佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

 TRANG CHỦ*--KINH ĐIỂN*--ĐẠI TẠNG KINH*--THẦN CHÚ*--HÌNH ẢNH*--中文*--ENGLIS

VT0287

KINH THẬP ĐỊA

Hán dịch: Đời Đại Đường, Tam tạng Thi-la-đạt-ma.

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

MỤC LỤC

QUYỂN 1

Phẩm 1: ĐỊA CỰC HỶ (Phần 1)

QUYỂN 2

Phẩm 1: ĐỊA CỰC HỶ (Phần 2)

Phẩm 2: ĐỊA LY CẤU

QUYỂN 3

Phẩm 3: ĐỊA PHÁT QUANG

Phẩm 4: ĐỊA DIỆM TUỆ

QUYỂN 4

Phẩm 5: ĐỊA NAN THẮNG

Phẩm 6: ĐỊA HIỆN TIỀN (Phần 1)

QUYỂN 5

Phẩm 6: ĐỊA HIỆN TIỀN (Phần 2)

Phẩm 7: ĐỊA VIỄN HÀNH

QUYỂN 6

Phẩm 8: ĐỊA BẤT ĐỘNG

QUYỂN 7

Phẩm 9: ĐỊA THIỆN TUỆ

QUYỂN 8

Phẩm 10: ĐỊA PHÁP VÂN (Phần 1)

QUYỂN 9

Phẩm 10: ĐỊA PHÁP VÂN (Phần 2)

 

 

| ML | Q 01 | Q 02 | Q 03 | Q 04 | Q 05 | Q 06 | Q 07 | Q 08 | Q 09 |

KINH THẬP ĐỊA

Hán dịch: Đời Đại Đường, Tam tạng Thi-la-đạt-ma.

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 1

Phẩm 1: ĐỊA CỰC HỶ (Phần 1)

Tôi nghe như vầy:

–Một thuở nọ, vào ngày cuối của tuần thứ hai, sau khi thành đạo, Đức Phật lên điện Ma-ni bảo tạng, thuộc cung Tự tại Thiên vương của cõi trời Tha hóa tự tại cùng vô số Bồ-tát cũng tới đây. Những Bồ-tát này, đều từ các cõi Phật khác đến, đều đạt không thoái chuyển trong đạo Vô thượng Bồ-đề, là những vị còn một đời nữa sẽ thành Phật, nghĩa là đã an trụ trong cảnh giới Trí sở hành (đối tượng hành động của trí) thuộc Bồ-tát, hướng đến cảnh giới Trí sở hành của Như Lai, luôn siêng năng, giỏi thị hiện thần thông, tùy thời không ngăn ngại, hóa độ tất cả chúng hữu t́nh, luôn đem lợi ích cho mọi loài, phát khởi hạnh nguyện của Bồ-tát, trải qua nhiều đời, ở khắp mọi nơi, tu tập không ngừng nghỉ; đầy đủ hành trang phước trí của Bồ-tát, chúng sinh đều được nương nhờ; đạt sự giải thoát, đủ trí tuệ phương tiện đến bờ kia của Bồ-tát, thị hiện việc vào cửa sinh tử và Niết-bàn, không bỏ việc tu tập hạnh Bồ-tát; tự tại đi đến nơi tất cả chúng hội đạo tràng của Như Lai, làm người đứng đầu, thỉnh Phật thuyết pháp, thọ tŕ tạng pháp của Như Lai, phụng sự cúng dướng các Đức Phật, siêng năng tu tập hạnh nguyện của Bồ-tát, hiện thân khắp chốn, diễn thuyết không bị chướng ngại, thấu triệt pháp giới, tâm trí sáng suốt, thấy tất cả cảnh giới trong ba đời, đầy đủ hạnh chân chánh, công đức sâu kín nhiệm mầu của Bồ-tát. Cho dù trải qua vô số kiếp, để khen ngợi công đức của những vị này cũng không thể hết được. Những Bồ-tát đó là Kim Cang Tạng, Bảo Tạng, Liên Hoa Tạng, Đức Tạng, Nhật Tạng, Liên Hoa Đức Tạng, Diệu Tạng, Địa Tạng, Vô Cấu Nguyệt Tạng, Thị Nhất Thiết Trang Nghiêm Quang Minh Tạng, Trí Tuệ Phổ Chiếu Minh Tạng, Chiên-đàn Đức Tạng, Diệu Cát Tường Tạng, Hoa Đức Tạng, Câu-tô-ma Đức Tạng, Ưu-bát-la Đức Tạng, Thiên Đức Tạng, Phước Đức Tạng, Vô Ngại Tịnh Trí Tạng, Công Đức Thắng Tạng, Na-la-diên Đức Tạng, Vô Cấu Tạng, Ly Cấu Tạng, Chủng Chủng Biện Tài Trang Nghiêm Tạng, Đại Quang Minh Võng Chiếu Tạng, Ly Cấu Oai Đức Quang Minh Vương Tạng, Vô Ngại Diệu Âm Mỹ Hưởng Tạng, Tổng tŕ Công Đức Năng Độ Nhất Thiết Hữu T́nh Nguyện Tạng, Đại Hải Trang Nghiêm Tạng, Tô-mê-lô Đức Tạng, Thị Hiện Nhất Thiết Công Đức Thanh Tịnh Tạng, Như Lai Đức Tạng, Phật Đức Tạng, Thuần Kim Vi Diệu Đại Oai Đức Vương Quang Minh Tạng, Nhất Thiết Tướng Trang Nghiêm, Tịnh Tạng Tinh Tú Vương Quang Chiếu Tạng, Hư Không Khố Vô Ngại Trí Tạng, Giải Thoát Nguyệt. Có vô số, vô lượng Bồ-tát như vậy, từ vô số các cõi Phật khác đến đây. Bồ-tát Kim Cang Tạng là người đứng đầu.

Lúc ấy, Bồ-tát Kim Cang Tạng, nương theo thần lực của Phật, nhập Tam-ma-địa vi diệu của Bồ-tát, tên là Đại thừa quang minh. Ngay khi đó, có vô số Phật, cùng một hiệu Kim Cang Tạng, ở vô số cõi nước khắp mười phương hịên ra, đồng nói:

–Lành thay! Lành thay! Phật tử! Ông nay có thể nhập Tam-muội Đại thừa quang minh của Bồ-tát, vô số chư Phật hiện ở mười phương đều gia hộ ông. Nhờ oai lực nơi bản nguyện của Thế Tôn Tỳ-lô-giá-na ǵn giữ, tất cả Bồ-tát đều thâm nhập, hiển thị pháp sáng không thể nghĩ bàn của Phật, ở trong cảnh trí đó, ǵn giữ tất cả căn lành, phân biệt pháp theo phương tiện thiện xảo của chư Phật, rộng biết pháp, diễn thuyết đúng, khéo thành tựu pháp, đạt thanh tịnh bằng trí không phân biệt, không nhiễm pháp ma, đạt căn lành theo pháp xuất thế thanh tịnh, chứng cảnh hạnh nghiệp bằng trí không thể nghĩ bàn, cho đến chứng đắc cảnh giới của trí Phật, đạt trụ mười địa Bồ-tát, thuyết giảng như thật về phương tiện an lập Bồ-tát địa, suy xét đúng Phật pháp, tu pháp vô lậu sai biệt, phân biệt rõ phương tiện thiện xảo, trí tuệ quyết định sáng suốt, thâm nhập nơi trí môn vững chắc, đủ tài biện luận đến đâu cũng không sợ, đạt trí hiểu biết rộng lớn không bị ngăn ngại, không làm hao mất tâm niệm Bồ-đề, hóa độ thành tựu các loài chúng sinh, thông đạt phân biệt rõ ràng ở khắp mọi nơi chốn.

Song này, Phật tử! Ông hãy phân biệt giảng thuyết về pháp môn phương tiện thiện xảo sai khác này. Đó là do sức thần và trí sáng của Phật gia hộ, đủ căn lành thanh tịnh, soi sáng pháp giới chân thật, tạo lợi ích cho tất cả chúng hữu t́nh, được chứng Pháp thân làm nơi nương tựa của trí, được chư Phật dùng nước trí rưới nơi đỉnh đầu, hiện thân to lớn hơn tất cả thế gian, vượt qua các cõi thế gian, làm thanh tịnh chánh pháp xuất thế gian, đầy đủ trí Nhất thiết trí.

Lúc ấy, các Đức Phật ở mười phương, trao cho Bồ-tát Kim Cang Tạng thân sáng, cùng biện tài diễn thuyết vô ngại, cùng nhập biện tài trí tuệ thanh tịnh vi diệu, cùng giúp đỡ sự nhớ kỹ, cùng phương tiện thiện xảo nơi trí tuệ vững chắc đầy đủ hành trí, có sức hiểu biết chân chánh không ai bẽ gẫy được, cùng pháp vô úy của Như Lai để không khiếp nhược, dùng trí Nhất thiết trí giữ ǵn sự an ổn, biện tài giảng thuyết kiên cố không ngại, khéo phân biệt thân, khẩu, ý trang nghiêm của tất cả các Đức Phật. V́ sao? V́ Bồ-tát này được Tam-muội Đại thừa quang minh bảo hộ, v́ pháp thường như vậy, do sự dẫn phát của sức nơi bản nguyện, ý vi diệu thanh tịnh tăng thượng, trí thanh tịnh sáng suốt, đầy đủ hành trang, tôi luyện hạnh nghiệp, dùng vô lượng niệm làm khí cụ, hiểu rõ thanh tịnh, thông đạt pháp Tổng tŕ thuần nhất, được dấu pháp nơi trí pháp giới ấn chứng.

Khi đó, các Đức Phật không rời chỗ ngồi, đều dùng thần lực đưa tay phải xoa đầu Bồ-tát Kim Cang Tạng. Được chư Phật nơi mười phương xoa đầu, Bồ-tát Kim Cang Tạng ra khỏi định, nói với tất cả các Bồ-tát:

–Này Phật tử! Chỉ có hạnh nguyện của Bồ-tát bền chắc và thuần tịnh, tánh rộng lớn như pháp giới, không thể soi chiếu, cùng tận như hư không mới mãi mãi cứu độ tất cả các loài hữu t́nh. Các Phật tử, Bồ-tát an trụ hạnh nguyện này, mới nhập được trí địa của chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại.

Phật tử! Tất cả Bồ-tát có mười Trí địa mà chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đã nói, đang nói, sẽ nói. V́ ý sâu kín này, nên nay tôi thuyết giảng. Mười Trí địa đó là ǵ? Đó là:

1.     Cực hỷ.

2.     Ly cấu.

3.     Phát quang.

4.     Diệm tuệ.

5.     Nan thắng.

6.     Hiện tiền.

7.     Viễn hành.

8.     Bất động.

9.     Thiện tuệ.

10.    Pháp vân.

Phật tử! Đó là mười Trí địa của Bồ-tát mà chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đã nói, đang nói, sẽ nói.

Phật tử! Tôi không thấy Đức Phật ở cõi nào lại không khen ngợi giảng thuyết mười Địa này. V́ sao? V́ đây là pháp môn sáng tỏ, thắng diệu tăng thượng có thể làm, thanh tịnh tất cả đạo Bồ-tát, đều từ sự an lập thông hiểu mười Địa này. Phật tử nên biết, cảnh giới không thể nghĩ bàn ấy chính là Trí được chứng đắc của chính ḿnh trong pháp an lập các địa.

Nêu bày danh hiệu của mười Địa Bồ-tát, mà không nghe giải thích, các Bồ-tát đều nghĩ: V́ sao Bồ-tát Kim Cang Tạng chỉ nói danh hiệu của mười Địa rồi im lặng không giải thích. Trong các Bồ-tát đó, có Bồ-tát tên Giải Thoát Nguyệt, biết tâm niệm của đại chúng, Bồ-tát bèn nói kệ hỏi Bồ-tát Kim Cang Tạng:

V́ sao vị Chánh giác

Bậc đủ trí công đức

Nói tên Địa vi diệu

Im lặng không giải thích?

Đại danh xưng Bồ-tát

Tất cả đều kiên định

Cớ sao nói danh hiệu

Mà không diễn thật nghĩa?

Tất cả các Phật tử

An ổn đều muốn nghe

Xin phân biệt đúng đắn

Giảng thật nghĩa các Địa

Đại chúng đều thanh tịnh

Nghiêm chỉnh không lười nhác

Trong sạch và kiên cố

Đầy đủ trí công đức

Tất cả đều cung kính

Đều chuyên tâm chiêm ngưỡng

Chờ nghe pháp cam lồ

Như ong nhớ mật hoa

Nghe xong, Kim Cang Tạng

Bậc trí lớn không sợ

Muốn làm vui đại chúng

Nên dùng kệ đáp lại.

Dù là tối thắng rất hiếm có

Hiển hiện tất cả hạnh Bồ-tát

Làm cho thông đạt thật vi diệu

Nhờ đó tu chứng đạt Phật địa

Sâu xa khó thấy, ĺa phân biệt

Xa rời tâm địa, khó chứng ngộ

Cảnh giới người trí toàn thanh tịnh

Thế gian nghe được đều mê, nghi

Tâm an bất động như Kim cang

Tin hiểu trí Phật rất thù thắng

Hiểu rõ không ngã chỉ do tâm

Người này nghe được trí vi tế

Như dùng màu sắc vẽ hư không

Tựa gió và như đường chim bay

Trí Phật thanh tịnh cũng như vậy

Cho dù phân biệt vẫn khó thấy

V́ thế tôi thuyết giảng trí này

Thế gian khó ai hiểu biết được

Phải thật tin tưởng thắng pháp ấy

V́ vậy nên không giải thích rộng.

Nghe thế, Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt nói với Bồ-tát Kim Cang Tạng:

–Phật tử! Đại chúng này đều thanh tịnh. Đó là các Bồ-tát đều có tâm ý an lạc trong lành thuần khiết, quán sát, suy nghĩ, khéo tu tập các hành; phụng sự vô số trăm ngàn câu-chi Phật; đầy đủ hành trang, thành tựu vô lượng công đức, dứt hẳn nghi hoặc, không còn cấu nhiễm, tâm ý vui vẻ, hiểu biết tăng thượng; ở trong giáo Phật pháp không tùy thuận pháp khác. Cao cả thay! Nếu Đại sĩ diễn thuyết về thật nghĩa th́ các Bồ-tát này sẽ an trụ, chứng đắc.

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt nhằm lập lại nghĩa trên, nên nói kệ rằng:

Xin nói hạnh vô thượng,

An ổn của Bồ-tát

Phân biệt các trụ địa

Tịnh trí thành Chánh giác

Đại chúng không cấu nhiễm

Chí thông hiểu trong sạch

Phụng sự vô lượng Phật

Hiểu được nghĩa các Địa.

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói:

–Phật tử! Đại chúng này tuy đều thanh tịnh, các Bồ-tát có tâm ý trong sạch, suy nghĩ thuần khiết, tu tập các hạnh; phụng sự vô số Phật; đầy đủ hành trang, thành tựu vô lượng công đức, dứt hẳn nghi hoặc, không còn cấu nhiễm, tâm ý vui vẻ, hiểu biết tăng thượng; ở trong Phật pháp không tùy thuận pháp khác; nhưng vẫn còn những chúng sinh yếu kém, nếu nghe pháp sâu xa này sẽ sinh nghi ngờ, mãi mãi chịu khổ đau không được lợi ích; v́ thương xót họ, nên tôi im lặng.

Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn lập lại nghĩa trên nên nói kệ rằng:

Chúng này tuy tịnh, trí tuệ lớn

Sâu xa sáng suốt khéo phân biệt

Tâm ý bền vững như núi chúa

Như biển lớn sâu khó lấp đổ

Có kẻ sơ cơ chưa chứng đạt

Luôn hành theo thức, không theo trí

Nghe được sinh nghi, đọa đường ác

V́ thương chúng đó nên không nói.

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt lại nói:

–Thật cao cả thay! Phật tử, xin hãy giảng thuyết, chớ nghi ngờ. Nhờ thần lực và sự hộ niệm của chư Phật, đại chúng sẽ tin pháp không thể nghĩ bàn. V́ sao? V́ khi Phật tử diễn giải mười Địa này, pháp thường là như vậy. Nghĩa là tất cả các Đức Phật đều ủng hộ, các Bồ-tát v́ bảo vệ Trí địa này nên phát tâm dũng mãnh. V́ sao? V́ đó là hạnh chân chánh đầu tiên của Bồ-tát và cũng là sự tu chứng tất cả pháp của chư Phật. Phật tử! Ví như văn tự, chữ cái là đầu mà cũng là cuối, không có văn tự nào mà ở ngoài chữ cái. Phật tử, giáo pháp của Phật cũng như thế. Trụ địa là pháp đầu tiên để tu hành mà cũng là pháp cuối cùng để chứng đạt trí Phật. V́ vậy, xin Bồ-tát diễn thuyết, tất cả các Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Chánh Đẳng Giác đều gia hộ. Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt nhằm lập lại ý nghĩa ấy nên nói kệ rằng:

Lành thay! Phật tử xin diễn nói

Các địa hành hướng nhập Bồ-đề

Hết thảy bậc Tự tại mười phương

Đều cùng hộ niệm Trí căn bản

Đây là điều chánh hành, trí cuối

Tất cả Phật pháp từ đấy khởi Như nơi văn tự từ chữ cái Phật pháp dựa Địa cũng như vậy.

Để hiểu về thật nghĩa này, các Bồ-tát đồng thanh nói kệ, thỉnh Bồ-tát Kim Cang Tạng giảng thuyết:

Trí thượng diệu trong sạch

Biện tài giỏi giảng thuyết

Tuyên dương lời vi diệu

Nghĩa lý đều hợp nhau

Luôn niệm tuệ thanh tịnh

Đủ mười lực ý lạc

Trí vô ngại kiên cố

Giảng mười Địa thù thắng

Đại chúng không kiêu mạn

Không tạp nhiễm kiến nghi

Ý vui trong giới định

Đều muốn được nghe giảng

Như khát nghĩ uống nước

Đói t́m cầu thức ăn

Bệnh nhân cần thuốc tốt

Ong t́m hút mật hoa

Đại chúng này cũng thế

Mong nghe pháp cam lồ

Hay thay! Trí thanh tịnh

Giảng trụ địa trong sạch

Hiển mười lực tương ưng

Đạo Thiện Thệ vô ngại.

Bấy giờ, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, từ nơi tướng lông trắng, phóng ra ánh sáng tên Chiếu Bồ-tát lực, cùng với vô số ánh sáng khác. Ánh sáng ấy chiếu khắp các cảnh giới ở mười phương không sót một chỗ nào, dứt trừ mọi thứ khổ đau ở cõi ác, che lấp hết thảy cung điện của ma; chiếu đến vô lượng chúng hội của các cõi Phật, hiển hiện cảnh giới, hành tướng, oai lực, thần thông không thể nghĩ bàn của chư Phật trong các thế giới ở mười phương. Nơi các chúng hội của tất cả chư Phật đều dùng thần lực của Phật gia hộ cho người thuyết pháp; chiếu đến thân Bồ-tát rồi chiếu lên hư không, thành đài lưới mây ánh sáng lớn. Tất cả các Đức Phật khác, cũng làm như Phật Thích-ca Mâu-ni, từ nơi tướng lông trắng, phóng ra ánh sáng tên Chiếu Bồ-tát lực cùng với vô số ánh sáng khác. Ánh sáng ấy chiếu khắp các cảnh giới ở mười phương không sót một chỗ nào, dứt trừ mọi thứ khổ đau ở cõi ác, che lấp hết thảy cung điện của ma; chiếu đến vô lượng hội chúng của các cõi Phật, hiển hiện cảnh giới, hành tướng, oai lực, thần thông, không thể nghĩ bàn của chư Phật trong các thế giới ở mười phương. Nơi các chúng hội của chư Phật đều dùng thần lực của Phật gia hộ cho người thuyết pháp; chiếu đến thân Bồ-tát, hiện ra diệu dụng bất khả tư ngh́ của chư Phật, rồi chiếu lên thân Bồ-tát Kim Cang Tạng và các chúng hội lớn của cõi Phật Thích-ca, chiếu tới đại chúng, pháp tòa, thân Bồ-tát của tất cả cảnh giới kia, nên đại chúng ở đây đều được thấy rõ. Và cũng do ánh sáng của các Đức Phật ở các cõi khác, chiếu khắp tam thiên đại thiên cảnh giới, chiếu khắp đại chúng của Phật Thích-ca, thân và pháp tòa của Bồ-tát Kim Cang Tạng nên đại chúng ở các cõi đều được thấy rõ.

Khi đó, từ đài lưới mây ánh sáng phát ra lời kệ:

Chư Phật cao tột như hư không

Mười Lực, tự tại, vô số chúng

Trong pháp vi diệu của Thích-ca

Đấng Thiên Nhân Tôn luôn gia hộ

Ông hãy nương theo thần lực Phật

Khai diễn tạng pháp tột vi diệu

Hiển bày hạnh lớn cao cả ấy

Phân biệt giảng thuyết các Trí địa

Những ai nghe pháp thù thắng này

Được các Đức Phật thường gia hộ

Tất cả chư Phật ở mười phương

Đều đến ủng hộ và giữ ǵn

Những ai tu tập hạnh chân chánh

Tuần tự thành tựu Địa vô cấu

Chứng được công đức và mười Lực

Ngộ pháp Vô thượng Chánh đẳng giác

Cho dù ở trong kiếp nước lửa

Không nghi, nghe được pháp môn này

Những kẻ nghi ngờ không tin tưởng

Vĩnh viễn chẳng được nghe nghĩa ấy

Hãy nói Trí địa đạo thù thắng

Chứng nhập, an trụ và tăng tiến

Thứ tự thuyết giảng pháp tu hành

Tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh.

Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng, quán sát khắp mười phương, muốn cho đại chúng Tăng trưởng lòng tin thanh tịnh, nên nói kệ rằng:

Đạo cao cả sâu xa khó biết

Không thể phân biệt, ĺa phân biệt

Khó chứng cảnh giới tuệ thanh tịnh

Tánh luôn vắng lặng, không sinh diệt

Rỗng lặng yên tịnh, tận không hai

Ly thú b́nh đẳng đạt Niết-bàn

Trong vô biên duyên, không chỗ chứng

Vượt qua ba đời như hư không

Niết-bàn vắng lặng, cảnh Phật chứng

Khó thể dùng lời giảng thuyết được

Trí địa, hạnh nguyện, cũng như vậy

Diễn giải còn khó, huống chi nghe

Xa rời suy nghĩ và tâm đạo

Trí này dần đạt cảnh tịch diệt

Chẳng phải chỗ hiện uẩn xứ, giới

Tâm ý chẳng có chỗ lường suy

Như dấu chân chim trong hư không

Bậc trí khó nói, khó hiển hiện

Các Trụ địa này cũng như vậy

Nói còn rất khó, huống chi nghe

Nay chỉ giảng thuyết một phần nhỏ

Do sức thệ nguyện Từ bi lớn

Rồi cũng dần tới phi tâm cảnh

Do trí đủ đầy như ý lạc

Những cảnh giới ấy rất khó thấy

Khó nêu chỉ trụ, tự ý vui

Nhưng nương Phật lực tôi sẽ nói

Các ông một lòng, cung kính nghe

Trí địa hạnh nguyện chân chánh này

Trải qua nhiều kiếp khó nói hết

Tôi nay lược nói các ông nghe

Pháp nghĩa chân thật tận như lý

Các ông chuyên tâm cung kính đợi

Tôi nương lực Phật sẽ giảng thuyết

Tuyên dương lời chánh pháp vi diệu

Thí dụ tương ưng hợp câu nghĩa

Dùng lời nói khó bề hiển thị

Chỉ nhờ thần lực của chư Phật

Ánh sáng tụ chiếu vào thân tôi V́ thế tôi nay xin thuyết giảng.

Các Phật tử! Những chúng sinh khéo tích tụ căn lành, chuẩn bị đủ hành trang, khéo tu hành các hạnh, phụng sự chư Phật, tu tập pháp giải thoát, được bạn tốt giúp đỡ, tâm ý thanh tịnh, tùy thuận ý lạc tăng thượng rộng lớn, đủ trí hiểu biết vi diệu, thương yêu chúng sinh, mong cầu trí Phật, mong chứng sức của mười Lực, mong đạt pháp không sợ và pháp Bất cộng b́nh đẳng của Phật, cứu độ tất cả thế gian làm thanh tịnh tâm Từ bi, đạt trí hiểu rõ mười phương, dùng pháp vô ngại làm thanh tịnh cõi Phật, trong một sát-na biết được ba đời, chuyển bánh xe chánh pháp lớn dứt mọi sợ hãi luôn phát khởi những tâm như vậy. Bồ-tát phát tâm, đều lấy đại Bi làm gốc, phải gồm đủ trí tuệ tăng thượng, phương tiện quyền biến; ǵn giữ tâm niệm và ý vui tăng thượng, được vô số lực Phật, sức bền vững, sức trí tuệ, trí khéo phân biệt rõ ràng không ngại; trước mắt tùy thuận Phật trí, trí thọ tŕ tất cả Phật pháp, dạy dỗ, chỉ dẫn tánh rốt ráo như pháp giới, rộng lớn như hư không, cùng tận đời vị lai. Vừa phát tâm như vậy, Bồ-tát sẽ vượt khỏi địa phàm phu, chứng nhập chánh tánh ly sinh của Bồ-tát, sinh trong nhà Như Lai, thuộc dòng cao quý, không ai chê trách, xa ĺa cõi tục, nhập đạo xuất thế, trụ trong pháp tánh căn bản của Bồ-tát, an trụ nơi cảnh giới Bồ-tát, tùy thuận pháp ba đời b́nh đẳng, tiếp nối Phật pháp, vững chãi hướng đến giác ngộ.

Các Phật tử! Bồ-tát trụ nơi như vậy, gọi là dùng tâm bất động an trụ trong địa Cực hỷ.

Các Phật tử! Bồ-tát trụ nơi địa Cực hỷ này, luôn vui vẻ, vững tin; hân hoan, mạnh mẽ, không tranh chấp, không làm hại, không sân hận. Bồ-tát ấy luôn nghĩ về chư Phật, về Phật pháp, về Bồ-tát, về hạnh Bồ-tát, về pháp giải thoát Niết-bàn thanh tịnh, về các địa thù thắng của Bồ-tát, về các Bồ-tát không còn bị tán thất trí quang minh, luôn truyền dạy chỉ dẫn chánh pháp, tạo lợi ích cho chúng sinh, hướng nhập trí gia hành của Phật một cách vui vẻ. Bồ-tát này biết ḿnh đã xa ĺa cảnh giới thế gian, gần gũi chư Phật, xa địa phàm phu, gần địa chánh trí, vĩnh viễn không đọa cõi ác, làm chỗ nương tựa cho chúng sinh, gần gũi các Đức Phật, an trụ cảnh giới Phật, nhập trong tánh b́nh đẳng của Bồ-tát, xa ĺa những nỗi kinh sợ nên được vui vẻ. V́ sao? Phật tử, v́ Bồ-tát vừa chứng địa Cực hỷ, tức là xa ĺa hết mọi lo sợ, như sợ không sống, sợ tiếng xấu, sợ chết, sợ cõi ác, sợ đại chúng… V́ sao? V́ Bồ-tát không còn ngã tưởng, không yêu mến ngã và nguyên nhân đưa đến ngã, th́ làm ǵ sinh khởi các ý tưởng về ngã, v́ thế Bồ-tát chẳng sợ không sống; v́ không mong muốn vật của người khác, luôn thích ban bố vật cần dùng cho tất cả chúng sinh, nên không sợ tiếng xấu. V́ bỏ kiến chấp về ngã, không có ý tưởng mất ngã, nên không sợ chết; v́ biết ḿnh sau khi chết, ở đời sau không rời Phật, Bồ-tát, nên không sợ cõi ác. V́ vui vẻ, thấy tất cả thế gian không ai bằng ḿnh, huống ǵ là hơn ḿnh nên không sợ đại chúng.

Phật tử! Bồ-tát này không còn kinh sợ, kiêu mạn, lấy tâm đại Bi làm gốc, không ghét bỏ, không ham thế tục, tu tập tất cả căn lành, siêng năng gia hạnh, tăng trưởng lòng tin, đạt thanh tịnh, hiểu rõ và tin tưởng, phát tâm Từ bi, đầy đủ đại Từ, tâm không mệt mỏi, trang sức bằng hổ thẹn, luôn cùng nhau nhu hòa nhẫn nhục, luôn cung kính tôn trọng giáo pháp Như Lai, ngày đêm siêng năng tu tập căn lành, phụng thờ bạn lành, thích pháp, siêng năng học hỏi, quán sát đúng đắn pháp đã nghe, tâm không tham vướng, không tham danh lợi, sự cung kính, không tham luyến vật chất, luôn phát tâm b́nh đẳng vững chắc như ngọc báu, chỉ mong cầu địa Nhất thiết trí, nương nhờ lực vô úy, pháp Bất cộng của Như Lai, cầu Ba-la-mật không chấp trước, bỏ dua nịnh, làm đúng chánh pháp, nói thật, khuyên dạy người không làm nhơ uế nhà Phật, không bỏ học pháp của Bồ-tát, tâm Nhất thiết chủng trí vững chãi như núi chúa, không bỏ việc thế gian nhưng cố gắng thành tựu đạo xuất thế, siêng tu pháp Giác phần là hành trang mong cầu pháp thù thắng về sau. Phật tử, v́ tương ưng pháp địa thanh tịnh nên Bồ-tát này được gọi là an trụ nơi địa Cực hỷ.

Lại nữa, Bồ-tát trụ ở địa này, phát nguyện lớn, dũng mãnh, xa ĺa, cúng dường Như Lai mọi vật cần dùng, mọi việc cần làm, thành tựu tất cả hành tướng vi diệu, trí thông hiểu tối thượng, thanh tịnh rộng lớn như pháp giới, tánh rốt ráo như hư không, tận cùng đời vị lai, trải qua vô số kiếp không ngừng nghỉ luôn được gặp Phật ra đời, được cúng dường, nên phát nguyện lớn thứ nhất.

V́ muốn thọ tŕ tất cả tạng pháp của Như Lai; muốn ǵn giữ trí tuệ của Phật, hộ tŕ giáo pháp của bậc Chánh đẳng giác, rộng lớn như pháp giới, tánh rốt ráo như hư không, tận cùng đời vị lai, trải qua vô số kiếp không ngừng nghỉ, luôn thọ tŕ pháp vi diệu, nên phát nguyện lớn thứ hai.

V́ muốn gặp Phật ra đời, dù ở đâu cũng muốn thấy Phật, từ cung trời Đổ-sử-đa xuống trần, vào thai, ở trong thai, chào đời, lớn lên xuất gia, thành đạo, nhận lời thỉnh cầu của Phạm vương thuyết pháp, thị hiện nhập Niết-bàn, Bồ-tát đến cúng dường, thọ tŕ pháp gia hạnh làm đầu, cùng lúc đi khắp mọi nơi, rộng lớn như pháp giới, tánh rốt ráo như hư không, tận cùng đời vị lai, trải qua vô số kiếp không ngừng nghỉ, luôn được gặp Phật ra đời, đến chỗ Phật nên phát nguyện lớn thứ ba.

V́ muốn phát khởi hạnh rộng lớn vô biên của Bồ-tát, muốn thọ tŕ giữ ǵn vô lượng Ba-la-mật-đa không phân biệt, làm thanh tịnh các địa; biết rõ tướng chung, riêng, giống, khác, thành, hoại, biết hạnh của Bồ-tát chân thật không điên đảo, hiện ra đạo trí địa của Bồ-tát, trang sức bằng pháp giải thoát, phát tâm ủng hộ, thọ tŕ, chỉ dạy; rộng lớn như pháp giới, tánh rốt ráo như hư không, tận cùng đời vị lai, trải qua vô số kiếp luôn tu tập các hạnh chân chánh của Bồ-tát không ngừng nghỉ, nên phát nguyện lớn thứ tư.

V́ muốn độ thoát tất cả chúng sinh không loại trừ loại có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng, không phải có tưởng, không phải không có tưởng, loài sinh từ trứng, thai, ẩm thấp; cả trong ba cõi, sáu đường tất cả nơi thọ sinh có đủ danh sắc, để giáo hóa, khiến cho chúng vào trong Phật pháp, đoạn trừ tất cả các cõi ác, ở an nơi trí Nhất thiết trí, rộng lớn như pháp giới, tánh rốt ráo như hư không, tận cùng đời vị lai, trải qua vô số kiếp không ngừng nghỉ, luôn độ thoát chúng sinh nhằm thành tựu đầy đủ cho chúng hữu t́nh nên phát nguyện lớn thứ năm.

V́ muốn độ chúng sinh là những kẻ đang sống trong sự tán loạn, mê mờ, khát ngưỡng, nhiều như mắt lưới của Đế Thích, trong các cõi nước ở mười phương, với đủ loại h́nh tướng sai khác; nên tùy thuận hạnh nghiệp, thị hiện sự thông đạt rộng lớn như pháp giới, tánh rốt ráo như hư không, tận cùng đời vị lai, trải qua vô số kiếp không ngừng nghỉ, luôn đi vào trong các cõi nên phát nguyện lớn thứ sáu.

V́ muốn nhập một cõi Phật vào trong tất cả cõi Phật; làm thanh tịnh vô số cõi Phật, trang nghiêm với mọi thứ tốt đẹp, ĺa các phiền não, thành tựu đạo thanh tịnh, đầy đủ vô lượng trí tánh; làm cho tất cả chúng sinh nhập vào cảnh giới rộng lớn của Phật, tùy sở thích của chúng sinh mà thị hiện, làm cho chúng vui vẻ; rộng lớn như pháp giới, tánh rốt ráo như hư không, tận cùng đời vị lai, trải qua vô số kiếp không ngừng nghỉ, luôn vào trong các cõi Phật, trang nghiêm cõi Phật nên phát nguyện lớn thứ bảy.

V́ muốn cùng tâm ý hạnh nguyện với tất cả Bồ-tát, không còn oán thù, chứa nhóm căn lành, tạo mọi duyên với tất cả các Bồ-tát, đạt tánh b́nh đẳng, luôn được gặp Phật, Bồ-tát; tùy sở thích mà thị hiện Phật ra đời; tùy tâm niệm, hiểu rõ oai lực của Phật, đời đời luôn được đầy đủ, không thoái lui; tùy hành thần thông, đi khắp các cõi, hiện diện trong tất cả chúng hội; tùy nơi được thọ sinh mà hành đạo, luôn thành tựu thật nghĩa không thể nghĩ bàn của Đại thừa, tu hành hạnh chân chánh của Bồ-tát; rộng lớn như pháp giới, tánh rốt ráo như hư không, tận cùng đời vị lai, trải qua vô số kiếp luôn hành hạnh chân chánh không ngừng nghỉ, v́ thần thông lớn ấy nên phát đại nguyện thứ tám.

V́ ngưỡng phục muốn thừa hành hạnh không thoái chuyển của Bồ-tát, để nghiệp thân, khẩu, ý không luống uổng, vừa thấy là thông đạt tánh pháp của Phật, vừa nghe tiếng là tùy trí tuệ chứng đạt; vừa phát khởi tín tâm thanh tịnh là trừ hết phiền não; thân như thuốc hay, tâm như ngọc Như ý, tu tập hạnh lớn của Bồ-tát; rộng lớn như pháp giới, tánh rốt ráo như hư không, tận cùng đời vị lai, trải qua vô số kiếp luôn hành hạnh chân chánh không ngừng nghỉ, v́ không để luống uổng nên phát nguyện lớn thứ chín.

V́ ở khắp các cõi, chứng đạt Vô thượng Bồ-đề, không khác phàm phu, thị hiện thọ sinh, xuất gia, ngồi nơi đạo tràng, thành Phật, thuyết pháp, nhập Niết-bàn; thị hiện chứng đạt oai lực trí tuệ rộng lớn của Phật, tùy sự vui thích của chúng sinh mà thị hiện Phật ra đời, hóa độ chúng sinh, sớm chứng giác ngộ. Trong khoảnh khắc hòa nhập tánh chánh giác với tánh tịch diệt của các pháp, dùng một thứ tiếng diễn nói pháp giải thoát, làm cho chúng sinh vui mừng, thị hiện Niết-bàn mà hạnh lực không đứt, thị hiện trí địa lớn, kiến lập tất cả pháp, dùng pháp trí thị hiện sức thần thông biến hóa; rộng lớn như pháp giới, tánh rốt ráo như hư không, tận cùng đời vị lai, trải qua vô số kiếp luôn tu chánh giáo không ngừng nghỉ, v́ Bồ-tát Đại thừa nên phát đại nguyện thứ mười.

Các Phật tử! Bồ-tát ở Địa thứ nhất phát những thệ nguyện lớn, những dũng mãnh lớn, những xa ĺa lớn như vậy. Bồ-tát trụ ở địa Cực hỷ này, coi mười nguyện lớn là điều cốt yếu, để phát khởi vô số hạnh nguyện. Những nguyện lớn này được phát sinh từ mười pháp cùng tận. Mười pháp cùng tận đó là ǵ? Cõi chúng sinh tận, thế giới tận, hư không tận, pháp giới tận, cảnh giới Niết-bàn tận, cảnh giới Phật tận, nhập cảnh giới trí tuệ của Phật tận, cảnh của đối tượng duyên tận, trí nhập hạnh Phật tận, trí thuyết pháp ở thế gian tận. Nếu cõi chúng sinh cùng tận th́ nguyện này mới cùng tận… Nhưng cõi chúng sinh không cùng tận nên căn lành nơi thệ nguyện này cũng không cùng tận cho đến trí thuyết pháp không cùng tận nên căn lành cũng không cùng tận.

KINH THẬP ĐỊA

| ML | Q 01 | Q 02 | Q 03 | Q 04 | Q 05 | Q 06 | Q 07 | Q 08 | Q 09 |

KINH THẬP ĐỊA

Hán dịch: Đời Đại Đường, Tam tạng Thi-la-đạt-ma.

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 2

Phẩm 1: ĐỊA CỰC HỶ (Phần 2)

Lại nữa, Bồ-tát đã phát mười nguyện lớn; đạt được tâm gắng sức thọ nhận, dịu dàng, hòa nhã; thành tựu được lòng tin thanh tịnh, tin chư Phật xưa luôn hội nhập các hành, tu chứng các địa thù thắng, thành tựu Oai lực, Vô sở úy, pháp Bất cộng cao tột và pháp tánh không thể nghĩ bàn của Phật. Cảnh giới của Như Lai sâu xa khó lường, tùy thuận thâm nhập hạnh quả của Phật. Nói tóm lại, phải tin chánh hạnh của tất cả các Bồ-tát, cho đến thông hiểu sự ǵn giữ Phật địa. Bồ-tát lại nghĩ rằng: Pháp của chư Phật sâu xa, thanh tịnh, vắng lặng như vậy. Tánh rỗng lặng, không tướng, không nguyện, không giới hạn, bao la rộng lớn, khó chứng đạt. Chúng sinh v́ luôn sống trong tà kiến, bị vô minh ngu tối trói buộc ý thức, tâm kiêu mạn cao ngạo tính toán, khát ái trùm phủ tâm ý t́m cầu, chạy theo dua nịnh ý vui thích nơi phiền não, do tham lam keo kiệt, nên mãi mãi thọ sinh. Do tham, sân, si được tích tập, sân hận luôn thiêu đốt tâm, tạo nghiệp điên đảo.V́ hạt giống dục, hữu, vô minh hữu lậu trói buộc tâm ý, ý thức tạo mầm cho ba cõi. Tức là có danh sắc tương tục, danh sắc tăng trưởng thành sáu nhập, sáu nhập sinh xúc, xúc sinh thọ, thọ phát triển nên có ái, từ ái có thủ, thủ tăng trưởng có hữu, có sinh già chết ưu sầu, khổ uẩn của chúng sinh cứ thế phát sinh. Nó không có ngã, ngã sở, không thật, hư giả, trống không, không tác dụng, tăm tối không động, tựa như cỏ cây, như bóng hiện; nhưng chúng sinh không hề hay biết. Bồ-tát thấy chúng sinh v́ khổ uẩn nên không được giải thoát. V́ muốn dứt trừ khổ uẩn của chúng sinh nên Bồ-tát phát tâm Bi lớn; v́ muốn chúng sinh trụ trong Niết-bàn an lạc rốt ráo nên phát tâm Từ lớn.

Lại nữa, các Phật tử! Bồ-tát trụ nơi Địa thứ nhất, tùy thuận đại Từ bi, tăng trưởng ý chí, làm việc tâm không tham tiếc, dùng tuệ lực mong cầu trí vi diệu của Phật quyết tu pháp xả lớn, phàm cái ǵ ḿnh có đều đem cho hết. Nghĩa là Bồ-tát các vật như tiền tài, lúa gạo, vàng bạc, ma-ni, châu báu, lưu ly, san hô, xa cừ, mã não, các thứ vật báu trang sức, vườn quán, nhà cửa, sông suối, tôi tớ, đất nước, xóm làng, ngôi vua, vợ con, đầu, mắt, tay, chân, thân thể đáng yêu, đều đem bố thí tất cả mà không tham tiếc. V́ cầu trí tuệ vi diệu của Phật nên tu bố thí. Đó là sự thành tựu đại Xả của Bồ-tát ở Địa thứ nhất.

Bồ-tát đã thành tựu pháp từ bi lớn, bố thí lớn lại v́ muốn độ chúng sinh, nên luôn làm việc lợi ích cho thế gian và xuất thế gian. Khi tâm cầu không mỏi mệt th́ đạt tánh không mỏi mệt. Không mỏi mệt nghĩa là không khiếp sợ trước những những việc luận nghị. Bồ-tát này thành tựu, thông hiểu các luận nghị. Với những luận nghị đó, Bồ-tát biết cái nào nên, cái nào không nên; suy xét kỹ, trí kém vừa hơn, có ở trong chúng sinh để tùy thuận tu hành chánh hạnh, thành tựu Thế trí. Đã đạt Thế trí rồi th́ tùy thời gian, tùy phân lượng mà tu hành, trang sức bằng tâm hổ thẹn, liên tục siêng hành lợi ḿnh, lợi người, nên Bồ-tát thành tựu hổ thẹn. Từ đó Bồ-tát vượt lên đạt sức bền vững, tánh không lay động, kiên tŕ nên phát sinh tánh lực kiên tŕ. Đạt tánh lực kiên tŕ rồi, Bồ-tát phụng sự, cúng dường chư Phật và tu hành chân chánh trong giáo Phật pháp. Do đó Bồ-tát thành tựu mười pháp thanh tịnh trụ địa. Tức là, lòng tin thanh tịnh, từ bi, trí tuệ, bố thí không chán mệt, thông hiểu luận nghị, biết rõ thế gian, trang sức bằng hổ thẹn, tánh lực kiên tŕ, cúng dường chư Phật. Bồ-tát trụ nơi địa Cực hỷ, nhờ sự hiểu biết và nguyện lực rộng lớn, nên thấy được trăm ngàn, vô số a-tăng-kỳ Phật. Thấy hết rồi, Bồ-tát dùng tâm rộng lớn, cung kính, tôn trọng, phụng sự, cúng dường các thứ y phục, thức ăn, đồ ngồi, nằm, thuốc men, mọi vật cần dùng. Bồ-tát vui vẻ cung kính tăng chúng, hồi hướng căn lành lên đạo Vô thượng Bồ-đề. Nhờ cúng dường chư Phâït, Bồ-tát thành tựu phương tiện độ sinh, hóa độ chúng sinh bằng Ái ngữ, Bố thí; sau lại thông đạt cả hai Nhiếp pháp, luôn tu hành bằng trí hiểu biết. Trong mười Ba-la-mật, Bồ-tát tu nhiều về Thí ba-la-mật, những Ba-la-mật khác th́ tùy sức, tùy phần mà tu tập. Bồ-tát cúng dường chư Phật đúng pháp, tu tập hạnh độ sinh, thọ tŕ thực hành pháp thanh tịnh nơi các địa, hồi hướng căn lành về Nhất thiết trí, dần dần được thanh tịnh an ổn, hữu dụng. Này Phật tử! Ví như thợ vàng nung quặng ở trong lửa, càng tôi luyện, vàng càng sáng đẹp. Phật tử nên biết! Bồ-tát cũng thế! Cúng dường chư Phật, tu tập hạnh độ sinh, thọ tŕ thực hành pháp thanh tịnh nơi các địa, hồi hướng căn lành về Nhất thiết trí, thanh tịnh an ổn, hữu dụng càng được nhiều hơn.

Lại nữa, các Phật tử! Bồ-tát trụ ở địa Cực hỷ, phải theo Phật, Bồ-tát và bạn lành tri thức để học hỏi về hành tướng và sự chứng đắc đẳng lưu của Địa thứ nhất mà không cho là đủ chán cho đến Địa thứ mười cũng vậy. Bồ-tát phải tu tập theo các phương tiện khéo léo về cách đối trị, về sự thành hoại, về chứng đắc, về thanh tịnh, về an ổn, về thù thắng, về không thoái chuyển của các địa. Đã làm thanh tịnh các địa của Bồ-tát rồi th́ phải tu tập theo các phương tiện khéo về sự thâm nhập Trí địa của Như Lai.

Các Phật tử! Bồ-tát phát khởi những phương tiện khéo léo về hành tướng của các địa, bắt đầu từ Địa thứ nhất tiến mãi đến Địa thứ mười. Nhờ trí sáng suốt của các địa mà đạt trí sáng của Phật.

Phật tử! Ví như nhà buôn tài giỏi, khôn khéo dắt những thương buôn khác đến thành phố lớn. Trước lúc ra đi, phải hỏi biết sự thuận lợi, trắc trở trên đường đi, những hành trang nên mang theo. Tuy chưa đi nhưng đã thông tỏ tất cả, như vậy mới có thể đến được thành phố lớn. Thương chủ này, dùng trí khôn suy xét, tính toán, cùng các thương buôn qua những nơi nguy hiểm vắng vẻ, sẽ không hề bị tai nạn, an ổn đến thành phố lớn.

Phật tử! Trí tuệ phương tiện của Bồ-tát này cũng như thế. Thông đạt tất cả pháp đối trị, các hành tướng đẳng lưu, vận chuyển, an ổn, thù thắng, không thoái chuyển, chỗ thanh tịnh của các địa cho đến Trí địa của Như Lai rồi, lúc này Bồ-tát nên thọ tŕ hành trang Thánh đạo, phước đức thù thắng rộng lớn, trí tuệ bền vững, dẫn dắt vô số kẻ buôn là chúng sinh, đến thành lớn Nhất thiết trí. Lúc chưa ra đi, th́ đến chỗ chư Phật, Bồ-tát và bạn để hỏi rõ công đức Thánh giả đạo của các địa và sự thuận lợi, trắc trở trên đường đi, chuẩn bị hành trang Thánh đạo, phước trí rộng lớn. Tuy chưa đi, nhưng đã thông đạt như thế, mới có thể đến được thành lớn Nhất thiết trí. Nhờ dùng trí tuệ, suy xét đầy đủ hành trang Thánh đạo, nên đưa được số chúng sinh, những nhà buôn lớn, đi qua đường hiểm sinh tử mà cả ḿnh lẫn người đều an ổn, đều đến thành trí Nhất thiết trí.

Phật tử! V́ thế các Bồ-tát nên siêng năng tu tập làm trang nghiêm các địa. Phật tử, đó là lược nói về pháp môn nhập địa Cực hỷ thứ nhất của Bồ-tát. Bồ-tát trụ ở địa này, khi thọ sinh thường làm vua nơi Thiệm bộ châu, đầy uy lực lớn, luôn hộ tŕ chánh pháp, an ủi thâu giữ chúng sinh bằng pháp bố thí. Dùng phương tiện khéo léo làm cho chúng sinh trừ bỏ tham lam bỏn sẻn, biết bố thí. Làm mọi việc như Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự đều không rời niệm Phật, Pháp, Tăng, Bồ-tát, hạnh Bồ-tát, giải thoát, các trụ địa, pháp không sợ, pháp Bất cộng của Phật, cho đến không rời hành tướng thắng diệu tương ưng với trí Nhất thiết trí. Lại nguyện: Ở chúng sinh, ta luôn là người đứng đầu, thù thắng, vi diệu, vô thượng; là người dẫn đường; là tướng soái; cho đến nguyện chỗ làm nương tựa để đạt trí Nhất thiết trí. Nếu siêng năng vui vẻ phát khởi như vậy, bỏ gia nghiệp thế tục, nương tựa Phật pháp, phát khởi lòng tin thanh tịnh, xuất gia, th́ chẳng bao lâu đạt trăm pháp Tam-muội của Bồ-tát, gặp trăm Đức Phật, được chư Phật gia hộ, thông hiểu tất cả, làm chuyển động trăm thế giới, đi khắp trăm cõi nước, soi chiếu trăm cảnh giới, thành tựu trăm loại chúng sinh, sống trăm kiếp, trước sau đều vào trong trăm kiếp, suy xét rõ trăm pháp, thị hiện trăm thân, mỗi thân hiện trăm Bồ-tát bạn làm quyến thuộc vây quanh. Nhờ nguyện lực thù thắng, nên mọi việc đi lại, thần thông, ánh sáng, thân tướng, mắt, cảnh giới, âm thanh, hành động, sự trang nghiêm, hiểu biết, ǵn giữ, tạo tác dù trải qua trăm ngàn câu-chi kiếp cũng không thể nói hết.

Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn lặp lại ý nghĩa trên bèn nói kệ rằng:

Nếu ai tu pháp lành

Và các pháp giải thoát

Cúng dường Thiên nhân tôn

Chí lớn tịnh ý lạc

Thành tựu trí liễu ngộ

Tùy thuận đạo từ bi

V́ cầu trí tuệ Phật

Phát tâm vô thượng này

V́ đạt mười Lực Phật

Và pháp Vô sở úy

Thành tựu pháp Bất cộng

Cứu độ các chúng sinh

Đầy đủ Từ bi lớn

Nghiêm tịnh các cõi Phật

Chuyển bánh xe pháp lớn

Phát tâm ý thù thắng

Một niệm biết ba đời

Không hề có phân biệt

Trong mọi lúc mọi nơi

Thị hiện ở thế gian

Lược nói sự t́m cầu

Công đức Phật thù thắng

Phát tâm ý rộng lớn

Ngang bằng với hư không

Bi Trí là trên hết

Bao gồm tuệ phương tiện

Ǵn giữ ý thanh tịnh

Vô lượng lực của Phật

Trí vô ngại hiện tiền

Tùy thuận trí tự nhiên

Thọ tŕ pháp của Phật

Phát tâm tối thắng ấy

Phật tử vừa phát khởi

Tâm vi diệu như vậy.

Vượt khỏi hàng phàm phu

Nhập chánh tánh Bồ-tát

Sinh ở nhà Như Lai

Dòng họ không tỳ vết

Nối dòng giống chư Phật

Thành tựu Vô thượng giác

Vừa phát tâm như vậy

An trụ Địa thứ nhất

Chí vui thật bền vững

Siêng tu mọi hạnh nghiệp

Luôn vui vẻ yêu thích

Niềm tin rất thanh tịnh

Tâm hết mực dũng mãnh

Và tâm đầy hoan hỷ

Trừ bỏ sự tranh chấp

Làm hại và sân hận

Thành kính lại ngay thật

Khéo giữ ǵn các căn

Cứu đời không ai bằng

Xứ này ta sẽ đạt.

Công đức và trí tuệ

Nghĩ vậy nên vui vẻ

Mới trụ Địa thứ nhất

Liền vượt năm lo sợ:

Không sống, chết, tiếng xấu

Cõi ác và các chúng

V́ không tham chấp ngã

Và sở hữu của ngã

Do vậy Phật tử này

Không còn những lo sợ.

Luôn tin tưởng cung kính

Thực hành đại Từ bi

Đủ công đức hổ thẹn

Ưa dạo vườn chánh pháp

Dốc cầu học hiểu rộng

Suy xét pháp đã nghe

Trừ bỏ hành chấp trước

Không tham cầu lợi dưỡng

Chỉ khởi tâm b́nh đẳng

Chuyên tâm cầu trí Phật

Và suy xét mười Lực

Tu hành đạt giải thoát

Trừ bỏ tâm dua, dối

Thực hành đúng giáo pháp

Luôn giữ lời chân thật

Không làm bẩn nhà Phật

Chẳng bỏ pháp Bồ-tát

Tâm trí Nhất thiết trí

Vững chãi như núi chúa

Chẳng bỏ việc thế gian

Mà nhập đạo xuất thế

Tâm luôn không chán đủ

Hành trang tu giác phần

Không có những vọng niệm

Dần cầu đạo thù thắng

Tương ưng với giáo pháp

Khéo trụ Địa thứ nhất.

Phát khởi thệ nguyện lớn

Hạnh nghiệp lớn dũng mãnh

Nguyện sẽ luôn cúng dường

Phụng sự các Đức Phật

Hộ tŕ giáo Phật pháp

Giữ ǵn đạo Thế Tôn

Gần gũi phụng sự Phật

Tu tập hạnh tối thắng

Thành tựu các chúng sinh

Qua lại mọi cảnh giới

Trang nghiêm các cõi Phật

Đầy đủ trí hiểu biết

Cùng các Đại Bồ-tát

Nhất tâm mà tu tập

Thân, khẩu, ý tạo nghiệp

Không lỗi lầm, luống uổng

Ở trong cõi phàm phu

Sớm thành tựu chánh giác

Những nguyện lớn như vậy

Không lường, không ngằn mé

Tất cả cõi chúng sinh

Thế giới và hư không

Cõi pháp, cõi Niết-bàn

Cõi Đức Phật hiện ở

Trí địa của Như Lai

Và cõi tâm duyên kết

Nhập cõi trí tuệ Phật

Trí chuyển pháp thế gian

Những pháp trên cùng tận

Nguyện ta mới cùng tận

Pháp ấy không cùng tận

Nguyện ta cũng chẳng tận.

Phát nguyện lớn như vậy

Tâm hòa nhã thuận hợp

Tin công đức của Phật

Quán sát các chúng sinh

Biết từ nhân duyên sinh

Phát tâm Từ bi lớn

Ta nguyện sẽ cứu vớt

Chúng sinh đang khổ não

V́ cứu độ chúng sinh

Mà hành pháp bố thí

Ngôi vua cùng châu báu

Voi ngựa và xe cộ

Đầu, mắt, tay cùng chân

Cho đến máu, thịt, thân

Bố thí hết tất cả

Tâm không buồn luyến tiếc

Tâm không hề chán mệt

Cầu học các luận nghị

Hiểu rõ nơi văn nghĩa

Tùy thế gian mà hành

Trang nghiêm bằng hổ thẹn

Tu hành thêm vững bền

Cúng dường vô lượng Phật

Luôn cung kính, tôn trọng

Cứ thế mà tu tập

Ngày đêm không lười mỏi

Căn lành càng thanh tịnh

Như vàng đã luyện kỹ

Bồ-tát trụ địa này

Tu tập các địa khác

Hành không chướng ngại

Đầy đủ chẳng gián đoạn

Ví như đại thương chủ

Dẫn dắt các nhà buôn

Biết rõ đường khó dễ

An ổn đến thành lớn

Bồ-tát Địa thứ nhất

Sự hiểu biết cũng thế

Dũng mãnh không chướng ngại

Đến được Địa thứ mười

Trụ ở Địa thứ nhất

Làm vua đủ công đức

Dạy chúng sinh bằng pháp

Tâm từ, không tổn hại

Thống lãnh châu Thiệm bộ

Hành hóa khắp các cõi

Khiến người trụ pháp thí

Thành tựu trí tuệ Phật

V́ cầu đạo thù thắng

Bỏ cả nước, ngôi vua

Xuất gia trong Phật pháp

Dũng mãnh dốc tu tập

Đạt trăm Tam-ma-địa

Gặp được trăm Đức Phật

Chấn động trăm thế giới

Đi lại và chiếu soi

Thành tựu trăm chúng sinh

Biết việc trong trăm kiếp

Thâm nhập trăm pháp môn

Thị hiện trăm thần tướng

Và hiện trăm Bồ-tát

Làm quyến thuộc của ḿnh

Với nguyện lực tự tại

Hơn đây cả vô lượng

Tôi đã lược nói qua

Nghĩa thú của địa này

Nếu phân biệt đầy đủ

Ức kiếp cũng không hết

Đạo Bồ-tát tối thắng

Là lợi ích chúng sinh

Tôi nay đã giảng xong

Pháp Sơ địa như thế.

Phẩm 2: ĐỊA LY CẤU

Các Bồ-tát đã nghe

Pháp vi diệu tối thắng

Tâm ý rất thanh tịnh

Tất cả đều vui mừng

Từ chỗ ngồi đứng dậy

Bay lên trên hư không

Rải các hoa thượng diệu

Đồng thời cùng khen ngợi:

Hay thay Kim Cang Tạng

Bậc trí lớn không sợ

Giảng nói về địa này

Pháp Bồ-tát thực hành.

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt

Biết tâm chúng thanh tịnh

Thích nghe các hành tướng

Của trụ Địa thứ hai

Nên thưa Kim Cang Tạng

Xin đại trí diễn thuyết

Phật tử đều thích nghe

Về trụ Địa thứ hai.

Bồ-tát Kim Cang Tạng bảo các Bồ-tát:

–Phật tử, Bồ-tát đã an trụ nơi Địa thứ nhất, muốn cầu trí Địa thứ hai, phải phát mười tâm ý lạc. Mười tâm đó? Đó là:

1.     Ngay thật.

2.     Dịu dàng.

3.     Gắng nhận.

4.     Điều phục.

5.     Tịch diệt.

6.     Hiền thiện.

7.     Không tạp loạn.

8.     Không tham luyến.

9.     Thù thắng.

10.    Rộng lớn.

Đã phát mười tâm này, tất cả sẽ an trụ địa Ly cấu thứ hai.

Phật tử, khi Bồ-tát trụ địa Ly cấu, th́ tự tánh thành tựu mười nghiệp lành. Từ bỏ sát sinh, vứt dao gậy, không mang hiềm hận, biết hổ thẹn, hiện bày tâm nhân từ, bao dung, luôn có tâm lợi ích, thương yêu chúng sinh, Bồ-tát luôn suy xét, với loài có mạng sống còn không làm hại, huống chi tự thân giết hại chúng sinh, chúng sinh có thân nghiệp, có suy xét đúng đắn!

Không trộm cướp, phải biết đủ với tài vật địa của ḿnh, thương yêu, không hại danh vị tài vật người khác, không sinh tâm trộm cắp vật của người hoặc vật tưởng của người, ngay cọng cỏ, lá rau, người ta không cho th́ không lấy, huống là những vật nuôi sống khác.

Bỏ tà dâm, là biết đủ với vợ ḿnh, không hành dâm với vợ người, không có tâm ô nhiễm với vợ người, hoặc người đã được bà con thân thuộc cưới hỏi, hoặc người nữ đứng đắn, huống ǵ hai thân giao phối.

Bỏ lời nói dối, là luôn nói lời chân thật, hợp thời, cho đến trong giấc mộng cũng không có ý dối người bằng cách che giấu hay thích nói lời hư dối, huống ǵ cố ý. Bỏ lời nói chia rẽ, là không hủy hoại chúng sinh, không làm hại; là tu tập hạnh chân chánh. Không v́ hại người này mà đem lời người kia nói cho người này. Những người chưa hại nhau, th́ làm cho họ không hại nhau; những người đã hại nhau th́ không cho phát triển; không vui thích và không nói lời chia rẽ, cho dù là thật hay không thật. Bỏ lời thô ác, tức là những lời nói độc ác, thô lỗ, khiêu khích người khác; làm cho họ sân hận sau lưng, trước mặt âu sầu; những lời cộc cằn không vui tai, khiến họ tức giận như lửa thiêu đốt, sinh ra oán kết khổ não, hại cả ḿnh lẫn người… Phải từ bỏ tất cả những lời nói như vậy. Luôn nói lời êm dịu, hòa nhã, vui lòng, thích nghe; để nghe người vui vẻ nhớ mãi; lời nhã nhặn hợp pháp, làm nhiều người yêu thích, vui vẻ thanh tịnh cả ḿnh lẫn người. Bỏ lời ô tạp, suy xét lời chân thật hợp thời, đúng nghĩa, đúng pháp; lời thuận đạo lý, điều phục, lời mạch lạc, tùy lúc suy xét, có duyên hợp mới nói, cho dù là lời đùa cũng suy xét kỹ, huống ǵ là cố ý nói lời tạp loạn.

Không tham dục lạc, tài vật của người, không sinh tâm tham cầu; tâm không sân hận, luôn phát tâm Từ bi, tạo lợi ích, yêu thương, ban ân cho tất cả chúng sinh, vĩnh viễn dứt trừ phẫn nộ, giận dữ, ganh ghét, luôn suy xét, tùy thuận thực hành tánh từ bi lợi ích; hiểu đúng và tùy thuận chánh đạo; bỏ việc xem bói, tốt xấu, và các giới tà vạy. Thấy biết đúng đắn, không dua nịnh dối trá, ý bền vững đối với Phật, Pháp, Tăng.

Phật tử, Bồ-tát khi hộ tŕ mười nghiệp lành liên tục, không thiếu sót, th́ phát những tâm như vạy. Thấy chúng sinh, sở dĩ bị khổ não trong đường ác ch́m sâu, đều do làm mười việc ác; cho nên ta phải an trụ nơi hạnh chân chánh để khuyên chúng sinh cũng an trụ nơi hạnh này. V́ sao? V́ không thể có việc: Ḿnh không tu chân chánh mà dạy người tu chân chánh! Lại suy xét: v́ làm mười việc ác nên có địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ; do làm mười việc lành mà có cõi người, cõi trời… Trên những cõi này, đều là do tu tập hành tướng của trí tuệ. Nghĩa là, do tâm tu mười nghiệp lành còn yếu kém, sợ ba cõi, thiếu đại Bi, nghe người giảng dạy mới hiểu rõ. Thực hành lời dạy, thành tựu Thanh văn thừa. Lại từ đây tiến tu, làm thanh tịnh mười nghiệp lành, không do người chỉ dạy, tự ḿnh giác ngộ; thiếu phương tiện đại Bi; hiểu sâu pháp duyên sinh, thành tựu Độc giác thừa. Rồi từ đấy, tiến tu thanh tịnh mười nghiệp lành, tâm rộng lớn bao la, đủ từ bi, gồm cả phương tiện quyền biến, phát nguyện lớn, không bỏ chúng sinh, hiện quán vô lượng trí của Phật, thành tựu pháp giải thoát, làm thanh tịnh các địa Bồ-tát, hành hạnh chân chánh thanh tịnh rộng lớn. Rồi cũng từ đấy tiến tu, làm thanh tịnh mười nghiệp lành, cho đến thành tựu mười lực của Phật, tu chứng tất cả Phật pháp. Ta nay đã xuất ly, nhưng lại ở trong tất cả hành tướng thanh tịnh của Niết-bàn mà tu tập. Phật tử, Bồ-tát dần dần học những việc như vậy.

Lại nữa, mười nghiệp ác nếu vào hạng nặng th́ làm nhân của địa ngục, hạng vừa th́ làm nhân của súc sinh, hạng nhẹ th́ làm nhân của quỷ đói. Giết chúng sinh th́ bị đọa vào địa ngục, súc sinh, quỷ đói.

Nếu sinh trong cõi người chịu hai quả báo:

-Nghèo khổ.

-Của cải bị phân tán.

Tà hạnh bị đọa vào địa ngục, súc sinh, quỷ đói. Nếu sinh trong cõi người, chịu hai quả báo:

-Vợ không trinh thuận.

-Không nhờ vả được bà con.

Nói dối th́ bị đọa vào địa ngục, súc sinh, quỷ đói. Nếu sinh trong cõi người, chịu hai quả báo:

-Luôn bị phỉ báng.

-Bị người dối gạt.

Nói hai lưỡi th́ bị đọa vào địa ngục, súc sinh, quỷ đói. Nếu sinh trong cõi người, chịu hai quả báo: -Bà con chống trái.

-Thường bị chê bai.

Nói lời ác th́ bị đọa vào địa ngục, súc sinh, quỷ đói. Nếu sinh trong cõi người, chịu hai quả báo:

-Nghe lời trái tai.

-Luôn bị tranh kiện.

Nói tạp loạn th́ bị đọa vào địa ngục, súc sinh, quỷ đói. Nếu sinh trong cõi người, chịu hai quả báo:

-Nói năng không ai nghe. -Nói năng không rõ ràng.

Tham dục th́ bị đọa vào địa ngục, súc sinh, quỷ đói. Nếu sinh trong cõi người, chịu hai quả báo:

-Tâm không biết đủ.

-Tham lam không chán.

Sân hận th́ bị đọa vào địa ngục, súc sinh, quỷ đói. Nếu sinh trong cõi người, chịu hai quả báo:

-Luôn bị người khác vạch chỗ hay dở.

-Luôn bị người làm hại.

Tà kiến th́ bị đọa vào địa ngục, súc sinh, quỷ đói. Nếu sinh trong cõi người, chịu hai quả báo:

-Thấy hiểu không ngay thẳng.

-Tâm luôn dối trá.

Do mười nghiệp ác này mà tạo ra khổ uẩn lớn vô lượng, vô biên. V́ thế, ta phải đoạn trừ hẳn mười nghiệp ác; để được ở trong vườn pháp, thọ hưởng niềm vui của pháp. Bồ-tát luôn an trụ trong mười nghiệp lành, khuyên dạy người an trụ. Đối với chúng sinh, Bồ-tát luôn phát khởi những tâm lợi ích, an lạc, Từ bi, bao dung, ǵn giữ, bảo hộ, khiêm tốn, làm gương, làm thầy dẫn dắt, xem chúng sinh như ḿnh.

Lại nghĩ: Thật khổ thay! Chúng sinh bị đọa trong tà kiến, chạy theo hiểu biết sai lầm, thuận ý sai lạc, đi trong rừng rậm phiền não, đường hẹp; ta nên khiến chúng sinh quay về đường chánh, hiểu biết đúng, an trụ trong pháp như thật. Chúng sinh nào chống trái, tranh tụng, lăng nhục nhau, luôn bị phẫn nộ giận dữ thiêu đốt; ta nên khiến chúng an trụ trong pháp nuôi sống bằng nghề chân chánh, thanh tịnh thân, ngữ, ý. Chúng sinh nào chạy theo các nhân tham, sân, si, luôn bị lửa phiền não đốt mà không t́m cách ra khỏi; ta nên khiến chúng dập tắt lửa phiền não, an trụ trong Niết-bàn thanh tịnh, mát mẻ, không tai họa. Chúng sinh nào bị vô minh tăm tối che lấp, vào trong rừng rậm phiền não tối tăm, xa cách ánh sáng tuệ, rơi trong chốn mịt mù, đi vào đường hiểm, chấp chặt sự hiểu biết của ḿnh; ta nên khiến chúng sinh đạt mắt tuệ thanh tịnh không chướng ngại, biết tánh như thật của các pháp, không tùy thuận giáo pháp khác. Chúng sinh nào chạy trong đường hiểm sinh tử vắng vẻ, sắp rơi vào hố sâu cõi ác địa ngục, súc sinh, quỷ đói, hoặc bị nhốt trong lưới tà kiến ác độc hại, bị ngu si che lấp, đi trong đường hẹp tà kiến, mất mắt tuệ, thiếu bậc thầy dẫn đường, có tưởng không muốn xuất ly, đi vào cảnh giới của ma Ba-tuần, bị giặc cướp bắt bớ giam cầm, xa ĺa người dẫn dắt có tâm đại Bi với phương tiện quyền xảo, chạy theo nẻo rừng rậm phiền não thuộc ý lạc của các ma, cách biệt hoàn toàn với ý lạc của Phật, đối với các chúng sinh ấy, ta nên tạo sự thuận hợp để chỉ rõ về đường hiểm sinh tử đó nhằm cứu vớt, để các chúng sinh đó an trụ trong thành lớn không lo sợ của trí Nhất thiết trí. Chúng sinh nào trôi nơi dòng thác lớn, ch́m trong sóng to, bị cuốn theo dòng dục, hữu, vô minh kiến, men theo sinh tử, nổi ch́m trong sông ái, bôn ba rong ruổi, không ngừng nghỉ để quán sát, thuận theo tham, sân, si, kiêu mạn, bị La-sát thân kiến giữ chặt, qua lại tới lui trong tập khí dục, đắm ch́m vui thích trong bùn nhơ sóng dữ, vào trong thác ngã mạn, không nơi nương tựa, không vượt khỏi sáu xứ xóm làng, xa cách bậc tài trí cứu độ; ta nên dùng sức nơi căn lành đại Bi để cứu vớt, làm cho các chúng sinh đó an trụ nơi đảo Nhất thiết trí, không tai họa, không nhơ uế, tịch tĩnh, không còn lo sợ. Chúng sinh nào bị đóng kín nơi ưu sầu khổ não, bị xiềng trong gông cùm khát ái, trong rừng rậm vô minh ngu tối, bị nhốt nơi ngục ba cõi; ta nên khiến chúng vĩnh viễn ra khỏi ba cõi, an trụ trong Niết-bàn rốt ráo không chướng ngại. Chúng sinh nào chấp trước ngã, chấp giữ năm uẩn không thể tiến triển, làm theo bốn loại điên đảo, nương tựa vào xóm làng là sáu xứ trống không, bị rắn độc bốn đại chủng rượt đuổi, oán giặc năm uẩn vây hại, chịu vô lượng khổ; ta nên khiến chúng trụ trong chỗ thù thắng, không còn tham vướng, tức là Vô dư Niết-bàn ĺa chướng ngại. Chúng sinh nào nghe giảng về tâm Nhất thiết trí vô thượng mà hiểu biết hẹp hòi kém cỏi, phải cầu pháp giải thoát, phát tâm Thanh văn và Độc giác; ta nên khiến chúng quán pháp vi diệu của Phật trụ trong tâm đạo Vô thượng rộng lớn.

Phật tử! Bồ-tát tùy thuận vào sức ǵn giữ giới thanh tịnh, làm mọi việc bằng phương tiện khéo léo, trụ trong địa Ly cấu. Do hiểu biết và nguyện lực rộng lớn nên gặp được trăm trăm ngàn ngàn ngàn ức na-do-tha Phật. Đã gặp Phật, Bồ-tát này dùng tâm rộng lớn tăng thượng, cung kính, tôn trọng, phụng sự, cúng dường các thứ y phục, thức ăn, đồ ngồi, thuốc men, các vật cần dùng, phụng hiến cho Bồ-tát các thứ tạo an lạc vi diệu, cung kính đối với tăng chúng, hồi hướng căn lành lên đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Với tâm tôn trọng, Bồ-tát ở chỗ Phật, thọ tŕ mười nghiệp lành cho đến pháp Bồ-đề không hề quên sót. Nhờ vậy, Bồ-tát trải qua vô số, vô số kiếp, dứt trừ được tham lam bỏn sẻn và sự phạm giới, thành tựu đầy đủ bố thí, tŕ giới thanh tịnh.

Phật tử! Ví như vàng được tôi luyện đúng cách, trừ hết tạp nhơ th́ càng rực rỡ. Bồ-tát trụ nơi địa Ly cấu cũng thế trải qua vô số kiếp, trừ bỏ tham lam keo kiệt và sự phạm giới, thành tựu đầy đủ bố thí, tŕ giới thanh tịnh. Song trong bốn Nhiếp pháp, Bồ-tát này tu nhiều về ái ngữ. Trong mười Ba-la-mật, Bồ-tát này tu nhiều về giới Ba-la-mật, còn các Ba-la-mật khác th́ tùy sức tùy phần mà tu tập.

Phật tử! Đó là lược nói về địa Ly cấu thứ hai của Bồ-tát. Bồ-tát trụ địa này, thường sinh làm Chuyển luân thánh vương, đạt pháp tự tại đầy đủ uy lực, có đủ bảy báu, đủ sức mạnh trừ sạch các thứ nhơ uế, phạm giới của chúng sinh, đủ phương tiện hay, làm cho chúng sinh an trụ trong mười nghiệp lành. Hành tŕ việc như Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự đều không rời suy nghĩ về Phật, về Pháp, về Tăng, về Bồ-tát, về hạnh Bồ-tát, về giải thoát, về các trụ địa, về pháp không sợ, về pháp Bất cộng của Phật, cho đến không rời suy nghĩ về h́nh tướng thắng diệu tương ưng với trí Nhất thiết trí. Lại nguyện, ở trong chúng sinh, ta luôn là người đứng đầu, thù thắng vi diệu vô thượng; là người dẫn đường, là tướng soái, cho đến nguyện làm chỗ nương tựa để đạt trí Nhất thiết trí, phải siêng năng phát tâm như vậy; xả bỏ nhà cửa quyến thuộc, tài sản, xuất gia tin theo Thánh giáo của Phật; đã xuất gia th́ trong khoảnh khắc tu tập, đạt ngàn Tam-muội, gặp ngàn Đức Phật, được Phật gia hộ, làm cho thông hiểu tất cả, làm chuyển động ngàn thế giới, đi khắp ngàn cõi nước, soi chiếu ngàn cảnh giới, thành tựu ngàn loại chúng sinh, sống ngàn kiếp, nơi ngằn métrước sau đều vào trong ngàn kiếp, suy xét rõ ngàn pháp, thị hiện ngàn thân, mỗi thân hiện bày ngàn Bồ-tát bạn. Nhờ nguyện lực thù thắng, nên mọi việc đi lại, thần thông, ánh sáng, thân tướng, mắt, cảnh giới, âm thanh, hành động, trang nghiêm, hiểu biết, ǵn giữ, tạo tác, cho dù trải qua ngàn ngàn câu-chi kiếp, cũng không thể nói hết.

Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn lặp lại nghĩa trên bèn nói kệ rằng:

Ngay thật, nhu hòa và gắng nhận

Điều phục, vắng lặng cùng Hiền thiện

Không tạp, không luyến, thắng, rộng lớn

Nhờ mười ý lạc nhập Hai địa

Ở đây thành tựu công đức giới

Xa ĺa sát sinh, không làm hại

Trừ tâm trộm cướp và tà hạnh

Lừa dối, thô, tạp cùng chia rẽ

Không tham của vị, luôn thương yêu

Chánh kiến chân thật, không dua nịnh

Dứt bỏ kiêu mạn, tâm hòa nhã

Thực hành đúng pháp, không buông lung

Địa ngục, súc sinh chịu khổ não

Quỷ đói luôn bị lửa thiêu đốt

Tất cả đều do tội đưa đến

Ta nên trừ bỏ, trụ vườn pháp

Tùy ý thọ sinh trong cõi người

Cho đến hỷ lạc trời Hữu đảnh

Thanh văn, Độc giác và Phật thừa

Từ mười nghiệp lành được thành tựu

Suy xét như thế, không buông lung

Tự giữ tịnh giới, dạy người giữ

Lại thấy chúng sinh chịu khổ não

Phát khởi tâm bi càng mạnh mẽ

Phàm phu ngu si hiểu sai lệch

Luôn mang sân hận, thường tranh chấp

Tham cầu cảnh giới không biết chán

Ta nên khiến chúng trừ ba độc

Ngu si tăm tối luôn che lấp

Rơi trong đường hiểm, lưới tà kiến

Trói buộc trong vòng sinh tử khổ

Ta nên khiến chúng đuổi giặc ma

Trôi nổi ch́m đắm theo bốn dòng

Nhốt trong ba cõi chịu khổ não

Xem uẩn là nhà, chấp trước ngã

V́ cứu chúng sinh, siêng hành đạo

Cầu pháp giải thoát, tâm yếu kém

Bỏ trí tối thượng của chư Phật

Ta nên khiến chúng trụ Đại thừa

Siêng năng tu tập không chán mệt

Bồ-tát ở đây tu công đức

Gặp vô lượng Phật lại cúng dường

Trải qua ức kiếp gắng tu tập

Như đem vàng quặng luyện vàng ròng

Người trụ địa này làm Luân vương

Giáo hóa chúng sinh hành mười thiện

Tu tập tất cả các pháp lành

Thành tựu mười lực cứu thế gian

Muốn bỏ ngôi vua và tài sản

Xuất gia hành hóa trong Phật pháp

Dũng mãnh, tinh tấn chẳng bao lâu

Đạt ngàn Tam-muội, thấy ngàn Phật

Bồ-tát địa này thị hiện hết

Bao nhiêu thần thông, sức biến hóa

Nếu dùng nguyện lực th́ hơn đây

Vô lượng tự tại cứu chúng sinh

Tu hạnh tối thắng của Bồ-tát

Đem lợi ích cho cả thế gian

Đã v́ Phật tử diễn thuyết xong

Địa thứ hai, công đức là vậy.

KINH THẬP ĐỊA

| ML | Q 01 | Q 02 | Q 03 | Q 04 | Q 05 | Q 06 | Q 07 | Q 08 | Q 09 |

KINH THẬP ĐỊA

Hán dịch: Đời Đại Đường, Tam tạng Thi-la-đạt-ma.

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 3

Phẩm 3: ĐỊA PHÁT QUANG

Phật tử đã nghe hạnh địa ấy

Cảnh giới Bồ-tát khó nghĩ bàn

Thảy đều hoan hỷ tâm cung kính

Rải hoa cúng dường từ hư không

Khen ngợi: Lành thay! Đại tiên chủ

Tâm Từ thương xót các chúng sinh

Bậc Đại trí giảng pháp nghi

Hành tướng an trụ Địa thứ hai

Là hạnh vi diệu của Bồ-tát

Chân thật, không đổi, không sai khác

V́ muốn lợi ích các chúng sinh

Diễn thuyết hạnh nghiệp thanh tịnh nhất

Tất cả trời, người đều cúng dường

Xin hãy giảng thuyết Địa thứ ba

Các nghiệp trí tương ưng cùng pháp

Xiển dương đầy đủ cảnh giới ấy

Thí, giới, thanh tịnh của Đại tiên

An ổn, siêng năng, tuệ, thiền định

Các pháp Từ bi và phương tiện

Xin hãy thuyết đại thanh tịnh Phật

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt lại thưa:

Kim Cang Đại sư, bậc Vô úy

Xin hãy giảng thuyết các công đức

Nhập Địa thứ ba, tâm nhu hòa

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói với chúng Bồ-tát:

–Phật tử, Bồ-tát ở đại thứ hai đã tinh tấn, thanh tịnh, tâm ý, tăng thượng muốn nhập trụ Địa thứ ba của Bồ-tát th́ phải phát mười loại tâm. Mười tâm ấy là ǵ? Đó là:

1.     Tâm thanh tịnh.

2.     An trụ.

3.     Xa ĺa.

4.     Bỏ dục.

5.     Không thoái lui.

6.     Kiên cố.

7.     Mạnh mẽ.

8.     Dũng mãnh.

9.     Thù thắng.

10.    Rộng lớn.

Nhờ mười tâm này, Bồ-tát nhập Địa thứ ba. Phật tử, lúc Bồ-tát trụ ở Địa thứ ba, quán sát tất cả hạnh hữu vi đều là vô thường, khổ bất tịnh, không thể nương tựa, cuối cùng bị hư hoại, không tồn tại lâu, sinh diệt trong từng sát-na, không từ quá khứ đến, chẳng đi về vị lai, hiện tại không dừng. Bồ-tát không điên đảo khi quán sát tất cả các hành. Lại quán sát thân này không ai cứu giúp, không chỗ nương tựa, luôn bị buồn lo khổ não, yêu ghét trói buộc, khổ đau buồn chán hoài không dứt bị lửa tham, sân, si thiêu đốt, các bệnh thêm nhiều. Thấy như vậy, Bồ-tát tu tập tất cả hạnh, khiến thăng tiến đến trí ấn của Phật. Bồ-tát thấy trí Như Lai là không thể nghĩ bàn, chẳng ǵ sánh bằng, không thể xét lường, khó đạt được, không tạp loạn, không tai họa, khổ não, đến thành vô úy cũng chẳng thoái lui, cứu độ vô số chúng sinh khổ não. Bồ-tát thấy trí Như Lai, có vô số lợi ích, mà các hành th́ có vô số tai họa. V́ thế ở trong chúng sinh, Bồ-tát phát khởi mười loại tâm nhằm cứu độ. Mười tâm đó là ǵ? Đó là:

1.     Thấy chúng sinh cô độc không nơi nương tựa (dốc tâm cứu độ).

2.     Luôn nghèo khổ.

3.     Bị lửa dữ tham, sân, si thiêu đốt.

4.     Bị nhốt trong lao ngục.

5.     Luôn bị rừng rậm phiền não che lấp tâm.

6.     Không thể quán sát.

7.     Không thích pháp lành.

8.     Quên Phật pháp.

9.     Trôi theo dòng sinh tử.

10.    Mất đạo giải thoát.

Phát mười tâm nhằm cứu độ như thế, Bồ-tát thấy cõi chúng sinh đầy dẫy tai họa, nên phát khởi sự tinh tấn lớn, suy nghĩ: Đối với các chúng sinh, nay ta phải cứu độ khiến họ được giải thoát, khiến họ được thanh tịnh, được ra khỏi, được hướng nhập, được an trụ, được hoan hỷ, được vui thích, được điều phục, được vắng lặng. Bồ-tát chán ĺa các hành, phát tâm thương yêu chúng sinh, thấy lợi ích thù thắng của trí Phật, nương tựa trí Như Lai; v́ cứu chúng sinh mà siêng tu tập. Lại nghĩ: ta phải dùng pháp ǵ để cứu độ chúng sinh: Những kẻ đang ở trong đau khổ, phiền não, nhiễm ô, để chúng sinh được an trụ nơi Niết-bàn rốt ráo an lạc. Bồ-tát lại nghĩ: Pháp đó không ngoài trí vô ngại và sự giải thoát. Trí giải thoát không chướng ngại này, không ngoài sự hiểu biết như thật về các pháp. Sự hiểu biết này, không ngoài việc thực hành tuệ không hành, không sinh. Tuệ sáng này, không ngoài sự quán sát diệu tuệ, Thiền định phương tiện chắc thật. Sự quán sát đó, không ngoài sự học rộng khéo léo, tinh xảo. Bồ-tát dùng trí khéo quán sát, chuyên tâm t́m cầu, thực hành pháp chân chánh; luôn thích nghe pháp; vui vẻ nương tựa pháp; an trụ, tu tập, quy y và tùy thuận thực hành pháp. Bồ-tát khi mong cầu Phật pháp, tu hạnh chân chánh, bố thí tất cả mọi vật cần dùng dù nhỏ, hoặc tiền của, lúa gạo, kho lẫm. Xem những vật ấy không khó t́m, chỉ thấy khó gặp người thuyết pháp. V́ Phật pháp mà bố thí tất cả mọi vật bên ngoài và cả thân mạng, nguyện phụng sự Thầy tổ, trừ bỏ kiêu mạn, quá mạn, khiêm nhường, gắng hành tŕ, nguyện chịu đựng tất cả khổ đau của thân. Nếu nghe được một bài kệ bốn câu Phật pháp, th́ vui vẻ hơn là được kho châu báu tràn đầy trong Tam thiên đại thiên. Nghe ai giảng pháp chân chánh th́ vui sướng hơn được làm Đế Thích, Phạm thiên hay ngàn kiếp ở ngôi vị tối cao. Nếu có ai nói: Ta có một bài kệ Phật pháp, có thể đạt quả Phật, thanh tịnh hạnh nghiệp của Bồ-tát; nếu ông chịu nhảy vào hầm lửa lớn, chịu nhiều khổ đau, th́ ta sẽ giảng thuyết cho. Nghe vậy, Bồ-tát nghĩ: V́ nghe một câu Phật pháp để đạt quả Phật, thanh tịnh hạnh nghiệp của Bồ-tát; cho dù phải ở từ cõi Phạm thiên nhảy vào hầm lửa lớn, bằng Tam thiên đại thiên cõi cũng làm được, huống ǵ hầm lửa nhỏ! Lại nữa, ta v́ cầu Phật pháp, cho dù phải ở mãi trong địa ngục, chịu khổ não lớn cũng được, huống ǵ khổ nhỏ trong cõi người mà không chịu được sao? Bồ-tát phát tâm siêng năng cầu chánh pháp rồi, quán sát đúng lý những ǵ đã nghe; chánh pháp đã nghe phải t́m chỗ vắng tự tâm dũng mãnh suy nghĩ. V́ tùy pháp mà tu hành đúng chánh pháp, nên gọi là tùy thuận Phật pháp, chứ chẳng phải chỉ v́ thuần giảng thuyết mà được thanh tịnh.

Bồ-tát khi trụ địa Phát quang này, luôn tùy pháp mà tu hành đúng pháp th́ phải bỏ dục, bỏ các pháp ác, có tầm, có tứ, đạt ly sinh hỷ lạc, an trụ đầy đủ ở Thiền thứ nhất.

Tầm, tứ đều vắng, bên trong b́nh đẳng, thanh tịnh, chuyên nhất; không tầm, không tứ, đạt định ly sinh hỷ lạc, an trụ đầy đủ ở Thiền thứ hai.

Bỏ vui hỷ dục, an trụ xả, chánh niệm, chánh tri, thọ nhận lạc của thân; ở đó dùng trí biết đúng theo chỗ nêu bày của các Thánh, đầy đủ xả niệm cùng chánh tri, trụ thân thọ lạc, nhập thiền thứ ba.

Dứt hết vui khổ mừng lo; không khổ, không vui đạt xả niệm thanh tịnh, an trụ đầy đủ, nhập Thiền thứ tư.

Bồ-tát lại phải vượt tất cả vọng tưởng về sắc, dứt hết tưởng có đối, v́ không vọng tưởng, nên biết về hư không vô biên, an trụ đầy đủ nhập Không vô biên xứ.

Vượt hết thảy Không vô biên xứ, biết thức vô biên, an trụ đầy đủ, nhập Thức vô biên xứ.

Vượt hết thảy Thức vô biên xứ, biết về không sở hữu, an trụ đầy đủ nhập Vô sở hữu xứ.

Vượt hết thảy Vô sở hữu xứ, biết về Phi tưởng phi phi tưởng xứ, an trụ đầy đủ nhập Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Tùy thuận thực hành đúng pháp, không v́ tham chấp, nơi đầy đủ sự an ổn. Bồ-tát tu tâm Từ bi rộng lớn, không hai, không hạn lượng, không oán giận, không chướng ngại, làm hại, rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, an trụ trong tất cả thế gian để che chở chúng sinh, đều bằng tâm Từ, tu tâm Bi, Hỷ, Xả cũng như vậy; đều rộng lớn, không hai, không hạn lượng, không oán giận, không chướng ngại, làm hại, rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, an trụ trong tất cả thế gian để che chở chúng sinh đều bằng tâm xả. Bồ-tát được sử dụng vô số sự biến hóa thần thông chấn động các cõi. Biến một thân thành nhiều thân; nhiều thân thành một thân; hoặc ẩn hiện nhanh lẹ không chướng ngại, xuyên qua cả tường vách đá núi, như đi trong hư không. Ở trong hư không, an tọa qua lại như chim bay; ra vào đất như ra vào nước; đi trên nước như đi trên đất; thân phóng lửa lớn; tuôn nước như mưa lớn; dùng oai thần công đức lớn chạm tay đến mặt trời, mặt trăng, tự tại đi lại đến cõi Phạm thiên. Dùng tai nghe xa, nghe cả tiếng cõi trời, người, dù xa hay gần cho đến nghe cả tiếng ruồi muỗi vo ve, các loài côn trùng… Dùng Tha tâm trí, biết đúng như thật về tâm chúng sinh: Có tâm tham, tâm không tham; có sân, không sân; có si, không si; có nhiễm ô, không ô nhiễm, nhỏ hẹp, rộng lớn, vô lượng, tán, tụ, trụ định, xuất định, đã giải thoát, chưa giải thoát, có cố gắng, không cố gắng, thô, tế tất cả đều biết đúng như thật. Với Tha tâm trí, Bồ-tát còn biết những suy nghĩ trong tâm của các loại hữu t́nh khác nữa. Bồ-tát dùng túc trụ trí tùy niệm; nghĩa là tùy niệm biết được vô số việc ở quá khứ, biết rõ việc của ḿnh, của người trong một, hai, ba, bốn, năm cho đến mười, hai mươi, ba, bốn, năm mươi cho đến trăm ngàn đời, biết kiếp thành, kiếp hoại, kiếp thành hoại, cho đến tùy niệm biết rõ về vô số, vô số kiếp thành hoại. Biết ḿnh từng sinh ở đó, tên họ đó, dòng họ đó, h́nh dáng, ăn uống, đời sống, thọ mạng dài lâu khổ vui như vậy. Ở đó chết, sinh về đây; chết ở đây, sinh về chỗ kia; có h́nh dáng, có ngôn ngữ biết hết mọi việc lớn nhỏ ở quá khứ đều tùy niệm. Dùng Thiên nhãn thông, thấy chúng sinh lúc sống, lúc chết, đẹp xấu, ở cõi ác, ở cõi lành, yếu mạnh, đều hành động theo nghiệp… Biết chúng tạo hành động do thân, khẩu, ý ác; đọa vào cõi ác địa ngục. Chúng sinh nào hành động bằng thân, khẩu, ý lành, khen ngợi Hiền thánh, thành tựu chánh kiến. Nhờ nghiệp chánh kiến, sau khi chết, được sinh lên cõi trời, thọ hưởng diệu lạc. Bồ-tát tùy ý ra vào thiền định, giải thoát, không do oai lực thọ sinh. Thấy nơi nào sớm viên mãn pháp Bồ-đề th́ dùng nguyện lực sinh ra ở đó. Với sự hiểu biết và sự thệ nguyện rộng lớn.

Bồ-tát trụ địa Phát quang này gặp vô số trăm ngàn câu-chi Phật. Gặp Phật rồi, Bồ-tát dùng tâm rộng lớn, thanh tịnh, tăng thượng mà cung kính, tôn trọng, phụng sự, cúng dường các thứ y phục, thức ăn, đồ ngồi, thuốc men, những vật cần dùng, trổi nhạc cúng dường Bồ-tát, cung kính chúng Tăng, hồi hướng căn lành về đạo Vô thượng Bồ-đề, ân cần tôn trọng phụng sự Như Lai. Còn ở chỗ Phật th́ cung kính nghe pháp, nghe rồi tùy thuận tu tập. Bồ-tát quán tất cả pháp không dời đổi, cũng không hoại diệt, do nhân duyên mà có; Bồ-tát phải dần dần trừ diệt các thứ dục, sắc, hữu, vô minh đang trói buộc; trước phải đoạn trừ kiến chấp. Bồ-tát trụ nơi địa này, trải qua trăm trăm ngàn vô vô lượng vô số kiếp, chẳng những không chứa nhóm mà phải đoạn trừ tà kiến, tham dục, sân hận, ngu si, th́ những căn lành đã có mới dần dần thanh tịnh.

Phật tử! Ví như vàng, được người thợ giỏi tôi luyện, trừ bỏ tạp cấu mà không giảm lượng. Bồ-tát trụ nơi địa này cũng thế, trải qua vô số kiếp, v́ không chứa nhóm nên đoạn trừ hết tham, sân, si, và căn lành có được lại càng thanh tịnh. Bồ-tát lại thành tựu tâm gắng nhận, hòa nhã, vui vẻ, không sân, chẳng động, trong sạch, không cao thấp, chẳng thấy chúng sinh thấp kém, không mong báo đáp, không dua dối, mê mờ. Trong bốn Nhiếp pháp, Bồ-tát tu nhiều về lợi hành. Trong mười Ba-la-mật, Bồ-tát tu nhiều về nhẫn, các Ba-la-mật khác th́ tùy sức tùy phần mà tu tập.

Phật tử! Đó là lược nói về địa Phát quang thứ ba. Bồ-tát an trụ ở đấy, thọ sinh thường làm Đế Thích, có đủ uy lực giáo hóa chúng sinh, khiến chúng ĺa tham dục; cứu vớt những kẻ ch́m trong bùn dục. Làm mọi việc như Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự đều không rời sự suy nghĩ về Phật, về Pháp, về Tăng, về Bồ-tát, về hạnh Bồ-tát, về giải thoát, về các trụ địa, về pháp không sợ, về pháp Bất cộng của Phật, cho đến không rời h́nh tướng thắng diệu tương ưng với trí Nhất thiết trí. Lại nguyện, ở trong chúng sinh, ta luôn là người đứng đầu, thù thắng, vi diệu, vô thượng; là người dẫn đường, là tướng soái, cho đến nguyện làm chỗ nương tựa để đạt trí Nhất thiết trí. Nếu xuất gia, th́ không bao lâu chứng được trăm ngàn Tam-muội của Bồ-tát; gặp trăm ngàn Đức Phật, được Phật gia hộ khiến thông hiểu tất cả; làm chuyển động trăm ngàn thế giới, đi khắp trăm ngàn cõi nước, soi chiếu trăm ngàn cảnh, thành tựu cho trăm ngàn loại chúng sinh, sống trăm ngàn kiếp, nơi ngằn mé trước sau đều vào trong trăm ngàn kiếp; suy xét rõ trăm ngàn pháp, thị hiện trăm ngàn thân, mỗi thân hiện trăm ngàn Bồ-tát bạn. Nhờ nguyện lực thù thắng, nên mọi việc đi lại, thần thông, ánh sáng thân tướng, mắt, cảnh giới, âm thanh, hành động, trang nghiêm, sự hiểu biết, ǵn giữ, tạo tác cho dù trải qua trăm ngàn câu-chi kiếp cũng không thể nói hết.

Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn lặp lại ý nghĩa trên bèn nói kệ rằng:

Thanh tịnh, an trụ, tâm chán ĺa

Rời dục, vững chắc không thoái lui

Mạnh mẽ, thù thắng, lớn, vi diệu

Nhờ mười tâm này nhập ba địa

Bồ-tát an trụ trong địa ấy

Quán hành vô thường, khổ, bất tịnh

Không bền, hư hoại, chẳng tồn tại

Thay đổi không ngừng chẳng đến đi

Xét thân khổ não, không chỗ tựa

Đau buồn sầu khổ do ghét thương

Lửa khổ hừng hực không ngừng đốt

Sống trong bệnh hoạn chẳng nghỉ ngơi

Chán xa ba Hữu cầu trí Phật

Trí đó vi diệu không nghĩ bàn

Cao tột, khôn lường, khó chứng ngộ

Không loạn, chẳng hoạn, chẳng khổ não

An trụ vắng lặng, không thoái chuyển

Cứu độ vô số chúng sinh khổ

Thấy trí Phật rồi thương chúng sinh

Cô độc, bơ vơ, không người cứu

Ba độc thiêu đốt, thường nghèo thiếu

Ở trong địa ngục, luôn chịu khổ

Phiền não che đậy, mắt không trí

Tâm chí yếu kém, mất pháp bảo

Tùy thuận sinh tử, sợ Niết-bàn

V́ cứu chúng sinh, ta siêng năng

Mong cầu trí tuệ lợi chúng sinh

Xét t́m phương tiện khiến giải thoát

An trụ trí Phật, không chướng ngại

Nhờ hiểu thật lý, giáo Phật pháp

Trí tuệ vô sinh từ vô hành

Tuệ sinh từ định, định từ nghe

Suy xét như thế tự tinh tấn

Ngày đêm tu tập tôn trọng pháp

Phát tâm cung kính, nghe chánh pháp

Bố thí đất nước cùng trân bảo

Vợ con, quyến thuộc và ngôi vua

Đầu, mắt, tai, mũi, lưỡi và răng

Tay, chân, xương, tùy, tim, máu, thịt

Bố thí tất cả mọi vậy ấy

Nhưng chẳng xem đó là khó làm

Chỉ thấy khó được gặp Pháp sư

Giả sử có người bảo Bồ-tát

Tự nhảy vào trong hầm lửa lớn

Ta sẽ thuyết giảng pháp báu Phật

Nghe thế nhảy vào không kinh sợ

Dù cho lửa đốt ba ngàn cõi

Từ cõi Phạm thiên nhảy vào lửa

V́ cầu chánh pháp không thấy khó

Huống ǵ tí khổ của thế gain

Từ lúc phát tâm đến giác ngộ

Dù phải chịu khổ não vô gián

V́ nghe chánh pháp nên cam nhận

Huống ǵ tí khổ của cõi người

Nghe rồi suy xét đúng thật lý

Đạt bốn Thiền định, bốn Tam-muội

Bốn Tâm vô lượng, năm Thần túc

Không theo uy lực mà thọ thân

Bồ-tát địa này gặp nhiều Phật

Cúng dường, nghe pháp, tâm bền vững

Đọan trừ tà hoặc được thanh tịnh

Như vàng tôi luyện thể không giảm

Bồ-tát địa này làm Đế Thích

Giáo hóa vô lượng, vô số chúng

Khiến bỏ tâm tham, trụ pháp lành

Tất cả đều cầu công đức Phật

Nếu siêng tu tập chẳng bao lâu

Đạt được trăm ngàn môn Tam-muội

Gặp trăm ngàn Phật, thân tướng đẹp

Nếu đủ nguyện lực th́ hơn đây

Lợi ích tất cả các chúng sinh

Là hạnh tối thượng của Bồ-tát

Tất cả hành tướng Địa thứ ba

Tôi theo thật nghĩa đã giải bày.

Phẩm 4: ĐỊA DIỆM TUỆ

Phật tử đã nghe hạnh rộng lớn

Giáo pháp thắng diệu thật nhiệm mầu

Ai nấy vui mừng khôn xiết kể

Rải các hoa thơm cúng dường Phật

Trong lúc diễn thuyết diệu pháp này

Trời đất, biển lớn, đều chấn động

Tất cả Thiên nữ cùng vui mừng

Âm thanh hòa nhã tán thán Phật

Tự Tại Thiên vương cũng sung sướng

Mưa báu ma-ni cúng dường Phật

Khen Phật cứu đời, nên xuất thế

Diễn thuyết công đức hạnh cao tột

Thật nghĩa các địa của bậc trí

Trăm ngàn muôn kiếp thật khó gặp

Ta nay hốt nhiên lại được nghe

Thắng hạnh Bồ-tát, diệu pháp âm

Xin hãy diễn thuyết trí tuệ sáng

Các địa quyết định đạo rốt ráo

Lợi ích tất cả các đại chúng

Phật tử nơi đây đều thích nghe

Tâm lớn dũng mãnh Giải Thoát Nguyệt

Thưa với Bồ-tát Kim Cang Tạng

Xin hãy giảng thuyết các hành tướng

Từ đây an nhập Địa thứ tư.

Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng nói với chúng Bồ-tát:

–Phật tử! Bồ-tát đã đạt thanh tịnh, thông suốt ở Địa thứ ba, muốn nhập Địa thứ tư, phải nhờ nơi mười pháp sáng. Mười pháp đó là ǵ?

1.     Suy xét cõi chúng sinh.

2.     Suy xét thế giới.

3.     Suy xét cõi pháp chân thật.

4.     Suy xét cõi hư không.

5.     Suy xét Thức giới.

6.     Suy xét cõi Dục.

7.     Suy xét cõi Sắc.

8.     Suy xét cõi Vô sắc.

9.     Suy xét cõi tâm chí vui vẻ thù thắng.

10.    Suy xét cõi tâm chí rộng lớn.

Nhờ mười pháp này, Bồ-tát nhập Địa thứ tư.

Phật tử! Bồ-tát đạt địa Diệm tuệ là do mười trí là pháp thành thục, làm tăng trưởng nhà Như Lai để đạt pháp thể đó. Mười trí ấy là ǵ?

1.     Tâm không thoái chuyển.

2.     Vững tin Tam bảo để đạt rốt ráo.

3.     Quán sát các hành thuộc tánh sinh diệt.

4.     Quán sát, lý giải tánh của các pháp không sinh khởi.

5.     Quán sự thành hoại của thế gian.

6.     Quán v́ nghiệp mà có sinh tử.

7.     Quán sinh tử, Niết-bàn.

8.     Quán nghiệp nơi cõi của chúng sinh.

9.     Quán quá khứ, vị lai.

10.    Quán không tánh, không cùng tận.

Bồ-tát thành tựu mười trí là pháp thành thục, làm tăng trưởng nhà Như Lai, đạt được pháp thể.

Lại nữa, Phật tử, Khi Bồ-tát trụ ở địa này, tùy ở nội thân trụ quán toàn thân; khơi dậy ngọn lửa tinh tấn biết đúng để đoạn trừ ưu não, tham lam của thế gian; Tùy ở ngoại thân trụ quán toàn thân; khơi dậy ngọn lửa tinh tấn biết đúng để đoạn trừ ưu não, tham lam của thế gian.

Tùy ở nội ngoại thân trụ quán toàn thân; khơi dậy ngọn lửa tinh tấn biết đúng để đoạn trừ ưu não, tham lam của thế gian.

Đối với cảm thọ bên trong, bên ngoài, cả trong lẫn ngoài, tâm bên trong, tâm bên ngoài, tâm cả trong lẫn ngoài, đều cũng như vậy. Tùy nội pháp trụ quán toàn pháp, quán toàn thân; khơi dậy ngọn lửa tinh tấn biết đúng để đoạn trừ ưu não, tham lam của thế gian.

Tùy ngoại pháp trụ quán toàn pháp, quán toàn thân; khơi dậy ngọn lửa tinh tấn biết đúng để đoạn trừ ưu não, tham lam của thế gian.

Tùy nội ngoại pháp trụ quán toàn pháp, quán toàn thân; khơi dậy ngọn lửa tinh tấn biết đúng để đoạn trừ ưu não, tham lam của thế gian.

Bồ-tát siêng ngăn chận pháp ác chưa sinh, luôn cảnh giác tâm ḿnh, đoạn trừ pháp ác đã sinh và luôn cảnh giác tâm ḿnh, phát sinh pháp lành chưa sinh, luôn nhắc nhở tâm ḿnh; giữ ǵn và phát triển pháp lành đã sinh, luôn nhắc nhở tâm ḿnh.

Bồ-tát tu Dục đẳng tŕ đoạn hành, thành tựu thần thông, nương tựa vào sự xa ĺa, vào không nhiễm ô, vào tịch diệt, và hồi hướng bằng Xả.

Tu cần, tâm quán tŕ đoạn hành, thành tựu thần thông, nương tựa vào sự xa ĺa, vào không nhiễm ô, vào tịch diệt, và hồi hướng bằng Xả.

Bồ-tát tu các căn Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ nương tựa vào sự xa ĺa, vào không nhiễm ô, vào tịch diệt, và hồi hướng bằng Xả.

Tu các lực Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ nương tựa vào sự xa ĺa, vào không nhiễm ô, vào tịch diệt, và hồi hướng bằng Xả.

Bồ-tát tu các đẳng giác chi: Niệm, Trạch pháp, Tinh tấn, Hỷ, Khinh an, Định, Xả, nương tựa vào sự xa ĺa, vào không nhiễm ô, vào tịch diệt, và hồi hướng bằng Xả.

Tu chánh kiến, chánh niệm, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh định, chánh tuệ, nương tựa vào sự xa ĺa, vào không nhiễm ô, vào tịch diệt, và hồi hướng bằng Xả.

Bồ-tát tu tập các pháp Bồ-đề này, chỉ v́ thương yêu tất cả chúng sinh, mà phát nguyện lớn để cứu độ, lấy đại Bi làm gốc, thành tựu đại Từ, suy xét Nhất thiết trí, phát nguyện trang nghiêm cõi Phật, phát lực, pháp không sợ, pháp Bất cộng, tiếng tốt, tiếng hay của Như Lai, mong cầu pháp thù thắng lâu dài, tùy thuận pháp giải thoát sâu xa của Phật mà thực hành, quán sát phương tiện khéo léo rộng lớn.

Phật tử! Khi Bồ-tát trụ địa Diệm tuệ này đoạn trừ tất cả các hoặc, vi tế như thân kiến, chấp ngã, chứa nhóm, tham vướng. Trừ bỏ mọi tạp nhiễm không nên làm mà các Đức Phật chê trách, thực hành hạnh chân chánh của Bồ-tát và việc được chư Phật khen ngợi. Nhờ đó dần dần đầy đủ đạo Bồ-tát, phát khởi trí tuệ phương tiện, như thật tu tập các pháp, đạt các tâm nhu hòa, nhẫn nhục, gắng nhận, lợi ích, không tạp nhiễm, mong cầu pháp thù thắng lâu dài, tâm trí cao thượng, tâm cứu độ chúng sinh, tâm tôn trọng tùy thuận Thầy Tổ, tâm thực hành đúng pháp, tâm biết ân đức; các tâm ấy thuận hợp, sống chung an lạc, ngay thật, nhu hòa, không mê mờ, không dua nịnh, kiêu mạn, khéo tùy thuận lời dạy dỗ.

Bồ-tát thành tựu nhẫn nhục, điều phục, vắng lặng; theo những thành tựu đó mà suy xét, thực hành, làm thanh tịnh hạnh nghiệp của địa này, luôn siêng năng, không nhiễm ô, chẳng thoái lui, rộng lớn, dũng mãnh không ai bằng hay hơn được; tinh tấn thành tựu chúng sinh, phân biệt rõ đạo, phi đạo. Tâm chí Bồ-tát càng thanh tịnh, tăng thượng, nhớ kỹ, thù thắng, sáng suốt, nhạy bén, căn lành trong sạch, đoạn trừ nhơ uế, nghi hoặc của thế gian, hiển hiện tánh không nghi, chứng đạt hỷ, khinh an, nhờ Như Lai gia hộ nên thành tựu tâm ý vui vẻ vô lượng.

Bồ-tát trụ ở địa này, dùng kiến kiến giải và nguyện lực rộng lớn để gặp được vô số trăm ngàn vạn ức Phật. Gặp Phật, Bồ-tát dùng tâm thanh tịnh rộng lớn, cung kính, tôn trọng, phụng sự, cúng dường các thứ y phục, thức ăn, đồ ngồi, thuốc men, các vật cần dùng, phụng hiến cho Bồ-tát các thứ tạo an lạc vi diệu, cung kính đối với chúng Tăng, hồi hướng căn lành lên đạo Vô thượng Bồ-đề, ân cần phụng sự các Đức Như Lai. Còn ở chỗ Phật, th́ cung kính nghe pháp, nghe rồi thọ tŕ, tùy khả năng tu tập, vững tin, xuất gia trong giáo Phật pháp. Bồ-tát dàn dần có tâm thanh tịnh tăng thượng, tánh tin hiểu b́nh đẳng, căn lành đã có càng thù thắng thanh tịnh.

Phật tử, ví như thợ vàng khéo léo, làm các đồ trang sức bằng vàng, th́ những thứ khác sẽ không sánh bằng. Phật tử, Bồ-tát này cũng thế, có các căn lành mà tất cả căn lành của các Bồ-tát nơi địa dưới không hơn được. Phật tử, ví như ngọc ma-ni ánh sáng rực rỡ mà các vật báu khác không hơn được, cho dù mưa, gió, nước trong khắp thế gian cũng không thể làm mất ánh sáng ấy. Ánh sáng trí tuệ của Bồ-tát này, tất cả ma oán, phiền não hiện hành đều không che lấp được. Trong bốn Nhiếp pháp, Bồ-tát tu nhiều về đồng sự, trong mười Ba-la-mật, Bồ-tát tu nhiều về Tinh tấn ba-la-mật, các Ba-la-mật khác th́ tùy sức tùy phần mà tu tập.

Phật tử! Đó là lược nói về địa Diệm tuệ thứ tư của Bồ-tát. Bồ-tát trụ nơi địa này, thọ sinh thường làm Thiên vương Dạ-ma, đầy đủ uy lực giáo hóa chúng sinh, khiến chúng sinh đoạn trừ tà kiến, an trụ chánh kiến. Làm những việc như Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự đều không rời suy nghĩ về Phật, về Pháp, về Tăng, về Bồ-tát, về hạnh Bồ-tát, về giải thoát, về các trụ địa, về diệu lực của Phật, về pháp không sợ, pháp Bất cộng của Phật, cho đến không rời suy nghĩ về h́nh tướng thắng diệu tương ưng với trí Nhất thiết trí. Lại nguyện: Ở trong chúng sinh, ta luôn là người đứng đầu, thù thắng vi diệu, vô thượng; là người dẫn đường, là tướng soái, cho đến nguyện làm chỗ nương tựa để đạt trí Nhất thiết trí. Nếu siêng năng phát khởi sự tu tập, th́ sớm đạt câu-chi Tam-muội của Bồ tất, gặp câu-chi Đức Phật, và được Phật gia hộ, khiến thông hiểu tất cả, làm chuyển động câu-chi thế giới, đi khắp câu-chi cõi nước, soi chiếu câu-chi, thành tựu câu-chi loài chúng sinh, sống câu-chi kiếp; mỗi thân hiện câu-chi Bồ-tát bạn. Nhờ nguyện lực thù thắng, nên mọi việc đi lại, thần thông án sáng thân tướng, mắt cảnh giới, âm thanh, hành động, trang nghiêm, hiểu biết ǵn giữ, tạo tác, dù đủ trải qua câu-chi kiếp cũng không thể nói hết.

Bất giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn nêu lại nghĩa trên bèn nói kệ rằng:

Bồ-tát thanh tịnh Địa thứ ba

Quán sát chúng sinh cảnh pháp giới

Không, thức, dục, sắc và vô sắc

Tâm ý thù thắng an nhập

Trụ địa Diệm tuệ của Bồ-tát

Ở nhà Như Lai không thoái chuyển

Tin Phật, Pháp, Tăng không hoại

Quán pháp sinh diệt, không sinh khởi

Quán đời thành hoại, do nghiệp sinh

Sinh tử Niết-bàn và các nghiệp

Quá khứ, vị lai tánh không cùng

Tu hành như thế ở nhà Phật

Đã đạt giáo pháp, Từ bi tăng

Chuyên cần tu tập bốn Niệm trụ

Thân, thọ, tâm, pháp; quán trong ngoài

Trừ sạch tham ái của thế gian.

Bồ-tát tu tập bốn Chánh đoạn

Trừ diệt pháp ác, tăng pháp lành

Lại tu Thần túc và Căn, Lực

Với bảy Giác phần, tám Thánh đạo

V́ độ chúng sinh tu giác phần

Thệ nguyện ǵn giữ gốc Từ bi.

Cầu Nhất thiết trí nghiêm cõi Phật.

Lại duyên mười Lực của Như Lai

Bốn Vô úy, pháp Bất cộng

Tướng tốt thù thắng, giọng nói hay

Cầu đạo vi diệu, pháp giải thoát

T́m phương tiện lớn, tu Giác phần

Sáu hai kiến chấp, thân kiến: Gốc

Ngã cùng ngã sở, vô số loại

Uẩn giới và xứ, các chấp trước

Ở Địa thứ tư trừ sạch hết

Những loại phiền não mà Phật quở

Những nghiệp vô ích đều từ bỏ

Các nghiệp thanh tịnh được Phật khen

V́ độ chúng sinh nên tu tập

Bồ-tát siêng tu không lười mỏi

Đạt được đầy đủ mười tâm pháp

Chuyên cầu Phật đạo không chán mệt

Mong được quán đỉnh độ chúng sinh

Cung kính thầy tổ tu pháp thành

Biết ân, sám hối, không sân hận

Trừ bỏ kiêu mạn tâm nhu hòa

Ngày đêm tinh tấn không thoái chuyển

Tâm ý cảnh giới luôn thanh tịnh

Chí nguyện tăng trưởng quyết không quên

Thông hiểu vững chắc, căn lành lớn

Trừ sạch trần cấu và lưới nghi

V́ không nghi hoặc được an ổn

Nhờ Phật gia hộ chí không lường

Bồ-tát an trụ địa Diệm tuệ

Cúng dường vô số Đức Như Lai

Nghe thọ chánh pháp rồi xuất gia

Vững chắc mạnh mẽ như vàng ròng

Bồ-tát địa này đủ công đức

Dùng chí phương tiện tu hành đạo

Không bị tâm ma làm thoái chuyển

Ví như ngọc báu không ǵ hoại

Thường làm Thiên vương cõi Dạ-ma

Đầy đủ quyền lực mọi người tôn

Hóa độ chunsg sinh trừ ác kiến

Chuyên cầu chsi Phật tu nghiệp lành

Bồ-tát tăng trưởng sức tinh tấn

Đạt được câu-chi Tam-ma-địa

Nếu dùng nguyện lực và chí lực

Vượt hơn số này nhiều vô kể

Do vậy Bồ-tát Địa thứ tư

Siêng năng tu tập đạo vi diệu

Công đức tương hợp chí biết đúng

Tôi v́ Phật tử giảng thuyết xong

KINH THẬP ĐỊA

| ML | Q 01 | Q 02 | Q 03 | Q 04 | Q 05 | Q 06 | Q 07 | Q 08 | Q 09 |

KINH THẬP ĐỊA

Hán dịch: Đời Đại Đường, Tam tạng Thi-la-đạt-ma.

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 4

Phẩm 5: ĐỊA NAN THẮNG

Bồ-tát nghe hạnh Nan thắng địa

Hiểu rõ chánh pháp tâm vui mừng

Hư không tuôn hoa khen ngợi Phật

Hay thay! Kim Cang Tạng

Tự Tại Thiên vương, với thiên chúng

Nghe pháp vui mừng, ở hư không

Phóng ra vô số mấy trắng rực

Vui vẻ cúng dường Phật khắp nơi

Ngọc nữ cõi trời trổi Thiên nhạc

Dùng tiếng vi diệu khen ngợi Phật

Chính nhờ oai thần của Bồ-tát

Trong không phóng ra âm thanh lớn

Nguyện Phật lâu xa nay thành tựu

Phật pháp lâu xa giờ đạt được

Đức Phật Thích-ca đến cõi trời

Lợi ích chư Thiên nay mới gặp

Biển lớn từ lâu nay chấn động

Ánh sáng Phật-đà nay rọi soi

Chúng sinh nhiều kiếp giờ vui sướng

Âm thanh đại Bi lại được nghe

Công đức giải thoát đều đã đến

Kiêu mạn tối tăm đều đã diệt

Cao lớn thanh tịnh như hư không

Chẳng những pháp trần tựa hoa sen

Mâu-ni tôn kính hiện ở đời

Ví như Tu-di giữa biển lớn

Cúng dường, chấm dứt mọi khổ đau

Cúng dường sẽ được ý của Phật

Phật là nơi cúng, không ǵ bằng

Thế nên vui vẻ mà cúng dường

Cứ thế vô số các Thiên nữ

Cất tiếng vi diệu khen ngợi Phật

Cung kính tôn trọng càng vui vẻ

Chiêm ngưỡng Như Lai ngồi im lặng

Lúc ấy, Bồ-tát Giải Thoát Nguyện

Lại thưa Kim Cang Tạng

Xin ngài diễn thuyết cho Phật tử

Hành tướng an trụ Địa thứ năm

Bấy giờ, Kim Cang Tạng nói với chúng Bồ-tát:

–Phật tử, Bồ-tát đã khéo viên mãn Địa thứ tư, muốn thập Địa thứ năm phải dùng mười tâm b́nh đẳng thanh tịnh. Mười tâm đó là ǵ?

Đó là:

1.     Pháp Phâït quá khứ b́nh đẳng thanh tịnh.

2.     Vị lai Phật pháp b́nh đẳng thanh tịnh.

3.     Hiện tại Phật pháp b́nh đẳng thanh tịnh.

4.     Giới b́nh đẳng thanh tịnh.

5.     Định b́nh đẳng thanh tịnh.

6.     Trừ tà kiến nghi hoặc b́nh đẳng thanh tịnh.

7.     Trí đạo, trí phi đạo b́nh đẳng thanh tịnh.

8.     Đoạn trí b́nh đẳng thanh tịnh.

9.     B́nh đẳng thanh tịnh quán sát kỹ các pháp Bồ-đề phần.

10.    B́nh đẳng thanh tịnh thành tựu tất cả chúng sinh.

Nhờ mười tâm b́nh đẳng thanh tịnh này mà Bồ-tát thập Địa thứ năm.

Phật tử, Bồ-tát đã nhập Địa thứ năm nhờ tu tập pháp giải thoát, nhờ tâm thanh tịnh tăng thượng, lại mong cầu đạo thù thắng đời sau, nên làm mọi việc chân chánh, giữ bằng nguyện lực, yêu thương, không bỏ chúng sinh vàluôn tích tụ phước trí, đó là hai hành trang không thể, dừng bỏ, từ đó tạo phương tiện khéo léo, quán sát trí sáng các địa sau. Nhờ luôn cầu Phật gia hộ, giữ ǵn bằng sức hiểu biết nên đạt tâm chân chánh không thoái chuyển, biết đúng như thật về khổ, tập, diệt, đạo Thánh đế. Từ thế tục đế, Bồ-tát đạt phương tiện khéo léo về thắng nghĩa đế, về tướng đế, về sai biệt đế, về an lập đế, về sự đếm về sinh đế, về tận vô sinh trí đế, về thú nhập đạo trí đế, về hết thảy địa của Bồ-tát; thành tựu tuần tự trước sáu, cho đến đạt phương tiện khéo léo trong Như Lai trí Tập đế. Bồ-tát luôn làm cho chúng sinh vui vẻ. V́ biết thế tục đế nên chứng nhập tất cả thật nghĩa. V́ biết thắng nghĩa đế nên biết tướng riêng, tướng chung của các pháp. V́ biết tướng đế nên ngộ được sự sai biệt của các pháp và an thật nghĩa. V́ biết sai biệt đế nên hiểu rõ sự an lập của uẩn xứ giới. V́ biết an lập đế nên thông đạt khổ não của thân tâm. V́ biết sự đế nên hiểu rõ sự tiếp nối của các cõi. V́ biết sinh đế nên trừ sạch phiền não. V́ biết tận trí đế và vô sinh trí đế nên đưa đến vô nhị. V́ biết nhập đạo trí đế nên thông suốt tất cả hành tướng. Đã tuần tự thành tựu được các địa của Bồ-tát cho đến biết được trí Tập đế của Như Lai đều do sự thông hiểu không phải do trí cứu cánh.

Bồ-tát nhờ thiện xảo đế mà phát sinh trí tuệ chân chánh biết đúng như thật các pháp hữu vi là hư, dối, lừa gạt, mê hoặc kẻ phàm ngu. V́ thế ở trong chúng sinh, Bồ-tát hiển hiện ánh sáng từ bi lớn, để phát sinh sức giữ ǵn của trí, thương yêu chúng sinh, mong cầu trí Phật. Quán sát tất cả hành tướng hữu vi ở quá khứ, vị lai, hiện tại, là đều do vô minh khát ái mà có chúng sinh, rồi trôi nổi trong dòng sinh tử; rồi từ chấp chặt uẩn, lại không siêng năng nên càng thêm nhiều khổ não của uẩn.

Bồ-tát biết đúng không có ngã, không thọ mạng, không người nuôi dưỡng, không nơi hướng đến, ĺa ngã, ngã sở; nên đoạn trừ và ra khỏi ngu si ái dục của đời sau, biết đúng như thật về có không. Bồ-tát nghĩ: Chúng sinh, mê mờ, điên đảo này thật đáng thương; có vô số thân đã diệt, đang diệt, sẽ diệt, tất cả đều mất, vậy mà chúng sinh không chán ghét thân này, lại tạo thêm nhiều khổ não, trôi theo dòng sinh tử mà không tỉnh ngộ, không bỏ chấp trước uẩn, không ghét và xa loài rắn độc lớn; không nhổ được mũi tên sắc tà kiến, kiêu mạn; không dập tắt lửa tham, sân, si; không xua tan bóng tối vô minh, không làm khô cạn biển lớn khát ái, không cầu bậc Thánh mười lực, đi trong rừng rậm ma quỷ, luôn ở trong biển sinh tử không bờ, đủ các sóng dữ tầm tư; trôi nổi bồng bềnh không dứt trong sự nhiễu loạn. Ta nay v́ vô số chúng sinh đầy khổ não bức bách, cô độc, không nơi nương tựa, không ai cứu vớt, không nhà cửa, không hướng đi, ngu tối đui mù; trói buộc chúng sinh trong lớp mê mờ mà dày cứng; ta một ḿnh không bạn bè siêng tu tập hành trang phước trí rồi nhờ hành trang đó, làm cho chúng sinh rớt ráo thanh tịnh, cho đến được trí vô ngại, mười lực của Như Lai.

Bồ-tát này dùng trí quán sát phát khởi trí tuệ tu tập căn lành, đều v́ cứu hộ, v́ lợi ích an lạc, v́ thương yêu chúng sinh; khiến chúng sinh không bị tai họa, được giải thoát; dắt dẫn chúng sinh; muốn chúng sinh phát khởi lòng tin thanh tịnh, muốn điều phục cứu độ chúng sinh nên mới tu tập vậy.

Bồ-tát khi an trụ địa Nan thắng này, được gọi là người đầy đủ chánh niệm v́ không quên chánh pháp; người đầy đủ trí tuệ v́ đạt trí thông hiểu; người biết rõ phương hướng v́ tu các pháp bí mật; người hổ thẹn v́ biết bảo vệ ḿnh, người; người kiên tŕ v́ không bỏ luật nghi và giới hạnh; người giác ngộ v́ đạt quyền biến nhờ quán xứ, phi xứ; người hành động bằng trí v́ không theo người khác; người hành động bằng tuệ v́ đạt quyền biến trong pháp có không; người phát khởi thần thông v́ đạt quyền biến trong tu tập, người đầy đủ phương tiện khéo léo v́ tùy thuận thế gian mà chuyển; người không mệt mỏi v́ tu tập tất cả hành trang phước đức; người siêng năng không ngừng v́ cần cầu hành trang trí tuệ; người vui vẻ không chán nản v́ tu tập hành trang đại Từ bi; là người bảo hộ chúng sinh v́ cứu độ chúng sinh; là người không cao ngạo v́ cầu lực, pháp vô úy, bất cộng của Phật; là người khéo tác ý như hành v́ tu tập hạnh trang nghiêm cõi Phật; người tạo các nghiệp lành v́ tu tập tướng tốt; người luôn siêng tu tập v́ càu thân, ý, ngữ trang nghiêm của Phật; người tôn trọng, phụng sự v́ tu tập đúng các pháp của Bồ-tát dạy; người tâm không ngại v́ có đầy đủ phương tiện khéo léo để nhập thế gian; là người ngày đêm bỏ vọng tưởng v́ tu tập các hạnh đều để giáo hóa chúng sinh.

Bồ-tát thường siêng tu bố thí để thành thục chúng sinh; lại tu Ái ngữ, Lợi hành và Đồng sự; lại hiện thân xinh đẹp, thuyết pháp chỉ dạy hạnh Bồ-tát, lại hiển hiện đại ngã của Như Lai, tội lỗi của sinh tử, khen ngợi người trí thù thắng của Phật, phát khởi du hý thần thông rộng lớn, dùng đủ mọi phương tiện để tác động sự tu hành của chúng sinh để thành thục chúng hữu t́nh. Bồ-tát siêng năng tu tập, hóa độ chúng sinh, tâm luôn luôn hướng về trí Phật, tăng nhiều căn lành, bền bỉ cầu pháp thù thắng, để đem lợi ích cho chúng sinh. học biết tất cả các loại sách toán học, địa chất, y học để trị bệnh khô gầy, điên đảo, bị ma quỷ tổn hại, bị trùng độc, học chú thuật, văn học, thi ca, kỹ nhạc, kịch. Đi vào xóm làng, thành ấp, cung đ́nh, vườn quán, sông suối, ao hồ, rừng cây để t́m thuốc men, vàng bạc, trân châu, lưu ly, ngọc quý; lại học xem trời, sao, đất, chim muông, mộng tướng tốt xấu, thọ thân đầy đủ hoặc từng phần; lại học luật nghi, giới hạnh, thiền định, thần thông, bốn tâm chúng sinh làm lành, thương yêu mọi loài, làm cho chúng sinh an trụ trong pháp vô thượng của Phật. Nhờ trí hiểu biết và nguyện lực rộng lớn, Bồ-tát này gặp được trăm trăm ngàn vạn ức câu-chi Phật. Gặp Phật, Bồ-tát dùng tâm rộng lớn, tăng thượng, cung kính, tôn trọng, phụng sự, cúng dường, y phục, thức ăn, đồ ngồi, thuốc men, các vật cần dùng, trổi nhạc cúng dường Bồ-tát, cung kính chúng Tăng, hồi hướng căn lành lên đạo Bồ-đề vô thượng. Cung kính phụng sự các Đức Phật, thiết tha nghe chánh pháp. Nghe xong th́ thọ tŕ rồi tùy khả năng tu tập, lòng tin thanh tịnh xuất gia, đã xuất gia th́ có thể làm Pháp sư thông thái. Nhờ nghe các hành tướng, nên đạt được pháp Tổng tŕ. Bồ-tát trụ địa Nan thắng này, trải qua vô số kiếp căn lành càng sáng rực đạt đến minh tịnh. Trải qua vô số vô số câu-chi kiếp, các căn lành ấy vẫn thù thắng sáng rực, đạt đến minh tịnh.

Phật tử, ví như thợ vàng, luyện vàng thành các đồ trang sức, nếu có xen lẫn xà cừ, ngọc quý càng sáng đẹp. Phật tử, căn lành của Bồ-tát tát trụ địa Nan thắng này cũng vậy dùng trí tuệ phương tiện suy xét quán sát th́ căn lành càng minh tịnh, đó là nhờ sự dẫn dắt của trí gia hành và công đức cùng xem xét suy nghĩ mà ánh sáng ấy khó bị chiếm đoạt.

Lại nữa, Phật tử, ví như ánh sáng mặt trời, trăng, sao, cung điện rực rỡ, th́ tất cả những phong luân không thể khiếm lấy được cũng chẳng cùng tồn tại.

Phật tử! Các căn lành của Bồ-tát trụ địa này cũng vậy; dùng phương tiện trí tuệ suy xét sự thực hành; các Thanh văn, Độc giác không thể chiếm đoạt cũng chẳng phải giống với căn lành thế gian. Trong mười Ba-la-mật, Bồ-tát này tu nhiều về Thiền ba-la-mật, các Ba-la-mật khác th́ tùy sức tu hành.

Phật tử! Đó là lược nói về Trí địa Nan thắng thứ năm. Bồ-tát trụ địa này, thọ sinh sẽ được làm Thiên vương trời Đâu-suất, đủ uy lực, khéo giáo hóa chúng sinh, khiến chúng bỏ tà pháp ngoại đạo, tu pháp chân thật. Làm mọi việc như Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự đều không rời sự suy nghĩ về Phật, về Pháp, về Tăng, về Bồ-tát, về hạnh Bồ-tát, về giải thoát, về các trụ địa, về Phật lực, về pháp không sợ, về pháp Bất cộng của Phật, cho đến không rời suy nghĩ về hành tướng thắng diệu tương ưng với trí Nhất thiết trí. Lại nguyện: Ở trong chúng sinh, ta luôn là người đứng đầu, thù thắng vi diệu, vô thượng; là người dẫn đường, là tướng soái; cho đến nguyện làm chỗ nương tựa để đạt trí Nhất thiết trí. Nếu dùng nguyện lực siêng năng tu tập, th́ chẳng bao lâu, đạt được trăm câu-chi Tam-muội của Bồ-tát, gặp được trăm câu-chi Đức Phật và được Phật gia hộ nên thông hiểu tất cả; làm chuyển động trăm câu-chi thế giới, đi khắp trăm câu-chi cõi nước, soi chiếu trăm câu-chi cảnh giới, thành tựu trăm câu-chi loại chúng sinh; sống trăm câu-chi kiếp, nơi biên vực trước sau đều vào trong trăm câu-chi kiếp; suy xét rõ trăm câu-chi pháp; thị hiện trăm câu-chi thân, mỗi thân hiện trăm câu-chi Bồ-tát bạn. Bồ-tát nhờ nguyện lực thù thắng, nên mọi việc đi lại, ánh sáng, thần thông, mắt, cảnh giới, âm thanh, hành động, trang nghiêm, sự hiểu biết, ǵn giữ, tạo tác dù có trải qua trăm câu-chi, ngàn câu-chi kiếp, cũng không thể nói hết.

Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn lặp lại ý nghĩa trên bèn nói kệ rằng:

Bồ-tát an trụ địa Diệm tuệ

Tu tập đầy đủ hạnh thanh tịnh

Biết rõ ba đời Phật b́nh đẳng

Nhờ tu giới, định, trừ kiến, nghi

Tu hành chân Chánh đạo, phi đạo

Dày công quán sát trí giác phần

B́nh đẳng hóa độ các chúng sinh

Thông đạt an nhập Địa thứ năm

Niệm xứ là cung, căn: Tên nhọn

Chánh cần là ngựa, xe: Thần túc

Năm Lực: Giáp sắt phá thù địch

Mạnh mẽ an nhập Địa thứ năm

Mặc áo hổ thẹn, hoa giác phần

Tịnh giới hương thơm, định hương xoa

Phương tiện thiện xảo vật trang sức

Dạo vườn Đẳng tŕ rừng Tổng tŕ

Thân túc là chân, cổ: Chánh niệm

Từ bi: Mắt sáng; trí tuệ: Răng

Sư tử cõi người gầm vô ngã

Diệt sạch thú “hoặc”, vào năm Địa

Bồ-tát trụ Địa thứ năm này

Tu tập tăng trưởng đạo thanh tịnh

Chí cầu Phật pháp không chùn bước

Siêng năng suy xét pháp Từ bi

Tu tập phước trí, đức thù thắng

T́m đủ phương tiện quán Địa trên

Được Phật gia hộ đủ niệm tuệ

Pháp Tứ đế thông hiểu như thật

Biết rõ Thế đế, Thắng nghĩa đế

Sự đế, Sinh, Tận và Đạo đế

Cho đến Trí đế Phật không ngại

Quán sát các đế tuy tinh diệu

Chưa đạt vô ngại thắng giải thoát

Nhưng đã phát sinh công đức lớn

Siêu vượt trí tuệ của thế gian

Quán sát đế rồi, biết hữu vi

Thể tánh hư dối không bền chắc

Đạt được ánh sáng từ bi Phật

Lợi ích chúng sinh cầu trí Phật

Quán sát hữu vi dù trước sau

Vô minh che lấp, ái trói buộc

Xoay vần trôi nổi trong chốn khổ

Không ngã, chúng sinh và thọ mạng

Ái thủ là nhân khổ về sau

Muốn cầu giới hạn, không thể được

Mê mờ trôi dạt chẳng tỉnh ngộ

Chúng sinh đáng thương ta nên cứu

Uẩn: Nhà, Giới: Rắn, mũi tên Kiến

Lửa dục hừng hực, vô minh che

Nổi trôi sông ái không quán sát

Phiêu bạt biển khổ chẳng người đưa

Biết rõ tất cả nên tinh tấn

Làm mọi việc lành độ chúng sinh

Là người đầy đủ niệm và tuệ

Lại thông đạt mọi phương tiện hay

Tu tập phước, trí không chán đủ

Cung kính học rộng, không lười, mỏi

Trang nghiêm cõi nước và tướng tốt

Tất cả đều v́ độ chúng sinh

V́ nhằm giáo hóa các thế gian

Học hiểu luận nghị và số thuật

Cũng khéo hiểu biết về phương dược

Chữa trị mọi bệnh đều an lành

Giỏi đủ văn từ, ca múa nhạc

Xây dựng cung đ́nh, vườn ao cảnh

Trang sức đầy đủ các châu báu

Lợi ích vô số loại chúng sinh

Trăng, trời, sao, đất mọi chấn động

Quán sát tất cả các thân h́nh

Thiền định Tam-muội và thần thông

Lợi ích cho chúng sinh, hiện tất cả

Bậc trí an trụ địa Nan thắng

Cúng dường Đức Phật nghe giáo pháp

Như đính xa cừ vào vàng ròng

Căn lành Bồ-tát ngày đêm sáng

Ánh sáng cung điện và trăng sao

Tất cả các thứ không sánh được

Như sen trong bùn không ô uế

Bồ-tát ở đời cũng như vậy

Thường làm Thiên vương trời Đâu-suất

Trừ bỏ ngoại đạo, các tà kiến

Tu tạp căn lành cầu trí Phật

Mong đạt mười Lực cứu chúng sinh

Nếu như Bồ-tát càng siêng năng

Sớm gặp được trăm câu-chi Phật

Đạt được Tam-muội, thân cũng thế

Nguyện lực đã làm vượt hơn đây

Trụ địa Nan thắng thứ năm này

Là đạo chân thật, trời người kính

Ta đã dùng đủ mọi phương tiện

V́ các Phật tử mà thuyết giảng.

Phẩm 6: ĐỊA HIỆN TIỀN (Phần 1)

Bồ-tát đã nghe hạnh thù thắng

Tâm đều vui mừng rải hoa thơm

Phóng ánh sáng đẹp, mưa châu báu

Cúng dường Như Lai và xưng tán

Trăm ngàn thiên chúng cùng vui vẻ

Ở trong hư không rải bảo vật

Vòng hoa anh lạc và cờ phướn

Hương xoa, lọng báu cúng dường Phật

Thiên vương Tự Tại và quyến thuộc

Vui mừng an trụ trong hư không

Cúng dường vô số các vật báu

Khen ngợi Phật tử đã thuyết giảng.

Vô số Thiên nữ nơi không trung

Trỗi nhạc ca hát tán thán Phật

Cất tiếng êm dịu ca ngợi rằng:

Phật pháp trừ sạch bệnh phiền não

Tánh pháp vắng lặng không h́nh tướng

Ví như hư không, ĺa phân biệt

Vượt khỏi chấp trước, dứt ngôn từ

B́nh đẳng, chân thật, luôn thanh tịnh

Những ai thông đạt các tánh các pháp

Tâm ý kiên định trước có không

V́ độ chúng sinh siêng tu tập

Khẩu Phật sinh Phật tử chánh chân

Không chấp các tướng tu bố thí

Dắt hẳn pháp ác, giữ tịnh giới

Hiểu pháp không sinh luôn an nhẫn

Tánh pháp xa ĺa, nên tinh tấn

Đoạn trừ phiền não, an trụ định

Thông đạt tánh không pháp phân biệt

Đầy đủ trí lực rộng độ sinh

Trừ sạch nghiệp ác thành Bồ-tát

Thiên nữ dùng đủ lời vi diệu

Khen xong im lặng, chiêm ngưỡng Phật

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt thưa hỏi:

Làm sao an nhập Địa thứ sáu?

Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng nói với chúng Bồ-tát:

–Phật tử! Bồ-tát ở Địa thứ năm, đã tu tập đầy đủ đạo lành, muốn nhập Địa thứ sáu, phải dùng mười pháp tánh b́nh đẳng. Mười pháp ấy là ǵ? Đó là tất cả pháp không tướng, không tự tướng, không phát khởi; không sinh; không vắng lặng; xưa nay thanh tịnh; không hý luận; không lấy; không bỏ; như mộng, như bóng, như tiếng vang, như trăng trong nước, như cảnh trong gương, như sóng nắng, như huyễn hóa; có không chẳng hai.

Bồ-tát tùy thuận, quán sát tánh b́nh đẳng của các pháp đó mà thông đạt địa Hiện tiền thứ sáu. Bồ-tát dùng tâm lợi ích, dũng mãnh tu chứng, nhưng chưa đạt Vô sinh pháp nhẫn. Khi Bồ-tát tùy thuận thực hành tự tánh của các pháp b́nh đẳng, phải lấy từ bi làm gốc, đi đầu để làm tăng trưởng đại Từ; v́ muốn đủ đại Từ bi, th́ phải quán thế gian hợp tan sinh diệt. Lúc quán sự sinh diệt của thế gian, Bồ-tát nghĩ: Tất cả sự thọ sinh của chúng sinh đều do chấp ngã mà ra. Nếu bỏ chấp ngã th́ không có thọ sinh ở thế gian.

Bồ-tát lại nghĩ: Chúng sinh v́ ngu si, không trí, chấp trước ngã, bị vô minh che lấp, t́m kiếm có không, tùy thuận pháp giả, vọng tâm giong ruổi, bôn ba trong đường tà, tích tụ các việc phước, phi phước nơi các hành bất động. Chúng sinh gieo hạt giống hữu lậu, chấp thủ, đưa đến sự sinh già chết ở đời sau, chứa giữ trong ruộng nghiệp Trung hữu Hậu hữu, bị vô minh che lấp, trôi dạt trong sông ái, tưới mát ngã mạn, rộng lưới tà kiến, tạo mầm danh sắc. Danh sắc càng lớn, năm căn trôi dạt lưu chuyển, hợp cùng thức có xúc, từ xúc có thọ, vui say thọ có ái, ái nặng thành thủ, thủ đă đến hữu, từ hữu có năm uẩn. Năm uẩn phát sinh ở trong năm cõi, dần dần suy yếu, hoại diệt. V́ hoại diệt nên có khổ não, từ đó đưa đến sầu than, đủ thứ buồn đau. Những ưu khổ ấy đều tập hợp lại; nếu không có tập th́ diệt cũng chẳng có. Bồ-tát phải tùy thuận vào hành tướng mà quán sát pháp duyên sinh.

Bồ-tát lại nghĩ: V́ không hiểu biết thật nghĩa nên gọi là vô minh, vô minh tạo nghiệp quả gọi là hành, hành là chỗ nương để sinh thức, bốn uẩn cùng sinh với thức là danh sắc, danh sắc tăng trưởng thành sáu xứ, căn cảnh cùng thức, ba sự ấy hòa hợp gọi là xúc hữu lậu, rồi cùng sinh ra thọ, tham đắm nơi thọ là khát ái, khát ái lắm th́ có thủ, từ thủ tạo nghiệp hữu lậu là hữu. Do nghiệp hữu đẳng lưu các uẩn khởi lên là sinh, uẩn suy yếu là già, uẩn hoại diệt là chết. Lúc sắp chết, kẻ mê tham luyến buồn khổ là sầu, v́ sầu đau nên cất tiếng buồn than, năm căn không vui là khổ, ý thức không vui là ưu. Từ ưu khổ đưa đến đau buồn là não. Trong khổ đau ấy không có người tạo khổ và người chịu khổ. V́ chấp có người tạo khổ nên có công dụng. Đã không có người tạo khổ th́ về phương diện thật nghĩa nó không có công dụng.

Bồ-tát lại nghĩ: Gọi là ba cõi ấy hoàn toàn từ tâm sinh. Đức Phật

đã dùng tâm diễn thuyết phân biệt mười hai chi, tất cả đều dựa vào một tâm ấy mà ra, cớ sao lại tham đắm nó?

Từ tâm thức có hành động, hành động mê mờ là vô minh. Hành thức, vô minh hòa hợp có danh sắc. Danh sắc tăng trưởng là sáu nhập, sáu nhập phân biệt là xúc, sinh với xúc là thọ, tham thọ không chán là ái, ái thọ không bỏ là thủ, từ thủ có hữu, hữu có sinh, sinh suy yếu là già, già hoại diệt là chết. Trong đó vô minh có hai cách tạo tác:

–Do đối tượng duyên làm mê hoặc chúng sinh.

–Các hành phát khởi làm nhân.

Hành cũng có hai loại tạo tác:

–Sinh quả ở đời sau.

–Làm nhân cho thức phát sinh.

Thức cũng có hai hoạt động:

–Tạo nghiệp liên tục.

–Làm nhân cho sự phát sinh danh sắc.

Danh sắc cũng có hai hoạt động: –Giúp đỡ nối kết nhau; –Nhân của sáu nhập.

Sáu nhập cũng có hai hoạt động:

–Hiển hiện cảnh giới sai khác của chính ḿnh; –Nhân của xúc.

Xúc cũng có hai hoạt động:

–Tiếp xúc cảnh nơi đối tượng duyên; –Nhân của thọ.

Thọ cũng có hai hoạt động:

–Nhận sự khổ vui, không khổ vui; –Nhân của ái.

Ái cũng có hai hoạt động: –Tham đắm cảnh ưa thích; –Nhân của thủ.

Thủ cũng có hai hoạt động: –Tạo tạp nhiễm liên tục; –Nhân của hữu.

Hữu cũng có hai hoạt động:

–Làm phát sinh cảnh giới đời sau; –Nhân của sinh.

Sinh cũng có hai hoạt động: –Tạo ra uẩn; –Nhân của già.

Già cũng có hai hoạt động:

–Làm các căn suy yếu, thay đổi; –Nhân của chết.

Chết cũng có hai hoạt động:

–Hoại các hành;

–Chẳng phải là đoạn biến tri.

Lại nữa, vô minh duyên hành là điều kiện để hành không đoạn.

Hành duyên thức là điều kiện để thức không đoạn.

Thức duyên danh sắc là điều kiện để danh sắc không đoạn.

Danh sắc duyên sáu nhập là điều kiện để sáu nhập không đoạn.

Sáu nhập duyên xúc là điều kiện để xúc không đoạn.

Xúc duyên thọ là điều kiện để thọ không đoạn.

Thọ duyên ái là điều kiện để ái không đoạn.

Ái duyên thủ là điều kiện để thủ không đoạn.

Thủ duyên hữu là điều kiện để hữu không đoạn.

Hữu duyên sinh là điều kiện để sinh không đoạn.

Sinh duyên già là điều kiện để già, chết không đoạn.

Vô minh diệt th́ hành diệt, nghĩa là không có điều kiện cho vô minh, th́ hành hoại diệt.

Hành diệt th́ thức diệt, nghĩa là không có điều kiện cho hành, th́ thức diệt. Thức diệt th́ danh sắc diệt, nghĩa là không có điều kiện cho thức, th́ danh sắc diệt.

Danh sắc diệt th́ sáu nhập diệt, nghĩa là không có điều kiện cho danh sắc, th́ sáu nhập diệt.

Sáu nhập diệt th́ xúc diệt, nghĩa là không có điều kiện cho sáu nhập, th́ xúc diệt.

Xúc diệt th́ thọ diệt, nghĩa là không có điều kiện cho xúc, th́ thọ diệt.

Thọ diệt th́ ái diệt, nghĩa là không có điều kiện cho thọ, th́ ái diệt.

Ái diệt th́ thủ diệt, nghĩa là không có điều kiện cho ái, th́ thủ diệt.

Thủ diệt th́ hữu diệt, nghĩa là không có điều kiện cho thủ, th́ hữu diệt.

Hữu diệt th́ sinh diệt, nghĩa là không có điều kiện cho hữu, th́ sinh diệt.

Sinh diệt th́ già chết diệt, nghĩa là không có điều kiện của sinh th́ già chết bị đoạn diệt.

Vô minh, ái, thủ làm cho dòng phiền não không đoạn tuyệt; hành, hữu làm cho dòng nghiệp chảy mãi không đoạn tuyệt; còn những chi khác làm cho dòng khổ không đoạn tuyệt. V́ sai biệt, cho nên diệt cả trước lẫn sau, th́ đoạn tuyệt tất cả dòng ấy. Trong ba dòng đó, không có ngã, ĺa ngã và sở hữu của ngã. Tự tánh sinh diệt giống như lau cỏ bó lại vậy. Vô minh đến hành là xét về quá khứ; thức đến thọ là xét về hiện tại; ái đến hữu là xét về vị lai; cứ vậy lưu chuyển liên tục về sau. Vô minh diệt th́ hành diệt, sự quán xét cũng không còn. Mười hai chi này có ba khổ: Hành đến sáu nhập là hành khổ; xúc, thọ là khổ khổ; các chi khác còn lại là hoại khổ.

Vô minh diệt th́ hành diệt nghĩa là ba khổ diệt. Vô minh duyên hành, nghĩa là có điều kiện để hành hiện bày, từ nhân từ duyên phát sinh. Các chi khác cũng thế. Vô minh diệt th́ hành diệt, đấy là làm rõ: Hành không có tự tánh; những chi khác cũng vậy. Vô minh duyên hành là sinh khởi sự trói buộc liên tục. Các chi khác cũng thế. Vô minh diệt th́ hành diệt, nghĩa là chấm dứt sự trói buộc liên tục; các chi khác cũng vậy. Vô minh duyên hành là quán tùy thuận hữu. Các chi khác cũng vậy. Vô minh diệt th́ hành diệt là quán tùy thuận tận diệt. Các chi khác cũng vậy.

Bồ-tát dùng mười hành tướng, quán sát thuận nghịch về các pháp duyên khởi nghĩa là các chi liên tục nên nhập thành một; nghiệp sai khác nên không rời nhau. Ba dòng không đoạn nên quán đời quá khứ, hiện tại, vị lai theo đúng như lý. Ba khổ tập hợp đều do nhân duyên, sinh diệt trói buộc liên tục nên quán có chấm dứt.

Bồ-tát dùng mười thứ hành tướng này để quán các duyên khởi.

Nhờ dùng không ngã, không thọ mạng, không chúng sinh, tự tánh rỗng lặng, không người tạo tác, không người thọ nhận để quán pháp duyên sinh; nên hiển hiện môn giải thoát Không. V́ quán tự tánh của chúng là diệt, nên Bồ-tát trụ chứng hiện tiền giải thoát rốt ráo, không còn một pháp nhỏ nào tiếp tục sinh khởi nữa. Do đó môn giải thoát vô tướng hiển hiện. Lại Bồ-tát này đã an lập nơi Không, Vô tướng, các nguyện cầu đã rốt ráo nhưng v́ tâm đại Bi, Bồ-tát phải làm người chỉ dạy tạo mọi thành tựu đầy đủ cho chúng sinh, từ đó hiển hiện môn: Vô nguyện. Khi Bồ-tát tu tập ba môn giải thoát, th́ bỏ vọng tưởng ḿnh người, người tạo tác, người thọ nhận; có không; lấy đại Bi làm đầu để tu chứng những pháp Giác phần chưa chứng. Lại tiếp tục tu hành và nghĩ: V́ hòa hợp tương ưng nên pháp hữu vi lưu chuyển. V́ không hòa hợp tương ưng nên không lưu chuyển. Ta đã hiểu rõ, pháp hữu vi đầy tội lỗi, nhiễm ô, nên ta đoạn trừ sự hòa hợp liên tục. Nhưng v́ phải hóa độ chúng sinh, nên không dứt hẳn pháp hữu vi.

Phật tử! Bồ-tát quán sát pháp hữu vi có nhiều tội lỗi, nhiều nhiễm ô, không có tự tánh; tánh vốn chẳng sinh diệt, nên khi quán sát phải khởi tâm đại Bi, không bỏ chúng sinh; gọi là trụ nơi Trí không chấp trước Bát-nhã ba-la-mật hiện tiền. Bồ-tát thành tựu trí như vậy rồi, trụ trong Tuệ Bát-nhã mà soi chiếu khắp, tạo điều kiện cho các pháp giác khác sinh khởi. Song an trụ mà không trụ. Quán tự tánh của pháp hữu vi là vắng lặng, không trụ, đối với các pháp Bồ-đề phần th́ chưa viên mãn. Bồ-tát trụ ở địa Hiện tiền này, hiển hiện những Tam-muội Tánh không như: Nhập, Tự tánh, Thắng nghĩa, Tối thượng, Lớn, Tương ưng, Dẫn phát, Như lý không phân biệt, có gắn bó, ĺa không ĺa. Tất cả đều được hiện ra. Bồ-tát là người đứng đầu trong pháp môn tánh không đó. Có trăm ngàn Tam-muội về pháp về pháp môn không tướng, không nguyện cũng đều hiển hiện.

KINH THẬP ĐỊA

| ML | Q 01 | Q 02 | Q 03 | Q 04 | Q 05 | Q 06 | Q 07 | Q 08 | Q 09 |

KINH THẬP ĐỊA

Hán dịch: Đời Đại Đường, Tam tạng Thi-la-đạt-ma.

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 5

Phẩm 6: ĐỊA HIỆN TIỀN (Phần 2)

Phật tử! Bồ-tát trụ địa Hiện tiền, tâm ý không hoại, luôn đầy đủ; ý tâm kiên định, hiền thiện sâu xa, không thoái chuyển, không dừng nghỉ, không nhơ, không hạn lượng, cầu trí tuệ, trí tuệ tương ưng phương tiện, tất cả đều viên mãn. Từ tâm như vậy, Bồ-tát tùy thuận pháp giác ngộ của Phật, đối trị các dị luận, siêng năng không chùn bước, thân nhập Trí địa; bỏ địa vị Thanh văn, Độc giác, một lòng hướng về trí Phật; phiền não, ma oán hiện hành không thể hại được; khéo trụ trong trí ánh sáng của Bồ-tát, khéo tu tập các pháp không, vô tướng, vô nguyện, trí tuệ luôn hợp với phương tiện, phát khởi các pháp giác ngộ. Bồ-tát này khi trụ địa Hiện tiền, th́ phát triển Trí tuệ ba-la-mật và chứng “thuận nhẫn thứ ba”, mạnh mẽ, nhanh nhẹn, tùy thuận thật nghĩa của các pháp không chút sai trái. Bồ-tát trụ nơi địa Hiện tiền, nhờ trí và lực rộng lớn nên gặp được trăm ngàn vạn ức câu-chi Phật. Gặp được Phật, Bồ-tát dùng ý lạc tăng thượng, cung kính, tôn trọng, phụng sự, cúng dường các thứ y phục, thứ ăn, đồ ngồi, thuốc men, những vật cần dùng, phụng hiến cho Bồ-tát các thứ tạo an lạc vi diệu, cung kính chúng Tăng, hồi hướng căn lành lên đạo Vô thượng Bồ-đề. Cung kính phụng sự Phật, thiết tha nghe chánh pháp, nghe rồi thọ tŕ, tu tập bằng trí sáng suốt, không điên đảo, giữ vững chánh hạnh, nhớ lâu, dần dần thâm nhập tạng pháp Như Lai. Bồ-tát trụ nơi địa Hiện tiền thứ sáu này, trải qua vô số kiếp căn lành càng sáng rực, càng minh tịnh; càng trải qua vô số trăm ngàn câu-chi kiếp, căn lành càng thêm sáng trong.

Phật tử! Ví như thợ vàng, luyện vàng làm đồ trang sức, nếu xen lẫn ngọc báu lưu ly th́ càng đẹp hơn. Cũng thế, căn lành của Bồ-tát trụ nơi địa này nhờ suy xét bằng trí tuệ nên càng thanh tịnh, vắng lặng không ai hơn được.

Lại nữa, Phật tử! Ví như ánh sáng mặt trăng có thể làm cho chúng sinh vui thích mà bốn loại gió không thể hủy hoại được. Cũng thế, căn lành của Bồ-tát trụ nơi địa này, dập tắt vô số lửa phiền não của chúng sinh mà bốn loại ma đạo không thể hoại được. Trong mười Ba-la-mật, Bồ-tát tu nhiều về Tuệ ba-la-mật, các Ba-la-mật khác th́ tùy sức mà tu tập.

Phật tử! Đó là nói tóm lược về địa Hiện tiền thứ sáu. Bồ-tát trụ nơi địa này, thọ sinh thường làm Thiên vương cõi trời Diệu hóa, đủ uy lực giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng chấm dứt tăng thượng mạn, trả lời thông suốt khi bị Thanh văn cật vấn, khiến chúng sinh hiểu thấu về duyên sinh sẽ tạo nghiệp. Hành tŕ mọi việc như Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự đều không rời suy nghĩ về Phật, về Pháp, về Tăng, về Bồ-tát, về hạnh Bồ-tát, về giải thoát, về các trụ địa, về Phật lực, về pháp không sợ, về pháp Bất cộng của Phật, cho đến không rời sự suy nghĩ về hành tướng thắng diệu tương ưng với trí Nhất thiết trí. Lại nguyện: Ở trong chúng sinh, ta luôn là người đứng đầu, là thù thắng, vi diệu, vô thượng; là người dẫn đường, là tướng soái, cho đến nguyện làm chỗ nương tựa để đạt trí Nhất thiết trí. Nếu tinh tấn tu tập, th́ chẳng bao lâu, chứng được trăm ngàn câu-chi Tam-muội của Bồ-tát, gặp được trăm ngàn câu-chi Đức Phật, được Phật gia hộ khiến thông hiểu tất cả, có thể chuyển động trăm ngàn câu-chi thế giới, đi khắp trăm ngàn câu-chi cõi nước, soi chiếu trăm ngàn câu-chi cảnh giới, thành tựu cho trăm ngàn câu-chi loại chúng sinh, sống trăm ngàn câu-chi kiếp, trước sau đều vào trong trăm ngàn câu-chi kiếp, suy xét rõ trăm ngàn câu-chi pháp, thị hiện trăm ngàn câu-chi thân, mỗi thân hiện trăm ngàn câu-chi Bồ-tát bạn. Nhờ nguyện lực thù thắng, nên mọi việc đi lại, thần thông, ánh sáng, thân tướng, mắt, cảnh giới, âm thanh, hành động, trang nghiêm, sự hiểu biết, giữ ǵn, tạo tác, dù có trải qua trăm ngàn câu-chi kiếp, cũng không thể nói hết.

Lúc ấy, Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn lặp lại ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:

Bồ-tát thanh tịnh Địa thứ năm

Thấy pháp không tướng, không tự tánh

Không khởi, chẳng sinh, luôn vắng lặng

Bản tánh thanh tịnh, không hý luận

Cũng không lấy bỏ, như huyễn hóa

Có không, chẳng hai, ĺa phân biệt

Tùy thuận pháp tánh, xét như vậy

Trí đó vào được Địa thứ sáu

Thuận nhẫn, mạnh nhanh, đầy đủ trí

Xét tướng sinh diệt của thế gian

Chỉ v́ chấp ngã, thế gian hiện

Trừ khử ngã chấp, chẳng thế gian

Thông đạt như lý duyên khởi không

Không hoại, giả lập, do hòa hợp

Không làm, không nhận, không thọ mạng

Các hành như mây nổi khắp nơi

Không hiểu thật Đế là vô minh

Nghiệp quả do si gọi là hành

Tâm sinh đầu tiên gọi là thức

Các uẩn sinh khởi là danh sắc

Năm uẩn lớn mạnh là sáu nhập

Căn, trần, thức, xúc, thọ sinh ra

Nghiệp hữu lậu phát sinh các uẩn

Uẩn suy gọi già, hoại gọi chết

Từ đó có đủ khổ não lớn

Hiểu rõ ba cõi đều từ tâm

Mười hai duyên sinh từ tâm có

Sống chết qua lại do tâm tạo

Diệt trừ vọng tâm, sống chết tận

Vô minh cũng có hai tạo tác

Ngu si mê hoặc, nhân của hành

Cứ thế cho đến già hoại diệt

Do vậy khổ đau nào hết được

Vô minh là nhân sinh ra hành

Không đoạn, lại giúp sức tạo thành

Vô minh không còn, hành hoại diệt

Hết giúp, pháp khác cũng như vậy

Si, ái, thủ là dòng phiền não

Hành, hữu là nghiệp, chi khác: Khổ

Vô minh và hành, thuộc quá khứ

Thức cho đến thọ là hiện tại

Ái, thủ là nhân, khổ đời sau

Quán xét đoạn trừ nguồn gốc khổ

Xúc, thọ phát triển là khổ khổ

Tất cả còn lại là hoại khổ

Thấy pháp không ngã, diệt ba khổ

Chỉ v́ nhân duyên các pháp sinh

Duyên hết, pháp diệt, tánh là không

Vô minh là duyên bị trói buộc

Nơi duyên được ĺa trói buộc

Thuận theo vô minh, có các hữu

Nếu không thuận theo, các hữu đoạn

Do đây kia có không, cũng thế

Suy xét mười cách, tâm không chấp

Các chi tương tục, thuộc một tâm

Không ĺa tự nghiệp và ba dòng

Ba đời, ba khổ do duyên sinh

Sinh diệt liên tục không cùng tận

Quán sát tất cả pháp duyên sinh

Không làm, chẳng nhận, không tự tánh

Như mộng như huyễn, như ánh chớp

Lại như kẻ ngu đuổi sóng nắng

Quán rồi nhập môn: giải thoát Không

Biết tánh xa ĺa, nhập Vô tướng

Thấy chúng giả dối, Vô sở nguyện

Chỉ v́ thương yêu cứu chúng sinh

Xuất gia tu học pháp giải thoát

Tăng trưởng tâm Từ cầu Phật pháp

Biết pháp hữu vi do duyên sinh

Tâm chí vững chãi lại tinh tấn

Chứng đạt trăm vạn Tam-muội Không

Vô tướng, Vô nguyện cũng như vậy

Bát-nhã, thuận nhẫn, đều tăng thượng

Trí tuệ giải thoát đều thành, đầy

Luôn vui cúng dường vô số Phật

Tu tập đạo hạnh trong Phật pháp

Thông đạt tạng pháp tăng căn lành

Như vàng trang sức ngọc lưu ly

Như trăng nước lặng soi mọi vật

Bốn gió nào có hoại được đâu

Bồ-tát vượt qua bốn ma oán

Dập tắt lửa hừng của thế gian

Bồ-tát thường làm vua Thiện Hóa

Chỉ dạy chúng sinh trừ ngã mạn

Làm việc chỉ cầu Nhất thiết trí

Vượt trên đạo hạnh của Thanh văn

Bồ-tát siêng năng sẽ đạt được

Trăm ngàn câu-chi môn Tam-muội

Gặp được trăm ngàn câu-chi Phật

Như mặt trời sáng giữa mùa hè

Sâu xa vi diệu khó thấy biết

Thanh văn, Duyên giác không thể hiếu

Tôi đã diễn thuyết cho các ông

Địa thứ sáu Bồ-tát, là vậy.

Phẩm 7: ĐỊA VIỄN HÀNH

Lúc ấy, đại chúng tâm hoan hỷ

Trong hư không rải báu thành mây

Phát ra vô số âm thanh diệu

Thưa bậc Tối thắng thật thanh tịnh

Thông hiểu thật nghĩa trí tự tại

Thành tựu trăm ngàn ức công đức

Tựa như hoa sen không ô nhiễm

Lợi ích chúng sinh dạy hạnh sâu

Thiên vương Tự Tại ở hư không

Phóng ánh sáng lớn chiếu thân Phật

Lại rải mây hương thật vi diệu

Cúng dường bậc trừ ưu phiền não

Lúc ấy, đại chúng đều vui mừng

Cùng nhau hết lời xưng tán nêu

Chúng con nghe công đức địa này

Nghe rồi đạt được lợi ích lớn

Thiên nữ cõi trời cũng vui thích

Hòa tấu ngàn vạn thứ âm nhạc

Nhờ nơi thần lực của Như Lai

Trong không vang ra tiếng vi diệu

Oai nghi, vắng lặng không ǵ sánh

Điều phục thế gian nên cúng dường

Vượt qua tất cả các cõi nước

Trở lại thế gian dạy đạo mầu

Tuy hiện vô số loại h́nh tướng

Biết rõ thân này không sở hữu

Khéo dùng ngôn ngữ diễn nói pháp

Không chấp văn tự, tướng âm thanh

Qua lại vô số trăm ngàn cõi

Dùng vật quý báu cúng dường Phật

Trí tuệ tự tại không chấp trước

Không còn vọng tưởng Phật hay ta

Tuy là siêng năng độ chúng sinh

Nhưng không phân biệt ḿnh và người

Dù đã thành tựu trí rộng lớn

Nhưng không chấp vướng các pháp lành

V́ thấy tất cả các cõi nước

Lửa tham, sân, si luôn thiêu đốt

Diệt trừ hết thảy các vọng niệm

Phát tâm đại Bi, sức tinh tấn

Chư Thiên, Thiên nữ ở khắp nơi

Cúng dường mọi vật và khen ngợi

Thảy đều an trụ trong yên lặng

Chiêm ngưỡng Thế Tôn mong nghe pháp

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt lại thưa

Đại chúng ở đây tâm thanh tịnh

Xin hãy thương xót diễn giảng cho

Hành tướng an trụ Địa thứ bảy.

Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng nói với chúng Bồ-tát:

–Phật tử! Bồ-tát đã tu tập đầy đủ pháp lành Địa thứ sáu, muốn nhập Địa thứ bảy, phải dùng mười trí tuệ phương tiện vi diệu. Mười pháp ấy là ǵ?

1.     Khéo tu tập Tam-muội Không, Vô tướng, Vô nguyện để chuẩn bị đầy đủ hành trang phước đức rộng lớn.

2.     Chứng nhập pháp không ngã, không thọ mạng, không nơi hướng đến, nhưng không bỏ việc tu hành bốn Tâm vô lượng.

3.     Tu tập phước đức rộng lớn và thực hành hạnh giải thoát tăng thượng, nhưng đối với các pháp không hề chấp trước.

4.     Đã vượt khỏi ba cõi nhưng phát nguyện làm trang nghiêm ba cõi.

5.     Đã đạt vắng lặng rốt ráo, xa ĺa hết thảy lửa phiền não, nhưng v́ muốn hóa độ tất cả chúng sinh nên nguyện dập tắt lửa tham, sân, si.

6.     Biết rõ các pháp như mộng huyễn, bóng, tiếng vang, trăng trong nước, ảnh trong gương, tự tánh không hai, nhưng vẫn dùng nghiệp hạnh làm vô số việc.

7.     Biết các cõi hư không nhưng vẫn nguyện thực hành làm trang nghiêm các cõi.

8.     Biết rõ Pháp thân Phật, tánh như hư không nhưng vẫn phát nguyện trang nghiêm thân bằng các tướng tốt.

9.     Biết rõ âm thanh chư Phật vốn vắng lặng, không thể nói năng nhưng vẫn phát nguyện trang nghiêm tất cả tiếng vần sai biệt.

10.    Biết chư Phật trong một niệm hiểu rõ về ba đời nhưng vẫn phát nguyện tùy thuận an nhập, để chỉ bày các loại tướng về kiếp số quán xét tâm ý chúng sinh.

Phật tử! Nhờ mười tuệ phương tiện vi diệu này, Bồ-tát từ Địa thứ sáu nhập Địa thứ bảy. Bồ-tát trụ ở Địa thứ bảy này, vào trong vô số cõi chúng sinh, vô số cõi Phật, thành tựu hạnh nghiệp hóa độ của chúng sinh. Vào trong vô số cõi trói buộc, cõi Phật thanh tịnh, cõi tánh sai khác của các pháp, nhập vào trí Chánh đẳng giác của Phật, nhập vào vô lượng kiếp số sai khác, nhập vào sự thông hiểu ba đời của Phật, nhập vào tướng giải thoát sai khác của chúng sinh, nhập vào vô số Phật thị hiện sắc thân danh hiệu, nhập vào sự sai khác về tŕnh độ của chúng sinh, nhập vào vô số âm thanh của Phật làm cho chúng sinh vui vẻ, nhập vào vô lượng tâm hành sai khác của chúng sinh, nhập vào vô lượng trí hạnh rộng lớn của Phật, nhập vào vô số sự tin hiểu hóa độ của Thanh văn, sự diễn thuyết nhập đạo của Phật, sự tu chứng thành tựu của Độc giác; nhập vào vô lượng pháp, thâm nhập nơi trí sâu xa của Phật thuyết giảng, nhập vào vô lượng hạnh nguyện của Bồ-tát, nhập vào sự tu tập pháp Đại thừa của Phật đã nêu bày. Bồ-tát suy xét như vậy với vô số cõi Phật cho dù trải qua vô số kiếp cũng không thể tính đếm được. Ở nơi cảnh giới của Phật ấy, Ta sẽ tạo vô số cõi Phật bằng tâm không phân biệt, không khác với phân biệt, không công dụng sẽ làm cho đầy đủ. Do vậy, Bồ-tát siêng năng tu tập không gián đoạn, không thiếu sót, quán trí thông đạt. V́ không loạn động nên gọi là an trụ trí tuệ phương tiện siêu vượt. Bồ-tát trong nháy mắt hiện khởi đạo mầu mà không rời định, luôn phát khởi chánh trí, dù đi đứng nằm ngồi, cả khi nằm mộng cũng xa ĺa các triền cái (trói buộc, ngăn che) chướng ngại, oai nghi hợp ý, nghĩ đúng, chẳng bao lâu thành tựu mười pháp Ba-la-mật. V́ sao? V́ Bồ-tát phát tâm đều lấy đại Bi làm gốc, hồi hướng sự tu chứng Phật pháp để cầu đạt trí Phật.

Tu tập các căn lành, như bố thí cho chúng sinh, để cầu trí Phật là Bố thí ba-la-mật.

Lấy tâm Từ bi làm gốc, không tổn hại chúng sinh là An Nhẫn ba-la-mật.

Siêng năng phát triển pháp lành là Tinh tấn ba-la-mật.

Nhất thiết trí hiển hiện, không tán loạn là Thiền định ba-la-mật.

Hiển hiện pháp nhẫn, biết tánh của các pháp không sinh diệt là Bát-nhã ba-la-mật.

Phát khởi vô lượng trí là Phương tiện ba-la-mật.

Phát khởi hậu trí là Nguyện ba-la-mật.

Tất cả ngoại đạo ma chướng không thể hủy hoại được là Lực ba-la-mật.

Kiến lập các pháp như thật là Trí ba-la-mật.

Phật tử! Bồ-tát an trụ nơi địa Viễn hành, sớm có đầy đủ mười Ba-la-mật, lại đạt bốn Nhiếp pháp, bốn gia hạnh, ba mươi bảy phẩm Bồ-đề, ba môn giải thoát, như vậy là Bồ-tát sớm đầy đủ tất cả pháp Giác phần.

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt hỏi:

–Phật tử! Chỉ có Bồ-tát Địa thứ bảy mới đầy đủ tất cả pháp Giác phần hay là Bồ-tát ở các địa khác cũng đều đầy đủ?

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói:

–Phật tử! Trong mười Địa, Bồ-tát đều đầy đủ các pháp Giác phần, nhưng Bồ-tát Địa thứ bảy th́ thù thắng nhất. V́ sao? Phật tử! V́ Bồ-tát ở đây đạt đầy đủ hành nghiệp gia hạnh, lại dần dần nhập trí hạnh thần thông. Còn Bồ-tát ở Địa thứ nhất có đầy đủ nguyện nhưng chỉ là một phần giác; Địa thứ hai chỉ trừ sạch cấu uế; Địa thứ ba th́ chánh nguyện phát triển, đạt được pháp sáng; Địa thứ tư th́ đi vào cõi đạo; Địa thứ năm tùy thuận hạnh nghiệp của chúng sinh; Địa thứ sáu th́ hội nhập nơi Phật pháp; Bồ-tát Địa thứ bảy th́ mới đầy đủ các pháp Giác phần. V́ sao? V́ Bồ-tát từ Địa thứ nhất đến Địa thứ bảy mới phát khởi phần trí gia hạnh; Bồ-tát Địa thứ tám mới thành tựu hạnh vô công dụng.

Phật tử! Ví như có hai cõi: Thuần tịnh, Nhiễm tịnh. Người ở hai cõi này khó qua lại được, trừ những bậc có sức thần thông. Cũng vậy, nẻo hành hóa của Bồ-tát còn xen tạp nhiễm tịnh th́ không thể vượt được, trừ bậc có thệ nguyện lớn, có sức của trí tuệ phương tiện, thần thông lớn.

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt hỏi:

–Hành nghiệp của Bồ-tát ở bảy địa trước bị phiền não nhiễm ô sao?

Bồ-tát Kim Cang Tạng đáp:

–Phật tử! Bồ-tát từ Địa thứ nhất đã hành tŕ xa ĺa hẳn phiền não, hồi hướng về đạo Bồ-đề bằng sức tăng thượng. Song nói một cách b́nh đẳng th́ Bồ-tát Địa thứ bảy vẫn chưa được gọi là vượt khỏi phiền não.

Phật tử! Ví như Chuyển luân thánh vương, cỡi voi sáu cõi trời, đi khắp mọi nơi chốn, hiểu rõ về mọi sự nghèo khổ, tạp nhiễm, không hề bị các thứ họa hoạn cấu nhiễm nhưng chưa được gọi là vượt địa vị người. Nếu bỏ thân đó, sinh vào cõi Phạm thiên, đi xe cõi Phạm thiên, dạo khắp ngàn cõi, thị hiện oai đức rộng lớn của Phạm thiên, mới được gọi là vượt địa vị người.

Phật tử! Bồ-tát cũng thế. Từ Địa thứ nhất, ngồi xe Bồ-tát Ba-la-mật-đa, đi khắp mọi nơi, biết rõ về mọi thứ lỗi lầm nhiễm ô của chúng sinh nhưng không bị cấu nhiễm là v́ đi theo chánh pháp. Song đến Địa thứ bảy, vẫn chưa được gọi là vượt khỏi phiền não khổ đau. Chỉ khi nào không còn dụng công, từ Địa thứ bảy nhập Địa thứ tám, ngồi xe thanh tịnh của Bồ-tát, đi khắp các cõi, biết rõ vế các thứ lỗi lẫm nhiễm ô của chúng sinh nhưng không bị cấu nhiễm. Nhờ siêu vượt mà Bồ-tát an trụ ở đấy. Bồ-tát ở Địa thứ bảy, phần nhiều đều vượt khỏi các phiền não như tham. Bồ-tát tu tập ở địa Viễn hành này không thể nói là có hay không có phiền não. V́ sao? V́ tất cả phiền não không còn hiện khởi nên không thể nói là có phiền não. Do mong cầu Trí Phật vẫn chưa đạt được nên không thể nói là không có phiền não. Bồ-tát trụ ở địa này đã thành tựu Định tăng thượng, làm thanh tịnh thân, ngữ, ý, nghiệp, vượt tất cả nghiệp ác mà Như Lai đã hủy bỏ, luôn tu tập mười nghiệp lành mà Như Lai đã nêu dạy. Tất cả nghiệp của thế gian như đã nói ở Địa thứ năm, th́ Bồ-tát ở Địa thứ bảy dùng vô công dụng, tự nhiên chuyển được, làm thầy cho tam thiên đại thiên thế giới cùng noi theo. Ngoài Như Lai và các Bồ-tát Địa thứ tám ra, các Đại Bồ-tát nơi ý lạc gia hạnh đều không ai sánh bằng.

Tất cả Thiền định, Tam-muội, thần thông, giải thoát, đều được hiện khởi. Đó là do tu tập đạt được chứ không do quả dị thục mà có, giống như Bồ-tát ở Địa thứ tám. Bồ-tát này khi trụ nơi địa Viễn hành thứ bảy, trong tâm niệm đã thành tựu đầy đủ trí tuệ phương tiện nhiệm mầu hành tŕ viên mãn các pháp giác ngộ; Bồ-tát này lại được các Tam-muội như: Khéo phân biệt, Tư duy thật nghĩa, Trí tuệ thù thắng, Phân biệt tạng thật nghĩa, Hiểu rõ nghĩa lý, Khởi trụ căn lành kiên cố, Pháp môn trí thần thông, Pháp giới sáng tỏ, Lợi ích thù thắng của Như Lai, An trụ tạng thật nghĩa về sinh tử, Niết-bàn. Lúc này, Bồ-tát lấy thần thông nơi trí lớn làm gốc, nhập đủ cả trăm vạn Tam-muội, làm thanh tịnh địa này. V́ tu tập Tam-muội bằng trí tuệ phương tiện vi diệu gồm đủ đại Bi, vượt địa Thanh văn, Độc giác nên hiển hiện trí tuệ quán sát. Bồ-tát hành hóa nơi thân, khẩu, ý nghiệp, luôn tùy thuận lưu chuyển nhưng không chấp tướng; thanh tịnh rốt ráo, hiển Vô sinh pháp nhẫn.

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt hỏi:

–Vô lượng thân, ngữ, ý nghiệp của Bồ-tát khởi lên ở Địa thứ nhất, không vượt Thanh văn, Độc giác thừa sao?

Bồ-tát Kim Cang Tạng đáp:

–Phật tử! Tuy những vị ấy có hành động, nhưng đều do oai lực tăng thượng của Phật pháp chứ chẳng phải do tự quán sát bằng trí giác ngộ của ḿnh. V́ Bồ-tát ở Địa thứ bảy, quán xét cảnh giới bằng trí giác ngộ của ḿnh nên không thể sánh được.

Phật tử! Ví như con của vua vừa sinh nơi hoàng cung, có đầy đủ tướng của vua, vượt hơn các quan lại, nhưng đó là do có quyền lực của vua cha, chẳng phải do khả năng của ḿnh. Đến khi lớn khôn, thành tựu mọi học thuật, mới dùng trí lực của ḿnh để hiện bày, thâu phục, vượt hơn quan lại.

Phật tử! Bồ-tát cũng thế mới phát tâm vượt hơn Thanh văn, Độc giác là do trí tăng thượng rộng lớn, chẳng phải là do trí tuệ giác ngộ của chính ḿnh. Bồ-tát Địa thứ bảy, an trụ bằng trí tuệ, mới vượt hạnh nghiệp Thanh văn, Độc giác.

Phật tử! Bồ-tát trụ ở Địa thứ bảy này, tuy đạt thân, ngữ, ý nghiệp sâu xa, vắng lặng, vô hành, đã không ĺa bỏ lại luôn siêng năng, mạnh mẽ hành tŕ mọi việc.

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt hỏi:

–Bồ-tát địa nào có thể nhập Diệt định?

Bồ-tát Kim Cang Tạng đáp:

–Bồ-tát ở Địa thứ sáu đã có thể nhập Diệt định. Bồ-tát trụ Địa thứ bảy th́ tâm luôn ở trong Diệt định nhưng không thể nói là đã tác chứng Diệt định. V́ vậy, Bồ-tát này gọi thành tựu nơi thân, ngữ, ý nghiệp là rất khó, rất lạ quý, nghĩa là luôn an trụ trong thực tế mà không tác chứng tịch diệt.

Phật tử! Ví như có người đi thuyền lớn vào biển cả, thuyền đã tốt mà người ấy còn biết rõ các h́nh trạng ở dưới nước, theo thủy lộ nên hoàn toàn không bị tại nạn.

Phật tử! Bồ-tát Địa thứ bảy cũng thế, đi thuyền đến bờ giải thoát, an trụ trong thực tế mà không tác chứng tịch diệt. Bồ-tát đạt trí ấy rồi, tu tập bằng trí Tam-muội nên phát sinh trí mầu nhiệm; dùng diệu lực của phương tiện lớn, khéo léo thị hiện sinh tử, mà tâm ý luôn an trụ Niết-bàn; quyến thuộc luôn vây quanh nhưng thường ưa thích xa ĺa. Dùng sức của thệ nguyện thọ sinh trong ba cõi, nhưng không bị nhiễm pháp thế gian. Tuy luôn an trụ nơi vắng lặng, nhưng thường tạo đủ phương tiện quyền biến. Dù ở trong lửa, vẫn không bị thiêu đốt. Luôn tùy thuận trí Phật, thị hiện ở trong cảnh giới ma, đi trong đường ma, thực hành pháp của ma và làm việc của ngoại đạo, nhưng tâm không bỏ Phật pháp. Tùy thuận hạnh nghiệp của thế gian, mà luôn vui thích an trụ trong pháp xuất thế, làm mọi việc trang nghiêm, vượt hàng trời, người, rồng, thần, Dạ-xoa, quỷ, Đế Thích, Phạm thiên, hộ thế Thiên vương, nhưng luôn vui thích pháp giải thoát.

Phật tử! Bồ-tát thành tựu trí tuệ như vậy, an trụ nơi địa Viễn hành, nhờ sự hiểu biết và nguyện lực rộng lớn, nên được gặp vô số trăm ngàn câu-chi Phật. Gặp được Phật, Bồ-tát dùng tâm ưa thích tăng thượng rộng lớn, cung kính, tôn trọng, phụng hành, cúng dường những thứ y phục, thức ăn, ngọa cụ, y dược và dụng cụ sinh hoạt, dâng lên các Bồ-tát những vật diệu lạc, cung kính với đại chúng Tăng già, đem thiện căn này hồi hướng đến đạo quả Vô thượng Bồ-đề, tôn trọng chư Phật, luôn cung kính, tán thán; nghe chánh pháp rồi thọ tŕ, nhờ vào trí tuệ của đẳng tŕ không điên đảo, sáng suốt mà tu hành, nhằm thành tựu và hộ tŕ Thánh giáo của chư Phật. Tất cả hàng Thanh văn, Độc giác nếu có vấn nạn vẫn không bị khuất phục; đạt pháp nhẫn thanh tịnh, đem lại lợi ích cho chúng sinh. Bồ-tát trụ địa này, trải qua vô số kiếp, căn lành càng thêm thanh tịnh.

Phật tử! Ví như thợ vàng làm đồ trang sức, đính thêm ngọc ma-ni th́ càng sáng đẹp. Phật tử! Bồ-tát trụ ở địa Viễn hành thứ bảy này, các căn cũng thế, nhờ trí tuệ phương tiện nên căn lành của Bồ-tát địa này càng thanh tịnh; tất cả căn lành của Thanh văn, Độc giác không thể sánh được.

Phật tử! Cũng như ánh sáng mặt trời, không bị ánh sáng của trăng, sao che lấp, còn làm khô cạn các thứ bùn lầy nhơ bẩn ở châu Thiệm bộ.

Phật tử! Căn lành của Bồ-tát này cũng thế, tất cả căn lành của hàng Thanh văn, Độc giác không sánh được, còn làm khô hết mọi thứ phiền não cấu uế của chúng sinh. trong mười Ba-la-mật, Bồ-tát tu nhiều về Phương tiện ba-la-mật, còn các Ba-la-mật khác th́ tùy sức mà tu tập.

Phật tử! Đó là lược nói về hành tướng của Bồ-tát địa Viễn hành thứ bảy. Bồ-tát khi trụ ở địa này, thọ sinh thường làm Thiên vương cõi Tha hóa tự tại, dạy pháp phương tiện quán cho Thanh văn, Độc giác, khiến chúng sinh an nhập vào chánh tánh ly sinh. Làm các việc như Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự đều không rời suy nghĩ về Phật, về Pháp, về Tăng, về Bồ-tát, về hạnh Bồ-tát, về bờ giải thoát, về các trụ địa, về pháp không sợ, về Phật lực, về pháp Bất cộng của Phật, cho đến không rời suy nghĩ về hành tướng thắng diệu tương ưng với trí Nhất thiết trí. Lại nguyện: Ở trong chúng sinh, ta luôn là người đứng đầu, thù thắng, vi diệu, vô thượng; là người dẫn đường; là tướng soái, cho đến nguyện làm chỗ nương tựa để đạt trí Nhất thiết trí. Nếu siêng năng tu tập, th́ sớm đạt trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa thế giới, đi khắp trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa cõi nước, soi chiếu trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa cảnh giới, thành tựu trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa loại chúng sinh, sống trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa kiếp, nên biên vực trước sau đều vào trong trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa kiếp, suy xét rõ trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa pháp, thị hiện trăm ngàn câu-chi na-dữuđa thân, mỗi thân hiện trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa Bồ-tát bạn. Nhờ nguyện lực thù thắng, nên mọi việc đi lại, ánh sáng thần thông, thân tướng, mắt, cảnh giới, âm thanh, hành động, trang nghiêm, sự hiểu biết, giữ ǵn, tạo tác… dù trải qua trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa kiếp cũng không thể nói hết.

Lúc ấy, Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn lập lại ý nghĩa trên, bèn nói kệ rằng:

Đầy đủ hạnh lành Địa thứ sáu

Tu tập phương tiện, ấn trí tuệ

Hạnh thù thắng, bất cộng, đạo tiên

Do đấy hội nhập Địa thứ bảy

Đủ ba giải thoát chứa phước đức

Thông đạt vô ngã, tu Từ bi

Phước đức và pháp thường sung mãn

Hành Ba-la-mật, không chấp trước

Xa ĺa ba cõi nhưng trang nghiêm

Vắng lặng tịch diệt, không phiền não

Biết pháp như huyễn, phân biệt nghiệp

Hiểu cõi như không, vui trang nghiêm

Biết thân không tướng, tu tướng tốt

Rõ tiếng không lời, luôn diễn thuyết

Sớm đạt giác ngộ hiện các tướng

Người trí đạt được Địa thứ bảy

Quán sát thông đật các pháp này

Lợi ích an lạc mọi Hữu t́nh

Đi vào tất cả các cõi nước

Hóa độ vô số loại chúng sinh

An nhập kiếp số, pháp, cõi, nước

Thấu rõ tâm ý và tâm hành

Giảng pháp ba thừa không hạn lượng

Cứ thế giáo hóa các chúng sinh

Nhanh chóng phát khởi đạo song hành

Đi đứng nằm ngồi luôn tu tập

Hồi hướng cả về đạo Bồ-đề

Luôn nghĩ đủ mười Ba-la-mật

Ban cho chúng sinh là Bố thí

Dứt hoặc là Giới, không hại: Nhẫn

Luôn cầu pháp lành là Tinh tấn

An trụ đạo pháp là Thiền định

Đạt Vô sinh nhẫn: Tuệ rốt ráo

Khởi trí vô lượng là Phương tiện

Không ai hàng phục được là Lực

Hâu trí phát sinh đó là: Nguyện

Như thật trụ pháp chính là Trí

Thành tựu đầy đủ các pháp này

Sơ địa đầy đủ nguyện giác phần

Nhị địa xa ĺa tâm cấu nhiễm

Tam địa nguyện lớn pháp sáng suốt

Trụ Địa thứ tư an lập đạo

Thứ năm tùy thuận nghiệp thế gian

Thứ sáu an nhập pháp sâu xa

Trụ Địa thứ bảy luôn phát sinh

Đầy đủ pháp giác của chư Phật

Nhờ đó khiến nhập Địa thứ tám

Thanh tịnh tất cả mọi hành nghiệp

Địa này khó vượt trừ bậc trí

Dùng trí nguyện lớn mới vượt khỏi

Như hai cõi nước tịnh và nhiễm

Phải nhờ thần thông mới qua lại

Lại như Luân vương không nhiễm vướng

Nhưng chưa gọi là vượt loài người

Những ai an trụ Địa thứ tám

Mới vượt cảnh giới của tâm thức

Như sinh Phạm thế vượt làm người

Tựa sen trong bùn không nhiễm ô

Đại này tuy vượt những hoặc nghiệp

Chẳng được gọi có hay không Hoặc

V́ không phiền não hiện khởi ra

Mong cầu trí Phật mà chưa đạt

Tất cả học thuật của thế gian

Kinh sách luận nghị đều thông tỏ

Thiền định, Tam-muội cùng thần Thông

V́ nhờ tu tập nên thành tựu

Bồ-tát an trụ Địa thứ bảy

Vượt qua hết thảy hạnh Nhị thừa

Sơ địa nhờ nguyện, đây nhờ trí

Ví như con vua đủ oai lực

Thành tựu sâu xa vẫn tu đạo

Luôn nhập diệt định mà không chứng

Như người đi thuyền vào biển lớn

Giữa nước không bị nước nhận ch́m

Đủ phương tiện tuệ hành công đức

Tất cả thế gian không biết được

Cúng dường chư Phật tâm sáng suốt

Như dùng ngọc báu đính vàng ròng

Bồ-tát địa này trí tuệ sáng

Như nắng mặt trời khô nước ái

Được làm Thiên vương cõi Tự tại

Giáo hóa chúng sinh tu chánh trí

Do sức tinh tấn và mạnh mẽ

Đạt được trăm ngàn câu-chi na

Tam-muội, gặp Phật, cũng như vậy

Nguyện lực tự tại sẽ hơn đây

Đó là trí tuệ và phương tiện

Thanh tịnh của địa Viễn hành này

Tất cả chư Thiên và loài người

Thanh văn, Độc giác không lường được.

KINH THẬP ĐỊA

| ML | Q 01 | Q 02 | Q 03 | Q 04 | Q 05 | Q 06 | Q 07 | Q 08 | Q 09 |

KINH THẬP ĐỊA

Hán dịch: Đời Đại Đường, Tam tạng Thi-la-đạt-ma.

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 6

Phẩm 8: ĐỊA BẤT ĐỘNG

Khi ấy Thiên vương cùng Thiên chúng

Nghe thắng hạnh này đều vui mừng

V́ muốn cúng dường Đức Như Lai

Vô số vô biên Đại Bồ-tát

Mưa hoa vi diệu, cờ phướn lọng

Vòng hoa, anh lạc và y báu

Vô số trăm ngàn vạn ức loại

Đều dùng ma-ni để trang sức

Thiên nữ cùng nhau trổi nhạc trời

Khắp nơi cất đủ tiếng vi diệu

Cúng dường chư Phật và Bồ-tát

Cùng hợp thành lời để xưng tán

Tất cả thấy Bậc Lưỡng Túc Tôn

Thương xót chúng sinh hiện thần lực

Khiến vô số âm nhạc cõi trời

Vang tiếng vi diệu xa khắp chốn

Mỗi đầu sợi lông trăm ngàn ức

Vô số vô biên cõi chúng sinh

Vô lượng chư Phật cũng nhiều vậy

An tọa ở đó giảng pháp mầu

Mỗi lỗ chân lông vô lượng cõi

Đủ cả bốn châu và biển lớn

Nào là Tu-di, nào Thiết vi

Nằm trọn bên trong không chướng ngại

Mỗi đầu sợi lông đủ sáu nẻo

Ba đường xấu ác, trời và người

Các loài rồng, thần, A-tu-la

Đều theo nghiệp ḿnh chịu quả báo

Ở trong mỗi nước đều có Phật

Diễn giảng chỉ bày pháp sâu xa

Tùy thuận tâm ý của chúng sinh

Chuyển xe pháp mầu, tối thượng tịnh

Mỗi cõi có đủ thân chúng sinh

Mỗi thân cũng gồm bao cõi nước

Trời người, các cõi đều sai khác

Phật biết tất cả để nói pháp

Cõi lớn theo ý biến làm nhỏ

Cõi nhỏ theo ý biến thành lớn

Thần thông như thế không thể lường

Thế gian cùng nói không hết

Chư Thiên dùng lời vi diệu đó

Khen ngợi công đức của Như Lai

Đại chúng vui mừng và im lặng

Nhất tâm chiêm ngưỡng được nghe pháp

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt lại thưa:

Đại chúng hiện giờ đều thanh tịnh

Xin tuần tự nói các hành tướng

An ổn trụ nhập Địa thứ tám.

Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng bảo chúng Bồ-tát:

–Phật tử! Bồ-tát ở Địa thứ bảy quyết định tu tập làm thanh tịnh đạo nghiệp bằng trí tuệ phương tiện, tích tập hành trang, kết thành nguyện lớn, mong được ở yên trong sự gia tŕ của Như Lai, đạt căn lực mầu nhiệm; tùy thuận lực, pháp vô úy, bất cộng của Như Lai; suy xét bằng tâm ý tăng thượng thanh tịnh. Từ oai lực của phước trí phát khởi dùng đại Từ bi luôn thương yêu chúng sinh, tùy thuận vô lượng trí đạo mà tu hành. Nhập tánh xưa nay không sinh khởi, không h́nh tướng, không thành hoại, không đoạn tận, không lưu chuyển, không dừng nghỉ của tất cả các pháp; trước, giữa, sau đều b́nh đẳng do trong chân như không có phân biệt nên nhập Nhất thiết trí. Bồ-tát trừ bỏ vọng tưởng phân biệt của tâm, ý, thức, làm cho nó không còn chỗ bám víu, để nhập tánh b́nh đẳng sáng tỏ như hư không, được gọi là đạt Vô sinh pháp nhẫn.

Phật tử! Người đạt Vô sinh pháp nhẫn mới chứng nhập địa bất động của Bồ-tát, được an trụ sâu xa khó biết hết, không còn sai khác, dứt tất cả h́nh tướng, ngừng ngay những vọng tưởng và bám víu; hàng Thanh văn, Độc giác không đạt được; luôn ở trong tịch tĩnh.

Phật tử! Ví như Tỳ-kheo có đầy đủ thần thông, tâm tự tại, tạm nhập vào định tưởng thọ diệt thứ chín, dứt hết vọng tưởng, phân biệt, tán loạn. Cũng thế, Bồ-tát đạt địa Bất động không còn dụng công, tự tại đạt tánh không dùng sức, an trụ quả báo nhưng xa ĺa hết thảy thân, ngữ, ý, nghiệp.

Phật tử! Ví như có người mơ thấy ḿnh rơi xuống sông, v́ muôn thoát nạn nên phải dùng lực mạnh bơi qua. V́ dùng sức quá mạnh, nên tỉnh giấc, th́ không còn việc ấy nữa. Phật tử! Bồ-tát cũng thế, thấy chúng sinh rơi trong bốn dòng thác phiền não. V́ muốn độ sinh, Bồ-tát phải mạnh mẽ siêng năng hành động. Nhưng khi đạt địa Bất động, th́ không còn dụng công. Tất cả sự hiện hành của hai Thủ hay tướng của nó không còn hiện khởi.

Phật tử! Ví như chư Thiên tiên sinh nơi cõi Phạm thiên, không còn phiền não của cõi Dục. Phật tử! Cũng thế, Bồ-tát trụ nơi địa bất động tất cả tâm, ý, thức không còn hiện khởi, cũng chẳng còn hiện khởi Phật, Bồ-đề, Bồ-tát, Niết-bàn, huống ǵ là hiện hành pháp thế gian?

Phật tử! Bồ-tát khi tu hành ở địa Bất động thứ tám này, an trụ trong sự ǵn giữ nguyện lực, mau chóng học hỏi Phật pháp, mong cầu sự chỉ dạy của Như Lai, được Phật thọ ký nên phát sinh trí vi diệu của Như Lai. Được chư Phật khen ngợi:

–Hay thay! Hay thay! Thiện nam! Đó là pháp nhẫn tùy thuận thật nghĩa của Phật pháp. Song thiện nam! Chư Phật chúng ta có mười Lực, bốn pháp Vô úy, mười tám pháp Bất cộng tự tại mà ông chưa thành tựu; hãy thành tựu pháp tự tại của chư Phật và siêng năng an trụ nơi pháp nhẫn này.

Phật tử! Ông tuy đạt giải thoát vắng lặng nhưng phàm phu chúng sinh chưa được vắng lặng, luôn chạy theo phiền não, bị tầm tứ xâm hại. Ông hãy thương yêu chúng sinh và hãy nhớ hạnh nguyện của ḿnh là làm cho chúng sinh được lợi ích và trí tuệ không thể nghĩ bàn.

Thiện nam! Tất cả pháp tánh của các pháp là như thế. Dù Phật ra đời hay không th́ pháp giới vẫn vậy, không thay đổi. Không phải chỉ chư Phật mới đạt được; Thanh văn, Độc giác cũng chứng được pháp tánh không phân biệt này.

Thiện nam! Ông hãy quán sát chư Phật với vô lượng thân tướng, trí tuệ, cõi nước, hào quang, trí phát khởi, âm vận thanh tịnh cũng không có số lượng, ông nên phát khởi như vậy. Thiện nam! Hiện giờ ông chỉ đạt được một pháp sáng, đó là Tuệ không phân biệt trong các pháp. Song thiện nam nên biết, v́ muốn đạt pháp sáng này mà chư Phật đã khởi vô biên hạnh nguyện, vô biên nẻo tạo tác, vô biên nẻo nối kết. Thiện nam! Ông hãy quán sát tất cả pháp sai khác: Chúng sinh, cõi nước trong vô lượng mười phương mà thông đạt thật lý.

Phật tử! Chư Phật đã khuyên dạy, nhắc nhở Bồ-tát, trao cho trí phát khởi vô số vô biên, để không còn trí phân biệt, từ đó mà thành tựu tất cả hạnh nghiệp.

Phật tử! Ta sẽ nói cho các ông hiểu. Nếu lúc ấy, chư Phật không chỉ dạy cho Bồ-tát, an nhập nơi pháp nọ, th́ Bồ-tát sẽ nhập Niết-bàn rốt ráo, bỏ hết việc lợi ích chúng sinh. V́ thế, chư Phật mới trao cho trí nghiệp phát khởi vô số ấy. Chỉ trong một niệm, trí nghiệp của Bồ-tát đó, phát khởi gấp trăm ngàn vạn ức lần trí nghiệp của Bồ-tát từ Địa thứ nhất đến Địa thứ bảy, cho dù tính đếm ví dụ thế nào cũng không thể hơn được. V́ sao? Phật tử! V́ các Bồ-tát nơi địa trước, dùng một thân hành nghiệp, còn Bồ-tát ở địa này th́ dùng vô số thân sai khác tu hạnh Bồ-tát; dùng vô số âm thanh, trí tuệ, thọ vô lượng thân, trang nghiêm thanh tịnh vô số cõi Phật, hóa độ vô số chúng sinh, phụng sự vô số Phật, hiểu rõ thật nghĩa của vô số pháp, hiện vô số uy lực thần biến, làm chỗ nương tựa cho vô số chúng hội khác nhau, làm vô số việc bằng thân, lời, ý; thành tựu hạnh chân chánh của Bồ-tát. Tất cả đều thành tựu đầy đủ mà không động.

Phật tử! Ví như thuyền chưa ra đến biển cả, th́ thủy thủ phải dùng sức chèo đi. Nhưng khi ra đến biển th́ để mặc thuyền đi mà không cần dùng sức. Ra đến biển, gió lớn thổi buồm căng, nên chỉ đi trong một ngày. Nếu dùng sức như lúc trước th́ dù trải qua trăm năm, cũng không thể đến nơi.

Phật tử! Bồ-tát cũng thế, đã tu tập đầy đủ hành trang căn lành, đạt Đại thừa, ra đến biển lớn chánh hạnh của Bồ-tát, chỉ trong khoảnh khắc, dùng trí không dụng công của Bồ-tát mà nhập trí Nhất thiết trí. Nếu dùng sức như trước th́ trải qua vô số kiếp cũng không thể đạt được.

Phật tử! Bồ-tát đã nhập ở Địa thứ tám này, làm mọi việc mà không dụng công, là do trí tuệ phương tiện rộng lớn. Bồ-tát khi quán sát trí Nhất thiết trí bằng chánh tuệ, quán sát sự thành hoại của thế giới và hiểu rõ nó; hiểu rõ nguyên nhân của sự thành hoại, hiểu rõ thời gian của sự thành hoại ấy, hiểu rõ thời gian thế giới thành rồi dừng trụ, hoại rồi dừng trụ, hiểu rõ tướng sai khác của đất, nước, gió, lửa; lại biết tướng thô tế của vi trần; tướng vô lượng, tướng sai biệt. Biết mỗi thế giới có bao nhiêu vi trần tích tụ, vi trần sai biệt và bao nhiêu vi trần về đất, nước, gió, lửa, chúng sinh, cõi nước. Biết tướng thô tế sai khác của thân chúng sinh; biết số vi trần của thân địa ngục, quỷ, súc sinh, A-tu-la, trời, người. Bồ-tát hội nhập trí biết số vi trần sai biệt rồi; th́ sẽ biết sự thành hoại của cõi Dục, Sắc, Vô sắc và biết tướng sai biệt, lớn, nhỏ của những cõi ấy. Quán sát ba cõi bằng trí, phát ánh sáng trí, khéo đạt trí hiểu rõ thân chúng sinh, thân ḿnh, thị hiện thọ sinh bằng trí. Bồ-tát tùy thuận loài chúng sinh mà thọ thân, tùy nơi thọ thân cùng loài để hóa độ chúng sinh.

Lại nữa, Bồ-tát ở trong một Tam thiên đại thiên giới, tùy thuận vào thân tướng, tŕnh độ của chúng sinh mà thọ thân, hành động bằng trí, cho đến hai, ba… vô số Tam thiên đại thiên giới, cũng đều tùy thuận thân tướng, tŕnh độ sai khác của chúng sinh mà thọ thân, cũng hành động bằng trí. Bồ-tát thành tựu trí như vậy rồi, ở một cõi Phật, thân bất động mà hiển hiện trong vô số không thể nói cõi Phật. Bồ-tát tùy thuận thân tướng, tŕnh độ của chúng sinh trong vô số cõi Phật, trong vô số chúng hội đạo tràng mà hiện thân. Nghĩa là ở trong chúng Sa-môn th́ hiện thân Sa-môn; ở trong chúng Bà-la-môn, trong chúng Sát-lợi, Phệ-xá, Trưởng giả, Cư sĩ, Tứ Thiên vương, Tam thập tam thiên, Dạ-ma, Đổ-sử-đa, Lạc biến hóa, Tha hóa tự tại, Ma vương, Phạm thiên đều tùy thuận đúng loại mà thọ thân. Người nên dùng thân Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai để điều phục th́ đều tùy thuận thị hiện.

Phật tử! Cứ thế, Bồ-tát ở trong vô số cõi Phật cứ tùy thuận thân tướng tŕnh độ của chúng sinh mà thọ nhận thân như vậy như vậy.

Lại nữa, Phật tử! Bồ-tát bỏ hết sự phân biệt về thân tướng, đạt tánh b́nh đẳng của thân. Biết thân của chúng sinh, thân cõi nước, thân nghiệp quả, thân Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai, thân trí, pháp, hư không; biết rõ tâm mong cầu của chúng sinh, hoặc biến thân chúng sinh thành thân ḿnh, cứ thế cho đến biến thân cõi nước, thân nghiệp quả, thân Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai, thân trí, pháp, hư không thành thân ḿnh; hoặc biến thân ḿnh thành thân chúng sinh, cõi nước, nghiệp quả, Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai, trí, pháp, hư không. Bồ-tát hiểu rõ về thân nghiệp, thân nhân quả, thân phiền não, thân có sắc, không sắc. Đối với các thân trong cõi nước; Bồ-tát biết rõ tướng lớn nhỏ, tướng vô lượng, tướng tạp nhiễm, tướng thanh tịnh, tướng loạn trụ, tướng ngưỡng trụ tướng… Đối với thân nghiệp quả, Bồ-tát biết sự sai khác, sự giả lập. Đối với thân Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát có thể biết sự sai biệt, sự kiến lập. Đối với thân Như Lai Bồ-tát biết thân Chánh đẳng Chánh giác, thân hóa hiện, gia tŕ, thân tướng tốt, trang nghiêm vi diệu, thân ánh sáng, thân ý sinh, thân phước đức, trí, pháp. Với trí thân, Bồ-tát biết rõ tướng suy xét, tướng quán sát đúng, tướng nghiệp quả và gia hành, tướng sai biệt của thế gian; tướng an lập ba thừa, tướng cộng và bất cộng; tướng xuất ly, không xuất ly; tướng Hữu học, Vô học. Với Pháp thân, Bồ-tát biết tướng của tánh b́nh đẳng, tướng không hủy hoại, tướng tùy phần vị và sự giả tạm của thế tục mà an lập; tướng pháp an lập của hữu t́nh, vô t́nh; tướng pháp an lập của Phật, Tăng. Với thân hư không; Bồ-tát biết vô lượng căn tướng rộng lớn cùng khắp; tướng không h́nh chất; tướng không sai khác, không hạn lượng; tướng do giữ lấy sắc mà hiển hiện tất cả đều biết hết. Bồ-tát tự tại trong sự sống, hiểu biết sự phát khởi của thân nên trải qua không thể nói vô số kiếp giữ tuổi thọ, đạt được tâm tự tại, nên tu vô số định, quán sát thâm nhập trí, được vật nuôi sống tự tại, nên thị hiện vô số vật để trang nghiêm và giữ ǵn cõi nước; đạt được nghiệp tự tại, nên tùy thời gian mà hiện nghiệp quả; được mạng sống tự tại nên thị hiện thọ sinh khắp nơi; đạt được thắng giải tự tại, nên thị hiện khắp thế giới nơi nào cũng có Phật; đạt được nguyện tự tại nên tùy thời giân, tŕnh độ chúng sinh của các cõi Phật mà thị hiện giác ngộ; đạt được thần thông tự tại, nên thị hiện bao la pháp sáng; đạt được trí tự tại nên thị hiện mười Lực, pháp Vô úy, Bất cộng, tướng tốt, vô thượng giác ngộ của Phật. Nhờ đạt được mười tự tại, Bồ-tát được gọi là người có trí tuệ bất tư ngh́, người có trí rộng lớn, người có trí không ai đoạt được. Do đó Bồ-tát không còn tội lỗi; thân, khẩu, ý nghiệp tùy biến mà hành nên không tội lỗi. Mọi việc làm đều bằng trí, tùy trí tuệ mà chuyển đến bờ giải thoát, tăng trưởng đại Bi làm đầu, khéo phân biệt rõ phương tiện thiện xảo, được chư Phật gia hộ, thành tựu thệ nguyện, luôn v́ lợi ích của chúng sinh, tùy từng nơi trong vô biên thế giới mà hành động không ngừng nghỉ. Phật tử! Tóm lại, mọi hành động về thân, ngữ, ý nghiệp của Bồ-tát trụ nơi địa Bất động này, đều tích tập từ Phật pháp.

Lại nữa, Phật tử! Bồ-tát ở địa Bất động này; an trụ hoàn toàn bằng sức ý lạc để xa ĺa hết thảy phiền não hiện hành; đạt sự an trụ trong ý lạc tăng thượng để không ĺa đạo; an trụ bằng sức đại Bi, không bỏ lợi ích của chúng sinh; an trụ bằng sức đại Từ để cứu độ hết thảy các thế gian; an trụ bằng sức Tam-muội để không quên chánh pháp; an trụ bằng sức biện tài để phân biệt, tuyển chọn khéo léo Phật pháp; an trụ bằng sức thần thông để đi khắp mọi nơi, làm đủ mọi việc; an trụ bằng sức của đại nguyện để không bỏ những việc làm của Bồ-tát; an trụ bằng sức Ba-la-mật để hành tŕ tất cả Phật pháp; an trụ bằng sức gia tŕ của Như Lai để hiển hiện hành tướng và trí Nhất thiết trí. Nhờ những oai lực như vậy mà Bồ-tát làm tất cả mọi việc không hề mắc lỗi lầm.

Phật tử! Trí địa Bồ-tát thứ tám được gọi là Bất động v́ không ai đạt hơn được còn gọi là Địa Bất thoái v́ trí tuệ vững chắc, gọi là Địa khó được v́ cả thế gian không lường được, gọi là Đồng chân v́ không lỗi lầm; gọi là Sinh địa v́ tự tại thay đổi theo ý muốn; gọi là Địa thành tựu v́ không còn tạo tác, gọi là Địa cứu cánh v́ dùng trí phân biệt rõ ràng, gọi là Địa Niết-bàn v́ phát khởi sức thệ nguyện; gọi là Địa Trụ tŕ v́ không bị ai hủy hoại; gọi là Địa Vô công dụng v́ làm mọi việc bằng sức vốn có. Phật tử! Nhờ trí đó, Bồ-tát vào dòng dõi Phật, được ánh sáng công đức của Phật soi rọi, tùy thuận oai nghi chánh hạnh của Như Lai, cảnh Phật hiển hiện liên tục không thiếu; được oai lực Như Lai gia hộ; được Đế Thích, Phạm thiên, Hộ thế Thiên vương cung phụng, lực sĩ Kim Cang luôn bảo vệ, thường không rời sức Tam-muội, làm mọi việc, hiện vô số thân, uy lực tương ưng, thành tựu quả báo thần thông rộng lớn, tự do ra vào trong Tam-muội không bờ bến, được thọ ký vô lượng Bồ-đề, tùy việc mà hóa độ chúng sinh, hiện thành Chánh giác. Nhờ thông đạt như vậy, Bồ-tát nhập chúng Đại thừa, được quán sát bằng trí lớn thần thông, phóng ra ánh sáng trí tuệ vi diệu, khéo nhập pháp giới chân thật không chướng ngại, biết các đạo sai khác của thế gian, thị hiện công đức lớn, tùy ý chuyển hóa; biết rõ việc làm ở quá khứ, vị lai, thông đạt trí hàng phục ma đạo; chứng nhập cảnh giới tu hành của Phật, ở khắp mọi nơi thực hành hạnh Bồ-tát, thành tựu sự kiên định. V́ vậy được gọi là Bồ-tát đạt địa Bất động.

Bồ-tát khi trụ ở địa Bất động, luôn được gặp Phật không rời, không gián đoạn, là do sức của Tam-muội. Gặp Phật, Bồ-tát luôn phụng sự cúng dường; cho nên dù ở đâu, Bồ-tát cũng được gặp vô số, vô số trăm ngàn vạn ức câu-chi Phật; gặp được rồi là cúng dường bằng nhiều cách, lãnh thọ Phật pháp và biết được vô lượng pháp sáng với thật nghĩa, dần dần ở trong Tạng pháp của Như Lai; không sợ những hỏi đáp của thế gian; trải qua vô số kiếp căn lành càng thanh tịnh.

Phật tử! Ví như thợ vàng, luyện vàng làm đồ trang sức, trang sức trên đầu, dưới cổ vua châu Thiệm bộ, tất cả đồ trang sức của quan dân nơi châu Thiệm bộ đều không thể so sánh được. Phật tử! Căn lành của Bồ-tát trụ địa Bất động này cũng thế; hàng Thanh văn, Độc giác cho đến Bồ-tát Địa thứ bảy, những căn lành có đều được không thể sánh. V́ trụ ở địa này là dùng ánh sáng trí lớn phá tan màng tối phiền não của chúng sinh, để khéo khai phát môn trí tuệ.

Phật tử! Ví như Đại phạm Thiên vương, Thiên chủ của ngàn cõi với tâm Từ, vua phóng ra ánh sáng chiếu khắp ngàn cõi. Bồ-tát trụ địa Bất động cũng vậy, có thể phóng ra ánh sáng đến khắp mọi nơi, phá tan mọi phiền não chúng sinh, làm cho chúng được vui. Trong mười Ba-la-mật, Bồ-tát tu nhiều về Nguyện ba-la-mật, các Ba-la-mật khác th́ tùy sức tu hành.

Phật tử! Đó là nói sơ lược về trí địa Bất động thứ tám. Nếu nói đủ th́ trải qua vô số kiếp cũng không thể nói hết được. Bồ-tát trụ địa này, thọ sinh thường làm Đại phạm Thiên vương, cai trị ngàn cõi nước, oai đức thù thắng, không ai sánh bằng, hiểu rõ thật nghĩa, đủ oai lực, khéo giảng thuyết về đạo giải thoát của Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, đạt đến bờ giải thoát. Tất cả chúng sinh vấn nạn, đều không hề vướng mắc. Làm mọi việc, với các hành động Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự, đều không rời tác ý với Phật, Pháp, Tăng, hạnh Bồ-tát, đạt đến bờ giải thoát, chư địa, Phật lực, pháp Vô sở úy, pháp Bất cộng, cho đến không rời tác ý với tất cả hành tướng thắng diệu, thường tương ưng tác ý với trí Nhất thiết trí; thường phát nguyện: Đối với tất cả hữu t́nh ta sẽ là người dẫn đầu, là thắng, là thù thắng, là diệu, là vi diệu, là thượng, vô thượng, là không ai bằng, là không ǵ hơn, là bậc hướng đạo, tướng soái cho đến nguyện được làm chỗ dựa của trí Nhất thiết trí. Người nào ưa phát khởi sự tinh tấn như vậy, th́ trong khoảng nháy mắt; sẽ chứng đắc các Tam-ma-địa, nhiều như số vi trần ở trong trăm vạn tam thiên đại thiên thế giới; sẽ thấy được vô số Đức Phật như vi trần nơi trăm vạn tam thiên đại thiên thế giới, được năng lực của Phật gia tŕ nên vị ấy có thể hoạt động khắp các cõi, nhiều như vi trần nơi trăm vạn tam thiên đại thiên thế giới; sẽ chiếu sáng các cõi nhiều như vi trần của trăm vạn tam thiên đại thiên thế giới; tạo sự thành tựu đầy đủ cho vô số hữu t́nh, nhiều như vi trần trong trăm vạn tam thiên đại thiên thế giới; sẽ sống lâu vô số kiếp, như vi trần nơi trăm vạn tam thiên đại thiên thế giới; ở vào giai đoạn trước và sau đều được sống trong vô số kiếp như vi trần nơi trăm vạn tam thiên đại thiên thế giới; khéo suy tư, chọn lựa rõ ràng vô số pháp môn, như vi trần nơi trăm vạn tam thiên đại thiên thế giới; sẽ thị hiện vô số thân, như vi trần nơi trăm vạn tam thiên đại thiên thế giới, mỗi thân thị hiện vô số Bồ-tát như vi trần nơi trăm vạn tam thiên đại thiên thế giới, làm quyến thuộc vây quanh. Từ đây trở lên là các Bồ-tát có nguyện lực, nhờ nguyện lực thù thắng nên mọi việc làm như đi lại, thân, ánh sáng, thần thông, nhãn căn, cảnh giới, âm thanh, hành động, trang nghiêm, thắng giải, tạo tác dù có trải qua vô số trăm ngàn câu-chi na-do-tha kiếp cũng không thể đếm hết hết.

Lúc ấy, Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn lặp lại nghĩa trên, nên nói kệ rằng:

Thứ bảy đã tu tuệ phương tiện

Chuẩn bị hành trang phát nguyện lớn

Được Phật gia hộ đủ oai lực

Thuận công đức Phật tâm ý tịnh

Đầy đủ phước trí luôn thương yêu

Trí tuệ rộng lớn như hư không

V́ cầu thắng trí lên tám Địa

Hiểu rõ tịch diệt, Vô sinh nhẫn

Biết tánh các pháp không sinh khởi

Không tướng, chẳng thành, chẳng hoại diệt

Không đoạn, không đổi, hay dừng nghỉ

Vô tánh, là tánh, luôn b́nh đẳng

Nhờ không phân biệt, nhập trí Phật

Vượt tâm ý thức, tưởng phân biệt

Chứng được nhẫn này trụ thanh tịnh

Sâu xa bất động thường vắng lặng

Tất cả chúng sinh không thể lường

Tâm tướng trước giữ, thảy đều ĺa

An trụ địa này không phân biệt

Ví như Tỳ-kheo nhập Diệt định

Như mơ qua sông gắng hết sức

Tĩnh dậy thản nhiên không chướng ngại

Bồ-tát v́ độ giới hữu t́nh

Địa này công dụng cũng tự ngừng

Như người Phạm thiên dứt trần dục

Bồ-tát địa này dứt hai tướng

Nương theo dòng pháp nhờ ân Phật

Giác ngộ chỉ dạy lần đạt nhẫn

Chư Phật chỉ rõ: Công đức Phật

Nay ông chưa đạt, hãy siêng năng

Tuy ông đã dập lửa phiền não

Lửa hoặc thế gian vẫn còn hừng

Hãy nhớ hạnh nguyện độ chúng sinh

Dạy chúng tu tập hướng giải thoát

Tánh pháp thường hằng ĺa phân biệt

Chẳng phải chỉ Thế Tôn hiển đạt

Hàng Nhị thừa cũng được pháp này

Hãy nên phát khởi các hạnh nguyện

Đáng được trời người tôn cúng dường

Trao truyền trí tuệ để quán sát

Thành tựu vô biên giáo Phật pháp

Nhanh chóng vượt qua các hạnh nghiệp

Bồ-tát trụ trí địa vi diệu

Đạt sức thần thông thật rộng lớn

Nháy mắt phân thân khắp mọi nơi

Như thuyền vào biển nhờ gió đẩy

Ta không dụng công mặc sức trí

Biết được thế gian hoại hay trụ

Tất cả cõi nước đều sai khác

Hiểu rõ lớn nhỏ hay mênh mông

Bốn đại làm nên ba ngàn cõi

Chúng sinh sáu nẻo thân sai khác

Đầy đủ vô số các vật báu

Dùng trí quán sát biết tất cả

Bồ-tát biết được mọi thân tướng

V́ độ chúng sinh hiện đúng h́nh

Bồ-tát hiện thân khắp mọi nơi

Đủ thứ sai khác trong các cõi

Như nhật nguyệt trụ ở hư không

Hiển hiện bóng h́nh trong mặt nước

Trụ trong pháp giới không chốn động

Tùy nơi tâm niệm đều không đồng

Đều hiện thân trong tất cả chúng

Thanh văn, Độc giác và Bồ-tát

Kể cả thị hiện thân tướng Phật

Hiện thân nghiệp báo, cõi chúng sinh

Hiện đủ các thân Trí và Pháp

Thân tướng hư không luôn b́nh đẳng

V́ các chúng sinh mà thị hiện

Dùng mười Thánh trí quán sát khắp

Lại v́ từ bi hành mọi việc

Thành tựu đầy đủ giáo Phật pháp

Tịnh giới kiên cố như Tu-di

Thành tựu mười lực không lay động

Tất cả chúng ma không thể chuyển

Chư Phật gia hộ, trời người kính

Mật tích Kim Cang luôn bảo vệ

Công đức địa này thật khôn lường

Trăm ngàn vạn kiếp nói không hết

Càng cúng dường Phật trí càng sáng

Như đồ trang sức trên đầu vua

Bồ-tát an trụ Địa thứ tám

Thường làm Phạm vương chủ ngàn cõi

Diễn thuyết ba thừa không cùng tận

Ánh từ chiếu khắp, phá các hoặc

Chỉ trong một niệm đạt Tam-muội

Nhiều như số bụi trăm vạn cõi

Những việc làm khác đều như vậy

Dùng sức thệ nguyện th́ hơn đây

Bồ-tát địa Bất động thứ tám

Ta đã lược nói cho các ông

Nếu phải tuần tự phân biệt giảng

Trải qua ức kiếp cũng không cùng

Địa Bất động thứ tám của Bồ-tát.

KINH THẬP ĐỊA

| ML | Q 01 | Q 02 | Q 03 | Q 04 | Q 05 | Q 06 | Q 07 | Q 08 | Q 09 |

KINH THẬP ĐỊA

Hán dịch: Đời Đại Đường, Tam tạng Thi-la-đạt-ma.

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 7

Phẩm 9: ĐỊA THIỆN TUỆ

Nói Địa thứ tám của Bồ-tát

Như Lai hiện sức thần thông lớn

Chấn động cõi nước ở mười phương

Vô lượng ức số khó nghĩ bàn

Thấy Nhất thiết trí, Vô thượng tôn

Từ thân phóng ra ánh sáng lớn

Soi chiếu vô số các cõi nước

Khiến cho chúng sinh được an vui

Vô số trăm ngàn ức Bồ-tát

Vui vẻ an trụ trong hư không

Đem vật vi diệu hơn cõi trời

Cung kính cúng dường Đấng Tối thắng

Tự tại Thiên vương, trời Tự tại

Thảy cùng một lòng vui vô lượng

Đều đem vô số các vật phẩm

Cúng dường biển công đức sâu xa

Lại có trăm ngàn ức Thiên nữ

Thân tâm vui mừng không ǵ sánh

Trỗi đủ các loại âm nhạc hay

Cúng dường Đạo sư cõi trời người

Lúc ấy, vô số trăm ngàn ức

Âm nhạc hòa tấu tiếng vi diệu

Đều nhờ oai lực Đấng Thiện Thệ

Hiện tiếng vi diệu mà ngợi khen

Vắng lặng nhu hòa, không nhơ, hại

Tùy địa đã nhập siêng tu tập

Tâm như hư không biến mười phương

Giảng Phật pháp cho chúng sinh ngộ

Cõi trời, cõi người khắp mọi nơi

Thị hiện trang nghiêm không ǵ bằng

Đều từ công Đức Như Lai sinh

Khiến người vui thấy được trí Phật

Không rời cõi nước của chúng sinh

Như trăng soi sáng khắp thế gian

Âm thanh, tâm niệm đều diệt hết

Ví như hang động bặc tiếng vang

Những chúng sinh nào tâm yếu kém

Giảng thuyết hạnh nghiệp của Thanh văn

Người tâm nhanh nhẹn thích Độc giác

Giảng thuyết đạo nghiệp của Trung thừa

Ai đủ Từ bi làm lợi ích

Giảng thuyết hạnh nghiệp của Bồ-tát

Những người tâm trí được thù thắng

Chỉ rõ pháp vô thượng Như Lai

Như nhà ảo thuật làm mọi việc

Đủ các h́nh tướng nhưng đều giả

Trí huyễn Bồ-tát cũng như vậy

Tuy hiện tất cả, ĺa có không

Ngàn vạn âm thanh thật vi diệu

Khen ngợi Phật xong, đều im lặng

Giải Thoát Nguyệt thưa: Nay chúng tịnh

Xin giảng đạo hạnh Địa thứ chín.

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói với Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt:

–Phật tử! Bồ-tát đạt đủ vô số công đức trí tuệ, lại siêng năng suy xét pháp giải thoát vắng lặng tối thượng, lại quán xét, trí tuệ rốt ráo tột bậc, hướng nhập pháp bí mật của Như Lai, đúng lý phân biệt, trí không thể nghĩ bàn, tánh đại ngã, lựa chọn các pháp Đà-la-ni Tam-muội; phát khởi thần thông rộng lớn; suy xét tất cả sự sai khác của cõi nước; trang sức bằng Lực, pháp Vô úy, pháp Bất cộng của Như Lai, tánh bền vững, nương Phật chuyển xe pháp, nhập tánh dũng kiện, không bỏ sức đại Bi đã được gia hộ, th́ chứng nhập Địa thứ chín của Bồ-tát.

Bồ-tát trụ ở địa này, biết đúng sự vận hành của các pháp thiện, ác, vô ký, hữu lậu, vô lậu, thế gian, xuất thế gian, suy xét được, không suy xét được, quyết định, không quyết định, Thanh văn, Độc giác, hạnh Bồ-tát, Địa Như Lai, hữu vi, vô vi. Dùng trí hành biết đúng sự vận hành dày đặc của tâm, phiền não, nghiệp, căn, sự hiểu biết, chủng tánh, ý thức mê mờ, sự thọ sinh, tập khí liên tục, tam Tụ an lập của chúng sinh… tất cả đều biết như thật.

Bồ-tát biết đúng như thật các loại tánh của tâm chúng sinh: Tánh của tạp tâm; tánh của tâm chuyển đổi, hoại không hoại; tánh của tâm không thật; tánh của tâm không hạn lượng, hiện đầy khắp mọi nơi; tánh của tâm vốn thanh tịnh; tánh của tâm có tạp nhiễm, không tạp nhiễm; tánh của tâm trói mở; tánh của tâm ảo; tánh của tâm an trụ theo cảnh giới, cho đến biết đúng vô số trăm ngàn các loại tánh của tâm sai khác.

Bồ-tát biết rõ tánh xa tùy hành phiền não, tánh gia hành vô biên; tánh đầy đủ, không rời nhau; tánh luôn bị trói buộc trong mê mờ; tánh hợp không hợp với tâm; tánh thọ sinh liên tục theo cảnh giới; tánh sai khác của ba cõi; tánh khát ái, vô minh; tánh chấp chặt nhân duyên, ba nghiệp không dứt; cho đến biết rõ được tánh của tám vạn bốn ngàn phiễn não sai khác.

Bồ-tát lại biết tánh của các nghiệp thiện, không thiện, vô ký; tánh hữu biểu, vô biểu, cùng với tánh luôn sinh khởi với tâm; tánh liên tục có nhân không mất quả; tánh có báo, không báo; tánh nghiệp trắng, đen, vừa trắng, vừa đen; tánh không thọ sai biệt không trắng, không đen; tánh vô lượng của ruộng nghiệp; tánh nghiệp sai khác của Thánh, phàm, chúng sinh; tánh hiện pháp sinh khởi ở đời sau; tánh thừa, không thừa, định, không định, cho đến vô lượng vô số tánh nghiệp sai khác, cũng đều biết như thật.

Bồ-tát biết rõ các tánh yếu, vừa, giỏi; Tánh trước, sau, có sai khác, không sai khác; Tánh thượng, trung, hạ; tánh không thể ĺa phiền não với sự sinh, tánh nơi thừa không thừa, định không định, tánh đã thành thục, chưa thành thục; tánh của tướng chấp giữ lưới căn biến chuyển hư hoại, tánh không hư hoại v́ căn tăng thượng; tánh sai biệt của các căn thoái lui, không thoái lui; tánh từ xưa theo hạnh nghiệp sinh khởi sai khác. Tóm lại, là biết rõ vô số trăm ngàn tánh của các căn sai khác.

Bồ-tát lại biết rõ đúng như thật về tánh của sự hiểu biết cao, thấp, vừa; tánh trước, sau, sai khác, không sai khác; tánh thượng, trung, hạ, tánh cùng với phiền não không ĺa nhau, tánh thừa, không thừa, định, không định; tánh đã thành thục, chưa thành thục, tánh của tướng chấp giữ lưới căn dần suy hoại; nhờ sự hiểu biết tăng thượng nên tánh không suy hoại, thoái chuyển, không thoái chuyển, hiểu biết sai khác, từ xưa theo hạnh nghiệp thọ sinh. Tóm lại, biết đúng như thật về vô số trăm ngàn sự hiểu biết sai khác.

Bồ-tát biết rõ tánh của các chủng cao, thấp, vừa; tánh trước, sau, sai khác, không sai khác; tánh thượng, trung, hạ, tánh phiền não và sự sinh không xa ĺa, tánh thừa, không thừa, định, không định; tánh đã thành thục, chưa thành thục, tánh của tướng chấp giữ các lưới căn dần suy hoại; nhờ chủng tánh tăng thượng nên tánh không suy hoại, tánh thoái lui, không thoái lui; tánh sai khác, tánh từ xưa theo hạnh nghiệp thọ sinh. Tóm lại, biết đúng về vô số trăm ngàn đủ các chủng tánh sai khác.

Bồ-tát biết rõ tánh của các ý lạc cao, thấp, vừa; tánh trước, sau, sai khác, không sai khác, tánh thượng, trung, hạ; tánh không xa ĺa của phiền não và sự sinh không ĺa nhau; tánh thừa, không thừa, định, không định; tánh đã thành thục, chưa thành thục; tánh của tướng chấp giữ lưới căn dần suy hoại; nhờ ý lạc tăng thượng nên tánh không suy hoại; tánh thoái lui, không thoái lui; sai khác; tánh từ xưa theo hạnh nghiệp thọ sinh. Tóm lại, biết đúng về vô số trăm ngàn ý lạc sai khác.

Bồ-tát lại biết rõ tánh cộng sinh của “tùy miên” với ý lạc, với tâm; Tánh bất tương ly của tâm tương ưng, không tương ưng; tánh từ xưa theo hạnh nghiệp; tánh từ xưa đến nay chưa từng nói ra; Tánh thiền định, giải thoát Tam-muội, thần thông khó điều phục; tánh liên tục bị trói buộc trong ba cõi luôn phải thọ sinh; tánh từ vô thỉ tâm buộc hiện hành, tánh hiểu rõ về uẩn xứ tập; tánh đạt chỗ đối trị sự thật; tánh hòa hợp không hòa hợp với cái khác; tánh chỉ dùng Thánh đạo mới bỏ ra được… tất cả đều biết như thật.

Bồ-tát lại biết rõ tánh thọ sinh với đủ loại sai khác; tánh tùy nghiệp thọ sinh; tánh an lập trong địa ngục; súc sinh; quỷ, A-tu-la, trời, người; tánh thọ sinh có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng. Tánh nẩy mầm từ các nghiệp là ruộng, khát ái là nước tưới thấm vô minh che lấp, thức là hạt giống nên có mầm về sau; tánh chẳng ĺa nhau của danh sắc cùng sinh khởi; tánh mong cầu si khát ái nên cứ tiếp tục thọ sinh; tánh vô thỉ chung của chúng sinh luôn tham dục, ái dục; tánh cùng thoát ra khỏi chấp thọ trong ba cõi.

Bồ-tát lại biết rõ tánh hành, không hành của tập khí, tánh tùy cõi mà huân tập liên tục; tánh tuy hành nghiệp chúng sinh mà huân tập; tánh tùy nghiệp phiền não mà có thói quen huân tập; tánh tùy pháp thiện, không thiện, vô ký mà có thói quen huân tập; tánh huân tập cho hạnh nghiệp đời sau; tánh huân tập theo thứ lớp; tánh từ xưa do hành, hoặc, không đoạn, không diệt mà huân tập; tánh huân tập về sự thật của thể; tánh huân tập nhờ gần gũi các bậc Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai mà học hỏi được.

Bồ-tát biết rõ tánh của chúng sinh ở trong Tụ chánh định, tà định cùng bất định. Nhờ chánh kiến được tánh chánh định. Do tà kiến rơi vào tánh tà định. Không thuộc chánh định, tà định là tánh bất định. Tạo một tội trong năm tội vô gián th́ rơi vào tánh tà định. Tu năm căn trên nên có tánh chánh định; không thuộc hai thứ ấy là tánh bất định. Tu tập bằng tám pháp tà nên rơi vào tánh tà định. Tu tập tám pháp bát chánh đạo nên có tánh chánh định; không thuộc hai thứ trên là tánh bất định. Luôn keo kiệt, ganh ghét, không thương yêu nên rơi vào tánh tà định. Chỉ dạy tu tập Thánh đạo vô thượng nên có tánh chánh định, không thuộc hai thứ trên là tánh bất định. Tất cả đều biết như thật.

Phật tử! Bồ-tát tùy thuận nhận biết tất cả như vậy gọi là Bồ-tát trụ địa Thiện tuệ. Bồ-tát khi trụ nơi địa này, hiểu đúng những sai khác về hành nghiệp của tất cả chúng sinh, từ đó mà chỉ dạy phương tiện giải thoát thích hợp. Biết chúng sinh nào đã thành thục, đã điều phục, để giảng diễn nói pháp Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát và địa Như Lai. Đã biết như vậy rồi, nhưng v́ muốn cho chúng sinh đạt tánh chân như, nên Bồ-tát phải thuyết pháp mầu. Tùy sở thích, tŕnh độ cao thấp, sự hiểu biết, hành nghiệp sai khác mà phân biệt tất cả chủng tánh hiện hành theo trí; tùy thuận vô số chủng tánh dày đặc mà hành; tùy thuận phiền não nghiệp thọ sinh, tập khí, dứt hẳn; tùy chỗ ở mà hành động. Tùy sức hiểu biết để được giải thoát mà thuyết pháp.

Phật tử! Bồ-tát khi trụ nơi địa này, làm Pháp sư giỏi, giữ ǵn tạng pháp của Như Lai, đầy đủ hạnh Pháp sư. Dùng vô số trí làm phương tiện tốt, tùy nghi hành động. Dùng âm từ của bốn sự hiểu biết vô ngại mà thuyết pháp. Lúc này Bồ-tát đầy đủ bốn Vô ngại giải. Bốn pháp ấy là ǵ? Đó là:

1.     Pháp vô ngại giải.

2.     Nghĩa vô ngại giải.

3.     Từ vô ngại giải.

4.     Biện thuyết vô ngại giải.

Dùng pháp vô ngại giải, hiểu được tự tướng của các pháp; dùng nghĩa vô ngại giải hiểu được sự sai khác của các pháp; dùng từ vô ngại giải khéo diễn nói pháp không tạp loạn; dùng biện thuyết vô ngại giải biết được tánh tuần tự tiếp nối không gián đoạn của các pháp. Dùng pháp vô ngại giải, biết được thể của các pháp là vô tánh; dùng nghĩa vô ngại giải, biết đúng sự sinh diệt của các pháp; dùng từ vô ngại giải, tùy thuận được sự giả có của các pháp mà thuyết giảng chánh pháp không ngừng; dùng biện thuyết vô ngại giải là để diễn nói pháp yếu giải thoát theo sự không phải đã có của các pháp. Dùng pháp vô ngại giải, biết sự sai khác của các pháp hiện tại; dùng nghĩa vô ngại giải biết sự sai khác của pháp quá khứ, vị lai; dùng từ vô ngại giải, diễn nói pháp quá khứ, vị lai, hiện tại không tạp loạn; dùng biện thuyết vô ngại giải, trải qua nhiều đời diễn nói pháp bằng vô biên pháp sáng. Dùng pháp vô ngại giải, biết sự sai khác của các pháp; dùng nghĩa vô ngại giải biết sự sai khác của nghĩa lý; dùng từ vô ngại giải, tùy thuận ngôn ngữ mà diễn thuyết chánh pháp; dùng biện thuyết vô ngại giải, tùy thuận tŕnh độ, sở thích mà diễn nói pháp giải thoát. Dùng pháp vô ngại giải, nương trí pháp trực tiếp, hiểu biết khéo léo sự sai khác, không tạp loạn; dùng nghĩa vô ngại giải, nương trí so sánh, biết tánh vốn vậy của các pháp; dùng từ vô ngại giải, nương trí thế tục, chỉ dạy giải thích, dùng biện thuyết vô ngại giải nương trí thắng nghĩa để khéo giảng pháp. Dùng pháp vô ngại giải, biết tánh không hư hoại của nghĩa lý chân thật; dùng nghĩa vô ngại giải, biết phát khởi phương tiện đi vào đến uẩn, xứ, giới; dùng từ vô ngại giải, tùy thuận ngôn ngữ văn chương mà thế gian hiểu được để thuyết pháp; dùng biện thuyết vô ngại giải, nương dần dần vào vô số tuệ sáng mà giải thích đúng lý. Dùng pháp vô ngại giải, biết sự sai biệt của pháp Nhất thừa; dùng nghĩa vô ngại giải, biết sự sai biệt của các thừa; dùng từ vô ngại giải, giảng thuyết các thừa không tạp loạn; dùng biện thuyết vô ngại giải, nương pháp sáng mà giải thích được tất cả. Dùng pháp vô ngại giải, có thể nhập vào hết thảy các hạnh của Bồ-tát bằng trí hành rồi tùy trí mà hành; dùng nghĩa vô ngại giải, thâm nhập vào sự sai biệt của việc an trụ mười Địa; dùng từ vô ngại giải, tùy thuận diễn thuyết không tạp loạn, chỉ dạy đạo pháp của các địa; dùng biện thuyết vô ngại có thể nương vô số hành tướng để giải thích các trí địa. Dùng pháp vô ngại giải, biết chư Phật thành đạo Chánh đẳng giác chỉ trong nháy mắt; dùng nghĩa vô ngại giải, biết sự sai khác của đủ loại thời, sự tướng; dùng từ vô ngại giải, diễn thuyết mà chư Phật đã phân biệt giải thích; dùng biện thuyết vô ngại giải, trai qua vô số kiếp giải thích mỗi một câu pháp, không cùng tận. Dùng pháp vô ngại giải, biết oai lực, vô sở úy, pháp Bất cộng của Phật, đại Từ bi, biện tài, gia hạnh chuyển đại pháp luân, tùy thuận thực hành trí Nhất thiết trí; dùng nghĩa vô ngại giải, biết Như Lai tùy thuận nhập vào tám vạn bốn ngàn loài chúng sinh sai khác để sở thích, tŕnh độ mà thuyết pháp; dùng từ vô ngại giải, tùy thuận hạnh nghiệp sai khác mà dùng ngôn từ diễn nói Phật pháp; dùng biện thuyết vô ngại, tùy trí, hạnh thanh tịnh, sự hiểu biết của Như Lai mà thuyết pháp.

Phật tử! Bồ-tát trụ địa Thiện tuệ thứ chín này, thành tựu trí vô ngại giải như vậy; đạt tạng pháp Như Lai; làm Pháp sư giỏi; đạt các Tam-muội thật nghĩa, thật pháp, trí phát khởi, ánh sáng, trí khéo léo, chúng tài, oai đức, môn vô ngại, không ngằn mé, đủ các loại nghĩa,… đạt nhiều như vậy, có tới vô số tám vạn Tam-muội viên mãn, rồi dùng vô số ngôn ngữ, phương tiện, biện tài, phân tích giảng pháp cho người khác. Nương vào những vô số Tam-muội đó, Bồ-tát được nghe vô số diệu pháp của Phật, nghe rồi nhớ mãi và diễn thuyết cho mọi người. Ở chỗ một Đức Phật, dùng vô số pháp Tam-muội để lãnh thọ chánh pháp. Ở chỗ vô số Phật cũng thế. Chỉ trong khoảnh khắc, Bồ-tát lãnh thọ vô số pháp vi diệu của chư Phật, mà hàng Thanh văn tài giỏi, dù phải trải qua trăm ngàn kiếp, cũng không thể lãnh thọ được. Thành tựu những Tam-muội này rồi Bồ-tát đầy đủ biện tài, ngồi ở pháp tòa, đi khắp mọi nơi, tùy sở thích khác nhau của chúng sinh mà thuyết pháp. Pháp tòa ấy thật thù thắng, ngoài Phật và Bồ-tát thọ Quán đỉnh ra, các Bồ-tát khác có oai đức ánh sáng cũng không sao sánh kịp. Bồ-tát tự tại ngồi trên pháp tòa; dùng một ngôn ngữ, diễn thuyết diệu pháp nhưng chỉ cho mọi loài đều hiểu được; hoặc dùng vô số ngôn ngữ, phân tích giảng thuyết khiến mọi loài đều tỏ ngộ; hoặc tự tại phóng ra ánh sáng lớn theo đó phát ra vô số pháp môn; hoặc từ trên thân, ở mỗi lỗ chân lông, đều phát ra tiếng thuyết pháp; hoặc tùy chúng sinh trong vô số cõi, hiện cùng sắc tướng để có thể cùng thuyết pháp mầu; hoặc dùng một ngôn ngữ mà diễn đủ hết tất cả âm pháp; hoặc làm cho tất cả ngôn ngữ đều thành tiếng nói pháp vi diệu; hoặc dùng tiếng ca nhạc, ngâm vịnh của thế gian mà diễn nói pháp; hoặc dùng một ngôn ngữ diễn thuyết tất cả âm pháp sai biệt; hoặc làm cho tất cả vi trần trong bốn đại của vô số cõi nước, mà ở mỗi vi trần đều phát ra pháp không thể nói. Cho dù vô số chúng sinh trong một, hai… cho đến vô số cõi nước, cùng một lúc, dùng vô số ngôn ngữ, vấn nạn sai khác th́ Bồ-tát này vẫn lãnh thọ hết và chỉ dùng một ngôn ngữ giải thích mà tất cả đều vui vẻ. Cho dù có vô số không thể nói chúng sinh vấn nạn… th́ Bồ-tát cũng vậy. Tóm lại, Bồ-tát tùy thuận vào sở thích, tŕnh độ của vô số chúng sinh mà diễn nói pháp mầu. Bồ-tát thông hiểu luận pháp, cầu Phật gia hộ, dốc sức thuyết pháp, làm việc Phật, làm chỗ nương tựa cho chúng sinh. thọ tŕ pháp sáng ấy, Bồ-tát phát nguyện: Giả sử mỗi mỗi sợi lông có vô số cõi nước, mỗi cõi nước có một Đức Phật đang thuyết pháp cho đại chúng; tất cả các Đức Phật khác cũng tùy thuận sở thích chúng sinh mà thuyết pháp, truyền trao pháp môn. Hội chúng của một Như Lai cũng giống như hội chúng tất cả các Đức Như Lai. Một cõi nước như vậy, tất cả các cõi nước cũng đều như thế. Ta phải phát khởi niệm lực để lãnh thọ tất cả pháp môn của Phật thuyết giảng. Bồ-tát trụ ở địa này, ngày đêm không ngoài suy nghĩ là được vào cảnh giới Phật, gần gũi Như Lai, đạt pháp giải thoát sâu xa của Bồ-tát. Bồ-tát dùng trí như vậy, luôn ở trong định để được gặp Phật; nguyện ấy không hề bỏ. Trong mỗi kiếp, Bồ-tát được gặp vô lượng vô số trăm ngàn Đức Phật; dùng vật quý báu để cúng dường, phụng sự Phật, ở chỗ Phật học hỏi, đạt pháp Tổng tŕ lại tập diễn nói pháp. Lúc này căn lành của Bồ-tát càng thù thắng, không ai sánh được.

Phật tử! Ví như thợ vàng, luyện vàng thành các đồ trang sức; đem trang điểm trên đầu hoặc trên cổ vua Chuyển luân th́ tất cả vật trang sức của vua, quan, dân trong bốn châu đều không thể so sánh được.

Phật tử! Ví như Đại phạm Thiên vương cai trị hai ngàn cõi, thân phóng ra ánh sáng chiếu khắp mọi nơi. Khiến cho những u tối dày đặc trở nên sáng rực. Cũng vậy, ánh sáng căn lành của Bồ-tát này, soi rọi tâm ý phiền não dày đặc của chúng sinh, rồi cũng thâu lại. Trong mười Ba-la-mật, Bồ-tát tu nhiều về Lực ba-la-mật, các Ba-la-mật khác th́ tùy thuận mà hành tŕ.

Phật tử! Đó là nói sơ lược về trụ địa Thiện tuệ thứ chín của Bồ-tát. Nếu nói rộng, th́ trải qua vô số kiếp cũng không thể hết. Bồ-tát ở địa này, thọ sinh thường làm Đại phạm Thiên vương, đầy đủ uy quyền, cai trị hai ngàn cõi, mạnh mẽ không ai sánh bằng; luôn làm việc lợi ích, được tự tại lớn v́ chúng hữu t́nh mà diễn thuyết hạnh Ba-la-mật cho Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát; chúng sinh tùy thích vấn nạn không bị khuất phục. Làm mọi việc như Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự đều không rời suy nghĩ về Phật, về Pháp, về Tăng, về Bồ-tát, về hạnh Bồ-tát, về bờ giải thoát, về các trụ địa, về pháp không sợ, về lực, về pháp Bất cộng của Phật, cho đến không rời suy nghĩ về hành tướng thắng diệu tương ưng với trí Nhất thiết trí. Lại nguyện: Ở trong chúng sinh, ta luôn là người đứng đầu, thù thắng vi diệu, vô thượng; là người dẫn đường, là tướng soái, cho đến nguyện làm chỗ nương tựa để đạt trí Nhất thiết trí. Nếu siêng tu tập, trong khoảnh khắc sẽ đạt trăm vạn a-tăng-kỳ-da Tam-muội sẽ gặp trăm vạn a-tăng-kỳ-da Đức Phật, sẽ được Phật gia hộ cho thông hiểu tất cả; làm chuyển động trăm vạn a-tăng-kỳ-da thế giới; sẽ đi khắp trăm vạn a-tăng-kỳ-da cõi nước, sẽ soi chiếu trăm vạn a-tăng-kỳ-da cảnh giới; sẽ thành tựu trăm vạn a-tăng-kỳ-da loại chúng sinh; sẽ sống trăm vạn a-tăng-kỳ-da kiếp; trước sau đều vào trong trăm vạn a-tăng-kỳ-da kiếp; sẽ suy xét rõ trăm vạn a-tăng-kỳ-da pháp; sẽ thị hiện trăm vạn a-tăng-kỳ-da thân, mỗi thân hiện trăm vạn a-tăng-kỳ-da Bồ-tát bạn. Nhờ nguyện lực thù thắng ở trên, nên mọi việc đi lại, thần thông, thân tướng, mắt, ánh sáng, cảnh giới, âm thanh, hành động, trang nghiêm, sự hiểu biết, ǵn giữ, tạo tác dù có trải qua trăm vạn a-tăng-kỳ-da câu-chi kiếp, cũng không thể nói hết.

Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn nêu lại ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:

Vô trí tuệ sâu xa trước

Chẳng thích, chỉ cầu thắng giải thoát

Nhập định của Phật xét trí Phật

Lựa chọn diệu trí khó nghĩ bàn

Tổng tŕ thanh tịnh, cùng các định

Đạt thần thông lớn vào các cõi

Tu lực, vô úy pháp Bất cộng

Tùy thuận đại Bi nhập tuệ địa

Bồ-tát an trụ trí địa này

Biết pháp thiện, ác, không thiện ác

Hữu lậu, vô lậu, thế, xuất thế

Suy xét hay không thể suy xét

Các pháp quyết định, không quyết định

Hạnh nghiệp ba thừa và Phật địa

Các hành sai khác hữu, vô vi

Biết đúng như vậy lúc nhập thế

Sẽ hiểu rõ tâm tánh chúng sinh

Phiền não, nghiệp báo cùng kiến giải

Tâm tánh sở thích và tùy miên

Tập khí, thọ sinh, tụ, phiền não

Biết tánh thay đổi của tâm ý

Các tướng không chất, khó hạn lượng

Vô số phiền não nương nhau sinh

Trói buộc liên tục vào các cõi

Bao nhiêu tánh nghiệp của chúng sinh

Đủ nhân thành quả đều biết rõ

Các căn đủ loại thượng, trung, hạ

Trước sau vô số sự sai biệt

Chủng tánh, hiểu biết và sở thích

Đều là như vậy thảy nhận biết

Tùy miên, hoặc, nghiệp, các vọng kiến

Vô thỉ mịt mù chưa trừ khử

Luôn luôn sinh khởi cùng tâm ý

Trói buộc lẫn nhau chẳng đoạn dứt

Chỉ do vọng tưởng Thể không thật

Không rời tâm ý, chẳng chỗ nương

Tuy tu tập định, nhưng khó trừ

Chỉ Kim Cang đạo mới dứt hết

Chúng sinh sáu cõi đều sai khác

Ruộng nghiệp, nước ái, vô minh che

Thức là hạt giống, danh sắc mầm

Vô thỉ nối liền trong ba cõi

Phiền não hành nghiệp luôn tu tập

Tuần tự sinh khởi, không ĺa hoặc

Chúng sinh đều ở trong ba tụ

Kẻ đắm tà kiến, người hành đạo

Bồ-tát địa này quán sát khắp

Tùy thuận sở thích và tŕnh độ

Đều dùng biện tài vô ngại giải

Thích hợp căn cơ mà thuyết pháp

Ngồi trên pháp tòa như Sư tử

Lại như trâu chúa, núi báu chúa

Tợ như rồng chúa bủa mây kín

Tuôn mưa mát lành khắp biển lớn

Biết rõ pháp tướng cùng thật nghĩa

Tùy thuận ngôn từ phân biệt giảng

Gồm thâu trăm vạn a-tăng-kỳ

Ví như biển lớn chứa nước mưa

Tam-muội thần thông đều thanh tịnh

Chỉ trong nháy mắt gặp nhiều Phật

Ở chỗ chư Phật nghe chánh pháp

Lại dùng diệu âm để diễn thuyết

Tùy ý chúng sinh ba ngàn cõi

Giáo hóa, cứu độ cho tất cả

Như mây giăng bủa khắp mọi nơi

Tùy thuận sở thích đều vui vẻ

Vô số chúng sinh ở mười phương

Đều đến ngồi gần nghe pháp mầu

Ai nấy đặt ra nhiều câu hỏi

Một lời đối đáp đều vừa lòng

Mỗi mỗi sợi lông vô số Phật

Tâm ý chúng sinh cũng vô cùng

Tâm đó thích hợp trao chánh pháp

Tất cả pháp giới đều như vậy

Bồ-tát càng tăng sức tinh tấn

Đạt vô số công đức thù thắng

Nghe nhớ tất cả các pháp môn

Như đất dung nạp hết mọi vật

Bồ-tát trụ địa: Ngôi thái tử

Tùy căn cơ khuyên dạy không mỏi

Ngày đêm luôn được gặp chư Phật

Thâm nhập tịch diệt trí giải thoát

Cúng dường chư Phật căn lành sáng

Như vật trang sức ở vương miện

Làm cho chúng sinh dứt phiền não

Ví như ánh sáng Phạm vương soi

Trụ địa này làm Đại phạm vương

Dùng pháp ba thừa độ chúng sinh

Thực hành nghiệp lành, lợi ích khắp

Cho đến thành tựu Nhất thiết trí

Chỉ trong một niệm nhập trăm vạn

A-tăng-kỳ số các Tam-muội

Gặp Phật… các việc đều như vậy

Nếu dùng nguyện lực th́ hơn đây

Đó là Thiện tuệ Địa thứ chín

Nơi Bồ-tát tu hành đại trí

Sâu xa vi diệu khó thấy được

Tôi đã lược giảng cho các ông

KINH THẬP ĐỊA

| ML | Q 01 | Q 02 | Q 03 | Q 04 | Q 05 | Q 06 | Q 07 | Q 08 | Q 09 |

KINH THẬP ĐỊA

Hán dịch: Đời Đại Đường, Tam tạng Thi-la-đạt-ma.

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 8

Phẩm 10: ĐỊA PHÁP VÂN (Phần 1)

Vô số chư Thiên cõi Tịnh cư

Nghe hạnh thù thắng của địa này

Nơi hư không vô cùng hoan hỷ

Cùng nhau thành kính cúng dường Phật

Vô số, vô lượng các Bồ-tát

Cũng ở hư không rất vui mừng

Cùng nhau đốt hương thơm dịu nhất

Xông khắp đạo tràng thêm thanh tịnh

Tự tại Thiên vương và thiên chúng

Vô số trăm ngàn ở hư không

Rải trăm vạn áo trời rực rỡ

Thành kính cúng dường Đức Như Lai

Vô số ngọc nữ ở cõi trời

Vui vẻ cùng nhau cúng dường Phật

Trỗi đủ âm nhạc vi diệu nhất

Lại cùng các tiếng khen ngợi Phật

Như Lai an tọa trong một cõi

Nhưng lại hiện thân ở khắp nơi

Vô số thân tướng thật trang nghiêm

Tất cả pháp giới đề có Phật

Từ các chân lông phóng ánh sáng

Diệt trừ bóng tối của phiền não

Số bụi trong đời còn đếm biết

Làm sao biết được ánh sáng này?

Hiện thân Như Lai đủ các tướng

Chuyển nơi chánh pháp luân vô thượng

Hoặc hiện thân đi khắp cõi Phật

Hoặc hiện tịch nhiên không lay động

Hoặc hiện trụ nơi cung Hỷ túc

Hoặc là hạ sinh vào thai mẹ

Hoặc trụ thai, hoặc ra khỏi thai

Khiến cho vô số cõi đều thấy

Thị hiện xuất gia tu Thánh đạo

Ngồi ở đạo tràng, thành Chánh giác

Thuyết giảng chánh pháp, nhập Niết-bàn

Chúng sinh mười phương đều thấy được

Như nhà ảo thuật biết mọi cách

Ở trước mọi người biến hóa đủ

Trí tuệ Như Lai cũng như vậy

Hiện thân ở khắp thế gian

Phật trụ pháp tánh thật sâu xa

Tịch diệt, vô tướng, như hư không

Ngay trong thật nghĩa chân chánh đó

Thị hiện hành tŕ mọi Phật sự

Chỗ trụ việc lợi ích chúng sinh

Đều từ pháp tánh mà có được

Có tướng, không tướng nào sai khác

Vào nơi rốt ráo đều không tướng

Những ai muốn chứng trí Như Lai

Phải ĺa vọng chấp, cùng phân biệt

Thông đạt có không đều b́nh đẳng

Sớm làm Đạo sư cõi trời người

Vô lượng vô số các Thiên nữ

Dùng đủ âm thanh xưng tán Phật

Thân tâm tịch tĩnh cùng an lạc

Chiêm ngưỡng Như Lai, im lặng đứng

Khi ấy Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt

Biết được đại chúng đều thanh tịnh

Thưa với Bồ-tát Kim Cang Tạng:

Bậc đại vô úy, đệ tử Phật

Từ Địa thứ chín đến thứ mười

Bao nhiêu công đức và hành tướng

Tất cả thần thông việc biến hóa

Xin Ngài giảng thuyết cho chúng tôi.

Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng nói với Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt:

–Phật tử! Bồ-tát dùng vô số trí hiểu biết để quán sát tuệ, đến khi đạt Địa thứ chín xong, phân biệt rõ ràng, đầy đủ pháp giải thoát, chuẩn bị đầy đủ hành trang, chứa đủ phước trí rộng lớn, chứng được vô số đại Từ bi, hiểu rõ sự sai biệt tách chia của thế giới, thâm nhập hạnh nghiệp dày đặc của chúng sinh, luôn suy nghĩ tùy thuận nhập vào cảnh giới Phật, nương oai lực, pháp vô úy và pháp Bất cộng của Phật, được gọi là Nhất thiết chủng trí và trí Nhất thiết trí, thọ địa Quán đỉnh.

Phật tử! Bồ-tát đã tùy thuận thực hành trí tuệ như vậy, chuẩn bị cho địa vị quán đỉnh của Bồ-tát, đạt được ngay các định không nhơ, đó là pháp giới tách chia sai biệt; đó là trang nghiêm Bồ-đề đạo tràng; đó là định gồm đủ các loại ánh sáng và hoa; đó là hải tạng trang nghiêm; đó là định hải ấn, định hư không giới rộng lớn, định phân biệt tự tánh các pháp, định tùy thuận tâm hành chúng sinh, định an trụ ngay ở chỗ các Đức Phật. Bồ-tát đạt vô số Tam-muội cao tột, tự ra vào trong Tam-muội, đạt quyền biến, làm mọi việc bằng định. Sau đó Bồ-tát đạt trí Nhất thiết trí thù thắng; hiển hiện ra Tam-muội quán đỉnh rộng lớn. Lúc Tam-muội này hiện khởi, có hoa sen bằng ngọc báu lớn xuất hiện. Hoa này lớn bằng trăm vạn cõi Đại Thiên, được trang sức bằng các vật báu, hơn hẳn cảnh giới nơi thế gian; được sinh khởi từ căn lành xuất thế gian, tự tánh như huyễn, cảnh giới được tạo thành từ sự khéo dựa vào pháp giới lành hiện khởi, cõi trời cũng không có được. Cọng hoa sen bằng ngọc báu Ma-ha phệ-lưu-ly ma-ni, đài bằng ngọc chiênđàn, tua bằng mã não, lá bằng vàng Diêm-phù-đàn, vô số hoa quý phản chiếu ánh sáng, chứa đủ tất cả vật báu, lưới báu rộng lớn che bên trên. Có vô số hoa sen nhiều như bụi trong vô số cõi nước bao quanh. Lúc đó, thân Bồ-tát lớn đẹp tương xứng với hoa. Như vậy, Bồ-tát này đã đạt trí Nhất thiết trí thù thắng hiển hiện Tam-muội quán đỉnh rộng lớn. Nhờ đạt Tam-muội đó nên Bồ-tát thị hiện ngồi nơi tòa sen báu lớn này. Khi Bồ-tát ngồi trên tòa sen này, trên các hoa sen khác cũng có các Bồ-tát vây quanh Bồ-tát này, cung kính chiêm ngưỡng thân Bồ-tát. Các Bồ-tát kia đều đạt trăm ngàn vạn Tam-muội, đều là bạn của Bồ-tát này. Lúc các Bồ-tát nhập định này, tất cả cõi nước đều chấn động, tất cả cõi ác đều dừng nghỉ, ánh sáng chiếu khắp nơi, đâu đâu cũng đều trang nghiêm, thanh tịnh, nghe được tiếng nói của các Đức Phật. Tất cả các Bồ-tát ở chỗ khác đều đến đây, hết thảy nhạc cụ của cõi trời, người đều trổi lên, chúng sinh được an lạc, cùng lúc thực hiện sự cúng dường, phụng sự các Đức Phật, tất cả chúng hội của chư Phật ở mười phương đều chứng biết. V́ sao? Phật tử! V́ Bồ-tát ngồi trên hoa sen báu lớn đó; dưới hai chân, phóng ra vô số ánh sáng, soi khắp mười phương đến tới ngục vô gián, trừ hết khổ não. Nơi hai đầu gối, phóng ra vô số ánh sáng, soi khắp mười phương đến các loài súc sinh, dứt trừ khổ não. Từ nơi rốn, phóng ra vô số ánh sáng, soi khắp mười phương đến loài quỷ đói, dứt hẳn khổ não. Hai bên hông phóng ra vô số ánh sáng, soi khắp mười phương đến cõi người, dứt trừ khổ não. Tâm bàn tay phóng ra vô số ánh sáng, soi khắp mười phương đến các cung điện chỗ ở của chư Thiên và A-tu-la. Hai vai, phóng ra vô số ánh sáng, soi khắp mười phương đến các Thanh văn. Sau cổ, phóng ra vô số ánh sáng, soi khắp mười phương đến các thân Độc giác. Từ mặt, phóng ra vô số ánh sáng, soi khắp mười phương đến các Bồ-tát từ Địa thứ nhất đến Địa thứ chín. Từ lông trắng giữa chặng mày, phóng ra vô số ánh sáng, soi khắp mười phương, che lấp cung điện của ma; rồi chiếu đến các Bồ-tát đạt địa quán đỉnh. Từ đỉnh đầu, phóng ra vô số ánh sáng, chiếu đến đạo tràng chúng hội của chư Phật khắp mười phương, xoay mười vòng bên phải trụ trong hư không, thành vòng ánh sáng lớn, cúng dường chư Phật. Ánh sáng đó gọi là Xí nhiên quang diệu. Tất cả sự cúng dường của hàng Bồ-tát, từ Địa thứ nhất đến Địa thứ chín, đều không so sánh được một phần trong trăm ngàn vạn ức phần, dù tính đếm thí dụ thế nào cũng không được. Từ vòng ánh sáng lớn, tuôn ra các loại trang sức như: Hương thơm, hương đốt, hương xoa, hương bột, phấn xoa, y phục, cờ phướn, lọng báu, tựa như mây lớn tuôn mưa to. Những sự siêu việt ấy đều phát sinh từ căn lành cao tột hiện ra trước các Như Lai ở khắp mười phương, để cúng dường tất cả Đức Phật ở đấy. Những ai biết được sự cúng dường lớn này, đều là người đối với đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đạt được không thoái chuyển. Sau khi cúng dường Phật, ánh sáng ấy chiếu đến đạo tràng Phật, soi khắp mười loài nơi thế gian, rồi nhập vào chân Phật.

Lúc này các Đức Phật, Bồ-tát đều biết ở nơi đó, có Bồ-tát thành tựu hạnh chân chánh rộng lớn, đạt địa vị quán đỉnh. Phật tử! Khi đó, từ vô lượng, vô biên các cõi, các Bồ-tát từ Địa thứ nhất đến Địa thứ chín đều đến vây quanh Bồ-tát này, bày sự cúng dường lớn và một tâm chiêm ngưỡng, mỗi vị đều đạt trăm vạn Tam-muội. Bấy giờ, các Bồ-tát đạt ngôi vị quán đỉnh ở mười phương, đều từ đức tướng nơi ngục Kim cang trang nghiêm, phóng ra ánh sáng lớn gọi là Hàng phục ma oán và vô số thần thông biến hóa. Sau đó, ánh sáng nhập về chỗ cũ, nhờ đấy các Bồ-tát này trí tuệ tăng trưởng, oai lực gấp trăm ngàn lần trước.

Phật tử! Khi ấy, các Đức Phật ở mười phương, cũng từ tướng lông trắng ở chặng mày, phóng ra ánh sáng tên Đầy đủ thần thông tánh nhất thiết trí và vô số ánh sáng khác vây quanh, chiếu khắp mười phương không bỏ sót, vòng quanh theo phía bên phải khắp các thế gian mười cách, rồi hiển bày thần thông diệu dụng lớn của Như Lai khai ngộ vô lượng, vô biên, vô số Bồ-tát. Các cõi Phật đều có sáu cách chấn động, chấm dứt tất cả sự luân chuyển của sinh tử hiểm ác nơi các cõi dữ; che lấp hết thảy cung điện của ma, hiện rõ các tòa Bồ-đề, các chúng hội đạo tràng trang nghiêm oai đức rực rỡ, cho đến tận hư không pháp giới. Sau đó, ánh sáng lại chiếu xoay quanh ở trên đầu các Bồ-tát. Thị hiện mọi việc xong, ánh sáng ấy lại nhập vào đỉnh đầu của Bồ-tát. Các ánh sáng khác cũng nhập vào đỉnh đầu của các Bồ-tát bạn. Lúc ánh sáng nhập vào, các Bồ-tát đều làm đạt trăm vạn muội mà trước đây chưa đạt. Khi ánh sáng này nhập vào đỉnh dầu rồi, Bồ-tát sẽ được ở trong cõi Phật thọ lãnh quả vị quán đỉnh. Nếu đầy đủ mười Lực, sẽ được dự vào hàng Chánh đẳng, Chánh biến tri, Chánh giác.

Phật tử! Ví như thái tử, con của vua Chuyển luân và hoàng hậu; sinh ra là đầy đủ tướng vua Chuyển luân vương sẽ cho thái tử ngồi xe voi báu, che lưới màn báu; cờ phướn lọng, y phục đều thơm mùi hoa, đốt các thứ hương, rải hoa, trổi nhạc; cho người lấy nước bốn biển đựng trong b́nh báu, tự tay vua rưới nước lên đỉnh đầu thái tử. Vừa được rưới nước là thái tử đã được dự vào hàng Sát-lợi vương. Nếu đầy đủ mười nghiệp lành nữa sẽ được gọi là Chuyển luân thánh vương.

Phật tử! Bồ-tát cũng vừa được chư Phật rưới nước lên đỉnh đầu là đạt quả vị quán đỉnh, gọi là đã thọ pháp quán đỉnh nước Trí. Nếu đủ mười lực được dự vào hàng Chánh đẳng Chánh giác. Phật tử! Đó là Bồ-tát quán đỉnh Đại thừa. Bồ-tát này sẽ phát nguyện làm vô số việc khó làm, vô lượng công đức trí tuệ được tăng trưởng được gọi là an trụ nơi địa Pháp vân.

Phật tử! Bồ-tát trụ nơi địa Pháp vân này, tập nhân của các cõi: dục, sắc, vô sắc, tập nhân của các cảnh giới, hữu t́nh, thức, hữu vi, vô vi, hư không, pháp, Niết-bàn. Bồ-tát này thấy biết tập hành của phiền não, của sự thành hoại của thế giới. Tập hành của Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Lực, pháp Vô úy, pháp Bất cộng của Phật, sắc thân, Pháp thân; dùng Nhất thiết chủng trí, trí Nhất thiết trí hiển hiện thành Phật, thuyết pháp, nhập diệt độ phân biệt rõ ràng các pháp. Tóm lại, Bồ-tát dùng Nhất thiết chủng trí, trí Nhất thiết trí biết đúng về tất cả. Từ trí tuệ ấy, Bồ-tát lần lần biết rõ sự biến đổi của chúng sinh, của nghiệp phiền não, của hạnh nghiệp, của thế giới, pháp giới, của Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai; biết rõ tất cả sự biến đổi sai khác đó, tánh không phân biệt. Bồ-tát này biết rõ sự gia tŕ của Phật, Pháp, Tăng, nghiệp phiền não, thời gian, hạnh nguyện, cúng dường, hạnh chân chánh, kiếp số, trí. Lại biết rõ trí vi tế của Phật như xuống trần, thọ sinh, sinh ra, vui chơi, xuất gia, thành Phật, thuyết pháp, hỗ trợ suy xét, nhập diệt, an trụ chánh pháp. Bồ-tát biết rõ tất cả những nơi khó biết của Phật như thân, lời nói, tâm, hợp thời, trái thời, thọ ký cho Bồ-tát, hàng phục chúng sinh, vận hành mọi sự sai khác, căn tánh hạnh nguyện sai khác của chúng sinh, công dụng của nghiệp, tự tánh giác ngộ thành đạo. Lại biết trí hòa nhập kiếp số của chư Phật như từ một kiếp nhập thành vô số kiếp, vô số kiếp nhập thành một kiếp, có kiếp số nhập vào không kiếp số, không kiếp số nhập vào có kiếp số, một sát-na thành một kiếp, một kiếp thành một sát-na, kiếp nhập vào không phải kiếp, không phải kiếp nhập vào kiếp, kiếp có Phật nhập vào kiếp không Phật, kiếp không Phật nhập vào kiếp có Phật, hoặc nhập vào không có cõi Phật, hoặc nhập có cõi Phật, hoặc kiếp quá khứ nhập vị lai hiện tại, kiếp hiện tại nhập quá khứ vị lai, kiếp vị lai nhập quá khứ hiện tại; hoặc kiếp dài nhập kiếp ngắn, kiếp ngắn nhập kiếp dài; hoặc kiếp ngắn nhập không phải kiếp ngắn, không phải kiếp ngắn nhập kiếp ngắn, biến tất cả kiếp nhập trong tướng hành động, tất cả đều biết như thật. Bồ-tát này còn biết trí tuệ nhập của Phật, như nhập trí ngu đạo, hoặc nhập trí vi trần, hoặc nhập trí chánh giác cõi thân, hoặc nhập trí chánh giác thân tâm chúng sinh, hoặc nhập trí chánh giác tùy thuận mọi nơi chốn; hoặc nhập trí thị hiện hạnh tán loạn, hạnh thuận nghịch, hạnh nghĩ bàn, không nghĩ bàn; trí thế gian biết dược; hoặc nhập trí thị hiện về đối tượng nhận biết hạnh Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, Như Lai.

Phật tử! Trí rộng lớn của Phật không lường, trí của Bồ-tát ở địa này cũng không lường được.

Phật tử! Bồ-tát tùy thuận hạnh nghiệp ở địa này rồi, tức đã đạt được giải thoát chẳng thể nghĩ bàn, không chướng ngại, thanh tịnh, bền vững, hiển hiện phát khởi tất cả pháp môn giải thoát. Như Lai tạng, tùy thuận không ngại, chuyển tùy hạnh ba đời, tùy thuận pháp giới tạng, ánh sáng giải thoát rực rỡ, mọi cảnh giới rốt ráo.

Phật tử! Bồ-tát trụ địa Pháp vân, lấy mười pháp giải thoát này làm đầu, để mau đạt vô số trăm ngàn môn giải thoát. Cứ thế cho đến khi đạt được vô lượng vô số trăm ngàn Tam-muội, Đà-la-ni, thần thông biến hóa.

Phật tử! Bồ-tát thành tựu mọi hạnh nghiệp bằng trí tuệ và vô số sức nghĩ khéo léo; th́ chỉ trong khoảnh khắc, Bồ-tát có thể lãnh nạp nhận lấy, thu giữ vô số mây pháp, vô số ánh sáng chiếu rực của pháp mà vô lượng Phật ở mười phương có được.

Phật tử! Ví như mưa lớn, tuôn nước xuống, ngoài biển ra, không nơi nào chứa hết được. Tất cả chúng Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát từ Địa thứ nhất đến Địa thứ chín không thể nào nhận lãnh ǵn giữ được pháp bí mật sáng suốt của vô lượng Phật. Đó là mây (vô số) đại pháp, là ánh sáng rực rỡ của đại pháp ánh sáng. Bồ-tát trụ ở địa Pháp vân này mới làm được những việc ấy.

Phật tử! Ví như biển lớn chứa được nước mưa của một vua rồng lớn. Cho dù hai, ba… cho đến vô số vua rồng lớn, cùng lúc tuôn mưa, biển vẫn chứa hết được. V́ sao? V́ biển rộng mênh mông.

Phật tử! Bồ-tát trụ địa này cũng vậy, chỉ trong khoảnh khắc sẽ nhận lãnh, thâu tóm, giữ ǵn tất cả tạng pháp vân, pháp minh, pháp chiếu của một Đức Phật. Cho dù hai, ba, vô số Đức Phật cùng lúc thuyết giảng vô lượng pháp minh, pháp chiếu, pháp vân, th́ Bồ-tát cũng đều lãnh thọ hết, chỉ trong khoảnh khắc. V́ vậy địa này được gọi là địa Pháp vân.

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt thưa:

–Phật tử! Có thể tính đếm được tạng pháp Đại vân, Quang minh. Chiếu diệu mầu nhiệm mà Bồ-tát địa này có thể nhận lãnh, thâu tóm, giữ ǵn trong sát-na ấy không?

Bồ-tát Kim Cang Tạng đáp:

–Phật tử! Không thể nào dùng toán số mà tính đếm được. Song tôi sẽ v́ hiền giả mà nêu ví dụ về tạng pháp mầu nhiệm Đại vân, Quang minh, chiếu diệu mà Bồ-tát nhận lãnh, thâu giữ ở bao nhiêu Đức Phật.

Phật tử! Giả sử trong cõi chúng sinh của vô số, vô lượng, vô biên cõi Phật nơi mười phương, có một chúng sinh, đã đạt pháp Văn tŕ, Tổng tŕ cao tột, v́ làm thị giả cho Phật, là bậc tài giỏi nhất trong hàng Thanh văn, như Tỳ-kheo Đại Thắng của cõi Phật Kim Cang Liên Hoa Thượng. Một chúng sinh thành tựu diệu lực Đà-la-ni đa văn như vậy, tất cả chúng sinh ở vô số cõi kia, cũng thành tựu giống như thế. Song pháp mà một chúng sinh này lãnh thọ th́ chúng sinh khác không lãnh thọ lại.

Phật tử! Nhân giả nghĩ sao? Diệu lực của phương tiện trí tuệ đó có nhiều không?

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt đáp:

–Rất nhiều, vô lượng.

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói:

–Phật tử! Bây giờ tôi sẽ nói rõ để Nhân giả hiểu. Tạng pháp mầu mà Bồ-tát trụ nơi địa Pháp vân nhận lãnh, thâu giữ ở một Đức Phật, gọi là Ba đời pháp giới tạng đại pháp quang minh pháp chiếu pháp vân; gấp trăm ngàn vạn vô số lần diệu lực của phương tiện trí tuệ nơi một chúng sinh đạt được kia. Cho dù tính đếm, ví dụ như thế nào cũng không thể sánh được một phần. Pháp của một Đức Phật đã thế, pháp của vô số, vô lượng Đức Phật khắp mười phương lại hơn cả vô lượng, vô biên số, nhưng chỉ trong khoảnh khắc, Bồ-tát này đều có thể nhận lãnh, thâu giữ được hết. V́ vậy, địa này được gọi là Pháp vân.

Phật tử! Bồ-tát đã an trụ nơi địa Pháp vân, dùng sức thệ nguyện nổi mây đại Bi, vang sấm pháp lớn, thần thông không sợ, ánh sáng rực rỡ, soi khắp mười phương, dùng phước trí lớn che rợp muôn nơi, hiện đủ loại thân h́nh, qua lại trong mây mù, rền tiếng pháp vĩ đại, đánh bại ma quân. Nháy mắt đã đi khắp mọi nơi, mưa pháp lành lớn, dập tắt ngọn lửa mê mờ của chúng sinh, nhờ đó mọi sở thích, căn lành của họ thêm lớn và thành thục. V́ thế, địa này gọi là Pháp vân.

Lại nữa, Phật tử! Bồ-tát trụ nơi địa Pháp vân, lúc đầu ở cùng trời Đổ sử đa, xuống trần, vào thai mẹ, thọ sinh, xuất gia, thành đạo, nhận lời thỉnh cầu thuyết pháp, rồi nhập Niết-bàn. Tùy sở thích của chúng sinh mà thị hiện làm mọi việc Phật. Ở một thế giới như vậy nơi hai, ba, cho đến vô số cõi nước cũng đều thị hiện những việc như trên. Bồ-tát đạt trí tự tại, sẽ phân biệt được rõ ràng, đủ trí lớn thần thông, tự tại tùy theo ý muốn. Có thể làm cho thế giới nhỏ thành lớn, lớn thành nhỏ, tạp nhiễm thành thanh tịnh, thanh tịnh thành tạp nhiễm. Cứ thế, dùng sức tự tại tùy ý muốn, Bồ-tát thị hiện vô số sự thô, tế, loạn, chánh, cúi, ngước. Lại dùng sức ḿnh đem một thế giới rộng lớn đủ sông núi, đặt vào trong một hạt bụi, mà hạt bụi không to lên, thế giới không nhỏ lại, vẫn đầy đủ mọi tác dụng của nó; hoặc đem hai, ba vô số cõi nước đặt vào trong một hạt bụi nhưng nó vẫn đủ mọi tác dụng như trên; hoặc tùy ý, thị hiện việc trang nghiêm, hai cõi nước trong một cõi nước, cho đến trang nghiêm vô số cõi nước; hoặc thị hiện việc trang nghiêm một cõi nước trong hai cõi nước, thị hiện chúng sinh trong vô số cõi nước vào trong một cõi nước nhưng chúng sinh không bị ngột ngạt; hoặc thị hiện chúng sinh trong một cõi nước vào trong vô số cõi nước nhưng vẫn không ngại nhau. Tùy ý thị hiện trong mỗi chân lông có một cảnh giới Phật trang nghiêm, cho đến thị hiện vô số cõi Phật trang nghiêm. Trong nháy mắt, hóa hiện vô số thân, ở trong vô số cõi nước, mà ở mỗi thân lại thị hiện vô số tay để cung kính cúng dường Đức Phật nơi mười phương. Mỗi tay lại cầm vô số đồ trang sức như hương hoa, hương xoa, hương đốt, hương bột, lọng, cờ phướn, y phục. Mỗi thân thị hiện vô số đầu, mỗi đầu có vô số lưỡi, khen ngợi công đức của chư Phật nơi mười phương; chỉ trong tích tắc, Bồ-tát đi khắp mười phương, thị hiện thành Phật, nhập Niết-bàn… ủng hộ việc trang nghiêm cõi nước. Trong ba đời, thị hiện vô số thân, hoặc từ thân ḿnh thị hiện vô số thân Phật, vô số cõi Phật, vô số sự thành hoại của cõi nước. Từ mỗi chân lông phát ra phong luân nhưng không làm hại chúng sinh, rồi ở trong vô số cõi nước, thị hiện một biển lớn. Trong biển hiện hoa sen lớn, ánh sáng chiếu khắp vô số cõi nước. Trong hoa sen lại có cây Bồ-đề đẹp, đủ mọi việc trang nghiêm, cho đến mọi việc hiện ra đều hợp với tánh Nhất thiết trí. Hoặc từ trong thân phóng ra vô số ánh sáng, nào là ánh sáng của ngọc ma-ni, nào là ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, sao, chớp điện, soi khắp cõi nước mười phương; hoặc dùng miệng thổi hơi, chấn động vô số cõi nước, nhưng không làm cho chúng sinh kinh sợ; hoặc lại thị hiện những tai nạn như từ nơi nước, gió, lửa; hoặc tùy ước muốn thị hiện thân h́nh chúng sinh đều tốt đẹp; hoặc từ thân ḿnh thị hiện thân Phật, từ thân Phật thị hiện thân ḿnh; hoặc từ thân Phật hiện ra cõi nước, từ cõi nước hiện ra thân Phật. Phật tử! Bồ-tát an trụ nơi địa Pháp vân, có thể thị hiện vô số những thần thông biến hóa như vậy.

KINH THẬP ĐỊA

| ML | Q 01 | Q 02 | Q 03 | Q 04 | Q 05 | Q 06 | Q 07 | Q 08 | Q 09 |

KINH THẬP ĐỊA

Hán dịch: Đời Đại Đường, Tam tạng Thi-la-đạt-ma.

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 9

Phẩm 10: ĐỊA PHÁP VÂN (Phần 2)

Lúc ấy, trong hội chúng, các Bồ-tát, Tám chúng Trời, Rồng, Dược-xoa, Kiện-đạt-phược, A-tố-lạc, Yết-lộ-trà, Khẩn-nại-lạc-mâuhô lạc-già, các vị Đế Thích, Phạm thiên, Hộ thế Thiên vương, Ma-hêthủ-la, chư Thiên cõi Tịnh cư, đều nghĩ: Bồ-tát mà đã có cảnh giới thần thông, diệu lực trí tuệ như vậy th́ các Đức Phật ra sao? Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt, biết tâm niệm của đại chúng, nên thưa với Bồ-tát Kim Cang Tạng:

–Phật tử! Đại chúng hôm nay nghe nói về thần thông, sức trí tuệ của Bồ-tát địa Pháp vân, đều nghi ngờ; xin Hiền giả dứt trừ nghi, thị hiện một việc nhỏ về thần thông biến hóa của Bồ-tát.

Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng liền nhập Tam-muội thị hiện nhất thiết Phật sát thể tánh Bồ-tát; nhập xong, tất cả chúng trời, rồng, Dạ-xoa… cho đến chư Thiên cõi Tịnh cư đều thấy thân ḿnh ở trong thân Bồ-tát Kim Cang Tạng, thấy cõi Phật có đầy đủ hành tướng trang nghiêm tốt đẹp, cho dù họ trải qua vô số kiếp, cũng không thể nói hết được; lại thấy cây Bồ-đề to bằng trăm vạn cõi nước, cành lá cao rộng khôn lường, che rợp khắp nơi nơi; hợp với cây có tòa Sư tử, ở trên thấy có Phật hiệu là Nhất Thiết Thần Thông Tuệ Vương Như Lai an tọa nơi cội cây là Bồ-đề đạo tràng, ở đây thấy đầy đủ mọi việc trang nghiêm, cho dù trải qua vô số kiếp, cũng không thể nói hết được. Thị hiện xong, Bồ-tát Kim Cang Tạng thâu thần, đưa đại chúng và hàng trời, rồng… trở về như cũ. Tất cả đều ngạc nhiên cho là kỳ lạ chưa từng có, nên im lặng chiêm ngưỡng Bồ-tát Kim Cang Tạng.

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt thưa với Bồ-tát Kim Cang Tạng:

–Phật tử! Thật là kỳ lạ và ít có, định này thật đầy đủ oai lực trang nghiêm như vậy. Phật tử! Vậy tên của Định này là ǵ?

Bồ-tát Kim Cang Tạng đáp:

–Định này là tên Thị hiện thể tánh của tất cả cõi Phật.

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt hỏi:

–Cảnh giới hoạt động của định này như thế nào?

Bồ-tát Kim Cang Tạng đáp:

–Phật tử! Bồ-tát tu tập định này có thể thị hiện mọi việc như vừa thấy ở trên, có vô số cõi Phật trong thân ḿnh. Phật tử! Bồ-tát trụ nơi địa Pháp vân này, đạt trăm ngàn Tam-muội. V́ thế tất cả các Bồ-tát, từ Địa thứ nhất đến địa Thiện tuệ không thể suy xét biết được thân, hành động của thân; lời nói hành động của lời nói; ý, hành động của ý. Bồ-tát đạt đầy đủ thần thông tự tại, quán sát ba đời, tùy cảnh giới trí tuệ mà an trụ nơi Tam-muội, vui vẻ qua lại nơi tất cả pháp môn giải thoát, không ai có thể lường biết được việc làm của Bồ-tát này, cho là việc cất chân lên, đặt chân xuống.

Phật tử! địa Pháp vân của Bồ-tát không lường như vậy, nên chỉ có thể nói sơ lược, nếu nói rộng th́ dù trải qua vô số kiếp cũng không thể nói hết được.

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt hỏi:

–Cảnh giới chánh hạnh, sức gia tŕ của Bồ-tát là vô lượng như vậy, th́ cảnh giới nơi đối tượng hành hóa chứng nhập của Phật ra sao?

Bồ-tát Kim Cang Tạng đáp:

–Phật tử! Ví như có người, lấy một viên sỏi vụn hoặc hai, ba viên lớn bằng hạt táo mà nói: Đất trong vô số cõi nước kia là nhiều hay số sỏi đất ở đây là nhiều? Tôi xét câu hỏi của Nhân giả cũng vậy. Trí tuệ của Phật là không lường, tánh pháp th́ không thể so sánh được, sao Nhân giả lại so sánh trí tuệ của Bồ-tát với trí tuệ của Phật.

Phật tử! Sỏi đá lấy trong bốn cõi kia thật là ít ỏi. Số còn lại mới là không thể lường. Phật tử! Trí của Bồ-tát địa Pháp vân cũng thế. Giả sử chúng ta diễn nói trải qua vô số kiếp, cũng chỉ có thể nói được một phần nhỏ về Bồ-tát này, huống ǵ là địa Như Lai.

Phật tử! Nay tôi sẽ nói để ông rõ, Đức Phật đang ở đây sẽ chứng minh cho tôi. Phật tử! Giả sử trong mười phương, mỗi phương đều có vô số cõi Phật, trong mỗi cõi, có vô số người đạt địa Pháp vân; với trí tuệ hạnh nghiệp của họ th́ dù trải qua vô số kiếp để nói, cũng không thể sánh được một phần trong trăm ngàn vô số phần của trí tuệ hạnh nghiệp của Phật. Cho dù tính đếm, ví dụ thế nào cũng không thể được.

Phật tử! Bồ-tát tùy thuận trí hạnh như vậy, không khác với hạnh nghiệp của Phật, không bỏ sức Tam-muội của Bồ-tát, lại được gặp Phật, cúng dường phụng sự mỗi kiếp, đều dùng các vật trang sức quý lạ để cúng dường chư Phật, được chư Phật hộ tŕ nên ngày càng tiến triển. Giải thích rõ ràng những câu hỏi về pháp giới, trải qua vô số trăm ngàn kiếp cũng không ai khuất phục được.

Phật tử! Ví như thợ vàng, luyện vàng làm đồ trang sức, xen lẫn ngọc ma-ni, trang sức ở đầu, cổ của vua trời Tự tại, th́ các đồ trang sức của cõi trời, người không sao sánh được.

Phật tử! Cũng thế, trí hạnh của Bồ-tát trụ nơi địa Pháp vân không ai bằng được. Trí hạnh có được của tất cả Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát từ Địa thứ nhất đến Địa thứ chín, cũng không sao sánh được. Ánh sáng trí tuệ của Bồ-tát có thể giúp cho chúng sinh nhập trí Nhất thiết trí mà những trí sáng khác không sao sánh bằng.

Phật tử! Ví như ánh sáng của vua trời Đại tự tại, soi khắp chúng sinh ở mọi nơi, khiến cho ai nấy đều vui vẻ. Phật tử! Cũng thế, ánh sáng trí tuệ của Bồ-tát trụ ở địa này hơn hẳn ánh sáng của Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát từ Địa thứ nhất đến Địa thứ chín, và còn làm cho chúng sinh an trụ trong pháp tánh của trí Nhất thiết trí.

Phật tử! Bồ-tát đã tùy thuận trí tuệ mà hành động; chư Phật còn nói về trí thông ba đời; trí biết hết sự sai khác của pháp giới; trí hiện hữu đầy khắp tất cả cõi nước; trí soi sáng che chở tất cả cõi nước; trí biết khắp tất cả loài chúng sinh, về cảnh giới, về pháp. Tóm lại, chư Phật là nói cả về trí Nhất thiết trí. Trong mười Ba-la-mật, Bồ-tát tu nhiều về Trí ba-la-mật, các Ba-la-mật khác th́ tùy phần tùy sức mà tu tập.

Phật tử! Đó là lược nói về địa Pháp vân thứ mười. Nếu nói rộng, dù trải qua vô số kiếp cũng không sao nói hết. Bồ-tát trụ địa này, thọ sinh thường làm vua cõi rời Đại tự tại. Tự tại trong mọi pháp, để chỉ dạy hạnh Ba-la-mật cho chúng sinh, Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát. Trả lời rõ ràng về pháp giới sai khác mà không ai khuất phục được; làm mọi việc như Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự đều không rời suy nghĩ về Phật, về Pháp, về Tăng, về Bồ-tát, về hạnh Bồ-tát, về bờ giải thoát, về các trụ địa, về pháp không sợ, về Phật lực, về pháp Bất cộng của Phật, cho đến không rời suy nghĩ về hành tướng thắng diệu tương ưng với trí Nhất thiết trí. Lại nguyện: Ở trong chúng sinh, ta luôn là người đứng đầu, thù thắng vi diệu vô thượng, là người dẫn đường, là tướng soái, cho đến nguyện làm chỗ nương dựa để đạt trí Nhất thiết trí. Nếu siêng tu tập trong khoảnh khắc sẽ đạt được trăm vạn a-tăng-kỳ-da không thể nói Tam-muội của Bồ-tát, sẽ gặp trăm vạn a-tăng-kỳ-da không thể nói Đức Phật, sẽ được Phật gia hộ khiến thông hiểu tất cả; sẽ làm chuyển động trăm vạn a-tăng-kỳ-da không thể nói thế giới; sẽ đi khắp trăm vạn a-tăng-kỳ-da không thể nói cõi nước; sẽ soi chiếu trăm vạn a-tăng-kỳ-da không thể nói cảnh giới; thành thục đầy đủ cho trăm vạn a-tăng-kỳ-da không thể nói loại chúng sinh; sẽ sống trăm vạn a-tăng-kỳ-da không thể nói kiếp; trước sau đều vào trong trăm vạn a-tăng-kỳ-da không thể nói kiếp; suy xét rõ trăm vạn a-tăng-kỳ-da không thể nói pháp; thị hiện trăm vạn a-tăng-kỳ-da không thể nói thân; mỗi thân hiện trăm vạn a-tăng-kỳ-da không thể nói Bồ-tát bạn. Nhờ nguyện lực thù thắng, nên mọi việc đi lại, thần thông, thân tướng, ánh sáng, mắt, cảnh giới, âm thanh, hành động, trang nghiêm, sự hiểu biết, ǵn giữ, tạo tác dù trải qua trăm vạn a-tăng-kỳ-da không thể nói câu-chi kiếp, cũng không thể nói hết.

Phật tử! Bồ-tát tất phải tùy thuận đủ mười trí địa, th́ Nhất thiết chủng trí, trí Nhất thiết trí sẽ dần dần hiện khởi. Phật tử! Ví như dòng nước từ ao Vô nhiệt chảy ra bốn con sông, thấm ướt cả châu Thiệm bộ nhưng không bao giờ cạn mà lại thêm nhiều, cho đến chảy đầy ra biển cả.

Phật tử! Cũng thế, từ tâm Bồ-đề sẽ phát khởi căn lành; từ nguyện lớn thể hiện bằng bốn nhiếp pháp; tạo đầy đủ lợi ích cho tất cả chúng sinh, nhưng không bao giờ hết mà còn tăng thêm, cho đến khi làm cho chúng sinh hội nhập vào biển Nhất thiết trí.

Phật tử! Đó là nhờ vào trí Phật hiện mười Địa Bồ-tát. Phật tử! Ví như nhờ vào mặt đất mà có mười ngọn núi lớn hiện ra. Mười ngọn núi ấy là ǵ? Đó là:

1.     Núi Tuyết.

2.     Núi Hương túy.

3.     Núi Liệt cùng. 4. Núi Thần tiên.

5.     Núi Tŕ song.

6.     Núi Mã nhĩ.

7.     Núi Tŕ ngư.

8.     Núi Luân vi.

9.     Núi Tràng tướng.

10.    Núi Diệu cao.

Phật tử! Ví như núi Tuyết, có nhiều cỏ thuốc, hái không bao giờ hết. Cũng thế, Bồ-tát trụ nơi địa Cực hỷ là nơi nương tựa cho thơ luận, văn tụng, chú thuật phát triển, mà trong thế gian những điều này không bao giờ nói hết.

Phật tử! Ví như núi Hương túy, có đủ loại hương phát sinh không bao giờ hết. Cũng thế, Bồ-tát trụ nơi địa Ly cấu, là nơi nương tựa cho hương tịnh giới luật nghi mà điều này th́ Bồ-tát hành không bao giờ hết.

Phật tử! Ví như núi Liệt cùng, toàn bằng vật báu không bao giờ dùng hết. Cũng thế, Bồ-tát trụ nơi địa Phát quang là nơi nương tựa cho thiền định, thần thông, giải thoát, Tam-muội, mà những việc này trong thế gian hỏi đáp không bao giờ hết.

Phật tử! Ví như núi Thần tiên, toàn bằng vật báu, là chỗ ở của các vị tiên đạt năm thần thông, không bao giờ vắng. Cũng thế, Bồ-tát trụ nơi địa Diệm tuệ là nơi nương tựa cho trí tuệ thù thắng, chánh đạo hay tà đạo, mà những việc này hỏi đáp bao giờ cho hết.

Phật tử! Ví như núi Tŕ song, toàn bằng vật báu, là nơi ở của thần Dược-xoa, không bao giờ vắng. Bồ-tát trụ nơi địa Nan thắng là nơi phát sinh oai lực thần thông biến hóa, mà những việc này hỏi đáp bao giờ cho hết.

Phật tử! Ví như núi Mã nhĩ, toàn bằng vật báu, là nơi có đủ các loại trái hái hoài không hết. Cũng thế, Bồ-tát trụ nơi địa Hiện tiền là nơi nương tựa để thâm nhập diễn giảng pháp duyên khởi, chứng được quả vị Thanh văn hỏi đáp bao giờ cho hết.

Phật tử! Ví như núi Tŕ ngư toàn bằng vật báu, là nơi ở của thần rồng sức lớn, không bao giờ hết. Cũng thế, Bồ-tát trụ nơi địa Viễn hành là nơi nương tựa để diễn giảng trí tuệ phương tiện, chứng được quả vị Độc giác, việc hỏi đáp bao giờ cho hết.

Phật tử! Ví như núi Thiết luân vi, toàn bằng vật báu, là nơi ở của chúng Tự tại, không bao giờ vắng. Cũng vậy, Bồ-tát trụ nơi địa Bất động là nơi để tất cả Bồ-tát học hỏi, mà trong thế gian việc phân tích giải đáp là không cùng tận.

Phật tử! Ví như núi Tràng tướng, toàn bằng vật báu, là nơi ở của chúng A-tu-la oai đức, không bao giờ vắng họ. Cũng thế, Bồ-tát trụ nơi địa Thiện tuệ, là nơi để chúng sinh lưu chuyển, dừng nghỉ, nương tựa hành động; mà việc này thu khắp thế gian an trụ học hỏi không bao giờ hết.

Phật tử! Ví như núi Diệu cao, toàn bằng vật báu, là nơi ở của chư Thiên uy đức, không bao giờ vắng. Cũng thế, Bồ-tát trụ nơi địa Pháp vân, là nơi phát sinh uy Lực, pháp Vô úy, Bất cộng của Như Lai; chỉ dạy mọi việc chánh pháp không bao giờ hết.

Phật tử! Mười núi báu lớn này đều từ biển cả hiển hiện. Cũng thế, mười Địa Bồ-tát đều từ nơi trí Nhất thiết trí, cũng là sự hiển hiện của trí Nhất thiết trí.

Phật tử! Ví như biển lớn có mười hành tướng, nên không bị chiếm đoạt. Mười hành tướng đó là ǵ?

1.     Từ cạn đến sâu.

2.     Không chứa xác chết.

3.     Nước từ các sông chảy vào đều mất tên cũ.

4.     Chỉ có một vị mặn.

5.     Nhiều vật báu.

6.     Sâu xa khó đến đáy.

7.     Rộng mênh mông.

8.     Nơi ở của những loài có thân h́nh to lớn.

9.     Nước dâng nhưng không tràn.

10.    Chứa tất cả nước mưa.

Phật tử! Cũng thế, Bồ-tát có mười hành tướng, ở trong hạnh lớn, không bị chiếm đoạt. Mười hạnh đó là ǵ?

1.     Địa Cực hỷ, phát nguyện từ cạn đến sâu.

2.     Địa Ly cấu, không dung nạp xác chết của kẻ phá giới.

3.     Địa Phát quang, chúng sinh vào đó không còn tên tuổi địa vị cũ.

4.     Địa Diệm tuệ, tin Phật pháp không hoại, chỉ có một vị.

5.     Địa Nan thắng, phát khởi vô lượng phương tiện thần thông biến hóa, đem lại nhiều trâu báu cho thế gian.

6.     Địa Hiện tiền, quán sát lý duyên khởi sâu xa.

7.     Địa Viễn hành, dùng vô số trí tuệ phân biệt khéo léo.

8.     Địa Bất động, thị hiện phát khởi những việc trang nghiêm.

9.     Địa Thiện tuệ, thông đạt đúng lý pháp giải thoát sâu xa và mọi việc thế gian không bao giờ vượt giới hạn.

10.    Địa Pháp vân, lãnh thọ, tất cả mưa pháp sáng lớn của Phật không bao giờ biết đủ.

Phật tử! Ví như ngọc ma-ni quý hơn mười thứ quý báu khác, người thợ giỏi sẽ mài dũa thật tròn khéo, không tỳ vết, trong suốt, kết thành dây đeo, đính trên đỉnh cờ cao, phát ra đủ loại ánh sáng đẹp, và có thể làm rơi xuống các vật báu khác, chúng sinh theo sở thích muốn giữ lấy để có thể thỏa nguyện.

Phật tử! Tâm Bồ-đề của Bồ-tát cũng thế, chủng tánh cao vượt hơn mười hàng Thánh, phát sinh nhiều công đức, khéo léo điều phục kẻ hủy giới, đầy đủ thiền định, Tam-muội; đầy đủ hành tướng, đạo chi thanh tịnh, quán triệt thần thông phương tiện, quán pháp duyên sinh, xâu dây phương tiện tuệ, đặt trên ngọn cờ tự tại, phóng ra ánh sáng trí tuệ, quán sát hành nghiệp của chúng sinh, được tưới nước trí Chánh đẳng giác, nên được gọi là bậc Nhất thiết trí, có thể làm mọi Phật trong thế gian. Phật tử nên biết! Vị này có thể tích tập đầy đủ hạnh Bồ-tát, pháp phần vi diệu, Nhất thiết chủng trí, trí Nhất thiết trí, chúng sinh nào chưa có căn lành th́ không sao nghe được.

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt thưa:

–Nếu có chúng sinh nghe được pháp phần vi diệu, Nhất thiết chủng trí, trí Nhất thiết trí th́ đạt bao nhiêu công đức?

Bồ-tát Kim Cang Tạng đáp:

–Phật tử! Phước đức uy lực tự tại được phát khởi từ trí Nhất thiết trí của Bồ-tát; có được bao nhiêu, th́ phước đức nơi người nghe pháp vi diệu này cũng đạt bấy nhiêu. V́ sao? Phật tử nên biết; pháp phần vi diệu nơi trí Nhất thiết trí này, không phải là Bồ-tát th́ không thể nghe được, không thể tin hiểu, th́ làm sao tu tập, siêng năng gia hành?

Phật tử! V́ thế nên biết, nếu có chúng sinh nào chuyên tâm nghe pháp môn này, nghe rồi tin hiểu, hiểu rồi thọ tŕ, tu hành liên tục th́ chúng sinh ấy tùy thuận pháp môn Nhất thiết trí.

Lúc ấy, do oai lực của Phật nên vô số cõi nước ở mười phương đều có mười tám tướng biến động theo sáu cách. Đó là:

1.     Động, biến động cùng khắp.

2.     Nổi, nổi lên, nổi khắp mọi nơi.

3.     Vọt, vọt lên, vọt lên cùng khắp.

4.     Rung, rung lên, rung cùng khắp.

5.     Gầm, gầm lên, gầm vang cùng khắp.

6.     Vỗ, vỗ vang, vỗ vang cùng khắp.

Lại do oai lực của Phật nên có nhiều loại mưa pháp hiện ra, như mưa hoa trời, vòng hoa, y phục, báu vật, đồ trang sức, lọng báu, cờ phướn nhạc hay, rền vang tiếng ca ngợi đấng Nhất thiết trí của chư Thiên. Đó là ở thế giới của bốn đại châu, còn như ở cung trời Tha hóa tự tại, đang diễn nói pháp này, nhờ Phật lực, ngoài vô số cõi nước ở mười phương, còn có vô số Bồ-tát ở khắp nơi cũng đều đến nơi đây. Đến nơi rồi, ai nấy đều khen: Hay thay! Hay thay! Phật tử! Đại sĩ đã khéo chỉ rõ pháp tánh của Bồ-tát.

Phật tử! Chúng tôi đều cùng một hiệu là Kim Cang Tạng; cõi nước của chúng tôi tên Kim Cang Thắng; các Đức Phật ở đó đều có tên Kim Cang Tạng. Chúng tôi từ những nơi đó đến đây, nhờ thần lực Phật nên nơi tất cả cõi ấy đều rền vang tiếng pháp này, văn tự âm nghĩa đều không khác ở đây. Chúng tôi nương vào thần lực Phật đến đây, để chứng minh cho Đại sĩ. Tất cả các cõi nước nơi bốn đại châu trong khắp cả mười phương, đều đến điện ma-ni bảo tạng thuộc cung trời Tha hóa tự tại, đều là để chứng minh.

Lúc ấy, Bồ-tát Kim Cang Tạng quán sát chúng hội trong khắp mười phương pháp giới; v́ muốn khen ngợi người phát tâm Bồ-đề; muốn thị hiện cảnh giới Bồ-tát; muốn làm thanh tịnh nẻo hành tŕ hạnh lực của Bồ-tát; muốn giảng nói việc ǵn giữ đạo Nhất thiết chủng; muốn thị hiện việc trang nghiêm bằng trí không thể nghĩ bàn; muốn hiển hiện công đức thù thắng của Bồ-tát; muốn làm rõ thật nghĩa của các địa nên nương vào thần lực Phật, Bồ-tát Kim Cang Tạng nói kệ rằng:

Tâm tánh vắng lặng luôn điều thuận

B́nh đẳng, không ngại, như hư không

Vứt bỏ nhơ uế, trụ trong đạo

Các ông nên nghe thắng hạnh này.

Trăm ngàn ức kiếp tu pháp lành

Cúng dường vô số, vô lượng Phật

Thanh văn, Độc giác cũng như thế

Lợi ích chúng sinh phát tâm lớn

Siêng tu tịnh giới luôn hòa nhẫn

Phước trí, hổ thẹn, thường đầy đủ

Chí cầu trí Phật tu tuệ rộng

Phát tâm rộng lớn, đạt mười lực

Cúng dường chư Phật trong ba đời

Trang nghiêm tất cả các cõi nước

Biết rõ các pháp đều b́nh đẳng

Lợi ích chúng sinh phát tâm lớn

Sơ địa phát khởi tâm Bồ-đề

Dứt hết ác nghiệp luôn hoan hỷ

Nguyện lực rộng lớn tu pháp thiện

V́ lòng từ bi nhập nhị địa

Đầy đủ giới hạnh, nghĩ chúng sinh

Dứt trừ nhơ uế tâm sáng suốt

Quán lửa ba độc thiêu thế gian

Hiểu rộng biết lớn nhập ba địa

Tất cả ba cõi đều vô thường

Như người trúng tên không ai cứu

Chán bỏ hữu vi, cầu Phật pháp

Trí lớn hội nhập địa Diệm tuệ

Đầy đủ niệm tuệ đạt đạo trí

Cúng dường trăm ngàn vô số Phật

Luôn quán công đức bậc Tối thắng

Sẽ được an trụ địa Nan thắng

Trí là phương tiện quán sát tốt

Thị hiện mọi cách cứu chúng sinh

Cúng dường chí tôn đủ mười lực

Sẽ được an trụ địa Hiện tiền

Biết việc khó biết của thế gian

Không chấp ngã sở, ĺa không, có

Pháp tánh vốn lặng, theo duyên chuyển

Nhờ trí vi diệu đạt bảy địa

Trí tuệ phương tiện tâm rộng lớn

Khó làm, khó phục, khó hiểu biết

Tuy chứng tịch diệt, siêng tu tập

Đạt địa Bất động như hư không

Nhờ Phật khuyên dạy bỏ tịch diệt

Tu tập tất cả nghiệp trí tuệ

Đủ mười tự tại xét thế gian

Nhờ vậy được lên địa Thiện tuệ

Dùng trí vi diệu quán chúng sinh

Tâm, hoặc, nghiệp giống như rừng rậm

V́ độ chúng sinh hướng chánh đạo

Diễn thuyết tạng Thắng nghĩa của Phật

Tuần tự tu hành đủ pháp thiện

Đạt Địa thứ chín, đủ phước tuệ

Luôn cầu pháp mầu của chư Phật

Được nước trí Phật tưới đỉnh đầu

Đạt được vô số pháp Tam-muội

Biết rõ tất cả các hạnh nghiệp

Về sau chứng được vị quán đỉnh

Ở cõi mênh mông không lay động

Sau khi đạt được quả vị này

Hoa sen báu lớn tự nhiên hiện

Thân ngồi pháp tòa rất tương xứng

Các Bồ-tát bạn luôn vây quanh

Phóng trăm ngàn ức hào quang lớn

Dứt trừ khổ não của chúng sinh

Từ trên đỉnh đầu phóng ánh sáng

Hòa nhập cõi Phật khắp mười phương

Trụ trong hư không thành lưới sáng

Cúng dường Phật xong, nhập nơi chân

Lúc ấy, chư Phật sẽ biết được

Có Phật tử đạt vị quán đỉnh

Bồ-tát mười phương đều đến đó

Chiêm ngưỡng Bồ-tát, đạt các định

Giữa mày chư Phật phóng ánh sáng

Chiếu soi tất cả, nhập đỉnh đầu

Mười phương thề giới đều chấn động

Tiêu trừ tất cả khổ các cõi

Lúc này chư Phật tưới đỉnh đầu

Như Chuyển luân vương tưới thái tử

Ai được chư Phật tưới đỉnh đầu

Là đã chứng đạt địa Pháp vân

Trí tuệ tăng trưởng không hạn lượng

Khai ngộ tất cả các thế gian

Cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc

Pháp giới, thế giới, cõi hữu t́nh

Hữu vi, vô vi, không, Niết-bàn

Thông đạt hết thảy các pháp ấy

Oai lực biến hóa thật lớn lao

Trí lực vi tế của chư Phật

Thần chú, kiếp số, cõi chúng sinh

Tất cả đều được quán như thật

Thọ sinh, xuất gia, thành Chánh giác

Diễn thuyết chánh pháp, nhập Niết-bàn

Cho đến pháp tịch diệt, giải thoát

Hiểu rõ mọi Phật pháp thuyết giảng

Bồ-tát an trụ địa Pháp vân

Đầy đủ niệm lực giữ Phật pháp

Như biển lớn chứa nước rồng mưa

Địa này thọ pháp cũng như vậy

Giả sử chúng sinh vô số cõi

Ở khắp mọi nơi trong mười phương

Đều được nghe thọ pháp Tam-muội

Mỗi người thọ từng pháp khác nhau

Bồ-tát an trụ địa Pháp vân

Lãnh thọ pháp nơi một Đức Phật

Là tạng pháp lớn của ba đời

Hơn hẳn số kia không lường được

Nhờ thần lực xưa cùng trí nguyện

Tích tắc đi lại khắp mười phương

Rưới pháp cam lồ diệt phiền não

V́ vậy địa này tên Pháp vân

Thần thông hiển hiện khắp mười phương

Vượt hết cảnh giới của trời, người

Hơn hẳn số kia không lường được

Dùng trí thế gian không thể biết

Thân nghiệp… Bồ-tát ở mười Địa

Ngay cả vô số trí công đức

Ngay cả chứng pháp ngôi Thái tử

Bồ-tát chín địa không thể lường

Huống ǵ tất cả các chúng sinh

Cùng với Thanh văn và Độc giác

Bồ-tát địa này đi khắp nơi

Cúng dường khắp mười phương chư Phật

Cúng dường Thánh chúng đang hiện tiền

Đầy đủ trang nghiêm công đức Phật

Chư Phật v́ người trụ địa này

Giảng pháp ba đời trí không ngại

Soi khắp thế giới các chúng sinh

Cho đến nêu bày Nhất thiết trí

Bồ-tát địa này có trí sáng

Chỉ đường chứng pháp cho chúng sinh

Như ánh sáng vua trời Tự tại

Trừ tối, còn khiến chúng sinh vui

Ánh sáng trí này trừ tối tăm

Khiến thế giới vui cũng như vậy

Trụ địa này làm vua ba cõi

Giỏi diễn nói pháp của ba thừa

Nháy mắt chứng trăm ức Tam-muội

Vô số không thể nêu bày hết.

Các Tam-muội nhiều như vi trần

Thấy Phật… các việc khác cũng thế

Tôi đã lược nói trụ địa này

Nếu nói đầy đủ không thể biết

Mười trụ địa này từ trí Phật

Như mười núi lớn trên mặt đất

Hành nghiệp sơ địa không cùng tận

Như các cỏ thuốc trong núi Tuyết

Giới hương hai địa như núi Hương

Thứ ba vật báu như Liệt cùng

Đạo mầu Diệm tuệ không cùng tận

Như các thần tiên ở núi Tiên

Thần thông năm địa như Tŕ song

Sáu như Mã nhĩ đủ các quả

Trí tuệ bảy địa như Tŕ ngư

Thứ tám tự tại tựa Luân vi

Chín vô ngại giải như Tràng tướng

Mười như Diệu cao đủ các đức.

Sơ địa nguyện: đầu, hai: tịnh giới

Thứ ba Thiền định các công đức

Thứ tư chuyên tu những pháp giác

Thứ năm tuệ phương tiện vi diệu

Thứ sáu quán pháp duyên sinh sâu

Bảy xét tuệ lớn, tám trang nghiêm

Thứ chín phân biệt nghĩa vi diệu

Vượt hơn tất cả đạo thế gian

Mười Địa thọ tŕ các Phật pháp

Biển lớn hạnh nguyện không cùng tận

Thứ nhất vượt đời khởi mười hạnh

Thứ hai tịnh giới, ba tu thiền

Thứ tư tịnh hạnh, năm thành tựu

Thứ sáu duyên sinh, bảy xuyên suốt

Thứ tám đặt tại Kim cang tạng

Thứ chín quán sát các phiền não

Thứ mười Pháp vương tưới đỉnh đầu

Công đức báu dần dần thanh tịnh

Mười Lực cõi nước nghiền thành bụi

Trong một niệm biết được số lượng

Hư không li ti có thể lượng

Ức kiếp không sao nói hết được.

Bấy giờ, nhờ thần lực của Phật, Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng nói xong kinh này; các Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Chánh đẳng Chánh giác đều khen ngợi ấn chứng; các Bồ-tát trong đại chúng và tám chúng hộ pháp trời, rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tố-lạc,… Đế Thích, Phạm thiên, Hộ thế Thiên vương, Ma-hê-thủ-la, chúng trời Tịnh cư đều hết sức vui mừng, tín thọ phụng hành.

Lúc này, Đức Phật thành đạo chưa bao lâu, vào ngày thứ mười bốn, ở điện ma-ni Bảo Tạng thuộc cung trời Tha hóa tự tại đã tùy hỷ với những ǵ mà Bồ-tát Kim Cang Tạng đã giảng thuyết.

KINH THẬP ĐỊA

 

MỤC-LỤC

-

TRANG CHỦ*--KINH ĐIỂN*--ĐẠI TẠNG KINH*--THẦN CHÚ*--HÌNH ẢNH*--中文*--ENGLISH

Uploaded on 2020-11-18

 

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0