, bàn mưu kết với bọn xấu xúi giục nữ đệ tử, tên là Hảo Thủ đến hủy hoại Đấng Thiên Tôn. Người trong nước những kẻ chưa hiểu được lẽ thật, có vẻ trầm ngâm ngờ vực, ḷng nghi các vị Sa-môn, vua cũng lấy làm dạ. Bọn đạo tà tham bẩn, tranh của cải tố cáo nhau. Uế trược hiện ra, tai họa theo ngay, tức thời bị phế bộ. Trinh chân chiếu rơ, người trời ngợi khen. Nhà vua đến tinh xá cúi đầu hối lỗi, do đó có ḷng hổ thẹn, nên nhờ mai mối, thưa hỏi xin được kết hôn với cô em gái Đức Phật để dứt tuyệt mối oán hờn với ḍng họ Thích. Đức Thế Tôn nói:

        -Ta đă bỏ nhà làm Sa-môn, không can dự vào việc đời, mọi chuyện cưới xin nhất nhất đều do phụ vương Ta.

        Nhà vua sai sứ giả đem lời kết thân đến kính báo. Mọi người trong họ Thích đều không chấp thuận. Vua họ Thích nói:

        -Đức Phật đang ở xứ ấy, do vậy các ông qua lại, người sáng suốt th́ không nên oán, chỉ kẻ ngu mới kết thù. Con gái ta chẳng qua là con của người thiếp hèn mọn, làm sao đủ để gây oán hận?

        Rồi nhà vua hứa:

        -Được.

        Sau đó, cuộc hôn nhân liền thành, sinh được một người con trai nối ḍng. Một hôm, người con ấy xin được gặp các cậu của ḿnh, nên đi về nước của họ Thích. Họ Thích mừng rỡ lo xây dựng tinh xá cho Phật. Họ đào đất sâu ba thước, đem hương chiên-đàn lấp đầy vào đó, gom góp các vật báu trong nước làm tinh xá cho Phật, nguy nga rực rỡ như là Thiên cung, tiếng đồn vang khắp các nước láng giềng, không ai là không náo nức, ṭ ṃ Đức Phật chưa vào ngồi trên ṭa ở tinh xá, th́ thái tử nhân dịp về thăm các cậu vào xem và nói:

        -Tinh xá này đẹp, các thứ báu lộng lẫy, chỉ có cung vua trời mới sánh được thôi.

        Lại nói:

        -Đức Phật chưa đến đây, ta được một lần ngồi lên ṭa này, dù có mất mạng cũng không ân hận.

        Thái tử có một người bạn thân tên là Đầu-khư-ma, đáp:

        -Ừ có mất ǵ đâu!

        Thái tử liền lên ṭa ngồi. Các hùng sĩ họ Thích lớn tiếng mắng: Chỗ Đức Thế Tôn ngồi, vua trời c̣n không dám, con của kẻ hèn mọn sao dám lên ṭa ngồi? Bèn phá đi để làm lại.

        Thái tử đi ra gọi người bạn, nói:

        -Nhục này không ǵ hơn. Nếu ta được làm vua, người đừng quên đây nhé.

        Người bạn đáp:

        -Hẳn nhiên.

        Trở về nước ḿnh, đ̣i mẹ muốn được làm thái tử. Người mẹ dùng lời yêu mị cầu vua, theo sở nguyện của con. Nhà vua nói:

        -Chuyện này xưa nay ta chưa từng nghe, không nên bày đặt lời rồ dại, chỉ chuốc lấy điều xấu hổ.

        Yêu độc ở bên trong, nịnh thần dùng lời lẽ khéo léo, nhà vua bèn lập hai con, chia dân để cai trị. Vua cha băng hà, hai thái tử lên ngôi lập thành hai nước, dân theo sở thích nhân từ hoặc hung bạo mà chia ḍng. Người nhân từ liền theo phụng sự người anh, kẻ hung bạo th́ vội t́m đến người em. Người bạn được vua em phong làm tướng quốc, sửa soạn chiến tranh, chuẩn bị quân đội, rồi đem chuyện cũ tâu lên. Vua nói:

        -Được.

        Rồi họ chọn binh hùng tướng mạnh xuất phát.

        Thấy Phật ngồi bên đường, cạnh gốc cây nửa khô nửa tươi, nhà vua đến cúi đầu. thưa:

        -Đức Phật sao Ngài không ngồi dưới bóng cây thuần tươi tốt, mà lại ở bên gốc cây nửa khô nửa tươi như thế?

        Đức Phật đáp:

        -Cây này tên là Thích, Ta yêu tên ấy, nên đem ḷng nhân cứu nạn cho nó, làm cho phần khô được tươi lại, cho nó sự sống trọn vẹn.

        Nhà vua bùi ngùi, trong ḷng hổ thẹn, nói:

        -Ḷng nhân từ của Phật rộng khắp, ban đến cả cỏ cây, huổng chi là người.

        Thế là nhà vua cho quân quay về. Tướng quốc ngửa mặt xem thiên văn, thấy họ Thích phước xưa đă hết, tai họa đang lên, bèn đem việc này tâu lên. Nhà vua lại xuất quân, đi chưa đến thành họ Thích, th́ nghe tiếng cung nỏ tên đạn trong thành kêu vang như gió mưa, cờ phướn dù lọng găy cán, cột đứt, giáp rách, dàn ngựa rời ra... binh sĩ ngựa nghẽo tuôn chạy, không ai là không sợ hết hồn. Nhà vua lại thâu binh chạy trở về. Người họ Thích hỏi Phật phải chống giặc ấy như thế nào? Đức Phật bảo:

        -Giữ chặt cửa ải, phế bỏ cầu hào.

        Nhà vua kia lại xuất quân. Tôn giả Mục-liên thưa Phật:

        -Con muốn đem uy lực của La-hán hóa làm lưới trời che phủ mặt thành bốn mươi dặm, vua làm ǵ được người họ Thích?

        Đức Phật nói:

        -Không làm sao khỏi tội được.

        Tôn giả Mục-liên lại nói:

        -Hay là chạy trốn sang nước khác.

        Đức Phật nói:

        -Không làm sao khỏi tội được.

        Mục-liên thưa:

        -Con có thể cứu việc hữu h́nh, chứ không thể làm ǵ để cứu tội vô h́nh sao?

        Đức Phật nói:

        -Gieo ác th́ họa sinh, ai có thể cứu được. Hăy lấy một người con của họ Thích đặt dưới bát của ta, để chứng thật điều ấy.

        Tôn giả Mục-liên làm y theo lời. Các hàng kỳ lăo họ Thích vâng lời, lo giữ cửa. Ma hóa làm kẻ quen đức độ, đến la rầy người họ Thích:

        -Giả như nhà vua mượn đường đi qua, các ngươi lại tuyệt đường ông ấy, cái ác về sau sẽ thêm nặng. Đệ tử của Đức Phật đi có được chăng?

        Ma thừa thế rút khóa mở cửa, binh sĩ tràn vào như nước ùa đê vỡ. Thích-ma-nam làm đại tướng quân, từng cùng với tiên vương của nhà vua học một thầy, đă có ước thề làm bạn sinh tử có nhau, gọi vua lại nói:

        -Hăy dừng binh sĩ hung bạo của ông trong chốc lát, để người trong thành đi ra được toàn mạng.

        Nhà vua nói:

        -Được.

        Đại tướng quân đến bên bờ hào, hướng về Đức Phật, cúi đầu rơi nước mắt, nói:

        -Đem cái mạng nhỏ của con, xin người trẻ tuổi kia, nguyện cho quần sinh trong mười phương vâng lời Phật dạy, quên ḿnh cứu người, nhuần thấm cả trời đất, không làm điều độc ác của loài chó sói, rắn hổ mang, giết người chúng sinh như ông vua vô đạo này.

        Rồi ông nhảy xuống nước, lấy tóc cột vào rễ cây, trong giây lát th́ chết. Vua sai sứ giả vào xem, sứ trở về tâu lên việc đă thấy đúng như thế. Binh sĩ vào thành đào đất chôn nửa người họ Thích, rồi đặt cây ngang cho voi kéo giết sạch hết, rồi hoặc cho ngựa giẫm, hoặc cho binh sĩ dùng dao chém. Trong khi ấy th́ Đức Phật nhức đầu, nổi đau đớn khó mà kể xiết. Phạm vương, Đế Thích, Tứ đại Thiên vương đều chắp tay đứng hầu, thấy vậy ḷng càng đau đớn. Người ḍng họ Thích, có người tự quy mạng ba ngôi báu, có người tụng kinh, có người khởi tâm Từ... Họ Thích có ba thành, việc chinh phạt chưa hết, nhà vua nhớ lại việc Thích-ma-nam sát thân để xin cứu mạng cho mọi người, nên lấy làm buồn bă, bèn băi binh quay trở về, sai sứ đến kính thưa với Phật:

        -Quân mệt nhọc, xin quay về nước nghỉ binh. Một ngày khác sẽ xin kính cẩn đến cúi đầu lễ dưới chân.

        Đức Phật dạy:

        -Cảm tạ nhà vua đă tự thương ḿnh.

        Sứ giả lui về. Đức Phật nh́n theo. Tôn giả A-nan sửa lại pháp nhục, cúi đầu bạch:

        -Phật không hề nh́n suông, ắt có nguyên do ǵ chăng?

        Đức Phật nói:

        -Họ Thích đă hết tội, c̣n nhà vua th́ tội đang đến.

        Sau đó bảy ngày, quỷ của địa ngục Thái sơn dùng lửa thiêu đốt ông và thần dân nước ấy. Tội vua đó khó cứu như họa của họ Thích khó trừ.

        Đức Phật bảo Tôn giả A-nan nâng bát, người dưới bát cũng đă chết. Đức Phật dẫn các Sa-môn đến giảng đường của Phạm chí. Đường đi qua chỗ đất các người họ Thích chết, có người đă chết, có người găy đứt chân, tay. Thấy Đức Phật đến, họ tự vả vào má ngậm ngùi.

        -Chúng con xin quy mạng Phật, quy mạng Pháp, quy mạng Thánh chúng, nguyện cho mười phương chúng sinh được an lành măi, không như bọn chúng con.

Lúc ấy, tự nhiên giường từ dưới đất hiện ra, đất không kẽ hở, các Sa-môn đều ngồi xuống. Đức Phật nói:

        -Vua này bội nghịch, gây nên tội to lớn như thế!

        Lại hỏi các Sa-môn:

        -Có ai thấy các người đồ tể, thợ săn, người chài lưới mà làm Phi hành hoàng đế không?

        Các thầy đáp:

        -Thưa không thấy.

        Đức Phật nói;

        -Hay thay! Ta cũng không thấy. Do v́ họ không có bốn thứ tâm rộng lớn, thi ân cứu giúp quần sinh.

        Nhà vua đến bên bờ hồ, quân sĩ vào hồ tắm, thần hồ hóa làm rắn độc cắn bọn họ. Chất độc làm cho thân thể bị thâm đen, hoặc có người chết ngay trong nước, hoặc có người đi được trăm bước, được một dặm rồi mới chết. C̣n được một nửa số lượng về đến nước. Quỷ dữ tụ tập ở trong cung, đêm đến tiếng người la, tiếng vật kêu, tụ lại giữ nhau, đợi sáng làm theo lệnh. Nhật nguyệt ăn nhau nên mịt mờ, tinh tú mất độ, đầu cuối khắp nước đều quái dị, không ai là không oán vua. Nhà vua nghe Phật dạy về cái kỳ lạ của lửa biến, trong ḷng nóng như nước sôi đốt, bèn sai sứ giả đến hỏi việc ấy. Đức Phật cũng nói như trên, sứ trở về tâu lại đầy đủ, cả nước chấn động, ngói gạch vỡ tan. Nhà vua hội các quần thần bàn nói:

        -Hoặc ở núi, hoặc ở cả nước.

        Họ liền quyết định ngồi thuyền vào biển, người mạnh, người giàu được đi theo, c̣n người nghèo, người ốm phải ở lại trong nước. Người trong cung vua mặc áo đẹp lên thuyền, trông xa thấy lửa bèn cởi áo, cởi viên ngọc dương toại gắn trên quần áo. Ngày hôm đó mây nổi ùn ùn, trời tối mù mịt, gió mưa lớp lớp, bè đứt thuyền trôi, thần dân đều nói:

        -Vua tối tăm làm việc bạo ngược mới bị cái họa dữ như vậy.

        Đến giữa trưa, mặt trời xuất hiện, đun nóng viên ngọc dương toại, làm phát ra lửa, bắt đầu cháy từ thuyền của vua. Quỷ thần của ngục Thái sơn nhóm hợp ầm ĩ như tiếng sấm sét liên hồi. Cả nước c̣n sống mà sinh vào địa ngục Thái sơn. Người c̣n ở lại trên bờ tuy có chút sợ hăi mà an toàn.

        Vào ngày hôm ấy Đức Phật khởi pháp định tâm Từ. Các vị Sa- môn hỏi Tôn giả A-nan:

        -Đức Phật không ra sao?

        Tôn giá đáp:

        -Nước có tang lớn, nên Phật khởi pháp định tâm từ bi nên không ra.

        Sáng sớm hôm sau, Đức Phật xuất hiện, các vị Sa-môn đều cúi đầu đảnh lễ. Đế Thích, Phạm vương, Tứ thiên vương, các rồng, thần, quỷ, Đế vương thần dân đều cung nghinh đảnh lễ rồi an tọa. Tôn giả A-nan sửa lại y phục, hỏi Đức Phật nguyên nhân họa biến của hai nước, xin Đức Phật cởi bỏ mối nghi của mọi người, để cho quần sinh hiểu rơ căn do của họa phước.

        Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:

        -Thuở xưa có ba vương quốc gần nhau. Thời đó Phật nhập diệt đă lâu, kinh điển không người tu tập, học hỏi. Nước thuận chỗ Bồ- tát sinh sống, đến chỗ có nhiều ao hồ đánh bất được vô số cá. Nước ở bên cạnh nghe được th́ vui mừng, đem tiền đến mua, nh́n cá đă hết nên buồn bă trở về, c̣n quốc gia ở xa th́ không hay biết, cũng không có ư muốn mua. Các người đánh bắt cá đó nay là ba ức người họ Thích bị chết. C̣n nước vui mừng mua cá ấy nay là những người họ Thích trong một thành sợ lính bỏ chạy mất hết của cải. Nước ở xa không nghe bắt được cá, nay là những người họ Thích trong một thành không biết vua đến. C̣n Ta khi đó, nh́n thấy đạp đầu cá mà không một lời can ngăn, nên nay dù đă thành Phật, làm Đấng Chí Tôn của ba cơi cũng c̣n không khỏi cái nạn bị đau đầu, huống ǵ người phàm! Này các đệ tử, hăy giữ ḷng ḿnh luôn đoan chánh, dấy lên đức từ bi đem lại mọi an ổn cho quần sinh, quên ḿnh cứu người, cẩn thận không sát sinh, không trộm cắp của người ta, khổng gian dâm với vợ người khác, khổng nói dố́, nói thêu dệt, nói hai lưỡi, nói lời ắc độc ganh ghét, sân si, bài báng Tam bảo, họa lớn nhất không ǵ hơn mười điều ác, cái tôn quư nhất của phước báu chỉ có mười điều lành. Giết hại vật là giết ḿnh, cứu vật là cứu ḿnh. Nhọc ḷng nghĩ ác, miệng nói lời ác, thân làm việc ác không bằng nhọc ḷng nghĩ về đạo, miệng nói lời đạo, thân làm việc đạo. Làm thiện phước theo, làm ác họa t́m, như vang đáp tiếng, như bóng đuổi h́nh. Thấy những biến hóa như thế, nên thận trọng chớ có trái với ḷng nhân từ của trời đất mà chuộng thói hung tàn của loài lang sói.

       Đức Phật nói kinh xong, bốn chúng đệ tử, Trời, Rồng, Quỷ, Thần, muôn loài đều rất vui mừng, cúi đầu đảnh lễ và lui ra.

KINH LỤC ĐỘ TẬP

Q1    Q2    Q3    Q4    Q5    Q6    Q7    Q8

KINH LỤC ĐỘ TẬP

Hán Dịch: Đời Đông Ngô, Sư-Môn Khương Tăng Hội,Người Nước Khương Cư.

Việt Dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 6

Chương IV: TINH TẤN ĐỘ VÔ CỰC

        Sao gọi là Tinh tấn độ vô cực?

        -Tinh là chuyên giữ đạo thâm diệu. Tấn là không chút biếng trễ. Nằm, ngồi, đi, đứng, hít thở... không chút xao lăng. Mắt hằng thấy phảng phất h́nh bóng linh của Phật biến hóa trước mặt ḿnh. Tai thường nghe tiếng đức chánh chân dạy bảo. Mũi ngửi mùi đạo, miệng nói lời đạo, tay làm việc đạo, chân bước trong nhà đạo, không rời bỏ chí ấy dù chỉ trong hơi thở. Thương xót chúng sinh ở măi trong đêm dài của biển nước sôi, trôi theo ḍng luân chuyển, độc hại ngày một thêm, hết đường cứu độ. Bồ-tát buồn lo cho họ như nơi người con chí hiếu bị mất cha mẹ. Nếu như con đường cứu giúp chúng sinh mà phía trước có nạn nước sôi lửa bỏng, có đao gươm, chất độc làm hại, dù phải hy sinh thân mạng, Bồ-tát vẫn hoan hỷ cứu giúp mọi hoạn nạn cho chúng sinh. Chí mong vượt khỏi sáu nẻo đường tăm lối để đạt tới cơi tươi sáng.

* *

55-  Thuở xưa, có Bồ-tát khi làm người phàm, nghe được danh hiệu, tướng tốt và đạo lực của Phật, công đức lồng lộng, chư Thiên đều ngưỡng mộ. Người theo cao hạnh th́ các khổ đều diệt. Bồ-tát luôn nhớ tưởng, than khóc không yên nói:

        -Ta làm sao được đọc tụng tu tập kinh điển của bậc Thầy trời người, phụng hành cho đến khi được thành Phật, để cứu lành bệnh của chúng sinh, khiến họ trở về với bản tánh thanh tịnh đây?

        Thời đó Phật nhập diệt đă lâu xa, không có chúng Tỳ-kheo, không biết dựa vào đâu để được nghe, thọ tŕ. Hàng xóm có một kẻ phàm phu tánh t́nh tham tàn, thấy Bồ-tát tinh tấn luyện chí, nên nói:

        -Ta biết một chương gồm ba giới của Phật, ông muốn vâng thọ không?

        Bồ-tát nghe nói ḷng mừng vô cùng, cúi đầu đảnh lễ nơi chân, quỳ mọp xuống xin nghe giới. Người biết kệ nói:

        -Đây là giáo lư tinh yếu của Đức Như Lai Vô Sở Trước Chánh Chân Giác Đạo Pháp Ngự Thiên Nhân Sư, ông muốn nghe suông, há được vậy sao?

        Bồ-tát đáp:

        -Xin cho biết nghi thức hỏi pháp, nghĩa ấy như thế nào?

        Người kia nói:

        -Nếu ngươi thật thành khẩn muốn nghe pháp, th́ nơi mỗi lỗ chân lông một kim chích vào, máu chảy thân đau mà ḷng không chút hối hận th́ giáo pháp tôn quư mới có thể nghe được.

        Bồ-tát đáp:

        -Nghe kinh Phật rồi chết, tôi cũng vui ḷng làm, huống chi chích vào thân mà vẫn c̣n sống!

        Rồi đi chợ mua kim, tự chích vào khắp thân ḿnh, máu tuôn như suối chảy. Bồ-tát vui mừng nghe pháp, chứng được pháp định dứt mọi đau đớn. Trời Đế Thích thấy Bồ-tát dốc sức luyện chí mà đem ḷng thương xót, nên hóa khiến trên toàn thân của Bồ-tát mỗi lỗ chân lông đều có một cây kim. Người kia thấy rơ chí cao cả của Bồ-tát, liền trao lời kinh:

        -Giữ ǵn miệng, nhiếp phục tâm ư, thân không phạm ác. Trừ được ba hạnh này th́ được hội nhập vào con đường Hiền thánh. Đó là giáo pháp chân chánh của các Đấng Như Lai Vô Sở Trước Chánh Chân Tôn Tối Chánh Giác đă giảng nói.

        Bồ-tát nghe giới hoan hỷ cúi đầu, ngoái nh́n th́ kim châm trên thân bỗng biến mất hết. Bóng dáng ngài sừng sững, khí lực hơn trước nhiều. Trời, Người, Quỷ, Rồng không ai là không khen ngợi. Chí tiến hạnh cao của Bồ-tát luôn nối tiếp cho đến khi thành Phật cứu vớt mọi chúng sinh.

        Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

        -Người trao kệ cho Bồ-tát nay là Điều-đạt. Điều-đạt tuy biết kệ của Phật trước, nhưng giống như người mù cầm đuốc soi cho kẻ khác mà bản thân th́ không thấy sáng, thử hỏi có ích ǵ cho ḿnh. Bồ-tát luyện chí Độ vô cực, đă hành tinh tấn như vậy.

* *

56-  Thuở xưa, Bồ-tát làm vua loài vượn, thường dẫn theo năm trăm con vượn dạo chơi. Bấy giờ gặp lúc trời khô hạn, trái cây không nhiều. Có ṭa thành của quốc vương kia, cách núi không xa, chỉ lội qua một ḍng nước nhỏ. Vượn chúa bèn dẫn bầy vượn vào vườn vua để ăn quả. Quan giữ vườn đem việc này tâu lên, nhà vua nói:

        -Hăy canh giữ cẩn thận, đừng để cho bọn chúng chạy thoát.

        Vượn chúa biết được, buồn bă, nghĩ: “Ta là đầu đàn, họa phước do ta. V́ tham cầu được quả để nuôi mạng mà làm liên lụy đến cả đàn.” Bèn ra lệnh cho đàn vượn:

        -Hăy đi khắp t́m dây leo.

        Đám vượn đem dây leo bện nối liền lại, dùng một đầu dây cột vào một cành cây lớn. Chúa vượn tự buộc đầu dây c̣n lại vào eo lưng rồi leo lên cây, lao ḿnh níu cành cây bên kia, dây ngắn nên phải duỗi xuống nối với dây, rồi ra lệnh cho đàn vượn:

        -Hăy mau nương theo dây mà qua đi.

        Đàn vượn đi qua hết th́ hai nách của vượn chúa đều đứt, rơi xuống bên bờ nước, chết giấc rồi sống lại. Sáng sớm, nhà vua đến vườn để xem xét th́ bắt được vượn chúa. Vượn nói được tiếng người nên cúi đầu tự thưa tŕnh:

        -Dă thú tham sống, cậy nhờ vào ân ích của đất nước, gặp khi trời hạn, trái cây thiếu, nên đă mạo phạm vào vườn trời, tội lỗi này là do tôi, xin xá tội cho cả đàn. Thịt hư của thây con vật này xin dâng lên thái quan làm bữa cho vua.

        Nhà vua ngửa mặt than:

        -Đầu đàn loài thú mà c̣n biết hy sinh thân mạng để cứu đồng loại, quả là có ḷng nhân của bậc Thánh hiền xưa. Ta làm vua người há có thể được như thế ư!?

        Do đó vua xúc động rơi nước mắt, bảo kẻ hầu mở trói cho vượn, đỡ ngồi yên trên đất, ra lệnh cho cả nước để đàn vượn kiếm ăn tự do, ai xâm phạm chúng th́ tội đó xem như đồng với giặc. Nhà vua trở về cung nói với hoàng hậu:

        -Ḷng nhân của vượn, hạnh của bậc hiền xưa sánh chưa bằng thế, ḷng nhân của ta chỉ như tơ tóc, c̣n của vượn kia th́ hơn cả  núi Côn Lôn.

        Hoàng hậu nói:

        -Hay thay! Con vật này thật lạ lùng. Vua nên để mặc chúng kiếm ăn tự do, đừng cho người hại.

        Nhà vua nói;

        -Ta đă ra lệnh rồi.

        Đức Phật bảo các thầy Tỳ-kheo:

        -Con vượn chúa là thân Ta, quốc vương là A-nan, năm trăm con vượn ấy ngày nay là năm trăm vị Tỳ-kheo.

        Bồ-tát luyện chí độ vô cực, luôn tinh tấn như vậy.

* *

57-  Thuở xưa, Bồ-tát thân làm nai chúa, sức lực vượt hơn đồng loại, nhân ái trùm khắp, lũ nai ái mộ theo về. Một hôm, bầy nai dạo chơi gần vườn ngự, người giữ việc chăn nuôi thấy được, tâu lên vua. Nhà vua đốc suất quân sĩ bao vây đuổi bắt. Nai chúa rơi nước mắt nói:

        -Các ngươi bị ách nạn này là do ta cả. Ta sẽ hy sinh thân ḿnh để cứu các ngươi.

        Rồi nai chúa đến bên mép lưới, quỳ hai chân trước xuống, bảo:

        -Hăy leo lên ḿnh ta nhảy ra, các ngươi sẽ được toàn mạng.

        Bầy nai làm theo lời nai chúa nên đều được khỏi chết. Riêng thịt trên thân nai chúa đều bị rách nát, máu chảy như suối, ngă xuống đất chết giấc, đau đớn khó nói hết. Cả bầy nai than khóc, quanh quẩn chẳng chịu đi. Vua người thấy thân thể nai chúa tàn tạ, máu chảy đỏ đất mà không thấy bầy nai, mới hỏi:

        -Con này sao thế?

        Nai chúa đáp:

        -Giữ tiết không tṛn nên phải nhận thân mạng làm loài thú, t́m kiếm cỏ non để bảo toàn mạng sống nhỏ hèn này, nên phạm đến cơi nước vua, tội rất nặng. Thịt trên thân tuy hết, nhưng thịt hai đùi vẫn c̣n đầy đủ, xin để thái quan làm bữa dâng vua.

        Nhà vua hỏi:-Ngươi v́ duyên cớ ǵ mà đến nỗi như vậy?

        Chúa nai tâu đầu đuôi sự việc đă xảy ra. Vua nghe qua bùi ngùi rơi nước mắt, nói:

        -Ngươi là súc sinh mà có ḷng nhân từ rộng như trời đất, hủy bỏ thân mạng ḿnh để cứu giúp đồng loại. Ta làm vua người, lại hiếu sát tàn hại các sinh vật của trời!

        Liền ban bố lệnh nghiêm, bảo cho dân chúng trong nước: từ nay cấm tuyệt việc săn bắn, không ăn thịt nai.

        Nhà vua cho người mở dây lưới, đem nai thả nơi chỗ đất bằng phẳng. Đàn nai thấy vua của chúng, thảy đều ngẩng lên trời khóc than. Rồi chúng đến trước nai chúa liếm nơi vết thương, lại chia nhau hái thuốc nhai nhỏ rịt vào thân nai chúa. Vua người thấy vậy, một lần nữa gạt lệ, nói:

        -Vua đem t́nh cha đối với con để thương yêu, nuôi dưỡng dân chúng th́ dân chúng dùng t́nh con đối với ân sâu của cha mẹ mà mến mộ vua của họ. Đạo làm vua đâu có thể bất nhân được!

        Từ đó nhà vua hết giết hại, ưa chuộng nẻo từ, trời liền độ giúp, nước giàu dân vui, xa gần đều ca tụng đức nhân, dân theo về như nước.

        Đức Phật bảo Tôn giả Thu Lộ Tử:

        -Chúa nai là thân Ta, năm trăm con nai nay là năm trăm vị Tỳ-kheo, c̣n vua trời là A-nan.

        Bồ-tát luyện chí độ vô cực, đă luôn tinh tấn như vậy.

* *

58-  Thuở xưa, Bồ-tát thân làm nai chúa tên là Tu Phàm, lông trên thân có chín màu, thật trên đời hiếm thấy. Một hôm, dạo chơi bên bờ sông, thấy có người bị ch́m đang kêu trời cầu cứu, nai thương xót, nghĩ: “Mạng người khó được, mà sắp phải mất sao! Ta thà lao vào chỗ nguy hiểm để cứu kẻ ấy”. Bèn bơi đến đó, nói: Ngươi chớ sợ! Hăy vịn vào sườn này rồi cỡi lên lưng ta, th́ sẽ được cứu ngay.

        Người ấy làm theo như lời. Nai đem người ra khỏi chỗ nước, mệt gần đứt hơi. Người được cứu sống mừng lắm, liền đi quanh nai ba ṿng, cúi đẩu thưa:

        -Thân người khó được, mạng sống là trọng, nay trượng phu không màng nguy hiểm để cứu mạng sống của tôi, ân đó vượt cả trời đất, trọn đời tôi không quên, xin làm kẻ tôi tớ dâng lên những ǵ c̣n thiếu thôn.

        Nai nói:

        -Ngươi hăy đi đi! V́ thân mạng ta làm liên lụy ngươi trọn đời! Nếu có ai t́m bắt ta th́ người nói là không thấy.

        Người bị ch́m kính vâng và thề mất mạng cũng không trái lời. Quốc vương thời ấy tên là Ma Nhân Quang, bẩm tánh thuần ḥa, thương nuôi muôn dân. Nguyên hậu của nhà vua tên là Ḥa Trí, nằm mộng thấy chúa nai lông trên thân có chín màu, sừng hơn cả sừng tê giác. Tỉnh dậy, tâu lên vua, xin muốn dùng da và sừng nai làm áo, làm ṿng đeo, nếu không toại nguyện bà ắt phải chết.

        Nhà vua nói:

-Được.

        Sáng hôm sau, vua họp các quần thần, tả h́nh dạng nai rồi ban lệnh t́m kiếm, treo giải kẻ t́m được th́ phong cho một huyện, một bát vàng đầy hạt bạc, một bát bạc đầy hạt vàng. Giải treo như thế khiến tên bị ch́m trước đấy vui mừng. Hắn nghĩ: ‘Ta được một huyện, vàng bạc đầy hai bát, an vui trọn đời. Nai tự làm mất mạng ta nào có can dự ǵ”. Rồi hắn vội vàng đến cung vua, đem việc như đă biết về nai chúa tâu lên. Trong phút chốc, mặt hấn liền bị phun lở, miệng bị hư thối. Hắn lại nói:

        -Con nai ấy rất linh, vua phải đem binh nhiều th́ mới bắt được.

        Nhà vua liền hưng binh qua sông t́m bắt nai. Bấy giờ, nai cùng với quạ kết bạn rất thân. Nai đang nằm ngủ không hay vua đến. Quạ kêu:

        -Bạn ơi! Vua đến bắt bạn đấy!

        Nai vẫn mê mệt không nghe, quạ mổ vào tai, kêu lớn:

        -Vua đến giết bạn!

        Nai thất kinh, thấy vua giương cung hướng về ḿnh, liền chạy mau đến trước vua, quỳ gối, cúi đầu tâu:

        -Xin thiên vương tha cho mạng tôi trong chốc lát, tôi muốn giải bày mối ngu t́nh.Nhà vua thấy nai nói thế, liền ra lệnh dừng bắn. Nai tâu:

        -Vua quư trọng nguyên hậu, đă nhọc thân đến đây, tôi nhất định là không thoát khỏi chết. Nhưng thưa thiên vương! Đại vương ở trong chốn thâm cung làm sao biết được con vật nhỏ nhoi này ở đây?

        Vua lấy tay chỉ, nói:

        -Người hủi kia thưa tŕnh đó.

        Nai nói:

        -Tôi đi t́m cỏ non để ăn, xa thấy người bị đắm kêu trời cầu cứu vớt. Tôi thương t́nh nên lao ḿnh vào nguy hiểm để cứu hắn. Người kia lên bờ vui mừng, cúi đầu nói: “Mạng tôi đáng lẽ đă chết mà được ân cứu cho, nguyện xin cung cấp cỏ nước, trọn đời làm tôi tớ.” Tôi đáp với nó: “Ngươi cứ tự do đi đi, có điều cần thận trọng đừng nói với ai rằng ta ở đây.”

        Nai chúa lại nói tiếp:

        -Thà vớt cỏ cây nổi trôi nơi sông nước đem lên đất liền, chứ không cứu vớt kẻ không biết suy nghĩ, xét đoán. Cướp của giết chủ, tội ấy có thể tha, chớ chịu ân mà mưu phản, ác ấy khó giải bày.

        Nhà vua cả kinh, nói:

        -Đây là loài súc sinh mà mang tấm ḷng nhân từ rộng lớn, hy sinh mạng ḿnh để cứu vật khác mà không cho là khó khăn. Chắc hẳn là trời.

        Nhà vua khen lời nói của nai, vui mừng tiến đức. Bèn ra lệnh cho muôn dân trong nước:

        -Từ hôm nay về sau, mặc t́nh nai ăn uống kiếm sống, ai dám xâm phạm đến nó đều phải tội chết.

        Nguyên hậu nghe vua phóng thích nai, quá tức giận nên vỡ tim, chết đọa vào địa ngục Thái sơn.

        Trời Đế Thích nghe vua lập chí tôn chuộng nhân từ, ngợi khen nai như thế, liền hóa làm loài nai đầy cả nước, ăn lúa hoa màu, ruộng mạ, hoa quả các thứ, ăn hết sạch, để xem chí của nhà vua. Dân chúng kiện lên vua, nhà vua nói:

        -Hung dối giữ nước, không bằng mất nước mà giữ chữ tín.

        Trời Đế Thích nói:

        -Nhà vua thật giữ chữ tín.

        Bèn khiến nai đều đi hết, các thứ lúa thóc dồi dào gấp bội, độc hại tiêu hết, các hoạn nạn đều dứt trừ.

        Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

        -Nai chúa khi ấy là thân Ta, quạ là A-nan, nhà vua là Thu Lộ Tử, người bị đắm là Điều-đạt, vợ vua nay là vợ Điều-đạt.

        Bồ-tát luyện chí độ vô cực, đă luôn tinh tấn như vậy.

* *

59-  Bồ-tát thuở xưa, thân làm ngựa chúa, tên là Khu-da, thường ở ven biển để độ người nổi trôi.

        Bấy giờ, ở bờ bên kia, có bọn quỷ dâm nữ rất đông. Chúng thấy các lái buôn đi qua, liền hóa làm thành quách, nơi ở, vườn tược, kỹ nhạc, đồ ăn thức uống, rồi biến làm người đẹp, nhan sắc rực rỡ, gọi mời đám thương nhân ấy, rượu nhạc vui chơi. Quỷ mị mê hoặc bao người, khiến họ đều lưu lại ăn ở với chúng. Chừng khoảng một năm th́ quỷ dâm nhàm chán, dùng dao sắt đâm vào cổ họng họ để uống máu, ăn thịt, hút tủy. Ngựa chúa xa trông thấy bọn quỷ dâm ăn thịt người mà rơi nước mắt, nhân bay qua biển đến bờ bên kia, kiếm được gạo giả trắng, ngựa chúa ăn uống xong, lên núi kêu lớn tiếng:

        -Ai muốn vượt qua biển không?

        Kêu như thế ba lần. Đám thương nhân nghe lời kêu, vui mừng, nói:

        -Thường nghe ngựa thần hay thương xót cứu độ ách nạn, nay được gặp rồi sao?

        Họ vui mừng đến với ngựa thần, nói:

        -Xin thương xót cứu giúp chúng tôi.

        Ngựa nói:

        -Các ngươi ra đi th́ bọn quỷ dâm ắt sẽ bế con đến đưa cho các ngươi, rồi kêu khóc đuổi theo. Kẻ nào có ḷng luyến ái ở lại, th́ khi ta đi rồi bọn quỷ ắt sẽ dùng dao sắt đâm vào cổ họng các ngươi mà uống máu, ăn thịt. C̣n ai ḷng ngay nghĩ lành th́ sẽ được toàn mạng. Phàm ai muốn trở về th́ hăy cỡi lên lưng ta, níu lấy bờm, đuôi, ôm lấy cổ đầu, tự do bám vào rồi níu vịn lẫn nhau, th́ ắt được sống gặp lại người thân.

        Những thương nhân tin lời của ngựa thần, đều được toàn mạng, trở về gặp lại những người thân yêu. C̣n bọn mê theo dâm nữ, tin quỷ yêu độc hại th́ không ai là không bị chúng ăn thịt. Hễ kẻ nào tin theo chánh pháp, bỏ tà ngụy th́ suốt đời này măi được an lành.

        Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

        -Ngựa chúa ngày ấy là thân Ta.

        Bồ-tát luyện chí độ vô cực, đă luôn tinh tấn như vậy.

* *

60-  Bồ-tát thuở xưa, thân làm vua cá, có hai bề tôi tả hữu, đều là những bậc có hạnh cao, thường ghi nhớ lời Phật dạy, khi ăn lúc thở đều không hề xao lăng. Vua tôi ăn rong nơi nước tạm để nuôi sống thân mạng, nhân từ nuôi dưỡng đàn cá nhỏ như tự nuôi chính bản thân ḿnh, theo nước triều dạo chơi, đem giới hạnh của Phật để dạy bảo. Không ngờ bị người đánh cá tung lưới bắt đượcẺ Cả đàn cá lớn nhỏ không con nào là không sợ cái họa bị đem nấu nướng. Vua cá thương xót bảo:

        -Thận trọng đừng nên sợ hăi. Cứ một ḷng niệm Phật, nguyện cho chúng sinh được an lành, thề lớn thương khắp, trời sẽ cứu độ như vang ứng tiếng. Hăy mau t́m lại bên nhau, ta sẽ cứu các ngươi.

        Nói rồi vua cá liền đâm đầu vào bùn, dùng đuôi nâng lưới lên cho cá mau ra hết. cả đàn cá được sống, không con nào là không đội ân.

        Đức Phật bảo các thầy Tỳ-kheo:

        -Vua cá khi đó là thân Ta, hai bề tôi tả hữu là Thu Lộ Tử và Mục-kiền-liên.

        Bồ-tát luyện chí độ vô cực, đă luôn tinh tấn như vậy.

* *

61-  Bồ-tát thuở xưa thân làm vua rùa, ngày đêm tinh tấn nghĩ ra các phương tiện lành để khiến cho thần tánh của chúng sinh được trở về với bản thể không. Lại có một vua rùa khác, cũng cùng ở nơi rừng sâu này, hằng ngày đều thấy những con tắc kè leo lên cây rồi lao ḿnh xuống. Như thế thật là không yên. Bồ-tát dự đoán, nói:

        -Đây là hiện tượng sẽ nguy hại đến thân mạng, chúng ta phải sớm tránh xa là tốt.

        Vua rùa kia ngu si, tự chuyên theo ư ḿnh, không nghe lời chân thật. Bồ-tát tận tâm cứu giúp những con theo ḿnh khiến chúng được khỏi nạn.

        Mười ngày sau, voi chúa cùng cả đàn voi tập trung đến gốc cây nghỉ ngơi, th́ tắc kè lao ḿnh vào trong lỗ tai voi. Đàn voi kinh hăi kêu rống, chạy nhảy tứ tung, đạp chết các rùa. Vua rùa kia tức giận, nói:

        -Biết việc như thế mà không chỉ ra, ta chết, ngươi sống, thế th́ ḷng lành ở đâu? Nhiều kiếp ta sẽ t́m ngươi, hễ bắt gặp là giết hại.

        Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

        -Vua rùa giỏi đoán biết việc là thân Ta, c̣n vua rùa tự chuyên không chịu đi là Điều-đạt.

        Bồ-tát luyện chí độ vô cực, đă luôn tinh tấn như vậy.

* *

62-  Thuở xưa, Bồ-tát làm chúa chim Anh vũ, cả đàn đông tới ba ngàn con. Có hai con Anh vũ sức lực tài giỏi hơn đàn, miệng ngậm cành trúc làm xe chở, vua Anh vũ cỡi trên đó để bay, dừng dạo chơi. Vua thường cỡi xe cành trúc, trên dưới trước sau, tả hữu các chim Anh vũ bay theo mỗi phía năm trăm con, như vậy sáu mặt có ba ngàn con bay theo hỗ trợ, dâng hiến các món quư, hoặc vui chơi tùy lúc. Vua Anh vũ thầm nghĩ: “Những hoan lạc này làm loạn đức, không làm sao đạt được tâm định, ta sẽ quyền biến, thác bệnh không ăn, rồi giả hô chết để bỏ bọn chúng”.

        Các chim Anh vũ thấy vậy liền lấy cỏ phủ lên xác vua Anh vũ, rồi đều bỏ đi. Vua Anh vũ trở dậy kiếm ăn. Đàn Anh vũ đó bay đến chỗ vua Anh vũ khác, thưa:

        -Vua chúng tôi đă chết, xin được làm bề tôi của nhà vua.

        Vua kia đáp:

        -Nếu vua các ngươi đă chết th́ hăy mang xác lại đây. Nếu thật đă chết th́ ta thu nạp các ngươi.

        Chúng trở về lấy xác, bỗng nhiên không thấy đâu, đi t́m khắp bốn phía th́ gặp được vua ḿnh, xúm lại làm lễ, lại dâng cúng như cũ. Vua chim nói:

        -Ta c̣n chưa chết, mà các ngươi lại bỏ ra đi. Các Đức Phật dạy rơ: Xem ra đời không có ǵ thân thích, chỉ có đạo pháp là đáng tin theo. Các vị Sa-môn cho tóc râu là các loại làm dơ loạn ư chí nên cạo bỏ đi, chuộng hạnh vô dục. Các ngươi hoan lạc ồn ào, tiếng tà làm loạn chí, nên ta sống một ḿnh không đôi lứa, đức ngang với bậc Thượng thánh.

        Nói xong chim bay vút đi, sông an nhàn nơi chổn tịch mịch, kín đáo, bỏ dục, vô vi. Chim tư duy thiền định, các dơ bẩn đều diệt hết, ḷng như vàng trời.

        Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

        -Anh vũ chúa khi ấy là thân Ta.

        Bồ-tát luyện chí độ vô cực, đă luôn tinh tấn như vậy.

* *

63-  Bồ-tát thuở xưa, thân làm vua bồ câu, cả đàn có năm trăm con, bay lượn đến nơi vườn vua để kiếm ăn. Nhà vua trông thấy chúng nên ra lệnh cho người chăn nuôi chăng lưới bắt hết, lớn nhỏ không sót con nào, đem nhốt chúng vào lồng, nuôi bằng gạo ngon, con nào béo lên th́ thái quan đem làm món ăn dâng vua. Bồ câu chúa bị bắt th́ một ḷng niệm Phật, ăn năn lỗi lầm, dấy lên ḷng Từ, nguyện xin cho chúng sinh bị bắt được giải thoát, chóng xa ĺa tám nạn, không bị như ḿnh hôm nay. Rồi bồ câu chúa bảo các bồ câu kia:

        -Các giới của kinh Phật, tham là đầu mối. Tham để được vinh hoa, như người đói được uống thứ nước độc, niềm vui đắc chí kia chỉ mau như chớp, c̣n các khốn khổ mà ḿnh phải chịu th́ đến hàng ức đời. Các ngươi bỏ ăn th́ thân mạng toàn vẹn vậy.

        Đàn bồ câu đáp:

        -Bị bắt bỏ lồng, muôn khác sao được?

        Vua bồ câu nói:

        -Trái lời Phật dạy, mặc sức tham muốn, không ai là không mất thân.

        Rồi tự ḿnh bỏ ăn, đói làm cho cơ thể mỗi ngày một héo hon, chui ra khỏi nơi giam giữ, ngoái lại gọi bọn c̣n bị nhốt:

        -Diệt tham, bỏ ăn, th́ được như ta.

        Nói rồi liền bay đi.

        Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

        -Bồ câu chúa ngày ấy là thân Ta.

        Bồ-tát luyện chí độ vô cực, đă luôn tinh tấn như vậy.

* *

64-  Đức Phật Thuyết Giảng Kinh Vua Ong Mật.

        Nghe như vầy:

        Một thời Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ. Đức Phật bảo các đệ tử:

        -Hăy siêng năng, tinh tấn, nghe nhớ, đọc tụng, không được biếng trễ, để khỏi bị ṿng tối của các ấm phủ che. Ta nhớ lại từ vô số kiếp về trước, có Đức Phật hiệu là Nhất Thiết Độ Vương Như Lai Vô Sở Trước Tối Chánh Giác, lúc ấy đă v́ chư Thiên, chúng dân nhiều không kể xiết mà thuyết giảng kinh pháp. Bấy giờ trong chúng có hai vị Tỳ-kheo, một vị tên là Tinh Tấn Biện, c̣n vị kia tên là Đức Lạc Chánh, đều cùng nghe kinh pháp. Tinh Tấn Biện nghe kinh hoan hỷ, liền chứng được quả A-duy-việt (không thoái chuyển), thần thông đầy đủ, c̣n Tỳ-kheo Đức Lạc Chánh th́ ngủ say không thức nghe nên không được ǵ. Khi đó, Tinh Tấn Biện gọi Đức Lạc Chánh nói:

        -Đức Phật khó gặp! Hàng ức trăm ngàn đời mới một lần xuất thế, nên phải lấy tinh tấn làm gốc cho các việc làm, sao lại ngủ nghỉ măi? Phàm ưa ngủ nghỉ là tội bị các ấm che lấp, phải tự cố gắng mới có được tâm giác ngộ.

        Đức Lạc Chánh nghe lời bảo ban ấy liền đi kinh hành, trong khoảng các hàng cây của khu lâm viên Kỳ-đà. Vừa mới đi kinh hành th́ lại đứng ngủ, phiền loạn như thế th́ không thể tự định được. Ông liền đi đến bên ḍng suôi, muốn ngồi tư duy th́ lại ngồi ngủ nữa. Khi ấy, Tỳ-kheo Tinh Tấn Biện phải quyền biến khéo léo đến để độ bạn, bèn hóa làm con ong mật chúa bay đến trước mắt bạn như muốn chích vào. Đức Lạc Chánh cả kinh nên thức dậy và ngồi, nhưng chỉ sợ chúa ong trong giây lát rồi lại ngủ tiếp. Lúc ấy, ong mật chúa bay xuống dưới nách, chích vào ngực và bụng ông ấy. Đức Lạc Chánh cả kinh, trong ḷng rúng động, không dám ngủ nữa.

        Khi đó, nơi su61i nước có các thứ hoa Ưu-đàm, Câu văn đủ màu Sắc, hoa nào hoa nấy đều tươi đẹp, thanh khiết, ong mật chúa bay đậu trên đóa hoa hút lấy mật hoa. Đức Lạc Chánh bèn ngồi ngay ngắn nh́n ong, sợ nó bay đến chích nên không dám ngủ nữa, lại tư duy về ong chúa, quan sát nguồn cội sự việc. Ong chúa hút nhụy không bay ra khỏi hoa. Trong chốc lát, ong chúa ngủ, rơi vào vũng bùn, thân thể lấm dơ, lại bay trở về đậu trên đóa hoa.

        Lúc ấy, Đức Lạc Chánh hướng về ong mật chúa nói lời kệ:

        Người ăn vị cam lộ

        Thân thể được an ổn

        Không nên lại mang về

        Cho khắp cả vợ con

        V́ sao rớt trong bùn

        Tự làm nhơ thân thể?

        Như thế là không khôn

        Vị cam lộ bị hỏng

        Lại như đóa hoa này

        Chẳng nên ở trong lâu.

       Trời lặng hoa lại khép

        Muốn ra khỏi được nào

        Phải đợi mặt trời mọc

        Mới ra khỏi được hoa

        Mệt tối nơi đêm dài

         Khổ nhọc như thế đấy.

        Ong mật chúa hướng về Đức Lạc Chánh, nói kệ đáp:

        Phật ví như cam lộ

        Lắng nghe không nhàm đủ

        Chẳng nên có biếng trễ

        Không ích cho mọi người

        Năm đường biển sinh tử

        Ví như rớt bùn nhơ

        Ái dục đă trói buộc

        Không trí là đắm mê

        Mặt trời mọc, hoa mở

        Ví sắc thân Đức Phật

        Mặt trời lặn, hoa khép

        Ví Phật nhập Nỉết-bàn

        Được gặp đời có Phật

        Phải tinh tấn thọ tŕ

        Trừ bỏ ngủ che lấp

        Chớ bảo Phật thường trụ

        Yếu Tuệ của pháp sâu

        Không do sắc duyên hợp

        Ấy hiện có người trí

        Nên biết là phương tiện

        Quyền biến khéo để độ

        Có ích không nêu quấy

        Mà hiện biến hóa này

        Cũng do tất cả ấy.

        Khi Đức Lạc Chánh nghe ong mật chúa nói kệ như thế th́ đạt được “Pháp nhẫn bất khởi”, tỏ được gốc của các pháp, chứng được “Đà-la-ni”, mới biết đây là phương tiện quyền xảo của Tinh Tấn Biện. Từ đó, Đức Lạc Chánh thường một ḿnh đi kinh hành, không c̣n biếng trễ, đồng thời cũng chứng được quả vị Bất thoái chuyển.

        Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:

        -Tinh Tấn Biện lúc bấy giờ nay là thân Ta, c̣n Đức Lạc Chánh ấy là Di-lặc.

        Đức Phật nói với Tôn giả A-nan:

        -Lúc bấy giờ Ta với Di-lặc cùng nghe kinh pháp, Di-lặc th́ lo ngủ nghỉ nên không được ǵ cả. Giả như thời đó Ta không dùng phương tiện khéo léo để độ ông ấy th́ Di-lặc đến nay vẫn c̣n ở trong sinh tử, chưa được giải thoát. Vậy các vị nghe pháp này phải thường tinh tấn, rộng khuyên tất cả mọi người, phải từ bỏ sự che lấp của ngủ nghỉ, phải dốc tạo căn bản cho trí tuệ sáng suốt.

        Đức Phật nói như vậy rồi, th́ vô số người đều phát tâm Vô thượng b́nh đẳng.

        Bồ-tát luyện chí Độ vô cực, đă luôn tinh tấn như vậy.

* *

65- Kinh Đức Phật Lấy Ba Việc Để Cười.

        Thuở xưa, Bồ-tát làm Thanh tín sĩ, quy mạng ba ngôi báu, nhân từ rộng khắp, quên ḿnh cứu giúp quần sinh, giữ trong sạch không trộm cắp, bố thí đến cùng, trinh thuận không dâm dật, quán xét từ bỏ ḷng dâm, đức tin giống bốn mùa, nặng như Tu-di, tuyệt không uống rượu, tôn trọng hiếu đạo, khuyến dụ người thân, tháng giêng giữ vẹn chay sáu ngày, tinh tấn không mệt mỏi. Sinh đời gặp Phật nên đức hạnh ngày một tăng thêm, rồi chứng được đạo quả Như Lai Vô Sở Trước Chánh Chân Giác Đạo Pháp Ngự Thiên Nhân sư, giáo hóa khắp chốn.

        Một hôm đi qua chợ, thấy một ông lăo lường đấu bán cá buồn thảm than thở:

        -Oan quá! Trời ơi! Con ta tội ǵ mà sớm chết đi? Nếu nó c̣n bán cá th́ ta đâu khổ nhọc thế này?

        Đức Phật thấy thế, liền mỉm cười, miệng phát hào quang năm sắc. Qua khỏi chợ giây lát, lại thấy một con heo lớn lấm đầy phân đi trên đường, Đức Phật lại mỉm cười nữa. Tôn giả A-nan sửa lại y phục, cúi đầu thưa:

        -Vừa rồi Đức Thế Tôn cười, v́ có nhiều người nên con không tiện hỏi nguyên do, nay lại cười nữa, ắt có điều dạy bảo. Nguyện xin Đức Phật mở điều nghi của mọi người để làm khuôn phép cho đời sau.

        Đức Thế Tôn bảo:

        -Này A-nan, Ta cười có ba lư do. Một là xem thấy cái ngu của ông lăo kia thật là to lớn. Hằng ngày giăng lưới đánh cá, tàn hại mạng quần sinh, ḷng không chút trắc ẩn, họa lây con chết th́ lại đi oán trời, kêu khóc kinh động, đó là cái hạnh của kẻ hạ ngu, không phải là ḷng nhân của trời đất, ḷng khoan thứ của Hiền thánh, do đó mà Ta cười.

        Thuở xưa, Phi hành hoàng đế, trồng phước ṿi vọi, mà chí kiêu ngạo, hạnh th́ phóng dật, nên nay phải làm cá cho người đong bán, đấy là lư do thứ hai khiến ta cười. Chẳng nhớ nghĩ đến trời người, dù thọ tới tám mươi ức bốn ngàn vạn kiếp, ư chuyên chấp trước vào không, chẳng có thể bỏ đi cái không không tưởng, để trở về với bản thể vô vi, nên phước hết th́ phải thọ tội, ngày nay đang ở trong đấu cá ấy, đó là lư do khiến Ta cười.

        Tôn giả A-nan lại hỏi:

        -Phi hành hoàng đế so với vị trời đáng tôn kính kia, đức cao lồng lộng, cớ sao không thoát tội được?

        Đức Thế Tôn dạy:

        -Họa phước không phải chân thật th́ làm sao thường c̣n măi được! Phàm ở nơi tôn quư mà thi ân bốn đẳng, hiểu rơ bốn vô thường th́ thoát được những nạn kia. Nếu tự thỏa măn với cái nhân quư báu, ḷng chuộng nẻo tà th́ khi hưởng hết phước phải chịu tội. Đó là quy luật tự nhiên từ xưa đến nay. Họa, phước đuổi theo ḿnh như bóng t́m h́nh, như vang đáp tiếng, đâu có phân biệt sang hèn! C̣n nữa, đời trước Ta làm Thanh tín sĩ, có một người hàng xóm ưa phụng thờ ma quỷ, đánh bạn với lũ yêu quái ác hại, không tin làm ác họa sẽ đến ngay, như vang ứng tiếng. Mỗi khi đến ngày trai giới, Ta bảo nên vào chùa thờ Phật chánh chân, nghe các vị Sa-môn giảng thuyết pháp thanh tịnh, làm căn bản cho đức hạnh, pḥng dứt họa dữ, nhưng nó là một kẻ dâm hoang, dối rằng có việc cần không đi được. Ta đến chùa Phật, c̣n nó th́ đi theo đường tà. Từ đó về sau Ta sinh ra gặp Phật, nghe pháp, cùng sánh chí với các bậc Sa-môn, đức hạnh ngày một tăng thêm, thành tựu quả Như Lai Vô Sở Trước Chánh Chân Đạo Tối Chánh Giác Đạo Pháp Ngự Thiên Nhân Sư, làm bậc tôn quư trong ba cơi, hiệu là Pháp vương. C̣n người hàng xóm kia ưa việc quỷ thuật, tàn hại quần sinh, buông theo nữ sắc, rượu chè điên loạn, không biết hiếu thuận mà tự cho là đắc chí thỏa ḷng, nên phải luân chuyển trong ba đường ác, khổ sở không lường. Ta nay đă làm Phật, c̣n kẻ ấy th́ vẫn tiếp tục làm con vật hôi thối, do vậy mà Ta cười.

        Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:

        -Trong nhiều kiếp thọ tŕ kinh điển, thâu thái nghĩa lư, thân cận Sa-môn, nên đạt được công đức như thế.

        Bồ-tát luyện chí độ vô cực, đă luôn tinh tấn như vậy.

* *

66 - Kinh Đứa Trẻ Nghe Pháp Hiểu Được Ngay.

        Thuở xưa, có vị Tỳ-kheo tinh tấn giữ phép, từ nhỏ đă giữ giới cấm, không chút hủy phạm, thường tu phạm hạnh, an trụ ở tinh xá.Nếu có tụng kinh th́ tụng kinh Bát-nhă ba-la-mật. Khi giảng kinh, th́ giảng hay không ai b́ kịp, nghe được âm thanh của vị Tỳ-kheo ấy không ai là không hoan hỷ.

        Có một đứa trẻ mới bảy tuổi, chăn trâu ở ngoài thành, nghe tiếng vị Tỳ-kheo tụng kinh, liền lần theo tiếng t́m đến tinh xá, lễ vị Tỳ-kheo, rồi ngồi một bên để nghe lời kinh ấy. Khi nói về căn bản của “Sắc”, nghe xong hiểu ngay, khiến đứa bé hết sức vui mừng. Tiếng vừa dứt, bèn hỏi vị Tỳ-kheo. Vị ấy đối đáp không vừa ư đứa bé. Bấy giờ đứa bé lại giảng giải, nghĩa kinh rất thâm diệu, từ xưa ít nghe. Tỳ-kheo nghe rồi rất là hoan hỷ, vừa ḷng, lại lấy làm lạ về đứa trẻ này, hẳn không phải là người phàm nên mới có trí tuệ ấy. Lúc đó đứa bé liền đi về chỗ trâu, th́ trâu nghé nó chăn đă chạy tản lạc vào núi. Bé theo dấu chân ḍ t́m th́ chẳng may bị cọp hại. Sau khi mạng chung, thần hồn đứa bé liền chuyển sinh vào nhà trưởng giả, làm con của người vợ cả. Khi phu nhân mang thai, miệng bà thường hay nói kinh Bát-nhă ba-la-mật từ sáng đến tối không biếng nghỉ. Gia đ́nh trưởng giả ấy vốn không biết kinh pháp, lấy làm lạ về chuyện này, sợ miệng phu nhân nói lời xàm, cho là bệnh quỷ. Hỏi han về việc trừ tà, không chỗ nào là không đến, mà vẫn không ai có thể biết được. Trưởng giả rất buồn, không biết vợ ḿnh mắc phải chứng bệnh ǵ, nên cả nhà nội ngoại thảy đều lo sợ. Khi ấy thầy Tỳ- kheo vào thành khất thực, đến cửa nhà trưởng giả, xa nghe tiếng kinh, ḷng rất vui mừng, đứng ở cửa một chút, th́ chủ nhân thấy Tỳ- kheo cũng không làm lễ. Vị Tỳ-kheo lấy làm lạ: ‘Trong nhà này có vị hiền giả nói kinh tiếng hay đến vậy, mà sao vị trưởng giả đây không nói ǵ với ta cả?”. Liền hỏi trưởng giả:

        -Trong nhà có ai tụng kinh thâm diệu mà âm thanh hay ho đến thế?

        Trưởng giả đáp:

        -Vợ tôi trong nhà bị mắc bệnh quỷ nên ngày đêm nói xàm luôn miệng không dứt.

        Vị Tỳ-kheo nghe vậy mới biết là gia đ́nh ông trưởng giả này không hiểu biết đạo Tỳ-kheo nói:

        -Đây không phải là bệnh quỷ, mà bà chỉ nói về kinh quư thuộc đạo lớn của Phật, xin được vào trong nhà cùng người ấy gặp mặt.

        Trưởng giả nói:

        -Tốt.

        Bèn mời vị Tỳ-kheo vào đến chỗ người vợ. Vợ ông trưởng giả thấy vị Tỳ-kheo liền làm lễ. Tỳ-kheo chú nguyện, nói là: “Được bệnh Phật”.

        Rồi bà cùng với vị Tỳ-kheo hỏi han, thuyết giảng kinh pháp, nêu rơ những chỗ sâu xa khiến vị Tỳ-kheo rất vui. Trưởng giả hỏi:

        -Đây là bệnh ǵ?

        Tỳ-kheo đáp:

        -Không bệnh ǵ cả, bà chỉ nói kinh pháp thâm diệu, Tất có nghĩa lư. Tôi nghĩ phu nhân đang mang thai đứa bé chính là đệ tử của Đức Phật.

        Ông trưởng giả hiểu ra sự việc, liền thỉnh vị Tỳ-kheo ở lại làm cơm cúng dường. Thọ trai xong, vị Tỳ-kheo lui về tinh xá, lần lượt kể lại cho mọi người biết:

        -Có phu nhân của một ông trưởng giả mang thai rất kỳ lạ, miệng luôn tụng kinh quư, nói giảng lưu loát, tiếng đọc du dương, giải thích nghĩa lư kinh rất sâu.

        Hôm sau, trưởng giả lại thỉnh vị Tỳ-kheo và tất cả Tăng chúng đến nhà, bày biện cơm nước đầy đủ. Đến giờ, chư vị đều đến ngồi vào chỗ, rửa tay, thọ trai xong, họ chú nguyện nhận đồ vật cúng dường. Bấy giờ phu nhân bựớc ra lễ các vị Tỳ-kheo, rồi ngồi sang một bên, lại v́ các vị Tỳ-kheo mà vui giảng kinh pháp, có các chỗ nghi không thể hiểu thâu, bà đều tận t́nh v́ các vị ấy giảng nói đầy đủ, chúng Tăng hết mực phấn chấn, hoan hỷ lui về.

        Ngày tháng đă đủ, phu nhân sinh được một đứa bé trai tại nơi không có nước dơ nhớp. Cậu bé ấy vừa đi sinh ra liền chắp tay quỳ gối tụng kinh Bát-nhă ba-la-mật. C̣n phu nhân sau khi sinh xong, th́ trở lại như cũ, chẳng biết ǵ, như người vừa tỉnh mộng, không c̣n biết ǵ cả. Ông trưởng giả lại mời chúng Tăng, các vị Tỳ- kheo đều đến thấy đứa trẻ giảng kinh, chuyện xưa thông suốt, không chút vấp váp.

        Lúc ấy các vị Tỳ-kheo, ai nấy đều dốc ḷng xem xét về nguồn gốc của đứa bé, nhưng đều không thể biết được. Trưởng giả hỏi:

        -Đây là người thế nào?

        Tỳ-kheo đáp:

        -Chính là đệ tử của Đức Phật, thận trọng chớ sợ hăi, nghi ngờ, phải nuôi dưỡng nó cho thật tốt. Đứa bé này về sau lớn lên sẽ làm thầy của tất cả mọi người, chúng tôi đều phải theo đứa trẻ này học hỏi đó.

        Khi đứa bé lớn lên, đến năm bảy tuổi th́ biết hết mọi sự việc vi diệu của đạo, đời, siêu vượt hơn mọi người, trí tuệ thực tột bậc. Các Tỳ-kheo đều theo thọ giáo, học tập. Trong các kinh điển có chỗ nhầm lẫn, hoặc ngắn thiếu đểều được đứa bé san định, bổ túc lại đầy đủ. Đứa trẻ mỗi lúc vào ra đều có mục đích, bèn dạy dỗ dẫn dắt cho mọi người, khiến phát tâm cầu Đại thừa. Gia đ́nh ông trưởng giả trong ngoài lớn nhỏ gồm năm trăm người đều theo đứa bé tu học, phát khởi được ư Đại thừa, đều làm Phật sự. Qua các thành thị, chợ búa, làng xóm... đứa trẻ đă dạy dỗ dẫn dắt cho tám vạn bốn ngàn người, đều phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Chánh chân, năm trăm người thuộc thừa Thanh văn. Các vị Tỳ-kheo nghe đứa trẻ thuyết giảng, th́ gốc tâm hữu lậu đều được cởi bỏ, người có chí cầu Đại thừa đều chứng được ‘Tháp nhăn thanh tịnh”.

        Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:

        -Đứa trẻ thời đó là thân Ta, vị Tỳ-kheo tụng kinh là Phật Ca-diếp

        Như thế này A-nan, Ta thuở xưa một lần theo vị Tỳ-kheo được nghe phẩm Đại thừa, liền ca ngợi, thông tỏ, tâm ư vui mừng chẳng chuyển, tinh tấn không quên, biết sâu về thân mạng đời trước, tự chứng đạt đến Bậc Vô Thượng B́nh Đẳng Chánh Giác. Phước đức của một lần nghe mà c̣n được như thế, huống chi hằng ngày tuân theo tu tập.

        Bồ-tát luyện chí độ vô cực, đă luôn tinh tấn như vậy.

* *

67- Kinh Giết Ḿnh Cứu Người Đi Buôn.

        Thuở xưa, có Bồ-tát cùng năm trăm thương nhân đi vào biển cả để t́m các của báu. Họ vào biển mấy tháng, kiếm được nhiều châu báu, chở nặng đầy thuyền. Lúc sắp quay về quê cũ, th́ gặp gió băo, sấm chớp chấn động đất trời, thần nước tụ lại vây kín như thành lũy, mắt họ như tóe lửa, sóng vỗ ướt núi, mọi người than khóc:

        -Chúng ta chắc chết!

        Họ sợ hăi biến sắc, ngửa mặt lên trời kêu cứu.

        Bồ-tát bùi ngùi, ḷng nảy ra kế:

        -Ta cầu làm Phật chỉ v́ chúng sinh. Thần biển vốn ghét nhất là gặp thây chết, Ta phải v́ họ, hy sinh thân ḿnh để cứu mọi người, đó mới là sự nghiệp của bậc Khai sĩ. Ta không đem máu ḿnh đổ xuống biển, th́ thần biển làm dữ, chắc thuyền nhân không qua đến bờ.

        Rồi gọi mọi người, bảo:

        -Các ngươi đan tay nhau lại rồi cùng nắm lấy thân Ta.

        Mọi người làm theo lệnh, Bồ-tát liền rút dao tự đâm chết ḿnh, thần biển ghét bỏ đi, đẩy thuyền trôi vào bờ, mọi người đều được cứu. Thuyền nhân ôm thây Bồ-tát gào khóc kêu trời:

        -Đây ắt là Bồ-tát chứ không phải là hạng tầm thường.

        Rồi họ vật vă kêu trời nữa:

        -Thà để chúng tôi mất mạng ở đây, chứ không để chết bậc Sĩ đức cao trọng.

        Lời nói chân thành cảm động đến chư Thiên. Trời Đế Thích thấy ḷng nhân từ rộng lớn của Bồ-tát, xem ra trên đời ít có, nên đích thân hiện xuống nói:

        -Đây là bậc Bồ-tát chí đức sẽ là Đấng Thánh Hùng, nay ta tự cứu sống lại.

        Rồi dùng thuốc trời để vào trong miệng và thoa khắp thân thể. Bồ-tát liền sống lại, bỗng nhiên ngồi dậy cùng mọi người hỏi han. Trời Đế Thích đem cho các thứ báu danh tiếng đầy thuyền họ, nhiều gấp ngàn lần trước đó. Tất cả liền trở về quê quán, gặp lại bà con họ hàng, không ai là không vui mừng. Bồ-tát đem của cải cứu giúp kẻ bần cùng, thiếu thốn, ban ân khắp mọi chúng sinh, thuyết giảng kinh Phật, khai hóa những kẻ ngu si tối tăm. Quốc vương nước ấy cảm phục đức hạnh của Bồ-tát nên t́m đến để thọ nhận sự giáo hóa thanh tịnh. Vua nhân, tôi trung, cả nước giữ giới, nhà có con hiếu, nước giàu, nạn hết, dân chúng mừng vui, mạng chung đều được sinh lên cơi trời, xa ĺa hẳn các khổ.

        Bồ-tát nhiều kiếp tinh tấn không dừng nghỉ nên đă thành Phật. Đức Phật bảo các thầy Tỳ-kheo:

        -Người tự giết mạng ḿnh để cứu mọi người là thân Ta, trời Đế Thích là Đức Di-lặc, năm trăm thương nhân ấy nay là năm trăm vị ứng chân đang ngồi trong pháp hội này.

        Bồ-tát luyện chí độ vô cực, đă luôn tinh tấn như vậy.

* *

68-  Thuở xưa, có Bồ-tát làm con một người mẹ góa, sớm t́m đến chùa, bỏ tà, chuộng chân, đảnh lễ Sa-môn, thọ nhận sự thần hóa của Đức Phật, sáng học hỏi, chiều lo tu tập. B́nh minh, mặt trời mọc, t́m hiểu các kinh, những gương Hiền thánh, hiếu hạnh xưa luôn tinh thành ngưỡng mộ, như người đói mơ thấy được ăn. Nước của Bồ-tát sống có quốc vương vô đạo, tham tài, trọng sắc, bạc đăi người hiền, khinh rẻ dân chúng. Nhà vua nhớ đến vô thường, nên tự nghĩ:

        -Ta làm những việc bất thiện th́ chết sẽ vào ngục Thái sơn thôi! Sao ta không tích tụ vàng để dâng cho vua ngục Thái sơn?

        Từ đó vua thu góp vàng của dân, ban lệnh nghiêm ngặt rằng:

        -Nếu ai giấu dù chỉ một phân vàng thôi th́ cũng phải tội chết.

        Lệnh ra như vậy chỉ ba năm th́ vàng của dân chúng đều hết sạch. Nhà vua vờ treo giải:

        -Ai có chút vàng đem dâng, th́ vua sẽ gả con gái út và ban cho tước vị cao.

        Đứa bé thưa với mẹ:

        -Trước đây mẹ đă đem một đồng tiền vàng đặt trong miệng cha khi mất, dùng để đút lót cho ngục Thái sơn, nay chắc hăy c̣n, vậy nên lấy đem dâng lên vua.

        Bà mẹ nói:

        -Được.

        Bé lấy đem dâng lên. Vua ra lệnh tra hỏi do đâu được vàng. Bé tâu:

        -Khi cha tôi chết, mẹ đem vàng đặt vào miệng chôn, là muốn hối lộ cho vua ngục Thái sơn, nay nghe lệnh đại vương đặt tước, kiếm vàng, nên mới đào mộ, gỡ gỗ để lấy.

        Vua hỏi:

        -Từ ngày tang cha đến nay bao nhiên năm rồi?

        Bé tâu:

        -Đă mười một năm.

        Vua nói:

        -Cha ngươi không đem hối lộ cho vua ngục Thái sơn sao?

        Bé đáp:

        -Sách vở Thánh hiền, chỉ có lời Đức Phật dạy là chân chánh. Kinh Phật dạy: “Làm thiện phước đuổi theo, làm ác họa t́m đến. Họa theo phước đến như bóng theo h́nh, như vang ứng tiếng.” Chạy thân để tránh bóng, vỗ núi để dứt tiếng vang, làm thế được chăng?

        Vua nói:

        -Không thể được.

        Bé tâu:

        -Phàm thân do bốn đại tạo nên, khi mạng chung bốn đại ĺa tan, hồn linh ra đi, biến hóa theo nghiệp ḿnh đă làm, hối lộ phỏng có ích ǵ? Đời trước nhà vua bố thí, tạo phước đức, nay được làm vua, nếu ngài lại chuộng nhân ái, ân thấm nhuần khắp xa gần, th́ tuy chưa đắc đạo, đời sau ắt được làm vua.

        Vua nghe ḷng hoan hỷ, bèn đại xá ngục tù, trả lại số vàng đoạt của dân.

        Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

        -Khi vua muốn lấy vàng c̣n trong dân mà giết hại người vô tội, Bồ-tát thấy dân khóc than, kêu ca, do vậy gạt lệ, lao ḿnh vào chốn việc nước hà khắc, để cứu dân khỏi nạn lầm than. Dân cảm ân nhuần ấy mà thờ Phật, giữ giới, đất nước trở nên no đủ giàu có. Đứa bé khi ấy là thân Ta.

        Bồ-tát luyện chí độ vô cực, đă luôn tinh tấn như vậy.

* *

69- Kinh Điều-Đạt Dạy Người Làm Ác.

        Thuở xưa có vị Bồ-tát ở ngôi thiên vương, giữ hạnh tinh chuyên, chí tiến như nước chảy, mỗi lần đến ngày trai, cỡi ngựa đi tuần du bốn phương, tuyên giảng nghĩa lư sâu xa của kinh Phật, giáo hóa chúng sinh, tiêu trừ những lầm lỗi nhơ bẩn, khiến họ tôn sùng đạo giáo quư của Đức Như Lai ứng Nghi Chánh Chân Giác, bậc trời trong các trời, vua trong các Thánh, ĺa bỏ gốc các khổ trong ba đường.

        Điều-đạt khi ấy cũng làm vua trời trong cơi Ma, đi khắp bốn cơi thiên hạ dạy người làm ác, tùy theo ư muốn, không có quả báo ương họa nơi Thái sơn. Trên đường đi gặp Bồ-tát, Điều-đạt hỏi:

        -Ông đi đâu vậy?

        Đáp:

        -Đi dạy dân thờ Phật, tu tập theo đức của bậc Thánh cao tột.

        Điều-đạt nói:

        -Ta dạy dân buông thả, theo dục, đời sau không họa, làm thiện nhọc chí không ích ǵ cho ḿnh.

        Bồ-tát nói:

        -Ngươi tránh đường cho ta!

        Điều-đạt đáp:

        -Ông làm thiện giống như vàng bạc, ta làm ác giống như gang sắt, gang sắt có thể cắt được vàng bạc, chứ vàng bạc không thể cắt được gang sắt. Ông không bỏ đường ấy, ta sẽ chém đầu ông!

        Điều-đạt làm ác càng nhiều lên, thành họa, phải vào ngục Thái sơn ngay khi c̣n sống.

        Phàm người làm ác, sau khi chết đều bị đọa vào ba đường. Trong ba đường mà dốc làm lành, th́ không ai là không sinh lên cơi trời. Tuy ở chỗ sang quư mà ôm ḷng ác dữ không bằng ở nơi ba đường mà nhớ một lời Phật dạy.

        Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

        -Thiên vương dạy người làm thiện là thân Ta, c̣n Thiên ma dắt người làm ác là Điều-đạt.

        Bồ-tát luyện chí độ vô cực, đă luôn tinh tấn như vậy.

* *

70. Kinh Giết Rồng Cứu Cả Nước.

        Thưở xưa có anh em Bồ-tát một chí như nhau, đều đi học đạo, ngưỡng mộ chư Phật, các hạnh khó theo kịp, đọc tụng kinh văn, giải thích nghĩa diệu, khai thị dắt dẫn sáu nẻo tối tăm, luyện bỏ ḷng cấu uế, chỉ quấn tịch tĩnh. Mỗi khi nghe các nước không biết tới ba ngôi báu, hai anh liền đến để dẫn dạy, khiến họ phụng tŕ diệu hạnh chân chánh của sáu độ.

        Bấy giờ có một nước lớn, vua nước ấy ưa thích học đạo, bị bọn yêu quái dụ dỗ, dạy trao điều tà ngụy, cả nước noi theo, nên dân chúng đều phụng thờ đạo độc hại. Gió mưa không thuận thời, yêu quái khắp chốn, anh em Bồ-tát tự bàn với nhau:

        -Ở chính nước ta, ba ngôi báu đă hành hóa, mọi người đều tuân giữ mười điều lành. Vua nhân, tôi trung, cha nghĩa, con hiếu, chồng tín, vợ trinh, nhà nhà đều có người hiền đức, th́ anh em ta c̣n giáo hóa ai nữa? Nước kia tin theo yêu quỷ, rồng rắn ở đó ăn nuốt dân đen, họ gào kêu thê thảm nhưng không ai cứu giúp, mà ta lập chí cầu Phật chỉ v́ loại người ấy. Vậy chúng ta nên đem Đạo đến đó giáo hóa, dẫn dụ cho họ ḷng nhân, rồng ngậm độc dữ, chúng ta sẽ tiêu diệt nó.

        Người em nói:

        -Giới luật của Phật cho sát sinh là tội hung ngược lớn nhất, bảo vệ sự sống là đầu mối của đạo nhân, vậy phải làm sao đây?

        Người anh nói:

        -Hễ giết một người th́ tội kia phải trả trăm kiếp. Nay rồng ăn nuốt dân cả nước, ta sợ hằng hà sa số kiếp dù hết, ương họa của nó vẫn chưa trừ xong. Nếu v́ tham muốn chút lợi trong chốc lát mà không thấy cái tội bị thiêu đốt nơi ngục Thái sơn, ḷng ta thấy thương xót lắm. Làm người khó được, Phật pháp khó nghe, giết rồng cứu nước, đem ba ngôi báu và hạnh cao của sáu độ để dẫn dạy th́ họa này như tơ tóc mà phước ấy vượt hơn trời đất. Em hăy hóa làm voi, ta hóa làm sư tử, nếu mạng chúng ta không mất th́ nước ấy không thể cứu được.

        Rồi họ cúi đầu lễ mười phương, thề:

        -Chúng sinh không yên ổn là lỗi của tôi, sau này thành Phật sẽ hóa độ tất cả.

        Voi tới chỗ rồng, sư tử cũng lên đó. Rồng liền dương oai sấm chớp nổ vang, sư tử giậm chân rống; rồng phô bày uy linh, sư tử hiện thế lực bừng bừng, khắp đại địa đều chấn động, ba mạng đều chết hết. Chư Thiên ca ngợi, không ai là không tán thán ḷng nhân.

        Hai vị Bồ-tát sau khi mạng chung, sinh lên cơi trời thứ tư. Cả nước ấy dân chúng được toàn mạng, ôm thây của hai vị kêu khóc thê thảm.

        -Đây chắc hẳn là thần chứ ai mà nhân từ như vậy.

        Sau đó, môn đồ của hai vị t́m đến, thấy thầy có ḷng Từ bao la, giết ḿnh để cứu mọi người, nên đều thương xót, ca ngợi công đức. Rồi họ tiến hành tuyên dương đạo hóa của thầy, vua và thần dân bây giờ mới biết có Phật đạo. Cả nước noi theo đều nói:

        -Đức nhân hóa của Phật đă đạt đến như thế ư?

        Chôn cất hai thầy, cả nước buồn thương. Vua ra lệnh:

        -Ai không phụng tŕ sáu độ, mười điều lành của Phật mà thờ yêu quỷ th́ bị tội đến cả quyến thuộc.

        Từ đó về sau, nước có Sa-môn số ngàn sánh vai mà đi. Trong nước, đàn ông đàn bà đều theo hạnh cao thanh tín, đất nước yên lành thái b́nh.

        Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

        -Người anh khi đó là thân Ta, người em ấy là Di-lặc, c̣n rồng dữ là Điều-đạt.

        Bồ-tát luyện chí độ vô cực, đă luôn tinh tấn như vậy.

* *

71- Kinh Di-lặc Làm Thân Nữ Nhân.

        Thuở xưa có vị Bồ-tát làm trời Đế Thích, ngôi vị sang quư cao tột, nhưng chí vẫn nhớ về vô thường, khổ, không, vô ngă. Ngồi th́ tư duy, đi th́ giáo hóa, thương xót người ngu, yêu mến kẻ trí, đem trí tuệ dạy bảo, tinh tấn không ngừng nghỉ. Bồ-tát quan sát thấy người bạn xưa ấy nay làm thân người nữ, làm vợ một người giàu có, mê nơi tài sắc, không hiểu về vô thường, sông nơi chợ bán quán. Trời Đế Thích hóa làm người lái buôn, giả vờ đi chợ, đến đứng trước người đàn bà. Bà ta vui vẻ, vội sai con về nhà lấy ghế ra định mời ngồi. Người lái buôn mới ngắm nh́n người đàn bà mà mỉm cười. Người đàn bà giữ tiết hạnh cao, ư lay làm lạ về người lái buôn đứng cười không phải cách. Đứa bé đi lấy ghế ngồi trễ nên khi đem lại liền bị đánh, người lái buôn lại đứng cười. Bên cạnh có một đứa trẻ đang rung trống cơm nhảy đùa chơi, người lái buôn lại cười. Có một người cha bị bệnh, người con đem trâu đi tế quỷ, ông lái buôn cũng cười. Có một người đàn bà bổng con nâng niu đi dạo trong chợ, đứa bé cào rách mặt mẹ, máu chảy quanh cổ, người lái buôn lại cười nữa. Khi ấy, vợ người nhà giàu hỏi:

        -Ông đứng trước tôi, mỉm cười không dừng. Tôi đánh đứa bé, ấy là tại ông, v́ sao ông cười?

        Người lái buôn nói:

        -Bà là bạn tốt của ta, nay quên nhau rồi sao?

        Người đàn bà buồn bă, ư không vui và lấy làm lạ về lời nói của người lái buôn. Ông ấy lại nói tiếp:

        -Sở dĩ tôi cười về việc nàng đánh con, v́ đứa bé ấy là cha nàng, v́ thương cảm nên đầu thai làm con nàng. Chỉ cách một đời mà cha con không biết nhau, huống chi là lâu dài! Đứa trẻ rung trống cơm đó vốn là con trâu. Trâu chết phách linh của nó trở về làm con người, chủ nhà dùng da trâu để bịt trống, nay đứa trẻ đem trống cơm ra đánh, nhảy nhót, múa đùa, không biết da ấy là thân thể của ḿnh, nên tôi cười. C̣n người giết trâu đem tế, xin khỏi bệnh cho cha, cầu sống mà giết hại th́ việc rất chẳng lành, khác nào uống chất độc của chim chấm để chữa bệnh. Người cha ấy vừa chết, chết th́ làm trâu, nhiều đời bị đâm giết, thọ họa không thôi, nay đem trâu tế, trâu chết, hồn về, sẽ thọ thân người, thoát hết sầu khổ, do đó ta lại cười. Đứa trẻ cào cấu mặt mẹ vốn là người vợ nhỏ, người mẹ là vợ lớn. T́nh nữ chuyên dâm, nên ḷng mang ghen ghét, thường gây bạo ác, nên người vợ nhỏ ngậm hờn, sau khi chết hồn sinh làm con vợ lớn, nay lại báo thù, cào cấu vào mặt, gây thương tích cho thân thể mà người vợ lớn không dám than oán, ta cười là vậy.

        Phàm tâm của chúng sinh vốn nó không thường, luôn thay đổi, xưa ghét nay yêu, có ǵ là thường măi? Đây chỉ là một đời, thấy mặt c̣n không nhận ra nhau, huống chi là trải qua nhiều kiếp.

        Kinh nói:

        -Người v́ sắc tự vùi thân th́ không thấy được đạo lớn, kẻ chuyên nghe tiếng tà th́ không nghe được tiếng vang của Phật, ta cười chính là thế. Sang giàu của cuộc đời như chớp, chợt lóe liền tắt ngay, phải biết vô thường, chớ theo lũ ngu dại. Nên trau dồi nết đức và diệu hạnh của sáu độ. Ta nay trở về, ngày sau sẽ đến nhà ngươi.

        Nói xong bỗng nhiên biết mất. Người đàn bà bùi ngùi lui về nhà, dốc trai giới nghiêm túc, ngóng trông ngưỡng mộ. Cả nước đều nghe chuyện này, từ vua đến bá quan không ai là không khâm phục.

        Người lái buôn ngày sau quả đă đến nhà người đàn bà ấy, với h́nh dáng xấu xa, quần áo tồi tàn, nói với người nhà:

        -Bạn ta ở trong ấy, ngươi gọi ra giúp ta!

        Người nhà vào báo đầy đủ về h́nh dáng và lời nói của người này. Người đàn bà ra nói:

        -Ngươi không phải là bạn của ta.

        Đế Thích mỉm cười nói:

        -Đổi h́nh dạng, thay quần áo, nàng c̣n không nhận biết, huống chi đời khác bỏ thân này, thọ thân kia sao?

Lại nói tiếp:

        -Nàng siêng thờ Phật, thời có Phật khó gặp, Tỳ-kheo hạnh cao khó được cúng dường, mạng người như hơi thở, không nên mê hoặc theo nẻo thế tục.

        Nói rồi th́ biết mất. Cả nước vui mừng khen ngợi, mọi người đều vâng giữ, hành theo hạnh cao diệu của sáu độ.

        Đức Phật bảo Thu Lộ Tử:

        -Người đàn bà bấy giờ là Di-lặc, c̣n trời Đế Thích là thân Ta. Bồ-tát luyện chí độ vô cực, đă luôn tinh tấn như vậy.

* *

72- Kinh Người Nữ Cầu Nguyện.

        Bồ-tát thuở xưa, thân làm nữ nhân, có chồng tánh khí ngu ác, hay ghen. Mỗi lần đi buôn bán hắn đem vợ gởi cho bà góa lối xóm. Mẹ góa này vâng giữ giới luật của Phật, tu hạnh thanh tín. Khi Đức Phật vào nước đó, vua cùng thần dân không ai là không thọ giới. Người mẹ góa nghe kinh, trở về nhà nói lại cho người đàn bà ấy nghe. Người đàn bà vui mừng nói:

        -Đây chắc là Đấng Vô Thượng Chánh Chân Đạo Tối Chánh Giác.

        Bèn theo bà mẹ góa đi nghe Đức Phật thuyết giảng kinh pháp. Từ xa thấy Phật liền đảnh lễ.  Đến ngày chay, người mẹ góa hỏi: Hôm nay con đến chỗ Đức Phật nghe pháp được không? Người đàn bà mừng nói:

-Được.

        Vừa đi ra ngoài thành, người đàn bà chợt nhớ đến tánh hay ghen của chồng, nên bùi ngùi không vui, về lại nhà bà tự khinh ḿnh, bảo: “Họa của ta nặng thế sao!”. Người mẹ góa nghe về, thuật lại:

        -Hôm nay, trời, rồng, quỷ thần, đế vương, thần dân đi nghe kinh, có người chứng bốn quả Sa-môn. Hoặc nhận thọ kư Bồ-tát... thời có Phật khó gặp, kinh pháp khó được nghe, sao con lại quay về?

        Người đàn bà nghe nói về công đức của Phật th́ rơi lệ thuật rơ tánh cả ghen của chồng. Người mẹ góa nói:

        -Cứ thử đi một lần xem sao?

        Người đàn bà đáp:

        -Xin vâng.

        Rạng ngày bà theo người mẹ góa ra đi, thấy Phật bà liền gieo năm vóc xuống đất làm lễ, rồi đứng sang một bên, tâm thanh tịnh nh́n thấy tướng Phật tốt đẹp, nghĩ đến tâm thanh tịnh của Phật, bà quả quyết đây là bậc được trời tôn kính. Đức Phật hỏi người đàn bà:

        -Con đến đây có ước nguyện ǵ?

        Người đàn bà cúi đầu thưa:

        -Con nghe Đức Phật là Đấng Vô Thượng Chánh Chân Đạo Tối Chánh Giác Đạo Pháp Ngự Thiên Nhân Sư, đức nhiều như cát sông Hằng, trí như hư không, sáu thông, bốn đạt, chứng Nhất Thiết Trí, nay mới có dịp đến viếng Đức Thế Tôn, xin Đức Phật thương xót tới con.

        Đức Thế Tôn bảo:

        -Phật v́ tất cả chúng sinh mà cứu độ, con có sở nguyện ǵ cứ việc nói ra.

        Người đàn bà cúi đầu thưa:

        -Phàm người ở đời, chưa hiểu được gốc không, th́ đều v́ tham dục mà thành vợ chồng ăn ở với nhau. Nay con nguyện đời đời cùng với người chí đức kết đôi sống với nhau, đồng ḷng, không có hành vi ghen tuông. Hai là thân, khẩu, ư nết hạnh luôn đoan chánh hơn đời. Ba là thờ kính ba ngôi báu, ḷng trần ngày một tiêu trừ, tiến tu đạo pháp không biết mệt mỏi, được chư Phật giúp sức, các tà ngụy không ngăn cản, sẽ đạt được Nhất thiết trí, cứu nạn cho chúng sinh.

        Đức Phật khen:-Hay thay, hay thay! Mong người sẽ đạt được những ước nguyện ấy.

        Người đàn bà rất vui mừng, cúi đầu làm lễ, rồi trở lại nơi ở của ḿnh. Người chồng buôn bán trở về, đi thuyền theo đường thủy, lẽ ra đến nơi đúng vào hôm ấy. Trời Đế Thích thấy người đàn bà đức hạnh cao cả phát nguyện không ai hơn, bèn giúp vui khen lành, làm nổi gió mưa, khiến thuyền kia phải chậm lại, sáng ngày mai mới về tới.  Sau khi người đàn bà mạng chung, thần hồn sinh về gia đ́nh có đạo đức, nhan sắc tươi đẹp, đến tuổi trưởng thành, xuất giá làm vợ một nho sĩ trong nướe, được cả nước khen là cao hiền. Khi người chồng vào biển t́m kiếm của báu, để cứu giúp dân nghèo, người vợ ở nhà dùng lễ tự giữ ḿnh như bức thành bảo vệ chống giặc cướp. Hậu, phi của quốc vương, thê thiếp của đại thần không ai là không ngưỡng mộ, họ đến cửa như mây nhóm để học theo nếp đức của người đàn bà ấy. Người đó đêm ngủ tỉnh giấc, nghĩ: “Đời là vô thường, vinh hoa phú quư như huyễn, ai c̣n được măi đâu! Thân là thuyền mục, thần hồn phải chở, như người được bóng trăng mà mong - được vật báu của trời, nhọc ḷng khổ thân nào có ích ǵ cho ḿnh đâu! Mộng huyễn đều không, th́ đời sang quư của trời thần cũng đều quy về đấy. Sáng mai ta sẽ đi t́m Đấng Vô Thượng Chánh Chân, Bậc Trời trong trời ấy làm Thầy cho ta!”.

        Sáng dậy, đă thấy ngôi tháp đá trước sân, tượng Phật vàng ánh, vách tháp chạm viết kinh ca ngợi Đức Phật là thầy của các thánh, đi một ḿnh trong ba cơi, người đàn bà vui mừng khen: Đây chắc là Đấng Như Lai Ứng Nghi Chánh Chân Đạo Tối Chánh Giác?

        Liền gieo năm vóc xuống đất, làm lễ, rồi nhiễu quanh tháp ba ṿng, tung hoa, đốt hương, thắp đèn, treo lụa, sớm tối kính cẩn cúi đầu cúng lễ. Vương hậu và những phi nữ trong nước đều đến noi  theo phong thái trong sạch, bỏ tà vạy, chuộng chánh chân.

        Gần nhà có một tên buôn bán hung dữ, gặp người chồng nói:

        -Vợ ông theo yêu mị, dối lập miếu quỷ, sớm chiều xông hương, bùa chú yêu ma cầu cho ông chết, thật là chuyện chẳng lành!  Chồng về, vợ thưa:

        -Một đêm trước đây, thiếp hiểu ra được đời vô thường, sáng dậy thấy trong sân có bức tượng tuyệt đẹp của Đấng Tôn Linh Vô Thượng Chánh Chân, nên thiếp nay cúng thờ đốt hương, thắp đèn, treo lụa, dâng hoa, sớm chiều lễ bái, cúi đầu tự quy y, vậy chàng hăy thờ kính đi, ắt hợp với pháp Thánh.

        Người chồng rất vui mừng, một ḷng cung kính. Người trong nước lớn nhỏ thảy đều vâng theo, như thế đến tám vạn bốn ngàn năm.

        Đức Phật bảo Tôn giả Thu Lộ Tử:

        -Người đàn bà lúc bấy giờ là thân Ta, người chồng khi ấy là Di-lặc, người mẹ góa là Thu Lộ Tử, c̣n người đàn ông hung ác gần nhà ấy là Điều-đạt.

        Bồ-tát luyện chí độ vô cực, đă luôn tinh tấn như vậy.

* *

73- Kinh Người Thắp Đèn Được Thọ Kư.

        Bồ-tát thuở xưa, thân làm người nữ, trẻ đă góa bụa, thủ tiết, quy y ba ngôi báu, sống đời nghèo, vui đạo pháp, tinh tấn không mệt mỏi, từ bỏ những thứ lợi dữ, lấy việc bán dầu làm nghề nghiệp.

        Bấy giờ, có một vị Sa-môn tuổi đă xế bóng, ḷng giữ hạnh cao, không thông văn học, hạng người hay khen chê cho là không trí, nghiêng về kính lễ, thiếu trước hụt sau, đi xin dầu mè, để cúng dường trước Phật. Người mẹ góa biết rơ như thế, nên hàng ngày đem dầu dâng lên đầy đủ. Có một vị Tỳ-kheo, cúi đầu lễ nơi chân : Đức Phật, chắp tay thưa:

        -Vị Tỳ-kheo già đó tuy ít trí tuệ nhưng giới đủ hạnh cao, thắp đèn cúng dường, về sau được phước như thế nào?

        Đức Thế Tôn khen:

        -Lành thay lời hỏi ấy! Vị Tỳ-kheo già đó, trải qua vô số kiếp sẽ thành Đấng Như Lai Vô Sở Trước Chánh Chân Đạo Tối Chánh Giác, cổ có hai ṿng hào quang, sẽ dắt dẫn ba cơi, chúng sinh được độ không kể xiết.

        Người mẹ góa nghe được lời ấy, vội vàng đến chỗ Đức Phật, cúi lạy, tŕnh bày:

        -Vị Tỳ-kheo ấy thắp đèn, dầu do con cúng, vị ấy chứng Vô Thượng Chánh Chân Đạo, sẽ dắt dẫn chúng sinh, hồn về với gốc không, Trời, Người, Quỷ, Rồng không ai là không vui mừng. Kính mong Đức Phật thương xót thêm mà thọ kư cho con.

        Đức Phật bảo người đàn bà ấy:

        -Thân nữ không được làm Phật, Duyên giác, Phạm thiên vương, Đế Thích, Thiên ma, Phi hành hoàng đế... Những ngôi vị ấy tôn quư ṿi vọi, thân nữ không làm được. Phàm muốn đạt được những ngôi vị trên, th́ phải bỏ tấm thân ô uế, thọ thân thanh tịnh. Người đàn bà cúi đầu bạch:

        -Hôm nay con sẽ bỏ nó!

        Rồi bà trở về chỗ ở, tắm gội sạch sẽ, từ xa hướng về Đức Phật bái lạy thưa: “Phàm thân có là do bốn đại, ta không thể giữ lâu măi.” Rồi bà lên lầu phát nguyện:

        -Nay đem tấm thân ô uế này cho những chúng sinh bị đói khát, xin được làm thân nam để nhận thọ kư làm Phật. Như có đời dơ đục, chúng sinh mờ tôi, bỏ chánh theo tà, không biết đến Phật, con nguyện sẽ ở trọn đời đó mà cứu vớt họ.

        Rồi từ lầu cao nhảy xuống, người xem lạnh run. Đức Phật đă biết ư chí thành, nên hóa khiến đất mềm như tơ trời. Cả thân không bị hại, c̣n hóa làm thân nam, nên vui mừng không xiết, vội đến chỗ Đức Phật hớn hở bạch:

        -Chịu ân Đức Thế Tôn, con đă được thân trong sạch, kính mong Đức Thế Tôn thương xót thọ kư cho con.

        Đức Phật khen ngợi:

        -Con thật dũng mănh, đời thật ít người có, nhất định sẽ được thành Phật, không c̣n hồ nghi nữa. Khi vị Tỳ-kheo thắp đèn kia được thành Phật, sẽ trao danh hiệu Phật cho con.

        Trời, Người, Quỷ, Rồng nghe người ấy sẽ thành Phật đều hướng về bái lạy, chúc mừng. Trở về nơi ở, họ vẫn c̣n khen ngợi, ai nấy đều thêm tinh tấn.

        Bây giờ, chính người ấy khuyến dạy dẫn dắt quần sinh, số không kể hết. Đức Phật bảo Thu Lộ Tử:

        -Vị Tỳ-kheo già thời ấy là Đức Phật Định Quang, người mẹ góa là thân Ta.

KINH LỤC ĐỘ TẬP

Q1    Q2    Q3    Q4    Q5    Q6    Q7    Q8

KINH LỤC ĐỘ TẬP

Hán Dịch: Đời Đông Ngô, Sư-Môn Khương Tăng Hội,Người Nước Khương Cư.

Việt Dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 7

Chương V: THIỀN ĐỘ VÔ CỰC

        74-  Thiền độ vô cực là ǵ?

        Đó là ḷng ngay thẳng, ư chuyên nhất, gồm thâu các lành, mang lấy trong ḷng, dùng thiện để tiêu trừ các ư xấu nhơ. Thiền có bốn bậc. Hành Thiền thứ nhất bỏ chỗ tham ái, năm việc yêu tà. Mắt thấy sắc đẹp, ḷng dại v́ dâm, bỏ tai nghe tiếng..., mũi ngửi hương..., miệng nếm vị..., thân ưa tốt... Người có chí hành đạo ắt phải xa ĺa chúng.

        Lại có năm thứ che phủ: che do tham của cải, che do sân hận, che do mê ngủ, che do dâm dục, che do nghi ngờ. Có đạo hay không đạo, có Phật hay không Phật, có kinh hay không kinh, tâm ư luôn nhớ nghĩ th́ thanh tịnh không nhơ bẩn. Tâm sáng suốt; th́ thấy được nẻo chân, chứng đạt th́ không ǵ là không biết. Trời, Rồng, Quỷ yêu không thể mê hoặc được, như người có mười nỗi oán mà đă ĺa bỏ, thoát thân được, một ḿnh ở trong núi, không ai biết, không c̣n lo sợ. Người xa t́nh dục, trong sạch, tâm lặng, đó gọi là Thiền thứ nhất.

        Tâm đă đạt được Thiền thứ nhất rồi th́ tiến hướng đến Thiền thứ hai. Bậc Thiền thứ hai như người tránh oán thù, tuy ở trong núi sâu mà vẫn c̣n sợ oán thù t́m đến, càng tự giấu sâu thêm. Hành giả tuy xa mười oán thù dục t́nh, vẫn c̣n sợ giặc dục đến hủy hoại chí đạo. Khi chứng được Thiền thứ hai th́ dục t́nh hơi xa không thể làm ô uế ḿnh được. Ở bậc Thiền thứ nhất, thiện ác tranh nhau, dùng thiện trừ ác, ác lùi thiện tiến, ở bậc Thiền thứ hai, ḷng vui dừng lặng, không c̣n dùng thiện để tiêu diệt ác nữa. Hỷ, thiện hai ư đều tiêu diệt, mười ác bặt tăm, nhân duyên bên ngoài không len vào được trong ḷng. Ví như đỉnh cao có suối, suối không có nguồn nước chảy vào, cũng chẳng phải nước do rồng mưa xuốg, mà suối tự cónước trong sạch tràn đầy, thiện từ tâm ra, ác cũng không c̣n do mắt, tai, mũi, miệng vào nữa. Chế ngự được tâm như vậy th́ ḷng hướng về Thiền thứ ba.

        Ở bậc Thiền thứ ba, giữ ư vững vàng chắc chắn, thiện ác không vào được, ḷng an như núi Tu-di, ác thiện không ra với việc bên ngoài, thiện ác vắng tiêu, không len vào trong ḷng, giống như hoa sen, gốc cành ở trong nước, hoa búp chưa nở bị nước phủ che. Hành Thiền thứ ba thanh tịnh như hoa sen, bỏ ĺa các ác, tâm ư đều an. Chế ngự được ḷng như thế liền hướng về Thiền thứ tư. Ở bậc này, thiện ác đều bỏ hết, ḷng không nghĩ thiện, cũng chẳng nhớ ác, trong ḷng sáng sạch như ngọc lưu ly. Lại như vương nữ, tự tắm gội sạch sẽ, thân thoa hương thơm, áo mới mặc trong ngoài rực rỡ, thơm sạch hiển bày. Bồ-tát ḷng ngay chứng Thiền thứ tư. Lũ tà chúng bẩn, không thể che ḷng, giống như lụa sạch nhuộm màu ǵ chẳng được. Lại như thợ gốm, nhồi đất nặn đồ, đất không cát sỏi th́ nắn đồ ǵ cũng được. Lại như thợ bạc, nấu chín vàng ṛng, trăm lạ, ngàn khéo theo ḷng ḿnh muốn. Bồ-tát tâm tịnh, chứng được bốn Thiền ấy rồi tùy ư tự do, nhẹ nhàng bay nhảy, bước trên nước mà đi, phân tán thân thể, biến hóa muôn điềura vào không gián đoạn, mất c̣n tự do, sờ mó mặt trời mặt trăng, lay động trời đất, thấy nghe thông suốt, không ǵ là không lănh hội thấu đáo. Tâm thanh tịnh xem xét sáng suôt, chứng được Nhất thiết trí. Được trí này rồi, th́ từ khi chưa có trời đất chúng sinh đổi thay mười phương hiện tại, các tâm đă nghĩ nhớ, việc chưa nẩy sinh, hồn linh của chúng sinh làm trời, làm người, đọa vào địa ngục Thái sơn, sinh trong loài ngạ quỷ, súc sinh, phước hết th́ thọ tội, tai ương hết th́ thọ phước, không chỗ xa nào mà không đi tới. Phàm được bốn Thiền rồi mà muốn được trí sáng suốt của các bậc Câu cảng, Tần lai, Bất hoàn, Ứng nghi và trí sáng giác ngộ của các Bậc Như Lai Chí Chân B́nh Đẳng Chánh Giác Vô Thượng th́ cầu là được ngay, giống như muôn vật đều từ nơi đất mà sinh ra. Từ bậc đạt trí năm thông cho đến Bậc Thế Tôn đều từ bốn Thiền mà thành, cũng như chúng sinh không thể đứng vững nếu không có đất.

        Đức Thế Tôn lại dạy:

        -Quần sinh ở đời, dù cho có được trí của các bậc Thiên đế, Tiên thánh tuệ thông, mà không gặp kinh này th́ cũng không đạt được cái định dứt ĺa bốn thứ, khác nào người ngu tối. Đă có trí tuệ, mà lại nhất tâm, là gần với việc độ đời.

        Đấy là Thiền độ vô cực của Bồ-tát, nhất tâm như vậy.

* *

75-  Thuở xưa có vị Tỳ-kheo ăn xong rửa tay, súc miệng, đi vào núi sâu, nơi g̣ mả, bên gốc cây mà ngồi, chấp tay, cúi thấp đầu, nhất tâm diệt tạp niệm, trong tâm ư quyết tiêu trừ năm thứ phủ che. Năm thứ ấy diệt rồi th́ tâm kia bừng sáng, tối tăm lui mất, sáng suốt hoàn toàn ngự trị. Bèn nh́n lại thương xót trời người, các loại ḅ bay máy cựa, thương chúng ngu si mê hoặc măi ôm nặng năm thứ phủ che, ngăn dứt cái tâm lành sáng suốt. Trừ bỏ năm thứ che phủ th́ các thiện liền mạnh, giống như người nghèo vay nợ để làm ăn, được lợi trả nợ, của cải c̣n dư dùng sửa nhà ở, hàng ngày có lợi thu vào, ḷng người ấy vui mừng.

        Lại như hàng nô tỳ được thoát làm người dân lương thiện, kẻ khỏi được bệnh khốn cùng, họ hàng ngày một đông đảo, như kẻ bị tội nặng giam cầm trong ngục, gặp dịp ân xá được thoát khỏi.

        Lại như người đi t́m châu báu qua biển, trải nhiều hiểm nguy được về đến nhà, gặp lại người thân, vui sướng không lường.

        Ḷng mang năm thứ che phủ như bị năm cái khổ ấy. Tỳ-kheo thấy rơ sự thật, ĺa bỏ năm thứ che phủ, giống như những người phàm kia thoát khỏi năm nạn trên. Năm thứ che phủ lùi th́ trí sáng tiến, các ác thảy đều bị tiêu diệt, chí đạo cường thịnh, liền chứng được Thiền thứ nhất, từ Thiền thứ nhất đến Thiền thứ hai, thường có ba hạnh:

        Một là Cần lực.

        Hai là Sổ niệm.

        Ba là Tư duy.

        Từ ba việc này thành được Thiền thứ tư. Đi từ Thiền thứ nhất đến Thiền thứ hai, từ Thiền thứ hai đến Thiền thứ ba, từ Thiền thứ ba đến Thiền thứ tư. Thiền thứ tư hơn Thiền thứ ba, Thiền thứ ba hơn Thiền thứ hai, Thiền thứ hai hơn Thiền thứ nhất, ở bậc Thiền thứ nhất th́ mười ác lui, năm thiện tiến lên.

        Mười ác gồm những ǵ?

        Mắt ưa sắc đẹp, tai ưa tiếng hay, mũi ưa hương thơm, miệng ưa vị ngon, thân ưa chạm tốt, cộng thêm với năm thứ che phủ ở trên, gọi là mười ác.

        Năm thiện gồm những ǵ?

        Một là kế, hai là niệm, ba là ái, bốn là lạc, năm là nhất tâm. Đây là năm thiện ở bên trong.

Ở bậc Thiền thứ hai th́ không c̣n kế, niệm nữa. Chế ngự tâm quán sát bên trong, hạnh thiện ở bên trong, không c̣n do tai, mắt, mũi, miệng ra vào nữa nên hai hạnh thiện, ác không c̣n can thiệp vào nhau, tâm trụ ở trong chi có hoan hỷ. Hạnh Thiền thứ ba trừ bỏ hoan hỷ, tâm hướng về thanh tịnh, trong lặng tịch tĩnh. Đức Thế Tôn, chư Phật, A-la-hán dạy:

        -Những ai có thể diệt dục, làm sạch cơi ḷng th́ thân trọn đời luôn an ổn.

        Bậc Thiền thứ tư th́ tâm hỷ bỏ đi, chứng được định, tịch tĩnh. Thiền thứ nhất, tai bị tiếng làm loạn. Thiền thứ hai, tâm bị niệm làm loạn. Thiền thứ ba, tâm bị hoan hỷ làm loạn. Thiền thứ tư tâm bị hơi thở làm loạn. Thiền thứ nhất tai ngừng tiếng loạn th́ tiến đến Thiền thứ hai. Thiền thứ hai niệm diệt hết th́ tiến đến Thiền thứ ba. Thiền thứ ba hoan hỷ diệt th́ tiến đến Thiền thứ tư. Thiền thứ tư hơi thở diệt th́ chứng được pháp Định không.

Thiền độ vô cực của Bồ-tát luôn nhất tâm như vậy.

* *

76-  Chí đạo của Bồ-tát, thường dùng mấy sự việc có thể khiến cho trong tâm thanh tịnh chuyên nhất, chứng đắc thiền. Khi thấy người già đầu bạc, răng rụng, h́nh thể đổi khác, thấy thế th́ ḷng hiểu rằng: “Ta sau này ắt như vậy”. Một ḷng hiểu vậy th́ đạt được thiền.

        Hoặc thấy người bệnh, thân tâm khôn đốn, đau đớn như bị đánh gậy, bùi ngùi hiểu ra: “Ta sau này cũng như thế”. Một ḷng hiểu như vậy th́ đạt được thiền.

        Hoặc thấy chúng sinh thọ mạng hết rồi, hơi thở dứt, khí ấm tan đi, thần hồn rời khởi, thân xác lạnh tanh, họ hàng bỏ rơi, đem đặt ngoài đồng xa, trong khoảng mười ngày th́ thân thể śnh lên thôi rữa, hoặc bị chồn, chó, các loài chim đến ăn thịt, thịt da sinh ḍi, ḍi quay lại ăn thịt của thân, mủ, máu nước dơ chảy nhầy nhụa trên đất, xương cốt rời ră mỗi đoạn một nơi, chân, bàn chân, đùi vế, xương mông, xương ống, xương sườn, xương tay, đầu, răng, sọ mỗi thứ đều tự chia ĺa. Người học đạo nghĩ: “Phàm đă sống là có chết, người vật như huyễn, hợp tức có tan, thần hồn, đi thân thể ră. Ta há được riêng khác, không như thế sao?” Thấy vậy th́ buồn thương, một ḷng hiểu như thế th́ được thiền.

        Hoặc thấy thây chết lâu thân thể xương cốt tiêu diệt, tan cùng với cát bụi bùn đất, tự nghĩ sâu rằng: ‘Thân thể ta rồi cũng như vậy”. Một ḷng hiểu như thế th́ đạt được thiền.

        Hoặc do nghe về khổ độc dữ, nước sôi, lửa bỏng của ngục Thái sơn, đau đớn khốc liệt, những nỗi nhọc nhằn, đói khát của loài ngạ quỷ, những sự khổ sở v́ bị mổ, giết, cắt, chặt của loài súc sinh, ḷng thấy những điều đó, ngạc nhiên. Một ḷng hiểu vậy th́ được thiền.

        Hoặc thấy kẻ nghèo cùng, đói rét, mà chết. Hoặc thấy kẻ có hành vi phi pháp bị phép vua trừng phạt. Người học đạo nghĩ: “Người này bị nạn là do không có chí đạo. Ta không tinh tấn ắt lại như họ vậy thôi”. Một ḷng hiểu vậy th́ đắc thiền. Nghĩ sâu, quan sát chính bên trong bản thân, dưới th́ bị đại, tiểu tiện bức bách, trên th́ bị nóng lạnh lấn hiếp. Nhân đó biết rơ về thân là đáng ghét. Một ḷng hiểu vậy th́ được thiền.

        Hoặc gặp năm mất mùa, ngũ cốc vơi cạn, dân chúng nghèo cùng làm loạn, đánh giết lẫn nhau, thây chết ngổn ngang. Thấy đó nên buồn thương nghĩ: “Ta không hành đạo ắt cũng như vậy”. Một ḷng hiểu thế th́ được thiền. Thấy có thịnh có suy, của cải khó má bảo tồn, trẻ trung tráng kiện th́ có già lăo bệnh hoạn thọ, mạng như ánh chớp. Kinh ngạc nhớ nghĩ thế th́ ngạc nhiên, một ḷng hiểu vậy th́ được thiền. Nghĩ về Đức Phật tướng tốt lồng lộng, đều do tu hành thanh tịnh mà thành Bậc Thế Tôn, nghĩ vậy ḷng vui, một ḷng hiểu thế th́ được thiền.

        Hoặc luôn nhớ diệu nghĩa sâu xa của kinh điển, những hạnh cao của hàng Sa-môn, một ḷng hiểu vậy th́ được thiền. Thân chỉ

làm thiện, trước sau tích lũy công đức, một ḷng nghĩ vậy th́ được thiền. Chỉ kẻ ngu mới mong trái với pháp sáng của Đức Phật, đă nhọc nhằn mà thêm tội. Chư Thiên ở đời, giữ giới tŕ trai, tự đạt đến cơi trời, sống lâu, vinh hiển không lường. Một ḷng hiểu như vậy th́ được thiền.

        Nhận kinh thâm diệu của Đức Phật, rồi tư duy kỹ lưỡng về nghĩa sâu đó, v́ chúng sinh dạy bảo dắt dẫn, trong ḷng hoan hỷ. Một ḷng nghĩvậy th́ đạt được thiền. Luôn nhớ nghĩ về chúng sinh có thành liền có hoại, mọi sự hoại diệt đều thống khổ, nghĩ thế buồn thương. Một ḷng nghĩ vậy th́ đạt được thiền.

        Tánh khí của chúng sinh, không thể tự giữ lấy, xưa nay luôn biến đổi, người học đạo tự sợ hăi, mạng hết chết đến, hoặc đọa vào đường ác, thấy rơ nẻo vinh hoa của cuộc đời thật dối như mộng, tâm lại tỉnh ngộ. Một ḷng nghĩ vậy th́ đạt được thiền.

        Các món ăn vào miệng, cùng với nước giải ḥa quyện, ngoài ngon trong thôi, hóa thành phân, nước tiểu. Nhớ nghĩ lại đáng chán, một ḷng nghĩ vậy th́ được thiền.

        Đứa trẻ ở trong bụng mẹ, mới đầu đọng lại như cháo, rồi dần dần lớn lên, đủ tháng đủ ngày, thân thể đều h́nh thành, đến nạn sinh ra, nhiều nguy ít an, sau khi đă sinh, các thứ bệnh hoạn cùng tăng, hoặc sống được một, hoặc mười, hoặc năm mươi, thậm chí cả trăm năm đi nữa cũng đều phải già chết, không ai khỏi cái nạn ấy. Nghĩ ḿnh cũng thế. Một ḷng nghĩ vậy th́ được thiền.

        Có c̣n tức có hoại, theo t́m không chốn, ba cơi đều không, ḷng chẳng tham luyến, nghĩ thương chúng sinh không thấy kinh Phật, bị tà dục che khuất, không biết vô thường, nên thệ nguyện cứu vớt. Một ḷng nghĩ vậy th́ được thiền.

        Hoặc chí quyết hoàn thành hạnh cao, luôn giữ bốn thứ tâm, thương xót nuôi dưỡng chúng sinh, giống như mẹ hiền thương giữ con trẻ. Con theo bạn bè nô đùa, mẹ đem ḷng Từ bi đi t́m, thấy con bị bùn bụi làm dơ bẩn, đói khát kêu khóc. Thấy con như thế, thương đến rơi nước mắt, bồng con trở về, tắm rửa thay quần áo, cho ăn uống, con được khỏe khoắn, vui tươi, ḷng từ mẫu hoan hỷ. Mẹ thương yêu giữ ǵn con quanh quẩn bên ḿnh, không bỏ bê như trước nữa. Người học đạo từ bi, yêu thương giúp đỡ chúng sinh c̣n hơn mẹ hiền kia, chỉ dạy mọi người trong thiên hạ, cùng các loài ḅ, bay, máy, cựa... thờ Phật, xem kinh, thân chuộng chúng Sa-môn, giữ lấy giới Phật, nhớ nghĩ mà thực hành theo, xa ĺa ba ác, ḷng nghĩ điều thiện, miệng nói điều thiện, thân làm việc thiện, ngăn chặn ba việc ác trên, luôn hưng khởi ba việc thiện, th́ măi măi khiến không phải chịu nỗi cùng khổ, hiểm nguy nơi địa ngục Thái sơn, ngạ quỷ, súc sinh nữa, yên ổn nơi nhà phước đức vô bờ. Người học đạo lại c̣n t́m theo để dạy dỗ, sợ ở nơi nhiều phước rồi trở nên kiêu ngạo, phóng đăng, buông thả theo ḷng ác mà trở lại nơi ba nẻo dữ, cũng là cái họa của sự giàu sang. Bèn đem cảnh vô thường, khổ, không, biến đổi để khuyên răn. Khuyên giữ vô vi, như ḷng người mẹ hiền ǵn giữ con. Tư duy về mười sáu việc, một ḷng nghĩ vậy th́ đạt được thiền. Mười sáu việc ấy gồm những ǵ?

        -Hơi thở dài, ngắn liền tự biết, hơi thở động thân liền tự biết. Hơi thở nhỏ liền tự biết. Hơi thở nhanh chậm liền tự biết. Hơi thở dừng, đi liền tự biết. Hơi thở vui, buồn liền tự biết. Tự nghĩ về vạn vật vô thường, hơi thở tự biết, vạn vật quá khứ không thể đuổi theo, hơi thở tự biết. Ḷng không điều suy, bỏ đi chỗ nghi hơi thở tự biết. Buông bỏ thân mạng hay không bỏ thân mạng, hơi thở tự biết. Người học đạo nghĩ ngợi sâu xa. Có đó tức được đó. Không có tức không được đó. Phàm có sống ắt có cái nạn già chết, hồn linh không mất, liền phải thọ thân. Không sinh th́ không già, không già th́ không chết. Một ḷng nghĩ vậy th́ được thiền.

        Người học đạo dùng mắt quan sát về sự sống chết ở đời, chỉ dốc quán về mười hai nhân duyên, một ḷng nghĩ vậy th́ được thiền.

        Người học đạo dùng năm việc để tự quán về h́nh thể. Một là tự quán về mặt mày nhiều lần biến đổi. Hai là khổ vui nhiều lần thay đổi. Ba là tâm ư nhiều lần biến đổi. Bốn là thân thể nhiều lần đổi khác. Năm là thiện ác nhiều lần cải đổi. Đó là năm việc, có nhiều biến đổi giống như ḍng nước chảy trước sau dồn dập. Nghĩ những việc này mà dốc một ḷng th́ được thiền.

        Người học đạo nhớ thiền phải thế nào?

        Mắt thấy người chết, từ đầu đến chân, nghĩ kỹ nh́n rơ giữ niệm trong tâm; đi, đứng, nằm ngồi, ăn uống... mọi việc luôn giữ niệm ấy nơi tâm để củng cố ư chí th́ được thiền, suy nghĩ tự tại. Vínhư người nấu cơm đến mấy hộc gạo, muốn biết chín chưa, chỉ cần lây một hột gạo đang nấu mà xem, hột gạo ấy đă chín th́ biết là phần c̣n lại đều chín. Chí đạo cũng như thế.

        Tâm đi về giống như ḍng nước chảy. Người học đạo nghĩ thẳng một việc, tâm dừng, ư sạch th́ có thể chứng được đạo chân A- la-hán giải thoát. Ớ bậc Thiền thứ nhất, muốn chứng A-la-hán có thể được chăng?

        Đáp:

        -Trong ấy có người chứng được, có người không chứng được.

        -Làm ǵ th́ có thể được, làm ǵ th́ không được?

        Trong Thiền thứ nhất mà có “niệm”, có “ái” th́ đạo không thành. Trời đất vô thường, hư không khó giữ, cấu bẩn nơi tâm sạch hết, không c̣n ư niệm tham ái, tâm thanh tịnh như thế th́ chứng được A-la-hán. Từ Thiền thứ hai, thứ ba đến Thiền thứ tư giữ tâm như ở Thiền thứ nhất, luôn nhớ đến Thiền thứ nhất, dù chưa đắc A- la-hán th́ sau khi mạng chung, cũng có thể hướng đến, liền sinh lên cơi trời thứ bảy, thọ mạng một kiếp. Ở Thiền thứ hai, mạng chung sinh lên cơi trời thứ mười một, thọ mạng hai kiếp. Ở Thiền thứ ba, mạng chung sinh lên cơi trời thứ mười lăm, thọ mạng tám kiếp. Ở Thiền thứ tư, mạng chung sinh lên cơi trời thứ mười chín, thọ mạng mười sáu kiếp. Người học đạo tự quan sát về mọi nẻo trong thân thể đều không sạch, tóc da, đầu lâu, thớ thịt, nước mắt, nước dăi, gân mạch, thịt tủy rồi cả sáu phủ, năm tạng. Các thứ dơ bẩn ấy chung hợp lại mới làm thân người. Giống như dùng bao đựng đầy năm thứ lúa thóc hoa màu. Có túi chứa nước mắt, xem xét riêng ra từng thứ từng thứ đều khác. Nhận rơ về người như thế, nội quán về thân ḿnh số lượng giống loại của bốn đại mỗi thứ đều có tên, đều là không có chủ thể. Dùng quán vô dục mới thấy người vốn không. Quán như thế mà dốc một ḷng th́ được thiền.

        Người học đạo quan sát sâu xa, nhận rơ về trong thân bốn đại: đất, nước, gió, lửa, tóc, lông, xương, răng, da, thịt, năm tạng... Đó là thuộc đất. Nước mắt, mũi dăi, máu mủ, mồ hôi, mở, tủy năo, tiểu tiện... đó là thuộc nước. Nóng ấm trong thân, chủ làm tiêu việc ăn uống, ấy là thuộc lửa. Hơi thở ra vào ấy là thuộc gió. Ví như người đồ tể giết súc vật, mổ ra riêng biệt làm bốn phần, biết tường tận đầy đủ.

        Người học đạo quan sát trong thân, phân biệt bốn đại rành mạch: “Đây là đất, kia là nước..”. Lửa, gió cũng vậy, đều là không chủ thể. Luôn tâm niệm, về điều đó cho đến khi ḷng hoàn toàn trong lặng. Một ḷng như vậy th́ được thiền.

        Người học đạo biết được hơi thở dài ngắn, chậm mau, lớn nhỏ. Thảy đều phân biệt biết rơ. Giống như người nạo đồ vật th́ sâu cạn tự biết, nhớ nghĩ về hơi thở cũng như thế. Một ḷng nghĩ vậy th́ đạt được thiền.

        Thiền độ vô cực của Bồ-tát luôn nhất tâm như vậy.

* *

77-  Thái tử ra ngoài dạo chơi, nhà vua ra lệnh cho trong nước dẹp hết các thứ ô uế có trên đường thái tử đi qua. Thái tử ra khỏi thành, vua cơi trời thứ hai hóa làm một người già, đứng ở trước xe, đầu bạc, lưng c̣ng, chống gậy lần bước đi. Thái tử hỏi:

        -Đây là người ǵ?

        Người đánh xe thưa:

        -Đó là người già.

        Hỏi:

        -Sao gọi là già?

        Thưa:

        -Bốn đại trong các căn đă rệu ră, mạng sống c̣n lại khổng bao nhiêu!

        Thái tử hỏi:

        -Ta sau này cũng sẽ già ư?

        Thưa:

        -Từ xưa ai cũng phải già, không Thánh nào tránh khỏi.

        Thái tử nói:

        -Ta được gọi là bậc sang quư, so với kẻ phàm có khác, mà đều không tránh, như thế th́ giàu sang có ích ǵ cho ḿnh đâu?

Trở về cung, ḷng nghĩ măi về đều ấy. Một ḷng nghĩ vậy th́ được thiền.

        Nhà vua hỏi người theo hầu:

        -Thái tử đi dạo chơi, xem đất nước có vui không?

        Thưa:

        -Trên đường đi thái tử thấy người già, cảm nhận đời vô thường nên ḷng không vui.

        Nhà vua sợ thái tử bỏ nước đi tu, nên tăng thêm mọi sự hoan lạc, dung vinh hoa để mê hoặc, đem âm nhạc để làm loạn chí, nhằm phá ḷng t́m đạo, khiến ở lại giữ ngôi báu. Sau đó thái tử lại đi dạo, vua ra lệnh:

        -Không được để bất cứ người già yếu nào ở ven đường.

        Vị Đế Thích trước đây lại hóa làm người bệnh với thân thể mệt mỏi, hơi sức yếu ớt, da bọc xương, nước bẩn bôi trét lên thân, đứng tựa bên cửa.

        Thái tử hỏi:

        -Đây lại là người ǵ?

        Người hầu thưa:

        -Đó là người bệnh.

        Hỏi:

        -Sao gọi là bệnh?

        Thưa:

        -Ăn uống không điều độ, thức ngủ không giờ giấc, nên bị bệnh. Bệnh th́ có thể hết, cũng có thể chết.

        Thái tử nói:

        -Ta cũng ăn uống không điều độ, nằm dậy cũng không giờ giấc, nên lại cũng bị bệnh ư?

        Thưa:

        -Có thân tức là có bệnh, không ai khỏi được cái nạn ấy.

        Thái tử nói:

        -Ta không tránh khỏi được nạn này, về sau ắt cũng bị như thế.

        Trở về cung, trong ḷng măi nhớ nghĩ về điều ấy mà một ḷng vào thiền.

        Sau lại ra đi dạo nữa. Trời Đế Thích lại hóa làm người chết, người khiêng xác, kẻ vác cờ, thương khóc đầy cả lối đi.

        Thái tử hỏi:

        -Đây lại là người ǵ?

        Thưa:

        -Đó là người chết.

        Hỏi:

        -Sao gọi là người chết?

        Đáp:

        -Khi mạng chung, thần hồn ĺa khỏi xác, h́nh hài bị tiêu tan, cùng người thân xa ĺa măi, đau đớn khôn xiết.

        Thái tử nói:

        -Ta rồi cũng vậy sao?

        Thưa:

        -Ngay cả bậc Thượng thánh, đức độ thuần thục cũng khổng khỏi nạn ấy.

        Thái tử cho quay xe trở về cung, rồi dốc ḷng nhập thiền. Sau đó, lại ra dạo, đi đến nhà trực của ruộng vua, ngồi bên gốc cây, thấy người cày ruộng lật đất bày trùng ra, con th́ bị thương, con th́ chết, chim chóc đuổi theo mổ ăn, trong ḷng buồn bă, than dài:

        -Ôi, chúng sinh thật rối rắm, thống khổ thế này mà chịu được.

        Nghĩ rồi buồn thương một ḷng nhập thiền. Khi mặt trời lên cao nắng chiếu vào thân thái tử, cây liền rũ thấp cành xuống che, không cho mặt trời thiêu đốt. Vua cha t́m đến chỗ thái tử, từ xa trông thấy uy linh của bậc Thánh đức vô thượng, ḷng buồn vui lẫn lộn, bất giác gieo ḿnh cúi đầu làm lễ. Thái tử cũng cúi đầu sát đất. Cha con thăm hỏi nhau xong, Vua trở về cung, thái tử dốc ḷng nhập thiền.

        Thiền độ vô cực của Bồ-tát luôn nhất tâm như vậy.

* *

78-  Lúc thái tử mới sinh, vua bảo thầy xem tướng. Thầy tướngtâu:

        -Ở lại trị nước ắt sẽ làm Phi hành hoàng đế, nếu bỏ nước đi làm Sa-môn th́ sẽ làm bậc thầy của trời người.

        Vua cho xây dựng cung điện ba mùa, xuân, hạ, đông, mỗi mùa có một cung điện khác nhau. Mỗi cung điện có năm trăm kỹ nữ, không mập, không gầy, cao thấp hài ḥa, nhan sắc tươi sáng đều như đào mận. Mỗi cô đều rành một ít môn nhạc, dáng vẻ dịu hiền, để làm vui thái tử. Trước điện, vua cho trồng từng hàng cây ăn quả ngon ngọt, hương hoa thơm phức, xây ao trong sạch, trong có đủ các thứ hoa, các loài chim khác lạ tiếng hót ḥa nhau, cửa cung đóngmở tiếng nghe xa đến bốn chục dặm, trung thần vệ sĩ tuần tra không chút lơ là. Các chim báo động như Giao thanh, Uyên ương, có điều ǵ khác thường là kêu liên tục. Năm mười bảy tuổi, thái tử không kinh điển ǵ mà không thông thạo, thầy phải quay lại bái phục thọ giáo. Nhà vua cưới vợ cho thái tử, vợ tên Cừu-di, dung nhan như hoa sánh với Thiên nữ. Sức mạnh của thái tử có thể quật ngă một lúc sáu chục con voi lớn. Năm lên mười chín tuổi, thái tử tập hợp hết kỹ nữ của ba cung điện, gồm một ngàn năm trăm người về ở một điện, buộc họ tấu các món kỹ nhạc, khiến họ mệt mỏi ngủ say để tiện bề ra đi. Trời khiến mọi người chơi nhạc đều ngủ say không biết ǵ. Thái tử lặng nghĩ, nh́n các kỹ nữ giống như người gỗ, xương cốt đều rỗng trông như đốt tre, tay chân rũ xuổng đất, nước mắt, nước mũi chảy ra, miệng trào nước dải hoen bẩn cả má, đầu rối, gối trống.Người tấu nhạc đều mang ṿng khuyên ngọc quư lủng lẳng, khi đi đong đưa màu sắc lấp lánh. Hạt châu, chuỗi ngọc, ṿng côn đẹp, khéo lụa là thêu hoa văn năm màu trên quần áo vua ban. Các nhạc khí như đàn cầm, đàn sắt, đàn tranh, sáo, kèn, ống tiêu tất cả đều để ; ngổn ngang trên mặt đất. Các chim báo động và đám người bảo vệ đều ngủ cả không biết ǵ. Thái tử dùng đôi mắt sáng suốt quan sát khắp mọi thân, lại nh́n vợ ḿnh, từ đầu tóc, sọ, xương, răng, móng tay da thịt, máu, mủ, tủy năo, gân mạch tim mật, lá lách, thận, gan, phổi, ruột, bao tử, nước mắt, phân, nước tiểu, nước dăi... Bên trong xem như xương khô, bên ngoài trông như bị thịt, tất cả không chút đáng quư, nơi nơi toàn là đồ bất tịnh hôi thối. Thấy đó nhớ lại cũng đủ thấy người buồn nôn, như ngoài mặt trang điểm áo quần lụa là hoa văn sặc sỡ, xông thoa hương thơm mà bên trong th́ chứa đầy ; phân, nước tiểu, mủ máu. Người ngu tin cái bày bên ngoài, c̣n người sáng suốt th́ thấy rơ bên trong nên họ ĺa xa muôn dặm, hăy c̣n nhắm mắt lại.

        Thái tử thấy chúng như là huyễn mộng, khó giữ lâu dài được, ở đời tam mượn, ắt sẽ trả về cho chủ, người nằm ngổn ngang giống như thây chết, không có ǵ vui. Dốc một ḷng được thiền, từ thiền tỉnh ra, ngước nh́n sao trời, biết đă nửa đêm, chư Thiên hiện ra đầy bên cạnh, đang chắp tay làm lễ, tung hoa hương, tấu kỹ nhạc, cất lời nguyện vô lượng. Thái tử thấy chư Thiên cúi đầu làm lễ liền nói kinh rằng:

        -Dâm dật rất ác, khiến người say cuồng. Chê chánh, khen tà, lấy tôi làm sáng. Thế nên chư Phật, Bích-chi, La-hán, chẳng khen là hay, phải mau xa tránh.

        Suy đi nghĩ lại, bèn gọi Xa-nặc bảo:

        -Hăy mau thắng ngựa Kiền-trắc.

        Rồi lại tự nghĩ: “Cửa thành đóng mở, nghe xa đến bốn chục dặm, biết làm sao đây?”. Chư Thiên đều nói:

        -Kính thưa Thế Tôn, chúng tôi ngăn cửa, khiến nó không động, để người trong cung không biết!

        Chân ngựa tuyệt nhiên không nghe một tiếng nhỏ. Thái tử lên ngựa, trăm ức Đế Thích, bốn trăm ức Tứ đại Thiên vương, Trời, Rồng, Quỷ, Thần bay theo dẫn đường. Đường đi bằng phẳng, nhạc trời vịnh ca: “Đấng Vô Thượng lồng lộng. Chúng ta sinh gặp Ngài. Ánh thiêng được thấy rồi. Tiêu diệt ḷng trần bẩn. Trọn đời chẳng suy phai. Khổ đau thay tám nạn. Đáng thương phải xa Ngài!”

        Chư Thiên lại nói:

        -May mắn thay cho chúng ta gặp Ngài!

        Ngựa vừa ra khỏi cửa, cửa liền phát ra tiếng động, ngựa nghẹn ngào kêu đau thương, nước mắt chảy quanh má. Chư Thiên giấu vua, cả nước không hay biết, sở dĩ như vậy là muốn cho thái tử sớm được đắc đạo. Thái tử bỏ ngôi vị Kim luân vương bảy báu, chịu các khổ sở để cứu độ chúng sinh.

        Thiền độ vô cực của Bồ-tát luôn nhất tâm như vậy.

* *

79-  Khi Thái tử chưa đắc đạo, lấy cỏ rơm trải đất bên gốc cây, rồi chắp tay ngồi ngay thẳng, loại bỏ các ư niệm dơ bẩn, làm trong sạch tâm, chuyên nhất chí, tự nghĩ: “Bắt đầu từ hôm nay, dù cho thịt gân khô nát tại nơi đây, nếu ta không thành Phật, nhất định không đứng dậy.”

        Bồ-tát liền đắc Thiền thứ nhất, thứ hai, thứ ba đến Thiền thứ tư. Trong đêm thứ nhất chứng được ‘Thuật đồ thứ nhất”, biết được cha mẹ, anh em, vợ con, họ hàng của ḿnh từ vô số kiếp. Trong đêm thứ hai chứng được ‘Thuật đồ thứ hai” tự biết chúng sinh từ vô số kiếp, giàu nghèo sang hèn, cao thấp, tốt xấu, trong tâm chúng sinh có niệm hay không niệm, không ǵ là không biết. Trong đêm thứ ba chứng được “Thuật đồ thứ ba”, ba độc đều diệt. Lúc đêm trở về sáng, Phật đạo đă thành, Ngài trầm lặng suy nghĩ: “Ta nay thành Phật, hết mực sâu xa, hết sức sâu xa, khó hiểu khó biết, nhỏ nhiệm nhất trong mọi nhỏ nhiệm, huyền diệu nhất trong mọi huyền diệu. Phật đạo nay đă thành, không đâu là không thông tỏ.”, bèn đứng dậy đi đến cung rồng, rồng tên là Văn Lân, chỗ ở của nó bên sông có cây. Đức Phật ngồi bên gốc cây nội: ‘Thuở xưa, Đức Phật Định Quang trao cho Ta ấn quyết tôn quư, là sẽ làm Phật hiệu Thích-ca Văn, thật đúng như điều đă nghe. Ta nay được thành Phật là do từ vô số kiếp đến giờ, dốc tu sáu độ: Bố thí, tŕ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, nguyện tích lũy công đức nay mới chứng quả cực quư, làm thiện phước theo về, không hề mất công sức của ta”. Đức Phật vừa nghĩ đến đó, th́ vào thiền định vượt bực. Bên bờ sông, Đức Phật phóng hào quang chiếu suốt đến chỗ rồng ở. Rồng thấy bóng ánh sáng, vẩy vi đều dựng ngược. Rồng đă từng được thấy ba Đức Phật là Phật Câu-lũ-tần, Phật Câu-na-hàm Mâu-ni và Phật Ca-diếp. Ba Đức Phật này đều ngồi tại đây thành đạo, ánh sáng đều chiếu đến chỗ của rồng. Nay rồng thấy ánh sáng liền nghĩ: “Ánh sáng này cùng với ánh sáng của ba Đức Phật trước như nhau. Thế gian lại có Phật ra đời nữa ư?”Rồng rất hoan hỷ ra khỏi nước, quay nh́n hai bên phải trái, thấy Đức Phật ngồi bên gốc cây, thân có ba mươi hai tướng tốt, màu sắc vàng tía, ánh sáng rực rỡ hơn cả mặt trời, mặt trăng, tướng tốt đoan chánh như cây cố hoa. Rồng đến trước Đức Phật, đầu mặt đảnh lễ sát đất, rồi đi quanh Đức Phật bảy ṿng, thân rồng lùi cách Đức Phật bốn mươi dặm, dùng bảy đầu che trên Phật, rồi rồng vui mừng làm mưa gió bảy ngày, bảy đêm. Đức Phật ngồi ngay thẳng, không lay động, không hít thở. Bảy ngày không ăn th́ được thành Phật, ḷng mừng đều dứt mọi tưởng. Rồng rất vui mừng, cũng không ăn suốt bảy ngày mà không có ư niệm về đói khát. Hết bảy ngày, gió mưa tạnh. Đức Phật từ thiền định xuất, rồng hóa làm một Phạm chí trẻ tuổi, ăn mặc tươm tất, quỳ thẳng chắp tay cúi đầu hỏi:

        -Ngài đạt đến trạng thái không lạnh, không nóng, không đói, không khát, công đức hội tụ, các độc không hại, ở đời làm Phật, ba cơi đặc biệt tôn trọng, há không thích sao?

        Đức Phật bảo rồng:

        -Kinh điển của các Đức Phật thời quá khứ nói: chúng sinh ĺa ba đường ác được làm người là thích. Ớ đời sống an nhàn, giữ chí đạo là thích. Điều xưa từng nghe, nay đều hiểu được là thích thú. Ở đời có ḷng Từ bi, không hại chúng sinh là thích thú. Thiên ma, độc dữ đều tiêu diệt hết là thích thú. Đạm bạc, vô dục, không ham sang giàu là thích thú. Ớ đời đắc đạo, làm bậc thầy cả trời người, tâm đạt được định không, bất nguyện, vô tướng. Thân hữu lậu của các dục, trở về với bản thể không, trường tồn với cơi tịch tĩnh, cùng với sự khổ vĩnh viễn dứt hẳn, đó là niềm thích thú vô thượng.

        Rồng cúi đầu thưa:

        -Từ nay về sau, con xin tự quy y Phật, quy y Pháp.

        Đức Phật bảo rồng:

        -Vừa có Thánh chúng, các bậc quyết chí đạt A-la-hán, các Tỳ- kheo khổ hạnh, cũng nên tự quy y với họ.

        Rồng đáp:

        -Vâng, con xin tự quy y chúng Sa-môn.

        Trong loài súc sinh, rồng ấy là con vật được Phật hóa độ theo về trước tiên.

        Thiền độ vô cực của Bồ-tát luôn nhất tâm như vậy.

* *

80-  Một hôm, Đức Phật đi vào một lỐi nhỏ, bên đường có một cây lớn, Ngài ngồi bên gốc cây cùng với một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo, một ḷng nhập định. Có năm trăm cỗ xe đi qua. Khi ấy Đức Phật khát nước, nên gọi Tôn giả A-nan bảo:

        -Ông đi lấy nước! Ta đang muốn uống.

        A-nan thưa:

        -Vừa có năm trăm cỗ xe đi qua, nên nước chỗ ấy rất đục, không thể uống được.

        Đức Phật lại bảo:

        -Ta cần nước, ông mau lấy nước lại đây.

        Nói đến lần thứ ba, A-nan thưa:

        -Có khe nước tên là Cưu-đối, nước trong lại ngon, tắm được uống được.

        Đức Phật cùng Tôn giả A-nan nói chưa xong, th́ có một người tên là Bào Kế, thờ đạo sĩ tên là La-ca-lam làm thầy. Bào Kế thấy vẻ uy linh rực rỡ của Phật, thân màu vàng tía, tướng đẹp lạ lùng, ngay cả thánh xưa cũng ít có, nên ḷng vui mừng gấp bội, chắp tay tiến đến, cúi đầu thưa:

        -Vừa có năm trăm cỗ xe đi qua, Đức Thế Tôn không hay biết ư?

        Đức Phật đáp:

        -Ta chẳng thấy, chẳng nghe ǵ.

        Bào Kế nói:

        -Đức Thế Tôn ngủ sao?

        Đức Phật đáp:

        -Ta ngồi thiền, được định nhất tâm.

        Bào Kế ca ngợi.

        -Đức Như Lai Vô Sở Trước Chánh Chân Giác đạt được định huyền diệu sâu xa đến thế sao? Ban năy xe đi chấn động cả nước, thân lấm bụi bặm mà chí đạo không đổi, không hay không thấy ǵ. Trời đất có thể lay động mà chí ấy vẫn an định. Lúc thầy con c̣n sống, cũng ở nơi gốc cây bên đường mà nhập thiền, bấy giờ cũng có năm trăm cỗ xe đi qua trước mặt. Có người hỏi: ‘Ông có nghe thấy ǵ không?’ Thầy con đáp: ‘Không nghe không thấy’. Người kia hỏi: ‘Khi đó ông ngủ hay đi đâu?’ Đáp: Ta nhất tâm được định thanh tịnh nên không nghe không thấy’. Người kia nói: ‘Bậc A-la-hán chí đạo sâu xa mới được như thế sao! Xe qua trước mặt, thân lấm bụi đất mà không biết.’ Người kia thấy chí đạo của thầy con u huyền nên trọn đời thờ làm thầy.

        Bào Kế nói:

        -Chí Phật tịch định, không hề lay động, giống như thầy con thuở trước. Bắt đầu từ hôm nay đến trọn đời, con xin phụng giữ năm giới của Phật, làm Thanh tín sĩ, dốc sức dứt trừ các ác.

        Đức Phật bảo Bào Kế:

        -Tiếng năm trăm cỗ xe có bằng tiếng vang của sấm động không?

        Thưa:

        -Tiếng của một ngàn cỗ xe c̣n không sánh được với tiếng sấm nhỏ trong cơn mưa, nói chi đến tiếng sấm sét đùng đùng.

        Đức Thế Tôn nói:

        -Lúc trước Ta ở huyện A-đàm, ngồi dưới lều cỏ, tư duy về nguồn gốc của sinh tử. Bỗng có trận gió băo mưa gió sấm chớp ầm ầm đánh chết bốn con trâu đực và hai anh em người đi cày. Dân chúng của huyện ấy, người xem rất đông. Khi Ta ra khỏi lều đi kinh hành, có một người đến chỗ Ta, Ta hỏi người ấy:

        -Người ta đến xem chuyện ǵ vậy?

        Người kia kể lại sự việc, rồi hỏi: “Đức Phật lúc ấy ở đâu?”. Tađáp:

-Ớ một ḿnh trong lều.

        Người kia hỏi:

        -Khi đó Đức Phật ngủ à?

        Đáp:

        -Không.

        Người kia nói:

        -Đâu có chuyện thức mà không nghe? Chí đạo của Ngài rất sâu, từ nay về sau con nguyện thờ Đức Thế Tôn làm thầy, dốc giữ năm giới thanh tịnh làm Thanh tín sĩ, trọn đời giữ đạo chân chánh.

        Bào Kế nghe chuyện ấy th́ tâm mở, mọi vướng mắc đều thông tỏ, quay lại bảo người đi theo:

        -Trong kho, vàng lụa dệt thành áo có hàng ngàn bộ, hăy chọn bộ nào đẹp nhất đem đến đây, ta muốn dâng cúng Đức Phật.

        Người đi theo vâng lệnh, về nhà lấy mang tới. Bào Kế tự tay lấy y đắp lên Đức Phật, rồi lui lại cúi đầu thưa:

        -Từ nay, nguyện xin Đức Thế Tôn bớt chút uy linh lớn lao, hạ cố đến chỗ các Thanh tín sĩ thôn chúng con, xin Ngài quá bộ đến nhà con, để cho người thân lớn nhỏ trong ḍng họ được tự ḿnh cúng dường Đức Phật. Đem hết tuổi thọ của trời đất và ḷng chí kính để phụng dưỡng Trời, Rồng, Quỷ, Thần cùng các loài ḅ, bay, máy, cựa, cũng không bằng một ngày cúng đường trai phạn cho một vị Sa- môn, huống chi là cúng dường Đức Phật Vô Thượng Chánh Chân! Xin Đức Thế Tôn rủ ḷng Từ rộng lớn, ban cho con cái phước báu vô bờ ấy.

        Thế Tôn nói:

        -Hay lắm!

        Thiền độ vô cực, của Bồ-tát luôn dốc chí như vậy.

* *

81-  Đức Phật tự kể:

        -Khi Ta c̣n làm Bồ-tát tên là Thường Bi. Bồ-tát Thường Bi thường vừa đi vừa rơi nước mắt. Đời bấy giờ không có Phật, kinh điển đều mất hết, không gặp được chúng Sa-môn Hiền thánh, mà Bồ-tát thường ao ước được thấy Phật, nghe diệu chỉ của kinh điển. Đời khi ấy uế trược, quay lưng với chánh, theo tà, ưa dối ham lợi, như loài thiêu thân thíchlửa. Đâu biết Tứ đẳng tâm, Sáu độ làm cho nhà cửa an lành măi, mà đời th́ bỏ pháp ấy của Phật, chuốc lấy tai họa hiểm nguy kia để tự phá tan nát ḿnh. V́ thế Bồ-tát mới buồn bă vừa đi vừa khóc.

        Thuở xưa có Đức Phật hiệu Ảnh Pháp Vô Uế Như Lai Vương, diệt độ đă lâu, nên kinh pháp đều mất hết. Bồ-tát Thường Bi nằm mơ thấy Đức Phật ấy v́ ḿnh mà nói pháp:

        -Cẩn thận đừng công cao, học hỏi hạnh của kẻ sĩ, trừ bỏ sự nhơ bẩn của ḷng ân ái, không bị câu nhiễm những bụi bặm của sáu t́nh, không để sót lại các ái dục nhỏ như tơ tóc trong tâm ngươi. Các niệm luôn lắng trong tịch tĩnh, đó là vô vi.

Bồ-tát theo Đức Phật nghe pháp ấy, như người đói được ăn món ngon, vui mừng vô hạn, tâm cấu uế đă dứt trừ, vào được thanh tịnh. Liền rời gia đ́nh, vợ con, vào chỗ núi sâu ở chỗ vắng lặng, dùng nước suối, trái cây rừng để nuôi thân. Trong chốn núi sâu ấy ngài dùng tay đấm ngực kêu than:

        -Con sinh vào thời buổi đáng oán thay! Không gặp được đời có Phật, không nghe được kinh Phật! Đấng Thế Tôn Chí Chân của chúng sinh hiện tại khắp mười phương luôn nh́n suốt, nghe thông, đều biết hết tất cả, biến hiện phảng phất, nhưng ánh sáng soi tỏ không đâu là không tới. Xin hiện tôn linh khiến con thấy được Phật, nghe được ư thú tột đỉnh của đạo lớn pháp sáng.

        Tiếng thỉnh cầu bi ai vừa dứt th́ Thiên thần hiện xuống, nói: Kẻ sĩ sáng suốt chớ kêu than nữa! Đức Phật có pháp lớn gọi là ánh sáng của trí tuệ vượt bờ. Các Đức Phật quá khứ, hiện tại và vị lai đều do pháp ấy mà thành. Người phải t́m để đọc tụng tập kinhvăn ấy, t́m hiểu diệu nghĩa để phụng tŕ, tu tập. Người ắt sẽ được bốn vô sở úy, mười lực, mười tám pháp bất cộng, thân màu vàng tía, quanh cổ có hào quang vô hạn. Kinh giáo mười phương, người sẽ làm Bậc minh chủ, Bậc tôn quư trong các Thánh, làm Thầy của trời người, các Phật, A-la-hán có chỗ không có.

        Bồ-tát Thường Bi ngẩng đầu nh́n, đáp:

        -Tôi phải theo ai để được pháp quư ấy? Phải dùng phương tiện ǵ và đi đến đất nước nào? Vị thầy đó tên họ là ǵ?

        Vị trời kia đáp:

        -Ngươi từ đây đi thẳng về hướng Đông, không nhớ nghĩ đến sắc, thống (thọ), tưởng, hành, thức; không nghĩ tới khổ vui, thiện ác. Tai, mắt, mũi, miệng, thân, tâm, ta, người và cả việc đời trước đă trải, việc đời sau sắp đến. Đừng nhớ tới đất, nước, gió, lửa, hư không; các sắc xanh, vàng, trắng, đen và các màu; các nẻo tham dâm, giận dữ, ngu si, ganh ghét, nam nữ, họ hàng, phải trái trước sau, cao thấp, chậm mau, không nghĩ đến có Phật, không Phật, có kinh đạo, không kinh đạo, có Thánh hiền, không Thánh hiền... tâm ư người phải rỗng không, dứt hết các ước nguyện, ngươi dốc giữ ḷng, không trái lời chỉ dẫn của ta th́ sẽ thấy được Thánh điển của trí tuệ vượt bờ.

        Bồ-tát Thường Bi ngẩng đầu thưa:

        -Vâng xin trọn đời giữ.

        Vị trời lại nói:

        -Phải siêng năng nhớ lấy.

        Nói xong, vị trời chợt biến mất. Bồ-tát nhận lời chỉ dạy, ḷng ngay ư sạch, nhắm hướng Đông đi t́m. Đi được vài ngày, bèn dừng lại tự nghĩ: “Ta trước vốn phước mỏng, sinh không gặp Phật, đời không có Sa-môn, vua tôi mờ mịt không biết có Phật là Bậc có trí tuệ vượt bờ, là Bậc Thầy tôn quư đă dứt bóng tối.” Cách đấy mấy dặm, lúc chưa thấy ǵ, trong ḷng buồn thương hết mực, vừa đi vừa khóc, tâm thành như thế nên cảm động đến chư Phật. Đức Phật từ phương trên bay đến trước mặt, thân màu vàng tía, tướng tốt tuyệt vời hơn cả Thánh, mặt như trăng tṛn, quanh đầu cổ có hào quang sáng như mặt trời. Chư Thiên theo hầu mang màn báu, lọng đẹp, tấu nhạc, tung hoa, chắp tay cúi đầu. Đức Phật khen ngợi Bồ-tát:

        -Lành thay! Lành thay! Chí dốc cầu đạo của ngươi thật ít có trên đời.

        Bồ-tát gặp Đức Phật, trong ḷng vừa vui vừa buồn, cúi đầu thưa:

        -Nguyện xin Đức Phật thương con! Dứt hết mọi hệ lụy, cởi hết mọi trói buộc giúp con, mở mất mù tối cùng chữa lành bệnh cho con, v́ con mà thuyết giảng kinh pháp.

        Đức Phật bảo:

        -Ba cơi đều không, phàm cái ǵ có đều là không, vạn vật như huyễn, vừa sinh liền diệt, giống như bọt nước, thấy rơ cuộc đời như vậy ngươi hăy nghĩ về điều ấy, Ta v́ ngươi mà thuyết giảng kinh pháp, hăy giữ ḷng ngay dốc lắng nghe, cẩn thận đừng quên. Từ đây đi về phương Đông hai dặm, có đất nước tên là Kiền-đà-việt, là thành tŕ của các vị Bồ-tát. cả nước toàn là những bậc Thượng sĩ, không có người phàm tục. Nếu muốn nói về công đức của các vị Bồ-tát th́ dù có kể đến hết kiếp, công đức ấy vẫn c̣n. Có vị Bồ-tát đức cao chí tôn tên là Pháp Lai. Ở trong các thánh, khác nào cḥm sao có thêm vầng trăng, luôn ghi nhớ kinh điển, trí tuệ vô hạn, thường diễn giảng về trí tuệ vượt bờ, dạy người liên tục. Các vị Bồ- tát có người nghe kinh, người tụng, người chép, người san định nguyên bản của kinh, ngươi đến sẽ thấy họ, họ ắt làm thầy ngươi, khuyên ngươi t́m Phật. Hăy mau đến đó, tự họ sẽ v́ ngươi nói toàn bộ về đức lớn của trí tuệ vượt bờ.

        Bồ-tát Thường Bi nghe Đức Phật khen ngợi danh đức của các vị Bồ-tát kia, tâm nhập vào pháp hỷ, đắc định hiện tại, các tưởng đều lặng, thấy hết chư Phật v́ ḿnh thuyết giảng công đức của trí tuệ vượt bờ, khen ḿnh có công tinh tấn, dốc chí t́m Phật, nên đều khen:

        -Lành thay! Chí đi t́m Phật, ngươi đă gặp rồi đó! Ta ở đời quá khứ, khi mới phát tâm cũng đều như thế. Các vị Phật quá khứ, đương lai và hiện tại cũng đều dốc cầu t́m như ngươi cả. Ngươi ắt sẽ thành Phật, tế độ tất cả chúng sinh.

        Bồ-tát Thường Bi từ định xuất, ngoái nh́n hai bên không thấy chư Phật hiện nữa, ḷng liền lại buồn, rơi nước mắt nói:

        -Ánh sáng linh thiêng của chư Phật từ đâu đến, nay lại đi về đâu như thế?

        Thiền độ vô cực của Bồ-tát luôn nhất tâm như vậy.

* *

82-  Thuở xưa, có hai vị Bồ-tát, chí hạnh thanh tịnh, bên trong lặng, vô dục, bên ngoài như vàng trời, ĺa bỏ lũ uế trược, vào sông nơi núi đầm, khoét đá làm nhà, ở yên chí tịnh, áo cỏ, chiếu rơm, ăn trái cây, uống nước suối, thanh tịnh vô vi, tâm ư như hư không, gồm đủ bốn Thiền, chứng được trí năm thông: Một là có thể nh́n thấu suốt, không chỗ xa nào là không thấy. Hai là có thể nghe thổng, không tiếng nhỏ nào là không nghe. Ba là có thể bay lượn vào ra, khống ǵ ngăn trở được. Bốn là có thể biết rơ các ư niệm trong ḷng chúng sinh khắp mười phương. Năm là có thể tự biết những thay đổi của đời ḿnh từ vô số kiếp đến nay. Phạm vương, Đế Thích, Tiên thánh các Trời, Rồng, Quỷ... không ai là không cúi đầu đảnh lễ. Hai vị ở trong núi đầm đă hơn sáu mươi năm, thương xót nghĩ đến chúng sinh trôi nổi trong cảnh ngu tối, không biết làm ác, sau có tai ương nặng, hạn chế t́nh, từ bỏ dục, kính phụng ba ngôi báu, phước ứng liền ngay, ắt được giàu sang. Hai vị Phạm chí ấy, một tên là Đề-kỳ- la, một tên Na-lại. Đề-kỳ-la đêm dậy tụng kinh, mệt quá nằm ngủ, khi ấy Na-lại cũng dậy tụng kinh, lỡ đạp nhầm đầu của Đề-kỳ-la. Đề-kỳ-la liền thức dậy, nói:

        -Ai đạp đầu ta, sáng mai khi mặt trời mọc một sào, ta sẽ đập bể đầu người ấy làm bảy phần, được chăng?

        Na-lại nói:

        -Tôi lỡ đạp nhằm đầu ông, sao nỡ rủa thề nặng thế? Phàm các thứ đồ vật không biết đi c̣n có khi đụng chạm, huống chi con người ở chung với nhau suốt cả đời mà không có lầm lỗi sao? Lời ông thường đúng! Sáng mai mặt trời mọc, đầu tôi ắt vỡ làm bảy phần. Vậy tôi phải ngăn mặt trời không cho nó mọc.

        Mặt trời bèn không mọc trong khoảng năm ngày. Cả nước tối tăm, đèn đuốc phải thắp liên tục, các quan không đi làm được, vua dân hoảng hốt, họp các quan lại, mời đạo sĩ, vua nói:

        -Mặt trời không mọc lỗi ấy tại đâu?

        Trong số đạo sĩ ấy, người chứng được năm thông tâu:

      -Hai vị đạo sĩ trong núi có chút tranh chấp, nên đă ngăn mặt trời không cho mọc.

        Nhà vua hỏi:

        -Họ tranh chấpduyên cớ ǵ?

        Vị đạo sĩ thuật rơ đầu đuôi câu chuyện cho vua biết. Vua nói: Vậy phải làm sao đây?

        Đáp:

        -Vua nên đốc suất các quan cùng dân chúng không kể lớn nhỏmau đến chỗ họ cúi đầu xin ḥa giải, th́ họ ắt sẽ tự ḥa giải.

Nhà vua liền xuống chiếu, theo như lời đạo sĩ. Rồi vua đến chỗ núi đầm, cúi đâu thưa:

        -Nước giàu dân an là nhờ ân nhuần của hai vị, mà nay hai vị , bất ḥa làm cho đất nước mất chỗ trông nhờ, lỗi ấy tại ta, dân chúng không có tội ǵ, vậy xin xá cho.

        Na-lại nói:

        -Nhà vua nên hiểu ư của vị kia, nếu ư ông ấy đă mở th́ tôi thả mặt trời ra ngay.

        Vua đến chỗ Đề-kỳ-la, nói lại ư của Na-lại. Vua lại nói:

        -Khiến vị kia lây bùn đắp lên đầu, rồi thả mặt trời ra, bùn trên đầu vỡ làm bảy phần, c̣n đầu Na-lại th́ không hề ǵ.

        Vua, tôi, lê dân không ai là không vui mừng. Hai đạo sĩ v́ vuanói rộng về phương pháp trị nước:

        -Phải dùng ḷng Từ của bốn tâm khổng bị ngăn che, khuyên dân vâng giữ năm giới, thực hành mười nẻo thiện. Vua và thần dân thảy đều cùng thọ giới. Nhà vua trở về kinh đô xuống chiếu:

        -Người trong nước, chẳng kể là hàng tôn quư hay thấp hèn,đều phải mang kinh năm giới, mười thiện dùng làm chính sách của  nước.

        Từ đó về sau, ân vua thấm nhuần đến cây cỏ, tôi trung vừa thành thật vừa trong sạch, khiêm tốn; cha đúng phép, mẹ hợp nghi, vợ chồng đều chuộng giữ đạo trinh tín, nhà có con hiếu.

        Đức Phât nói:

        -Hai vị Bồ-tát thấy vua nước ấy không biết ba ngôi báu, quan dân mờ tối, bi tà kiến ngăn che, giống như trong nẻo tối bịt mắt màđi, các vị thương họ đến chết không thấy kinh Phật, nên biến hóa như thế là muốn cho họ thấy được ánh sáng.

        Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

        -Na-lại ấy là thân Ta, Đề-kỳ-la là Di-lặc.

        Thiền độ vô cực của Bồ-tát luôn một ḷng như vậy.

KINH LỤC ĐỘ TẬP

Q1    Q2    Q3    Q4    Q5    Q6    Q7    Q8

KINH LỤC ĐỘ TẬP

Hán Dịch: Đời Đông Ngô, Sư-Môn Khương Tăng Hội,Người Nước Khương Cư.

Việt Dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 8

Chương VI: MINH ĐỘ VÔ CỰC

(Trí tuệ Ba La-mật)

83-  Nghe như vầy:

        Một thời Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ, với một ngàn hai trăm vị Tỳ-kheo, một vạn vị Bồ-tát cùng an tọa. Đệ tử thứ nhất là Thu Lộ Tử, đến trước Đức Phật cúi đầu quỳ gố́, bạch:

        -Xa-nặc từ kiếp xưa có công sức ǵ mà khi Bồ-tát ở nhà sẽ làm Phi hành hoàng đế, lại khuyên bỏ nước vào núi học đạo, tự chứng đắc quả vị Phật, cứu vớt chúng sinh, công đức ṿi vọi, đến cơi diệt độ? Nguyện xin Đức Thế Tôn nói rơ nguồn gốc.

        Đức Phật khen ngợi:

        -Lành thay, lành thay! Thu Tử đă hỏi hay lắm! Công đức của Xa-nặc nhiều đời nhiều kiếp thật không thể lường hết. Các ông hăy lắng nghé, Ta sẽ nói ra đây.

        Thưa:

        -Xin vâng.

        Đức Phật nói:

        -Thuở xưa Ta làm Bồ-tát tại nước Ni-ha-biến. Quốc vương nước ấy nghe lời người bày vẽ, hoặc cho tu đạo th́ được lên trời hoặc thờ thần th́ được lên trời. Nhà vua từ thuở nhỏ đến giờ thường ước nguyện được lên trời, nhưng chưa biết cách. Nước ấy có hơn bốn vạn Phạm chí. Nhà vua đ̣i họ đến gặp, hỏi:

        -Ta muốn lên trời th́ phải dùng phương cách nào?

        Người Phạm chí lớn tuổi nhất tâu:

        -Lành thay câu hỏi ấy! Nhà vua muôn đem thân này lên trời chăng? Có đem hồn đi không?

        Vua nói:

        -Ta muốn ngồi như vầy mà được lên trời ngay.

        Đạo sĩ nói:

        -Phải lập đàn cúng tế trời thần thật lớn mới được.

        Nhà vua mừng vô cùng, truyền lấy hai ngàn cân vàng bạc ban choPhạm chí được của báu trở về nhà cùng nhau vui chơi. Của báu hết, chúng bàn với nhau: “Chúng ta sẽ khiến vua chọn lấy đồng nam, đồng nữ, đẹp đẽ hơn người, mỗi loại một trăm đứa, voi, ngựa, các súc vật khác mỗi thứ cùng trăm con, trước đăi chúng ta ăn uống tiếp theo th́ giết người và súc vật, lấy xương thịt chúng để làm bệ lên trời.”

        Bàn rồi th́ đem việc này tâu lên vua. Vua nói:

        -Rất tốt.

        Nhà vua liền ra lệnh cho quan ở ngoài mau chóng sắm sửa đầy đủ. Tất cả những người, vật được chọn đều đem tống giam vào ngục, khiến đông đảo người khóc than đầy đường. Người trong nước đều nói:

        -Làm vua mà bỏ lời dạy chân chánh của Đức Phật, lại sùng chuộng yêu tà th́ đó là nguyên nhân mất nước.

        Đám Phạm chí lại tâu:

        -Nếu như giết hết các mạng ấy mà nhà vua không được lên trời, th́ chúng ta bị phanh thây bêu nơi chợ, việc ấy chắc chắn thôi!

        Rồi chúng lại bàn mưu với nhau:

        -Trong Hương sơn có người kỹ nữ là vua trời, tên là Tợ Nhân H́nh Thần, Thần thánh cũng khó bắt được. Chúng ta nên khiến nhà vua cầu t́m người ấy, nếu t́m không được th́ mọi việc đều xong, chúng ta mới khỏi tội.

        Lại đến chỗ vua tâu:

        -Trong núi Hương có nữ nhạc của trời, phải lấy được máu người ấy hợp với người và súc vật dùng làm cái bệ th́ ngài mới lên trời được.

        Nhà vua mừng rỡ nói:

        -Sao không nói sớm, nay đă bốn tháng trôi qua rồi mới nói?

        Thưa:

        -Pháp thuật của chúng tôi từ gốc đến ngọn là thế. Xin nhà vua lệnh cho dân chúng trong nước tụ hội lại, hứa ban thưởng lớn, rượu nhạc đầy đủ cho ai có thể t́m được thần nữ.

        Bấy giờ dân chúng có người biết, tâu:

        -Trong núi thứ bảy có hai đạo sĩ, một tên là Xà-lê, một tên là Ưu-bôn, biết chỗ ở của thần nữ ấy.

        Vua bảo:

        -Hăy gọi họ đến.

        Sứ giả vâng mệnh ra đi, vài ngày liền đem đạo sĩ về. Nhà vua vui vẻ bày tiệc, rượu nhạc suốt bảy ngày, rồi nói:

        -Các ngươi v́ ta bắt được thần nữ về đây, ta lên trời th́ sẽ đem đất nước này cho các ngươi.

        Họ đáp:

        -Chúng tôi tất nhiên là hết sức cố gắng.

        Họ trở về chỗ, t́m kiếm hơn hai tháng trời, trải qua bảy lớp núi mới đến được Hương sơn. Họ thấy một hồ nước lớn, dọc ngang ba chục dặm, đất bằng bên hồ có ngôi thành báu đồ sộ nguy nga, dài, rộng, cao, mỗi chiều tám chục dặm. Cây báu vây quanh thành rực rỡ sáng cả nước. Trong hồ đầy hoa sen, mỗi hoa có đến ngàn cánh, cánh có năm màu, cùng sáng rỡ lấp lánh, nhiều thứ chim lạ líu lo ca hót. Cửa thành bảy lớp, trong thành lầu, gác, cung, điện san sát nhau, cờ phướn lộng lẫy, chuông, linh rung năm âm vang vọng, Vua trời ở trong cung cùng ca nữ vui chơi. Sau bảy ngày, Đế Thích ra ngoài đi dạo, đến hồ tắm, vui thích đă xong, phải về lên trời. Bên gốc cây cạnh hồ có vị Phạm chí thánh, trong ngoài không dơ, đă được sự sáng suốt của năm thông. Hai đạo sĩ tiến đến, cúi đầu thưa:

        -Nhạc này tuyệt diệu, đem làm vui cho ai vậy?

        Đáp:

        -Đầu Ma Vương nữ cùng hơn một ngàn người khác du chơi ở đây. Họ mới vừa đến, các ngươi hăy sớm lui đi.

        Hai đạo sĩ lui về t́m chỗ ẩn thân, bàn với nhau:

        -Vị Phạm chí này đạo đức thiêng linh, chúng ta sẽ dùng cách ǵ để đến gần Thiên nữ đây? Chỉ có cách phải dùng đạo quỷ, kết cỏ ếm chú, rồi đem ném vào hồ nước, khiến thân vị Phạm chí chồng lên ḿnh Thiên nữ th́ thiêng linh sẽ tiêu tan.

        Liền kết cỏ ném vào nước, dùng đạo yêu chú yếm. Đế Thíchthoát khỏi quay về trời, chư Thiên cũng vậy, chỉ có Thiên nữ không thể bay lên được. Hai đạo sĩ nhảy vào hồ cởi áo trói Thiên nữ lại.

        Thiên nữ nói:

        -Các ngươi định làm ǵ ta?

        Hai đạo sĩ đáp như đă nói ở trên. Dùng tre bẻ để ghi tính th́ đi suốt bảy ngày mới về tới vương quốc.

        Họ đến thẳng vương cung, tự nhiên thấy sọ. Thấy được Thiên nữ, nhà vua mừng rỡ, bày tiệc ăn uống, ủy lạo các đạo sĩ, nói:

        -Ta được lên trời th́ sẽ đem nước này cho các người.

        Người con đầu của vua tên là Nan-la-thi, làm vua ở một nước khác, có thái tử tên là Tu-la, con người vợ trước, nhân từ, ḥa nhă, thông minh thấu rơ cả, thấy trước việc chưa xảy ra của chúng sinh ở đời, không chỗ sâu xa nào mà không thấy, không cái nhỏ nhặt nào mà không đạt, hạnh cao sáu độ không rời khỏi ḷng, tự thề cầu cho được quả Như Lai Vô sở Trước Chánh Chân Giác Đạo Pháp Ngự Nhân Thiên Sư, Thiện Thệ Thế Gian Giải, đạt đến gốc không. Vua nói:

        -Ta sắp lên trời, gọi hoàng tôn đến để từ giă.

        Hoàng tôn đến, cúi đầu lạy, nhận lời từ giă xong, lui lại ghế ngồi. Vua hỏi:

        -Cha mẹ con cùng dân chúng an ổn cả chứ?

        Hoàng tôn đáp:

        -Nhờ ân nhuần thấm của vua nên khắp chốn đều yên ổn.

        Rồi cháu vua nói:

        -Nếu ta không cầu xin Tiên nữ về làm phi th́ vua ắt giết đi!

        Có người nghe được đem tâu, nhà vua nói:

        -Ta sẽ dùng máu của Thiên nữ để làm bệ lên trời.

        Hoàng tôn liền tuyệt thực, lui về nghĩ ngợi, ḷng không vui.

        Vua sợ cháu chết, liền đem Thiên nữ cho làm phi. Trong ngoài mừng rỡ, các hoạn đều tan hết. Sau bốn tháng, các Phạm chí lại tâu:

        -Bây giờ phải đào hố để giết các súc sinh, lấp đầy hố, rồi lấy máu Thần nữ bôi lên miệng hố, chọn ngày tốt làm lễ tế trời.

        Nhà vua nói:

        -Hay thay!

        Rồi truyền lệnh các người già cả trong nước, cùng quan, dân phải tham dự cuộc tế lễ ấy. Hoàng tôn nghe được việc đó, bùi ngùi không vui, gạn hỏi Phạm chí:

        -Phép thuật cúng tế này xuất phát từ Thánh điển nào?

        Đáp:

        -Phàm làm việc cúng tế như vậy sẽ được lên trời.

        Hoàng tôn vạch ra:

        -Hễ giết là hại mạng chúng sih. Hại mạng chúng sinh là đứng đầu trong các tội nghịch ác, họa ấy không cùng, hồn linh chuyển hóa lại hiềm oán nhau, dùng gươm độc giết hại nhau, đời đời không dứt, chết phải vào địa ngục Thái sơn, thiêu nấu, băm vằm chịu đủ các thứ độc hại. Rồi được ra th́ hoặc làm súc sinh lại liền bị chết về dao chém, hoặc về sau được làm người th́ phải bị họa phân thây, đều do giết hại mà ra cả. Há có chuyện làm bạo ngược mà được lên trời sao?

        Phạm chí đáp:

        -Ngươi tuổi mới lớn, trí nghĩ tới đâu mà bắt bẻ chúng ta?

        Hoàng tôn nói:

        -Thọ mạng đời trước của ta, năm trăm đời liền được sinh ra trong nhà Phạm chí, rành kinh sách đạo của ngươi, lấy thanh chân làm đầu, các ngươi xảo dối, há hợp với diệu ư của kinh?

        Phạm chí nói:

        -Ngươi biết đạo của ta sao không tŕnh bày ra?

        Hoàng tôn nói rơ:

        -Nguyên tắc lớn của Phạm chí là cơi Thánh hết mực thanh tịnh, mà các ngươi th́ dơ đục, tàn khốc, tham ăn, dối đem cúng tế tà vạy, giết người hại vật, uống rượu dâm loạn, dối trời khổ dân, khiến dân bỏ Phật, trái pháp xa hiền, chẳng bà con mà đem hết của cải cúng cho quỷ, c̣n người thân th́ đói rét, há hợp với Thánh ư, cao hạnh của Sa-môn sao?

        Đám Phạm chí hổ thẹn cúi đầu mà lui. Hoàng tôn liền v́ vua ông tŕnh bày lời tin chí thành của Đấng Vô Thượng Chánh Chân Tối Chánh Giác:

        -Hễ muốn lên trời phải quy y ba ngôi báu, hiểu rơ về bốn vô thường, dứt hết tham lam keo kiệt, nuôi chí thanh tịnh, quên ḿnh cứu người, ân nhuần khắp chúng sinh. Đó là một.

        Thương xót mọi sinh mạng, rộng ḷng ḿnh để cứu người, chí hằng biết đủ, không phải của ḿnh th́ không nhận lấy, giữ trinh không dâm dật, tin không lừa dối, rượu là loạn độc làm khô nát đạo hiếu, tuân giữ mười đức, dùng chánh đạo dắt dẫn người thân. Đó là hai.

        Nhịn nhục đối với chúng sinh, thương xót kẻ cuồng say, độc tới buồn đi, cứu mà không hại, đem ba ngôi báu để dẫn dụ, hiểu được rồi liền giúp vui, thương nuôi cùng giúp đỡ, ân ngang trời đất. Đó là ba.

        Tinh tấn luyện chí, dốc cầu theo hạnh cao. Đó là bốn.

        Bỏ tà dứt cấu nhiễm, chí lặng như hư không. Đó là năm.

        Học rộng, không ǵ ngăn che mong đạt đến nhất thiết trí. Đó là sáu.

        Ôm giữ đức rộng lớn này, trước sau. không lầm lỗi, cầu làm bậc pháp vương ba cơi th́ có thể được lên trời, khó ǵ? C̣n trái với lời dạy từ bi của Đức Phật, chuộng sự hung ác, giết hại mạng chúng sinh, nhạc dâm, tế tà, sống th́ trời bỏ, chết phải vào ba đường dữ, lại giết hại lẫn nhau, mang họa vô cùng. Đem ác dữ ấy mà mong lên trời, ví như người làm trái lệnh vua mà muốn được ngôi vị cao.

        Vua nói:

        -Hay thay lời tin ấy!

        Vua bèn mở ngục đại xá, đuổi hết các yêu tà, đem của báu cả nước sai cháu làm phước đức. Hoàng tôn được của báu, đều đem chia cho người nghèo, bố thí suốt bảy ngày, không kẻ thiếu thốn nào là không no đủ. Sau khi bố thí, lại khuyên dân giữ giới, mọi người đều cảm nhận ân nhuần, không ai là không tuân theo. Trời, Rồng, Quỷ, Thần đều khen hay, làm mưa nhiều thứ báu, lụa là, lúa gạo, hoa màu. Các nước lân cận ngưỡng mộ đức hóa theo về như các ḍng sông chảy về biển cả. Hoàng tôn từ giă người thân, đem nàng phi lui về.

        Về đến nước, thái tử chỉ lo đóng cửa, bỏ việc, cùng nàng vui chơi. Quần thần tâu lên vua:

        -Không bỏ người phi ấy th́ việc nước sẽ hư nát.

        Vua cha nói:

        -Vợ là do ông nội ban cho, đâu được bỏ đi!

        Bèn triệu thái tử đến để giam lại, người phi nghe thế nên hổ thẹn, liền bay về chỗ ở cũ, nơi núi thứ bảy. Thấy ưu-bôn và các người khác bà dặn:

        -Chồng ta có đến th́ hăy v́ ta mà đuổi đi.

        Rồi để lại chiếc nhẫn vàng làm tin.

        Vua cha nghe nàng phi đi rồi mới cho thái tử về nước. Thái tử không thấy người phi của ḿnh, nên buồn bă rơi nước mắt. Thần giữ cung nói:

        -Thái tử không nên thương tiếc, ta chỉ cho đường đi. Người phi đang ở nơi núi thứ bảy, hăy mau đến t́m cho kịp.

        Hoàng tôn nghe lời, liền mặc áo ngọc, mang kiếm, cầm cung đi ngay. Áo báu chiếu sáng đến bốn mươi dặm. Hôm đến núi thứ bảy, thấy vợ bẻ cành cây quăng xuống đất để làm dấu cho biết. Thái tử gặp trước hai đạo sĩ, hỏi:

        -Người phi của ta có đi qua đây không?

        Đáp:

        -Có.

        Rồi họ đem nhẫn vàng trao cho, cùng đi theo giúp, lấy cây bắc cầu đi qua sông nhỏ, đến núi thứ tám, thấy Phạm chí đạt được bốn Thiền, liền gieo năm vóc xuống đất, cúi đầu làm lễ, thưa:

        -Đạo sĩ có thấy vợ tôi đi qua đây chăng?

        Đáp:

        -Có đi qua đây! Hăy ngồi đây giây lát, tôi chỉ chỗ cho.

        Bây giờ trời Đế Thích hóa làm con vượn lớn, oai linh chấn động cả núi rừng. Hoàng tôn rất sợ. Phạm chí nói:

        -Đừng sợ, nó đến cúng dường đó.

        Con vượn thấy ba đạo sĩ th́ nghi ngại nên đứng lại, không dám bước tới. Phạm chí gọi:

        -Đến đây.

        Vượn liền đi đến, lấy trái cây cúng dường. Phạm chí nhận trái cây, rồi bốn người cùng ăn, gọi vượn bảo:

        -Đem ba người này đến chỗ nàng Tợ nhân H́nh thần.

        Vượn hỏi:

        -Đây là người nào mà khiến lên trời vậy?

        Phạm chí nói:

        -Thái tử của quốc vương là bậc đứng đầu hàng Khai sĩ, sẽ làĐấng Như Lai Vô sở Trước Chánh Chân Đạo Tối Chánh Giác Đạo Pháp Ngự Thiên Nhân Sư, chúng sinh sẽ nhờ ân lớn ấy mà được trở về với gốc không.

        Vượn ca ngợi:

        -Lành thay, bậc Khai sĩ! Nếu ngài được thành Phật, tôi xin làm ngựa cho ngài.

        Ưu-bôn hai người, một người nguyện làm nô bộc, một người nguyện làm La-hán. Vị Khai sĩ nói:

        -Rất tốt!

        Rồi tất cả cùng lên trời.

        Trên đường đi có năm trăm vị Duyên giác, đều đến cúi lạy, sai vượn trở lại lấy hoa, tung lên cúng dường chư Phật, nguyện:

        -Mong tôi chóng thành Bậc Chánh Giác, dẫn dắt chúng sinh, diệt hết sinh tử, thần thức trở về với gốc không.

        Ba người lại phát nguyện như trước, xin đều làm Phật, cúi lạy mà đi. Đến ngoài cửa thành của Tợ Nhân H́nh Thần, vượn cúi đầu xin lui. Ba người đều ngồi nghỉ. Bấy giờ có người áo xanh đi ra lấy nước. Vị Khai sĩ hỏi:

        -Chị lấy nước làm ǵ?

        Đáp:

        -Lấy nước cho vương nữ tắm. Vị Khai sĩ cởi chiếc nhẫn bỏ vào thùng nước ấy. Thiên nữ thấy chiếc nhẫn th́ dừng không tắm, thưa với cha mẹ:

        -Chồng con đi t́m, nay đă đến đây!

        Người cha tên Đầu Ma, vui mừng vội ra gặp nhau. Khai sĩ cúi đầu theo lễ của người rễ, c̣n hai đạo sĩ th́ cúi đầu lễ rồi lui. Vua mời Khai sĩ vào trong, tay dắt con gái trao cho, chung quanh thị nữ có hơn ngàn người, ḥa nhạc trời vui thích. Lưu lại nơi đó bảy năm, ḷng nhớ ân sinh dưỡng của cha mẹ, vị Khai sĩ nghẹn ngào nói lời từ biệt xin trở về nước. Thiên vương nói:

        -Tất cả đất nước này, nay ta đem giao phó cho con, làm sao mà con đành ra đi?

        Khai sĩ lại nói như trước. Vua bảo:

        -Hăy lưu lại đây thêm bảy ngày nữa để tận hưởng vui thú vớinhau.

        Sau bảy ngày, có vị Đại thần vương đến chỗ vua trời chúc mừng:

        -Con gái của vua đă về, lại được người chồng thánh.

        Vua trời nói:

        -Con gái hèn mọn của ta được người chồng hùng thánh, người ấy nay lại nhớ về người thân sinh dưỡng, vậy phiền ông lo việc tiễn đưa.

        Quỷ vương kính vâng, rồi lấy báu trời làm cung điện, đền đài bảy tầng, các vật báu, nhạc trời, trên đời ít thấy. Quỷ vương tay nâng, đưa về nước cũ, xong cúi đầu chào lui đi. Khai sĩ gặp lại cha mẹ, lời thành hỏi thăm đầy đủVua ông vui vẻ truyền ngôi.

Thiên nữ, quỷ, rồng không ai là không khen ngợi. Thái tử đại xá các tội, đem hết của nước bố thí cho dân chúng khắp bốn phương và đến cả mọi chúng sinh, đều giúp những người bần cùng, thiếu thốn, thỏa măn theo lời cầu xin của họ. Chúng sinh mừng rỡ, không ai là không ca ngợi, khen Phật giáo hóa theo nẻo nhân, ân thấm nhuần hơn cả trời đất, tám phương chuộng đức kéo nhau vào đất nước, như con thơ đến nương nhờ mẹ hiền. Vua ông sau khi mạng chung, liền được sinh lên trời.

        Đức Phật bảo Tôn giả Thu Lộ Tử:

        -Hoàng tôn ấy là thân Ta, Phạm chí chứng được bôn Thiền là Thu Lộ Tử, Ưu-bôn là Mục-liên, Xà-lê là Xa-nặc, trời Đế Thích (hóa làm vượn) ấy nay là Kiền-đức (ngựa Kiền-trắc), vua cha là Ca- diếp, vua ông nay là vua Bạch Tịnh, mẹ là Xá Diệu mẹ Ta, vợ là Câu-di.

        Bồ-tát nhiều đời đem ḷng Từ với bốn tâm rộng lớn, cùng sáu hạnh Độ vô cực để cứu độ chúng sinh, khó mà tính kể xiết.

Đức Phật thuyết giảng xong, các vị Bồ-tát, bốn chúng đệ tử, các vị Trời, Rồng, Quỷ, Thần và thần Chất lượng, không ai là không hoan hỷ, làm lễ lui ra.

* *

84- Kinh Vua Nước Già-La.

        Thuở xưa, vua nước Già-la, v́ người chánh hậu không con nối dối, nên rất buồn rầu, ra lệnh:

        -Bà về bên nhà cha mẹ, t́m phép ǵ cho có con nối dơi, trở lại đây ta sẽ không làm tội.

        Hoàng hậu khóc lóc từ giă, thề sẽ quyên sinh, bèn gieo ḿnh xuống núi sâu, rớt vào rừng rậm. Trời Đế Thích cảm động, nói:

        -Hoàng hậu của vua này đời trước là chị của ta, nay không con nối dơi mà phải bỏ thân nơi núi hiểm.

        Đế Thích buồn thương, bỗng nhiên hiện xuống, lấy đĩa đầy trái cây đưa cho hoàng hậu, nói:

        -Này chị, ăn đĩa quả này ắt có con Thánh nối ḍng, sẽ là bậc anh hùng thế gian. Nếu nhà vua có nghi ngờ th́ lấy đĩa ấy cho xem. Đĩa thần của vua trời này là vật làm chứng tốt nhất.

        Nguyên hậu ngẩng đầu lên trời ăn trái cây, bỗng nhiên không thấy Đế Thích ở đó nữa. Bà cảm thấy thân nặng, trở về cung, gặp vua, đem việc ấy thành thật tâu lên đầy đủ. Đủ ngày bà sinh được một hoàng nam, dung mạo xấu xí, trong đời ít thấy, ở tuổi ấu thơ, thái tử đă tỏ ra thông minh biết rộng, mưu trí vượt chúng, sức có thể vật ngă voi, chạy đuổi theo bắt được chim ưng bay, phát tiếng nói ngân vang như sư tử rống, tiếng đồn xa gần, tám phương đều khen ngợi. Nhà vua cưới con gái vua nước bên cạnh cho thái tử; nàng tên là Nguyệt Quang, xinh đẹp đoan chánh, đầy đủ nết tốt trên đời. Sau nàng c̣n có bảy người em gái cũng rất xinh đẹp. Hoàng hậu sợ Nguyệt Quang không ưa diện mạo của thái tử nên nói dối:

        -Theo lễ nghi xưa của nước ta, vợ chồng không được gặp nhau lúc ban ngày. Lễ là điều quan trọng, phi không được trái với tục xưa. Nguyệt Quang thưa:

        -Kính vâng, con không dám quên lời dạy quư báu ấy.

        Từ đó về sau, thái tử vào ra chưa từng thấy mặt. Thái tử thầm ” nghĩ: “Nước ḿnh cùng bảy nước là thù địch, nếu dùng sức để tranh th́ không ổn, muôn dân ta thán, vậy ta phải quyền biến để đem lại yên lành”. Ḷng tự suy nghĩ: “Thân tướng ta rất xấu, vợ thấy ắt lánh xa, nàng lánh xa th́ thiên hạ an ổn, dân chúng an lành. ”

        Bèn vui mừng thưa với hoàng hậu xin được gặp vợ một lần để ngắm dung nhan nàng. Hoàng hậu nói:

        -Diện mạo của con xấu xí, c̣n vợ con th́ dung mạo tươi đẹp, diễm lệ, sánh ngang Thiên nữ, nó mà biết được chắc là bỏ đi ngaythôi, con phải trọn đời cô đổc;Thái tử lại xin, hoàng hậu thương con nên phải chấp nhận theo ư nguyện, đem hoàng phi ra xem ngựa. Thái tử giả làm người chăn, hoàng phi thấy, hỏi:

        -Người chăn sao mà xấu thế?

        Hoàng hậu nói:

        -Đây là người chăn của tiên vương đấy.

        Sau đó đưa đi xem voi, hoàng phi lại thấy thái tử nên ngờ, nghĩ: “Nơi ta dạo đến đều thấy người này, có lẽ là thái tử chăng?” Bèn thưa với hoàng hậu:-

        -Xin cho con được thấy mặt thái tử.

        Hoàng hậu liền quyền biến, bảo anh em đi du hành trong nước. Thái tử cùng quan liêu có đám tùy tùng theo hầu, hoàng hậu và hoàng phi nh́n thấy ḷng có chút vui vẻ. Sau đó, lại đi vào khu thượng uyển, thái tử leo lên cây hái trái ném vào lưng vợ, hoàng phi nói:

        -Đây nhất định là thái tử. Đêm đến, ŕnh lúc thái tử ngủ, hoàng phi lặng lẽ lấy đèn soi thấy được tướng mạo thái tử, hoảng sợ nên bỏ chạy về nước. Hoàng hậu giận nói:

        -Sao lại để cho vợ con bỏ về thế?

        Thái tử đáp:

        -Vợ con bỏ đi th́ đó là nền tảng cho thiên hạ thái b́nh, dân chúng trọn đạo nuôi nấng cha mẹ ḿnh.

        Rồi thái tử vào bái biệt vua cha và hoàng hậu lên đường t́m vợ ḿnh. Đến đất nước của hoàng phi, thái tử giả làm thợ gốm, đi làm đồ gốm thuê. Đồ gốm làm ra đẹp nhất nước, chủ ḷ gốm thấy đẹp nên mang đến dâng lên vua. Nhà vua được đồ đẹp mừng lắm, ban cho cô gái út, cô bèn đem đến cho các chị ḿnh xem. Nguyệt Quang biết là đồ của chồng ḿnh làm, nên ném xuống đất cho vỡ đi. Thái tử lại vào thành đi nhuộm thuê các thứ vải lụa, chọn lấy một xấp lụa nhuộm thành các thứ đẹp lạ, đầy đủ kỹ thuật tinh xảo, xem ra trên đời ít thấy. Chủ ḷ nhuộm mừng rỡ lấy làm lạ, lại đem dâng lên vua. Vua lại đẹp ḷng, đem đưa cho tám người con gái xem, Nguyệt Quang biết đó là của chồng ḿnh nên bỏ đi không nh́n. Thái tử lại đi làm người nuôi ngựa thuê cho một vị đại thần, nuôikhéo ngựa đă mập lại thuần. Vị đại thần hỏi:

        -Ngươi c̣n có tài nghệ nào nữa chăng?

        Thưa:

        -Các món mà một thái quan phải làm, tôi đều biết đầy đủ cả.

        Vị đại thần bảo chàng làm các món ăn để dâng lên vua. Ăn xong, nhà vua hỏi:

        -Ai đă làm các món ăn này?

        Vị đại thần cứ sự thật tâu lên. Vua ra lệnh cho chàng làm thái quan, coi sóc công việc ăn uống của vua. Một hôm, thái tử đem canh vào nội cung dâng cho tám người con gái của vua. Muốn đạt được sự quyền biến, thái tử giả vờ làm đổ canh vào người, các cô gái đều kinh sợ, riêng Nguyệt Quang không thèm ngó đến. Trời Đế Thích hoan hỷ khen:

        -Bồ-tát lo cứu độ chúng sinh đến như thế sao! Ta phải quyền biến giúp đỡ.

        Bèn khiêu khích bảy nước thù địch, tụ hội tại thủ đô của nước hoàng phi, nói với hoàng phi: “Chính ngươi sẽ dứt được gốc tai họa cho hàng triệu dân”.

        Rồi hóa làm tờ thư do chính tay phụ vương của Nguyệt Quang viết, đem Nguyệt Quang gả cho bảy nước. Bảy nước đều sắm lễ vật đến kinh đô nước của Nguyệt Quang để rước dâu. Họ gặp gỡ, cùng hỏi thăm nhau đến đây làm ǵ? Ai cũng trả lời rằng đến để xin cưới người con gái của vua tên Nguyệt Quang. Tranh căi nhau rối rít, họ đều lấy thư tay của vua đưa ra, rồi cùng lên tiếng oán hận, nói:

        -Sẽ diệt cả họ của ngươi, việc không thể lầm được!

        Liền khiến sứ giả trả lại thư, cùng hỏi vặn:

        -Ông đem một người con gái ra đùa cợt với bảy nước chúng ta, các nước oán hận cùng hưng binh, nước mất ngay hôm nay đấy!

        Vua cha sợ hăi nói: “Họa này lớn quá, chắc do nghiệp từ đời trước gây ra! Bèn gọi Nguyệt Quang bảo:

        -Con làm vợ người ta, chồng dẫu khôn ngu, lành dữ, tốt xấu, đều do nghiệp từ trước, ai có thể bỏ đi được, mà không trinh nhất, một ḷng tận hiếu vâng thờ, lại bỏ chồng trở về nước, để họa đến thế này! Ta nay phải phân thây con ra làm bảy phần, để tạ tội với vua bảy nước.

        Nguyệt Quang khóc thưa:

        -Xin cha tha mạng con trong chốc lát, để con t́m người tài trí, ắt có thể đẩy lui được các họa bảy nước ấy...

        Nhà vua liền treo giải:

        -Ai có thể trừ được họa này, th́ sẽ gả Nguyệt Quang và nuôi dưỡng bằng phước lớn.

        Thái tử nói:

        -Hăy mau làm đài cao, ta sẽ trừ hết giặc.

        Đài cao làm xong, thái tử giả bị bệnh, bước một chân nghiêng xuống đất, cần Nguyệt Quang đến cơng th́ mới đẩy lui được quânđịch. Nguyệt Quang hoảng hốt, sợ thấy cảnh chém giết, nên phải đỡ nâng thái tử lên đài, chỉ biết đứng sững. Thái tử lớn tiếng gọi vua bảy nước, âm vang chấn động xa như sư tử rống, đem lời Phật dạy mà dẫn dụ:

        -Làm bậc trời coi sóc muôn dân phải dùng đạo nhân từ, mà nay các ông nổi giận, giận lớn là họa to, hỏa to th́ thân mất, hễ mất thân th́ mất nước, ấy đều do danh, sắc cả!

        Binh hùng bảy nước không ai là không ngây người bất động, giây lát sau tỉnh lại, đều muốn trở về nước ḿnh. Thái tử tâu với vua:

        -Việc hôn nhân không ai bằng các vua này, sao không đem bảy cô con gái gả cho con của bảy vua kia! Có con rể che chở th́ nhà vua được an lành, thần dân được vui vẻ, cha mẹ được nuôi dưỡng.

        Nhà vua nói:

        -Hay thay! Đây là niềm vui lớn!

        Bèn gọi bảy vua đến đem bảy cô con gái gả cho. Tám chàng rể dâng lễ hậu hỹ, vua tôi hớn hở. Đến lúc đó vua và thần dân mới biết thái tử là chồng cũ của Nguyệt Quang. Vua liền tuyển chọn quan hiền, vơ sĩ theo hầu, mọi người đều trở về nước. Chín nước đều ḥa b́nh an ổn, dân chúng múa hát, thảy đều ca ngợi.

        -Trời giáng xuống làm cha ta! Phàm là Thánh nhân quyền biến th́ chẳng phải người phàm biết được! Nay đức tụ công thành, vậy mới rơ ràng, không chê bai.

        Trở về nước chừng hơn một năm, vua cha băng hà, thái tử thay ngôi cha đại xá các tội, đem năm giới, sáu độ, tám trai, mười thiệngiáo hóa muôn dân, tai họa đều dứt, nước giàu dân an, nền đạo hóa lớn lưu hành, mọi người đều phụng thờ ba ngôi báu, đức lớn phước về, các bệnh đều tiêu diệt, dung mạo thái tử trở nên rực rỡ, đẹp hơn cả hoa đào. Sở dĩ như vậy là v́ thọ mạng đời trước của Bồ-tát. Vợ chồng đều cùng đi cày, một hôm sai vợ về lấy cơm, trông thấy vợ trở lại, cùng đi với một vị Bích-chi-phật, khuất sau sườn núi, lâu mà không thấy đến. Ḷng sinh nghi ngờ, nổi giận cầm cây muốn đi đến đánh. Tới nơi, thấy vợ ḿnh đang lấy phần cơm cúng dường vị Sa- môn, rồi lui lại chắp tay đứng. Vị Sa-môn ăn xong, ném bát lên hư không, bát phát ra ánh sáng chói ḷa, rồi bay đi mất. Ḷng người chồng vừa xấu hổ, vừa hối hận, nghĩ: “Vợ ḿnh có đức mới gặp được bậc đáng tôn kính ấy! C̣n ḿnh quá ngu chắc sẽ bị họa”. Liền gọi vợ nói:

        -Phước cúng dường của nàng ta sẽ chung với, phần cơm c̣n lại hai ta cùng ăn, xin nàng chớ giận!

        Đến khi mạng chung, mỗi người đều sinh vào gia đ́nh vương giả, người vợ có ḷng thuần từ bố thí nên sinh ra đă đoan chánh. C̣n người chồng, trước giận dữ, nhưng sau th́ có ḷng Từ, nên mới sinh th́ xấu xí mà sau th́ đẹp đẽ.

        Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

        -Hễ con người tạo nghiệp, trước ban cho sau lấy lại, th́ đời sau lúc mới sinh ra th́ giàu có nhưng lớn lên th́ nghèo khổ. Nếu trước lấy đi mà sau ban cho th́ đời sau thọ báo trước nghèo hèn mà sau lớn lên th́ giàu sang. Thái tử ấy là thân Ta, người vợ là Câu-di, phụ vương là vua Bạch Tịnh, người mẹ nay là Xá Diệu, mẹ ta; trời Đế Thích là Di-lặc. Bậc Khai sĩ đời đời thương nhớ chúng sinh, dốc cứu vớt họ ra khỏi cảnh lầm than.

Trí tuệ độ vô cực rộng khắp của Bồ-tát luôn thể hiện sự sáng suốt như vậy.

* *

85-  Kinh Bồ-Tát Dùng Trí Tuệ Xa Rời Vợ Quỷ.

        Thuở xưa, Bồ-tát làm ngựời phàm, năm lên mười sáu tuổi tánh khí thông minh, học nhiều thấy rộng, không kinh nào là không thấu triệt, luyện kỹ nghĩ sâu về đạo thuật của các kinh, xem kinh nào là đúng nhất, đạo nào là an nhất; Suy nghĩ rồi bùi ngùi nói:

        -Chỉ có kinh Phật là đúng nhất, đạo vô vi là an nhất.

        Lại nghĩ:

        -Ta dốc giữ lấy điều đúng và ở chỗ yên ấy. Cha mẹ muốn cưới vợ cho, Bồ-tát buồn bă nói:

        -Họa về yêu quái dữ nhất không ǵ lớn hơn sắc. Nếu yêu quỷ đến th́ đạo đức mất. Ta không chạy trốn chắc bị sói nuốt thôi!

Thế rồi liền trốn tới nước khác, đem sức làm thuê, để tự sinh sống. Bây giờ, có một ông chủ điền đă già nhưng không có con nối dơi. Một hôm ra đồng, nhặt được một bé gái dung nhan tuyệt vời, hớn hở đem về nuôi làm con, rồi t́m người con trai để gả, khắp nước mà không t́m đâu được. Ông thuê Bồ-tát đă năm năm, thấy có nết hạnh từ nhỏ đến lớn nên trong ḷng vui vẻ nói:

        -Này đồng tử, nhà ta có đủ cả, nay đem con gái gả cho con, làm người nối dơi của ta nhé. Người con gái có đức thần, làm mê hoặc ḷng Bồ-tát. Cưới vợ không bao lâu, Bồ-tát tự hiểu:

        -Ta thấy chư Phật dạy rơ, cho sắc dục là lửa, người là con thiêu thân, con thiêu thân tham lửa, nên thân bị thiêu đốt. Nay ông này đem lửa sắc thiêu đốt thân ta, lấy mồi của cải câu miệng ta, dùng cảnh nhà dơ này để chôn đức ta.

        Đêm đến, Bồ-tát lặng lẽ trốn đi xa, được hơn trăm dặm, vào ngôi đ́nh trống ngủ qua đêm. Người giữ đ́nh hỏi:

        -Ông là người nào?

        Trả lời:

        -Tôi là người ngủ nhờ qua đêm.

        Người giữ đ́nh dẫn vào, thấy giường nệm đẹp đẽ, các đồ châu báu lóa mắt, có người đàn bà nhan sắc giống như vợ ḿnh, mê hoặc tâm Bồ-tát, khiến cùng nhau ăn ở đến năm năm. Bồ-tát sáng ḷng nghĩ:

        -Dâm là sâu độc làm tán thân nguy mạng. Ta đă cố chạy trốn nay xui khiến lại gặp.

        Rồi lặng lẽ trốn nhanh. Lại gặp cung điện và người đàn bà như trước, lại mê hoặc ḷng nữa, ăn ở được mười năm. Rồi Bồ-tát sáng ḷng, hiểu ra nói:

        -Họa của ta quá nặng, chạy mà không thoát khỏi!

        Rồi tự phát lời trọng thệ:

        -Suốt đời không ngủ nhờ nữa.

        Lại chạy trốn đi. Xa xa, thấy một ngôi nhà lớn bèn tránh đi ra đồng. Người giữ cửa hỏi:

        -Người nào đi đêm đó?

        Đáp:

        -Tôi đi đến xóm phía trước.

        Người giữ cửa nói:

        -Có lệnh cấm không cho đi.

        Người trong nhà gọi vào, Bồ-tát lại thấy như trước. Người đàn bà nói:

        -Từ vô số kiếp đă thề làm vợ chồng với nhau, ông sao chạy khỏi?

        Bồ-tát nghĩ:

        -Gốc của dục khó nhổ đến như thế sao!

        Liền dấy ư niệm về bốn vô thường, nói:

        -Ta muốn dùng pháp định vô thường, khổ, không, vô ngă để diệt các dơ bẩn của ba cơi, th́ chỉ chút dơ bẩn của ngươi sao lại không thể trừ được!

        Khởi lên bốn niệm ấy th́ vợ quỷ liền diệt, trong ḷng rực sáng. Liền thấy chư Phật đứng ở trước mặt ḿnh, giải rơ về định không, bất nguyện, vô tưởng, thọ giới Sa-môn, làm bậc thầy tối thượng.

        Trí tuệ độ vô cực rộng khắp của Bồ-tát luôn thể hiện sự sáng suốt như vậy.

* *

86-  Kinh Nho Đồng Thọ Kư.

        Thuở xưa, Bồ-tát sinh ở nước Bát-ma, làm Phạm chí tên là Nho Đồng, tự t́m thầy học hỏi, ngửa xem thiên văn, các sách về mưu lược, sấm kư, hễ nghe thấy là liền hiểu, giữ chân, chuộng hiếu. Nho sĩ trong nước đều khen ngợi. Một hôm, thầy hỏi:

        -Ngươi nay đạo đầy, nghề đủ, sao không dốc chí ra đi giáo hóa kẻ mới học?

        Phạm chí thưa:

        -Con vốn nghèo thiếu, không có của cải ǵ để báo đền ân thầy, nên không dám đi. Vả lại mẹ bệnh rất nặng không thuốc thang chữa trị, xin đi làm thuê để lo thuốc thang cho mẹ.

        Thầy nói:

        -Tốt lắm.

        Phạm chí bèn cúi đầu lễ thầy ra đi, dạo khắp nước gần đó, thấy năm trăm vị Phạm chí tụ hội nơi giảng đường, bày biện một ṭa ngồi cao, đặt một người con gái đẹp và năm trăm đồng bạc nói:

        -Ai lên ngồi trên ṭa cao để các nho sĩ cùng vấn nạn, nếu thấy trí rộng, đạo sâu th́ sẽ dâng cô gái và số tiền ấy.

        Bồ-tát đến xem, thấy họ trí cạn, bị gạn hỏi tất hết lời, bèn bảo các nho sĩ:

        -Tôi cũng con Phạm chí, có thể dự bàn được không?

        Mọi người đều đáp:

        -Được.

        Bồ-tát liền lên ngồi ṭa cao, các nho sĩ hỏi đạo cạn th́ đáp đạo sâu, hỏi nghĩa hẹp th́ giải nghĩa rộng. Các nho sĩ nói:

        -Người này đạo cao trí rộng, có thể làm thầy.

        Rồi họ đều cúi đầu chịu phục. Bồ-tát xin cáo lui. Các nho sĩ nói:

        -Người này tuy trí tuệ cao minh, nhưng là người nước khác, cưới con gái nước ta làm vợ không hợp, hăy lấy thêm tiền để tặng cho.

        Bồ-tát đáp:

        -Người đạo cao th́ đức sâu, ta muốn đạo vô dục, điều muốn ấy mới quư giá. Đem đạo truyền cho thần, đem đức trao cho Thánh, Thần thánh truyền nhau th́ nền giáo hóa lớn lao mới không hư, đáng gọi là kẻ nối ḍng tốt. Các ông muốn mất đạo, chặt gốc rễ của phước đức, có thể gọi là kẻ vô hậu.

        Nói rồi liền lui. Các nho sĩ bẽn lẽn, xấu hổ. Người con gái nói:

        -Bậc cao sĩ kia đúng là chồng ta.

        Rồi nàng vén áo bước ra đường, lần theo dấu vết, trải qua khắp các nước, chân đau sức mệt, ngất xỉu bên vệ đường. Đến nước Bát-ma, quốc vương hiệu là Chế Thắng, đang tuần hành biên giới, thấy người con gái mệt xỉu, liền hỏi:

        -Cô là ai mà nằm bên vệ đường vậy?

        Người con gái thuật đầy đủ về nguyên do. Vua khen chí của cô và rất thương xót. Nhà vua ra lệnh cho cô gái:

        -Hăy theo ta về cung, ta sẽ nhận con làm con gái.

        Cô gái tâu:

        -Thức ăn của họ khác, có thể ngồi không mà ăn sao? Xin cho giữ một chức ǵ th́ sẽ theo đại vương.

        Vua nói:

        -Cô hái các loại hoa quư dâng cho ta trang sức.

        Cô gái xin vâng lời, theo vua về cung, ngày ngày hái hoa đẹp để dâng lên cho vua dùng.

        Nho Đồng trở về nước, thấy trên đường người ta xúm nhau san g̣ lấp hố, quét dọn sạch sẽ, ḅn hỏi người đi đường:

        -Dân chúng hớn hở, chắc có ǵ vui vẻ?

        Họ đáp:

        -Đức Định Quang Như Lai Vô Sở Trước Chánh Chân Đạo Tối Chánh Giác Đạo Pháp Ngư Thiên Nhân Sư sắp đến đây giáo hóa, nên dân chúng hớn hở.

        Nho Đồng ḷng vui, lặng lẽ nhập định, tâm thanh tịnh không nhơ, thấy Đức Phật sắp đến. Trên đường gặp cô gái khi trước hái hoa cắm b́nh hoa, bèn đi theo xin được năm cành hoa. Vua, hoàng hậu, thứ dân đều tự ḿnh sửa sang đường, Bồ-tát nài xin một đoạn nhỏ để tự ḿnh lo sửa. Dân nói:

        -C̣n có một khe nhỏ, nước chảy xiết, đất đá không đứng yên được.

Bồ-tát nói:

-Ta dùng sức thiền hạ ngôi sao nhỏ kia, lấp vào đấy được không?

        Lại nghĩ: “Nghi thức cúng dường là phải dùng bốn lực lớn, khổ ḿnh mới tốt. Liền để ngôi sao mà kéo đá, đem sức ḿnh lấp khe đó. Sức hiền lực trụ rồi, c̣n chút rănh bùn th́ Đức Phật đă đến, Bồ- tát bèn cởi áo da nai đang mặc phủ lên chỗ đất bùn, đem năm cành hoa tung lên cúng Phật, hoa trùm lên không trung, như lấy tay rải hạt giống vào đất mọc lên. Đức Phật gọi Bồ-tát nói:

        -Sau chín mươi mốt kiếp, hiền giả sẽ thành Phật hiệu là Năng Nhân Như Lai Vô Sở Trước Chánh Chân Đạo Tối Chánh Giác Đạo Pháp Ngự Thiên Nhân Sư. Đời ấy điên đảo, cha con thù nhau, sự cai trị của vua tổn hại đến dân, khác nào trời mưa đao kiếm, dân tuy cố tránh nhưng khó thoát nạn. Người sẽ ở nơi cơi đời ấy cứu vớt chúng sinh, số người được độ không thể tính kể.

Nho Đồng mừng vui, nhảy lên hư không cách mặt đất bảy nhận, rồi từ trên không đáp xuống, lấy tóc trải đất cho Phật bước qua. Đức Thế Tôn đi qua rồi, bảo các Tỳ-kheo:

        -Đừng đạp lên đất ấy. Sở dĩ như vậy là v́ đó là nơi thọ kư, tôn kính vô thượng. Kẻ sĩ có trí dựng ngôi chùa nơi đây th́ cùng đồng với thọ kư.

        Chư Thiên đều đồng thanh nói:

        -Chúng tôi sẽ tạo chùa ở đây.

        Bây giờ, có con ông trưởng giả tên là Hiền Càn, lấy một ít củi nhỏ xếp lên chỗ đất ấy, nói:

        -Chùa ta đă dựng rồi!

        Chư Thiên ngoái nh́n nói với nhau:

        -Đứa bé phàm phu mà có trí tuệ của bậc Thượng thánh ư?

        Hiền Càn bèn chở các báu đến, dựng chùa trên đó, rồi cúi đầuthưa:

        -Xin nguyện cho con được thành Phật, giáo hóa như nay. Hiện đă dựng chùa rồi th́ phước ấy ra sao?

        Đức Thế Tôn nói:

        -Khi Nho Đồng thành Phật, con sẽ được thọ kư.

        Đức Phật bảo Tôn giả Thu Lộ Tử:

        -Nho Đồng ấy là thân Ta, cô gái bán hoa nay là Câu-di, con ông trưởng giả nay là Phi-la-dư đang ngồi trong chúng hội.

Phi-la-dư liền cung kính đảnh lễ nơi chân Phật. Đức Phật thọ kư cho sau này sẽ thành Phật hiệu là Khoái Kiên.

        Đức Phật thuyết giảng kinh xong, bốn chúng đệ tử, trời, người, rồng, quỷ... không ai là không hoan hỷ, làm lễ và lui.

        Trí tuệ độ vô cực rộng khắp của Bồ-tát luôn thể hiện sự sáng suốt như vậy.

*  *

87-  Kỉnh Vua Ma-điều.

        Nghe như vầy:

        Một thời Đức Thế Tôn ở nước Vô-di, ngồi bên gốc cây, dung mạo rực rỡ hơn cả vàng tía, vui vẻ mà cười, miệng phóng hào quang năm sắc. Bấy giờ, ai trông thấy, không ai là không vui thích, đều ca ngợi:

        -Thật đúng là Đấng Thiên Trung Thiên!

        Tôn giả A-nan sửa lại y phục, cúi đầu thưa:

        -Đức Thế Tôn cười hẳn là muốn cứu độ chúng sinh tối tăm?

        Đức Phật nói:

        -Lành thay! Đúng như lời Tôn giả nói, Ta không cười suông, đó là nhằm nêu pháp. Tôn giả muốn biết ư nghĩa của nụ cười ấy chăng?

        Tôn giả A-nan thưa:

        -Chúng con luôn khao khát Thánh điển, thật không bao giờ gọi là no đủ cả.

        Đức Phật nói:

        -Thuở xưa, có vị Thánh vương tên là Ma-điều, khi làm Phi hành hoàng đế cai trị bốn châu thiên hạ, ḷng chánh, hạnh ngay, dân không riêng oán, từ bi vui giúp, ḷng như trời Đế Thích. Thời ấy thọ mạng của dân lâu đến tám vạn tuổi. Nhà vua có bảy món báu là: Bánh xe quay bằng vàng tía, voi trắng biết bay, ngựa thần màu xanh biếc, ngọc thần Minh nguyệt, vợ Thánh ngọc nữ, quan Thánh coi kho báu, quan Thánh coi về quan binh. Hoàng đế có một ngàn người con, đoan chánh nhân hậu, thanh bạch, thấu rơ việc quá khứ, đoán được việc vị lai, người có hiểu biết không ai là không kính mộ.

        Hoàng đế muốn du hành, dạo xem khắp Đông, Tây, Nam, Bắc, ư vừa dấy niệm th́ xe vàng đă ở trước mặt, đi đâu tùy theo ư, bảy báu đều như thế. Chúng bay trước dẫn đường cho thánh vương, trời rồng, thiện thần không ai là không theo pḥng vệ, tung các hoa báu, chúc thọ vô lượng. Hoàng đế ra lệnh cho cận thần coi về khăn lược:

        -Khi nào ngươi thấy tóc nơi đầu ta bạc th́ phải tâu ngay. Hễ tóc bạc, sắc hủy, chứng tỏ là sắp chết, lúc ấy ta muốn dẹp bỏ các công việc dơ tục của ḍng đời mà thực hành hạnh đạm bạc thanh tinh.

        Quan cận thần y theo lệnh, sau đó, thây đầu vua bạc liền tâu lên. Ḷng hoàng đế vui mừng, triệu thái tử đến nói:

        -Đầu ta đă bạc, tóc bạc là chứng tín của vô thường, không nên buông thả niệm trong cuộc đời vô ích này. Nay ta lập con làm hoàng đế cai trị bốn châu thiên hạ. Thần dân giao mạng cho con, con phải thương xót họ, theo phép tắc của ta đă làm th́ khỏi sa vào nẻo ác. Đến khi tóc bạc th́ hăy bỏ nước đi làm Sa-môn, lập con lên làm vua, dạy bảo nó phải lấy bốn thứ tâm, năm giới mười thiện làm đầu.

        Lời dạy rơ ràng vừa xong, vua liền bỏ đất nước, đến nơi lều tranh bên gốc cây, cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục làm Sa-môn. Quần thần dân chung thương mến vật vă khóc than cảm động... Con cháu của Pháp vương Ma-điều nối truyền nhau được một ngàn tám mươi bốn đời. Chánh pháp của thánh hoàng vào đời sau cùng muốn suy giảm, Thánh vương Ma-điều lại bỏ cơi trời, thần hồn giáng xuống sinh vào nhà vua sau cùng, cũng làm Phi hành hoàng đế, hiệu là Nam. Chánh pháp lại hưng thịnh. Vuara minh lệnh cho hoàng hậu, quư nhân trong cung phải giữ tám giới và hàng tháng sáu ngày chay. Tám giới là:

      1. Phải có ḷng Từ bi thương xót, yêu chuộng sự sống của chúng sinh

      2. Là cẩn thận không trộm cắp, giàu có phải cứu giúp kẻ nghèo thiếu.

      3. Là phải giữ ḷng trinh thanh tịnh, tuân giữ nẻo chân chánh.

      4. Là phải giữ thành tín, nói năng theo lời dạy của Phật.

      5. Là phải hết ḷng hiếu thảo, không uống rượu

       6. Là không nằm giường cao, màn gấm.

       7. Là vào buổi chiều, thức ăn không qua miệng.

       8. Là hương hoa phấn sáp nên thận trọng đừng để gần ḿnh,Ca dâm, nhạc tà không để làm nhơ đức hạnh, tâm không nghĩ đến, miệng không nói tới, thân không làm ra. 

        Nhà vua c̣n ra lệnh cho các bề tôi thánh, danh sĩ đạo hạnh xuống đến dân thường, người không phân biệt sang hèn đều phải vâng giữ sáu ngày trai, xem đọc tám giới, mang nó bên ḿnh, mỗi ngày đọc tụng ba lần, hiếu thuận với cha mẹ, kính vâng người già cả, tôn trọng hết ḷng, khiến họ đến nghe kinh, những người quan, quả, trẻ đi ăn xin, đều được cứu giúp Cấp của, kẻ bệnh tật th́ thuốc men, áo quần ăn uống giúp nhau. Người nghèo khó không có ǵ, th́ khiến đến cửa cung, xin những ǵ ḿnh thiếu. Ai không nghe theo lời th́ bắt làm công việc nặng nhọc, cứ một nhà có một người hiền ở trong th́ bao gồm năm nhà khiến năm giáo hóa một, ai thuận trước th́ được thưởng, c̣n quan pḥ tá việc cai trị th́ chọn dùng người hiền, chứ không dùng quư tộc.

        Từ khi pháp sáng của vua được thi hành trở về sau, dân trong bốn châu thiên hạ đem ḷng Từ ḥa hướng về nhau, tâm Ưa giết hại diệt hết, nên luôn được giúp đỡ, đêm không đóng cửa, trinh khiết thanh tịnh, không phải vợ ḿnh th́ không ham muốn, một không nói hai, nói dạy nhân từ, thương xót, thấy điều không thường là thật, lời không thêu dệt, thấy người khác được phước lợi th́ ḷng hoan hỷ, nói lời khuyến trợ, hành hóa đạo lớn, hung độc đều tiêu diệt, tin Phật, tin Pháp, tin Sa-môn, nói năng không c̣n điều nghi ngờ, khúc mắc. Ân từ nhuận của vua Nam thấm đượm khắp nơi, không đâu là không đến, tám phương trên dưới không đâu là không khen ngợi công đức. Vua trời thứ hai và bốn Thiên vương, mặt trời, mặt trăng, tinh tú, rồng biển, thần đất hàng ngày cùng nhau bàn luận:

        -Vua người của thế gian có ḷng Từ, bốn thứ tâm bố thí, ân đức thấm khắp vượt hơn chư Thiên!

        Trời Đế Thích bảo chư Thiên:

        -Các ngươi muốn thấy vua Nam không?

        Chư Thiên đáp:

        -Đó là nguyện vọng lâu nay của chúng tôi! Xin lời dạy sángsuốt!

        Trời Đế Thích chỉ trong khoảnh khắc, đă đến trên điện Từ tuệ của vua Nam, yết kiến vua Nam, nói:

        -Thưa Thánh vương đức lớn, chư Thiên từ lâu khao khát, nghĩ muốn được gặp không ngày nào là không mong. Thánh vương có muốn thăm cơi trời Đao-lợi không? Trên đó tự nhiên không nguyện ǵ là không đạt được.

        Vua Nam nói:

        -Tốt Ta nghĩ cũng muốn có một chuyến dạo chơi.

        Đế Thích trở về trời bảo người đánh xe tên là Ma-lâu:

        -Đem xe báu ngàn ngựa của ta đón vua Nam đến.

        Người đánh xe vâng lệnh lấy xe trời tới rước vua Nam. Xe trời đến dừng ở dưới cửa cung, quần thần, dân chúng không ai là không ngạc nhiên, cho đó là điềm lành của vua Thánh, ca ngợi là chưa từng có, nên cùng nhau tuyên dương, xưng tụng, cả nước đều vui: -Vua ta ḷng Từ bao la, ân đức thấm nhuần khắp chúng sinh, tự tu tám giới, hàng tháng thọ sáu ngày, lại đem những điều đó dạy dân, phước đức rất lớn, nên khiến trời Đế Thích yêu kính đến nghênh đón.

        Vua Nam lên xe, ngựa xe đều bay, bồi hồi dùng dằng, muốn cho dân cùng thấy. Vua bảo người đánh xe:

        -Hăy đem ta đến xem người ác ở hai đường địa ngục, ngạ quỷ, bị thiêu nấu đánh khảo, chịu tội đời trước.

        Người đánh xe làm theo lệnh xong, bèn đưa lên trời.

        Trời Đế Thích hoan hỷ, xuống điện ra nghinh tiếp, nói:

        -Ngài đă nhọc ḷng ngược xuôi lo việc cứu độ chúng sinh, thực thi sự nghiệp rộng lớn của Bồ-tát. Bốn đẳng tâm, sáu độ, nên chư Thiên mong muốn được gặp.

        Đế Thích đi tới, cầm tay cùng ngồi. Thân thể vua Nam lại biến thành thơm tho, thanh khiết, dung mạo đoan chánh, không khác ǵ Đế Thích. Rồi ở Thiên cung tấu lên kỹ nhạc hay lạ, âm thanh vang vọng không lường, các hoa báu, hương thơm được tung lên đón mừng, thật hiếm thấy trên đời. Trời Đế Thích lại nói:

        -Thận trọng, chớ nên luyến tiếc chỗ ở thế gian, các thú vui trên đời, vua Thánh đều có cả.

        Vua Nam ḷng nhằm giáo hóa kẻ ngu tôi, diệt hết lũ tâm tà, khiến mọi người biết phụng thờ ba ngôi báu, nên đáp lời Đế Thích:         -Ví như mượn vật của người, phải tính trả lại cho chủ. Nay, ngôi trời này, không phải là chỗ tôi thường ở, xin tạm trở về thế gian, dạy dỗ đám con cháu, đem pháp sáng của Đức Phật, theo tâm chánh trị nước, khiến cho sự hiếu thuận luôn nối nhau, giới đủ, hạnh cao, khi bỏ thân người, sinh lên cơi trời, cùng với Đế Thích vui thú Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:

        -Vua Nam ấy là thân Ta, con cháu truyền nhau đến một ngàn tám mươi bốn đời, lập con làm vua, cha làm Sa-môn.

        Tôn giá A-nan vui vẻ cúi đầu nói:

        -Đức Phật luôn thương xót chúng sinh, ân thấm nhuần đến như thế, công đức bất hủ, nên nay thành tựu đạo quả Phật, làm bậc tôn quư trong ba cơi, chư Thiên, Tiên thánh không ai là không tôn kính.

        Các Tỳ-kheo hoan hỷ làm lễ rồi lui ra.

* *

88-  Kinh A-Ly-Niệm-Di.

        Nghe như vầy:

        Một thời Đức Phật ở tại xóm Ưu-lê thuộc Xá-vệ. Lúc ấy, sau bữa ngọ trai, các Tỳ-kheo ngồi lại ở giảng đường, riêng cùng bàn luận:

-Mạng người ngắn ngủi, thân yên ổn không được bao lâu, sẽ phải đến đời sau rồi! Trời, người, các vật... không ǵ sinh ra mà không chết, những người ngu tối, keo kiệt khổng biết bố thí, không vâng giữ kinh đạo, cho làm thiện không phúc, làm ác không bị họa nặng, buông ḷng, thả chí, không việc ác nào mà không làm, trái lời Phật dạy, về sau dù hối hận phỏng có ích ǵ!

        Đức Phật dùng thiên nhĩ, xa nghe các vị Tỳ-kheo bàn luận về chuyện vô thường không ǵ hơn. Đức Thế Tôn liền đứng dậy, đến chỗ các vị Tỳ-kheo, lên ṭa ngồi an tọa rồi hỏi:

        -Các vị vừa bàn luận việc ǵ?

        Các Tỳ-kheo quỳ gối, thưa:

        -Sau bữa ăn, chúng con cùng nhau bàn luận về vấn đề mạng người thoáng chốc, không bao lâu phải sang đời sau... như trên đă nói.

        Đức Thế Tôn khen:

        -Lành thay! Lành thay! Rất thú vị! Đang khi các ông bỏ nhà học đạo, chí phải trong sạch, chỉ có điều thiện mới nên nhớ nghĩ.         Tỳ-kheo đứng ngồi, phải luôn tâm niệm hai việc: Một là phải giảng kinh, hai là phải thiền định. Các vị có muốn nghe Ta giảng kinh không?

        Các vị Tỳ-kheo đáp:

        -Thưa vâng, chúng con nguyện vui thích lănh hội.

        Đức Thế Tôn kể:

        -Thuở xưa có vị quốc vương tên là Câu-lạp. Nước ấy có một loại cây lớn, tên là Tu-ba-hoàn, chu vi thân cây năm trăm sáu chục dặm, rễ dưới bốn phía rộng đến tám trăm bốn chục dặm, cao bốn ngàn dặm, cành tỏa ra bốn phía đến hai ngàn dặm. Cây ấy có năm mặt:

        Mặt thứ nhất, vua và cung nhân cùng ăn. Mặt thứ hai, bá quan ăn. Mặt thứ ba, dân chúng ăn. Mặt thứ tư, đạo nhân, Sa-môn ăn. Mặt thứ năm, chim thú ăn. Quả của cây to bằng cái b́nh hai đấu, vị ngọt như mật, không có người giữ ǵn, cũng không ai xâm phạm phá phách. Con người thời ấy đều thọ đến tám mươi bốn ngàn tuổi, họ đều có chín thứ bệnh: Lạnh, nóng, đói, khát, đại tiểu tiện, ái dục, ăn nhiều, tuổi già, thân suy. Họ có chín thứ bệnh ấy, con gái đến năm trăm tuổi mới đi lấy chồng.

        Bấy giờ, có vị trưởng giả tên là A-ly-niệm-di, của cải nhiều vô số. Niệm-di tự nghĩ: “Thọ mạng rất ngắn, không ǵ có sinh mà không có tử. Của báu nào phải là của ḿnh, nhiều lần đem tai họa đến, chẳng bằng ta đem bô" thí, cứu giúp kẻ nghèo đói, thiếu thốn. Đời sang tuy vui, nhưng không tồn tại lâu, chi bằng ta xa ĺa nhà vứt bỏ mọi uế trược, giữ hạnh trong sạch, mặc ca-sa làm Sa-môn”. Bèn đến chỗ chúng Tăng thọ giới Sa-môn. Những người thường thấy Niệm-di làm Sa-môn, có hơn mấy ngàn người, nghe lời dạy của bậc Thánh ấy, đủ hiểu rơ về lẽ vô thường, có thịnh tức có suy, không ǵ c̣n măi mà không mất, chỉ có đạo là đáng quư, nên họ đều xin làm Sa-môn, thuận theo sự giáo hóa của ông. Niệm-di v́ các đệ tử nói kinh:

        -Mạng người ngắn ngủi, thoáng chốc vô thường, phải bỏ thân này, đến với đời sau, không có ǵ sống mà không chết, đâu được lâu dài! Vậy nên phải dứt tuyệt ḷng keo kiệt, bố thí cho kẻ nghèo cùng thiếu thôn, thu nhiếp t́nh dục, không phạm các điều ác. Sống ở đời, mạng người trôi qua rất nhanh. Mạng người ví như giọt sương mai trên đầu ngọn cỏ, giây lát đă rơi, mạng người như thế nào được lâu dài! Mạng người ví như trời mưa nước xuống, bọt nổi liền tiêu, mạng trôi qua nhanh hơn cả bọt nước. Mạng người ví như sấm chớp loáng nhanh, giây lát diệt ngay, mạng trôi qua nhanh, hơn cả sấm chớp. Mạng người ví như dùng gậy đập xuống nước, nhắc gậy lên nước liền lại ngay, mạng trôi qua nhanh c̣n hơn cả việc này. Mạng người ví như chút dầu xào trên lửa mạnh, để trong giây lát là cháy rụi, mạng trôi qua nhanh hơn cả chút dầu cháy ấy. Mạng người ví như máy dệt, sợi liền qua lại chỉ một chút liền giảm tới hết. Mạng người ngày đêm hao ṃn như vậy, nhiều buồn lắm đau nào được lâu dài. Mạng người ví như dắt trâu ra chợ mổ thịt, trâu dời một bước là gần đến chỗ chết một bước. Người sống một ngày như trâu bước một bước. Mạng sống trôi qua c̣n nhanh hơn như thế. Mạng người như nước từ núi đổ xuống, ngày đêm tuôn mau, không phút giây ngừng nghĩ. Mạng người qua đi c̣n nhanh hơn thế. Ngày đêm hướng đến cơi chết, nhanh lẹ không dừng. Người ở thế gian lắm khổ cực, nhiều lo nghĩ. Mạng người khó được, v́ lẽ đó, nên phải vâng theo chánh đạo, giữ giới, nghe kinh, không được chê bỏ, bố thí kẻ nghèo cùng, thiếu thốn, người sống ở đời không ai là không chết.

        Niệm-di đă dạy các đệ tử như thế. Rồi lại nói tiếp:

        -Ta bỏ ḷng tham dâm, sân giận, ngu si, ca múa, đàn xướng, ngủ nghỉ, tà vạy, mà giữ ḷng thanh tịnh, ĺa xa ái dục, bỏ các hạnh ác, trong rửa sạch tâm cấu uế, ngoài diệt các niệm vọng, thấy thiện không mừng, gặp ác không lo, khổ vui không hại, hạnh ấy trong sạch, nhất tâm bất loạn, chứng được Thiền thứ tư. Ta dùng tâm Từ , giáo hóa người, vật, khiến biết đường thiện, sinh lên trên cơi trời, : thương mến xót xa sợ họ bị đọa vào cơi ác. Ta đă chứng đắc bốn Thiền và các pháp tịnh, không ǵ là không thấu đạt, ḷng hoan hỷ. Đem chỗ chứng đạt ấy giáo hóa muôn vật khiến thấy được pháp thâm diệu về thiền định, Phật sự. Như có ai chứng đắc ta cũng vui giúp, nuôi dưỡng giúp đỡ muôn vật như tự giữ thân ḿnh. Thực hành bốn việc ấy th́ ḷng chân chánh, b́nh đẳng, mắt nh́n thấy các sắc xấu đẹp, tai nghe lời khen tiếng chê, mũi ngửi mùi thơm, thối, lưỡi:! nếm vị ngon ngọt, đắng cay, thân chạm xúc mượt mà, thô ráp, nguyện ước vừa ư hay phiền năo trái ḷng, tót không mừng rỡ, xấu không oán giận. Giữ sáu hạnh này đến lúc đạt đạo quả Vô thượng Chánh chân. Các vị cũng dốc thực hành sáu hạnh này để đạt đạo quả ứng chân.

        Niệm-di là bậc Tôn sư của các Thánh trong ba cơi, trí tuệ thông đạt, không chỗ sâu xa nào mà không thấu tỏ. Các đệ tử, tuy chưa tức thời đắc được đạo ửng chân, nhưng chắc chắn là sau khi mạng chung, đều được sinh lên cơi trời. Kẻ tâm vắng chí lặng, chuộng thiền định, đều sinh lên cơi trời Phạm thiên. Thứ đến là sinh lên cơi trời Hóa ứng thanh, thứ đến sinh lên cơi trời Bất kiêu lạc, kế tiếp sinh lên cơi trời Đao-lợi, kế tiếp sinh lên cơi trời Đệ nhất, thứ đến nữa là sinh vào các nhà vương hầu ở thế gian. Hạnh cao được cao, hạnh thấp được thấp, giàu nghèo sang hèn, sống lâu hay chết yểu, đều do từ kiếp trước. Những kẻ vâng lời các giới của Niệm-di th́ không c̣n khốn khổ. Niệm-di ấy là thân Ta. Các Sa- môn tu hành tinh tấn nên thoát được cái khổ của sinh, lăo, bệnh, tử, ưu năo, chứng được đạo lớn Ứng chân giải thoát. Người không đủ năng lực tu hành trọn vẹn th́ ít ra cũng đạt được đạo Câu cảng, Tần lai, Bất hoàn. Người sáng suốt suy nghĩ sâu xa: “Mạng người vổ thường, thoáng chốc không lâu. Sống một trăm tuổi th́ có người được, người không. Trong một trăm năm gồm có ba trăm mùa, xuân, hạ, đông, mỗi mùa có được một trăm. Lại trong số một ngàn hai trăm tháng, các tiết xuân, hạ, đông mỗi thứ có được bốn trăm tháng. Trong ba mươi sáu ngàn ngày, mùa xuân được mười hai ngàn ngày. Trong một trăm năm, phàm một ngày ăn hai bữa th́ có được bảy mươi hai ngàn bữa, các mùa xuân, hạ, đông mỗi mùa tính được hai mươi bốn ngàn bữa. Trừ đi lúc c̣n nhỏ, chỉ bú mớm chưa thể ăn được, những lúc nghỉ ăn, hoặc ốm đau, hoặc sân giận, hoặc ngồi thiền, hoặc trai giới hoặc trường hợp nghèo khốn thiếu ăn, đều ở trong bảy mươi hai ngàn bữa ăn. Trong một trăm năm, đêm ngủ trừ đi năm chục năm, lúc c̣n bé trừ đi mười năm, thời gian bệnh trừ đi mười năm, lo nghĩ việc gia đ́nh và các việc khác trừ đi hai chục năm, th́ con người thọ một trăm năm chỉ được chừng mười năm vui mà thôi.”

        Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

        -Ta đă nói về thân mạng con người, nói về năm, tháng, ngày, về ăn uống, về tuổi thọ. Những điều Ta phải v́ các thầy Tỳ-kheo thuyết giảng đều đă thuyết giảng rồi, những sở cầu của chí Ta đều đă thành tựu. C̣n Tỳ-kheo các vị sở cầu, chí nguyện rồi cũng sẽ thành tựu, ở nơi núi đầm hay chốn tông miếu đều phải giảng kinh, nhớ đạo, không được biếng trễ. Kẻ sĩ đă quyết tâm sau này, không có ǵ phải hối.

        Đức Phật nói kinh xong, các vị Tỳ-kheo không ai là không hoan hỷ, lễ Phật mà lui ra.

* *

89-  Kinh Vua Kính Diện.

        Nghe như vầy:

        Một thời Đức Phật ở trong khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ. Đến giờ ăn, chúng Tỳ-kheo mang b́nh bát vào thành khất thực, mà trời chưa đứng bóng nên ḷng đều nghĩ nói: “Vào thành sớm quá, chúng ta nên đến giảng đường của Phạm chí đạo khác ngồi nghỉ chốc lát”. Mọi người đều nói: “Được”. Rồi họ liền kéo đến chỗ đó, cùng các Phạm chí hỏi thăm nhau, rồi ngồi vào chỗ. Khi ấy, các Phạm chí cùng nhau tranh căi về kinh điển, phần khúc mắc không giải được, chuyển sang oán giận, bài bác nhau, nói:

        -Ta biết pháp ấy, ông biết pháp nào? Điều ta biết là hợp với đạo, c̣n chỗ ông biết th́ không hợp đạo. Đạo pháp của ta nên thi hành, c̣n đạo pháp ông th́ khó gần gũi được, điều đáng nói trước th́ đem nói sau, điều đáng nói sau lại đem nói trước. Nhiều pháp nói sai, như gánh nặng không thể cất lên nổi. Tôi v́ ông giảng giải nghĩa lư mà ông không thể hiểu. Ông chẳng biết, ông thật không có được ǵ cả? Sao lại bức bách ta?

        Trả lời th́ dùng lưỡi sỉ vả, thành ra hại nhau, bị một lời độc th́ đáp lại bằng ba.

        Các vị Tỳ-kheo nghe họ nói những lời dữ như vậy, cũng không đồng t́nh với lời nói kiểu ấy, nhưng cũng không chứng minh được chúng phải. Các vị Tỳ-kheo đều đứng dậy, đi vào thành Xá-vệ khất thực. Thọ trai xong, cất bát, trở lại khu lâm viên Kỳ-đà, làm lễ Đức Phật, xong đều ngồi sang một bên, đem sự việc trên bạch với Đức Phật, nghĩ rằng đám Phạm chí ấy tự làm khổ với cái học như thế. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

        -Không biết tới khi nào hiểu được? Đám dị học đó không phải chỉ ngu tối một đời.

        Này các Tỳ-kheo, vào thời quá khứ xa xưa, ở cơi Diêm-phù-đề này có vị vua tên là Kính Diện, thường đọc tụng các kinh quan trọng của Phật, trí tuệ như cát sông Hằng, đa sốthần dân không tụng đọc,lại ưa thích sách nhảm, tin theo vết sáng của đom đóm mà nghi ngờ cái thấy xa của mặt trời, mặt trăng. Bèn đem người mù để dẫn dụ, muốn họ từ biệt vũng nước nhỏ mà đi vào biển lớn. Liền lệnh sứ giả đi khắp trong nước, bắt những người mù bẩm sinh đem về cửa cung vua. Sứ giả phụng mệnh thi hành, đem hết cả những người mù trong nước về cung, rồi tâu lên vua:

        -Chúng thần đă bắt được những người mù mắt, hiện đang chờ dưới điện.

        Nhà vua nói:

        -Đem họ đi xem voi.

        Quan phụng mệnh vua, dẫn những mù ấy đến chỗ voi, dắt tay chỉ voi cho họ xem. Trong bọn họ có người sờ được chân voi, có người sờ được phần ngọn của đuôi voi, có người sờ được bụng, có người sờ bên sườn, có người sờ lưng, có người sờ tai, sờ đầu, sờ ngà, sờ mũi... Bọn người mù ở chỗ voi tranh căi nhau om ṣm. Ai cũng cho rằng ḿnh đúng, c̣n người khác sai. Sứ giả dẫn họ trở về, đem đến chỗ của nhà vua. Vua hỏi:

        -Các ngươi thấy voi chưa?

        Họ tâu:

        -Chúng tôi đều thấy cả.

        Nhà vua hỏi:

        -Voi giống như cái ǵ?

        Người sờ được chân, tâu:

        -Thưa minh vương nó giống như cái thùng sơn.

        Người sờ được phần cuối đuôi, tâu:

        -Voi như cái chổi quét rác.

        Người sờ gốc đuôi, tâu:

        -Voi như cây gậy.

        Người sờ bụng, tâu:

        -Voi như cái trống.

        Người sờ hông, tâu:

        -Voi như bức vách.

        Người sờ được lưng, tâu:

        -Voi như cái ghế cao.

        Người tóm được tai, tâu:

        -Voi như cái nia để gạo.

        Người sờ đầu, tâu:

        -Voi như cái đâu lớn.

        Người nắm phải ngà tâu:

        -Voi như cái sừng.

        Người sờ được ṿi voi, tâu:

        -Thưa minh vương, voi như sợi dây kéo lớn.

        Rồi chúng lại ở trước mặt vua cùng tranh căi nhau, ai cũng bảo:

        -Voi đúng như lời con thưa.

        Vua Kính Diện cười, bảo chúng:

        -Những kẻ mù kia ơi! Những kẻ mù kia ơi! Lũ ngươi cũng như người không hiểu kinh Phật vậy.

        Bèn nói bài kệ:

        Nay bọn đui mù này

        Căi suông, tự cho đúng

        Thấy một cho khác sai

        Ngồi một voi cùng oán.

        Nhà vua lại nói:

        -Phàm chuyên chú vào đám sách vở nhảm bậy th́ không thấy được kinh Phật mênh mông, không ǵ hơn, chân chánh ngất trời, không ǵ che phủ, khác nào bọn người không mắt.

        Từ đấy, cả nước trên dưới lớn nhỏ đều đọc tụng kinh Phật.

        Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

        -Vua Kính Diện ấy là thân Ta, c̣n những người mù mắt kia là đám Phạm chí ở giảng đường. Lúc ấy, bọn họ vô trí, mù nên tranh căi nhau, nay căi nhau cũng v́ mờ tối, ngồi tranh căi nhau một cách vô ích.

        Bấy giờ, Đức Phật kiểm đầy đủ sách ấy, khiến các đệ tử giải thích, v́ đời sau làm rơ ràng, để cho kinh đạo được trụ thế lâu dài.

        Đức Phật bèn nói kinh đủ nghĩa này:

Ḿnh mù, nói họ chẳng bằng ta

Ngày một nặng si, lúc nào rơ

Ḿnh không đạo, bảo là học hết

Đảo loạn không tu, bao giờ tỏ?

Hạnh quư thường làm tự biết

Hạnh tự thấy nghe khó sánh

Đă đọa năm nhà đời buộc

Thêu dệt há thắng người ngay!

Ôm si đứng ngóng nẻo thiện

Học tà mà mong được độ

Chân lư thấy nghe, suy nghĩ

Tuy giữ giới chớ chấp trước.

Thấy việc đời chớ thuận làm

Chỉ tuệ, niệm mới nên ham

Với bốn đẳng nên kính giữ

Chớ sinh tưởng không kịp người.

Dứt thế, đời sau nghiệp dứt

Bỏ vọng tưởng đi riêng ḿnh

Chớ tự biết cho rằng sáng

Tuy thấy nghe, chỉ dốc quán.

Cả hai mặt đều vô nguyện

Thai, không thai cũng xa ĺa

Hai chốn cũng vô sở trụ

Dốc quán chỉ đạt các pháp.

Chỗ thấy, nghe, ư thọ hành

Nẻo niệm tà chớ hề tưởng

Tuệ quán pháp ư cùng hợp

Từ đấy buông xả, đời không xa.

Tự không có, chỗ nào đợi?

Hạnh gốc, cầu mong phép mầu

Dốc giữ giới, chưa phải tuệ

Vượt bờ chẳng lại qua mau.

* *

90-Kinh Vua Sát Vi.

        Thuở xưa, Bồ-tát làm đại quốc vương tên là Sát Vi, chí trong hạnh sạch, chỉ quy y ba ngôi báu, xem đọc kinh Phật lắng ḷng hiểu nghĩa, thấy rơ nguồn gốc của con người vốn tự vô sinh. Nguyên khí mạnh là đất, mềm nhuyễn là nước, nóng là lửa, lay động là gió, bốn thứ ấy ḥa hợp thần thức sinh ra, bậc Thượng trí có thể biết, nên ngừng dục, rỗng ḷng, thần thức trở về với gốc không. Nhân đó, ngài bèn thề:

        -Ta phải giác ngộ cho đám người không biết: ‘Thần thức dựa vào bốn thứ ấy mà lập, ḷng nhân lớn th́ làm trời, ḷng nhân nhỏ th́ làm người, các hạnh uế tạp th́ làm các loài động vật ḅ bay máy cựa, do nghiệp thọ thân nên có thiên h́nh vạn trạng. Thức cùng nguyện khí nhỏ nhiệm khó thấy, không mảy may dáng h́nh th́ ai có thể nấm bắt được, nhưng thần thức ấy bỏ thân cũ, nhận thân mới, trước sau thật vôcùng”.

        Nhà vua đem việc hồn linh biến hóa làm thân vô thường, luân chuyển trong năm đường, triền miên không dứt, để giải thích cho đám quần thần hiểu, nhưng họ tối tăm không hiểu, vẫn c̣n nghi ngờ, thưa:

        -Thân chết, thần sinh lại thọ thân khác, bọn thần phần nhiều ít biết được kiếp trước.

        Nhà vua nói:

        -Bàn luận chưa đủ hết cấc mối th́ sao có thể biết được sự việc nhiều kiếp? Nh́n không thấy tăm hơi th́ ai có thể thấy được linh hồn biến hóa?

        Nhân một hôm nhàn rỗi, vua mặc áo vải thô đi ra khỏi cung,gặp một ông lăo sửa giầy, hỏi đùa:

        -Người trong cả nước ai là kẻ vui sướng nhất?

        Ông già đáp:

        -Chỉ có vua là vui sướng.

        Vua hỏi:

        -V́ sao cho là vui sướng?

        Ông già đáp:

        -Vua được bá quan cung phụng, triệu dân dâng hiến, muốn ǵ cũng được nấy, thế là không phải vui sướng sao?

        Nhà vua nói:

        -Để xem thử đúng như lời ông nói không.

        Vua liền đem rượu bồ đào cho ông ấy uống đến say mèm không biết ǵ, rồi khiêng về đặt trong cung, gọi hoàng hậu, bảo:

        -Ông lăo sửa giầy này cho rằng làm vua vui sướng, ta nay muốn đùa hăy lấy vương phục mặc vào, khiến nghe việc nước, các người đừng sợ.

        Hoàng hậu đáp:

        -Kính vâng.

        Hôm ông già tỉnh rượu, thị nữ vờ nói:

        -Đại vương vừa say, mọi việc tồn đọng quá nhiều, nên phải xem xét, sắp ra lâm triều.

        Bá quan giục ông làm việc, ông ngơ ngơ ngác ngác không biết chuyện ǵ. Quốc sử ghi lỗi công thần kêu ca. Ngồi trên ngai cả ngày, thân thể đau nhừ, ăn không biết ngon, ngày một gầy sút. Cung nhân vờ nói:

        -Sắc diện đại vương có hơi gầy, v́ sao vậy?

        Ông đáp:

        -Ta nằm mơ làm ông lăo sửa giầy, nhọc thân kiếm ăn, rất là khó tả, nên mới bị ốm.

        Mọi người không ai là không lén cười. Đêm nằm không ngủ trăn trở nghĩ: “Ta là ông lăo sửa giầy hay là Thiên tử thật? Nếu là Thiên tử, th́ sao da thịt thô xấu thế này? Nếu vốn là ông lăo sửa giầy th́ cớ ǵ lại ở trong cung vua? Ḷng ta hoang mang hay mắt ta loạn rồi? Thân ở hai nơi, không rơ ai là thật đây!”

        Hoàng hậu vờ nói:

        -Đại vương không được vui, xin tấu kỹ nhạc, dâng rượu bồ đào.

        Ông lăo lại say mèm không biết ǵ. Lại mặc cho quần áo cũ, đưa về nhà, đặt nằm trên cái giường thô xấu của lăo. Tỉnh rượu, lăo thấy ḿnh ở trong ngôi nhà tồi tàn, quần áo xoàng xĩnh như cũ, toàn thân đau nhừ như bị đánh đập. Sau vài ngày, nhà vua lại đến. Ông lăo nói:

        -Hôm trước uống rượu của ông, say mê man không c̣n biết ǵ nay mới tỉnh dậy, trong say mơ thấy ở ngôi vua, xét đoán các quan, quốc sử ghi lỗi, quần thần kêu ca, trong ḷng hoảng sợ, đau nhừ toàn thân như bị đánh roi, không thể đứng dậy. Mộng c̣n như thế huống chi làm vua thật! Chuyện tôi nói hôm trước nhất định là không đúng.

        Vua trở về cung, kể cho quần thần chuyện ấy, ai cũng cười ngất. Nhà vua gọi quần thần bảo:

        -Chỉ một thân này, đang c̣n thấy nghe đây, mà nay c̣n không tự biết, huống chi là đời khác, bỏ cũ nhận mới, trải các gian khổ, yêu quỷ ngăn che, đau đớn khốn khó, mà nói muốn biết nơi hồn linh đi thọ thân há không khó sao. Kinh dạy rằng: “Người ngu ôm ḷng tà vạy mà muốn thấy hồn linh, chẳng khác nào đi trong đêm tối mà ngước lên nh́n trăng sao, chỉ khổ thân chết xác chứ khi nào thấy được!”

        Từ đấy, quần thần cùng dân chúng cả nước mới rơ được hồn linh cùng nguyên khí hiệp nhau, đến chết rồi lại sinh, luân chuyển không cùng, nên tin sống chết, họa phúc có nẻo hướng tới:

        Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

        -Vua khi ấy là thân Ta.

        Trí tuệ độ vô cực rộng khắp của Bồ-tát luôn thể hiện sự sáng suốt như vậy.

* *

91- Kinh Vua Phạm Ma.

        Nghe như vầy:

        Một thời Đức Phật ở nơi khu lâm viên Kỳ-đà cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

        -Các ông tu đức, phụng hành các điều lành ắt được phước lớn. Ví như nông phu, trước có ruộng tốt, cày bừa kỹ càng, mưa thấm thích hợp điều ḥa, gieo hạt đúng lúc, lúc mọc lên gặp tiết, làm sạch cỏ rác, lại không bị tai hại, th́ lo ǵ mà không thu hoạch tốt.

        Thuở xưa, vào đời trước, khi Ta chưa thành Phật, ḷng yêu thương rộng răi cùng khắp, cứu giúp chúng sinh như mẹ hiền nuôi con đỏ. Ta làm như thế suốt bảy năm, ḷng nhân công đức tỏ rơ, nên khi mạng chung, hồn linh được sinh lên làm vua Phạm thiên hiệu là Phạm Ma. ở ngôi trời ấy trải qua bảy lần thành hoại của trời đất. Khi kiếp muốn hoại, Ta liền sinh lên cơi trời Ước tịnh thứ mười lăm, Sau đó thay đổi, lại về cơi Phạm thiên thanh tịnh không dục. Chốn ấy an nhiên, sau xuống cơi trời Đao-lợi làm vua ba mươi sáu phen, cung điện bảy báu, ăn uống, quần áo, âm nhạc thảy đều an nhiên

        Rồi lại trở về thế gian làm Phi hành hoàng đế, bảy báu luôn bên ḿnh là:

        1. Bánh xe quay bằng vàng tía

        2. Ngọc thần Minh Nguyệt.

        3. Voi trắng biết bay.

        4. Ngựa lông biếc, bờm đỏ.

        5. Vợ ngọc nữ.

        6. Quan coi giữ các báu.

        7. Quan thánh giúp đỡ.

        Mỗi thứ có tám mươi bốn ngàn. Vua có một ngàn người con trai đều đoan chánh, tươi đẹp, nhân từ, vũ dũng, một người đương đầu được hàng ngàn người. Bây giờ nhà vua đem năm giáo pháp để trị nước, dẫn dạy dân chúng nghe theo: Một là nhân từ không giết hại, mà ban ân khắp quần sinh. Hai là trong sạch, nhường nhịn, không trộm cắp, quên ḿnh cứu người. Ba là trinh chánh không dâm dật, không phạm các dục. Bốn là thành tín không lừa dố́, lời nói không thêu dệt. Năm là vâng giữ đạo hiếu không say sưa, hạnh không cấu nhiễm.

        Thời ấy không xây lao ngục, không dùng roi gậy phạt người, mưa gió đúng thời, ngũ cốc dồi dào, tai họa không khởi, đời được thái b́nh, dân trong bốn châu thiên hạ cùng dắt nhau giữ đạo, tin làm thiện được phước, làm ác mang họa, nên khi chết đều được sinh lên cơi trời, không ai bị vào ba đường dữ. Đức Phật bảo các vị Tỳ- kheo:

        -Vào thuở xa xưa ở kiếp trước, Ta dốc thực hành bốn đẳng tâm, công đức bảy năm ấy nên được lên làm vua trời Phạm thiên, xuống làm Đế Thích, trở lại thế gian làm Phi hành hoàng đế cai trị bốn châu thiên hạ đến hàng mấy trăm ngàn đời, công đức đủ đầy, các ác lắng diệt, các thiện nhóm về, thành Phật ở đời, riẽng lời một bước, ba cơi hết mực tôn quư.

        Các Tỳ-kheo nghe kinh, hoan hỷ lễ Phật lui ra.

    Trí tuệ độ vô cực rộng khắp của Bồ-tát luôn thể hiện sự sáng suốt như vậy.

KINH LỤC ĐỘ TẬP Hết

QUYỂN 1-4 , QUYỂN 5-8

-

TRANG CHỦ*--KINH ĐIỂN*--ĐẠI TẠNG KINH*--THẦN CHÚ*--HÌNH ẢNH*--中文*--ENGLISH

Uploaded / Updated on 2021-10-21

 

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0