佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

 TRANG CHỦ*--KINH ĐIỂN*--ĐẠI TẠNG KINH*--THẦN CHÚ*--HÌNH ẢNH*--中文*--ENGLISH


VT0152

Q1    Q2    Q3    Q4    Q5    Q6    Q7    Q8

KINH LỤC ĐỘ TẬP

Hán Dịch: Đời Đông Ngô, Sư-Môn Khương Tăng Hội, Người Nước Khương Cư.

Việt Dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 1

Chương I: BỐ THÍ ĐỘ VÔ CỰC

Nghe như vầy:

Một thời Đức Phật ở tại Diêu sơn thuộc thành Vương xá, cùng với năm trăm vị Ứng Nghi (A-La-hán), một ngàn vị Bồ-tát cùng an tọa. Trong số này có vị Bồ-tát tên A-nê-sát, khi Đức Phật nói kinh giảng đạo, thường tịnh tâm lắng nghe, lặng lẽ không nghĩ ngợi, ư chuyên chú nghe kinh, Đức Thê Tôn đều biết.

Đức Phật v́ chúng hội, thuyết giảng về sáu pháp Độ vô cực (sáu pháp Ba-la-mật) hạnh cao khó đạt của Bồ-tát, là con đường mau chóng để thành Phật.

Sáu hạnh cao độ vô cực là những ǵ?

Một là Bố thí. Hai là Tŕ giới. Ba là Nhẫn nhục. Bốn là Tinh tấn. Năm là Thiền định. Sáu là Trí tuệ (minh).

Sao gọi là Bố thí độ vô cực (Bổ thí ba-la-mật)?

Lành nuôi người vật, thương xót cả đám tà, vui mừng v́ người hiền đạt giải thoát, cứu giúp chúng sinh hơn cả trời đất, ân thấm nhuần khắp biển sông. Bố thí cho chúng sinh, người đói cho ăn, người khát cho uống, lạnh cho áo, nóng cho mát, tật bệnh giúp thuốc thang, xe, ngựa, thuyền, kiệu, các thứ châu báu, vợ con, đất nước...hễ ai cầu xin là cho ngay. Như thái tử Tu-đại-noa, bố thí cho bao kẻ nghèo cùng, khác nào như cha mẹ nuôi con, bị vua cha đuổi đi, thương mà không oán.

* *

1-  Xưa có vị Bồ-tát ḷng thông nẻo chánh, thấy đời vô thường, mạng sống khó giữ nên đem hết của cải bố thí. Trời Đế Thích thấy Bồ-tát đem ḷng Từ nuôi dưỡng muôn loài, bố thí cứu giúp mọi người, công cao ṿi vọi, đức dội mười phương, ông sợ Bồ-tát đoạt mất ngôi vị của ḿnh nên hóa ra cảnh địa ngục trước mặt Ngài, rồi hiện đến nói:

-Bố thí giúp người, sau khi chết thần hồn đi vào địa ngục Thái sơn, bị thiêu nấu vạn lần đau khổ. Bố thí mà phải chịu hại như vậy th́ ông bố thí làm ǵ?

Bồ-tát đáp:

-Lẽ nào người có công đức bố thí mà phải vào địa ngục Tháisơn?

Đế Thích bảo:

-Bồ-tát không tin th́ cứ hỏi tội nhân.

Bồ-tát hỏi tội nhân:

-Ông v́ sao mà vào địa ngục?

Tội nhân thưa:

-Tôi ở đời đem hết của cải ra giúp kẻ bần cùng, cứu vớt ách nạn cho mọi người, nên nay phải chịu tội ở trong địa ngục Thái sơn!

Bồ-tát hỏi Đế Thích:

-Người nhân đức bố thí th́ chuốc lấy tai ương, c̣n người thọ của bố thí th́ sao?

Đế Thích đáp:

-Kẻ thọ thí th́ mạng chung sẽ sinh lên trời!

Bồ-tát nói:

-Ta cứu giúp chỉ v́ chúng sinh, nếu như lời ông nói là thật th́ với sở nguyện của ta, dù từ bi bố thí mà phải chịu tội, ta cũng quyết làm. Cứu vớt người, nguy hại ḿnh, đó là chí cao cả của Bồ-tát!

Đế Thích hỏi:

-Tại sao chí nguyện của ông lại chuộng các hạnh cao ấy?

Đáp:

-Ta muốn cầu thành Phật để cứu vớt chúng sinh, đưa họ đến Nê-hoàn, không c̣n bị sinh tử nữa.

Đế Thích nghe rơ tâm nguyện của bậc Thánh liền cúi đầu thưa:

-Thật sự không có việc bố thí, thương giúp chúng sinh mà xa phước, bị họa đọa vào địa ngục Thái sơn ấy đâu! V́ đức của Ngài động cả đất trời, sợ đoạt mất ngôi vị, nên tôi hiện ra cảnh địa ngục để mê hoặc chí Ngài thôi! Ngu si lừa dối Thánh nhân,nguyện xin tha tội nặng ấy.

Đế Thích sám hố́ tội lỗi xong, liền cúi đầu từ tạ.

Bồ-tát từ bi thi ân, tu hạnh Độ vô cực, đă thực hành bố thí như vậy.

* *

2-  Xưa có vị Bồ-tát tên hiệu Tát-ba-đạt, là vua một nước lớn, bố thí cho chúng sinh thỏa theo đ̣i hỏi của họ, cứu giúp ách nạn, luôn có ḷng thương xót. Trời Đế Thích thấy đức từ bi thi ân của nhà vua trùm khắp mười phương. Trời, Thần, Quỷ, Rồng đều cho rằng:

-Ngôi vua trời cao quư xưa nay thường không phải của một người. Bậc nào giới đủ, hạnh cao, đức từ, phước lớn, sau khi mạng chung nhất định sẽ làm vua trời.

Đế Thích sợ nhà vua đoạt mất ngôi của ḿnh nên muốn đến thăm ḍ thực hư thế nào, Đế Thích lệnh cho Biên vương:

-Nay vị nhân vương kia ḷng Từ nhuần thấm như mưa, phước đức ṿi vọi, e rằng chí của ông ấy muốn đoạt mất đế vị của ta. Vậy ngươi phải hóa thành chim bồ câu, mau bay đến chỗ vua, làm ra vẻ sợ hăi, cầu sự thương xót. Nhà vua vốn nhân từ tất nhận ngươi về. Ta sẽ t́m đến sau, theo vua ấy đ̣i ngươi lại. Nhà vua hẳn là không trả phải ra chợ mua thịt, bằng với thịt ngươi để đổi. Ta sẽ tiếp tục dối gạt, ḷng vua trong sạch chân chất, đă hứa th́ nhất định không trái lời, sẽ đồng ư tự cắt thịt nơi thân ḿnh tương đương với trọng lượng của thân ngươi để đổi. Nếu thịt cân cứ theo đây nặng dần lên th́ khi thịt hết, thân đau, ắt vua phải hối hận. Nếu ư có chút hối hận th́ chí nguyện không thành.

Đế Thích liền hóa làm chim ưng, Biên vương hóa làm bồ câu. Bồ câu vội bay đến đáp dưới chân vua, sợ hăi nói:

-Đại vương ơi, mạng tôi cùng rồi!

Vua bảo:

-Chớ sợ, chớ sợ! Ta nay sẽ cứu sống ngươi!

Chim ưng liền bay đến sau, hướng về chỗ vua nói:

-Bồ câu của tôi vừa đến đây, bồ câu là món ăn của tôi, xin nhà vua giao trả lại cho!

Nhà vua nói:

-Bồ câu đem thân mạng đến nương tựa vào ta, ta cũng đă nhận sự nương nhờ đó rồi. Ta nói ra là phải thủ tín, trước sau không trái! Ngươi muốn có thịt th́ ta sẽ nạp đủ hơn trăm lần!

Chim ưng nói:

-Tôi chỉ muốn thịt bồ câu thôi, không dùng thịt khác. Mong vua cho lại, chứ sao đoạt lấy miếng ăn của tôi?

Vua đáp:

-Ta đă nhận cho chim nương nhờ, chữ tín nặng ngang trời đất, th́ ḷng nào mà trái được? Theo ngươi, th́ ta phải lấy vật ǵ để ngươi cho bồ câu ở lại và vui vẻ ra đi?

Chim ưng nói:

-Nếu vua từ bi suy xét, nhất định muốn cứu giúp chúng sinh, vậy xin vua cho cắt thịt vua cho bằng thịt bồ câu, th́ tôi vui ḷng nhận ngay.

Vua nói:

-Rất tốt.

Vua liền tự cắt thịt đùi của ḿnh để cân cho bằng thịt của bồ câu. Chim bồ câu cứ nặng dần, nhà vua tự cắt thịt ḿnh như vậy, cho tới khi thịt hết mà trọng lượng vẫn chưa bằng. Nổi đau đớn của thân xác bị thương kia thật không kể xiết. Nhà vua v́ ḷng Từ bi mà chịu đựng mong cho bồ câu được sống, nên ra lệnh cho cận thần:

-Ngươi mau giết ta, lấy tủy để cân cho bằng với thịt của bồ câu. Ta kính thờ chư Phật, thọ trọng giới chân chánh nhằm cứu nguy ách của chúng sinh. Tuy có bị lũ tà quấy nhiễu, nhưng cũng như làn gió thoảng nhẹ, đâu có thể lay động được núi Thái?

Chim ưng biết rơ chí của nhà vua giữ đạo không đổi, ḷng Từ bi thi ân khó ai bằng được, nên cả hai liền hiện lại nguyên h́nh như trước. Đế Thích, Biên vương cúi đầu sát đất thưa:

-Đại vương mong đạt điều ǵ mà chịu khổ năo như vậy?

Vua người trả lời:

-Chí của ta không cầu ngôi vị vua trời Đế Thích hay Phi hành hoàng đế... Ta thấy chúng sinh măi ch́m đắm trong tăm tối, không thấy ba ngôi báu, không nghe lời Phật dạy, buông ḷng làm những việc hung ác, ném thân vào chốn địa ngục Vô trạch, thấy họ ngu si, mê lầm như vậy mà thương xót nên lập thệ nguyện cầu đạt quả Phật để cứu vớt chúng sinh khỏi mọi khổ ách, khiến họ chứng đắc Nê- hoàn.

Trời Đế Thích kinh hăi thưa:

-Tôi ngu si cứ tưởng đại vương muốn đoạt ngôi vị của ḿnh nên đă quấy nhiễu đến ngài, vậy ngài có điều ǵ để dạy bảo?

Nhà vua nói:

-Hăy khiến cho thương tích nơi thân thể ta lành lại như cũ, để cho chí của ta vốn ưa chuộng các hạnh bố thí, cứu giúp c̣n cao cả hơn hôm nay.

Trời Đế Thích liền sai lương y cơi trời đem thần dược truyền vào thân vua, thương tích của vua liền lành, sắc lực hơn trước, những dấu bị cắt cứa nơi thân thể, trong giây lát bỗng nhiên lành lặn. Đế Thích cúi đầu từ tạ, nhiễu quanh ba ṿng rồi vui vẻ ra về.

Từ đó về sau, nhà vua lại bố thí hơn trước.

Bồ-tát từ bi thi ân, tu hạnh Độ vô cực, đă thực hành bố thí như vậy.

*  *

3-  Xưa có vị Bồ-tát nghèo cực khốn khó, cùng với các thương nhân đi sang nước khác. Những người này đều có ḷng tin Phật, bố thí kẻ nghèo thiếu, cứu giúp chúng sinh. Mọi người đều nói:

-Chúng tôi đều có ḷng thương xót, giúp cho, c̣n ông th́ lấy ǵ để bố thí?

Bồ-tát đáp:

-Ôi! Thân mạng là thứ mượn tạm, không ǵ là chẳng thể từ bỏ.

Tôi thấy cá dưới biển, lớn bé ăn nuốt lẫn nhau, nên ḷng ngậm ngùi thương xót. Vậy tôi sẽ đem thân này thay cho đám cá nhỏ, để chúng được sống trong chốc lát.

Nói rồi liền tự gieo ḿnh xuống biển, cá lớn nhờ đấy được no, cá nhỏ được sống. Hồn linh của Bồ-tát hóa làm vua cá Chiên, thân dài đến mấy dặm.

Bên bờ biển có một đất nước đang bị hạn hán, dân chúng đói khát nên ăn thịt lẫn nhau. Vua cá thấy vậy, rơi nước mắt, nói:

-Chúng sinh hỗn loạn, nỗi khổ ấy thật bức bách! Thân ta thịt nhiều đến mấy dặm, có thể cung ứng cho sự túng thiếu của lê dân trong mười tháng.

Cá bèn tự phơi thân lên băi biển của đất nước đang bị khô hạn. Cả nước nhờ ăn thịt cá mà bảo tồn được sinh mạng. Dân chúng lấy thịt ăn đến mấy tháng mà cá vẫn sống. Thiên thần xuống nói với cá;

-Người có thể kham chịu nỗi khổ đến thế sao? Sao không chết đi để khỏi phải chịu nỗi đau đớn như vậy?

Cá đáp:

-Nếu ta chết đi th́ hồn ĺa thân nát, sau này dân chúng đói khát, sẽ lại ăn thịt lẫn nhau. Ta chẳng nỡ nh́n, v́ ḷng thương cảm!

Thiên thần nói:

-Ḷng từ bi của Bồ-tát thật khó sánh.

Thiên thần v́ thế càng đau ḷng, nói:

-Ngài ắt thành Phật để cứu độ chúng sinh thoát khổ.

Có người dùng búa chặt lấy đầu, nên cá chết, hồn linh của cá liền thác sinh làm thái tử con vua. Vừa sinh ra, thái tử đă có trí sáng của bậc Thượng thánh; ḷng Từ tỏa rộng, bốn ân nhuần thấm khắp trời đất, thương dân khôn cùng, nói năng hiền ḥa. Thế nhưng đất nước vẫn c̣n hạn hán. Vua tịnh tâm trai giới, từ chối mọi sự ăn uống, dập đầu hối lỗi nói:

-Dân t́nh không gặp điều tốt đẹp, lỗi tại thân ta! Nguyện bỏ thân mạng này, cho muôn dân được hưởng mưa móc nhuần thấm.

Tháng ngày buồn thương, vua như người con chí hiếu gặp phải tang cha lànhḷng chí thành lan xa, liền có chư Phật gồm năm trăm vị đi đến nước ấy. Nhà vua nghe tin ḷng vui mừng như quên ḿnh, cung kính nghinh đón, rước về chánh điện. Hoàng hậu, thái tử... ai ai cũng thành khẩn. Món ngon, pháp phục đẹp, đều cúng dường đầy đủ, năm vóc gieo xuống đất, cúi đầu khóc mà thưa:

-Con tâm hạnh uế trược, chẳng vâng theo lời dạy về bốn ân của Tam tôn, gây khổ cho nhân dân, tội thật đáng chém, hoặc đày nơi hèn khốn. Nhiều năm khô hạn, muôn dân đói khát, oán giận, thống khổ, thương tâm, nguyện xin dứt trừ tai ách cho dân, dồn tội họa cho con.

Đức Phật nói:

-Ông là vị vua biết thương người, có ḷng nhân từ, luôn ban phát ân huệ, đức ngang với trời Đế Thích, chư Phật đều biết. Nay trao cho nhà vua hạnh phúc này, chớ có lo lắng, mau chỉ dạy dân gieo trồng lúa thóc.

Vua liền vâng theo lời dạy. Nam nữ có nghề, dân chúng thảy đều làm việc. Lúc lúa đă kết hạt, quan coi về nông nghiệp tâu lên vua. Vua nói:

-Phải để thật chín.

Kết quả khắp nước đều có lúa gạo, mỗi nhà mấy hộc, vị gạo thơm ngon, hương lan khắp chốn. Cả nước vui mừng, ngợi khen công đức của vua. Các nước bốn phía vốn thù địch nay đều đến xưng thần. Dân chúng thêm đông đúc, bờ cơi ngày một mở rộng, khắp nước đều giữ giới, quy kính Tam bảo. Vua và dân chúng sau khi lâm chung đều sinh lên cơi trời.

Đức Phật dạy:

-Người nghèo thuở ấy chính là thân Ta, v́ nhiều kiếp thực hiện nhân từ bố thí, cứu vớt chúng sinh, công đức không hề bị hủy hoại, nên nay đắc quả Phật, hiệu Thiên Trung Thiên, là Bậc Đại Hùng trong ba cơi.

Bồ-tát từ bi thi ân, tu hạnh Độ vô cực, đă thực hành bố thí như vậy.

* *

4-  Xưa, Bồ-tát lúc làm Thệ tâm (Phạm chí) thường ở nơi núi đầm, chuyên cần giữ đạo, không phạm các việc ác, ăn trái cây, uống nước suối, không giữ lấy vật ǵ, luôn nghĩ thương chúng sinh ngu si tự khốn, thấy kẻ nguy ách th́ xả thân cứu giúp.

Một hôm trên đường đi t́m hoa quả, gặp một cọp mẹ đang cho con bú. Cho cọp con bú xong, cọp mẹ v́ thiếu ăn nên mệt đuối, do đói khát nên ḷng hoang mang, muốn trở lại ăn thịt con ḿnh. Bồ-tát thấy vậy động ḷng thương xót, ngậm ngùi nghĩ đến chủng sinh sống ở đời ưu khổ thật không lường, mẹ ăn thịt con, nỗi đau đớn ấy thật khó nói nên nghẹn ngào rơi nước mắt. Bồ-tát bèn quay nh́n bốn phía t́m xem có ǵ cho cọp mẹ ăn, để cứu lấy mạng cọp con, nhưng đều chẳng thấy, trong ḷng tự nghĩ: “Cọp là loài ăn thịt!”. Lại nghĩ tiếp: “Ta lập chí học đạo, chỉ v́ chúng sinh bị ch́m đắm trong biển khổ, ḷng muốn cứu vớt khiến họ dứt bỏ tai họa, để thân mạng luôn được, yên ổn. Sau này, ta rồi cũng già chết, thân này rốt cuộc cũng bỏ đi, chi bằng đem thân bố thí cho chúng sinh để tạo thành phước đức”. Bồ-tát nghĩ như vậy rồi, bèn tự đưa đầu ḿnh vào miệng cọp. Đem đầu cho cọp, là muốn mau chết để khỏi cảm thấy đau đớn. Cọp mẹ, cọp con đều được toàn mạng.

Chư Phật khen ngợi công đức ấy bằng công đức của bậc Thượng thánh. Trời, Rồng, Thiện thần, những người có tâm đạo... không ai là không thương xót. Ai tinh tấn tu tập hoặc chứng đắc quả Câu cảng (Tu-đà-hoàn), Tần lai (Tư-đà-hàm), Bất hoàn (A-na-hàm), Úng chân (A-La-hán, bậc Duyên nhất giác), có người phát tâm cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, do ư chí mạnh mẽ ấy mà vượt hơn trước các Bồ-tát được chín kiếp, thề ở trong đời năm thứ ô trược làm thầy cơi trời, người, hóa độ kẻ nghịch ác, khiến hạng tà vạy thuận theo chánh đạo.

Bồ-tát từ bi thi ân, tu hạnh Độ vô cực, đă thực hành bố thí như vậy.

* *

5-  Thuở xưa có vị Bồ-tát làm bậc đại quốc vương, nước tên Càn-di, vua hiệu là Thiên Duyệt, trong sáng, ngoài nhân, nét mặt luôn hiền ḥa, thẳng thắn, muôn dân thuận theo đức giáo hóa của vua, ngục tù đều trống rỗng, dân chúng nghèo thiếu xin ǵ cũng cho, đức từ thấm nhuần, ân như Đế Thích. Các Thệ tâm nơi nước khácđều kính phục sự nhân từ, luôn bố thí theo ư muốn của mọi người của vua. Bọn tà ganh ghét, đem ngụy hủy chân, bèn đến cửa cung, nói:

-Ta nghe bậc vua sáng cứu giúp dân chúng nghèo thiếu như ân trời phủ khắp mọi nơi.

Rồi chúng bảo vệ sĩ:

-Ngươi có thể tŕnh tấu lên vua chăng?

Cận thần tâu lên, vua liền xuất hiện, Thệ tâm đến thưa:

-Đức vua sáng suốt, ḷng nhân thấm đến bốn cơi, các loài hữu thức, không loài nào là không khen ngợi. Dám xin chấp nhận nguyện vọng mà tôi muốn tâu lên.

Nhà vua nói:

-Rất tốt.

Thệ tâm tâu:

-Vua trời ưa bố thí, nếu cầu xin chắc không trái ư. Lúc này, tôi cần đầu người để làm một việc, nguyện xin đầu của đức vua để thỏa điều mong ước.

Vua nói:

-Đầu ta có ǵ tốt đẹp mà ngươi muốn xin? Ta có nhiều châu báu cho ngươi lợi hơn.

Thệ tâm không nhận. Nhà vua lại sai thợ khéo tạo ra đầu bằng bảy thứ châu báu, số lượng có đến mấy trăm cái để cho Thệ tâm.

Thệ tâm nói:

-Ta chỉ muốn cái đầu của nhà vua mà thôi.

Vua chưa từng trái ư người xin, liền tự bước xuống khỏi điện, dùng tóc buộc vào cây, bảo:

-Ta đưa đầu cho ngươi đây!

Thệ tâm rút dao nhanh chân bước đến. Thần cây thấy sự việc giận kẻ vô đạo kia, nên dùng tay tát vào má hắn, thân hắn liền xoay ṿng, mặt bị trẹo ngược, buông tay rơi dao. Nhà vua được b́nh an, thần dân đến chúc thọ, vui buồn lẫn lộn. Chư Thiên tán thán công đức của vua: “Đáng gọi là nội thí”. Bốn vua trời ủng hộ, các độc tiêu tan, trong nước không tật bệnh, lúa thóc được mùa, nhà tù phá bỏ hết, vua tôi đều vui vẻ.

Phật bảo các vị Sa-môn:

-Vua nước Càn-di lấc đó là thân Ta, Thệ tâm kia là Điều-đạt.

Bồ-tát từ bi thi ân, tu hạnh Độ vô cực, đă thực hành bố thí nhưthế.

*  *

6-  Thuở xưa, có vị Bồ-tát làm đại quốc vương, dùng ḷng nhân từ trị dân, quên ḿnh giúp người. Hàng tháng vua đi tuần, gặp kẻ nghèo thiếu th́ cứu giúp, kẻ cô quả bệnh tật th́ cho thuốc thang, cơm cháo. Mỗi lần đi tuần thú th́ lệnh cho xe chở theo sau nào châu báu, quần áo, thuốc men... Hễ gặp người chết th́ lo chôn cất, thấy dân chúng nghèo th́ tự trách lỗi ḿnh:

-Vua thiếu đức nên dân phải khổ. Vua giàu nhân đức th́ dân đầy đủ ấm no. Nay dân nghèo tức ta nghèo.

Vua nhân từ như vậy nên tiếng tốt đồn khắp mười phương. Vị trời Đế Thích thứ hai ngồi lo lắng bức rức. Ḷng Đế Thích sợ nghĩ: “Đức của vua kia cao ṿi vọi, ắt sẽ đoạt mất ngôi vị của ta. Ta phải hủy hoại chí nguyện của ông ấy, th́ hạnh đó mới dứt”. Đế Thích bèn hóa làm một lăo Phạm chí theo vua xin một ngàn đồng bạc. Nhà vua liền cho. Được bạc rồi, Phạm chí tâu:

-Tôi đă già cả, sợ người ta lấy trộm mất số bạc này, nên xin gởi lại nhà vua giữ giúp.

Nhà vua đáp:

-Nước ta không có kẻ trộm.

Phạm chí lại tâu:

-Cứ xin gởi cho vua.

Nhà vua liền nhận giữ. Trời Đế Thích lại hóa làm một Phạm chí khác đi đến cửa cung. Cận thần tâu lên, nhà vua liền đi ra. Phạm chí khen:

-Công trạng danh tiếng của đại vương truyền khắp tám hướng, đức hạnh hiếm có nên nay tôi từ xa đến đây có điều muốn xin.

Nhà vua nói:

-Rắt tốt.

Phạm chí tâu:

-Trước tôi vốn phước mỏng, nên sinh vào hàng tầm thường, nhưng rất ham thích sang quư, nên muốn xin cả đất nước này.

Nhà vua đáp:

-Tốt lắm!

Rồi liền cùng vợ con lên xe nhỏ ra đi. Vua trời lại hóa làm một Phạm chí, theo vua xin chiếc xe. Vua bèn đem xe ngựa trao cho, rồi cùng vợ con lên đường, dựa nơi núi dừng nghỉ, ngủ qua đêm. Có một vị đạo sĩ chứng được năm thần thông là bạn với vua, bỗng nhớ về đức độ của nhà vua; nên ngửa xem sao trời, biết vua đă mất nước, bèn tĩnh tâm thiền định, tức th́ thấy trời Đế Thích v́ tham lam ganh ghét đă chiếm đoạt mất nước, khiến vua phải khôn đốn, tiều tụy. Đạo sĩ liền dùng thần túc, trong chốc lát hiện đến chỗ vua, thưa:

-Vua mong cầu ǵ mà phải nhọc chí đến như vậy?

Nhà vua đáp:

-Chí của ta muốn ǵ th́ ông đă biết rồi đó.

Vị đạo sĩ liền hóa ra một chiếc xe hai càng để đưa nhà vua trở về, lúc sao sớm đă mờ.

Trời Đế Thích lại hóa ra một Phạm chí khác theo xin chiếc xe ấy, nhà vua liền cho luôn. Rồi vua và gia đ́nh đi dần về.Cách nước ấy chừng vài mươi dặm, trời Đế Thích lại hóa ra ông Phạm chí ban đầu đến đ̣i tiền bạc Nhà vua nói:

-Ta đă đem nước cho người nên quên mất tiền của ông rồi.

Phạm chí nói:

-Hẹn vua trong ba ngày phải trả đủ tiền cho tôi.

Nhà vua liền đem vợ con đến cầm nơi một gia đ́nh nọ, lấy được một ngàn đồng bạc để trả lại cho Phạm chí.

Vợ vua làm người hầu cho cô gái chủ nhà ấy. Cô gái đi tắm, cởi các thứ vàng ngọc châu báu treo lên giá, trời Đế Thích lại hóa làm chim ưng cắp lấy y phục và châu báu bay đi. Cô gái chủ nhà cho là người hầu đă trộm lấy nên buộc tội giam ngục. Đứa con của vua th́ cùng ngủ với con của người chủ, đêm đến, trời Đế Thích tới giết con của người chủ nhà, gia đ́nh người chủ ấy liền bắt con vua bỏ ngục. Như vậy cả hai mẹ con đều bị bắt giam, đói khát, tiều tụy, kêu than không ai cứu, suốt ngày chỉ biết khóc lóc. Khi tội đă định, đem bỏ ngoài chợ.

Nhà vua làm thuê kiếm được đủ một ngàn đồng bạc, liền đến để chuộc lại vợ con. Khi đi ngang qua chợ, thấy vợ con như vậy, nhàvua liền tưởng nhớ đến mười phương chư Phật và tự hối lỗi:

-Kiếp trước ta độc ác đến thế sao!

Rồi tĩnh tâm thiền định, nhờ ánh sáng của thần thông, nên thấy việc này do trời Đế Thích làm. Trên không trung có tiếng nói:

-Sao không mau giết nó đi!

Nhà vua đáp:

-Ta nghe Đế Thích cứu giúp khắp chúng sinh, ḷng son thương xót, dưỡng nuôi hơn mẹ lành, cả đến loài ngậm máu phun người, không ai là không chịu ân giúp đỡ. Ông cũng v́ không có duyên ác nên mới được ngôi vị Đế Thích đấy. Đế Thích v́ ôm ḷng độc dữ, khi ác độc chín muồi th́ thành tội, thân c̣n sống mà đă đọa vào địa ngục Thái sơn.

Trời, Người, Rồng, Quỷ, không ai làkhông khen vua tốt. Vua chủ đất liền giải tội cho vợ con vua. Hai vua gặp nhau, t́m hỏi căn nguyên, kể rơ đuôi đầu, trong nước lớn nhỏ ai cũng rơi lệ. Nhà vua chủ đất cùng chia nước cho vua cai trị. Thần dân nước cũ t́m đến chỗ vua nước ḿnh, rồi tổ chức nghinh đón. Vua tôi hai nước, bên buồn bên vui.

Nhà vua thời đó là thân Ta, người vợ nay là Câu-di, đứa con nay là La-vân, trời Đế Thích nay là Điều-đạt, đạo sĩ trong núi nay là Xá-lợi-phất, nhà vua chủ đất là Di-lặc.

Bồ-tát từ bi thi ân, tu hạnh bố thí độ vô cực như vậy.

* *

7-  Xưa có vị Bồ-tát làm đại quốc vương, dùng lẽ chánh trực để trị dân, ḷng không thiên lệch, nhưng chẳng chịu đi xem xét dân t́nh. Vị tướng quốc tâu:

-Xin vua rời cung đi xem xét dân t́nh một lần.

Nhà vua nói:

-Rất tốt!

Rạng ngày liền ra đi. Dân chúng vui mừng, đều được như ư. Vua thấy nhà giàu trong nước chỗ ở đẹp đẽ, lợp ngói vàng bạc, phục sức lộng lẫy. Vua rất vui mừng, bèn nói:

-Nước ta giàu có thay!

Trở về cung, nhớ việc này, nhà vua nói:

-Các Lư gia (Ly-xa) ấy đă đem lại ích lợi ǵ cho đất nước?

Bèn ra lệnh trưng dụng số tài sản kia để nuôi quân.

Có một Lư gia tài sản riêng có đến ba ngàn vạn, viết sớ tŕnh lên vua. Vua giận, nói:

-Sao dấm khinh ta?

Người ấy thưa:

-Thần từ nhỏ đến lớn lo làm ăn, nói chung là có được ít nhiều của riêng. C̣n châu báu trong nhà đều là phần của năm nhà, không phải của riêng thần có.

Nhà vua nói:

-Sao gọi là của riêng?

Người đó đáp:

-Ḷng nghĩ đến công Phật, miệng nói lời Phật dạy, thân làm việc Phật, bỏ phần của năm nhà ra để xây dựng chùa am thờ Phật, thờ kính Thánh chúng, cúng dường thức ăn uống, y phục, từ bi nuôi dưỡng các loài ḅ, bay, máy, cựa... Việc ǵ ḷng đă không ưa th́ không đem đến cho kẻ khác. Phước đức ây gắn liền với ta như bóng theo h́nh, nên gọi là của riêng. C̣n phần của năm nhà ấy, một là nước, hai là lửa, ba là giặc, bốn là quan, năm là v́ mạng hết. Thân mất rồi của báu trong nhà bỏ lại cho đời, ra đi một ḿnh, cửa họa phúc chưa biết về đâu. Thấy đời như mộng huyễn nên chẳng dám có. Nếu tính phần của năm nhà th́ có đến hàng mười ức. Đấy chính là hang ổ của tai họa, thường sợ nguy đến ḿnh nên đâu dám có của riêng. Xin quân sĩ hăy chở đi để trừ cái lo cho thần.

Nhà vua nói:

-Lời đó thật ḷng thay!

Bèn cho phép người ấy ra đi. Vua lui vào trai pḥng, tĩnh tâm suy nghĩ, liền tỉnh ngộ:

-Thân c̣n chẳng giữ được, huống chi là đất nước, vợ con, những thứ ấy có thể tồn tại lâu dài được sao?

Nhà vua liền soạn chép kinh Phật, đọc tụng, giải nghĩa, tâm cấu uế được trừ sạch, tiến cử quan trung hậu, nhận lời can gián đại xá cho cả nước, trả châu báu lại cho dân, hậu đăi quan lại, bàn việc khoan chánh. Vua gọi quần thần bảo:

-Phàm người không thấy được nghĩa sâu, trọng của kinh Phật th́ chỉ là hạng mù điếc thôi! Lư gia kia giàu có, chỉ ta là nghèo thôi,

Vua liền ra lệnh phân chia của báu cho trong nước, cứu giúp những người nghèo khốn, cho dân chúng những ǵ họ muốn, lập chùa, am thờ Phật, thắp hương, cúng dường thức ăn uống cho các vị Sa-môn, bản thân nhà vua thực hiện sáu ngày trai. Cứ như vậy suốt ba năm, bốn cơi yên tịnh, trộm cướp đều dứt, năm thứ lúa thóc được mùa, dân chúng hết cảnh cơ hàn. Sau khi chết nhà vua liền được sinh lên cơi trời thứ hai.

Đức Phật bảo các Sa-môn:

-Nhà vua thời ấy chính là thân Ta, người Lư gia là Tôn giả Thu Lộ Tử (Xá-lợi-phất), người khuyên vua đi xem xét dân t́nh là Tôn giá A-nan.

Bồ-tát từ bi thi ân, tu hạnh Độ vô cực, đă thực hành bố thí như vậy.

* *

8-  Xưa, Bồ-tát là một đại Lư gia tên Tiên Thán giàu sang, của cải vô kể, thấy giáo pháp sáng tỏ của Phật, biết đời vô thường, thân mạng khó giữ, của cải không phải do ḿnh có, chỉ có công đức bố thí là chẳng hư hoại, liền báo cho dân chúng biết: “Nếu ai nghèo thiếu th́ cứ theo chỗ cần dùng mà đến lấy!”. Kéo dài trong nhiều tháng như thế.

Bấy giờ, nhà nước thi hành chính sách rộng răi, dân chúng đều giàu có, không c̣n kẻ nghèo khó. Tiên Thán suy nghĩ: “Chỉ nên mua thuốc men, giúp người bệnh tật”. Liền mua thuốc hay, cứu mạng chúng sinh, ḷng Từ bi nuôi dưỡng lan khắp, ân huệ không đâu là không thấm. Bố thí trải qua nhiều năm, hương đức tỏa xa, người bệnh từ bốn phương kéo đến, ai ai cũng khen ân kia thấm rộng, đức sánh cùng trời. Của cải hết sạch, nên tự ḿnh đi t́m của báu. Cách nhà hơn trăm dặm, ở trên một bến sông, gặp mấy chiếc xe chở những người bệnh nặng, Tiên Thán hỏi:

-Các ông đi đâu vậy?

Họ đáp:

-Đi đến chỗ của Tiên Thán để mong được sống sót.

Tiên Thán liền quay về, đến chỗ vua vay năm trăm lượng vàng, mua thuốc trị lành bệnh hết số người đó. Rồi tự ḿnh cùng với các thương nhân vào biển t́m châu báu. Khi đă kiếm được nhiều, họ bỏ thuyền đi bộ trở về nựớc. Trên đường đi thiếu nước uống, Tiên Thán t́m được một giếng nước, gọi mọi người lại múc, rồi tự ḿnh lấy nước uống. Đám người buôn thấy Tiên Thán kiếm được viên ngọc trắng, sáng lóng lánh, tuyệt đẹp, ḷng tham khiến con người thêm xấu ác, muốn hủy phạm bậc Thánh, hại người nhân nghĩa, nên họ cùng nhau xô Tiên Thán xuống giếng ấy. Nhưng v́ Bồ-tát nhân đức nên cảm động đến Thần linh, Thiên thần đỡ nâng nên không bị thương tích. Đám người buôn về đến nước. Vua hỏi họ:

-Tiên Thán đi đâu rồi?

Đáp:

-Vừa rời khỏi nước liền biệt dạng, không biết đi đâu!

Vua nói:

-Lũ ngươi đă giết ông ấy rồi sao?

Họ trả lời:

-Không hề làm thế!

Tiên Thán ở dưới giếng, thấy bên cạnh có lỗ trống, nhờ đó mà ra khỏi giếng của nhà ấy. Chừng đúng bảy ngày, Tiên Thán về đến nước ḿnh. Nhà vua hỏi:

-V́ sao về tay không vậy?

Tiên Thán thưa:

-Không t́m gặp châu báu.

Nhà vua yên lặng suy nghĩ: “Hẳn phải có duyên cớ ǵ đây.” Bèn triệu đám người buôn đến, hỏi:

-Các ngươi nếu thành thật thú nhận tội th́ được sống, c̣n như, dối trá ta th́ phải chết.

Những người buôn đều thú nhận, liền bị bắt bỏ ngục, chờ ngày định tội. Tiên Thán khóc lóc, vội đến cửa cung vua khâu đầu xin tội cho những kẻ kia. Vua nói:

-Điều ấy trái với phép nước.

Tiên Thán lại xin một lần nữa:

-Người ngu thấy biết luôn sai trái, chưa đủ sáng suốt, xin thacho sự không hiểu biết của họ.

Nhà vua khen đức nhân từ bao trùm của Tiên Thán, tha tội dữ cho đám lái buôn kia, ra lệnh trả lại vật báu đă lấy. Đám người buôn đều nói:

-Nếu Tiên Thán không thờ Phật th́ đâu có ḷng nhân từ như vậy.

Đám kia đều lựa các châu báu để hoàn trả cho ông ấy. Tiên Thán chỉ nhận của mỗi người một nữa. Những người buôn ấy đều cúi thưa:

-Chịu ân ngài cứu mạng, xin thâu nạp hết cho!

Tiên Thán nhận lấy của ấy đem vàng trả lại cho vua, lại tiếp tục bố thí lớn hơn nữa. Vua và thần dân cùng nhau xin thọ giới. Con hiếu, tổi trung, trời thần pḥ hộ, nước giàu, dân an, bốn cơi chịu ân đức, không ai là không khen tốt đẹp.

Đức Phật nói:

-Tiên Thán lúc đó chính là thân Ta.

Bồ-tát từ bi thi ân, tu hạnh Độ vô cực, đă thực hành bố thí như vậy.

* *

9-  Xưa, có vị Bồ-tát sinh vào gia đ́nh giàu sang. Vừa ra đời đănói:

-Chúng sinh muôn vàn tai họa, ta phải cứu giúp. Họ chẳng thấy bóng Phật, chẳng được nghe pháp sáng, ta phải mở tai mắt, dứt trừ đui điếc cho họ, khiến họ nghe thấy được giáo pháp Chánh chân vô thượng, là vua của các Thánh, là cội nguồn của pháp tắc rơ ràng, dẫn dắt tinh tấn bố thí, không ai là không phục tùng.

Họ hàng kinh hăi, bảo:

-Xưa nay chưa từng nghe trẻ con nói những lời như thế. Đây chắc là sự linh ứng của Trời, Rồng, Quỷ thần chăng? cần bói thử xemsao?

Đứa bé liền đáp lời người thân:

-Tôi từ chỗ bậc Thượng thánh hóa ra, tự nhiên thấu suốt khắp chứ không phải là hàng yêu quỷ, hăy yên tâm, chớ nghi ngờ.

Nói rồi liền lặng yên. Cha mẹ nói:

-Con có chí lớn rộng khắp trời đất, sẽ là hạng khác thường chăng?

Bèn đặt tên cho con là Phổ Thí. Mới lên mười tuổi, mà các kinh điển Phật giáo, mọi học thuật thế gian, không ǵ là không thông suốt, liền từ giă cha mẹ đi cứu giúp mọi người, bố thí cho những kẻ nghèo cùng. Cha mẹ nói:

-Nhà ta có tiếng là rất giàu, con cứ mặc sức mà bố thí cho kẻ nghèo thiếu.

Phổ Thí đáp:

-Không đủ đâu! Con xin làm Sa-môn, cho con đủ y bát, tích trượng, để làm công việc cứu độ muôn người, đó là ư nguyện của cả đời con.

Cha mẹ nhớ lại lời thề của con khi mới sinh, nên không ngăn cản, từ chối. Họ liền theo ư nguyện, cho con làm Sa-môn, đi khắp chốn giáo hóa.

Qua một nước lớn, nước ấy có một nhà giàu, cũng thông hiểu sách vở, thấy Phổ Thí cung cách đàng hoàng, dung mạo đẹp đẽ, tánh t́nh chững chạc, sạch như vàng trời, có dáng dấp của bậc Thượng thánh, sẽ làm bậc anh hùng ở đời, nên gọi Phổ Thí, bảo:

-Muốn ǵ th́ xin cứ nói, ta sẽ làm vừa ḷng Thánh nhân. Ta có đứa con gái hèn, xin đem cho ngài sai khiến.

Phổ Thí đáp:

-Rất tốt. Nhưng phải đợi tôi trở về.

Phổ Thí liền lên đường đến ven biển, rồi ngồi thuyền qua biển, lên bờ vào núi, đến chỗ không người ở. Từ xa trông thấy một ṭa thành bằng bạc, cung điện sáng đẹp, có một con rắn độc quấn quanh thành bảy ṿng, thân lớn trăm khoanh, thấy Phổ Thí đến th́ cất cao đầu lên. Phổ Thí nghĩ: “Đây là loài có độc ắt có tâm hại, ta phải khởi lên ḷng Từ bao la để diệt độc ấy. Hung ác là lửa, từ bi là nước, dùng nước diệt lửa th́ sao không được.” Bèn ngồi nhập định, khởi lên ḷng Từ, nguyện cho chúng sinh sớm ĺa tám nạn, ḷng bỏ niệm ác, gặp Phật, thấy pháp, cùng với Sa-môn hội ngộ, được nghe đạo sáng Chánh chân vô thượng, ḷng mở, diệt như chỗ thấy biết của ta. Khi khởi tâm Từ do pháp định ấy th́ độc nơi rắn liền diệt, nên nó cúi đầu xuống mà ngủ. Phổ Thí bước lên đầu rắn vào thành. Trong thành có một vị Thiên thần, thấy Phổ Thí đến th́ vui mừng, nói:

-Từ lâu vốn cảm phục Thánh đức, nay ngài đă cung dụng đến đây, thật hợp với bản tâm của tôi. Xin lưu lại một thời gian chín mươi ngày.

Phổ Thí nhận lời. Vua trời liền đem việc triều chính giao phó cho cận thần, tự ḿnh dâng hầu các thức ăn uống, sớm tối vâng giữ, tu tập các hạnh cao của chư Phật về vô thường, khổ, không, vô ngă là các pháp sáng để cứu độ chúng sinh. Thời hạn cúng dường đă măn, Phổ Thí lên đường, Thiên vương đem một viên ngọc báu minh nguyệt tặng rồi tiễn chân, nói:

-Đem viên ngọc báu này theo ḿnh th́ tỏa sáng bốn mươi dặm, như ḷng khởi cầu mong ǵ th́ các báu hiện ra đầy đủ. Nếu sau này ngài thành Phật th́ tôi xin được làm đệ tử thân cận hầu hạ.

Phổ Thí đáp:

-Được.

Phổ Thí lại đi về phía trước, thấy một ṭa thành bằng vàng, trang hoàng đẹp đẽ hơn hẳn thành bạc. Lại có con rắn độc quấn quanh thành mười bốn ṿng, thân lớn gấp đôi con trước, đầu cất cao mấy trượng. Phổ Thí lại tư duy với pháp định thể hiện ḷng Từ rộng lớn, độc của rắn liền tiêu nên rũ đầu xuống ngủ, Phổ Thí bước qua ḿnh nó, vào thành. Trong thành ấy có vị Thiên nhân, thấy Phổ Thí đến th́ mừng rỡ, nói:

-Từ lâu vốn mến phục bậc Thánh linh, nay ngài đă đến là rất tốt! Xin ở lại đây hai thời một trăm tám mươi ngày, tôi nguyện tận t́nh cúng dường, chỉ xin lưu lại uy thần.

Phổ Thí liền nhận lời ở lại, v́ vị Thiên nhân ấy thuyết giảng đạo pháp về hạnh sáng vô thượng. Đủ một trăm tám mươi ngày từ giă ra đi. Vị Thiên nhân ấy lại dùng viên ngọc thần tiễn đưa. Ngọc chiếu sáng tám mươi dặm, chí vừa mong cầu th́ các báu sẽ hiện đầy. Thiên nhân nói:

-Nếu ngài đắc đạo, tôi nguyện làm đệ tử có thần túc vô thượng.

Nhận viên ngọc thần xong Phổ Thí lại lên đường trong thấymột thành bằng lưu ly, rực rỡ hơn thành trước. Lại có con rắn độc, thân rất lớn, quấn quanh thành hai mươi mốt ṿng, ngẩng đầu trừng mắt canh cửa thành ấy. Phổ Thí lại ngồi xuống, nhập định, tư duy sâu rộng về ḷng Từ trùm khắp, thề tế độ chứng sinh. Rắn tiêu nọc độc, rũ đầu nằm yến, Phổ Thí lại bước qua nó mà vào. Trong thành có vị trời vui mừng tiếp đón như trước, thỉnh lưu lại ba thời, xin hết ḷng cúng dường, đúng theo sở nguyện. Hạn kỳ hết, lại từ giă lên đường, cũng tiễn đưa bằng một viên ngọc thần chiếu sáng đến một trăm sáu mươi dặm. Ngọc ở đâu th́ các loại báu sẽ hiện đầy cả trong vùng ánh sáng ấy theo ư ḿnh muốn, không cầu ǵ mà không được. Vị trời cũng xin rằng:

-Nếu ngài đạt được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác th́ tôi xin làm đệ tử có trí tuệ sáng suốt hơn hết.

Phổ Thí đáp:

-Chắc chắn sẽ thỏa nguyện của ông.

Phổ Thí được ngọc báu rồi, nói:

-Chừng ấy là đủ để cứu giúp mọi sự khôn khó của chúng sinh!

Bèn lên đường trở về chốn cũ. Các Thần rồng ở biển cùng nhau bàn rằng:

-Biển lớn của chúng ta chỉ cần ba viên ngọc thần diệu ấy làm cho chúng ta vinh hoa, nay đạo sĩ kia đă được cả, th́ chúng ta lấy ǵ để được giàu sang? Thà mất hết các thứ của báu khác chứ không thể để mất ba viên ngọc báu ấy.

Thần biển hóa làm người phàm, chận đường Phổ Thí nói:

-Tôi nghe ngài có được của báu nhất trên đời, có thể cho xem được chăng?

Phổ Thí vừa bày ngọc ra, Thần biển liền đập vào đầu Phổ Thí để đoạt số ngọc ấy. Phổ Thí nghĩ: “Ta trải qua hiểm nguy, vượt qua biển lớn mới có được ngọc báu ấy, muốn đem nó để cứu giúp mọi sự khốn khó của chúng sinh. Ngờ đâu lại bị vị thần này xem thấy mà đoạt mất”. Nghĩ xong liền bảo:

-Ngươi trả ngọc báu lại cho ta, nếu không ta sẽ làm cạn biển của ngươi đấy!

Thần biển đáp:

-Ngươi nói khoác lác ǵ thế? Đây là biển lớn, sâu rộng khó lường, ai có thể làm khô cạn được? Mặt trời có thể rơi rụng, gió băo có thể dừng lại, c̣n biển th́ dễ ǵ làm cho cạn kiệt, cũng như hư không khó có thể hư hoại được!

Phổ Thí nói:

-Xưa kia, trước Đức Phật Định Quang ta đă phát nguyện đạt được đạo lực lật úp các biển, tay nâng Tu-di lên, lay động đất trời, chuyển dời các cơi. Đức Phật theo ư muốn ấy, cho ta đạt được như nguyện. Nay ta đă được đạo lực đó rồi, c̣n người chỉ có sức tà như tơ tóc các loài yêu quỷ, làm sao có thể ngăn cản được sức mạnh chân chánh của ta.

Liền nói kinh:

-Ta từ vô số kiếp đến nay, uống ḍng sữa mẹ, nước mắt khóc, máu chảy thân chết, biển đă không nhận, ân ái khó tuyệt, sinh tử khó dừng. Ta vẫn muốn dứt tuyệt gốc ân ái, ngừng hẳn thần sinh tử. Đời nay tháo gỡ không dứt th́ đời đời xin tháo gỡ.

Liền đứng thế hai chân bằng nhau, tháo bầu nước biển mà quăng ra ngoài núi Thiết vi.

Bấy giờ có vị trời tên Biến Tịnh, từ xa nghe được lời thâm diệu ấy, nên tự nghĩ: “Xưa kia, trước Đức Phật Định Quang, ta từng nghe người này có được chí nguyện ấy, ắt sẽ làm Bậc Thế Tôn tế độ tất cả chúng sinh”. Vị trời ấy liền xuống trợ lực, giúp tháo bầu nước, nước mười phần mất hết tám. Thần biển hố́ hận, sợ hăi nói:

-Ôi, người này là ai mà linh ứng vô biên như vậy? Nước ở đây mà hết th́ chỗ ở của chúng ta sẽ không c̣n!

Liền đem hết mọi vật báu nơi các kho tàng trao cho Phổ Thí. Phổ Thí không nhận, nói:

-Ta chỉ muốn nhận lại ngọc báu thôi.

Các thần biển trả lại ngọc báu. Phổ Thí th́ trả lại nước, rồi đi khắp đất nước ḿnh, t́m đường để bố thí. Những nước Phổ Thí đi qua th́ dân nước ấy không c̣n nghèo nữa. Tất cả các nước, không nước nào là không cải cách thay đổi, đều lấy năm giới, mười điều thiện làm chính sách trị nước của quốc gia, mở ngục đại xá. Ân đức thấm khắp chúng sinh, Ngài bèn đạt được quả vị Phật-đà.

Đức Phật bảo các Sa-môn:

-Phổ Thí chính là thân Ta, người cha là vua Bạch Tịnh, người mẹ nay là Diệu Xá mẹ ta, vị nữ đại sĩ là Câu-di, vị trời trong thành bạc nay là A-nan, vị trời trong thành vàng nay là Mục-kiền-liên, vị trời trong thành lưu ly nay là Xá-lợi-phất.

Bồ-tát nhiều kiếp siêng năng, thực hành bốn ân, thệ nguyện cầu thành Phật để cứu vớt chúng sinh.

Bồ-tát từ bi thi ân, tu hạnh Độ vô cực, đă thực hành bố thí như vậy.

* *

10-  Xưa, Bồ-tát làm đại quốc vương tên là Trường Thọ, thái tử tên là Trường Sinh. Vua ấy nhân từ, luôn mang ḷng thương xót chúng sinh, thệ nguyện tế độ, tinh tấn không hề biết mệt mỏi. Dao gậy không dùng đến, thần dân không oán thán, gió mưa thời tiết thuận ḥa, lúa quư dồi dào.

Tiểu vương nước bên cạnh tánh nết bạo ngược, phép nước tham tàn nên dân nghèo nước rỗng. Vua nước đó gọi quần thần, bảo:

-Ta nghe vua Trường Thọ, nước ấy giàu có, cách đây không xa, luôn có ḷng nhân nên không giết hại, không có quân đội pḥng bị, ta muôn chiếm lấy nước đó, nên chăng?

Quần thần tâu:

-Nên.

Vua ấy liền khởi binh kéo đến biên giới nước lớn. Quan giữ cửa ải vội dâng biểu tâu rơ t́nh trạng xin sớm t́m cách pḥng bị. Vua Trường Thọ bèn họp quần thần, bảo:

-Vua kia đến đây chỉ v́ tham nước ta dân đông, nhiều của báu. Nếu cùng giao tranh với họ th́ ất hại mạng muôn dân. V́ lợi ḿnh mà tàn hại dân, tham lam mà bất nhân, việc ấy ta không làm.

Quần thần đều tâu:

-Chúng thần từ lâu đă học tập quân mưu, binh pháp, xin được đem binh đánh diệt bọn ấy, không nhọc thánh quân phải lo nghĩ.

Vua Trường Thọ nói:

-Ta thắng th́ chúng chết, ta thua th́ ta tiêu tan! Binh lính của họ, nhân dân của ta đều do trời sinh dưỡng. Trọng thân, tiếc mạng, ai mà chẳng vậy. Nhưng để toàn thân ḿnh, mà hại muôn dân th́ người hiền không làm.

Quần thần đều đứng ra nói với nhau:

-Đây là bậc vua trời nhân đức, không thể để mất nước, phải cùng nhau tự điểm binh mă đem ra chống giặc.

Vua Trường Thọ biết được việc ấy nên gọi thái tử bảo:

-Vua kia tham nước ta, ôm ḷng độc dữ đến đấy, quần thần v́ thân ta chỉ một người mà muốn hại mạng muôn dân. Nay ta giao nước để bảo toàn mạng sống cho dân trời, nghĩa ấy nên chăng?

Thái tử tâu:

-Dạ vâng.

Rồi cha con vượt thành ra đi, cải đổi tên họ, ẩn cư nơi núi rừng, đồng vắng. Tên vua tham lam kia nhờ vậy mới vào được nước ấy. Quần thần và dân chúng mất vua cũ của ḿnh như người con hiếu mất song thân, thương thảm, lăn lộn, nhà nào cũng vậy. Vua tham treo thưởng để bắt vua cũ là vàng ṛng ngàn cân, tiền ngàn vạn quan. Vua Trường Thọ ra đi, ngồi thiền định bên gốc cây ven đường, thương xót chúng sinh, sống chết, cực khổ, không thấy vô thường, khổ, không, vô ngă, v́ bị tham dục mê hoặc, khổ kia thật vô sô.

Có vị Phạm chí ở nước xa xôi, nghe vua Trường Thọ ưa bố thí, cứu giúp mạng sống của chúng sinh, từ xa t́m đến cũng dừng nghỉ bên gốc cây này. Cả hai hỏi thăm nhau, mỗi người kể lể đầu đuôi hoàn cảnh của ḿnh. Vị Phạm chí cả kính nói:

-Thiên vương v́ sao đến nông nỗi này?

Rồi rơi nước mắt, tự than thở:

-Những năm tàn của đời tôi không c̣n mấy nữa, nên tôi định đến xin ngài tiếp sức cho cái mạng thừa này, nhưng đại vương đă mất nước th́ mạng tôi cũng cùng rồi.

Nói xong liền than khóc.

Nhà vua nói:

-Ông nghèo khó, từ xa t́m đến, lại gặp lúc ta mất nước, không lấy ǵ giúp ông được, thật chẳng đau xót lắm sao!

Rồi gạt nước mắt nói tiếp:

-Ta nghe vua mới đang treo giá bắt ta rất hậu, vậy ông hăy lấy đầu ta đem đến đó có thể được trọng thưởng.

Phạm chí thưa:

-Không thể làm vậy được! Từ xa tôi đă cảm phục thiên vương là người nhân từ, luôn cứu giúp chúng sinh, đức nhuần thâm ngang trời đất, nên đă bỏ đất nước đến đây mong nhờ cứu mạng. Nay vua bảo tôi chém đầu ngài, tôi đâu dám vâng lệnh.

Nhà vua nói:

-Thân này là đồ mục nát, há dám giữ măi được sao! Phàm có sinh th́ có tử, có ai trường tồn được! Nếu ông không lấy rốt cuộc nó cũng thành tro bụi mà thôi.

Phạm chí tâu:

-Ân huệ của thiên vương thật đă tỏa rộng khắp, nhân đức như trời, ắt muốn tự hại thân ḿnh để cứu giúp kẻ thấp hèn. Xin ngài buông tay cho tôi dắt đi.

Vua liền đưa tay đi theo. Đến cửa thành cũ, vua bảo Phạm chí trói ḿnh lại nạp lên vua tham kia. Người trong nước thấy vua th́ thương xót, gào khóc vang động khắp chốn. Người Phạm chí nhận thưởng. Vua tham kia ra lệnh đem vua Trường Thọ đến ngă tư đường thiêu sống. Quần thần đều tâu:

-Vua cũ của chúng thần rốt cuộc phải chết, xin được làm một mâm cỗ nhỏ để tiễn đưa linh hồn người.

Vua tham nói:

-Được.

Bá quan cùng dân chúng thương xót kéo ra đầy đường, vật vă cùng nhau gào khóc kêu trời. Thái tử Trường Sinh giả làm người bán củi tới đứng trước mặt cha. Vua thấy con th́ ngửa mặt lên trời nói:

-Nếu trái lời dặn ḍ sau cùng của cha, chất chứa hung độc, ḷng mang oán nặng th́ chuốc lấy họa đến muôn đời, không phải là người con hiếu. Bốn tâm vô lượng của chư Phật thấm nhuần rộng khắp, đức phủ cả trời đất. Ta v́ theo đạo mà tự giết thân ḿnh để cứu giúp chúng sinh, c̣n sợ là không tṛn chút hạnh của đạo hiếu, huống lại làm chuyện ngỗ ngược báo thù sao? Không bỏ lời ta dạy mới gọi là hiếu vậy.

Thái tử không nỡ nh́n phụ thân chết nên trở về núi sâu.

Nhà vua mạng chung, thái tử khóc thương, máu lệ tràn miệngnói:

-Vua cha của ta tuy lúc lâm chung đă có lời dạy ta hết mực nhân từ, nhưng chắc ta phải trái lời dạy đó, phải diệt trừ loài thú dữ độc hại kia.

Thái tử bèn rời khỏi núi t́m chỗ thuê mướn ḿnh và làm người trồng rau cho một vị quan. Vị quan này một hôm, ngẫu nhiên đi dạo vườn thấy rau tốt tươi, nên hỏi sự t́nh. Người giữ vườn đáp:

-Nhờ thuê được một người giỏi về làm vườn.

Vị quan gọi người làm vườn đến hỏi:

-Ngươi c̣n có khả năng ǵ nữa?

Đáp:

-Khéo cả trăm nghề, tôi đều đứng đầu.

Vị quan mời vua tham kia đến, bảo anh ta nấu ăn dâng lên, c̣n giỏi hơn cả đám quan lo việc nấu ăn cho vua. Vua hỏi:

-Món ăn này do ai làm vậy?

Vị quan liền đem hoàn cảnh hiện tại thưa lên. Vua tham bèn nhận anh ta về làm quan coi về bếp núc của vua mỗi việc đều thuận hợp. Dần dần thái tử Trường Sinh được vua tham cất nhắc lên làm cận thần, bảo:

-Con của vua Trường Thọ là kẻ trọng thù với ta, nay ta dùng ngươi làm quan cận vệ.

Thái tử đáp:

-Thưa vâng.

Một hôm, vua tham hỏi thái tử Trường Sinh:

-Ngươi thích đi săn không?

Đáp:

-Thần rất thích!

Vua tham liền tổ chức đi săn. V́ giục ngựa đuổi theo con mồi nên vua lạc mất mọi người, chỉ c̣n lại Trường Sinh bên ḿnh. Họ ở trong núi đến ba ngày, đói khát, khốn đốn, vua tham bèn tháo kiếm trao cho Trường Sinh, rồi gối đầu lên đùi thái tử mà ngủ Trường Sinh nói:

-Nay ta đă được ngươi mà không giết ư?

Bèn rút kiếm muốn chém đầu vua ham, chợt nhớ đến lời cha dặn: “Trái lời dạy của cha là bất hiếu”, nên dừng lại, cất kiếm. Vua tham tỉnh giấc nói:

-Ta vừa mơ thấy Trường Sinh muốn chém đầu ta. Phải làm saođây?

Thái tử đáp:

-Núi có quỷ dữ, vui thích việc nung nấu, nhưng có thần làm thị vệ, c̣n lo sợ ǵ nữa?

Vua tham lại ngủ tiếp. Sự việc như trên lại diễn đến lần thứ ba, thái tử liền ném kiếm, nói:

-Ta v́ cha ta nhân từ mà tha mạng cho ngươi đó!

Vua tham lại tỉnh giấc, nói:

-Ta mơ thấy thái tử Trường Sinh đă tha mạng cho ta rồi!

Thái tử nói:

-Trường Sinh chính là tôi đây! Nhớ cha nên đă theo đuổi kẻ thù đến hôm nay! Cha tôi đến lúc chẹt mà miệng vẫn c̣n dạy tôi lời nhân từ, khiến ta tuân theo đạo lư nhẫn nhục, đem thiện trả ác của chư Phật. Nhưng tâm tánh tôi ngu muội, muốn đem hai thứ độc ấy để lẫn vào nhau, ba lần nghĩ tới lời dạy của cha th́ ba lần buông kiếm. Vậy xin đại vương mau giết tôi đi để trừ hậu hoạn. Thân chết, hồn ĺa, th́ ư ác không c̣n sinh nữa.

Vua tham hối lỗi, nói:

-Ta làm chuyện bạo ngược không phân biệt thiện ác, Tiên vương của ngươi hạnh cao thuần đủ, mất nước chứ không mất hạnh, đáng gọi là bậc Thượng thánh. Con mà bảo tồn được hạnh của cha, đáng gọi là hiếu! C̣n ta là giông sài lang, tàn hại sinh linh để được no đủ. Nay mạng sống của ta ở trong tay ngươi, mà ngươi tha cho không giết, sau này há dám làm trái đạo nữa sao! Giờ ta muốn trở về nước ḿnh th́ phải đi theo đường nào?

Trường Sinh đáp:

-Việc lạc đường này là do tôi sắp đặt.

Rồi thái tử đưa vua ra khỏi rừng, gặp lại các quan. Vua hỏi các quan:

-Các ông có biết thái tử Trường Sinh chăng?

Họ đều đáp:

-Thưa không biết.

Vua nói:

-Người này là thái tử Trường Sinh, nay sẽ trở về nước, c̣n ta sẽ trở lại nước cũ của ḿnh. Từ nay xin kết làm anh em, họa phúc có nhau.

Ngày lập thái tử Trường Sinh lên làm vua, cả nước vừa vui vừa buồn, ai ai cũng đến chúc tụng. Vua tham trở về nước ḿnh, nối lại việc triều cống như xưa, đất nước từ đấy được giàu mạnh, an ổn.

Đức Phật bảo các vị Sa-môn:

-Vua Trường Thọ thời đó chính là thân Ta, thái tử là A-nan, vua tham là Điều-đạt. Điều-đạt đời đời luôn có ư ắc đối với Ta, Ta vẫn luôn cứu độ ông ấy. A-nan và Điều-đạt vốn tự không có oán thù nên chẳng hại lẫn nhau. Ta đời đời nhẫn những điều không thể nhẫn, chế ngự tâm ư, lập hạnh, nên nay được thành Phật, được ba cơi tôn kính.

Bồ-tát từ bi thi ân, tu hạnh Độ vô cực, đă thực hành bố thí như vậy.

KINH LỤC ĐỘ TẬP

Q1    Q2    Q3    Q4    Q5    Q6    Q7    Q8

KINH LỤC ĐỘ TẬP

Hán Dịch: Đời Đông Ngô, Sư-Môn Khương Tăng Hội, Người Nước Khương Cư.

Việt Dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 2

Chương I: BỐ THÍ ĐỘ VÔ CỰC (tt)

11- Kinh Vua Ba-Da.

Xưa, vua nước Ba-la-nại tên là Ba-da, dùng nhân từ trị nước, bỏ binh đao, dẹp roi gậy, hủy nhà tù, ngoài đường không tiếng than trách muôn dân an cư, nước mạnh, dân giàu, chư Thiên khen ngợi đức nhân từ ấy. Thành của vua rộng dài bốn trăm dặm, chu vi một ngàn sáu trăm dặm. Hàng ngày, người trong thành ăn uống vua đều cho họ theo ư muốn. Vua nước láng giềng biết nước này giàu có, tai nạn đều dứt bèn cùng quần thần bàn mưu:

- Nước kia thịnh vượng, dân chúng giàu có an vui, ta muốn chiếm lấy nước đó , nếu ta đến ắt thắng.

Các quan đều tâu:

- Xin vui theo ư vua.

Tức th́ khởi binh k éo đến đất nước nhân từ. Quần thần nước nhân từ tâu lên vua muốn xuất quân cự địch. Vị vua nhân từ bùi ngùi nói:

- V́ thân của ta, một ḿnh ta, mà giết hại thân mạng hàng triệu dân. V́ yêu chỉ một mạng người của ta, mà hại thân mạng hàng triệu dân. Một miệng ngày hai bữa ăn, một thân mặc vài bộ quần áo, có ǵ phải tranh giành, để bỏ đi cái đức của trời xuân, giữ lấy sự tàn tệ của loài lang sói? Ta thà bỏ mạng sống một đời, chứ quyết không bỏ chí nguyện lớn, quên ḿnh để quần sinh được an ổn, đó là nhân đức trùm cả trời đất.

Bèn lệnh cho các bề tôi:

- Thôi các khanh hăy trở về, sáng mai rồi hăy bàn!

Đêm đến, nhà vua vượt thành trốn đi xa, vào tận trong núi, ngồi cạnh gốc cây. Có vị Phạm chí, tuổi độ sáu mươi đến hỏi vua:

- Vua nước nhân từ kia có được muôn phước an lành không?

Vua đáp:

- Vua ấy đă chết rồi.

Vị Phạm chí nghe nói thế liền ngă lăn xuống đất khóc thương.

Nhà vua hỏi ông:

- Sao ông quá bi ai vậy?

Phạm thưa:

- Tôi nghe vị vua ấy nhân đức thấm khắp muôn loài như Đế Thích, nên vội t́m đến để nương thân. Nay vua ấy đă chết, thân già tôi thật đă cùng đường!

Nhà vua nói:

- Vị vua nhân từ kia chính là ta đây. Vua nước láng giềng biết nước ta giàu có thịnh vượng, dân chúng đông đúc nhiều của báu, đă lệnh cho vơ sĩ: "Ai lấy được đầu ta th́ sẽ được thưởng tôi tớ nam nữ mỗi loại một ngàn người, ngựa một ngàn con, ḅ một ngàn con, vàng bạc mỗi thứ một ngàn cân". Nay ông hăy lấy đầu ta, đem mũ vàng, kiếm báu để làm chứng, đến chỗ vua đó, sẽ được thưởng nhiều, có thể lấy những thứ ấy làm của truyền đời, ḷng ta hoàn toàn thanh thản.

Phạm chí đáp:

- Bất nhân trái đạo, thà chết chứ không làm!

Vua nói:

- Ông già rồi, nhờ cậy nơi ta để sống, mà ta nỡ để ông cùng khốn sao? Ta nay tự lấy đầu cho ông, để ông không có tội.

Rồi vua đứng dậy, cúi đầu lễ mười phương, rơi nước mắt thề rằng:

- Quần sinh ai bị nguy khổ, ta sẽ đem an vui lại cho họ. Kẻ bỏ chân theo tà, ta sẽ khiến họ quy mạng Tam bảo. Nay dùng đầu này để cứu ông khỏi sự nghèo khốn, nên ông không có tội.

Rồi vua tự rút kiếm hủy ḿnh để cứu nạn cho kẻ ấy. Phạm chí đem đầu, mũ, kiếm của vua đến chỗ vua kia. Vua hỏi các cựu thần:

- Vua nhân từ sức mạnh địch cả ngàn người, mà lại bị ông này bắt được sao?

Các cựu thần cúi đầu lăn ra đất khóc than đau đớn, không thể trả lời được. Vua lại hỏi Phạm chí. Phạm chí tâu rơ gốc ngọn sự việc. Hàng triệu dân đổ xô ra đường kêu khóc, có người gào đến thổ huyết, có người chết sững. Từ vị vua ác kia cho tới quần thần, vơ sĩ lớn, nhỏ, không ai là không nghẹn ngào. Vua ác ngửa mặt lên trời than dài:

- Ta thật vô đạo, đă tàn hại một bậc nhân từ như trời!

Bèn lấy thi thể và đầu vị vua nhân từ gắn liền lại, dùng vàng dát mỏng phủ lên thân, đặt thân ấy ngồi trên điện, làm vua ba mươi hai năm, sau mới lập con vua đó lên kế vị. Nước láng giềng không ai là không thương người con ấy. Vị vua nhân từ chết rồi được sinh lên cơi trời.

Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

- Vị vua nhân từ ấy là thân Ta, vua nước láng giềng là Mục-kiền-liên, quần thần nước đó nay là các Tỳ-kheo.

Bồ-tát từ bi thi ân, tu hạnh Độ vô cực, đă thực hành bố thí như vậy.

* *

12- Kinh Vua Nước Ba-La-Nại.

Xưa kia, thái tử của vua nước Ba-la-nại, tên là Ca-lan, có hai anh em. Khi vua cha qua đời, anh em nhường cho nhau, không chịu lên ngôi. Người anh đem vợ trốn vào trong núi học đạo, đến ngụ bên bờ sông.

Bấy giờ, ở nước khác có một tội phạm, theo phép nước bị chặt cả tay chân, cắt tai mũi, bỏ bè trôi sông. Tội nhân kêu trời kể lể. Đạo sĩ nghe tiếng kêu thảm thiết, động ḷng thương cảm, nghĩ:

- Ôi! Người ấy là ai mà khốn khổ đến thế! Phàm người có tâm Từ bao la là quên ḿnh nguy khốn để cứu ách nạn cho muôn loài, đó chinh là sự nghiệp của bậc Đại sĩ.

Liền lao ḿnh xuống nước, rẽ sóng, lướt ḍng, kéo bè vô bờ, rồi cơng anh ta về chỗ ở, hết ḷng chăm sóc, thương tật khỏi dần, tánh mạng được an toàn, suốt bốn năm trời thương nuôi không mệt mỏi. Người vợ dâm đăng không ngần ngại tư thông với tội nhân, âm mưu giết chồng. Người vợ kia bảo:

- Ngươi giết hắn đi, để ta cùng ngươi chung sống với nhau.

Tội nhân nói:

- Ông ấy là người hiền, cớ sao giết đi?

Người vợ lại nói như lần trơớc. Tội nhân nói:

- Tôi không c̣n tay chân, không thể giết được.

Người vợ nói:

- Ông cứ ngồi đó, tự ta có kế vậy.

Bèn giả đau đầu, bảo chồng:

- Đây chắc là do thần núi làm ra, thiếp muốn giải trừ. Sáng mai, thiếp theo chàng cùng đi cầu phúc.

Chồng nói:

- Rất tốt.

Rạng ngày vợ chồng liền lên sườn núi cao đến bốn mươi dặm, ba mặt vách núi dựng đứng, nh́n thấy đă sợ rồi. Người vợ nói với chồng:

- Theo đúng phép, chà g phải đứng hướng về phía mặt trời, để tự thiếp cúng lễ.

Người chồng liền hướng theo phía mặt trời. Người vợ giả vờ đi quanh vài ṿng, rồi th́nh ĺnh xô chồng rơi xuống núi. Nhưng nhờ lưng chừng núi có cây nhô ra, lá cây rậm rạp lại mềm mại, đạo sĩ chụp lấy cành dừng lại được. Trái cây ấy ngon ngọt, ăn vào th́ toàn mạng. Cạnh cây có một con rùa, hàng ngày cũng đến ăn trái cây, thấy trên cây có người, nên sợ chẳng dám đến. Nhịn đói đă năm ngày, rùa bèn liều tới t́m trái cây, cả hai không hại nhau nên trở thành gầ n gũi. Một hôm, đạo sĩ nhảy cỡi lên lưng rùa, rùa hoảng kinh phóng đại xuống đất. Nhờ Thiên thần nâng đỡ, nên cả hai không hề hấn ǵ  Nhân đó, đạo sĩ trở về nước cũ. Người em đem đất nước nhường lại cho anh. Người anh lấy ḷng độ lượng rộng lớn của ḿnh thương khắp, cứu giúp quần sinh, làm vua cai trị nước ấy. Cứ sáng ngày ra là bố thí, trong ṿ g bốn trăm dặm, người, ngựa, xe, cộ, các vật báu, đồ ăn thức uống... mọi người tự do lấy mà dùng. Đông, Tây, Nam, Bắc vua đều ban ân huệ, nuôi dưỡng như vậy. Công ân, tiếng tốt vang khắp nơi, mười phương đều ca ngợi đức độ của vua.

Người vợ, tưởng chồng đă chết, người trong nước không ai biết ḿnh, nên cơng người chồng tàn tật về nước, rồi tự giải bày về hoàn cảnh cưới nhau, gặp lúc đời suy loạn, thân lại tàn phế, nghe thiên vương từ bi thi ân nên đến xin được cứu giúp. Người trong nước khen bà như vậy nên mách rằng:

-Thiên vương ḷng Từ ban khắp, nuôi dưỡng hết quần sinh, sáng mai ngài sẽ ra cửa thành đông bố thí, ngươi đến đó mà đón xin. Quư trọng hạnh tốt của ngươi, ắt ngài sẽ cho ngươi nhiều đấy.

Rạng ngày, chúng theo vua xin ăn. Nhà vua ngầm biết đó là vợ ḿnh, nên nói hết đầu đuôi sự việc về người vợ ấy cho quần thần nghe. Một vị quan tâu:

- Phải thiêu sống người đó đi.

Một vị khác thưa:

- Phải chém đi.

Vị quan chấp pháp tâu:

- Phàm gây tội, không ǵ lớn hơn là bỏ chánh theo tà, làm những điều bội nghịch. Vậy phải đem người đàn ông hung dữ đóng đinh lên lưng người đàn bà độc ác, để chúng cơng nhau măi măi.

Quần thần đều nói:

- Phải đấy! Hăy cho chúng theo chỗ chúng thích, để làm rơ việc giữ đúng pháp.

Nhà vua đem mười điều thiện giáo hóa muôn dân, mọi người đều vui mừng đón nhận. Nhà vua cùng thần dân sau khi chết đều sinh lên cơi trời, c̣n vợ chồng tội nhân kia sau khi chết bị đọa vào địa ngục.

Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

- Vị vua ấy là thân Ta, tội nhân là Điều-đạt, người vợ là con gái củ a Hoài Vu.

Bồ-tát từ bi thi ân, tu hạnh Độ vô cực, đă thực hành bố thí như vậy.

* *

13- Kinh Vua Tát-Ḥa-Đàn.

Xưa có vị quốc vương hiệu là Tát-ḥa-đàn, có nghĩa là Bố thí khắp tất cả. Ai có điều cầu xin đều không trái ư. Do bố thí như thế nên tên tuổi vua ấy vang khắp tám phương, không ai là không nghe biết.

Bấy giờn đức Văn-thù-sư-lợi muốn đến xem thử, nên hóa làm một người Bà-la-môn trẻ tuổi, từ nước khác đến thẳng cửa vương cung, nói với quan giữ cửa:

- Tôi từ xa đến muốn được yết kiến đại vương.

Khi nghe quan giữ cửa tâu như vậy, nhà vua rất vui mừng, liền ra tiếp đón như con gặp cha, trước là chào hỏi, mời ngồi, rồi thưa:

- Đạo nhân từ đâu lại  trên đường lặn lội đến đây có được khỏe không?

Bà-la-môn nói:

- Tôi ở nước khác, nghe công đức của vua nên đến để được gặp, nay muốn xin của cải.

Nhà vua nói:

- Tốt lắm! Muốn xin ǵ là được ngay, chớ có ngần ngại! Tên ta gọi là Bố thí tất cả. Vậy ngài muốn xin những vật ǵ?

Vị Bà-la-môn nói:

- Tôi không xin vật ǵ khác, chỉ muốn được thân vua làm đầy tớ trai cho tôi và vợ vua th́ làm tớ gái cho tôi. Nếu được như thế th́ nhà vua đi theo tôi.

Nhà vua rất vui mừng, đáp:

- Tốt lắm! Nay thân ta th́ ta tự định được, nguyện đem thân này giao cho đạo nhân sai khiến. C̣n vợ ta vốn là con gái của một vị đại quốc vương, phải đến hỏi ư kiến xem sao.

Nhà vua liền vào nói với phu nhân:

- Nay có vị đạo nhân, tuổi trẻ, đoan chánh, từ phương xa đến, muốn xin thân ta về làm tớ trai, nay lại muốn xin luôn khanh về làm tớ gái, ư khanh thế nào?

Phu nhân hỏi :

- Nhà vua đă trả lời ra làm sao?

Vua nói:

- Ta đă hứa làm tớ trai cho ông ấy rồi, nhưng chưa hứa cho khanh.

Phu nhân nói:

- Vua v́ được việc cho riêng ḿnh mà muốn bỏ nhau, không nghĩ đến việc độ cho thiếp.

Rồi phu nhân theo vua ra thưa với đạo nhân:

- Nguyện được đem thân này dâng cho đạo nhân sai khiến.

Vị Bà-la-môn lại nói với vua:

- Vua đă xét kỹ chưa? Bây giờ ta muốn đi đây.

Vua thưa với đạo nhân:

- Tôi b́nh sinh bố thí chưa từng hối hận, xin theo đạo nhân.

Bà-la-môn nói:

- Các vị theo ta đều phải đi chân đất, không được mang giầy, đúng theo phép tôi tớ, không đơợc che giấu.

Nhà vua và phu nhân đều nói:

- Thưa vâng! Xin theo lời đại gia dạy bảo, không dám trái lệnh.

Bấy giờ, vị Bà-la-môn liền dẫ n hai nô tỳ băng đường mà đi. Đức Văn-thù-sư-lợi liền hóa ra người khác, thay cho vua Tát-ḥa-đàn và phu nhân ở lạ i lo việc nước, khiến ở đó mọi việc như cũ. Phu nhân của vua vốn là con gái của mộ t đại quốc vương, đoan chánh vô song, tay yếu chân mềm, sinh trưởng ở chốn thân cung, không hề cực khổ, thân lại mang thai mấy tháng, bà gắng đi bộ theo đại gia, toàn thân đau đớn, chân cẳng bị thương, không thể tiến lên trước, đành mệt nhọc lê bước theo sau. Vị Bà -la-môn ngoảnh lại mắng:

- Ngươi là tớ gái phải theo phép tớ gái, không thể có thái độ như ngày trước.

Phu nhân quỳ dài, thưa:

- Không dám thế, chỉ hơi mệt mỏi một chút nên phải dừng lại nghỉ thôi.

Vị Bà-la-môn la:

- Hăy mau đến đây, theo sau ta ngay!

Khi đến phía trước chợ của một nước, ông Bà-la-môn bèn bán riêng mỗi nô tỳ cho một chủ, cách nhau vài dặm. Có ông trưởng giả mua được tớ trai ấy, sai giữ nhà đất cho ông ta, có ai đem chôn người chết th́ thu thuế, không được làm chuyện sai quấy. Lúc này người tớ gái đă thuộc về phu nhân của một đại gia hay ghen, ngày đêm bắt nàng làm việc không hở tay. Sau đó vài ngày th́ người tớ gái chuyển bụng, sinh được một đứa con trai. Phu nhân chủ giận dữ nói:

- Người là tớ sao có đứa con ấy, mau đem giết đi!

Theo lời bảo của vợ đại gia, người nữ tỳ liền đem giết đứa bé ấy rồi mang đi chôn, ghé sang chỗ người tớ trai. Hai người được gặp nhau, nàng nói:

- Thiếp sinh được một đứa con trai, nhưng nay đă chết rồi, mà không mang theo tiền, đâu có thể dối chôn được ở đây, phải không?

Người tớ trai nói:

- Đại gia rất nóng nảy, ông ấy mà biết được th́ tội tôi không nhỏ. Nàng hăy mang đi t́m chỗ khác, không nên đứng ở đây.

Vua và phu nhân tuy được gặp nhau, nhưng không hề kể lể về chuyện cực khổ, ḷng đều không oán giận. Nói năng như vậy trong giây lát, chập chờn như trong giấc mơ, vua và phu nhân tự nhiên trở lại ngồi trên chánh điện trong cung tại nước ḿnh như trước, không ǵ khác. Các quầ n thần, hậu cung thể nữ thảy đề u như cũ. Thái tử vừa sinh cũng tự nhiên sống. Trong ḷng vua và phu nhân tự hoài nghi: "Duyên cớ ǵ đến như vầy?"

Đức Văn-thù-sư-lợi, hiện thân sắc tướng ngồi trên ṭa sen bảy báu ở trong không trung, khen:

- Lành thay! Nay ông bố thí chí thành như vậy!

Vua và phu nhân vô cùng vui mừng, liền đến trước mặt làm lễ đức Văn-thù-sư-lợi v́ họ thuyết giảng kinh pháp. Ba ngàn quốc độ đều chấn động mạnh, dân chúng khắp cả nước đều phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vua và phu nhân ngay lúc đó liền đạt được quả Pháp nhẫn bất khởi (Vô sinh pháp nhẫn).

Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:

- Đức vua thời đó chính là thân Ta, phu nhân ngày ấy nay là Câu-di, thái tử nay là La-vân.

Đức Phật dạy:

- Này A-nan, Ta kiếp trước đă từng bố thí như thế, v́ tất cả mọi người nên không tiếc thân mạng, trải qua vô số kiếp không hề hối hận, không hề mong cầu danh lợi, tự đạt đến Chánh giác.

Bồ-tát từ bi thi ân, tu hạnh Độ vô cực, đă thực hành bố thí như vậy.

* *

14- Kinh Tu-Đại-Noa.

Xưa, vua nước Diệp-ba hiệu là Thấp Tùy, tên là Tát-xà dùng pháp chân chánh trị nước, dân chúng không oán. Nhà vua có vị thái tử tên là Tu-đại-noa, dung mạo tươi sáng hơn đời, ḷng nhân đức hiếu khó sánh, luôn đem bốn tâm vô lượng cứu giúp khắp, lời nói không tổn thương người. Vua chỉ có một người con nên vô cùng thương quư.

Thái tử thờ kính cha như thờ trời. Tới tuổi hiểu biết, thường nguyện bố thí, cứu giúp muôn loài để đời sau được hưởng phước vô cùng. Người ngu không thấy sự biến đổi vô thường, nên cho là có thể bảo tồn được. Kẻ sĩ có trí thấy rơ năm nhà nên hay chuộng bố thí. Chư Phật mười phương, Duyên giác, Bậc Vô Sở Trước, không ai là không khen ngợi: Bố thí là điều quư nhất trên đời. Thái tử liền bố thí cùng khắp, ban cho tất cả các loài. Người muốn xin được ăn mặc, đáp lời cho ngay; kẻ muốn vàng bạc, chân báu xe ngựa, ruộng nhà… xin ǵ cho nấy.

Tiếng thơm lan xa, bốn biển khen ngợi. Vua cha có con voi trắng sức lực dũng mănh chống cự một lúc được sáu mươi con voi thường. Nước địch đến gây chiến, voi trắng luôn chiến thắng. Các vua bàn nhau:

- Thái tử là bậc Hiền thánh xin ǵ cũng cho, nên sai tám người Phạm chí đến chỗ thái tử xin con voi trắng ấy. Nếu xin được voi, chúng ta sẽ trọng thưởng cho họ.

Đám Phạm chí lănh mạng đi liền. Họ mặc áo da nai, mang dép, cầm b́nh, chống gậy, lặn lội trải qua các quận, huyện xa xôi, có hơn ngàn dặm mới đến được nước Diệp-ba. Họ đều chống gậy, đứng một chân, hướng về cửa cung, gọi thị vệ nói:

- Ta nghe Thái tử bố thí kẻ nghèo khó, ân nhuần khắp muôn loài nên từ xa lặn lội đến xin cái ta thiếu.

Vệ sĩ liền đem sự việc thưa lên. Thái tử nghe xong th́ vui mừng, vội vàng ra đón tiếp, như con gặp cha mẹ, cúi đầu sát chân, an ủi, hỏi:

- Do đâu mà quư vị khổ nhọc đến thân thể vậy! Muốn cầu xin điều ǵ mà phải đứng một chân thế?

Họ thưa:

- Đức sáng của thái tử chiếu khắp tám phương, trên thấu đến trời xanh, dưới xuống tận suối vàng, ṿi vọi như Thái sơn, ai mà không khen ngợi, kính ngưỡng. Ngài là con của vua trời, lời nói ra ắt đáng tin tưởng, thường bố thí không trái ư nguyện của mọi người. Nay chúng tôi muốn xin ngài "con voi trắng đi trên hoa sen" tên là La-xà-ḥa-đại-đàn.

Thái tử nói:

- Tốt lắm! Xin dâng các vị vàng bạc, chân báu, cứ mặc ḷng chọn lấy, không nên tự làm khó!

Liền ra lệnh người hầu mau chóng trang bị cho voi trắng nào là bành vàng, dàm bạc, rồi dắt đến ngay. Thái tử tay trái nắm dàm voi, tay phải bưng b́nh vàng rót nước rửa tay các Phạm chí.  Các Phạm chí vui mừng, chú nguyện xong họ đều cỡi lên voi, mỉm cười ra đi.

Tướng quốc, các quan không ai là không buồn bă, cùng nói với nhau:

- Con voi ấy sức lực hùng mạnh, nước nhà nhờ nó mà được an ổn. Kẻ địch đến đánh đều bị thua chạy. Nay thái tử đă đem cho nước cừu địch th́ ta c̣n dựa vào đâu?

Họ cùng đến yết kiến vua, tâu rơ:

- Con voi trắng ấy sức lực có thể quật ngă sáu mươi con voi khác. Đối với nước, nó là của báu chống địch, vậy mà thái tử đem cho kẻ thù. C̣n kho tàng trong nước mỗi ngày một rỗng mà thái tử tự ư bố thí không ngừng nghỉ, khoảng vài năm nữa chúng thần e rằng vợ con cả nước ắt sẽ trở thành vật bố thí hết.

Nhà vua nghe lời ấy, lặng buồn hồi lâu, rồi nói:

- Thái tử ham chuộng đạo Phật, lấy việc cứu giúp kẻ bần cùng, từ bi nuô i dưỡng muôn loài làm đầu các hạnh. Như thế, nếu ta cấm chỉ, hoặc bắt phạt thái tử th́ vô đạo.

Bá quan đều nói:

- Lời dạy thiết tha khuôn phép của đại vương, chúng thần không dám trái, nhưng bắt phạt v́ chuyện ngang ngược, chúng thần xin mạnh dạn tâu, cho trục xuất thái tử ra khỏi nước đến nơi đồng ruộng thôn dă khoảng mười năm, để thái tử thẹn mà tự hối lỗi. Đó là ư nguyện của chúng thần.

Nhà vua liền sai sứ giả đến bảo thái tử:

- Voi là vật báu của nước, sao lại đem cho kẻ địch? Nhà vua không nỡ phạt tội, vậy hăy mau ra khỏi nước!

Sứ giả phụng mạng đến nói như thế. Thái tử đáp:

- Không dám trái với mạng trời, nhưng nguyện xin bố thí giúp kẻ nghèo thêm bảy ngày, rồi sẽ ra khói nước, không chút ân hận.

Sứ giả về tâu, vua bảo:

- Đi mau, ta không cho phép!

Sứ giả quay lại nói:

- Lệnh vua chẳng cho.

Thái tử xin một lần nữa:

- Không dám trái mệnh trời, nhưng ta có của riêng, không dám xâm phạm của nước.

Sứ giả về tâu lại vua, vua liền cho phép. Thái tử vui vẻ lệnh cho người hầu xem trong nước có ai nghèo thiếu th́ khuyên họ đến mau, theo chỗ cầu xin của họ mà thi ân cho hết. Đất nước, quan tước, ruộng nhà, của báu… đều là các thứ mộng ảo, tất cả đều bị hao ṃn, hủy diệt.

Hàng triệu dân chúng lớn nhỏ vội chạy đến cửa cung. Thái tử đem đồ ăn, thức uống, quần áo, bảy báu và các thứ châu ngọc khác, tất cả đều cho theo chỗ mong muốn của dân chúng. Bố thí xong xuôi, kẻ nghèo đều trở nên giàu.

Vợ thái tử tên là Man-để, con gái hàng vương giả, nhan sắc xinh đẹp, cả nước không hai, từ đầu đến chân đều mang chuỗi ngọc bảy báu.

Thái tử gọi vợ đến hỏi:

- Hăy nghe lời ta nói! Đại vương đày ta đến núi Đàn-đặc, thời hạn là mười năm, nàng có biết không?

Người vợ cả kinh đứng lên nh́n thái tử, rơi lệ, nói:

- Chàng có tội t́nh ǵ mà bị trục xuất, phải bỏ đất nước giàu sang đến ở nơi rừng sâu núi thẳm vậy?

Thái tử đ p lời vợ:

- V́ ta bố thí làm hao tổn tài sản quốc gia, con voi danh tiếng là vật báu để chiến đấu mà ta cũng đem cho kẻ địch, nên vua cùng quần thần giận dữ trục xuất ta.

Vợ thái tử liền bày tỏ lời nguyện cho đất nước được giàu thịnh, vua, tôi, cùng hàng triệu dân chúng được sung túc, sống lâu vô cùng. Riêng nàng sẽ lập chí, cùng thái tử vào chốn núi đầm để thành tựu đạo quả với thệ nguyện rộng lớn.

Thái tử nói:

- Núi đầm kia là nơi đầy những thứ đáng sợ, hổ lang, thú dữ, rất khó dung thân. Lại c̣n độc trùng, yêu cây, quái đá, tệ quỷ, sấm chớp, giông băo, gió mưa, mây mù ... thật là ghê rợn. Lạnh nóng quá mức, cây cối khó nương, gai gốc, sỏi đá ... nàng không kham nổi đâu. Nàng là con của bậc vương giả, sinh ở chốn vinh hoa, lớn lên trong cung cấm, áo quần mịn màng, ăn uống ngon ngọt, nằm th́ màn trướng, âm nhạc luôn vui tai, muốn ǵ được nấy. Nay ở nơi núi đầm, nằm th́ gối cỏ, ăn th́ hoa trái, không phải ai cũng chịu được, liệu nàng kham nổi chăng?

Vợ đáp:

- Mịn màng, tốt đẹp, vật báu, trướng màn, ngon ngọt… liệu có ích ǵ cho ḿnh khi cùng với thái tử phải sinh ly? Lúc vua ra đi, dùng cờ làm hiệu, lửa lấy khói làm hiệu, vợ lấy chồng làm hiệu. Thiếp nay cậy nhờ thái tử như con trẻ nương dựa mẹ cha. Lúc thái tử c̣n ở trong nước bố thí khắp nơi, thiếp luôn đồng t́nh, nay chàng sẽ trải hiểm nguy mà thiếp th́ ở lại giữ lấy vinh hoa, há c̣n là nhân đạo sao! Hoặc giả có kẻ đến xin, mà thiếp không c̣n thấy thái tử đâu th́ ḷng thiếp thương nhớ không nguôi, ắt là phải chết; chứ không c̣n nghi ngờ ǵ nữa.

Thái tử nói:

- Nếu người nước xa đến xin vợ con, ta th́ không trái ư cầu xin của họ, c̣n nàng th́ v́ t́nh quyến luyến mà không chịu, hóa ra trái với đạo bố thí làm dứt tuyệt ân lớn lao đă từng thấm nhuần khắp, hủy hoại trách nhiệm nặng nề của ta.

Vợ thưa:

- Sự bố thí của thái tử thật là hiếm thấy trên đời! Nên quyết thành tựu lời thệ nguyện lớn chớ có mệt mỏi. Trăm ngàn kiếp không ai như chàng, luôn tiếp nối và phát huy trách nhiệm nặng nề của Phật, thiếp chẳng dám trái ư.

Thái tử nói:

- Tốt.

Bèn đem vợ con đến từ biệt mẹ, cúi đầu sát đất, xót xa từ tạ:

- Xin mẹ đừng lo nghĩ về chúng con, hăy giữ ǵn vóc ngọc, việc nước có ǵ xin mẹ nhiều phen dùng tâm Từ can gián, không nên để triều đ́nh mặc sức làm oan uổng muôn dân. Phải nhẫn chịu điều không thể nhẫn, nhẫn được là quư.

Người mẹ nghe lời từ biệt, quay lại nói với kẻ hầu:

- Thân ta như đá, ḷng như thép cứng. Nay có một đứa con mà bị đuổi đi, ḷng ta sao nỡ? Khi chưa có con th́ kết nguyện cầu tự, những ngày mang thai th́ như cây ngậm hoa, đợi ngày nở nhụy. Trời không cướp lời thệ ước nên cho ta có con, nuôi đến lúc trưởng thành mà nay phải sinh ly sao?

Các phu nhân, phi tần, hầ u thiếp… những người vốn ganh ghét th́ vui mừng ra mặt, chẳng c̣n kính nể. Thái tử và vợ con cúi đầu lạy mẹ rồi lui ra. Trong cung, người lớn kẻ nhỏ ai ai cũng nghẹn ngào. Thái tử ra cửa thành cùng với trăm quan và dân chúng buồn bă nói lời từ biệt rồi tất cả đều đi ra khỏi thành. Mọi người không ai là không trộm nghĩ:

- Thái tử là Thánh linh của đất nước, là thứ tôn quư nhất trong các vật báu, sao cha mẹ ngài đành ḷng trục xuất?

Thái tử ngồi ở ngoài thành, cảm tạ những người tiễn đưa, bảo họ trở về nhà. Dân chúng đều bái phục, ai cũng thương xót. Có người lăn ra đất kêu trời, âm thanh vang động cả nước.

Thái tử cùng vợ con lên đường. Khi biết ḿnh đă cách xa đất nước, th́ cả nhà tạm ngồi nghỉ dưới một bóng cây. Có một Phạm chí từ xa đến xin, thái tử liền cởi chiếc áo quư nơi thân ḿnh và các châu ngọc của vợ cho hết, rồ i bảo vợ con lên xe tự tay ḿnh cầm cương. Vừa sắp lên đường, th́ có một Phạm chí đến xin con ngựa, Thái tử bèn tháo ngựa ra cho, rồi tự ḿnh kéo xe ra đi. Lại gặp Phạm chí khác đến xin chiếc xe, thái tử liền d́u vợ con xuống xe, lấy xe cho kẻ ấy. Xe ngựa, áo quần, châu báu trên người và các vật khác đều đă cho hết không c̣n ǵ. Thái tử bèn bảo vợ bế con gái, c̣n ḿnh th́ bồng con trai ra đi. Khi c̣n ở trong nước, bố thí cho kẻ khác voi quư, châu báu, xe ngựa... đến nỗi bị đuổi ra khỏi nước lưu đày mà chưa hề giận dữ, hối hận, ḷng vẫn luôn ḥa hợp vui vẻ đi vào núi.

Trải qua hai mươi mốt ngày mới đến được núi Đàn-đặc. Thái tử thấy trong núi cây cối sum sê, suối chảy nước trong, trái ngọt đầy dẫy, le le, nhạn, uyên ương… dạo chơi đây đó, hàng trăm loài chim ríu rít ḥa nhau vui hót. Thái tử thấy thế, gọi vợ bảo:

- Nàng xem núi ấy cây cối rợp trời, ít có gẫy đổ, chim bầy kêu hót giọng thật dễ thương, nơi nơi đều có suối chảy, hoa quả rất nhiều, có thể dùng làm đồ ăn thức uống, chỉ lấy đạo làm sự nghiệp, không nên trái với thệ nguyện.

Trong núi các đạo sĩ đều giữ vững tiết tháo, hiếu học.

Có một đạo sĩ tên là A-châu-đà, ở lâu trong núi, đạo đức thâm diệu cao xa. Thái tử cùng vợ con t́m đến đảnh lễ, rồi chắp tay đứng, hướng về đạo sĩ, thưa:

- Tôi đem vợ con đến đây học đạo, cúi xin ngài rủ ḷng Từ rộng lớn dạy bảo cho chí nguyện tôi được thành tựu.

Đạo sĩ chỉ dạy ǵ thái tử đều nghe theo. Rồi lấy cây cỏ làm nhà, y phục sơ sài, ăn trái cây, uống nước suối. Đứa con trai tên là Da-lợi mặc áo cỏ nhỏ, thường theo bên cha, bé gái tên là Kế-noa-diên mặc áo da nai theo mẹ ra vào. Ở trong núi qua một đêm th́ trời làm cho nước suối tăng thêm vị ngọt, sinh nhiều cây thuốc quư, quả ngon đầy cành.

Về sau, có ông Phạm chí già nghèo, ở huyện Cưu-lưu, vợ ông tuy nhiều tuổi nhưng nhan sắc đoan chánh, thường mang b́nh đi lấy nước, hôm ấy, gặp một người trẻ tuổi ngăn lại, đùa cợt:

- Bà sống nghèo khổ vậy th́ lấy ǵ để nuôi thân? Tham chi tài sản của lăo già ấy mà theo sống với hắn? Lăo già ấy học đạo sai đúng không thông, thời gian giáo hóa khó mong thành được, một người ngu si điếc lác mà bà c̣n tham ǵ ở đấy? H́nh dáng th́ vừa xấu vừa đen, mũi th́ méo lệch, thân thể th́ quắt queo, mặt nhăn nhúm, môi vễu ra, nói năng lắp bắp, hai mắt lại xanh giống như mắt quỷ… toàn thân không chỗ nào đẹp, ai mà chẳng gớm ghiếc! Bà làm vợ hắn không thấy xấu hổ, chán ngấy sao?

Người vợ nghe lời chê bai ấy bèn rơi nước mắt, nói:

- Tôi thấy ông ấy tóc bạc phơ như sương phủ cây, sớm hiện chiều tan, ḷng mong cho ông ta sớm chết nhưng chưa được toại nguyện. Không như thế th́ làm ǵ?

Bà trở về nhà kể lại việc trên với chồng, rồi nói:

- Ông phải có tôi tớ để sai bảo, tôi không đi lấy nước nữa đâu. Nếu gặp chuyện như hôm nay th́ tôi bỏ ông thôi.

Người chồng bảo:

- Tôi nghèo lấy đâu ra tôi tớ để sai khiến?

Người vợ nói:

- Tôi nghe có bậc Thượng sĩ bố thí tên là Tu-đại-noa, v́ ḷng Từ rộng lớn cứu giúp mọi người làm hao tổn của cải quốc gia, nên vua cùng quần thần đày vào trong núi. Vị ấy có hai người con, nếu ông xin th́ sẽ cho ngay.

Người vợ nói nhiều lần, v́ thương vợ nên khó trái ư, ông ta liền nghe theo lời vợ t́m đến nước Diệp-ba, tới thẳng cửa cung, nói:

- Thái tử được b́nh an chăng?

Vệ sĩ tâu lên, vua nghe lời ấy th́ nghẹn ngào, nước mắt chan ḥa, hồi lâu mới nói:

- Thái tử bị đuổi đi cũng chỉ v́ bọn này, mà nay lại đến nữa sao?

Vua cho người gọi đến, an ủi rồi hỏi hắn tới làm ǵ?

Phạm chí thưa:

- Tiếng thơm của thái tử thấm nhuần khắp, xa gần đều ca ngợi, nên tôi từ xa t́m tới đây để nương nhờ, mong được sống tiếp.

Vua bảo:

- Châu báu của thái tử bố thí hết sạch rồi, nay đang ở trong núi sâu, ăn mặc c̣n không đủ, lấy ǵ bố thí cho ông?

Lăo thưa:

- Đức mầu của thái tử lồng lộng, dù xa xôi cũng hết sức ngưỡng mộ, huống chi được nh́n thấy dung quang, th́ dù mất mạng cũng không hối hận.

Vua sai người chỉ cho lăo đường tắt. Trên đường đi gặp người thợ săn, lăo hỏi:

- Ông từng trải qua nhiều núi, có gặp thái tử chăng?

Người thợ săn vốn biết thái tử bị trục xuất là v́ bọn này, nên nổi giận mắng:

- Ta chém đầu ngươi đấy; chớ hỏi thái tử làm chi?

Phạm chí vừa xấu hổ vừa rồi sợ hăi, nghĩ: "Ta ắt bị tên này giết mất". Rồi lăo quyền biến, nói dối với người thợ săn:

- Vua và quần thần sai tôi đi gọi thái tử về lại nước để làm vua.

Người thợ săn đá p:

- Tốt 1ắm.

Rồi vui vẻ chỉ chỗ ở của tháỉ tử. Lăo từ xa trong thấy một mái nhà nhỏ, thái tử cũng thấy lăo đi đến. Hai đứa bé thấy lăo Phạm chí này th́ trong ḷng kinh sợ, anh em bàn với nhau:

- Cha ta vốn ưa bố thí, mà nay ông này t́m đến của cải lại không c̣n ǵ, ắt cha đem anh em ḿnh cho ông ấy chăng!

Chúng bèn dắt tay nhau chạy trốn. Có sẵn hố do mẹ đào từ trước có thể dung thân được, hai đứa bèn vào trong đó, lấy củi phủ lên, cùng dặn nhau:

- Cha có gọi th́ đừng lên tiếng.

Thái tử hỏi thăm lăo ta và mời ngồi trước ḿnh, lấy trái cây, nước uống bày trước mặt. Ăn quả, uống nước xong, thái tử an ủi ông ấy:

- Trải qua đường xa chắc ông mệt mỏi lắm?

Lăo đáp:

- Tôi từ xa đến, toàn thân đau nhức và rất đói khát, đức thơm của thái tử lan tỏa khắp, nơi nơi đều ca tụng, lồng lộng chiếu xa như Thái sơn, Thiên thần, Địa kỳ, ai mà không vui mừng. V́ thế nên nay từ xa đến, t́m chỗ nương cho sự nghèo cùng, ngơ hầu kéo dài mạng sống nhỏ nhoi.

Thái tử áy náy đáp:

- Tôi không tiếc với ông ǵ cả, nhưng của cải đều hết rồi.

Phạm chí nói:

- Có thể đem hai đứa trẻ cấp dưỡng cho già này.

Thái tử đáp:

- Ông từ xa đến đây xin hai đứa trẻ, ắt không trái ư.

Thái tử lớn tiếng gọi con. Anh em chúng sợ quá nên nói với nhau:

- Cha ta gọi t́m, ắt là đem cho quỷ đấy!

Chúng trái lệnh không lên tiếng. Biết chúng ẩn núp trong hố kia, thái tử bèn giở củi ra thấy chúng. Hai đứa trẻ vội chạy ra ôm 1ấy cha, run bần bật, khóc lóc. Chúng vừa nức  nở vừa nói:

- Đó là quỷ chứ không phải Phạm chí đâu. Con mấy lần thấy Phạm chí rồi, nhưng chưa thấy thứ người nào mặt mày như vậy cả. Cha đừng đem chúng con cho quỷ ăn thịt. Mẹ ơi! Sao mẹ hái quả về chậm thế, hôm nay nhất định là bị quỷ nuốt rồi. Mẹ về t́m con, như trâu mẹ t́m trâu nghé, thương xót chạy như điên dại, nhất định cha sẽ hối hận cho mà xem.

Thái tử nói:

- Ta từ lúc làm chuyện bố thí, chưa hề có chút hối hận. Cha đă hứa rồi, các con không được trái lời.

Phạm chí nói:

- Ngài đă lấy ḷng Từ rộng khắp mà cho tôi, nếu để mẹ các cháu về ắt làm hỏng ân lớn của ngài, mà cũng trái với bản nguyện của tôi, chi bằng sớm đem đi th́ hơn.

Thái tử nói:

- Ông cầu xin trẻ nên từ xa t́m đến, tôi nhất định không dám trái, vậy hăy mau đi đi.

Rồi thái tử tay phải rót nước rửa tay cho Phạm chí, tay trái dắt con giao cho lăo ta.

Phạm chí nói:

- Tôi già yếu, nếu hai trẻ chạy trốn về nơi chỗ mẹ chúng th́ tôi làm sao bắt được? Thái tử rộng cho xin hăy trói chúng lại rồi mới trao cho tôi.

Thái tử giữ hai con để cho Phạm chí trói lại, tự tay nắm mối dây, hai đứa trẻ lăn ra đất, vật vă trước mặt cha, nức nở gào kêu mẹ:

- Thiên thần địa kỳ, các Thần núi rừng, xin hăy một lượt thúc gọi ḷng dạ mẹ con: "Hai trẻ đă bị đem cho người rồi, phải mau bỏ việc hái hoa quả kia để được một lần gặp gỡ!"

Ai oán cảm động cả trời đất, thần núi xót thương tạo nên tiếng vang như sấm động. Người mẹ lúc này đang hái trái, thấy ḷng bỗng nôn nao, ngước nh́n trời xanh không thấy mây mưa, mắt bên phải máy động, nách bên trái ngứa ngáy, hai vú sữa chảy ra liên tục. Người mẹ nghĩ: "Điều này lạ quá! Ta c̣n hái quả làm chi, phải mau trở về xem thử con ta có chuyện ǵ chăng?"

Rồi bà bỏ việc hái quả, vội vàng quay về, bàng hoàng như cuồng dại. Đế Thích nghĩ: "Bồ-tát chí cao cả, muốn hoàn thành trách nhiệm nặng nề của lời thệ nguyện sâu rộng ấy, nếu vợ về đến th́ sẽ hủy hoại chí cao kia". Bèn hóa ra sư tử ngồi lù lù ngang giữa đường đi. Người vợ nói:

- Ngươi là chúa trong loà i thú, ta cũng là con vua của loài người, đều ở trong núi này. Ta có hai đứa con hăy c̣n thơ dại, sáng giờ chưa ă  ǵ đang mong ta về

Sư tử tránh đi, người vợ lên đường. Rồi trời lại hóa cọp… đợi cho Phạm chi đi xa rồi mới chịu lui. Người vợ trở về, thấy thái tử ngồi một ḿnh, nàng buồn bă, sợ hăi hỏi:

- Con ta đâu rồi mà chàng ngồi một ḿnh? Hai con thường ngóng trông thần thiếp hái quả về là chạy a vào người thiếp, nằm lăn ra đất, rồi lại đứng dậy, nhảy nhót vui cười nói rằng mẹ đă về, con đói được no! Nay sao không thấy chúng, hay đă đem cho người nào rồi? Khi thiếp ngồi th́ con đứng, đứa bên phải, đứa bên trái, thấy ḿnh thiếp lấm bụi chúng tranh nhau phủi sạch. Nay con không thấy lại chỗ mẹ, cũng chẳng thấy đâu cả, hay chàng đă đem cho ai sao? Hăy mau nói ra cho thiếp biết. Cầu cúng trời đất, thật t́nh khó nói, chàng cho cả đến con hiền nối dơi! Nay đồ chơi của con, nào voi ngựa, trâu, heo... bằng đất và các vật khác ngổn ngang trên mặt đất này, thấy mà thương tâm, thiếp đến phát cuồng mất. Chàng đă đem con làm mồi cho cọp, sói, quỷ quái, đạo tặc nuốt rồi sao? Hăy mau cởi mở gút mắc này, nếu không thiếp chẳng thể sống nổi!

Thái tử hồi lâu mới lên tiếng:

- Có một Phạm chí từ xa đến xin hai con. ông ta nói là tuổi già sức yếu muốn có người giúp đỡ nên tôi đem chúng cho ông ấy rồi.

Người vợ nghe nói thế, xúc động lăn ra đất, vật vă, khóc thương, nước mắt đầm đ́a, nói:

- Thật đúng như ta đă thấy trong giấc mộng. Một đêm thiếp nằm mơ thấy một Phạm chí già nghèo túng, quẫn bách đến cắt hai vú của thiếp rồi mang chạy đi mất. Th́ ra chính là chuyện hôm nay đây!

Rồi bà khóc lóc kêu trời, vang động cả một vùng núi:

- Con ta đă như thế, biết đâu mà t́m!

Thái tử thấy vợ buồn thương quá thảm thiết bèn gọi, bảo:

- Ta vốn cùng nàng đă thề tuân giữ nẻo hiếu cao rộng, chí ta theo đạo lớn cứu giúp chúng sinh, nên họ xin ǵ ta cho nấy. Lời thề đă rơ ràng, mà nay sao nàng quá buồn thương làm loạn tâm ta?

Vợ nói:

- Thái tử cầu đạo, phải khó nhọc đến thế sao! Phàm kẻ sĩ sống nơi gia đ́nh, đều quư trọng vợ con, ai ai cũng vậy. Huống chi là bậc được mọi người tôn kính. Rồi nguyện: "Xin cho cầu ǵ được nấy như Bậc Nhất Thiết Trí".

Đế Thích và chư Thiên cùng bàn với nhau:

- Đạo bố thí của thái tử rộng lớn vô cùng, chúng ta nên thử thách đến vợ, xem ḷng ngài thế nào?

Rồi Đế Thích hóa thành vị Phạm chí đến trước thái tử thưa:

- Nghe ngài mang ḷng nhân từ như trời đất, tế độ khắp quần sinh, bố thí không trái ư người xin, nên đến nhờ cậy. Đức hiền trinh của vợ ngài thơm tỏa lan xa nên tôi đến xin bà, chắc ngài chịu cho chứ?

Thái tử đáp:

- Rất tốt.

Rồi thái tử tay phải rót nước rửa tay cho Phạm chí, tay trái dắt vợ. Khi vừa muốn trao cho ông ấy th́ chư Thiên ca ngợi, không ai là không khen hay. Trời đất bỗng nhiên chấn động mạnh, người quỷ đều kinh hăi. Phạm chí nói:

- Thôi ta không nhận đâu.

Thái tử hỏi:

- Người vợ này há có ǵ xấu sao? Mọi cái xấu của đàn bà người này đều không có, c̣n về lễ nghĩa của phái nữ th́ người này đứng đầu, đầy đủ. Hơn nữa, vua cha nàng chỉ có một người con gái này thôi. Nàng đă hết ḷng theo lễ thờ chồng, không nề hà chuyện lầm than khổ cực. Ăn mặc thú vui, không hề đ̣i hỏi ngon đẹp; siêng năng khỏe khoắn, nhan sắc hơn người. Ông nên nhận cho tôi vui ḷng, đó là cách tốt nhất để dứt mọi bận lo về sau.

Phạm chí nói:

- Vợ ngài hiền đức đúng như lời vừa nói, tôi xin kính nhận lấy, rồi đem gởi lại cho ngài không được đem cho người khác.

Rồi trời lại nói tiếp:

- Ta là trời Đế Thích, không phải là người thế tục, đến là để thử thách ngài. Ngài chuộng trí tuệ giác ngộ của Phật, h́nh bóng phép tắc ấy khó ai sánh .được. Nay ngài muốn nguyện ǵ, cứ mặc sức xin, sẽ được như ư.

Thái tử nói:

- Tôi nguyện được giàu lớn, thường ưa bố thí, không hề tham lam hơn cả hiện nay. Xin khiến phụ vương tôi và quần thần, dân chúng trong nước nghĩ đến việc gặp nhau.

Trời Đế Thích nói:

- Tốt.

Ngay khi đó liền biến mất.

Nói về lăo Phạm chí xin được hai đưa trẻ kia, mừng được như ư nên đi không biết mệt, lôi dẫn hai trẻ v́ sắp được thỏa ước nguyện sai khiến. Hai đứa trẻ này vốn con cháu hàng vương giả, giàu sướng tự do, nay phải rời cha mẹ, bị dây trói buộc, khắp ḿnh thương tích, thường khóc gọi mẹ, nhưng sợ đ̣n roi nên phải chạy theo lăo già. Nhân lúc Phạm chí ngủ, hai trẻ bèn chạy trốn, tự ngâm ḿnh trong ao, lấy lá sen cỏ nhược phủ lên, trùng nước bám đầy nơi thân. Phạm chí tỉnh dậy đi t́m được hai trẻ, dùng gậy đánh chúng dọc ngang khắp thân thể, máu chảy đỏ đất. Thiên thần thương xót nên mở dây, trị lành thương tích, làm ra quả ngọt, khiến đất trên đường đi mềm mại, anh em hái quả trao cho nhau ăn, cùng bảo:

- Vị ngọt trái này khác nào trái trong vườn vua, đất đây mềm mại giống như nệm bông của vua.

Anh em ôm nhau ngước lên trời gọi mẹ, khóc than nước mắt ướt cả thân ḿnh. Chỗ Phạm chí đi th́ đất ấy gập gềnh, đầy những sỏi đá gai góc... thân và chân hắn giẫm phải, gây lở lói đau đớn. C̣n nếu thấy trái cây th́ toàn là đắng hoặc cay. Phạm chí trở nên gầy ốm, da bọc lấy xương, c̣n hai đứa trẻ th́ da dẻ hồng hào, nhan sắc trở lại như trước. Khi về tới nhà, Phạm chí hí hửng nói với vợ:

- Ta v́ nàng xin được hai đứa nô tỳ, từ đây tha hồ sai khiến.

Người vợ nh́n bọn trẻ, nói:

- Nô tỳ không phải thế! Hai đứa trẻ này đoan chánh, chân tay mềm mại, không làm được việc nặng nhọc, mau đem ra chợ bán đi rồi mua lại đứa khác để sai bảo.

Lại bị vợ sai khiến, lăo định sang nước khác để bán hai đứa trẻ. Nhưng trời làm lộn đường, mới trở lại nước cũ. Dân chúng nhận biết ngay, đều nói:

- Đó là con của thái tử, cháu của đại vương đấy.

Họ nghẹn ngào chạy đến cửa cung tâu lên. Vua cho gọi Phạm chí đem hai trẻ vào cung. Cung nhân lớn nhỏ ai ai cũng sục sùi. Nhà vua gọi chúng lại muốn bồng, hai trẻ không đến, Nhà vua hỏi tại sao? Đứa trẻ trai thưa:

- Xưa là cháu vua, nay là nô tỳ. Kẻ nô tỳ hạ tiện sao dám ngồi trên gối vua được?

Vua hỏi Phạm chí:

- Ngươi hăy nói rơ, do đâu mà có hai đứa trẻ này?

Phạm chí cứ như sự việc cũ tŕnh bày. Nhà vua hỏi:

- Bán trẻ được bao nhiêu tiền?

Phạm chí chưa kịp đáp th́ đứa cháu trai đă vội cất tiếng nói:

- Con trai giá một ngàn đồng bạc, trâu đực một trăm con. Con gái th́ giá hai ngàn đồng vàng, trâu cái hai trăm con.

Nhà vua hỏi:

- Con trai lớn hơn mà giá thấp, con gái nhỏ hơn mà giá cao, v́ duyên cớ ǵ vậy?

Đứa bé đáp:

- Thái tử vừa là bậc Thánh vừa có ḷng nhân từ, bố thí thấm nhuần khắp cả trời đất, thiên hạ vui mừng, nhờ cậy y như con trẻ nương vào cha mẹ. Ông ấy đă đạt được nẻo sáng chói tốt đẹp cho thiên hạ mà bị lưu đày nơi núi đầm xa xôi, làm bạn với cọp sói, độc trùng, ăn trái cây, mặc áo cỏ, mưa gió sấm sét luôn đe dọa con người, quả là thứ tệ mạt cùng loại với cỏ rác! Nh́n thấy sự ruồng bỏ nà  đủ bi t con tra  gi  thấp. C̣  con gá  củ a thứ dân có chút nhan sắc th́ được đem vào cung, nằm th́ đệm lông, đắp th́ trướng báu, mặc th́ áo quần nổi tiếng trong thiên hạ, ăn đều là những món của thiên hạ cống dâng. Xem đó th́ biết con gái đắt giá hơn.

Nhà vua nói:

- Trẻ con mới tám tuổi mà đă có cách lư luận của bậc cao sĩ, huống chi là cha nó!

Cung nhân lớn nhỏ nghe cháu vua nói lời bóng gió như vậy, không ai mà không thương xót. Phạm chí nói:

- Tôi xin bán bọn trẻ giá một ngàn đồng bạc, trâu đực trâu cái mỗi thứ một trăm con. Đúng như vậy th́ tốt, bằng không th́ thôi.

Nhà vua nói:

- Được.

Rồi vua liền ban cho đủ số đó. Phạm chí lui ra. Vua ẵm hai cháu đặt lên gối ḿnh rồi hỏi:

- Lúc trước cháu không đến đây, sao bây giờ đến mau vậy?

Thưa:

- Lúc trước cháu là nô tỳ, c̣n bây giờ là cháu vua.

Vua hỏi:

- Cha cháu ở trong núi tự kiếm ăn ra sao?

Hai trẻ đáp:

- Tự sống được là nhờ rau cỏ và trái cây. Ngày ngày vui với muông thú, chim chóc, ḷng không vướng bận chút buồn lo.

Nhà vua sai sứ đi đón thái tử về. Sứ giả lên đường.

Bấy giờ trong núi cây cối đều cúi xuống ngẩng lên, co duỗi tợ như quỳ lại làm lễ. Hàng trăm loài chim hót bi ai làm cảm động ḷ ng người. Thái tử nói:

- Điềm ứng ǵ đây?

Người vợ nằm dưới đất nói:

- Ḷng của phụ vương đă cởi mở, cho sứ đến đón chúng ta về! Thần đất rất vui, nên khởi lên điềm như thế.

Từ khi mất con, vợ thái tử cứ nằm măi dưới đất. Khi sứ giả đến, mới đứng dậy bái mệnh vua. Sứ giả nói:

- Vua cùng hoàng hậu bỏ ăn, nuốt lệ, thân mạng ngày một suy yếu, nhớ trông mong gặp thái tử.

Thái tử quay người nh́n khắp bốn phía, quyến luyến cảnh cây cối suối nước nơi núi rừng, gạt nước mắt mà bước lên xe.

Từ lúc sứ giả ra đi, cả nước vui mừng, quét dọn đường sá sạch sẽ, treo sẵn trướng màn, đốt hương, tung hô, tấu kỷ nhạc, giăng treo cờ đẹp lọng quư… Cả nước kéo nhau đi chúc thọ đông nhiều vô kể. Thái tử vào thành dập đầu tạ lỗi, rồi lui ra an ủi hỏi han mọi người. Nhà vua lại đem kho báu của nước giao cho thái tử, khuyến khích ngài bố thí. Dân chúng nghèo khó của các nước láng giềng đầu đuôi quy thuận như các ḍng sông đổ về biển cả. Những thù oán cũ đều tiêu tan, thảy đến triều bái dưng biểu xưng thần, vâng lệnh hiến cống. Giặc cướp chuộng nhân từ, trộm cắp đua nhau bố thí, đao binh cất vào kho, nhà tù được dẹp bỏ, muôn loài măi an lạc, mười phương đều khen ngợi  tích đức không ngừng, nên đạt được đạo Chánh chân vô sở trước của Như Lai, là đạo Chánh giác tối thượng, một ḿnh qua lại ba cơi, làm vua của các bậc Thánh.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

- Ta nhận lấy trách nhiệm nặng nề của chư Phật, thề cứu giúp muôn loài, tuy phải chịu nhiều cực khổ, nay mới làm bậc tôn quư, dứt mọi sự ngăn che.

Thái tử sau khi chết sinh lên cơi trời Đâu-suất. Từ cơi ấy, hạ sinh nơi cung vua Bạch Tịnh, nay là thân ta. C̣n phụ vương lúc đó là A-nan, người vợ nay là Câu-di, con trai là La-vân, con gái là mẹ của A-la-hán Châu Tŕ, trời Đế Thích là Đức Di-lặc, thợ săn là Ưu-đà-da, đạo sĩ A-châu-đà là Đại Ca-diếp, người Phạm chí bán trẻ con là Điều-đạt, vợ Phạm chí ấy nay là vợ của Điều-đạt, tên là Chiên-già.

Thân mạng ta từ xưa đến nay luôn chuyên cần, thọ khổ không lường, nhưng trọn không hề sợ hăi mà trái với lời thề lớn, đem pháp bố thí v́ các đệ tử mà thuyết giảng rơ.

Bồ-tát từ bi thi ân, tu hạnh Độ vô cực, đă thực hành bố thí như vậy.

KINH LỤC ĐỘ TẬP

Q1    Q2    Q3    Q4    Q5    Q6    Q7    Q8

KINH LỤC ĐỘ TẬP

Hán Dịch: Đời Đông Ngô, Sư-Môn Khương Tăng Hội, Người Nước Khương Cư.

Việt Dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 3

Chương I: BỐ THÍ ĐỘ VÔ CỰC (tt)

15-  Nghe như vầy:

        Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

        -Thuở xưa có vị quốc vương hiệu là Ḥa Mặc. Nhà vua thi hành chính sách nhân từ, b́nh đẳng, thương dân như con, theo đúng pháp trị nước, nên dân chúng không hờn oán. Đất nước ấy rất rộng lớn, nhiều quận, huyện, mọi xứ đều sung túc, ngũ cốc được mùa, trong nước không có thiên tai độc hại, con người sống đến tám vạn tuổi. Ḥa Mặc là bậc vua Thánh, mệnh lệnh luôn rơ ràng, Hoàng hậu, quư nhân, bá quan, người hầu... đều phải chấp hành đúng kỷ cương của phận làm tôi, đem chánh pháp dạy cho bộ phận của ḿnh quản lư. Nhà vua thường thể hiện tâm từ, thương tưởng chúng sinh, buồn cho họ v́ ngu mê điên đảo để tự đọa lạc, nên dốc t́m giữ nguồn đạo, thương yêu cứu giúp, muôn loài như trời Đế Thích. Tâm sát sinh, trộm cấp, dâm dật, nói hai lưỡi, nói lời độc dữ, nói dối, nói thêu dệt, ganh ghét, sân hận, ngu si... những điều hung ác như thế không c̣n. Hiếu thuận với cha mẹ, kính yêu tộc họ, t́m theo người hiền, quư trọng bậc Thánh, tin Phật, tin Pháp, tin theo lời dạy của bậc Sa-môn, tin làm lành th́ được phước, làm ác th́ bị họa, lấy mười điều thiện-trumg chánh ấy làm pháp sáng, tự ḿnh chấp hành. Ngoài ra, c̣n ban lệnh từ hoàng hậu, cung phi xuống đến tiện thiếp, đều khiến tuân theo, cùng nhau làm điều lành, bố cáo cho thần dân lớn nhỏ khắp bôn trấn mang đọc, ḷng ghi nhớ để tu tập.

        Bấy giờ, trong nước có một người nghèo khổ không chịu nổi cảnh khôn cùng, chẳng c̣n kế ǵ nên đi ăn trộm, người chủ tóm được đem đến tâu vua. Nhà vua hỏi:

        -Ngươi ăn trộm phải không?

        Kẻ trộm tâu:

        -Quả thật là con ăn trộm!

        Vua hỏi:

        -V́ sao ngươi đi ăn trộm?

        Kẻ trộm thưa:

        -Con thật quá cùng khốn, không có ǵ để nuôi thân, đành trái phép sáng của bậc Thánh, đạp lửa mà đi ăn trộm.

        Nhà vua thương xót kẻ ấy, khen là thành thật, nhưng trong ḷng cảm thấy hổ thẹn, bèn than dài:

        -Dân đói tức là ta đói, dân lạnh tức như ta không có ǵ để chethân.

        Lại nói:

        -Thế lực của ta có thể làm cho nước không c̣n người nghèo. Cái khổ, cái vui của dân đều do nơi ta mà thôi.

        Nhà vua liền đại xá cho cả nước, lệnh xuất châu báu trong kho bố thí cho kẻ nghèo thiếu, người đói khát liền được ăn uống, người rét được áo, kẻ bệnh được cấp thuốc men, ruộng vườn, nhà cửa, vàng bạc, châu báu, xe ngựa, trâu tiền. Vua cứ cho theo ư của dân xin. Các loài chim bay, thú chạy, cho tới côn trùng, cả đến ngũ cốc, cỏ cây cũng theo sở thích của chúng.

        Từ khi nhà vua thực hành bố thí th́ nước mạnh, dân giàu, cùng thúc đẩy nhau giữ đạo. Dân không có người sát sinh, trộm cắp của người khác, gian dâm đối với phụ nữ, nói hai lưỡi, nói lời ác, nói dối, nói lời thêu dệt, ganh ghét, sân hận, ngu si. Ḷng hung ác, ngu muội lặng lẽ tiêu mất. Nhân dân đều tin Phật, tin Pháp, tin Sa-môn, tin làm lành được phước, làm ác bị họa. cả nước đều vui, roi gậy không thi hành, kẻ cừu địch đến xưng thần, dụng cụ chiến tranh mục nát trong kho, lao ngục không c̣n nhốt tù nhân, dân chúng đều khen hay:

        -Ta sinh ra gặp thời!

        Trời, Rồng, Quỷ thần đều vui vẻ giúp đỡ, ủng hộ đất nước ấy. Độc hại tiêu sạch, năm thứ lúa thóc được mùa, nhà nhà có dư. Ḷng vua riêng vui mừng liền được năm phước là:

        1. Sống lâu.

        2. Sắc diện ngày một thêm đẹp đẽ.

        3. Đức độ vang đến mọi chôn mọi nơi.

        4. Không bệnh hoạn, khí lực ngày một tăng.

        5. Bốn cơi luôn an ổn, ḷng thường vui vẻ.

    Nhà vua khi lâm chung vẫn như một người cường tráng, ăn no, nằm an tĩnh chốc lát được sinh lên cơi trời Đao-lợi. Dân chúng trong nước đều vâng giữ mười giới của vua ban dạy, khi mạng chung đều được sinh lên cơi trời, không bị đọa vào ba đường ác: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

Đức Phật bảo các vị Sa-môn:

        -Vua Ḥa Mặc thời đó là thân Ta.

        Các vị Sa-môn nghe kinh xong đều rất hoan hỷ, lễ Phật và luira.       

* *

16- Phật Nói Kinh Tứ Tánh.

        Nghe như vầy:

        -Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ. Lúc ấy, nhà của Tứ tánh gặp phải tai ương từ kiếp trước, nên nghèo túng khôn cùng, mặc áo cỏ, nằm chiếu rơm, cháo rau qua ngày. Tuy là nghèo cực, nhưng chân không bước tới nhà kẻ vô đạo, tay không cầm lấy vật của người vô đạo cho, chí hạnh trong sạch, các thứ tà vọng không thể làm ô nhiễm ḷng ḿnh. Sáng học, chiều giảng kinh, giới không ngớt nơi miệng, được Đức Thế Tôn khen ngợi, các bậc trí cung kính. Tuy áo cơm không đủ nuôi thân miệng, nhưng luôn cúng dường Thánh chúng, tùy theo khả năng của gia đ́nh, dù chỉ là cháo rau, chiếu cỏ, cũng không một ngày thiếu vắng. Các vị Sa-môn nói:

        -Gia đ́nh Tứ tánh nghèo khốn, thường lộ vẻ thiếu đói, chúng ta không nên thọ nhận vật cúng dường của ông. Trong kinh nói: “Bậc Sa-môn một ḷng giữ điều chân chánh, giới đủ, hạnh cao, chí như vàng quư, không trọng tài sắc, chỉ có kinh điển là vật báu, dứt tuyệt sáu thứ đói, nên thề xuất gia. Vậy c̣n xấu hổ ǵ v́ việc xin ăn mà không đi ư?”

        Rồi cùng nhau đi đến chỗ Đức Phật, thuật rơ đầu đuôi. Đức Thế Tôn im lặng.

        Hôm sau, Tứ tánh tự thân đến tịnh xá, cúi đầu lễ Phật xong, ngồi sang một bên. Đức Phật nghĩ tới lời thưa của các vị Sa-môn hôm trước, nên hỏi Tứ tánh:

        -Hằng ngày ông đem ḷng Từ bố thí, cúng dường các Tỳ-kheo phải không?

        Đáp:

        -Thưa vâng! Gia đ́nh con hàng ngày cúng dường, chỉ hiềm một nỗi nhà nghèo, chỉ có rau cháo, chiếu cỏ, làm cực nhọc các vị Thánh hiền, nên lấy làm áy náy.

        Đức Thế Tôn nói:

        -Hạnh bố thí cốt ở bốn ư: ḷng Từ hướng về người thọ thí, ḷng Bi luôn thương xót họ, ḷng Hỷ khi thấy họ có được những thành tựu, ḷng Hộ (Xả) luôn cứu giúp chúng sinh, th́ dù là bố thí ít ỏi, nhưng phước đức sau này thường được sinh vào hai đường trời, người, mọi sở nguyện sẽ luôn như ư. Mắt nh́n sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, miệng nếm vị, thân mặc quần áo tốt, tất cả vui vẻ thỏa ḷng, không sợ thiếu thốn. Nếu bố thí lắm thứ, nhiều đồ mà ḷng không vui th́ sau này được phước, phước ấy cũng mỏng manh. Dù được ngôi quan bảy báu vẫn thấy không đủ sang. Ở trong phước mộng ấy mà ḷng lại tham lam keo kiệt, chẳng dám ăn mặc, lo sợ ngay ngáy, chưa từng được vui vẻ, bụng đói, thân lạnh chẳng khác ǵ người ăn xin, sống dở chết dở, không có được chút phước lành để tự giúp ḿnh. Nếu bố thí mà ḷng tốt không thành khẩn, kiêu ngạo, tự thị, thân không cung kính, chỉ cốt cầu danh để tiếng tăm ḿnh được vang xa, th́ sau cũng có ít của cải, người đời chỉ xưng tụng suông, cho là ức triệu, ḷng lo sợ cướp đoạt, áo thường thô mỏng, ăn chưa từng nếm món ngon cũng là sống uổng chết không.

        Các Tỳ-kheo chưa từng bước đến nhà, kẻ ấy vốn xa ĺa ba ngôi báu, luôn gần đường ác. Nếu ai đem các vật tốt bố thí dùng bốn Đẳng tâm kính dâng, tự tay san sẻ đặt bày, luôn ghi nhớ Tam bảo, cầu nguyện cho chúng sinh sống được gặp Phật, chết được sinh lên cơi trời, khổ độc tiêu trừ, đời sau sinh ra không cầu mong ǵ mà không đạt được: gặp Phật, sinh lên cơi trời, ắt được như chí nguyện.

(Chương này trong bản khác xếp ở sau kinh Vua Tát-hóa-đàn)

* *

17-  Xưa có vị Phạm chí tên là Duy Lam, ngôi cao, sang quư, làm Phi hành hoàng đế, của cải nhiều không thể tính kể, tánh ưa bố thí, đem cả con gái sắc đẹp nổi tiếng, phục sức rực rỡ bố thí chongười. Bát vàng đựng đầy gạo bạc, bát bạc đựng đầy gạovàng, chậu giặt, thau rửa, mâm đựng đồ đều làm bằng bốn thứ báu.Trong đỉnh làm bằng vàng bạc dùng đựng đồ ăn có đến trăm vị. Trâu danh tiếng sông Tần đều lấy vàng ṛng che phủ kín. Mỗi contrâu ấy mỗi ngày cho ra bốn thăng sữa, trâu nghé theo sau. Áo báu dệt thành đính đầy ngọc minh châu. Giường ghế, mùng màn, làmbằng vàng bạc, chuỗi báu giăng treo lóa mắt. Voi quư, ngựa tốt, yên cương đều treo đầy cấc châu báu. Các xe có tàng hoa che, chỗ ngồi phủ da cọp, hoa văn, chạm trổ đẹp đẽ muôn phần. Từ con gáiđẹp nổi tiếng cho tới xe báu, những thứ như thế, mỗi loại có đến một ngàn không  trăm tám mươi bốn cái, tất cả đều đem bố thí cho người. 

        Duy Lam từ bi thi ân khắp tám phương, trên dưới. Trời, Rồng, Thiên thần không ai là không hoan hỷ trợ giúp.

        Như Phạm chí Duy Lam bố thí để cứu giúp dân nghèo, suốt cả một đời, không ngày nào ngừng nghỉ, cũng không bằng một ngày dâng cơm cho một nữ thanh tín thọ tŕ đủ giới luật. Phước bố thí đó hơn phước kia không thể tính kể.

        Lại bố thí cho một trăm vị thanh tín nữ như trên, không bằng dâng một bữa cơm cho một vị thanh tín nam đầy đủ giới đức. Dâng Cúng cơm cho một trăm thanh tín nam đầy đủ giới đức, không bằng dâng một bữa cơm cho một Tỳ-kheo-ni đầy đủ giới đức. Bố thí cho một trăm vị Tỳ-kheo-ni đầy đủ giới đức, không bằng dâng một bữa cơm cho một vị Sa-di cao hạnh. Cúng dường một trăm vị Sa-di cao hạnh, không bằng cúng dường cho một vị Sa-môn đầy đủ giới hạnh, tâm không uế trược, trong ngoài đều thanh khiết. Người phàm phu như gạch đá, c̣n các bậc cao hạnh, đầy đủ giới đức th́ như ngọcbáu minh nguyệt. Ngói đá đầy khắp bốn châu thiên hạ chẳng bằng một viên trân châu.

        Lại như Duy Lam, bố thí cúng dường cho nhiều vị đầy đủ giới hạnh, cũng không bằng cúng dường cho một vị Câu cảng (Tu-đà- hoàn). Cúng dường cho một trăm vị Câu cảng, không bằng cúng dường cho một vị Tần lai (Tư-đà-hàm). Cúng dường cho một trăm vị Tần lai, không bằng cúng dường cho một vị Bất hoàn (A-na-hàm). Cúng dường một trăm vị Bất hoàn không bằng cúng dường một vị ứng chân (A-la-hán).

        Lại như Duy Lam, trước bố thí và dâng cơm cho các bậc Hiền thánh, không bằng hiếu thảo phụng dưỡng cha mẹ. Con hiếu thảo luôn dốc hết ḷng phụng dưỡng, không chút riêng tư. Trăm đời hiếu thuận với cha mẹ, không bằng cúng dường cơm cho một vị Bích-chi- phật. Cúng dường cho một trăm vị Bích-chi-phật, không bằng cúng dường cơm cho một vị Phật. Cúng dường một trăm Đức Phật không bằng tạo lập một ngôi chùa, giữ tam quy là quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Thể hiện trọn ḷng nhân từ, không sát sinh; giữ trong sạch không trộm cắp; giữ trinh tiết không xâm phạm vợ của người khác; phụng tŕ chữ tín không lừa gạt, hiếu thuận nên không say sưa. Thọ tŕ năm giới, hằng tháng ăn sáu ngày chay, th́ công đức cao ṿi vọi, hơn hẳn Duy Lam bố thí vạn thứ quư giá cùng dâng cúng cơm các bậc Hiền thánh như đă nêu trên, phước đức ấy thật khó tính kể. Công đức tŕ giới không bằng dùng bốn Tâm vô lượng thương xót nuôi dưỡng chúng sinh, phước đức ấy là không cùng tận. Tuy là cháo rau, chiếu cỏ, mà giữ ǵn Tam quy, ḷng mang bốn Tâm vô lượng, thọ tŕ năm giới, th́ núi cao, biển rộng c̣n đo lường được chứ phước đức ấy khó tính toán nổi.

        Đức Phật bảo ông Tứ tánh:

        -Phạm chí Duy Lam ngày ấy chính là thân Ta đó.

        Tứ tánh nghe kinh, ḷng rất vui mừng, lễ Phật rồi ra về.

* *

18-  Thuở xưa, Bồ-tát làm thân nai chúa, thân h́nh cao lớn, lông có năm màu, móng sừng đẹp lạ, hàng ngàn nai khác phục tùng đi theo từng bầy.

        Một hôm, quốc vương nước ấy đi săn, bầy nai bị phân tán, con th́ lao vào hang núi, con th́ rớt xuống vực sâu, húc vào cây, đâm vào gai, da nát xương găy, tử thương và bị giết không ít. Nai chúa thây thế, nghẹn ngào nghĩ: “Ta là trưởng đàn, đáng lẽ phải sáng suốt chọn đường đất mà đi kiếm ăn. Chỉ v́ cỏ non mà quanh quẩn ở đây, làm cho lũ nhỏ bị tiêu tán, lỗi này tại ta”. Rồi nai chúa theo đường tắt, tự đi vào thành. Người trong nước thấy nó đều nói:

        -Vua ta có đức chí nhân, khiến nai thần đến tận triều.

        V́ cho là điềm lành của đất nước, không ai dám động tới nai chúa nên nai chúa mới đến được trước điện vua, quỳ xuống tâu:

        -Loài thú nhỏ tham sông, gởi thân nơi đất nước ngài, bởi gặp thợ săn, loài vật chúng tôi chạy trốn, hoặc sống th́ lạc nhau, hoặc chết th́ la liệt. Ḷng nhân của trời luôn thương yêu loài vật, thật đáng buồn đau. Chúng tôi tự chọn mỗi ngày dâng nạp thái quan, xin cho biết số lượng, không đám dối gạt.

        Nhà vua lấy làm lạ, đáp:

        -Thái quan dùng một ngày không quá một con. Ta không biết các ngươi bị tử thương quá nhiều. Nếu quả thật như lời ngươi nói, th́ ta thề không đi săn nữa.

        Nai chúa về họp cả bầy nai, nói hết ư ấy, chỉ rồ chỗ họa phước. Cả bầy nai nghe rồi đều phục tùng, tự phân thứ tự, con nào phải đi trước. Mỗi khi con nào sắp đi chịu chết đều đến từ biệt nai chúa, nai chúa đều rơi nước mắt, thương xót dặn ḍ:

        -Sinh ra trên đời đều phải chết, có ai được miễn đâu. Con nên t́m đường niệm Phật, nhân hiếu từ tâm, đối với vua kia, chớ có oán giận.

        Hàng ngày đều như thế cả.

        Một hôm, đến lượt một con nai phải ra đi, mà thân mang thai gần ngày sinh. Nó thưa:

        -Chết tôi không dám trốn tránh, nhưng xin được tạm miễn để sinh con.

        Bèn chọn con kế tiếp để thay, con này dập đầu khóc thưa:

        -Tôi nhất định là phải chết rồi! Nhưng hăy c̣n sống được một ngày một đêm nữa. Dù mạng sống chỉ giây lát, nhưng giờ đến th́ mới không ân hận.

        Nai chúa không nỡ ép uổng các sinh mạng ấy. Rạng ngày, nai chúa bèn trốn đàn, đích thân đến thẳng chỗ thái quan. Người nhà bếp biết được liền tâu lên vua.

        Nhà vua hỏi duyên cớ, nai chúa đem sự việc như trên đáp lại. Nhà vua bùi ngùi thương xót, rơi nước mắt: Há có loài thú mà mang ḷng nhân từ như trời đất, giết thân ḿnh để cứu cả đàn, đi theo hạnh từ bi rộng lớn của cổ nhân. C̣n ta là vua của con người, hàng ngày giết bao mạng chúng sinh chỉ để béo tốt cho thân ḿnh! Ta ưa nẻo hung ngược, chuộng nết của loài sài lang sao! Loài thú mà làm điều nhân từ như thế là tôn phụng cái đức hiếu sinh của trời.

        Nhà vua bảo nai chú trở về chỗ cũ, rồi hạ lệnh cho cả nước, nếu có người xâm phạm đến loài nai th́ coi đồng với tội giết người. Từ đó về sau vua và quần thần đều cải hóa, dân chúng tuân theo nẻo nhân không sát sinh. Ân đức thấm nhuần đến cả cỏ cây, đất nước được thái b́nh.

        Bồ-tát đời đời hy sinh thân ḿnh để cứu giúp muôn vật. Công nên, đức lớn, trở thành bậc Đại hùng tôn quư.

        Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

        -Nai chúa thời đó chính là thân Ta, c̣n quốc vương là Xá-lợi-phất.

        Bồ-tát từ bi thi ân, tu hạnh Độ vô cực, đă thực hành bố thí như thế.

* *

19-  Thuở xưa, Bồ-tát làm thân thiên nga, sinh được ba con. Gặp lúc trời hạn hán, không có ǵ nuôi con, thiên nga mẹ đành rỉa thịt dưới nách để cứu mạng các con. Ba con nghĩ: “Thịt này mùi vị cùng với hơi hướng nơi thân mẹ ta không khác. Không lẽ mẹ đă dùng thịt ḿnh làm đồ ăn cho chúng ta?” Ba con xót xa ḷng đầy bi thương, lại nói:

        -Thà mất mạng chúng ta cứ không thể mất mạng mẹ. Thề rồi chúng ngậm miệng không ăn. Mẹ thấy con không ăn th́ lại rỉa thêm thịt. Thiên thần khen:

        -Mẹ hiền thương cho khó có ai hơn được, c̣n con hiếu kính thật là ít có.

        Rồi chư Thiên giúp đỡ, nguyện xin ǵ đều được thỏa.

        Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

        -Thiên nga mẹ là thân Ta đó, ba con ấy là Xá-lợi-phất, Mục- kiền-liên và A-nan.

        Bồ-tát từ bi thi ân, tu hạnh Độ vô cực, đă thực hành bố thí như vậy.

(Chương này trong bản khác xếp ở sau kinh Duy Lam).

* *

20-  Xưa, Bồ-tát làm chúa Khổng tước, vợ hầu có đến năm trăm, nhưng đă bỏ hết vợ cũ để ham theo cô vợ Thanh tước. Cô Thanh tước này chỉ thích uống nước ngọt và ăn quả ngon. Khổng tước v́ vợ nên ngày ngày phải đi kiếm lấy. Phu nhân của vua nước ấy có bệnh, nằm mơ thấy Khổng tước nói:

        -Thịt nó có thể làm thuốc.

        Thức dậy, bèn tâu lên. Nhà vua liền ra lệnh cho thợ săn mau t́m bắt. Phu nhân nói:

        -Ai bắt được Khổng tước th́ sẽ gả con gái út cho và biếu thêm trăm cân vàng.

        Thợ săn trong nước chia nhau đi t́m khắp. Họ thấy Khổng tước chúa theo Thanh tước ở chỗ thường kiếm ăn, liền lấy mật trộn với lương khô, bôi lên cây ở mọi chốn. Khổng tước bèn lấy đem về cho vợ. Một thợ săn dùng thứ lương khô trộn mật ấy bôi nơi thân ḿnh rồi ngồi đợi. Khổng tước đến lấy thức ăn, người này nhân đó bắt được. Khổng tước nói:

        -Ông đă đốc hết thân ắt là v́ lợi. Tôi sẽ chỉ cho ông cả núi vàng, có thể là của báu vô tận, đổi lại, ông hăy tha mạng cho tôi.

        Người ấy nói:

        -Đại vương hứa cho ta cả trăm cân vàng và gả gái út làm vợ. Ta há tin được lời của ngươi?

        Thợ săn liền đem dâng lên vua. Khổng tước tâu:

        -Nhà vua giữ ḷng nhân, đức ấy đâu đâu cũng thấm nhuần. Xin nghe lời mọn này: “Hăy cho tôi chút nước, tôi sẽ dùng tâm Từ chú nguyện, uống vào là lành bệnh ngay. Nếu không hiệu nghiệm, sẽ xin chịu tội cũng không muộn”.

        Nhà vua thuận theo ư của chim. Phu nhân dùng nước đă chú nguyện của Khổng tước, các bệnh đều khỏi, sắc đẹp rạng rỡ. Cung nhân cũng đều như thế. Cả nước khen vua ḷng nhân từ bao la, xin tha mạng cho Khổng tước để người cả nước được tăng thêm tuổi thọ. Khổng tước nói:

        -Xin được ném thân vào hồ lớn kia để chú nguyện cho nước ở đó, nhằm chữạ bệnh cho dân chúng khắp nước. Nếu có nghi ngờ nguyện vọng này, xin cứ dùng gậy đánh vào thân tôi.

        Nhà vua nói:

        -Được!

        Khổng tước liền chú nguyện nước nơi hồ. Dân chúng uống nước ấy, người điếc được nghe, người mù được thấy, người câm th́ nói được, người gù được thẳng lưng, các bệnh đều lành như thế. Bệnh của phu nhân dứt hẳn, dân cả nước cũng đều dứt tật, không ai có tâm muốn hại Khổng tước. Khổng tước biết rơ điều ấy nên hướng về vua tâu bày:

        -Thọ ân lớn của vua tha mạng, tôi đă cứu mạng cả nước để đền đáp. Việc đă hoàn tất, xin được cáo lui.

        Nhà vua nói:

        -Được.

        Khổng tước liền bay ṿng quanh, rồi đậu lên cây, lại nói:

        -Thiên hạ có ba kẻ ngu si.

        Vua hỏi:

        -Sao gọi là ba?

        Chim đáp:

        -Một là tôi ngu si, hai là thợ săn ngu si, ba là đại vương ngu si.

        Nhà vua xin chim giải thích. Khổng tước nói:

        -Giới trọng của chư Phật cho sắc dục là lửa dữ thiêu đốt thân thể, nguy hại đến tánh mạng đều do đấy. Tôi bỏ sự hầu hạ của năm trăm vợ để ham mê con Thanh tước, phải đi kiếm đồ ăn cung phụng nó như một tên đầy tớ, nên bị thợ săn chăng lưới bắt được, suưt nguy đên tánh mạng. Đó là cái ngu si của tôi. C̣n cái ngu si của người thợ săn là hắn không tin lời nói chí thành của tôi, bỏ cả một núi vàng, vất cả một kho báu vô tận, lại đi tin lời dối gạt sai vạy của phu nhân, hy vọng được cưới con gái út làm vợ. Xem ra người đời cuồng ngu đều cùng một loại như thế cả. Họ bỏ đi lời răn dạy chí thành của Phật, để tin theo sự lừa dối của quỷ mị. Rượu nhạc, dâm loạn, th́ hoặc dẫn đến cái họa phá tan cửa nhà, hoặc sau khi chết bị đọa vào địa ngục Thái sơn, khổ ấy thật vô sô". Nghĩ kỹ lại, làm người như con chim không cánh, mà muốn bay lên trời, há chẳng phải là khó lắm sao! sắc đẹp của dâm nữ dụ dỗ mê hoặc, nên mất nước, hại thân đều từ đó mà ra cả. Vậy mà kẻ ngu trên đời lại tôn thờ nó. Vạn lời của nó không một lời thành thật, thế mà bọn thợ săn tin theo. Ấy là cái ngu si của thợ săn. C̣n đại vương th́ có được thuốc trời trừ hết bệnh cho cả nước, các độc hại đều diệt, sắc diện mọi người như hoa thắm, kẻ lớn, người nhỏ đều hớn hở cậy nhờ. Ấy mà nhà vua lại thả đi. Đó là cái ngu si của đại vương.

        Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

    -Chúa Khổng tước từ đó về sau, đi khắp tám phương, với tấm ḷng lành đem thần dược bố thí, chữa khỏi bệnh tật cho chúng sinh. Chúa Khổng tước chính là thân Ta, quốc vương là Xá-lợi-phất, người thợ săn là Điều-đạt, phu nhân của vua ấy nay là vợ của Điều- đạt.

        Bồ-tát từ bi thi ân, tu hạnh Độ vô cực, đă thực hành bố thí như vậy.

* *

21-  Ngày xưa, có một vị Phạm chí sống đến một trăm hai mươi tuổi, vẫn giữ trinh không cưới vợ, chuyện dâm dục không màng đến, sông tĩnh lặng nơi núi đầm, không Ưa đời phú quư, dùng cỏ tranh làm lều; cỏ bồng, cỏ hoa làm chiếu, uống nước suối, ăn quả rừng, cốt để giữ mạng sống, chí rộng, hạnh cao, thiên hạ đều ca ngợi đức độ. Nhà vua đă từng mời làm tướng quốc, nhưng ông một ḷng v́ đạo không ra làm quan. Ông ở chốn núi đầm này hơn mấy mươi năm, nhân từ trùm khắp, cả loài cầm thú đều được nhờ cậy. Bấy giờ có bốn con thú là cáo, rái cá, vượn và thỏ, hàng ngày chúng cúng dường đạo sĩ và tĩnh tâm nghe kinh. Sự việc trải qua nhiều năm, trái cây nơi núi này dần dần hết cả, đạo sĩ muốn đi t́m nơi khác có nhiều trái cây hơn. Bốn con thú lo buồn, nói:

        -Tuy có kẻ sĩ vinh hoa khắp cả nước, nhưng như nước bẩn đầy cả biển không bằng một thưng, một đấu nước cam lộ. Đạo sĩ đi rồi không c̣n được nghe Thánh điển nữa, chúng ta sẽ bị suy thôi. Vậy mỗi chúng ta phải tùy nghi xoay sở t́m đồ ăn thức uống cúng dường đạo sĩ, thỉnh ngài ở lại núi này để được nghe đại pháp.

        Bọn chúng đều nói:

        -Được.

        Con vượn lănh phần t́m hái quả. Con cáo hóa làm người kiếm được một túi lương khô. Con rái th́ bắt được cá lớn. Ba con đều nói:

        -Số lương thực này có thể cung cấp cho đạo sĩ trọn một tháng. Con thỏ tự nghĩ: “Ta sẽ lấy ǵ để cung cấp cho đạo sĩ đây?”.

        Rồi nó nói:

        -Hễ có sống th́ phải có chết, thân này là đồ mục nát, rồi sẽ bỏ đi, cho vạn kẻ phàm phu ăn không bằng cúng dường cho đạo sĩ một bữa.

        Nó lấy củi nhóm lửa thành than, hướng về đạo sĩ, thưa:

        -Thân con tuy nhỏ, nhưng có thể cung cấp cho ngài được mộtngày.

        Nói rồi, nó liền lao ḿnh vào lửa, nhưng lửa không cháy. Đạo sĩ thây thế, hết sức cảm kích về việc làm của nó, nên khiến như vậy. Chư Phật khen ngợi công đức ấy, Thiên thần đem ḷng lành nuôi dưỡng. Đạo sĩ liền ở lại nơi đó, ngày ngày nói diệu kinh. Bốn con thú tuân theo, thọ nhận lời dạy dỗ.

        Đức Phật bảo các vị Sa-môn:

        -Vị Phạm chí ngày ấy chính là Đức Phật Định Quang, con thỏ là thân Ta, con vượn là Thu Lộ Tử, con cáo là A-nan, c̣n con rái là Mục-kiền-liên.

        Bồ-tát từ bi thi ân, tu hạnh Độ vô cực, đă bố thí như vậy.

* *

22-  Thuở xưa, Bồ-tát là một nhà giàu có, tích chứa của báu ngang với kho tàng cả nước, thường ưa cứu giúp kẻ bần cùng, bố thí cho khắp chúng sinh, nhận tất cả muôn loài nương nhờ như biển cả nhận các ḍng sông.

        Bấy giờ có đứa con người bạn, do hành động phóng đăng, nên cửa nhà tiêu tan. Người nhà giàu thương xót dạy:

        -Lấy đạo lư sống với đời th́ phúc lợi không bao giờ hết. Ta đem ngàn lượng vàng cho con để làm vốn.

        Hắn thưa:

        -Thưa vâng! Con không dám trái lời dạy dỗ sáng suốt.

        Hắn liền đem số vàng ấy làm vốn đi buôn bán. Nhưng hắn vốn tánh hạnh tà hèn, ưa việc quỷ mị, dâm đăng, rượu chè, vui chơi nên của cái đó hết dần, trở lại bần cùng. Do có năm hạnh như thế nên tiền của sạch túi, nghèo cũng hoàn nghèo. Khi đó, ngoài cửa nhà người giàu ấy có con chuột chết trên đống phân, người nhà giàu bèn chỉ cho hắn ta thấy và bảo:

        -Này, kẻ sĩ thông minh với cái thây con chuột chết kia cũng có thể nuôi sống ḿnh và tạo nên sự nghiệp, huống hồ là con có ngàn lượng vàng mà lại cùng khốn sao? Nay ta lại cấp cho con một ngàn lượng vàng nữa.

        Lúc ấy, có một đứa trẻ ăn xin từ xa nghe được lời dạy ấy, ḷng bồi hồi xúc động. Đi xin ăn xong trở lại, nó lấy con chuột chết ấy đem về. Theo lời dạy hay của người nhà giàu, nó xin đủ các thứ gia vị ướp rồi nướng, đem bán được hai tiền. Nó dùng số tiền ấy làm vốn mua bán rau, dần dà có hơn bạc trăm. Từ buôn bán nhỏ trở thành buôn bán lớn, chẳng mấy lúc trở thành người giàu có trong vùng. Lúc rảnh rỗi bèn nhớ lại: “Ta vốn là đứa trẻ ăn xin, nhờ nhân duyên ǵ mà được của này?”. Rồi sực tỉnh ra: nhờ lời dạy hiền thiện của người giàu kia cho một đứa trẻ ương bướng mà ta có được của báu này. Đă thọ ân th́ phải đáp trả mới là người sáng suốt.

        Bèn làm một cái mâm bạc và con chuột bằng vàng, trong bụng chứa đầy các thứ châu báu danh tiếng, dùng lụa phủ lên. Lại đem chuột vàng báu ấy bày lên mâm bạc, bốn bên kết treo các thứ chuỗi ngọc báu và các thứ ngon quư, rồi mang sang lễ nhà giàu kia, thuật rơ lư do, nên nay xin đền đáp ân trời biển nọ. Người nhà giàu nói: Hay thay bậc Trượng phu đă có thể làm theo lời giáo huấn đó!

        Rồi người nhà giàu liền đem con gái gả cho, cả gia sản cũng giao luôn và nói:

        -Con là con cháu của ta, phải thờ Phật, quy y Tam bảo, đem bốn thứ tâm để cứu giúp chúng sinh.

        Anh ta thưa:

        -Con quyết tâm tu theo lời Phật dạy.

        Sau này làm người kế thừa gia thế ấy, cả nước đều khen là người con hiếu đạo.

        Đức Phật bảo các vị Sa-môn:

        -Người nhà giàu là thân Ta. Tên đăng tử kia là Điều-đạt, người nhờ chuột mà trở nên giàu kia là Tỳ-kheo Bàn Đặc. Điều-đạt nhớ tới sáu ức phẩm kinh của Ta, nhưng nói thuận làm nghịch, khi chết bị đọa vào địa ngục Thái sơn. C̣n Tỳ-kheo Bàn Đặc chỉ nhớ làm theo một câu nói của Ta cho đến đổi đời. Ôi! Có nói không làm th́ như mỡ gặp ánh nắng tự hoại. Ây là trí của kẻ tiểu nhân. Lời nói đi đôi với việc làm th́ sáng như mặt trời mặt trăng, thương tưởng chúng sinh, giúp thành muôn vật. Ấy là sự sáng suốt của bậc Đại nhân. Người thực hiện là đất, muôn vật do đó sinh ra.

        Bồ-tát từ bi thi ân, tu hạnh Độ vô cực, đă thực hành bố thí như vậy.

* *

23-  Xưa, có một người mẹ góa làm thuê cho Lư gia coi giữ ruộng vườn. Chủ nhân không được rảnh rỗi, thường cho ăn quá giờ. Đến lúc sắp được ăn th́ vị Sa-môn đến xin. Ḷng bà nghĩ: “Người ấy dứt dục, bỏ tà, ắt đức hạnh thanh cao chân chánh. Cứu giúp cho người đói trong bốn biển không bằng cúng dường chút ít cho bậc chân hiền giới hạnh thanh tịnh”.

        Rồi bà đem hết phần ăn của ḿnh trút vào bát rồi cắm một cành hoa sen lên để hiến cúng. Đạo nhân hiện thần thông, phóng hào quang sáng ngời. Bà vui vẻ khen:

        -Đây đúng là bậc Thần thánh sao? Ta nguyện sau này sinh được một trăm người con như thế.

        Bà mẹ qua đời, thần hồn dời đi muôn làm con nối dơi của người Phạm chí, nên hồn bà tụ nơi chỗ tiểu tiện của Phạm chí. Có con nai liếm chỗ tiểu tiện, liền cảm thọ thai. Đến kỳ sinh một đứa con gái. Phạm chí nuôi dưỡng, năm lên hơn mười tuổi, dung mạo sáng đẹp, ở nhà giữ lửa. Đứa con gái cùng nai đùa giỡn, không hay lửa tắt. Cha về giận lắm, sai đi xin lửa. Người con gái đến xóm đông người, mỗi bước chân nàng đi qua th́ chỗ đó mọc ra một hoa sen. Người chủ có lửa nói:

        -Cô đi quanh nhà ta ba ṿng, ta lấy lửa cho cô.

        Cô gái liền thuận theo lời th́ hoa mọc trên đất vây quanh nhà ba lớp. Người đi đường dừng chân, không ai không lấy làm lạ. Tiếng đồn phút chóc đến tai quốc vương. Nhà vua ra lệnh cho thầy tướng xem tướng nàng ấy sang hay hèn. Thầy tướng thưa:

-Ắt có con nối ḍng thánh, truyền ngôi đến vô cùng.

        Vua liền sai hiền thần chuẩn bị đủ lễ nghinh đón về. Dung nghi nàng tươi đẹp như hoa, cung nhân không ai bằng.

        Nàng mang thai, đến kỳ sinh ra một trăm cái trứng. Hậu, phi, thê thiếp... ai ai cũng ganh ghét. Họ bèn chặt cây chuối khắc h́nh tượng quỷ, đến khi nàng sinh, chung dùng tóc phủ lên mặt và lấy nước bùn dơ bôi lên tượng chuối ấy rồi đem tŕnh lên vua xem. Bọn yêu quái che lấp ánh sáng nên nhà vua lầm tin. Lũ tà lấy hũ đựng trứng, bịt kín miệng rồi ném xuống ḍng sông. Trời Đế Thích xuống lấy ân đóng lên miệng b́nh, chư Thiên theo bảo vệ, xuôi ḍng dừng lại như cây cổ thụ cắm xuống đất. Nhà vua của nước nơi vùng hạ lưu đang lúc ở chốn đài cao, trông thấy xa xa giữa ḍng nước có cái hũ trôi xuống, hào quang tỏa rực rỡ bao trùm, như có linh khí của trời. Bèn sai người vớt lên xem, thấy có dấu ấn của trời Đế Thích trên miệng, mở ra th́ được trăm cái trứng, bèn sai một trăm người đàn bà ấp nuôi đủ độ ấm nóng. Đến khi h́nh thể đă thành, nở ra một trăm người con trai, sinh ra đă có trí tuệ của bậc Thượng thánh, tự hiểu biết sáng suốt không cần phải dạy dỗ, dung mạo đẹp đẽ hơn người, tướng tốt ít có, thế lực tài năng hơn người trăm lần, tiếng nói vang như sư tử rống. Nhà vua sắm đủ một trăm con voi trắng với yên cương đều bằng bảy báu, để cho những người con thánh nối dơi, rồi sai họ đi chinh phạt các nước xung quanh, khiến bốn phương đều hàng phục, xưng thần.

        Bây giờ đến lượt đi chinh phạt đất nước của vua cha đă sinh ra họ, dân chúng cả nước từ lớn tới nhỏ không ai là không run sợ. Nhà Vua nước ấy hỏi:

        -Ai có thể ngăn được kẻ địch này?

        Phu nhân của vua thưa:

        -Xin đại vương chớ có lo sợ, cứ xem kẻ địch tấn công từ hướng nào, th́ theo đó dựng đài quan sát. Tôi sẽ v́ vua mà hàng phục chúng.

        Nhà vua liền ra xem t́nh h́nh quân địch thế nào rồi cho lập đài. Người mẹ đẻ của họ lên đài quan sát, cất tiếng nói:

        -Phàm tội phản nghịch lớn có ba thứ: “Không xa lánh bọn tà ngụy, rước lấy lỗi lầm hai đời, đó là một. sống không biết cha mẹ làm ngược hiếu hạnh, đó là hai. Cậy thế lực làm hại người thân, hủy hoại tam tôn, đó là ba.” Ôm mang ba điều đại nghịch ấy, ác đó không bao giờ che giấu nổi. Các ngươi hăy há miệng ra, tín hiệu hiện ngay bây giờ.

        Rồi người mẹ nắm vú ḿnh bóp mạnh, trời khiến sữa bắn vào miệng khắp trăm đứa con. Chúng cảm v́ sự tinh thành, nên uống những giọt sữa t́nh thương, rồi đều nói:

        -Đây đúng là mẹ của ta.

        Nước mắt chảy ṛng, chắp tay bước tới, cúi đầu hối lỗi. Mẹ con mới gặp lại nhau, không ai là không thương cảm. Từ đó hai nước hào mục, t́nh hơn anh em. Tám phương mừng rỡ, không ai là không khen ngợi tốt đẹp.

        Bấy giờ các con nh́n thấy đời vô thường, hư ảo, nên giă từ người thân, t́m đường học đạo, xa lánh cơi đời uế trược. Chín mươi chín người con đều chứng được đạo quả Duyên giác. C̣n một người con ở lại lo liệu việc nước, đến khi phụ vương băng hà th́ lên làm vua, đại xá những kẻ có tội, phá bỏ lao tù, san bằng hào ải, tha miễn hàng nô bộc, an ủi người hiếu đễ; nuôi dưỡng kẻ cô độc, mở kho bố thí lớn theo sở nguyện của dân chúng mà cấp phát, lây mười điều thiện làm phép nước, người người đều vâng theo tụng đọc, nhà có con hiếu, xây dựng chùa tháp, cúng dường Sa-môn, tụng kinh luận đạo, miệng không phạm bốn điều ác, bao nhiêu độc hại đều tiêu tan hết, thọ mạng dài thêm. Vua trời giúp đỡ, nuôi dưỡng họ như cha mẹ nuôi con.

        Đức Phật bảo các vị Sa-môn:

        -Người con ở lại làm vua đó là bản thân Ta. Vua cha nay làvua Bạch Tịnh, người mẹ nay là Xá Diệu.

        Bồ-tát từ bi thi ân, tu hạnh Độ vô cực, đă thực hành bố thí như vậy.

* *

24-  Thuở xưa, Bồ-tát có thời làm Phạm chí, thông tỏ kinh luật, được người cả nước tôn làm thầy. Phạm chí có năm trăm người đệ tử, đều là những kẻ đức độ, nho nhă, ưa bố thí như tự giữ ǵn bản thân ḿnh.

        Đời bây giờ có Đức Phật hiệu là Tiệp Như Lai Vô Sở Trước Chánh Chân Tôn Tối Chánh Giác dẫn đường cho ba cơi, thần trở về nơi gốc không. Bồ-tát gặp Đức Phật, mừng rỡ tự quy y, thỉnh Phật và chúng Tăng lưu lại nhà bảy ngày, dùng lễ cúng dường. Các đệ tử của Phạm chí tranh nhau làm chủ từng việc. Có một người tuổi nhỏ, thầy bảo đi về mà không về, trở lại xin làm việcThầy nói:

        -Xem có việc ǵ không có người làm th́ ngươi nhận mà làm.

        Đồng tử thưa:

        -Chỉ có việc đèn lửa là chưa có ai làm.

        Thầy nói:

        -Hay thay! Này đệ tử, hăy lấy b́nh dầu mè, tự tắm rửa sạch sẽ, dùng khăn trắng quấn quanh đầu, tự tay châm lửa đốt đầu ḿnh. Trời, Người, Rồng, Quỷ nh́n thấy sức mạnh ấy, không ai là không vỗ tay kinh ngạc và khen ngợi:

        -Trên đời chưa từng có, người ấy ắt sẽ thành Phật.

        Đức Phật khen người đó, khiến đèn sáng suốt đêm mà đầu không bị tổn thương. Ḷng định nơi kinh, hoát nhiên dứt tưởng. Bảy ngày như thế, không chút lười mỏi. Đức Phật liền thọ kư:

        -Qua vô số kiếp, con sẽ thành Phật hiệu là Định Quang, nơi đỉnh đầu, trên vai, đều có hào quang, dạy bảo, cứu vớt độ được chúng sinh nhiều vô lượng.

        Trời, Người, Quỷ, Rồng nghe người ấy sẽ được thành Phật, không ai là không khen ngợi, cúi đầu lạy mừng. Vị Phạm chí nghĩ: “Người kia được Phật thọ kư làmPhật, ta ắt cũng được như vậy.” Bèn đợi Phật thọ kư, nhưng Phật đă ra đi. Phạm chí đến trước Đức Phật, cúi đầu bạch:

        -Nay thiết lễ mọn cúng dường, ḷng con chân thành nguyện xin Đức Phật thọ kư.

        Đức Phật bảo Phạm chí:

        -Khi đồng tử đó thành Phật sẽ thọ kư cho ông.

        Phạm chí nghe sẽ được làm Phật, vui mừng quên cả thân. Từ đó về sau luôn làm bố thí lớn: kẻ đói cho ăn, người rét cho mặc, bệnh cấp thuốc thang, các loài ḅ, bay, máy, cựa. Theo sự ăn uống của chúng luôn kịp thời cứu giúp. Các nước trong tám phương đều gọi là bậc cha nhân từ.

        Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

        -Đồng tử là Đức Phật Định Quang, c̣n Phạm chí là thân Ta.

        Bồ-tát từ bi thi ân, tu hạnh Độ vô cực, đă thực hành bố thí như vậy.

* *

25-  Thuở xưa, Bồ-tát là một Lư gia lớn, tích chứa của cải nhiều vô số, thường phụng thờ ba ngôi báu, ḷng thương khắp chúng sinh. Một hôm đi ra chợ, thấy một con ba ba, động ḷng thương xót, mới hỏi giá cả bao nhiêu. Người chủ con ba ba biết Bồ-tát có đức nhân từ rộng răi, ưa tế độ chúng sinh, giàu có của cải không kể xiết, giá mắc rẻ không từ chối, nên mới đáp:

        -Đủ một trăm vạn th́ có thể lấy đi được, bằng không tôi sẽ làm thịt nó.

        Bồ-tát đáp:

        -Rất tốt.

        Liền trả tiền đúng giá, mang ba ba về nhà, rửa giúp vết thương rồi đem ra bờ sông thả. Nh́n nó bơi đi, buồn vui lẫn lộn, Bồ-tát thề rằng:

        -Mong loài chúng sinh, ngạ quỷ trong địa ngục Thái sơn, những kẻ bị lao ngục trên đời... sớm được thoát nạn, thân mạng an toàn như ngươi hôm nay.

        Rồi cúi đầu lạy khắp mười phương, chắp tay nguyện tiếp:

        -Chúng sinh, khổ kia không lường. Ta sẽ xin làm trời, đất, v́ hạn làm mưa nhuần, v́ nổi trôi làm chiếc bè, đói cho ăn, khát cho uống, rét cho ấm, nóng cho mát, v́ người bệnh cho thuốc, v́ chỗ tối tăm cho ánh sáng. Nếu có đời dơ dục, gặp thời điên đảo, Ta sẽ ở trong cơi đó thành Phật, tế độ chúng sinh ấy.

        Mười phương chư Phật đều tán thán lời thề đó:

        -Hay thay! Ông ắt được như chí nguyện.

        Đêm hôm sau, con ba ba đến cắn cửa nhà Bồ-tát. Ông lấy làm lạ sao ngoài cửa có tiếng động, sai người ra coi thử th́ thấy con ba ba. Người nhà nói lại sự việc, Bồ-tát ra xem th́ thấy con ba ba nói tiếng người:

        -Tôi thọ ân nhuần của ngài, thân thể được an toàn, không biết lấy ǵ để đáp tạ ân sâu. Vật sống dưới nước nên biết trước được nước đầy hay vơi. Tôi biết nạn hồng thủy sắp đến ắt sẽ gây hại lớn, xin mau chuẩn bị thuyền bè, đến lúc đó tôi sẽ đón ngài.

        Bồ-tát đáp:

        -Tốt lắm.

        Sáng sớm hôm sau, Bồ-tát bèn đến cung vua tâu rơ sự việc trên. Nhà vua biết Bồ-tát từng nổi tiếng là bậc Hiền thiện, nên tin lời ông ngay, liền ra lệnh dời hết dân ở vùng thấp lên chỗ cao. Đến khi lụt bắt đầu, ba ba tới nói:

        -Nạn hồng thủy đến rồi, hăy mau xuống thuyền, bơi theo sau tôi th́ được an toàn.

        Thuyền của Bồ-tát bơi theo sau con ba ba ấy. Bơi được một lúc th́ có con rắn bơi theo thuyền. Bồ-tát hỏi:

        -Cứu lấy nó chứ?

        Ba ba đáp:

        -Tốt lắm.

        Rồi lại thấy một con cáo bị trôi, Bồ-tát hỏi:

        -Cứu lấy nó chứ?

        Con ba ba cũng đáp:

        -Tốt.

        Một lúc nữa, lại gặp một người bị trôi, đang tự vỗ vào mặt kêu trời:

        -Hăy thương cứu lấy mạng tôi!

        Đại Lư gia hỏi:

        -Cứu lấy hắn chứ?

        Con ba ba đáp hăy thận trọng, không nên cứu. Ḷng người đời dối trá, ít có trung tín, vong ân bội nghĩa, chạy theo thế lực, ưa làm những việc hung nghịch.

        Bồ-tát nói:

        -Loài vật ngươi cứu, c̣n loài người mà ta xử tệ th́ đâu là nhân từ nữa. Ta không đành ḷng.

        Rồi Bồ-tát cứu lấy người ấy. Ba ba nói:

        -Ôi! Rồi ngài sẽ hối hận.

        Đến được chỗ đất yên lành, ba ba từ tạ:

        -Đền ân đă xong, tôi xin cáo lui.

        Bồ-tát đáp:

        -Khi ta chứng được đạo quả Như Lai Vô Sở Trước Chí Chân Chánh Giác th́ ta sẽ độ cho ngươi.

        Ba ba đáp:

        -Tốt lắm.

        Ba ba lui rồi th́ rắn, cáo cũng đều ra đi. Con cáo đào hang làm chỗ ở, gặp được kho vàng ṛng của người xưa có đến trăm cân, vui mừng nghĩ: “Ta sẽ đem của này đền đáp ân cứu mạng kia.” Rồi nó vội trở lại gặp Bồ-tát, thưa:

        -Loài vật nhỏ nhoi này chịu ân cứu mạng. Tôi vốn là loài vật ở hang nên trong lúc đào hang để ở, bắt gặp một trăm cân vàng. Hang ấy không phải mồ mả, không phải nhà cửa, của này không phải là của cướp đoạt, cũng không phải là của trộm cắp. Tôi được nó là do ḷng thuần thành, nên nguyện đem đến hiến cúng cho ngài.

        Bồ-tát ngẫm nghĩ: “Không nhận lấy mà bỏ đi th́ không ích lợi ǵ cho dân nghèo. Nếu nhận lấy rồi đem bố thí th́ chúng sinh được cứu giúp, vậy chẳng tốt hơn sao?”. Nghĩ rồi liền theo cáo tới lấy của ấy. Người bị trôi thấy vậy, nói:

        -Chia cho tôi một nửa!

        Bồ-tát liền lấy mười cân cho hắn. Người bị trôi nói:

        -Ông đào mả cướp vàng, tội ấy phải thế nào? Nếu không chia cho phân nửa, th́ tôi ắt tố cáo với quan.

        Bồ-tát đáp:

        -Dân nghèo thiếu thốn, ta muốn đem bố thí đều cho họ, mà ngươi muôn đoạt hết số của đó, chẳng là bất công lắm sao?

        Người bị trôi bèn báo với quan Hữu ty. Bồ-tát bị bắt, hết cách biện bạch, chỉ c̣n cách quy mạng Tam tôn, hối lỗi tự trách, nguyện cho chủng sinh mau ĺa tám nạn, không c̣n oán kết như ḿnh hôm nay. Rắn và cáo gặp nhau bàn:

        -Việc này sao đây?

        Rắn nói:

        -Tôi sẽ giúp cho.

        Rồi nó ngậm thuốc hay, mở khóa vào nhà giam, thấy t́nh trạng Bồ-tát, vóc dáng suy tổn mà xót xa buồn ḷng. Nó thưa với Bồ-tát:

        -Ngài mang thuốc này trong ḿnh, tôi sẽ t́m cắn thái tử. Nọc tôi cắn rất độc, không ai có thể cứu được, ngài cứ đem thuốc này dâng lên vua, uống vào là khỏi ngay.

        Bồ-tát lặng thinh, c̣n rắn th́ làm như đă nói. Mạng thái tử sắp mất, nhà vua truyền lệnh:

        -Ai có thể cứu thái tử th́ phong làm tướng quốc, cùng với ta tham gia trị nước.

        Bồ-tát dâng thuốc lên, thái tử uống vào liền khỏi ngay. Nhà vua vui mừng hỏi nguyên do, tù nhân tự bày tỏ đầu đuôi câu chuyện. Nhà vua bùi ngùi tự trách lỗi:

        -Ta tối tăm lắm thay!

        Vua bèn xuống lệnh giết tên bị trôi kia, đại xá cho cả nước, phong Bồ-tát làm tướng quốc, nắm tay đi vào cung, cùng ngồi mà nói:

        -Hiền giả đọc sách ǵ, tin theo đạo nào mà làm việc nhân từ của trời đất, ban ân huệ khắp chúng sinh như thế?

        Bồ-tát đáp:

        -Tôi đọc kinh Phật, tin theo đạo Phật.

        Nhà vua hỏi:

        -Phật có yếu quyết ǵ chăng?

        Thưa:

        -Có chứ. Đức Phật dạy về bốn vô thường, ai giữ được th́ sẽ dứt hết các họa, phước lớn thịnh.

        Nhà vua nói:

        -Xin được nghe lời dạy quư báu kia.

        Bồ-tát đáp:

        -Khi trời đất kết cuộc th́ bảy mặt trời cùng thiêu đốt, biển lớn đều khô cạn, trời đất rực lửa, núi Tu-di băng hoại. Trời, Người, Quỷ, Rồng..., thân mạng chúng sinh bị cháy thiêu đốt ngay. Trước thịnh sau suy, đó gọi là vô thường. Người sáng suốt luôn giữ ư niệm vô thường, biết rằng trời đất c̣n vậy huống chi là quan tước, đất nước đâu có trường tồn. Đạt được ư niệm này mới có chí thương xót rộng khắp.

        Nhà vua nói:

        -Trời đất c̣n vậy huống chi là đất nước. Đức Phật dạy “vô thường” ḷng ta tin lắm thay!

        Bồ-tát lại nói:

        -Cái khổ càng khổ hơn nữa, vua nên biết về điều ấy.

        Nhà vua nói:

        -Xin được nghe lời dạy sáng suốt

        Bồ-tát nói:

        -Linh thức chúng sinh vi diệu khó biết, nh́n không thấy h́nh, nghe không thấy tiếng, rộng khắp thiên hạ, cao không ǵ che được, mênh mông không ǵ nêu tỏ nổi, luân chuyển không cơi bờ. Nhưng nó đói khát theo sáu dục, như biển cả với bao nhiêu sổng đổ về vẫn không đủ, v́ vậy nhiều lần thay đổi, ngục Thái sơn thiêu đốt, chịu các khổ độc, hoặc làm ngạ quỷ bị nước đồng sôi rót vào miệng, bắt làm lao dịch trong ngục; hoặc làm súc sinh bị mổ, lột, róc xé, chết liền theo dao, thọ khổ vô cùng. Như được làm người th́ ở trong thai mười tháng, đến lúc sinh th́ chật vật như dây tơ buộc thân, nỗi thống khổ sinh ra trên đất như từ cao rơi xuống, gió thổi như lửa thiêu ḿnh, tắm nước ấm như rót nước đồng sôi vào thân, tay xoa vào thân như dao tự róc. Những nỗi đau đớn ấy rất là khổ, khó nêu bày hết. Sau khi lớn tuổi, các căn đều suy sụp, tóc bạc, răng rụng... Trong ngoài đều hư hao, chỉ c̣n nỗi ḷng buồn, rồi chuyển thành bệnh nặng, bốn đại muốn rời bỏ, các bộ phận trong người đều đau nhức, ngồi nằm phải nhờ người, thầy thuốc đến càng thêm lo sầu. Khi sắp chết các gió cùng dậy, đứt gân nát xương, các lỗ bế tắc, hơi thở dứt, thần hồn ĺa theo nghiệp dẫn dắt. Nếu được lên trời th́ trời cũng có giàu nghèo, sang hèn, thọ mạng kéo dài, hay có chừng mực. Khi phước hết, tội đến th́ bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nhữngviệc ấy gọi là khổ.

Nhà vua nói:

        -Hay thay! Đức Phật nói yếu quyết về “khổ”, ḷng ta tin ngay! Lư gia lại nói:

        -Phàm đă có ắt phải không, giống như hai khúc cây cọ xát vào nhau th́ sinh ra lửa, lửa lại đốt cây, lửa và cây đều hết, cả hai đều không. Xưa các tiên vương, cung điện, thần dân, nay đă tiêu tan, không c̣n thấy đâu nữa, đó cũng là không.

Nhà vua nói:

        -Hay thay! Đức Phật nói yếu quyết của “không”, ḷng ta tinngay.

        Bồ-tát lại nói:

        -Phàm thân là đất, nước, gió, lửa hợp lại. Cái cứng là đất, cái mềm là nước, cái nóng là lửa, hơi thở là gió. Thân mạng chết, thần hồn ra đi, bốn đại ĺa bỏ, không thể bảo toàn được. Do đó nên gọi là vô ngă.

        Nhà vua nói:

        -Hay thay! Đức Phật nói về “vô ngă”, ḷng ta tin ngay! Thân c̣n không giữ được, huống chi đất nước này ư! Ôi, đau đớn thay cho tiên vương ta, không nghe được lời dạy của Bậc Vô Thượng Chánh Chân Tối Chánh Giác về vô thường, khổ, không, vô ngă. Lư gia nói.

        -Trời, đất c̣n vô thường, th́ ai có thể giữ được đất nước này măi! Sao không đem hết của kho, bố thí cho người nghèo thiếu?

Nhà vua nói:

        -Hay thay! Lời dạy của người thầy sáng suốt! Thật vui sướng thay!

        Nhà vua liền đem hết của cải trong các kho bố thí cho kẻ nghèo thiếu. Những người góa vợ, góa chồng, các em cô nhi th́ đều khiến cho họ được làm cha làm mẹ, làm con cái. Dân chúng ăn mặc sáng đẹp, giàu nghèo như nhau, cả nước hân hoan, vừa cười, vừa đi, ngửa mặt lên trời khen:

        -Bồ-tát thần hóa đến thế ư!

        Bốn phương khen ngợi thần đức của vua, đất nước được thái b́nh.

       Đức Phật bảo các vị Sa-môn:

        -Lư gia đó là thân Ta. Quốc vương là Di-lặc, con ba ba là A- nan, con cáo là Thu Lộ Tử, con rắn là Mục-kiền-liên, c̣n người bị trôi là Điều-đạt.

        Bồ-tát từ bi thi ân, tu hạnh Độ vô cực, đă thực hành bố thí như vậy.

* *

26-  Thuở xưa, Bồ-tát tu hạnh Sa-môn, thường ở nơi núi rừng, ḷng Từ thương xót nghĩ tới chúng sinh bị luân chuyển trong ba cơi chịu khổ lâu dài măi, lấy ǵ để cứu độ họ? Đang tĩnh tâm suy nghĩ, t́m ra nguồn đạo lớn để cứu vớt họ, th́ trong áo lại có rận làm thân ngứa ngáy, ḷng bực bội, chí đạo không định. Bèn lấy tay lần t́m, bắt được con rận, ḷng thương xót, muốn t́m cách làm cho nó yên sông, vừa thấy có xương thú, nên đem nó đặt vào đấy. Con rận được ăn bảy ngày, hết rồi bỏ đi nơi khác, cuộc sinh tử đắp đổi lại qua... C̣n Bồ-tát th́ tu thành Phật, lui tới khắp chốn giáo hóa. Một hôm trời đổ tuyết nhiều lấp hết đường đi lại. Trong nước có một người nhà giàu thỉnh Phật cùng vài ngàn Tỳ-kheo về nhà cúng dường, trong bảy ngày, hết ḷng cung kính cả gia đ́nh đều thế. Bảy ngày qua rồi mà tuyết vẫn chưa tạnh ráo, Đức Phật bảo Tôn giả A-nan báo tin cho các Tỳ-kheo lui về tinh xá. Tôn giả A-nan thưa:

        -Chủ nhân vẫn cung kính, ḷng chưa biểu hiện điều thiếu sót, lơ là. Hơn nữa, ngoài trời tuyết nhiều chưa dứt, không có nơi đi khất thực được.

        Đức Thế Tôn nói:

        -Ư chủ nhân đă hết, không c̣n cúng dường nữa!

        Rồi Đức Phật dẫn các Sa-môn trở về tinh xá. Sáng hôm sau, Đức Thế Tôn bảo Tôn giả A-nan đến nhà người chủ đó khất thực. Tôn giả A-nan vâng lời dạy, đi đến nhà người chủ kia. Người nhà ra nh́n thấy mà không hỏi han ǵ cả. Chờ đợi một lúc, Tôn giả A-nan trở về quỳ xuống cúi đầu thưa tŕnh hết sự việc, lại hỏi nguyên do về ḷng dạ bất thường của người chủ kia, sao lại thay đổi chóng vậy? Đức Phật liền v́ Tôn giả mà nói đầy đủ về chuyện quá khứ như trên. Đức Phật lai bảo:

        -Này A-nan, Ta đem ḷng Từ, cứu giúp cái mạng nhỏ nhoi của con rận, cho nó nắm xương mục ăn được bảy ngày, nên nay được nhận sự cúng dường các món ăn ngon nhất đời. Kiếp trước Ta làm ân, ân đó tương đương với bảy ngày cúng dường, v́ đă đủ nên ư người ấy ngưng lại, không cúng dường như trước nữa. Huống chi đem ḷng Từ hướng về Đức Phật cùng chúng Sa-môn, những người hạnh cao, tŕ giới thanh tịnh, vô dục, nội tâm đoan chánh, ngoại hiện từ hóa. Cung kính cúng dường một vị hạnh cao đó th́ phước báo vượt xa sự tận t́nh bố thí cho người thường trải qua nhiều kiếp. Sở dĩ như thế nên các Tỳ-kheo phải luôn nhớ giữ. Kinh Phật có giới, có định, có huệ, có giải thoát và giải thoát tri kiến. Các vị ấy đă dùng năm đức đó thương xót chúng sinh, khiến họ xa ĺa cái họa muôn khổ trong ba cơi.

        Tôn giả A-nan nói:

        -Lư gia ấy may mắn thay! Đích thân được thương nuôi cúng dường Đức Như Lai Vô Sở Trước Chánh Chân Đạo Tối Chánh Giác, Đạo Pháp Ngự Thiên Nhân Sư cùng các vị Sa-môn, hoặc đă chứng các bậc Câu cảng, Tần lai, Bất hoàn, Ứng chân (Tu-đà-hoàn, Tu-đà- hàm, A-na-hàm, A-la-hán) hoặc có vị là bậc Khai sĩ, mở ḷng Từ rộng lớn dẫn đường cho chúng sinh, phước ấy khó lường, chẳng khác ǵ biển cả, phưởc ấy khó sánh, chẳng khác ǵ đất.

        Đức Phật nói:

        -Hay thay! Này A-nan, thật đúng như Tôn giả đă nói! Khó gặp Phật ra đời, đạo pháp khó được nghe, Tỳ-kheo Tăng khó được cúng dường, như hoa Ưu-đàm chỉ một lần nở!

        Đức Phật nói như vậy, các vị Tỳ-kheo đều hoan hỷ cúi đầu vâng làm.

        Bồ-tát từ bi thi ân, tu hạnh Độ vô cực, đă thực hành bố thí như vậy.

KINH LỤC ĐỘ TẬP

Q1    Q2    Q3    Q4    Q5    Q6    Q7    Q8

KINH LỤC ĐỘ TẬP

Hán Dịch: Đời Đông Ngô, Sư-Môn Khương Tăng Hội, Người Nước Khương Cư.

Việt Dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 4

Chương II: GIỚI ĐỘ VÔ CỰC

        Sao gọi là Giới độ vô cực?

        -Cuồng ngu, hung ngược, ưa tàn sát mạng sống, tham lam, trộm cắp, dâm dật uế tạp, nói hai lưỡi, nói lời ác, nói dối, nói thêu dệt, ḷng ganh ghét, giận dữ, ngu si, hại người thân, làm nhục bậc Thánh nhân, bài báng Phật, quấy nhiễu người hiền, lấy vật nơi tông miếu, mang ḷng xấu ác, hủy hoại ba ngôi báu. Độc ác như thế thà chịu phanh thây, bị băm vằm nơi chợ, rốt cuộc quyết không bao giờ làm. Chỉ dốc tin Tam bảo, bốn ân cứu giúp khắp.

* *

27-  Thuở xưa, Bồ-tát làm Thanh tín sĩ. Vua của đất nước ấy làm điều chân chánh, khuyên dặn các quan và dân chúng biết đến ba ngôi báu. Ai giữ giới, ăn chay th́ được tha thuế má, miễn sưu dịch. Dân chúng lớn nhỏ đều thấy vua chuộng hiền đức, nên phần nhiều giả lương thiện mà âm thầm làm điều tà vạy. Nhà vua dùng giới luật của Phật để xem xét tiết tháo nơi dân chúng, thấy lắm kẻ chỉ tốt bề ngoài mà trong ḷng th́ xấu, trái với sự giáo hóa trong sạch của Phật. Nhà vua liền giả vờ xuống sắc lệnh:

        -Ai dám tôn trọng đạo Phật th́ bị tội chết bêu chợ.

        Bọn giả làm lành không đứa nào là không bỏ điều chân chánh, buông ḷng quay về gốc tà ngụy của chúng. Bồ-tát tuổi già, ḷng giữ sự sáng suốt chân chánh rộng lớn, nghe lệnh vua th́ cả kinh, nói:

        -Bỏ chân theo tà, dù được làm đế vương, sống ngang trời đất, giàu không ai hơn, sáu vui thỏa ḷng, ta trọn không làm. Tuy sống chỉ trong một bữa ăn mà được thấy sự giáo hóa chân thật của Tam bảo, ta cũng vui ḷng phụng sự. C̣n ôm nhớ hàng vạn sách vở ghi chép về thế tục, thân sống trong cung trời, thọ mạng ngang trời mà mờ mịt về ba ngôi báu, không nghe được kinh Phật, th́ ta không mong cầu. Vâng theo lời Đức Phật dạy, dù gặp phải họa giết chóc ta cũng cam ḷng.

        Kinh dạy:

        -Chúng sinh tự lao ḿnh vào ba đường, có những cái khó: được làm người là khó; được ở vùng giữa là khó; sáu căn đầy đủ là khó; sinh trong nước có đạo là khó; thân cận với Bồ-tát là khó; gặp được kinh mà tin là khó; thấu hiểu điều sâu xa vi diệu là khó; gặp Sa- môn hạnh cao, tâm thanh tịnh, dốc ḷng cúng dường là khó; gặp Phật và được thọkư là khó.

        Ta nhờ công đức đời trước, nay thấy kinh Phật, được thờ Tam bảo, nên dù gặp phải sự vô đạo tàn khốc, hoặc muối thịt, ngâm thân, hoặc nước sôi, lửa bỏng, ta trọn cũng không bỏ nẻo chánh chân để theo thứ yêu mị, độc hại kia.

        Nhà vua giao cho quan Hữu Ty truy xét những người trái lệnh th́ đem giết bêu chợ. Người tra xét thấy Bồ-tát bền chí phụng thờ Tam bảo không chuyển, ḷng thành không suy giảm, liền bắt đem tâu lên vua. Nhà vua phán:

        -Đem ra chợ chém!

        Rồi kín đáo sai người theo nghe ngóng xem ông ấy nói ǵ. Bồ- tát sắp đến chết c̣n dạy con:

        -Trời đất từ lúc mới dựng, có người sống đến nay, chúng sinh ở đời do sáu t́nh loạn hành, cuồng say quá lắm, ít được gặp Tam bảo dẫn dắt giáo hóa, để trở thành sáng suốt, trong sạch. Con nay may mắn biết được đạo pháp, hăy thận trọng không nên bỏ. Ôi! Bỏ hạnh của Phật pháp mà làm theo hành vi hư ngụy của quỷ yêu th́ chắc chắn mất nước thôi. Ta thà bỏ thân mạng này, chớ không hề bỏ nẻo chân chánh. Nhà vua nay đă sai lầm, con không được nghe theo.

        Người tra xét tâu lên vua những điều được nghe. Nhà vua biết Bồ-tát giữ hành chân chánh, liền vui mừng mời đến, nắm tay dắt lên điện, nói:

        -Khanh chân chánh, đáng gọi là đệ tử của Phật.

        Rồi vua phong làm tướng quốc, giao cho việc trị nước. C̣n bọn người bỏ sự giáo hóa thanh tịnh của Phật th́ lại phải đóng thuế, sưudịch. Từ đây, trong nước không ai là không ham chuộng điều thiện.

        Đức Phật bảo các vị Sa-môn:

        -Vị quốc vương lúc đó là Di-lặc, c̣n vị Thanh tín sĩ là thân ta.

        Bồ-tát giữ chí tu hạnh Độ vô cực, đă thực hành tŕ giới như vậy.

* *

28-  Thuở xưa, Bồ-tát thân làm voi chúa, tấm ḷng rộng xa, biết có Phật, có Pháp, có Tỳ-kheo Tăng, thường quy y Tam bảo, luôn đem ḷng Từ rộng lớn cứu giúp chúng sinh, nguyện khi thành Phật sẽ độ tất cả. Bầy voi đi theo có năm trăm con, trong đó có hai con là vợ voi chúa. Một hôm, voi chúa dầm ḿnh trong nước hái được một cành hoa sen màu sắc rất đẹp đem về cho vợ cả. Vợ cả được hoa, vui sướng nói:

        -Băng giá rất lạnh, làm sao có được hoa này?

        Vợ nhỏ tánh tham lam ganh ghét, giận dữ thề: “Có cơ hội ta sẽ dùng thứ độc cực mạnh giết chết ngươi”. Sau đó, v́ uất khí mà chết. Hồn linh hóa làm con gái của nhà Tứ tánh, nhan sắc hơn người, tâm trí thông sáng, hiểu rộng việc xưa nay, ngửa xem thiên văn, biết rơ thời suy thịnh. Nhà vua nghe được, nên cưới về làm phu nhân. Vừa vào cung là tâu rơ về chính sách trị nước, nghĩa lư phù hợp với một bề tôi trung thành. Nhà vua đẹp ḷng nên càng yêu kính, mỗi lời nói ra liền được vua nghe theo. Một hôm phu nhân nói:

        -Thiếp nằm mơ thấy con voi sáu ngà, ḷng muôn lấy ngà ấylàm đồ trang sức, nếu nhà vua không cho, thiếp chắc không sống nổi.

        Nhà vua nói:

        -Đừng nói chuyện gàn dở, người nghe sẽ cười cho!

        Phu nhân thưa rồi liền sinh mối ưu uất.

        Vua cho mời bốn vị quan đến để luận bàn, tự cho rằng ḿnh nằm mộng, rồi hỏi:

        -Xưa nay có con voi như thế sao?

        Một bề tôi thưa:

        -Không hề có như vậy.

        Một bề tôi khác nói:

        -Nhà vua không nằm mơ như thế.

        Một vị quan nữa tâu:

        -Đă từng nghe có nó nhưng ở xa lắm.

        Một ông khác nói:

        -Nếu có thể đến đó được th́ nay trời Đế Thích đang bay liệng ở chỗ ấy.

        Bốn vị bề tôi liền cho gọi đám thợ săn bốn phương tới hỏi. Thợ săn phương Nam đáp:

        -Người cha quá cố của tôi thường kể: Có con voi như thế nhưng ở xa và khó đến lắm.

        Các quan tâu lên rằng có người kia biết. Nhà vua liền cho đ̣i hắn đến gấp. Hắn tới, phu nhân bảo:

        -Ngươi đi thẳng về phương Nam chừng ba ngàn dặm th́ gặp núi, vào núi, đi chừng hai ngày nữa th́ đến chỗ voi ở. Rồi ngươi đào hầm bên đường, cạo bỏ râu tóc, mặc đồ Sa-môn, ngồi trong hầm bắn voi, cắt lấy hai ngà của nó rồi mang về đây.

        Thợ săn theo lời chỉ bảo mà làm, đi đến chỗ voi ở. Trước khi bắn voi, hắn mặc pháp phục, mang b́nh bát, đứng đợi trong hầm. Voi chúa thấy Sa-môn liền cúi đầu nói:

        -Kính chào đạo sĩ! Đạo sĩ v́ việc ǵ mà muốn hại thân mạng tôi?

        Đáp:

        -Muốn được cặp ngà của ngươi.

        Voi chúa nói:

        -Ta đau đớn khó chịu nổi, ngươi mau lấy ngà đi đi, đừng khuấy động ḷng ta khiến sinh niệm ác. Ai tâm đă nghĩ ác th́ chết sẽ đọa vào đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. C̣n ai giữ nhẫn, làm từ, ác đến thiện đi là hạnh cao của Bồ-tát, cho dù có bị băm vằm xương thịt, trọn không hề trái với hạnh ấy. Ai tu theo hạnh đó, chết liền sinh lên cơi trời, chóng được diệt độ.

        Người thợ săn liền cắt lấy ngà. Voi chúa nói:

        -Đạo sĩ phải đi ngay, không nên để bầy voi t́m được dấu chân!

        Voi chờ thợ săn đi xa, đau đớn khó nhịn nổi, liền lăn ra đất, rống to lên một lát th́ chết, tức khắc được sinh lên trời. Bốn phía bầy voi chạy lại, chúng đều nói:

        -Người nào đă giết hại vua ta.

        Rồi chúng đi t́m, nhưng không thấy ǵ liền trở lại ôm lấy xác voi chúa thương khóc

        Thợ săn đem ngà voi về triều. Nhà vua thấy ngà voi ḷng liền hoảng sợ. Phu nhân lấy ngà voi cầm trong tay, vừa muốn xem th́ sấm chớp nổ vang đánh bà hộc máu, chết đọa vào địa ngục.

        Đức Phật bảo các vị Sa-môn.

        -Chúa voi ấy là thân Ta, vợ lớn của voi nay là Cừu-di, thợ săn là Điều-đạt, vợ bé là Hảo Thủ.

        Bồ-tát giữ chí tu hạnh Độ vô cực, đă thực hành tŕ giới như vậy.

* *

29-  Thuở xưa, Bồ-tát làm vua Oanh vũ, thường vâng theo lời Phật dạy, quy mạng ba ngôi báu. Khi phải chết th́ chết không hề phạm mười điều ác, đem ḷng Từ giáo hóa, luôn lấy sáu độ làm đầu.

        Bây giờ, quốc vương thích ăn thịt chim Oanh vũ, thợ săn tranh nhau t́m bắt, thấy đàn chim ấy, họ dùng lưới chăng bắt sạch hết chúng, đem dâng cho thái quan. Người lo việc giết thịt thâu nhận, con nào béo liền làm thịt nâu thức ăn dâng vua. Vua Oanh vũ thầm nghĩ:

        -Chúng sinh quay cuồng vào ngục, mất thân, luân hồi trong ba cơi đều do ăn mà ra cả!

        Rồi vua Oanh vũ bảo cả đàn:

        -Bỏ tham, bớt ăn, thân gầy khổ ít thôi, toàn mạng mới là điều đáng mong. Kẻ ngu tham-ăn uống, ḷng không lo xa, giống như người keo kiệt tham chút mật dính nơi lưỡi dao mà không biết cái họa bị đứt lưỡi. Ta nay bớt ăn các người hăy làm theo.

        Vua Oanh vũ ngày một gầy đi, nhờ thế từ mắc cáo lồng nhảy thoát được ra ngoài. Rồi chim đứng trên lồng nói:

        -Phàm tội lớn của tham ác chính là không muốn có được cảnh thiện.

        Lại nói tiếp:

        -Chư Phật cho tham là ngục, là lưới buộc, là thuốc độc, là đao gươm! Các ngươi cứ bỏ ăn th́ sẽ được như ta.

        Từ đó, Bồ-tát nếu làm người phàm th́ ăn uống đạm bạc để giữ mạng sống, mặc đơn sơ để che thân, lấy tham để răn ḷng, không một ngày lăng quên. Khi phước đến, được làm đế vương, liền dùng trí Phật để xem xét cách trị nước, phước cao rộng ấy thật khó tính toán hết được. Cuộc đời là vô thường không chắc chắn, chỉ khổ không vui, vừa có là mất ngay, thân là giả huyễn, khó giữ như trứng, khó thuần dưỡng như sói, người có mắt nh́n thấy không ai là không run sợ. Bồ-tát đời đời lấy giới làm hạnh, nên mới thành tựu đạo quả Như Lai Vô Sở Trước Chánh Chân Đạo Tối Chánh Giác, làm Thầy trời người.

        Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

        -Vua Oanh vũ khi đó là thân Ta, quốc vương ấy là Điều-đạt.

        Bồ-tát giữ chí tu hạnh Độ vô cực, đă thực hành tŕ giới như vậy.

* *

30-  Thuở xưa, Bồ-tát làm thái tử con vua, tên là Pháp Thí, trong ngoài đều trong sạch, thường lấy cái họa đi theo nẻo tà để tự răn ḷng, tôn trọng Hiền thánh, hiếu đễ với người thân, luôn thương xót cứu giúp chúng sinh.

        Mỗi khi thái tử vào chầu, thường đợi tướng quốc, tới lui đúng lễ, chưa từng mất oai nghi. Người thiếp yêu của vua, ḷng dạ dâm tà, một hôm ra tay ôm kéo thái tử. Thái tử tận lực tránh né nên thoát được, tay đụng vào đầu tướng quốc, miệng th́ bảo: “Đi đi”. Mũ của tướng quốc rơi xuống đất, để lộ cái đầu không tóc. Người thiếp yêu của vua cười, tướng quốc xấu hổ, ôm giận. Sau đó, người thiếp gặp vua tâu:

        -Thiếp tuy hèn mọn nhưng cũng là vợ vua, mà thái tử không biết tự chế, có ḷng ham muốn thiếp.

        Nhà vua nói:

        -Ta biết thái tử là người tiết tháo, không phải chí nguyện của Phật th́ không nghĩ tới, không phải lời Phật dạy th́ không nói ra,việc không đúng với giáo lư của Phật th́ không làm bao giờ, tám phương khen ngợi đức hạnh, các nước không có ai bằng, há lại làm chuyện sai trái như thế sao?

        Người thiếp yêu dùng bao lời tâu sàm tỉ tê để mê hoặc ḷng vua. Nhà vua nói:

        -Cốt nhục tương tàn, đó là giặc loạn, ta không thể làm!

        Bèn phong cho thái tử làm vua vùng biên giới, cách đất nước tám ngàn dặm và dặn:

        -Con trấn nhậm cơi ngoài th́ nên theo phép trời làm nhân nghĩa, không được tàn hại dân lành, không nên vơ vét làm cùng khốn trăm họ, phải tôn trọng người già như cha mẹ, phải yêu thương dân như con, phải thận trọng tu tŕ giới cấm của Đức Phật, giữ đạo cho đến chết. Đời nhiều gian dối, khi có lời dạy từ ấn răn con mới nên tin theo.

        Thái tử cúi đầu khóc, tâu:

        -Con không dám bỏ qua lời dạy của cha.

        Rồi thái tử liền đến nhận đất phong, đem năm giới, mười đức, thương xót giáo hóa dân trong nước ḿnh. Thái tử lên ngôi được một năm, dân chúng xa gần mến mộ ân đức nên theo về đông đúc, hộ dân tăng hàng vạn. Thái tử viết biểu dâng lên, ca ngợi đức của vua cha chiếu thấu nơi xa nên mới được như vậy. Nhà vua cùng hoàng hậu, cung phi vui mừng khen thái tử, riêng người thiếp th́ vẫn ôm mối oán thù, nên cùng với tướng quốc làm điều gian, mưu trừ thái tử, ŕnh chờ nhà vua nằm ngủ, lén lấy sáp ong làm ấn, rồi dối viết thư:

        -Người can tội phạm thượng, ta không nỡ giết ngay! Vậy nhận được thư này, mau móc đôi mắt giao cho sứ giả mang về kinh đô. Khi sứ giả đến, xem thư xong, quần thần của thái tử đều nói:

        -Đấy là sứ giả của kẻ yêu loạn, không phải của đại vươngđâu!

        Thái tử nói:

        -Đại vương trước đă thân t́nh dặn ḍ, nay có dấu ấn răng làm tin đến đây rồi, nếu yêu quư thân mạng ḿnh mà trái lệnh cha th́ đó là đại nghịch.

        Liền cùng với quần thần vui chơi ba ngày, dạo khắp trong nước, chu câp cho kẻ nghèo cùng, giúp đỡ người thiếu thốn, đem h́nh ảnh Đức Phật làm khuôn phép, lấy ḷng Từ giáo huấn chúng dân, rồi t́m người có thể móc mắt ḿnh. Có đứa trẻ bán cỏ đă giúp thái tử lấy mắt ra đem giao cho sứ giả. Hắn bỏ đôi mắt vào hộp rồi vội vă mang về nước. Tướng quốc đem đôi mắt ấy giao cho người ái thiếp của vua. Bà này treo đôi mắt trước giường, mắng:

        -Không theo ư muốn của ta th́ bị khoét mắt, vậy có thích không?

        Đại vương nằm mộng thấy thái tử bị ong độc chích nơi mắt, tỉnh dậy nghẹn ngào nói:

        -Con ta chắc có chuyện lạ ǵ đây?

        Người thiếp yêu của vua tâu:

        -Vua luôn nghĩ đến con nên nằm mơ thấy đấy thôi, ắt không có ǵ lạ đâu!

        Thái tử dùng đàn hát kiếm ăn nuôi thân, lần hồi qua nhiều nước. Tới nước vua cha của hậu phi, là cung phi của vua cha thái tử. Nhà vua nước này có cây đàn kỳ diệu, nên gọi thái tử tấu đàn để nghe. Đầu tiên tiếng đàn khen ngợi công đức của tiên vương, sau là âm thanh buồn thảm nói về số phận của cô nhi không cha mẹ. Bà hậu phi kia thâu hiểu tiếng đàn ấy nên nghẹn ngào nói:

        -Ôi! Thái tử con vua chồng ta cùng cực đến thế sao!

        Nhà vua hỏi:

        -Con nói cái ǵ?

        Người phi thuật lại đầy đủ về sự việc của thái tử, rồi nói lời từ giă cha mẹ:

        -Việc này là do lệnh của ả nghiệt thiếp kia. Đàn bà hai họ th́ chẳng phải là trinh tráng, con xin được theo người quân tử chí hiếuấy.

        Cha mẹ bà đều buồn thương. Người phi đem thái tử trở về nước cũ. Nhà vua nghe có tiếng đàn kỳ diệu, liền gọi vào tấu nhạc để thưởng thức, thấy h́nh dung thái tử tiều tụy, chỉ nhận biết qua tiếng nói. Vua hỏi:

        -Ngươi có phải là Pháp Thí, con của ta không?

        Thái tử cúi đầu sát xuống đất, nghẹn ngào. Vua, hoàng hậu, cung nhân cả nước lớn nhỏ không ai là không thương xót. Người phitâu rơ đầu đuôi sự việc. Nhà vua than:

        -Hỡi ơi! Người nữ bất nhân! Chẳng khác nào chất độc lẫn lộn trong cơm gạo ngon! Đức Phật dạy nên xa ĺa chúng, thật chẳng đúng lắm sao!

        Rồi nhà vua liền cho bắt tướng quốc và người ái thiếp, dùng roi gai đánh chúng, rót nhựa cây nấu chảy vào vết thương, hơ lửa nóng cho nứt ra, sau đó đào hầm chôn sống chúng.

        Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

        -Túc mạng của thái tử từng là người bán ngọc trắng.

Người thiếp kia thời đó là con gái nhà giàu, ngồi xe đi đường, c̣n quan tướng quốc ngày ấy là người đánh xe. Hắn gọi đồng tử bán ngọc:

-Đem ngọc của ngươi lại đây nào!

        Rồi họ cầm ngọc khen nhưng không mua, lại nh́n nhau có vẻ dâm đăm, buông lời đùa cợt. Đồng tử nổi giận nói:

        -Không trả lại ngọc cho ta, lại c̣n nh́n dâm đăng, ta sẽ móc mắt các ngươi đấy.

        Cô gái và người đánh xe đều nói:

        -Ta lấy roi gai đánh, rồi đổ nhựa cây nóng vào vết thương cho nứt thịt ra, sau đó th́ chôn sống ngươi được chăng?

        Ôi, thiện ác đă làm, th́ họa phước sẽ liền theo sau như bóng theo h́nh, ác chín mùi tội thành ngay, như âm vang ứng với tiếng. Làm ác mà muốn khỏi tai ương chẳng khác nào gieo giống mà không muôn mọc.

        Bồ-tát giữ giới thanh thịnh của Phật, thà chịu móc mắt mà chết chứ không phạm dâm để sống.

        Thái tử Pháp Thí lúc ấy là thân Ta. Tướng quốc là Điều-đạt, người thiếp yêu của vua là vợ Điều-đạt.

        Bồ-tát giữ chí tu hạnh Độ vô cực, đă thực hành tŕ giới như vậy.

* *

31-  Thuở xưa, có vị Bồ-tát, anh em ba người gặp lúc đời khô hạn, dân chúng ăn thịt lẫn nhau. Họ cùng đi kiếm ăn để nuôi sống thân mạng hèn mọn. Trải qua núi non hiểm trở, có ngày thiếu ăn, hai anh nói:

        -Phải dùng đến thịt vợ để cứu lấy mạng được chăng?

        Người anh cả giết vợ ḿnh trước, chia làm năm phần, người em út động ḷng nhân, thương xót nên không ăn. Rồi người anh giữa cũng làm như vậy, người em út càng nghẹn ngào. Khi hai anh muốn giết đến vợ người em, người em nói:

        -Giết người để bảo toàn mạng ḿnh, không phải là con đường nhân từ của Phật, tôi khổng thể làm!

        Rồi người em đem vợ vào núi hái trái cây nuôi thân, sống qua nhiều năm ở chốn ấy. Trong núi có một người thọt chân, người vợ tư thông với hắn nên mưu tính giết chồng, giả vờ thưa:

        -Đáng lẽ thiếp phải làm nuôi chàng, mà trước nay đều để chàng làm hết. Ngày mai xin chàng cho thiếp theo phụ giúp, để được cộng khổ với chàng.

        Người chồng nói:

        -Núi non rất hiểm trở, nàng không đi được đâu!

        Chồng từ chối ba lần, vợ vẫn không chịu nên đành cho đi theo. Người vợ thấy núi cao hang sâu, liền xô chồng rơi xuống đó. May thay bên mép nước có thần, vị thần tiếp đỡ nên người chồng được b́nh yên. Thực hiện được ư đồ, người vợ hư hửng trở về cùng với người thọt chân chung sống. Người chồng theo ḍng nước để đi, gặp được một người lái buôn thương t́nh, đưa ông tới một nước giàu có. Gặp lúc vua nước ấy băng hà, không có thái tử kế vị, quần thần đang nhường nhau nên chưa biết lập ai lên ngôi. Họ lệnh cho một vị Phạm chí bói xem những người đi đường có ai hợp tướng th́ làm vua. Vị Phạm chí này vừa thấy Bồ-tát, liền nói;

        -Hay thay! Đây là một vị vua có đạo, đúng là kẻ đem ḷng nhân của trời che phủ cho muôn dân.

        Quần thần, bá quan, chúng dân gạt nước mắt khen là hay, không ai là khổng đến mừng thọ, nghinh đón đưa vào cung, đem ngôi vua trao cho. Từ đó, Bồ-tát đem bốn tâm vô lượng nuôi dưỡng muôn dân, các thuật tà mị đều phế bỏ hết, trao cho năm giới, ban bố mười điều lành, đốc suất mọi người trong nước giữ giới. Do vậy, Thiên đế hộ giúp đất nước, quỷ yêu tránh xa, khí độc tiêu trừ, lúa gạo, hoa quả được mùa. Dùng nẻo chánh cảm hóa các lân quốc, cừu địch trở thành thân thiện, người người dắt d́u bồng bế nhau quy tụvề đất nước ấy. Người vợ cũ dắt người chồng thọt kia cũng t́m vào nước xin ăn. Mụ kể lể, trước đây đem chồng đi lánh nạn trời, nay trở về nương nhờ ḷng nhân từ của vua. Người trong nước không ai là không khen lạ, đều nói:

        -Người vợ hiền này thật đáng ghi chép thành sách.

        Phu nhân của vua nói:

        -Nên trọng thưởng cho người ấy.

        Nhà vua thấy và nhận ra ngay, liền hỏi người đàn bà ấy:

        -Ngươi có biết Thiên tử là ai không?

        Người đàn bà sợ hăi cúi đầu. Nhà vua đem câu chuyện về người đàn bà đó nói hết ngọn ngành cho mọi người trong cung nghe. Vị đại thần chấp chính tâu:

        -Người này đáng chết.

        Vua nói:

        -Chư Phật lấy nhân từ làm của báu nhất trong ba cơi. Ta thà mất mạng chứ không bỏ nẻo nhân.

        Phu nhân sai người đuổi chúng ra khỏi nước, quét sạch vết chân của bọn chúng.

        Đức Phật bảo Tôn giả Thu Lộ Tử:

        -Nhà vua thời ấy là thân Ta, người thọt chân là Điều-đạt, người đàn bà là Hảo Thủ.

        Bồ-tát giữ chí tu hạnh Độ vô cực, đă thực hành tŕ giới như vậy.

* *

32-  Thuở xưa, Bồ-tát làm kẻ phàm phu, học rộng kinh Phật rơ sâu tội phước, các môn về y thuật, cả đến tiếng kêu hót của các loài cầm thú thảy đều thấu tỏ. Thấy đời rối loạn nhơ nhớp, nên ngài ở ẩn không ra làm quan, chuộng thờ giới cấm của Phật, chỉ tin theo điều chân chánh. Cuộc đời nghèo khốn, phải làm thuê vác đồ cho thương nhân. Một hôm, đến bên bờ sông ăn uống, đàn quạ kêu vang, khiến người lái buôn lo sợ nổi da gà, c̣n Bồ-tát th́ mỉm cười. Ăn uống xong, liền ra đi.

        Khi về lại nước ḿnh, người chủ nh́n kỹ người gánh thuê, hỏingay:

        -Quạ kêu ngươi cười, là có ư ǵ?

        Đáp:

        -Quạ kêu nói rằng: “Chủ có ngọc trắng quư, giá trị rất lớn, ngươi siết hắn lấy ngọc ấy, c̣n bọn ta th́ ăn thịt hắn”, v́ thế nên tôi cười.

        Người chủ nói:

        -Ngươi không giết ta v́ sao vậy?

        Đáp:

        -Kẻ không thấy kinh Phật, th́ làm ác đầy trời mà cho là không có tai họa, đó chỉ là tự lừa dối ḿnh. Ta học kinh sách vô thượng chánh chân, quan sát hạnh nhân từ thanh tịnh của Bồ-tát, nên đối với loài vật ḅ, bay, máy, cựa, đều thương yêu không giết hại, c̣n rau cỏ nếu không phải của ḿnh th́ không lấy. Phàm kẻ ưa giết hại là bất nhân, ưa lấy của phi nghĩa là không trong sạch. Ta kiếp trước v́ ham thích lấy nhiều, nên nay chịu tai ương, cuộc sống nghèo khốn, hèn mọn, phải làm thuê cho khách... giờ không lẽ phạm nữa, gieo nhân tội lỗi vô lượng th́ không phải là đệ tử của Phật. Ta thà giữ đạo chịu nghèo hèn mà chết chứ không làm việc vô đạo, được giàu sang mà sống.

        Người chủ nói:

        -Hay thay! Chỉ có lời Phật dạy là chân chánh.

        Bồ-tát giữ chí tu hạnh Độ vô cực, đă thực hành tŕ giới như vậy.

* *

33-  Thuở xưa, Bồ-tát sống đời bần cùng, làm thuê cho thương nhân, theo họ vào biển t́m lấy tài lợi. Một hôm thuyền dừng lại không chịu đi, bọn thương nhân lớn nhỏ ai nấy đều sợ hăi, cầu đảo thần linh trên dưới giúp đỡ. Riêng người làm thuê này chỉ hướng về Tam bảo, giữ giới không phạm, ăn năn, tự trách lỗi của ḿnh, mỗi ngày đêm ba lần, đem tâm Từ thệ nguyện:

        -Nguyện cho mười phương chúng sinh không c̣n sợ hăi như hôm nay. Sau này ta thành Phật sẽ độ hết các loài ấy.

        Măi đến bảy ngày, thuyền vẫn không di chuyển được. Thần biển hiện mộng gạt chủ hàng, nói:

        -Ngươi bỏ người nghèo này đi, ta sẽ cho thuyền ngươi chạy.

        Chủ hàng được báo mộng, ḷng xót xa thương người làm thuê, nên bí mật bàn với nhau. Người nghèo kia biết rơ hết việc đó, nói:

        -Không v́ một thân tôi mà làm tiêu tan mạng của mọi người!

        Chủ hàng làm bè, cấp lương thực cho người ấy, rồi hạ bè xuống đẩy ra xa. Sau đó, có con cá lớn lật thuyền, nuốt hết các thương nhân. C̣n người nghèo kia theo gió tấp vào bờ, trở về được nước ḿnh, bà con quyến thuộc mừng rỡ. Người nghèo ấy nhờ công đức quy y Tam bảo, thọ tŕ năm giới, mười thiện, ăn chay và sám hối tâm từ luôn thương xót đến chúng sinh nên được phước.

        Người nghèo ấy là thân Ta.

        Bồ-tát giữ chí, tu hạnh Độ vô cực, đă thực hành tŕ giới như vậy.

* *

34-  Thuở xưa, Bồ-tát giữ giới ở ẩn, không chuộng nẻo vinh hoa, nương náu nơi nhà giàu làm người giữ nghĩa địa cho họ. Nếu có ai đến chôn cất, ngài liền ra sức giúp đỡ, tang chủ cảm động, đem của báu biếu cho. Có được ít nhiều đều đem nộp lại cho chủ. Nhà giàu nói:

        -Ông ra sức mới có được của báu này, sao lại đem đưa cho ta?

        Đạo sĩ trả lời:

        -Tôi giữ đất cho ông, người ta đến mai táng trên đất của ông, luận theo đại nghĩa th́ của báu ấy là của ông.

        Người giàu khen:

        -Hay thay! Người hiền thuở trước há có thể vượt được ông ư?

        Bèn lựa trong đám con hầu một cô đức hạnh hiền thục, có nhan sắc, gả làm vợ, chia cho gia tài, để vợ chồng sinh sống. Đạo sĩ nói:

        -Hạnh ấy càng tiến, đức ấy càng cao!

        Đạo sĩ nghèo lúc bấy giờ là thân Ta, người vợ là Cừu-di.

        Bồ-tát giữ chí, tu hạnh Độ vô cực, đă thực hành tŕ giới như vậy.

* *

35-  Thuở xưa, Bồ-tát, thân làm người phàm, quy mạng ba ngôi báu, giữ giới không thiếu sót, cùng người cậu đi buôn bán để nuôithân. Họ đến một nước xa lạ kia, người cậu qua sông trước, nghỉ tạm ở nhà một người mẹ góa. Trong nhà có một cô gái nhỏ, thưa với mẹ:

        -Sau nhà có cái chậu rửa, có thể đem đổi cho người lái buôn để lấy ngọc trắng.

        Người mẹ thuận theo ư con gái, đem bày ra. Người lái buôn dùng dao cạo thử, th́ thấy quả thật là vật báu, nhưng giả vờ quăng xuống đất nói:

        -Đồ này làm bẩn tay ta!

        Rồi hắn liền bỏ đi ra đường. Người mẹ và con gái lấy làm xấu hổ. Người cháu đến sau, cô con gái một lần nữa đem chậu ra bán để đổi ngọc. Người mẹ bảo:

        -Việc xấu hổ vừa rồi đáng lấy làm điều răn cho hôm nay đấy. Người con gái nói:

        -Con xem anh học tṛ này có tướng người nhân từ, không phải như kẻ tham tàn trước đấy đâu.

        Rồi hai mẹ con lại bày chậu ra bán. Anh học tṛ xem xong nói: Đây quả là vàng ṛng, tôi xin đổi hết của cải của tôi được chứ? Người mẹ nói:

        -Được!

        Người cháu lại nói:

        -Cho tôi xin hai đồng tiền vàng để qua đ̣. Người cậu t́m trở lại, nói với bà mẹ:

        -Nay ta đem ít ngọc cho bà, bà đem cái chậu ấy ra đây.

        Người mẹ đáp:

        -Vừa có cậu học tṛ tốt bụng đem hết ngọc quư đổi lấy cái chậu vàng của tôi rồi, c̣n cảm ân về việc đổi rẻ nữa, bảo: bà đừng vội đi đâu, tôi sẽ trả thêm cho bà.

        Người cậu đến bờ sông, giậm chân xuống đất kêu:

        -Trả lại của báu cho ta!

        Do tánh nóng nảy, tự đấm vào ngực đến mửa máu mà chết. Người cháu đem vàng trả thêm th́ thấy cậu đă chết rồi, nghẹn ngào than:

        -Tham đến nỗi mất thân ư!

        Bồ-tát giữ tín nên được của báu, Điều-đạt gian tham phải bị mất mạng. Người cháu ấy là thân Ta, người cậu là Điều-đạt.

        Bồ-tát giữ chí, tu hạnh Độ vô cực, đă thực hành tŕ giới như vậy.

* *

36-  Xưa, có Bồ-tát, trong vô số kiếp, anh em lo mua bán kiếm lời, nuôi dưỡng cha mẹ. Đi đến một nước khác, người anh bảo em đem châu báu dâng lên vua nước ấy. Nhà vua thấy người em vóc dáng đẹp đẽ nên mừng rỡ ưng ư, hứa gả công chúa cho. Kiếm được rất nhiều ngọc rồi, người em trở về nói lại với anh. Người anh t́m đến chỗ vua. Nhà vua thấy người anh dung mạo đường hoàng, nói năng hợp Thánh điển, h́nh tướng nho nhă khó ai bằng, nên càng mừng rỡ hơn, đổi ư đem công chúa hứa gả cho người anh. Người anh ḷng nghĩ: “Anh của chồng như cha, em dâu như con! Ta với cô này có t́nh thân như cha con, há có chuyện thành vợ chồng được sao! Vua nước này ở địa vị nhân vương mà xử sự theo hành vi của loài cầm thú.

        Bèn dẫn em đi về. Công chúa lên đài cao nh́n theo nói:

        -Ta sẽ làm quỷ độc ăn gan người anh này mới đáng.

        Lần hồi trong cơi sinh tử, một kiếp kia, người anh làm con vượn, công chúa và người em làm một cặp vợ chồng ba ba. Một hôm ba ba vợ bệnh, thèm ăn gan vượn. Con đực đi t́m, thấy vượn xuống uống nước, bèn nói:

        -Người đă từng nghe nhạc chưa?

        Đáp:

        -Chưa!

        Ba ba nói:

        -Nhà ta cổ nhạc hay, ngươi muốn nghe không?

        Đáp:

        -Muốn chứ.

Ba ba nói:

        -Ngươi lên lưng ta, ta đưa ngươi về nghe.

        Vượn lên lưng ba ba, đi theo được nửa ḍng suối, ba ba nói:

        -Vợ ta thèm ăn gan ngươi, chứ trong suối làm ǵ có nhạc.

        Ḷng vượn có chút thẹn, nghĩ: “Phàm giới là đạo thường để giữ điều lành, quyền biến là việc lớn để cứu nạn.” Bèn nói:

        -Ấy! Sao ngươi không nói sớm, ta đă đem gan treo lên cây kiarồi.

        Ba ba tin thật, quay lại chỗ cây. Vượn nhảy lên bờ, nói:

        -Đồ ba ba chết tiệt! Há có chuyện gan ở trong bụng mà lại đem treo ở trên cây sao?

        Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

        -Người anh là thân Ta, thường giữ ḷng trinh sạch, trọn không phạm điều dâm loạn, nghiệp cuối của kiếp trước c̣n tai ương nên phải đọa làm thân vượn. Người em và con gái vua đều làm thân loài ba ba. Con đực là Điều-đạt, con cái là vợ của Điều-đạt.

        Bồ-tát giữ chí, tu hạnh Độ vô cực, đă thực hành tŕ giới như vậy.

* *

37-  Thuở xưa, có vị Bồ-tát đi thuyền vượt biển t́m kiếm châu báu để cứu giúp người nghèo khổ. Trên bờ biển có thành quách, vườn tược đầy đủ. Gái đẹp lên băi đón họ, nói:

        -Nước này giàu có, đẹp đẽ, châu báu muốn bao nhiêu cũng được, nên chịu khó vào thành xem dân có không?

        Những lái buôn tin theo lời quỷ mị mê hoặc, bèn ở lại cùng sống với bọn chúng, kể đă năm năm. Bồ-tát cảm thấy nhớ quê hương, cha mẹ, ra khỏi thành lên núi, trông về bốn phía xa xăm, thấy một ngôi thành bằng sắt, trong thành có một người đàn ông, đầu đội mũ trời, nghiễm nhiên ngồi, gọi Bồ-tát, nói:

        -Các ngươi điên hay sao, lại lấy quỷ mị làm vợ, bỏ hết t́nh sâu dày của cha mẹ, họ hàng. Lại bị quỷ nuốt, há chẳng lầm lạc lắm sao! Các người đừng ngủ để quan sát th́ khắc biết sự thật. Đang có con ngựa thần bay đến đây cứu mọi người, nên nhờ nó giúp quay trở về quê th́ được an toàn tánh mạng. Nếu như luyến ái những người vợ yêu mị, th́ chết vào thành ấy, các độc đầy khắp nơi, dù có hối cũng không thể cứu.

        Bồ-tát vâng lệnh, giả vờ ngủ để xem xét th́ thấy quả đúng như đă nói, ḷng sợ hăi lắm. Sáng ngày, bí mật bàn với nhau, mọi người đều đồng ư, cùng ngầm ḍ xem, thấy vợ biến thành thân chồn giành nhau ăn thịt người, không ai là không tái mặt, nói:

        -Chúng ta chắc chết thôi!

        Rồi cùng kinh sợ, chuẩn bị, nếu lười trễ là chết. Ngựa chúa kịp đến, nói:

        -Có ai chịu rời chốn này, ḷng nhớ người thân, th́ mau đến đây ta giúp cho.

        Những người lái buôn cả mừng nói:

        -Đây nhất định là trời!

        Cả đám vội đến nương thân. Vợ họ liền bế con theo dấu t́m kiếm, khóc than: “Oan lắm, hỡi trời cao! Làm vợ bao nhiêu năm mà nay cho là quỷ!”

        Tiếng ai oán động ḷng, lời bay tới cung vua, cũng tâu bày nhưtrên:

        -Bọn thiếp nay thật bàng hoàng, không biết nương dựa vào đâu, xin đức vua thương xót t́nh cảnh của bọn thiếp.

        Nhà vua cho triệu Bồ-tát vào hỏi rơ nguyên nhân. Bồ-tát đem những điều đă thấy tâu rơ đầu đuôi. Vua thấy sắc đẹp, vội cho chồng ra đi, rồi cho vào hậu cung làm chuyện dâm tà. Từ đó việc nước rối loạn, quỷ hóa làm chồn, ngày đi ăn thịt người, tác hại quá lắm mà vua không hay biết ǵ.

        Sau đó, tất cả đều mạng chung, sinh tử quay ṿng. Bồ-tát nhờ tích chứa nhiều công đức nên được làm Phật. Hồn linh của quỷ cáo hóa sinh vào làm con gái nhà Phạm chí, nhan sắc tuyệt trần. Bấy giờ, Đức Phật đi khất thực giáo hóa ở vùng đó. Ăn xong, Ngài ra khỏi thành ngồi bên gốc cây. Phạm chí thấy Đức Phật tướng đẹp, sắc diện vàng rực, nơi đầu có hào quang, như mặt trăng giữa các v́ sao. Thấy Phật như thế, ông vui mừng khôn xiết, về nói với vợ:

        -Con gái ta được người chồng ấy là bậc hùng trong đời.

        Rồi vội lấy áo quần tốt đủ thứ vào hạng đẹp nhất đời, mặc cho con gái, rồi cả nhà ông Phạm chí dẫn con gái đến dâng cho Đức Phật. Trên đường đi thấy dấu chân, người vợ nói:

        -Vị thần ấy là Bậc vô dục, há đem dâm tà làm rối loạn được chí kia sao!

        Người cha bảo:

        -Con gái ta là hàng quốc sắc đứng đầu, sao bậc đức cao lại không ngó ngàng tới?

        Người vợ liền đọc bài tụng ư:

Kẻ dâm lê chân đi

Giận nhiều giảm ư bước

Người ngu chân chạm đất

Trời, người tôn dấu này.

        Không tự biết nhục, người cha c̣n nói:

        -Bà sao trí cạn cợt thế, gắng mà thực hiện.

        Bèn đem con gái đến dâng.

        Đức Thê Tôn bảo:

        -Trời Ma thứ sáu, đă hiến cho ta ba người con gái, đều biến thành quỷ già rồi, nay ngươi đem cái túi phân này đến làm ǵ?

        Phạm chí bẽn lẽn, người vợ càng xấu hổ hơn. Bấy giờ, có vị Tỳ-kheo tiến đến cúi đầu thưa:

        -Xin để cho con.

        Đức Thế Tôn dạy:

        -Ngươi xưa làm vua, cô gái này làm quỷ, đă dùng sắc đẹp dối gạt ngươi, ăn hết dân chúng của ngươi mà ngươi không chán sao!

        Vị Tỳ-kheo thẹn thùng trở về dốc tu thiền đạt định, chứng đạo quả Câu cảng.

        Đức Phật bảo Tôn giả Thu Lộ Tử:

        -Bồ-tát từ khi nghe lời dạy của người trong thành sắt, trở về nhà quy mạng ba ngôi báu, tự thề: “Cho dẫu đến chết cũng không phạm giới trọng thanh tịnh của Đức Như Lai Ứng Nghi Chánh Chân Giác. Rồi Bồ-tát Ma-ha-tát dốc giữ giới đức thêm rộng nhiều, nên thành Phật đạo. Trưởng giả bấy giờ là thân Ta, nhà vua thời ấy là vị Tỳ-kheo chứng quả Câu cảng, quỷ là con gái của Phạm chí, người trong thành sắt là Thu Lộ Tử.

        Bồ-tát giữ chí tu hạnh Độ vô cực, đă thực hành tŕ giới như vậy.

* *

38-  Kinh Thái Tử Mộ Phách.

        Nghe như vầy:

        Một thời Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà cấp cô độc thuộc nước Văn vật. Bấy giờ, Đức Phật bảo các vị Sa-môn:

        -Xưa có quốc gia tên là Ba-la-nại, vua có thái tử tên là Mộ Phách, sinh ra đă thông minh vô cùng, các việc quá khứ, hiện tại, vị lai, trí đều thông suốt, không chút trở ngại, thân tướng tươi sáng như trăng giữa các v́ sao. Là con một của vua, nên cả nước không ai là không yêu mến. Nhưng đă mười ba tuổi, mà vẫn ngậm miệng không nói như người câm. Vua và hoàng hậu lo rầu, gọi các Phạm chí đến hỏi nguyên do. Họ thưa:

        -Đây là điềm chẳng lành. Đoan chánh mà không nói được th́ có ích ǵ cho đại vương. Hậu cung không người nối dơi, há chẳng phải tại thái tử hại sao? Theo phép th́ nên chôn sống ắt sẽ có quư tử nối ḍng.

        Nhà vua ngậm ngùi, vào bàn bạc cùng hoàng hậu. Hoàng hậu cùng cung nhân không ai mà không thương xót, than thở:

        -Sao mà thái tử bạc phước, gặp phải tai ương này!

        Người thương xót kéo đến chật đường, làm nghẽn tắc lối đi, như có đại tang. Hoàng hậu mặc cho thái tử đầy đủ y phục quư giá rồi đem giao cho táng phu. Táng phu đoạt lấy hết áo quần tốt, cùng nhau xây mộ. Mộ Phách nghĩ: “Vua cùng người trong nước đều tin ta câm thật”. Bèn lặng lẽ thu lại áo quần vào sông tắm rửa sạch sẽ, dùng hương thơm xoa lên thân, mặc đầy đủ áo quần quư giá, đi đến chỗ trên huyệt kêu:

        -Các ngươi làm ǵ đó?

        Táng phu đáp:

        -Thái tử câm điếc, làm đất nước không người nối dơi, vua ra lệnh chôn sống, mong sinh được con hiền nối ngôi.

        Thái tử nói:

        -Ta là Mộ Phách.

        Táng phu nh́n xe bỗng chốc thấy trống rỗng, xem kỹ h́nh dung, ánh sáng tỏa rực rỡ khắp đồng cỏ xa gần như ánh sáng mặt trời. Thánh linh thế lớn làm chấn động các thần. Táng phu lớn nhỏ không ai là không khiếp sợ, giương mắt nh́n nhau, mặt mày xanh mét, lời thành văn chương, thảy đều kinh hăi. Họ ngửa mặt lên trời, nói:

        -Thái tử đức linh đến thế sao!

        Liền cúi đầu thưa:

        -Nguyện xin về tâu vua ngay, để mọi người không c̣n than thở nữa.

        Thái tử bảo:

        -Các ngươi mau về tâu vua rằng ta có thể nói được!

        Họ liền về tâu lên vua. Vua và hoàng hậu cùng dân chúng lấy làm lạ về việc này, ḷng mừng rỡ khen ngợi, không ai là không vui mừng. Xe ruổi dong, người chạy vội, người xe đông đảo làm tắc nghẽn cả đường đi. Mộ Phách nói:

        -Muốn được làm Sa-môn, tu hạnh hư tĩnh, chẳng phải là tốtsao!

        Ư vừa nghĩ như thế th́ trời Đế Thích liền hóa ra vườn, ao, cây cối chưa hề thấy, lại cởi các y phục báu hóa làm ca-sa.

        Vua đến nơi, thái tử gieo năm vóc xuống đất cung kính làm lễ. Nhà vua liền ngồi xuống, nghe tiếng con nói ấy, bóng dáng uy nghi, trời đất rúng động. Nhà vua vui mừng dụ:

        -Ta có người con được cả nước kính yêu như thế, sẽ nối dơi ngôi trời, làm cha mẹ muôn dân.

        Thái tử tâu:

        -Nguyện xin đại vương thương nghe lời hèn này. Con xưa đă từng làm quốc vương nước này tên là Tu Niệm, trị nước an dân hai mươi lăm năm, thân phụng tŕ mười nẻo thiện, lấy từ bi nuôi dưỡng dân, roi gậy và các thứ binh khí đều bỏ hết không dùng đến, nhà ngục không nhốt tù nhân, trên đường đi không có tiếng ta thán, bố thí cùng khắp, không đâu là không nhuần thấm. Chỉ do lần đi dạo chơi, người theo hộ vệ rất đông, quan dẫn đường xua đuổi ráo riết khiến lê dân kinh hoàng, nên sau khi chết, bị đọa vào địa ngục Thái sơn, chịu khổ thiêu nấu, cắt, xé đến sáu vạn năm, muốn chết không được, kêu ca không ai cứu. Như vào lúc này, trong có bà con xa gần, ngoài th́ thần dân của cải vô số, thú vui vô kể, có ai biết con đă từng đọa vào địa ngục Thái sơn, chịu bao khổ thiêu nấu, đau đớn vô cùng đâu! Vinh hoa của cuộc sống, vợ con, thần dân, ai có thể chia bớt nỗi khổ này đi cho! Chỉ một ḿnh phải chịu hết các khổ độc thôi. Mỗi lần nghĩ đến điều này th́ ḷng dạ xót xa, xương cốt ră rời, thân toát mồ hôi, lạnh nổi da gà. Lời đi, họa đến, tai ương theo đuổi như bóng t́m h́nh, tuy muốn nói nên lời nhưng sợ phải chuốc lấy tội lỗi.

        Nỗi khổ ở ngục Thái sơn, nào muốn tái diễn nữa! Do đó lưỡi rụt, không muôn nói ra, mới mười ba năm mà đạo sư yêu quái đă khiến phụ vương chôn sống con. Sợ đại vương bị tội phải vào địa ngục Thái sơn, buộc con phải nói một lời. Nay con muốn làm Sa-môn, giữ hạnh vô dục, thấy đủ cửa các tai họa rồi, không muốn làm vua nữa, xin cha chớ lấy làm lạ.

        Nhà vua nói:

        -Con làm vua hạnh cao đức trọng, đem đạo dạy dân, lỗi như tơ tóc, không ai nghĩ nhớ, vậy mà phải bị tội khốc liệt đến như thế sao! C̣n như ta nay làm chủ loài người, ḷng theo điều ham muốn, không phụng thờ chánh pháp, th́ chết rồi sẽ ra sao đây?

        Bèn thuận cho thái tử học đạo. Vua trở lại trị nước, dùng chánh bỏ tà, quốc gia trở nên giàu có, yên vui. Mộ Phách liền tự luyện tâm, dứt dục, chí dốc tiến theo đạo chân, đắc quả thành Phật, rộng nói kinh pháp, cứu độ chúng sinh, đưa đến giải thoát.

        Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

        -Mộ Phách lúc đó là thân Ta, phụ vương nay là vua Bạch Tịnh, mẹ thời ấy nay là Xá Diệu, mẹ Ta. Ôi! sắc đẹp dục tà là ḷ thiêu thân, c̣n thanh tịnh đạm bạc chính là nhà không c̣n hoạn nạn. Nếu người muôn khỏi nạn, khổng tội th́ không được quên lời Phật dạy. Hành đạo tuy khổ c̣n hơn là sống trong ba đường ác. Làm người th́ được xa cảnh bần cùng lam lũ, không bị tám nạn. Nếu chí dốc học đạo th́ phải theo hạnh như Phật. Người muốn đạt được bậc Duyên giác, ứng chân, giải thoát th́ phải theo đúng hạnh ấy mới có thể đạt được.

        Đức Phật nói kinh xong, các vị Sa-môn đều vui mừng, cúi đầu làm lễ.

* *

39- Kinh Di-Lan.

        Nghe như vầy:

        Một thời Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ. Bấy giờ, các vị Sa-môn ở nơi vắng lặng, suy nghĩ sâu xa nhận thấy: người đời quen theo nẻo tà, ưa thích dục lạc từ đầu đến cuối, không hề biết chán năm dục. Năm dục là ǵ? -Đó là mắt ưa sắc, tai thích tiếng, mũi ưa mùi hương, miệng thích mùi ngon, thân ưa êm ái. Phàm năm dục này cho đến chết, há có người nhàm chán sao! Sau bữa trưa, các vị đều đến chỗ Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ nơi chân, lui ra đứng qua một bên, bạch:

        -Thưa Đức Thế Tôn, chúng con nghĩ người ngu trên đời, mê đắm năm dục, cả đến lúc chết, cũng đâu có nhàm chán.

        Đức Phật bảo:

        -Xem ra cả đời không đủ đối với năm dục ấy.

Thuở xưa có năm trăm lái buôn, vào biển kiếm lợi, trong số họ có người trí tên là Di-lan, làm thuyền trưởng. Biển có con cá thần tên là Ma-kiệt, đă lật ch́m thuyền kia, cả đám chết hết. Di-lan nhờ bám được tấm ván mà khỏi chết, gió thổi ông dạt vào bờ một đất khác tên là Tỷ ma. Ông lên bờ đi khắp để tự t́m lại cuộc sống, gặp một con đường nhỏ, theo đó đi tới, từ xa thấy một ngôi thành bằng bạc, cây cối sum suê, trong có ao tắm, giáp ṿng bôn phía đều có nước ngọt chảy quanh. Có bốn mỹ nhân đẹp như Tiên nữ, đón mời nói:

        -Trải vượt qua biển cả chắc là nhọc nhằn lắm, xin chúc mừng đến nơi được an lành. Hôm nay thành bạc này, trong có các thứ báu như vàng ṛng, bạc trắng, thủy tinh, lưu ly, san hô, hổ phách, xa cừ... làm cung điện, chúng thiếp bốn người xin dâng cho bậc nhân từ sai khiến, tối nghỉ sáng dậy theo lệnh ngài bảo ban, xin đừng đi nơi khác!

        Di-lan vào thành, lên điện bảy báu, vui say theo ư muốn, cần ǵ. được nấy.

        Sống trong thành ấy hơn ngàn năm, Di-lan nghĩ: “Các nàng ngọc nữ này chẳng muốn ta đi, chắc có duyên cớ ǵ?”. Bèn ŕnh chờ cho bốn cô gái ngủ, vội trốn đi mất. Xa xa thấy một ngôi thành bằng vàng, ông liền đi tới, có tám ngọc nữ nghinh đón, nói những lời như trên. Tám ngọc nữ ở đây c̣n đẹp hơn bốn người trước. Bảo điện ở trong thành tên là Tiết mạt, các thứ báu minh nguyệt, trân châu cũng vượt xa thành bạc. Sống ở đây chừng vài vạn năm tuổi, ông lại ngờ tám nàng ngọc nữ này hẳn có lư do ǵ, nên không cho ông đi, bèn chờ cho họ ngủ, vội lén trốn đi mất. Lại thấy một ngôi thành bằng thủy tinh, có mười sáu cô ngọc nữ ra nghinh đón ông, cũng những lời lẽ như trước, mời mọc ông vào thành, lên điện bảy báu. Thành, điện, các thứ báu, ngọc nữ, c̣n rực rỡ hơn các thành trước, ông sống ở đó hơn vài ngàn vạn năm, cảm thấy chưa thỏa, lại chờ ngọc nữ ngủ, để trốn đi nữa. Ông lại thấy một ngôi thành bằng lưu ly sáng chói rực rỡ, có ba mươi hai nàng ngọc nữ ra tiếp đón, quỳ lạy, dùng những lời mời mọc như trên, thỉnh ông vào thành, lên điện bảy báu tên là uất-đan, ở đây các vật báu, kỹ nhạc, đồ ăn ngon, nữ sắc... đều hơn các điện trước. Ông ở đấy lâu năm như các thành trên, lại đợi cho các ngọc nữ ngủ và lén trốn ra đi. Lần này, ông thấy xa xa có một thành bằng sắt, nhưng không thấy người nào ra đón tiếp. Di-lan nghĩ: “Thành bạc có bốn ngọc nữ, thành vàng có tám cô, thành thủy tinh có mười sáu cô, thành lưu ly có ba mươi hai cô, thảy đều dung nhan tuyệt trần, lại cung kính tiếp đón, nay không có người nào đón tiếp cả, chắc có chuyện ǵ chăng?”, ông đi quanh một ṿng th́ có quỷ ra mở cửa. Di-lan vào thành liền thấy con quỷ, tên là Câu Dẩn, trên đầu hắn có bánh xe cháy rực đang xoay. Quỷ giữ tội nhân, lấy bánh xe trên đầu quỷ kia tṛng lên đầu Di-lan. Năo chảy, thân cháy, Di-lan rơi nước mắt nói:

        -Từ bốn đến tám, từ tám đến mười sáu, từ mười sáu đến ba mươi hai ngọc nữ hầu hạ, sống sang trọng trong điện Tiết mạt, điện uất-đan! Ta do hạnh không biết đủ nên mới bị như thế, làm sao xa được nạn này?

        Quỷ giữ tội nhân đáp:

        -Số năm mang ṿng lửa bằng số năm đă sống nơi các thành trên, th́ ông sẽ thoát nạn này.

        Từ đó, ṿng lửa ở trên đầu Di-lan đến sáu ức năm mới khỏi.

        Đức Phật bảo các vị Sa-môn:

        -Di-lan đó nay là Ta. Sở dĩ như vậy là v́ khi ấy chưa thờ phụng ba ngôi báu, ngu mê tin theo nẻo tà, có lần mẹ tắm gội xong, mặc áo mới nằm ngủ, ta đạp lên đầu mẹ, nên ở ngục Thái sơn bị bánh xe lửa chụp lên đầu. Lại từng lấy ngày mùng tám tháng tư thọ tŕ “bát quan trai”, trong ḷng hoan hỷ nên đă được ở các thành báu, thọ mạng hàng ức ức năm, sở nguyện luôn như ư, muốn ǵ được nấy. Thấy đời không biết đủ, chỉ đạt được đạo quả mới thôi!

        Đức Phật bảo các vị Sa-môn:

        -Di-lan ra khỏi ngục Thái sơn, ḷng ngăn ba ác, miệng dứt bốn dao, thân xét ba lỗi, hiếu thuận cha mẹ, phụng thờ ba ngôi báu, đội giới làm mũ, mặc giới làm áo. Mang theo giới làm lương thực, lấy hương vị giới làm món ăn, ngồi, đi, ăn, thở không hề quên giới luật của Phật, khắp nẻo hành hóa luôn nhờ giới đức mà nên, tự đạt đến thành Phật. Cái hạnh của người phàm tục, bất hiếu với cha mẹ, không tôn thờ thầy tổ, ta thấy họ về sau tự chuốc lấy tội nặng cùng một tội như Di-lan mà thôi. Phàm làm ác th́ họa đuổi theo như bóng theo h́nh, c̣n dứt tuyệt tà ngụy, sùng tôn chân chánh th́ các tai họa tự nhiên tiêu hết.

        Đức Phật nói kinh xong, các vị Sa-môn đều hoan hỷ làm lễ.

* *

40-  Kinh Đảnh Sinh Thánh Vương.

        Nghe như vầy:

        Một thời Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ. Khi ấy Tôn giả A-nan rảnh rỗi, nên suy nghĩ sâu xa: “Chúng sinh từ đầu đến cuối, ít người chán ghét năm dục”. Sau bữa trưa, Tôn giả đến chỗ Đức Phật, cúi đầu lễ xong lui ra, bạch:

        -Thưa Đức Thế Tôn, nhân lúc ngồi rảnh con suy nghĩ kỹ, thấy rằng chúng sinh, ít người biết đủ, c̣n kẻ không biết chán năm dục th́ rất đông.

        Đức Thế Tôn khen:   

        -Hay thay! Hay thay! Đúng như ông nói đó. sở dĩ như vậy là v́. Đức Phật kể tiếp:

        -Thuở xưa, có vị vua tên là Đảnh Sinh, Đông, Tây, Nam, Bắc không ai là không thần phục. Vua có bảy báu là: đao của bánh xe vàng bay, voi trắng, ngựa tía, ngọc minh nguyệt, vợ ngọc nữ, tôi phụ chính giỏi, tôi điều binh tài. Những thứ bảy báu của vua xem ra trên đời thật ít có. Vua lại có một ngàn người con đoan chánh, tươi đẹp, thông minh, trí rộng, thiên hạ xưng tụng là Thánh, có sức mạnh chế ngự mọi người, như là sư tử. Vua đă là Thánh lại nhân từ, khắp trời an vui thần thuộc, thọ mạng có đến hàng ức năm. Ḷng vua thường nghĩ: “Ta có một cơi thiên hạ Câu-da-ni, đất đai ngang dọc ba mươi hai vạn dặm, dân chúng đông đúc, ngũ cốc dồi dào, nhà nhà giàu có, những ǵ đời hiếm th́ nước ta gồm đủ cả. Tuy nhiên ta vẫn cầu nguyện vua trời kia hăy mưa xuống tiền vàng, tiền bạc bảy ngày bảy đêm, cho ta như thế, há chẳng tốt sao?”.

        Trời theo ư nguyện của vua, mưa xuống hai thứ báu trên đầy cả mọi chốn. Ánh sáng của báu trời rực rỡ khắp nước. Nhà vua vui sướng không lường, thiên hạ lại tạ mừng rỡ. Hàng ngày cùng quần thần, nhà vua vui chơi thỏa thích. Muôn dân đều khen ngợi tốt đẹp v́ luôn được an lạc vô bờ.

        Qua được vài ngàn vạn năm, nhà vua lại nghĩ: “Ta có đất phía Tây rộng tới ba mươi hai vạn dặm, tốt tươi, đủ bảy báu, có ngàn đứa con, rạng rỡ cả đất nước, được trời mưa tiền báu, chưa từng có trên đời. Tuy nhiên, ta nghe ở phương Nam có cơi Diêm-phù-đề, đất rộng, dài có đến hai mươi tám vạn dặm, dân chúng đông đúc, cầu ǵ được nấy. Ta mà được đất ấy há chẳng sung sướng lắm sao!”.

        Ư vua vừa nghĩ, th́ bánh xe vàng hướng về Nam, bốn binh chủng bảy báu nhẹ nhàng bay đi, cùng tới trên đất ấy. Vua và thần dân nước đó không ai là không tùng phục. Vua dân nước đó trọn ngày hân hoan. Nhà vua dừng lại đó giáo hóa mọi người. Trải qua số năm như trên, nhà vua lại nghĩ: “Ta có đất phía Tây, nay lại có đất phía Nam, các báu nơi trời, người cầu ǵ mà không có. Bây giờ ta nghe ở phương Đông có cơi Phất-vu-đăi, rộng dài ba mươi sáu vạn dặm. Vua dân cơi đó, các báu, ngữ cốc, các thứ báu quư... mong ǵ được nấy. Nếu ta được đất ấy th́ chẳng càng thích thú sao?”. Miệng vừa nói như vậy, th́ bánh xe vàng liền hướng về phía Đông, bốn binh chủng đều bay đi đến đó. Vua, tôi, dân chúng nước ấy không ai là không tuân phục. Vua lại dùng chánh pháp, nhân từ giáo hóa muôn dân, số’ năm dài như trên, nhà nhà đều mang ân đức của vua. Rồi nhà vua lại nghĩ: “Ta có đất ở các cơi Tây, Nam, Đông. Trời, người các báu, không có báu quư ǵ mà ta không có. Nay nghe phương Bắc có cơi uất-đan-việt, nếu ta làm vua cơi ấy th́ chẳng tốt lắm ư?’Vừa mở miệng nói lời nguyện, th́ bánh xe vàng đă hướng về phía Bắc, bốn binh chủng đều bay như trước. Vừa vào cơi ấy, xa xa thấy đất xanh như sắc lông chim thúy, nhà vua hỏi:

        -Các người thấy đất xanh chứ?

        Họ thưa:

        -Dạ thấy.

        Vua nói:

        -Đây là đất uất-đan-việt.

        Lại thấy đất trắng, vua hỏi họ thấy không, họ đáp:

        -Có thấy.

        Vua nói:

        -Đất đây đă thành cơm gạo rồi, các ngươi ăn đi!

        Rồi lại thấy các cây báu, trên đó nào là áo quần mịn đẹp, xuyến, nhẫn, chuỗi ngọc lạ lùng, nhà vua hỏi:

        -Các ngươi thấy đó chứ?

        Thưa:

        -Dạ thấy.

        Nhà vua bảo:

        -Các ngươi lấy mà mặc vào đi!

        Nhà vua cai trị bằng ḷng nhân từ, giáo hóa dân bằng ḷng khoan thứ, số năm ở đấy lâu như trên. Rồi lại sinh ư nghĩ: “Ta đă có ba cơi thiên hạ, nay được thêm cơi phương Bắc bốn mươi vạn dặm, bây giờ th́ muốn lên cơi trời Đao-lợi, đến chỗ của Đế Thích”. Vua vừa nghĩ vậy th́ bánh xe vàng liền hướng lên trên, bốn binh chủng bảy báu bay lên trời, vào cung Đế Thích. Đế Thích thấy nhà vua đến th́ vui mừng nghinh đón, nói:

        -Nghe cao danh đă lâu, muốn được gặp gỡ, nay ngài bay lên đây, thật là sung sướng lắm!

        Đế Thích bèn cầm tay cùng ngồi, nhường vua ṭa ngồi. Nhà vua ngoái nh́n tả hữu thấy cung điện trên trời làm bằng vàng ṛng, bạc trắng, thủy tinh, lưu ly, xa cừ, hổ phách, trân châu... ḷng càng hớn hở, lại nghĩ: “Ta có bốn nước, tiền báu vô số, nhưng ở đây sang quư khó tả xiết, nếu khiến cho trời Đế Thích chết đi, để ta ở ngôi vị ấy th́ chẳng thỏa nguyện lắm sao?”

        Niệm dữ vừa dấy lên th́ thần túc liền bị diệt hết. Đế Thích đưa về cung cũ th́ lâm bệnh nặng, quan phụ chính tâu:

        -Thiên vương bệnh nặng, nếu có mệnh hệ nào th́ sẽ có di huấn ǵ không?.

        Nhà vua nói: .

        -Như có ai hỏi v́ sao nhà vua mất đi th́ hăy đáp như chỗ ngươiđă thấy. Do tham mà bị bệnh, đến nỗi mất mạng, ôi, tham lam là lưỡi dao hại mạng, là cái gốc của sự mất nước, xa ba ngôi báu để theo ba đường ác thảy đều do đấy mà ra cả. Kẻ nối dơi về sau phải lấy đó làm điều răn, xem lửa tham, si là gốc thiêu đốt thân ḿnh, vậy nên cẩn thận chớ tham. Phàm càng sang quư nhiều th́ họa càng cao, của báu nhiều th́ oán kia càng lắm.

        Sau khi vua mất rồi, những người nối tiếp thuộc nằm ḷng những lời răn dạy về tham ấy, nương vào đó làm của báu truyền đời. Dân chúng trong bốn cơi thiên hạ tôn trọng sự giáo hóa nhân từ, phụng thờ ba ngôi báu, làm theo mười điều thiện nên được phước lâu đài.

        Đức Thế Tôn nói:

        -Xem ra ở đời ít kẻ có thể bỏ vinh quư, vứt năm dục. Chỉ có những bậc chứng được các quả Câu cảng, Tần lai, Bất hoàn, ứng nghi, Duyên giác, Vô Thượng Chánh Chân Đạo Tối Chánh Giác Đạo Pháp Ngự Nhân Thiên Sư, th́ mới cỏ thể dứt tuyệt được. Phi hành hoàng đế sở dĩ mọi ước nguyện đều đạt được, không hề trái với ư là v́ do kiếp trước đă tu tập các pháp Bố thí, Tŕ giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ, chứ không phải tự nhiên mà có. Vua Đảnh Sinh ấy chính là thân Ta.

        Đức Phật nóikinh xong, Tôn giả A-nan vui mừng đảnh lễPhật.

* *

41- Kinh Vua Phổ Minh.

        Nghe như vầy:

        Một thời Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ, Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

        -Thuở xưa, có Bồ-tát làm đại vương tên là Phổ Minh, ḷng Từ thi ân tỏa trùm khắp, mười phương đều ca ngợi, dân chúng nguyện nhà vua luôn được an lành như con hiền hỏi thăm cha mẹ.

        Nước bên cạnh có vị vua cai trị theo đúng phép, sức mạnh như sư tử, đuổi bắt được chim bay. Một hôm, người lo thịt ăn cho vua bị mất thịt, nên sáng sớm đă vội đến chợ t́m mua, trên đường đi hắn thấy thây người vừa mới chết, bèn lấy thịt đó về làm món ăn, hương vị ngon hơn thịt súc vật. Hôm sau, hắn làm đồ ăn không ngon bằng trước, nhà vua trách hỏi Thái quan, người phụ trách về thịt đến cúi đầu thú nhận sự việc. Ḷng vua bẽn lẽn nói:

        -Thịt người ngon đấy chứ!

        Rồi vua ngầm ra lệnh cho đầu bếp dùng thịt ấy làm món ăn thường ngày.

        Đức Thế Tôn nói:

        -Con người, hễ đắm sâu nơi mùi vị th́ đạo nhân mỏng, nẻo nhân mỏng th́ ḷng lang sói dấy mạnh. Ôi! Làm chó sói th́ ham mùi vị thịt, giết hại mạng sống loài vật, nên thiên hạ oán thù.

        Đầu bếp vâng lệnh, lặng lẽ đi giết người để cung phụng theo ư muốn của vua. Thần dân xôn xao, dâng biểuxin vua truy tầm kẻ giết người. Nhà vua đành phải đồng ư, nhưng mật bảo đầu bếp:

        -Ngươi hăy cẩn thận đấy!

        Một hôm, có quan chức bắt được kẻ giết người, hắn nói:

        -Vua ra lệnh cho tôi đó.

        Quần thần đến can vua:

        -Chúng thần trộm nghe, bậc vua là đức theo pháp nhân từ, anh minh th́ nhật nguyệt cùng tỏa sáng, đất dày thấm nhuần ân như trời đất, ôm giữ chúng sinh như là hư không, vậy mới đáng là vua của thiên hạ. Nếu bỏ nhân từ theo nẻo tàn bạo tức là loài sài lang, bỏ sáng theo tối, ấy là bọn đui mù, bỏ cứu vớt để tự đắm ch́m là lũ đục phá thuyền, bỏ thấm ướt ưa thích khô ráo tức là giết ḿnh trong lửa hạn. Quay lưng với chỗ rộng thoáng để hướng về chốn ngột ngạt tức là tâm của loài người đá. Ôi! Hành động của những kẻ lang sói tham tàn, mù tối, đắm ch́m, thiêu đốt, người đá, thật không đáng làm người coi đám đầu bếp há đâu có thể làm vua trong thiên hạ? Nếu tôn sùng đức th́ thạnh, ưa tàn hại th́ vong, hai nghĩa thiện ác ấy, vua nghĩ thế nào?

        Nhà vua nói:

        -Trẻ sơ sinh dứt sữa được không?

        Quần thần đáp:

        -Không thể được.

        Nhà vua bảo:

        -Ta cũng như thế.

        Quần thần đều nói:

        -Sài lang không đáng nuôi dưỡng, kẻ vô đạo không đáng làmvua.

        Thần dân một ḷng đồng thanh đuổi đi. Vua chạy vào núi thấy thần cây, bèn cúi đầu thưa:

        -Khiến tôi được trở về lại đất nước, tôi xin dâng cho thần một trăm vua.

        Thề xong liền đi. Bèn ŕnh chờ các vua ra ngoài, đột kích bắt lấy, như diều cắt tóm bắt chim én, sẻ. Hắn bắt giữ được chín mươi chín vị vua. Thần cây hiện h́nh người, dung mạo đẹp đẽ khác thường, gọi A Quần bảo:

        -Người làm việc vô đạo, nên đánh mất ngôi vua sang quư, nay lại làm điều tàn ác lớn hơn, c̣n muốn trông chờ ǵ nữa?

        A Quần chạy tới phía trước, bỗng nhiên người ấy biến mất. Vừa khi vua Phổ Minh đi quan sát dân t́nh khổ, vui thế nào. Trên đường gặp một Phạm chí, vị ấy nói:

        -Xin đại vương trở về cung, tôi có điều muốn thưa.

        Nhà vua bảo:

        -Hôm qua đă ban lệnh rồi, nay phải thực hiện, chữ tín khó làm trái. Xin mời đạo sĩ đến cung ngồi, ta quay về ngay.

        Rồi vua ra đi, th́ bị A Quần bắt được, ném bên gốc cây. Nhà vua nói:

        -Ta không sợ mất mạng, chỉ hận v́ chữ tín của ta bị hủy bỏ.

        A Quần hỏi:

        -V́ sao vậy?

        Nhà vua liền nói rơ về lời thề của ḿnh khi gặp đạo sĩ và xin gặp ông ấy một lần để nhận giới trọng, đem ít của báu dâng lên, rồi trở lại chịu chết, không ân hận.

        A Quần thả nhà vua trở về gặp đạo sĩ. Vua đích thân bày ṭa cao mời đạo sĩ lên ngồi. Đạo sĩ liền nói bài kệ:

Số kiếp đă hết

Lửa cháy đất trời

Tu-di biển lớn

Đều ra tro rồi.

Trời rồng hết phước

Về trong tiêu tan.

Đất trời c̣n mất

Nước sao thường ngôi?

Sinh, lăo, bệnh, tử

Luân chuyển không bờ.

Việc cùng nguyện trái

Buồn lo ấy hại

Dục chất họa chồng

Không ngoài bướu nhọt

Ba cơi đều khổ

Nước chỗ nào nhờ?

Có vốn từ không

Nhân duyên nên thành?

Thạnh ắt phải suy

Thật tất có hư!

Chúng sinh xuẩn ngu

Đều duyên chốn huyễn

Tiếng vang đều không

Đất nước cũng vậy        

Thần thức vô h́nh

Xe kéo bốn rắn.

Vô ḿnh quư dưỡng

Dùng làm xe vui

H́nh, vô thường chủ

Thần, vô thường nhà

Ba cơi đều ảo

Nào có nước đâu?

        Nhận bài kệ xong, nhà vua liền hiến cúng một vạn hai ngàn tiền vàng cho vị Phạm chí. Phạm chí lại dạy:

        -Ông nên nhớ nghĩ đến bốn vô thường th́ họa kia ắt tiêu diệt. Nhà vua đáp:

        -Thưa vâng, không dám trái lời dạy sáng suốt.

        Rồi nhà vua đến chỗ gốc cây đă hẹn. Thấy nhà vua vừa đi vừamỉm cười, A Quần nói:

        -Mạng nguy đến nơi sao vui được mà cười?

        Đáp:

        Lời dạy của Đức Thế Tôn, ba cơi ít kẻ nghe, nay ta được nghe và nhớ, sao lại c̣n tiếc đất nước, thân mạng?

        A Quần ṿi vĩnh nói:

        -Xin được nghe lời dạy quư giá.

        Nhà vua liền đem bốn bài kệ trao cho. A Quần vừa sợ vừa mừng, khen:

        -Đức Thế Tôn lồng lộng thay! Đă nêu bày rơ bốn vô thường. Ôi! Ta v́ không được nghe, thấy, nên đă làm những việc ngông cuồng, sai trái.

        Rồi ông liền thả một trăm vị vua, ai về nước nấy. A Quần sám hối lỗi lầm, tự sửa đổi, lấy gốc cây làm chỗ ở, ngày ngày luôn nhớ nghỉ về bốn bài kệ. Đến khi lâm chung, hồn chuyển đến làm Vương thái tử. Cưới vợ không sinh được con trai, nhà vua càng thêm lo buồn, nhân đó tuyển mộ con gái trong nước rồi dạy dỗ, khiến có con trai, về sau, thái tử trở nên dâm dật, phóng đăng, không theo đạo chân, nhà vua giận dữ sai phơi thây thái tử ở ngă tư đường, ra lệnh cho người đi đường dùng ngón tay gơ vào đầu để làm nhục. Gơ vừa đúng chín mươi chín người th́ thái tử mới chết. Linh hồn ông biến hóa, luân chuyển măi không thôi, đến khi sinh ra ở nước Xá-vệ th́ gặp Phật tại thế. Ông sớm mồ côi cha, cùng mẹ sống cô đơn theo đạo Phạm chí, tánh thuần, lời tín, sức mạnh địch cả voi, được thầy yêu, bạn kính, gần xa đều khen là hiền.

        Mỗi lần đi du hóa, thầy đều giao cho ông trông coi việc nhà. Một hôm, người vợ yêu của thầy kéo tay ông, dùng lời dâm dục dụ dỗ. A Quần từ chối:

        -Bạn già ở đời, đàn ông là cha ta, đàn bà là mẹ ta, huống chi thầy là chỗ ta kính trọng! Bảo thiêu đốt thân mạng c̣n có thể làm theo, chớ loạn luân th́ ta không dám thuận.

        Vợ thầy xấu hổ lui vào nghĩ kế, chồng về, vợ nói:

        -Ông khen hắn hiền, đủ rơ là ông không biết ǵ về hắn cả.

        Rồi mụ đặt điều nói đủ lỗi của ông. Lời yêu nữ nói ra như thật, khiến Phạm chí tin. Phạm chí nói với A Quần:

        -Ngươi muốn thành Tiên không?

        Thưa:

        -Dạ muốn.

        Thầy bảo:

        -Ngươi giết một trăm người, chặt lấy một trăm ngón tay của họ là được thành tiên ngay.

        Vâng lời thầy, A Quần vác kiếm t́m gặp người là giết, thu được chín mươi chín ngón tay, mọi người đều chạy trốn hết, cả nước chấn động. Không c̣n ai, hắn thấy mẹ ḿnh, mừng rỡ nói:

        -Mẹ nữa là đủ số, ta sẽ thành Tiên ngay thôi!

        Thấy cảnh ấy, Đức Phật nghĩ: “Tà đạo mê hoặc mọi người, hạng ấy có mặt ở khắp nơi.” Ngài liền hóa làm một vị Sa-môn, đi ở đàng trước A Quần. Hắn nói:

        -A, có người này là đủ sốrồi!

        Bèn chạy đuổi theo sau mà không kịp được. Hắn kêu:

        -Này! Sa-môn, hăy dừng lại.

        Đức Phật đáp:

        -Ta dừng đă lâu rồi, chỉ có ngươi là không dừng thôi.

        Hắn hỏi:

        -Dừng nghĩa là thế nào?

        Đức Phật đáp:

        -Ta, các việc ác đều dừng, c̣n ngươi th́ các việc ác đều bừnglên.

        A Quần tâm mở rộng, bỗng như mây tan, gieo năm vóc xuống đất, cúi đầu hối lỗi, chắp tay xin theo.

        Đức Phật đem về tinh xá, cho làm Sa-môn, lại v́ ông thuyết giảng về hạnh kiếp trước, hiện rơ bốn vô thường, ông chứng được đạo quả Câu cảng, lui về bên gốc cây ngồi nhắm mắt chắp tay, tu luyện trừ bỏ các thú cấu nhiễm c̣n sót lại, tiến lên chứng được đạo quả Vô trước.

        Trong khi ấy, quốc vương triệu tập quân sư, chiến sĩ vài vạn, ra lệnh t́m bắt yêu tặc giết người, chưa biết đi đâu. Trên đường đi qua chỗ Đức Phật, thấy vua, Đức Phật hỏi:

        -Nhà vua từ đâu đến mà thân lấm bụi đất?

        Vua đáp:

        -Trong nước có yêu tặc giết hại quá nhiều mạng dân, nay đi t́m bắt nó.

        Đức Thế Tôn hỏi:

        -Nếu dân chúng trước tu đức hạnh, mà sau thoái lui chuộng tà đạo th́ phép trị nước xử như thế nào?

        Vua đáp:

        -Trước quư, sau hèn th́ dùng phép chánh mà trị.

        Đức Phật hỏi tiếp:

        -C̣n nếu trước mang ḷng súc vật, sau bỏ đi mà giữ lấy đức Thánh th́ chánh pháp ra sao?

        Vua đáp:

        -Trước hèn, sau quư th́ dùng chánh pháp mà ban thưởng.

        Đức Phật nói:

        -Yêu tặc mà ngài t́m, nay đă bỏ tà chuộng chân rồi, hiện đang làm Sa-môn.

        Nhà vua khen:

        -Hay thay, Đức Như Lai Vô Sở Trước Chánh Chân Đạo Tối Chánh Giác Đạo Pháp Ngự Thiên Nhân Sư đă giáo hóa cao thượng, thần diệu đến như thế ư! Trước là kẻ sài lang, nay là người có ḷng nhân từ của trời đất.

        Nhà vua cúi đầu dưới chân Như Lai, rồi lại khen:

-Việc hóa độ này lạ lắm, con nguyện được một lần nh́n thấy người này.

        Đức Thế Tôn nói:

        -Được.

        Vua cùng các quan đi theo kéo đến chỗ A Quần, nói:

        -Này hiền giả đức cao! Hăy một lần mở mắt để thấy nhau được không?

Nhà vua nói như vậy ba lần, A Quần mới đáp:

        -Tia mắt sáng ngời của ta chiếu tỏa ra, thật khó mà đương nổi!

        Nhà vua cúi đầu nói:

        -Ngày mai, bày một buổi tiệc nhỏ, xin được đón đến.

        Đáp:

        -Dọn nơi nhà xí th́ đến, c̣n dọn ở cung điện th́ không.

        Nhà vua nói:

      -Xin vâng

        Trở về, nhà vua cho phá nhà xí, đào bỏ đất cũ, thay vào đất mới. Những thứ gỗ quư như chương tử, chiên-đàn được dựng làm rường cột, nước thơm rải thấm đất. Các thứ hương như chiên-đàn, tô hợp, uất kim, ḥa với nhau làm vữa, tô vách, len, dạ, lụa là, dùng làmṭa ngồi. Chạm khắc hoa văn, đem các thứ vật báu làm đẹp tăng thêm rực rỡ, huy hoàng, có khi c̣n hơn cả cung điện. Rạng ngày đích thân nhà vua bưng lư hương đến đón. A Quần vào chỗ ngồi, nhà vua vénáo, đi gối hầu hạ. Thọ cúng dường xong, liền thuyết giảng kinh.

     -Ngày trước nhà xí ô uế, há có thể dọn ăn được ư?

      Đáp:                                                                                 

     -Không được.

      Hỏi:

     - Nay th́ dọn được ư?

     Vua nói:

     Được vậy.

     A Quần nói:

     - Ta khi chưa gặp Phật th́ tin thờ yêu quái, ḷng nghĩ, miệng nói, thân làm toàn các việc tà vạy, đạo tà dơ bẩn nên chúng trở thành hôi thối càng quá hơn nhà xí. Phân dơ c̣n rửa sạch c̣n cấu uế th́ khó trừ, nhưng nhờ phúc kiếp trước nên sanh vào đời có Phật, được tắm gội bằng sự giáo hóa sạch trong, khử mùi thối, thấm hương thơm. Trong ngoài thanh tịnh như trân châu của trời. Ôi! Nếu không gặp được Phật, không nhận biết bốn vô thường, th́ xem ra cái chí kia chẳng khác nào người cuồng dại do say rượu, Không gần gũi bậc Hiền mà nương theo mưới ác, th́ hẳn cùng với sài lang cùng một bè vậy.

    Nhà Vua nói:

    Hay thay! Lạ thay! Chỉ có sự giaó hóa của đức Phật mới khiến cho mùi hôi thối của nhà xí hóa thành hương chiên đàn.

    Nói Kinh xong, A Quần liền đi ngang qua chợ, nghe có người đàn bà sinh ngược, mạng sống chỉ trong hơi thở, liền trở về thưa rơ lên đức Phật. Đức Phật nói:

    Ngươi nh́n người sinh và nói như thế này. Ta từ khi sinh ra đến nay, đem ḷng Từ hướng về chúng sinh, cứu giúp thấm nhuần khắp trời đất, mẹ con ngươi đều được an toàn!

    Ông nhận lời dạy bảo rồi ra đi, đến nơi, đem lời ân đức của Phật đọc lên th́ người đàn bà kia được mẹ tṛn con vuông. Trên đường trở về, ông ngỡ ḿnh có tội ác giết người mà nói là thương khắp. Bèn cúi đầu hỏi lại Đức Phật. Đức Phật bảo A Quần:

    -Ngày mà ḷng phàm của ngươi mở ra thọ nhận đạo pháp, có thể gọi là mới sinh. Không gặp ba ngôi báu, không thọ giới trọng, như đứa trẻ c̣n trong thai, có mắt mà nào thấy được ǵ, có tai mà nào nghe được ǵ, nên nói là chưa sinh!

    A Quần tâm mở liền chứng được đạo quả Ứng chân.

    Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

    -Vua Phổ Minh thưở ấy chính là thân Ta. Ta đời trước đă trao cho A Quần bốn bài kệ, một lúc đă cứu sống một trăm vua, nay khiến đắc đạo, không chịu tội nặng. A Quần kiếp trước đă từng làm Tỳ- kheo vác một hộc gạo đưa vào trong chùa, làm một lưỡi dao dâng cúng, hoan hỷ, ca ngợi Đức Thế Tôn, cúi đầu mà đi. Vác gạo nên có nhiều sức mạnh, dâng cúng dao nên được nhiều của báu, hoan hỷ nên được đoan chánh, ca ngợi Đức Thế Tôn nên được làm vua, cúi đầu làm lễ Phật nên được người trong nước sùng bái. C̣n chín mươi chín người gơ vào đầu cho đến chết là trả oán trước đă chặt ngón tay của họ. Người đến sau muốn gơ nữa th́ thấy đă chết, lại thấy Sa-môn, liền có Từ tâm. Người đến sau tức là mẹ A Quần bây giờ, ban đầu có ư ác, nên A Quần ban đầu cũng có ư ác (định giết mẹ), thấy Sa-môn lại có tâm Từ nên thấy Phật là hiếu thuận ngay. Gieo giông tinh thuần th́ được thuần, gieo giống tạp th́ được tạp, thiện ác làm ra, phước họa t́m đến, như bóng theo h́nh, vang ứng theo tiếng, tất cả đều có nguyên do, không phải là tự nhiên. Các Tỳ-kheo nguyện:

    -Khiến người gặp được Phật, đắc đạo được như sở nguyện, cúng dường ba ngôi báu, dù có ít như tơ tóc. Sa-môn đem ḷng Từ chú nguyện cho người bố thí, nói như lời người ấy nói th́ được cả vạn mà không sót một người nào.

    Bồ-tát giữ chí tu hạnh Độ vô cực, đă thực hiện tŕ giới như vậy.

KINH LỤC ĐỘ TẬP

QUYỂN 1-4 , QUYỂN 5-8

-

TRANG CHỦ*--KINH ĐIỂN*--ĐẠI TẠNG KINH*--THẦN CHÚ*--HÌNH ẢNH*--中文*--ENGLISH

Uploaded / Updated on 2021-10-21

 

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0