佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

 TRANG CHỦ*--KINH ĐIỂN*--ĐẠI TẠNG KINH*--THẦN CHÚ*--HÌNH ẢNH*--中文*--ENGLISH

VT0286

KINH THẬP TRỤ

Hán dịch: Đời Hậu Tần, Tam tạng Cưu-ma-la-thập, người nước Quy Tư.

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

MỤC LỤC

QUYỂN 1

Phẩm 1: ĐỊA HOAN HỶ

Phẩm 2: ĐỊA LY CẤU

QUYỂN 2

Phẩm 3: ĐỊA MINH

Phẩm 4: ĐỊA DIỆM

Phẩm 5: ĐỊA NAN THẮNG

QUYỂN 3

Phẩm 6: ĐỊA HIỆN TIỀN

Phẩm 7: ĐỊA VIỄN HÀNH

Phẩm 8: ĐỊA BẤT ĐỘNG

QUYỂN 4

Phẩm 9: ĐỊA DIỆU THIỆN

Phẩm 10: ĐẠI PHÁP VÂN


Quyển 1   Quyển 2   Quyển 3   Quyển 4

KINH THẬP TRỤ

Hán dịch: Đời Hậu Tần, Tam tạng Cưu-ma-la-thập, người nước Quy Tư.

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 1

Phẩm 1: ĐỊA HOAN HỶ

Tôi nghe như vầy:

Một thuở nọ, Đức Phật ở tại bảo điện Ma-ni, trong cung vua trời Tha hóa tự tại, cùng với chúng đại Bồ-tát từ những cõi khác đến đây. Những Bồ-tát này đều là những người đối với quả Vô thượng Bồ-đề, không còn thoái chuyển, đầy đủ trí tuệ, hạnh nghiệp của Bồ-tát, đều đạt tự tại, nhập vào chỗ trí tuệ Như Lai, khéo giáo hóa tất cả thế gian, tùy thời thị hiện những pháp thần thông, ở mỗi niệm đều thành tựu đầy đủ biện tài và sở nguyện của tất cả Bồ-tát. Trải qua nhiều kiếp ở đời ở khắp mọi nơi, luôn tu tập hạnh Bồ-tát, đầy đủ phước đức và trí tuệ không cùng tận của Bồ-tát, làm lợi ích cho tất cả, được đến bờ giải thoát với đủ trí tuệ phương tiện của Bồ-tát; thị hiện việc sinh tử, Niết-bàn cho chúng sinh, không hề cắt đứt các hạnh của Bồ-tát, đạt tất cả môn Thiền định giải thoát Tam-muội thần thông tuệ sáng của Bồ-tát; làm mọi việc; thị hiện thần túc vô tác của Bồ-tát; trong khoảnh khắc đến được đại hội của chư Phật trong mười phương, học hỏi phát tâm, thọ tŕ xe chánh pháp luôn cúng dường chư Phật bằng tâm rôïng lớn; luôn tu tập các hạnh nghiệp rộng lớn của Bồ-tát, thị hiện thân ḿnh ở vô số thế giới, âm thanh vang xa không chỗ nào mà không có; tâm không đạt, thấy rõ công đức của Bồ-tát trong ba đời, tu tập đầy đủ. Công đức của các Đại Bồ-tát vô lượng vô biên như vậy dù trải qua vô số kiếp cũng không thể nói hết. Đó là Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng, Bồ-tát Bảo Tạng, Bồ-tát Liên Hoa Tạng, Bồ-tát Đức Tạng, Bồ-tát Liên Hoa Đức Tạng, Bồ-tát Nguyệt Tạng, Bồ-tát Tịnh Nguyệt Tạng, Bồ-tát Chiếu Nhất Thiết Thế Gian Trang Nghiêm Tạng, Bồ-tát Trí Tuệ Chiếu Minh Tạng, Bồ-tát Diệu Đức Tạng, Bồ-tát Chiên Đàn Đức Tạng, Bồ-tát Hoa Đức Tạng, Bồ-tát Ưu-bát-la Hoa Đức Tạng, Bồ-tát Thiên Đức Tạng, Bồ-tát Phước Đức Tạng, Bồ-tát Vô Ngại Thanh Tịnh Trí Đức Tạng, Bồ-tát Công Đức Tạng, Bồ-tát Na-la-diên Đức Tạng, Bồ-tát Vô Cấu Tạng, Bồ-tát Ly Cấu Tạng, Bồ-tát Chủng Chủng Nhạo Thiết Trang Nghiêm Tạng, Bồ-tát Đại Quang Võng Tạng, Bồ-tát Tịnh Minh Oai Đức Vương Tạng, Bồ-tát Đại Kim Sơn Quang Minh Oai Đức Vương Tạng, Bồ-tát Nhất Thiết Tướng Trang Nghiêm Tịnh Đức Tạng, Bồ-tát Kim Cang Diệm Đức Tướng Trang Nghiêm Tạng, Bồ-tát Diệm Xí Tạng, Bồ-tát Túc Vương Quang Chiếu Tạng, Bồ-tát Hư Không Vô Ngại Diệu Âm Tạng, Bồ-tát Đà-la-ni Công Đức Tŕ Nhất Thiết Thế Gian Nguyện Tạng Hải Trang Nghiêm Tạng, Bồ-tát Tu-di Đức Tạng, Bồ-tát Tịnh Nhất Thiết Công Đức Tạng, Bồ-tát Như Lai Tạng, Như Lai Phật Đức Tạng, Như Lai Giải Thoát Nguyệt. Các Bồ-tát như thế nhiều đến vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn, không thể xưng kể. Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng là người đứng đầu.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng nương oai thần của Phật, nhập Tam-muội Đại trí tuệ quang minh của Bồ-tát. Lúc ấy, ở một phương kia, cách vô số thế giới như cát bụi trong mười phương ức cõi Phật, lại có Đức Như Lai tên Kim Cang Tạng. Như thế-lần lượt, chư Phật nhiều như số vi trần trong mười ức cõi Phật đều hiện thân hiệu là Kim Cang Tạng. Các cõi nước trong mười phương cũng đều như vậy.

Các Đức Phật cùng cất lời khen ngợi:

–Lành thay! Lành thay! Kim Cang Tạng! Ông có thể nhập Tam-muội đại trí tuệ quang minh của Bồ-tát, được vô số chư Phật ở khắp mười phương cõi, đều đồng một hiệu, đều dùng oai lực gia hộ cho ông. Đó là do bản nguyện của Phật Lô-xá-na. Lại v́ ông và tất cả Bồ-tát có trí tuệ lớn không thể nghĩ bàn. Pháp minh của chư Phật đó là pháp làm cho nhập địa trí tuệ, nhiếp thâu tất cả căn lành, khéo phân biệt chọn lựa Phật pháp; biết rộng các pháp, quyết định giảng các pháp, khéo phân biệt trí không phân biệt; tất cả các trí thế gian không thể ô nhiễm; căn lành thanh tịnh xuất thế gian, đạt trí lực không thể nghĩ bàn, đạt Nhất thiết trí trong cõi nhân trí; lại đạt mười địa của Bồ-tát, giảng thuyết thật nghĩa sai khác của mười địa của Bồ-tát; giảng thuyết phân biệt pháp vô lậu mà không chấp trước, khéo chọn lựa sự trang nghiêm bằng ánh sáng đại trí tuệ phân biệt, khiến nhập đầy đủ môn pháp trí; tùy nơi ưng trụ mà tuần tự thuyết giảng, đạt vô ngại nhạo thuyết ánh sáng, đầy đủ trí địa đại vô ngại; không quên mất tâm Bồ-đề, giáo hóa thành tựu các tánh của chúng sinh, đạt trí quyết định đến khắp tất cả.

Lại nữa, Kim Cang Tạng! Ông đang thuyết giảng sự sai biệt pháp môn, đó là do thần lực của chư Phật, do ông kham nhận được thần lực của Như Lai, nhờ căn lành của ông thanh tịnh, tánh của tánh pháp thanh tịnh, v́ tánh lợi ích chúng sinh, làm cho chúng sinh đạt Pháp thân và trí thân thanh tịnh, được chư Phật thọ ký, được thân cao lớn tối thượng trong chúng sinh, vượt qua các đạo của cõi thế gian, căn lành thanh tịnh của xuất thế gian.

Lúc đó, chư Phật ở mười phương thị hiện thân Phật vô lượng chân thật Kim Cang Tạng, với biện tài nhạo thuyết không chướng ngại, với trí tuệ thanh tịnh khéo phân biệt, với sự nhớ kỹ không quên, với ý quyết định chắc chắn, với trí biết khắp nơi, với lực vô hoại của chư Phật, với sự không khiếp nhược vô sở úy của chư Phật, với trí vô ngại phân biệt các pháp khéo chỉ dạy pháp môn của chư Phật, với việc làm của thân, khẩu, ý nghiệp thượng diệu của tất cả chư Phật. V́ sao? V́ đạt được pháp Tam-muội đại trí tuệ quang minh của Bồ-tát. Đó cũng là sức bản nguyện của Bồ-tát, tâm chí thanh tịnh, trí tuệ sáng suốt, khéo tu tập pháp trợ đạo, khéo tu bản nghiệp, có khả năng giữ vô số niệm, tin hiểu pháp thanh tịnh sáng soi, khéo đạt pháp môn Đà-la-ni không phân biệt, dùng trí ấn khéo ấn pháp tánh.

Lúc này, chư Phật ở mười phương đều đưa cánh tay xoa đầu của Bồ-tát Kim Cang Tạng.

Bồ-tát Kim Cang Tạng ra khỏi định, bảo các Bồ-tát:

–Các Phật tử! Mọi việc làm của Bồ-tát, trước phải khéo tự quyết định, không bị cái lỗi là, không phân biệt, thanh tịnh sáng rõ, rộng lớn như pháp tánh, rốt ráo như hư không, bao trùm hết chúng sinh trong mười phương cõi Phật, phải v́ cứu độ tất cả thế gian, phải v́ sự bảo vệ thần lực của chư Phật. V́ sao? V́ các Đại Bồ-tát nhập trí địa của chư Phật ở quá khứ, cũng là nhập trí địa của chư Phật ở hiện tại, vị lai.

Các Phật tử! Thế nào là trí địa của Đại Bồ-tát? Các Phật tử, Trí địa của Đại Bồ-tát có mười. Chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai đã nói, đang nói, sẽ nói, cũng là những địa này. Tôi cũng nói như vậy. Mười địa đó là ǵ? Đó là:

1.     Hỷ địa.

2.     Tịnh địa.

3.     Minh địa.

4.     Diệm địa.

5.     Nan thắng địa.

6.     Hiện tiền địa.

7.     Thâm viễn địa.

8.     Bất động địa.

9.     Thiện tuệ địa.

10.    Pháp vân địa.

Các Phật tử! Mười địa này chư Phật ba đời đã nói, đang nói, sẽ nói. Tôi không thấy chư Phật ở cõi nước nào mà không nói mười Địa của Bồ-tát. V́ sao? V́ mười Địa này là đạo tối thượng vi diệu của Bồ-tát; là pháp môn tối thượng minh tịnh, nghĩa là phân biệt được việc của mười trụ. Các Phật tử! Việc này không thể nghĩ bàn, đó là các trí tuệ địa mà Đại Bồ-tát phải tùy thuận.

Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng, nói tên của mười Địa Bồ-tát xong, im lặng mà trụ, không phân biệt nghĩa thú. Nghe nói tên của mười địa Bồ-tát xong, các Bồ-tát lúc này đều khao khát, muốn nghe giải thích tiếp. Trong chúng Đại Bồ-tát đó, có Bồ-tát tên Giải Thoát Nguyệt, biết tâm niệm của các Bồ-tát, dùng kệ hỏi Bồ-tát Kim Cang Tạng:

Bậc tuệ niệm tịnh trí

V́ sao nói danh hiệu

Của địa Bồ-tát rồi

Im lặng không giải thích

Nay các Đại Bồ-tát

Đều hoài nghi do dự

V́ sao nói danh hiệu

Mà không giảng thật nghĩa

Các Bồ-tát trí lớn

Đều muốn được nghe giảng

Thật nghĩa của các Địa

Xin phân biệt giảng thuyết

Các Đại Bồ-tát này

Thanh tịnh không vết nhơ

An trụ pháp vững chắc

Đủ công đức trí tuệ

Đều đem tâm cung kính

Mà chiêm ngưỡng hiền giả

Đều muốn được nghe giảng

Như khát, nghĩ nước ngọt.

Bồ-tát Kim Cang Tạng

Nghe nói việc này rồi

Muốn làm vui đại chúng

Nên nói lời kệ rằng:

Hạnh nghiệp của Bồ-tát

Khó suy xét thứ nhất

Phân biệt các Địa này

Nguồn gốc của chư Phật

Vi diệu rất khó thấy

Chẳng phải tâm hiểu được

Từ trí tuệ Phật sinh

Ai nghe không còn mê

Giữ tâm như Kim cang

Tin sâu trí tuệ Phật

Là vi diệu tối thượng

Tâm không có nghi ngờ

Xa ĺa tâm chấp ngã

Và địa tâm sở hành

Các Bồ-tát như vậy

Mới có thể nghe được

Trí tịch diệt vô lậu

Phân biệt khó giảng thuyết

Như vẽ trong hư không

Nắm gió trong hư không

Tôi nghĩ trí tuệ Phật

Thật khó thể nghĩ bàn

Chúng sinh ít tin tưởng

V́ vậy tôi lặng thinh.

Nghe xong, Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt nói với Bồ-tát Kim Cang Tạng:

–Phật tử! Các Đại Bồ-tát này, thâm tâm thanh tịnh, khéo hành Bồ-tát, khéo tu tập pháp trợ đạo, khéo cung kính cúng dường chư Phật, thành tựu vô lượng công đức sâu dày, ĺa si, nghi, hối, không còn tham chấp trói buộc, thân tâm tin hiểu, an trụ bất động, ở trong chánh pháp, không tùy thuận giáo pháp khác. V́ vậy, Phật tử, hãy nương oai thần của Phật diễn giảng thật nghĩa. Các Bồ-tát này đều có thể chứng biết được pháp sâu xa đó.

Bấy giờ, Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt muốn nêu lại nghĩa trên nên nói kệ rằng:

Xin nói pháp an ổn

Hạnh vô thượng Bồ-tát

Phân biệt các trụ địa

Để trí tuệ thanh tịnh

Các Bồ-tát trong sạch

An trụ tin hiểu sâu

Ở chỗ vô lượng Phật

Chứng biết nghĩa mười Địa.

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói:

–Phật tử! Đại chúng này, tuy đều thanh tịnh, ĺa si, nghi, hối; ở trong pháp này, không tùy thuận pháp khác. Nhưng còn có những người thích tiểu pháp, nghe việc sâu xa khó nghĩ bàn này sẽ sinh nghi hối. Những người này mãi mãi chịu các sự suy não, tôi v́ thương xót họ nên im lặng.

Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn làm sáng tỏ nghĩa trên nên nói kệ rằng:

Đại chúng tuy thanh tịnh

Hiểu sâu ĺa nghi hối

Tâm chí đã vững chắc

Không tùy thuận pháp khác

Vững chãi như Tu-di

Yên lặng như biển lớn

Nhưng còn người thô cạn

Trí tuệ chưa sáng soi

Theo thức không theo trí

Nghe rồi sinh nghi hối

Họ sẽ đọa ác thú

Thương xót nên không nói.

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt nói:

–Phật tử! Xin hãy nương oai lực của Phật, khéo léo phân biệt, pháp bất tư ngh́ này, chư Phật sẽ hộ niệm, làm cho mọi người dễ tin hiểu. V́ sao? V́ khéo thuyết nghĩa mười Địa, th́ sẽ được chư Phật nơi mười phương hộ niệm; các Bồ-tát đều ủng hộ việc này, siêng năng tu hành. V́ sao? V́ là hạnh tối thượng của Bồ-tát, đạt đến tất cả Phật pháp. Ví như các kinh đều được thâu tóm ở phần đầu (đề mục). Phần đầu là cội gốc, không có một nghĩa nào nằm ngoài. Phật tử! Cũng thế, mười Địa này là nguồn gốc của tất cả Phật pháp, Bồ-tát thực hành đầy đủ mười Địa này, sẽ đạt được Nhất thiết trí tuệ. V́ vậy, Phật tử, xin hãy thuyết nghĩa này, sẽ được chư Phật hộ niệm, dùng thần lực làm cho mọi người tin nhận, không thể phá hoại.

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt muốn hiển thị nghĩa trên nên nói kệ rằng:

Lành thay Đấng trí tuệ

Đầy đủ hạnh thanh tịnh

Xin nói hạnh mười Địa

Pháp thâm nhập mười Địa

Để có đủ trí tuệ

Thành tựu pháp Bồ-đề

Chư Phật ở mười phương

Đấng tối tôn cõi người

Đều hộ niệm cho ngài

Nói thật nghĩa mười Địa

Mười địa là nguồn gốc

Là nơi trí tuệ hành

Cũng là đạo rốt ráo

Vô lượng pháp tụ Phật

Ví như các kinh sách

Thâu tóm ở phần đầu

Trí công đức của Phật

Mười Địa là nguồn gốc.

Lúc ấy, các Đại Bồ-tát đồng thanh nói kệ thỉnh Bồ-tát Kim Cang Tạng thuyết giảng:

Đấng trí tuệ thượng diệu

Giảng thuyết không hạn lượng

Đức nặng như núi chúa

Thương xót nói mười Địa

Giới niệm tuệ thanh tịnh

Nói thật nghĩa mười Địa

Nguồn gốc của mười Lực

Bản hạnh trí vô ngại

Giới định tuệ công đức

Nhóm tại tâm hiền giả

Kiêu mạn và tà kiến

Đều đã trừ diệt hết

Chúng này tâm không nghi

Xin muốn được nghe giảng

Như người khát nước t́m

Như đói nghĩ đến ăn

Như bệnh cần lương y

Như ong ưa hút mật

Chúng tôi cũng như vậy

Nghe pháp vị cam lồ

Nhờ đó mở rộng ý

Xin nói địa ban đầu

Cho đến Địa thứ mười

Tuần tự giảng thuyết cho.

Lúc ấy, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, từ tướng lông trắng giữa chặng mày, phóng ra ánh sáng Bồ-tát lực, có vô số trăm ngàn ánh sáng khác làm quyến thuộc. Ánh sáng đó chiếu soi các cõi Phật ở mười phương, không nơi nào là không chiếu đến, cái khổ đau trong ba đường ác đều ngừng lại; chiếu đến đại hội của chư Phật ở mười phương, thuyết pháp cho đại chúng, hiện rõ lực bất tư ngh́ của Như Lai. Ánh sáng đó, chiếu khắp đại hội của chư Phật và các Bồ-tát ở mười phương xong, ở trong hư không làm thành đài mây sáng lớn. Chư Phật ở mười phương cũng đều làm như vậy; cũng từ tướng lông trắng giữa chặng mày, phóng ra ánh sáng Bồ-tát lực, có vô số trăm ngàn ánh sáng khác làm quyến thuộc, hiển hiện lực bất tư ngh́ của Như Lai, chiếu khắp đại hội của tất cả Đức Phật, chiếu đến cõi Ta-bà và đại chúng của Phật Thích-ca Mâu-ni, chiếu đến Đại Kim Cang Tạng và tòa Sư tử. Chiếu xong, ở trong hư không làm thành đài mây sáng lớn. Nhờ thần lực của Phật từ trong đài mây sáng ấy phát ra tiếng kệ rằng:

Chư Phật, không ai bằng

Công đức như hư không

Mười Lực và Vô úy

Đấng Tối Tôn thế gian

Ở trước Phật Thích-ca

Thị hiện thần lực này

Dùng Phật lực khai thị

Tạng Pháp vương Sư tử

Thuyết hạnh nghiệp các Địa

Và các nghĩa sai biệt

Nương lực Phật thuyết giảng

Không ai hủy hoại được

Người nào nghe pháp bảo

Được chư Phật hộ niệm

Dần đầy đủ các địa

Thành tựu đạo quả Phật

Người nào nghe nhận được

Tuy ở trong biển lớn

Và trong lửa kiếp tận

Sẽ được nghe kinh này

Người nào si, nghi, hối

Trọn không thể nghe được

V́ thế nay Phật tử

Thuyết trí đạo các Địa

Nhập uy lực quán pháp

Tuần tự mà tu tập

Đạt đến các Địa khác

Đều có được lợi ích

Lợi ích các thế gian

Hãy nói chớ đoạn dứt.

Lúc ấy, Bồ-tát Kim Cang Tạng quán sát mười phương, muốn cho đại chúng càng thêm kính tin nên nói kệ rằng:

Thánh đạo của chư Phật

Vi diệu, thật khó hiểu

Chẳng suy lường mà được

Là nơi người trí hành.

Tánh ấy từ xưa nay

Tịch nhiên không sinh diệt

Xưa nay đều là không

Diệt trừ các khổ não

Và xa ĺa các cõi

Giống như tướng Niết-bàn

Không giữa cũng không sau

Chẳng ngôn từ để thuyết

Vượt qua khỏi ba đời

Tướng ấy như hư không

Hành xứ của chư Phật

Thanh tịnh và tịch diệt

Nói năng không thể được

Địa hành chẳng như vậy

Nói mà còn khó khăn

Huống ǵ chỉ dạy người

Trí tuệ của chư Phật

Đạo ĺa tâm đếm biết

Không thể nghĩ bàn được

Chẳng có ấm, giới, nhập

Dùng trí có thể biết

Thức không thể đạt đến

Như hư không khó nói

Huống ǵ chỉ bày tướng

Nghĩa mười Địa như vậy

Không phải tâm biết được

Việc này tuy là khó

Phát nguyện hành Từ bi

Dần dần đù các địa

Không phải tâm đạt được

Các địa hành như thế

Vi diệu khó thấy biết

Không dùng tâm hiểu được

Phải nương Phật lực thuyết

Các ông phải cung kính

Lắng tâm mà nghe kỹ

Hành tướng nhập các địa

Tu tập sinh pháp môn

Trải vô số ức kiếp

Cũng không thể nói hết

Nay lược nói như thật

Nghĩa đó không còn thừa

Lắng tâm cung kính đợi

Nay nương sức Phật thuyết

Đại âm xướng nhân dụ

Danh nghĩa không chống trái

Thấn lực Phật vô lượng

Đều ở trong thân tôi

Những ǵ tôi giảng thuyết

Như giọt nước biển lớn.

Nói kệ xong, Bồ-tát Kim Cang Tạng bảo đại chúng:

–Các Phật tử! Chúng sinh nào dày công tu tập nhiều căn lành, tu các hạnh lành, khéo tu tập pháp trợ đạo, cúng dường chư Phật, tu pháp thanh bạch, được thiện tri thức bảo hộ, nhập tâm sâu rộng, tâm tin thích pháp lớn, luôn hướng về Từ bi, thích cầu trí tuệ Phật, th́ chúng sinh đó có thể phát tâm Vô thượng Bồ-đề. V́ muốn đạt Nhất thiết chủng trí, v́ đạt mười lực, v́ đạt đại vô úy; v́ đạt đầy đủ Phật pháp, v́ cứu tất cả thế gian, v́ thanh tịnh tâm đại Từ bi, v́ hướng đến trí vô dư vô ngại, đối với mười phương v́ làm thanh tịnh hết tất cả cõi Phật, v́ ở trong một niệm, biết việc của ba đời, v́ tự tại chuyển bánh xe pháp lớn, thị hiện rộng thần lực của Phật, nên các đại Bồ-tát phát tâm như vậy.

Chư Phật tử! Tâm đó dùng đại Bi làm đầu, trí tuệ tăng thượng, phương tiện bảo hộ; trực tâm, thâm tâm thuần chí, đồng với Phật lực, khéo lường biết lực Phật, lực chúng sinh, hướng đến trí vô ngại, tùy thuận trí tự nhiên, lãnh thọ tất cả Phật pháp, dùng trí tuệ giáo hóa, rộng lớn như pháp tánh, rốt ráo như hư không, cùng tận đời vị lai.

Các Phật tử! Bồ-tát phát tâm như vậy, sẽ vượt địa phàm phu, nhập địa vị Bồ-tát, sinh trong nhà Phật, dòng họ cao quý, không ai chê trách, vượt qua tất cả đạo thế gian, nhập đạo xuất thế, trụ trong pháp Bồ-tát; ở trong hàng Bồ-tát, b́nh dẳng nhập chủng tánh Như Lai ba đời, nhất định rốt ráo đạt quả Vô thượng Bồ-đề. Bồ-tát trụ pháp này là trụ địa Hoan hỷ, vui nhiều, là pháp Bất cộng. Các Phật tử! Đại Bồ-tát trụ địa Hoan hỷ này, vui nhiều, tin sâu, thanh tịnh nhiều, hoan hỷ nhiều, nhu nhuyến, kham nhẫn nhiều, không thích tranh đấu, không thích não loạn chúng sinh, không ưa sân hận.

Các Phật tử! Bồ-tát trụ địa Hoan hỷ, v́ luôn nghĩ đến chư Phật, nên sinh tâm hoan hỷ; v́ nghĩ đến các Phật pháp nên sinh tâm hoan hỷ; v́ nghĩ về các Đại Bồ-tát nên sinh hoan hỷ; v́ nghĩ đến việc làm của các Bồ-tát nên sinh tâm hoan hỷ; v́ nghĩ đến tướng thanh tịnh của các Ba-la-mật nên sinh tâm hoan hỷ; v́ nghĩ đến các Bồ-tát và các sự thù thắng nên sinh tâm hoan hỷ; v́ nghĩ đến oai lực không thể phá hoại của Bồ-tát nên sinh tâm hoan hỷ; v́ nghĩ đến các pháp mà các Như Lai dùng để giáo hóa nên sinh tâm hoan hỷ; v́ nghĩ đến những việc có thể đem lợi ích cho chúng sinh nên sinh tâm hoan hỷ; v́ nghĩ đến pháp môn phương tiện mà hết thảy chư Phật, chư Bồ-tát nhập trí tuệ nên sinh tâm hoan hỷ.

Các Phật tử! Bồ-tát lại nghĩ: Ta v́ rời khỏi các cảnh giới của các thế gian nên sinh tâm hoan hỷ; nhập pháp b́nh đẳng của chư Phật nên sinh tâm hoan hỷ; xa ĺa địa phàm phu nên sinh tâm hoan hỷ, gần đạt địa trí tuệ nên sinh tâm hoan hỷ, đoạn trừ tất cả các cõi ác nên sinh tâm hoan hỷ; làm chỗ nương tựa cho chúng sinh nên sinh tâm hoan hỷ; thân cận các Đức Phật nên sinh tâm hoan hỷ, sinh ở cõi Phật nên sinh tâm hoan hỷ, vào hàng ngũ của Bồ-tát nên sinh tâm hoan hỷ, không còn lo sợ nên sinh tâm hoan hỷ. V́ sao? V́ Đại Bồ-tát này, đạt địa Hoan hỷ th́ xa ĺa được tất cả lo sợ; như sợ không sống, sợ tiếng xấu, sợ chết, sợ đọa đường ác, sợ oai đức đại chúng. Ĺa được tất cả những lo sợ như vậy. V́ sao? V́ Bồ-tát này ĺa tướng ngã, ngay thân ḿnh còn không tham muốn huống ǵ những thứ cần dùng? V́ vậy, không còn sợ không sống. Tâm không mong cầu cung kính cúng dường, mà còn cung cấp mọi thứ cần dùng cho chúng sinh, nên không còn sợ tiếng xấu. Ĺa ngã kiến, không còn tướng ngã nên không còn sợ chết. Lại nghĩ: Nếu ta chết, rồi sinh ra, nhất định sẽ không rời chư Phật, Bồ-tát, nên không sợ đọa đường ác. Niềm vui của ta, không ai sánh bằng, huống có người hơn, nên không còn sợ oai đức của đại chúng.

Các Phật tử! Bồ-tát đó ĺa tất cả lo sợ.

Các Phật tử! Bồ-tát đó dùng đại Bi làm đầu, thâm nhập tâm rộng lớn vững chãi, siêng tu tất cả căn lành. Đó là v́ tín tâm tăng thượng nên thực hành tịnh tâm, tâm hiểu biết thanh tịnh, phần nhiều đều do tín tâm, phân biệt phát tâm Bi mẫn, thành tựu đại Từ tâm không lười mỏi; trang nghiêm bằng tâm hổ thẹn, thành tựu nhẫn nhục nhu hòa, kính thuận giáo pháp của chư Phật, tin quý tôn trọng, ngày đêm thường tu căn lành không nhàm chán, gần gũi Thiện tri thức, luôn yêu thích pháp, cần cầu học rộng không chán, chánh quán pháp được nghe, tâm không tham chấp, không cầu lợi dưỡng, tiếng khen, cung kính. Đối với vật cần dùng trong đời sống, tâm không tham tiếc, luôn phát tâm chân thật không nhàm chán, ham thích địa Nhất thiết trí; luôn mong đạt oai lực, pháp Vô úy, pháp Bất cộng của chư Phật; cầu Pháp Ba-la-mật trợ lực, ĺa dua nịnh, làm đúng lời dạy, luôn nói thật, không làm ố dòng Phật, không bỏ học giới của Bồ-tát, sinh vào dòng Nhất thiết chủng trí, tâm vững chãi như núi chúa lớn, không thích các việc của thế gian, thành tựu căn lành xuất thế gian, tu pháp trợ Bồ-đề phàn không chán, luôn cầu đạo thù thắng trong pháp thắng.

Các Phật tử! Đại Bồ-tát thành tựu địa pháp thanh tịnh như vậy gọi là an trụ địa Hoan hỷ của Bồ-tát. Bồ-tát an trụ địa Hoan hỷ, phát thệ nguyện lớn, tâm quyết định vững chắc, đó là: Ta nên cúng dường tất cả các Đức Phật không để thiếu, tùy ý cúng dường tất cả vật càn dùng, tâm thanh tịnh thông đạt. Phát nguyện lớn như vậy, rộng sâu như pháp tánh, rốt ráo như hư không, đến tận đời vị lai. Cúng dường chư Phật trong tất cả kiếp, luôn cúng dường vật cần dùng, không ngừng nghỉ. Lại nữa, đối với kinh pháp mà chư Phật giảng thuyết đều thọ tŕ, ǵn giữ tất cả pháp Vô thượng Bồ-đề của chư Phật, tùy thuận tất cả giáo pháp mà chư Phật dùng giáo để giáo hóa, bảo vệ Phật pháp. Phát nguyện lớn như vậy, rộng sâu như pháp tánh, rốt ráo như hư không, đến tận đời vị lai, đến cùng tận tất cả kiếp giữ ǵn tất cả Phật pháp không ngừng nghỉ. Đối với tất cả chư Phật trong tất cả thế giới từ cung trời Đâu-suất giáng trần nhập thai ở trong thai, lúc mới sinh, lúc xuất gia, lúc thành đạo ta đều khuyến thỉnh chuyển đại pháp luân; khi Phật thị hiện đại Niết-bàn, ta đến cúng dường, việc đầu tiên là thâu nhận giáo pháp, giáo hóa ba thời. Phát nguyện lớn như thế, rộng sâu như pháp tánh, rốt ráo như hư không, đến tận đời vị lai, khắp tất cả kiếp, phụng kính cúng dường tất cả chư Phật không ngừng nghỉ. Lại nữa, việc làm của Bồ-tát rộng lớn, cao xa khôn lường, không thể hoại, không ai phân biệt được, thâu tóm trong Ba-la-mật; thanh tịnh các địa, sinh các pháp trợ đạo, đạo hữu tướng, vô tướng; có thành có hoại, các đạo địa đã hành và bản hạnh Ba-la-mật của tất cả Bồ-tát là giáo hóa, làm cho thực hành và tâm được tăng trưởng. Phát nguyện lớn như vậy, rộng sâu như pháp tánh, rốt ráo như hư không, đến tận đời vị lai, đến cùng tận hạnh nghiệp của Bồ-tát, trong tất cả kiếp, dùng pháp mà giáo hóa thuần thục chúng sinh không ngừng nghỉ. Tất cả chúng sinh hoặc có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng, phi hữu tưởng, phi vô tưởng, hoặc sinh bằng thai, trứng, ẩm thấp, biến hóa trong ba cõi đều trói buộc trong sáu đạo. Dù sinh ở đâu, cũng đều thuộc về danh sắc, giáo hóa thuần thục tất cả chúng sinh, đoạn trừ tất cả đạo của thế gian, làm cho chúng sinh an trụ trong Phật pháp, tu tập Nhất thiết trí tuệ, không để sót. Phát nguyện lớn như vậy, rộng sâu như pháp tánh, rốt ráo như hư không, đến tận đời vị lai, đến cùng tận tất cả kiếp để giáo hóa tất cả chúng sinh, không ngừng nghỉ. Lại nữa, tất cả thế gian rộng hẹp, cao thấp, vô số không thể phân biệt, không thể dời đổi; không thể nói to nhỏ, ngay thẳng, nghiêng, đứng, đầu thân đầy đặn, bằng phẳng vuông tròn. Tùy thuận nhập các cõi thế gian như vậy; trí như lưới Đế Thích, trải qua các việc huyễn ảo sai khác. Đều biết trước hết tất cả các cõi nước sai biệt trong mười phương. Phát nguyện lớn như vậy, rộng sâu như pháp tánh, rốt ráo như hư không, đến tận đời vị lai, đến tận tất cả kiếp. Các cõi như vậy đều biết tường tận ngay, không ngừng nghỉ. Lại đem tất cả cõi Phật nhập vào một cõi Phật; một cõi Phật nhập vào tất cả cõi Phật. Mỗi cõi Phật, được trang nghiêm bằng vô số ánh sáng, xa ĺa cấu uế dầy đủ đạo thanh tịnh, có vô lượng trí tuệ, chúng sinh đông nhiều trong đó, luôn có được sức thần thông lớn của chư Phật, tùy tâm chúng sinh mà thị hiện. Phát nguyện lớn như vậy, rộng sâu như pháp tánh, rốt ráo như hư không, đến tận đời vị lai, đến tận tất cả kiếp, làm thanh tịnh tất cả các cõi nước như vậy không ngừng nghỉ.

Lại nữa, các Bồ-tát đồng tâm tu học, cùng tu tập pháp thiện, không ganh ghét, chỉ chú tâm vào một việc, tâm b́nh đẳng, hòa hợp, không rời nhau, tùy ý mà hiện thân Phật; ở trong tâm ḿnh, đều hiểu biết thần lực, trí tuệ của Phật, luôn được thần thông như ý, đi lại tất cả các cõi nước, hiện tướng thân trong tất cả hội Phật; ở đâu cũng sinh trong hội Phật, có trí tuệ lớn không thể nghĩ bàn như vậy, luôn đầy đủ hạnh Bồ-tát. Phát nguyện lớn như vậy, rộng sâu như pháp tánh, rốt ráo như hư không, đến tận đời vị lai, đến tận tất cả kiếp, hành đạo trí tuệ lớn như vậy không ngừng nghỉ. Lại đi xe bất thoái, hành tất cả đạo Bồ-tát, việc làm của thân, khẩu, ý không luống uổng, chúng sinh thấy được đều an định nơi Phật pháp; nghe tiếng th́ đạt đạo trí tuệ chân thật; ai thấy được cũng đều vui mừng, ĺa phiền não, giống như cây thuốc hay, đạt được tâm như vậy, mà hành đạo Bồ-tát. Phát nguyện lớn như vậy, rộng sâu như pháp tánh, rốt ráo như hư không, đến tận đời vị lai, đến tận tất cả kiếp, hành đạo bất thoái, việc làm không uổng công, không ngừng nghỉ.

Lại ở trong các cõi, đạt Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, ở mỗi đầu sợi lông, thị hiện thân vào thai, xuất gia, ngồi nơi đạo tràng, thành Phật đạo, chuyển bánh xe pháp, độ chúng sinh, thị hiện đại Niết-bàn, hiện dại thần trí của chư Như Lai, tùy thuận tất cả chúng sinh mà độ những kẻ đáng độ. Trong mỗi niệm, đạt Phật đạo, độ chúng sinh, diệt khổ não, biết tất cả pháp như tướng Niết-bàn, dùng một âm thanh, làm cho tất cả chúng sinh đều vui vẻ; thị hiện đại Niết-bàn mà không đoạn hạnh Bồ-tát; thị hiện đại trí địa cho chúng sinh, làm cho chúng sinh biết tất cả pháp là giả dối, hư ngụy; với trí tuệ lớn thần thông lớn mà tự tại biến hóa. Phát nguyện lớn như vậy, rộng sâu như pháp tánh, rốt ráo như hư không, đến tận đời vị lai, đến tận tất cả kiếp, thành tựu việc Phật, cầu trí tuệ lớn, thần thông lớn, không ngừng nghỉ.

Này các Phật tử! Bồ-tát trụ địa Hoan hỷ lấy mười nguyện làm đầu, phát trăm ngàn vạn a-tăng-kỳ nguyện lớn như vậy. Do mười pháp không cùng tận mà phát sinh những nguyện này. Để viên mãn nguyện này, nên siêng năng tu tập. Mười pháp đó là ǵ?

1.     Chúng sinh không cùng tận.

2.     Cõi nước không cùng tận.

3.     Hư không không cùng tận.

4.     Pháp tánh không cùng tận.

5.     Niết-bàn không cùng tận.

6.     Phật ra đời không cùng tận.

7.     Trí tuệ chư Phật không cùng tận.

8.     Tâm duyên không cùng tận.

9 .Trí phát khởi không cùng tận.

10. Hạt giống thế gian, hạt giống pháp, hạt giống trí tuệ không cùng tận.

Như chúng sinh cùng tận, nguyện của con mới cùng tận, như thế gian tận, hư không tận, pháp tánh tận, Niết-bàn tận, Phật ra đời tận, trí tuệ chư Phật tận, tâm duyên tận, trí tuệ phát khởi tận, hạt giống của đạo cùng tận; th́ nguyện của con mới cùng tận. Nhưng chúng sinh thật không cùng tận; thế gian, hư không, pháp tánh, Niết-bàn, Phật ra đời, trí tuệ chư Phật, tâm duyên, trí phát khởi, hạt giống đạo thật không thể cùng tận, nên phước đức thệ nguyện của con cũng không cùng tận.

Này các Phật tử! Bồ-tát quyết định phát nguyện lớn này, sẽ đạt tâm an lạc lợi ích, tâm nhu nhuyến, tâm điều thuận, tâm thiện, tâm tịch diệt, tâm hòa nhã, tâm ngay thật, tâm không loạn, tâm không nhiễm, tâm không ô trược; do đó sẽ thành người tin ưa thích tướng của lòng tin; phân biệt công đức, tin vào sự hành đạo từ xưa của chư Phật, nhờ tin vào hạnh Ba-la-mật mà được tăng trưởng, tin vào sự khéo nhập các địa mà đạt công đức thù thắng, tin vào sự thành tựu mười Lực của Phật; tin đầy đủ bốn Vô sở úy, pháp Bất cộng, không thể hoại; tin pháp chư Phật không thể nghĩ bàn, tin oai lực của chư Phật không ở giữa, không ở bên, tin vào vô lượng hạnh môn của Như Lai, tin do nhân duyên mới thành quả báo. Nói tóm lại, tin vào các Bồ-tát thực hành hết công đức trí tuệ, sức oai thần của chư Phật.

Chư Phật tử! Bồ-tát nghĩ thế này: Chánh pháp của Chư Phật sâu xa, ĺa tướng tịch diệt, trống rỗng, không có tướng, không tạo tác, không nhiễm ô, không thể lường, rộng lớn, khó hoại, như vậy mà các phàm phu th́ tâm rơi vào tà kiến, bị vô minh ngu tối che lấp tuệ nhãn, luôn dựng cờ kiêu mạn, bị rơi vào lưới khát ái, tùy thuận dua nịnh, luôn xan tham ganh ghét, tạo nhân duyên cho nơi thọ sinh thân đời sau; tạo nhiều tham dục, sân hận ngu si, khởi sinh các nghiệp nặng; bị gió dữ hiềm hận, thổi lửa tội lỗi làm cho bừng cháy, có làm việc ǵ cũng đều tương ưng điên đảo; những dòng đục, hữu, vô minh, kiến, liên tục phát khởi; tâm ý thức gieo mầm khổ não trong ba cõi. Đó là danh sắc hòa hợp, tăng trưởng sáu nhập, từ căn trần sinh ra xúc, từ xúc làm duyên sinh thọ, ham thọ lạc nên sinh khát ái, khát ái tăng trưởng sinh thủ, thủ tăng trưởng nên khởi hậu hữu, từ nhân duyên hữu sinh ra già, chết ưu, bi, khổ, não. Đó là nhân duyên đưa đến các khổ não. Chúng sinh tuy chịu khổ não nhưng trong đó không có ngã, ngã sở, không người tạo tác, không người lãnh thọ, không người biết, ví như cỏ, cây, đá, ngói, lại cũng như bóng. Kẻ phàm phu đáng thương, không hay không biết, nên chịu khổ não, nên sinh trí tuệ đại Bi để cứu thoát chúng sinh; làm cho chúng sinh trụ trong niềm vui cứu cánh của Phật đạo rồi phát sinh trí tuệ đại Từ. Đại Bồ-tát tùy thuận pháp đại Từ bi như vậy, dùng tâm thâm diệu, trụ ở Địa thứ nhất. Đối với các vật không hề tham tiếc, tôn trọng trí vi diệu rộng lớn của Phật, học hạnh đại Xả, tức thời có thể bố thí tất cả vật sở hữu, như là kho lúa gạo, vàng bạc, ma-ni, châu ngọc, xa cừ, mã não, lưu ly, san hô, hổ phách, kha bối, anh lạc, các vật trang sức nơi thân, các trân bảo và voi, ngựa, xe cộ, kiệu, lọng, dân chúng, nô tỳ, quyến thuộc, đất nước, thành ấp, xóm làng, vườn rừng, công viên, vợ con, trai gái; bố thí tất cả những vật yêu quý như đầu, mắt, tai, mũi, tay chân, thân thể. V́ tôn trọng Phật trí nên không tham tiếc. Đại Bồ-tát, trụ ở Địa thứ nhất phải luôn thực hành đại Xả. Bồ-tát này, dùng tâm đại Bi, tâm đại Xả để cứu tất cả chúng sinh, siêng năng làm việc thù thắng, đem lợi ích cho thế gian và xuất thế gian, tâm không lười mỏi, do đó Bồ-tát này phát sinh được công đức không mỏi mệt. Đối với kinh sách, tự t́m hiểu rõ nên phát sinh công đức hiểu kinh pháp. Đạt trí tuệ biết kinh pháp như vậy; khéo cân nhắc; biết việc nên làm, không nên làm; tùy thuận chúng sinh thượng, trung, hạ mà hành sự; tùy những người nương tựa gần gũi, tùy sức mà làm lợi ích, nên phát sinh công đức trí thế gian; đạt công đức trí thế gian ấy th́ biết thời, biết lượng, biết trang nghiêm, biết hổ thẹn; tu tập đạo tự lợi, lợi tha nên sinh công đức hổ thẹn. Ở trong hạnh công đức như vậy, siêng năng tu tập, tâm không thoái lui, đó là công đức tinh tấn không thoái lui, tức thời đạt được lực có thể chịu đựng. Đạt được lực có thể chịu đựng rồi, siêng tu cúng dường chư Phật, làm theo Phật pháp dạy.

Các Phật tử! Bồ-tát này, biết pháp địa thanh tịnh sinh khởi như vậy. Nghĩa là tin vào sự Từ, Bi, Hỷ, Xả không lười mỏi, biết kinh pháp, khéo hiểu thế pháp, đủ sức chịu đựng hổ thẹn, cúng dường chư Phật, thực hành theo như pháp.

Lại nữa, Bồ-tát trụ địa Hoan hỷ, nhờ phát nguyện nên gặp được số trăm ngàn vạn ức na-do-tha Phật. Lúc gặp Phật, tâm Bồ-tát vui mừng khôn xiết, thâm tâm cung kính, trổi nhạc của Bồ-tát để cúng dường Phật và chư Tăng, lại hồi hướng phước đức ấy về đạo Vô thượng Bồ-đề. Nhờ cúng dường chư Phật, nên Bồ-tát phát sinh được pháp giáo hóa chúng sinh, luôn dùng hai Nhiếp để thâu giữ chúng sinh, đó là Bố thí, Ái ngữ. Sau pháp hai Nhiếp, chỉ dùng sức tin hiểu khéo thực hành thiện pháp chưa thông đạt. Bồ-tát này tùy sự cúng dường chư Phật, giáo hóa chúng sinh, đều có thể thọ lãnh thực hành địa pháp thanh tịnh; các công đức đó tự nhiên được hồi hướng về Nhất thiết chủng trí, nên càng thêm sáng rực, mang tính hữu dụng.

Phật tử! Ví như người thợ luyện vàng, tùy vào sức lửa vừa phải để dùng mà làm cho ánh sáng càng rực rỡ. Cũng thế, Bồ-tát tùy sự cúng dường chư Phật, giáo hóa chúng sinh mà thọ hành pháp các địa thanh tịnh, rồi hồi hướng công đức đó về Nhất thiết chủng trí để càng thêm sáng rỡ, mà tùy ý sử dụng.

Lại nữa, các Phật tử! Đại Bồ-tát đạt tướng mạo ở Địa thứ nhất, nên đến chỗ của chư Phật, Bồ-tát và Thiện tri thức để học hỏi thành tựu pháp địa, không nên chán bỏ. Bồ-tát trụ Địa thứ nhất, nên đến chỗ của Phật. Bồ-tát và Thiện tri thức để học hỏi tướng mạo của Địa thứ hai mà tâm không hề chán bỏ. Cứ như thế đến chỗ chư Phật, Bồ-tát và Thiện tri thức mà học hỏi tướng mạo của Địa thứ ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, và thành tựu pháp thập địa mà không hề phế bỏ. Bồ-tát này, biết rõ pháp thuận nghịch của các Địa, khéo biết sự thành hoại, tướng mạo, nhân quả, sự được mất, phần hành thanh tịnh của các địa. Biết rõ hạnh từ một địa này đến một địa khác, biết rõ các địa là xứ, chẳng phải là xứ; biết rõ các địa và nơi sẽ sinh; biết rõ sự sai biệt của việc trước việc sau các địa; biết rõ các địa đạt tướng không thoái chuyển. Cho đến biết rõ tất cả các địa pháp thanh tịnh của Bồ-tát, biết rõ việc nhập trí của địa Như Lai. Phật tử! Bồ-tát này, biết rõ tướng mạo từ lúc chưa phát tâm ở Địa thứ nhất, đến Địa thứ mười, biết rõ là không chướng ngại. V́ đạt ánh sáng trí tuệ của các địa, nên đạt ánh sáng trí tuệ của chư Phật.

Các Phật tử! Như chủ buôn lớn, dẫn nhiều người buôn khác muốn đến thành phố lớn, trước phải hỏi đường đi tới, lui để vượt qua những nguy hiểm và điều lợi hại ở trên đường có thể phát sinh, biết lúc dừng nghỉ trên đường. Biết rõ tất cả mọi việc để đến được thành ấy; dùng trí tuệ suy xét, so lường, để đem đầy đủ mọi vật dụng không cho thiếu thốn; dẫn dắt mọi người đến được thành phố kia, vượt qua hoạn nạn nguy hiểm, th́ ḿnh và mọi người sẽ không còn ǵ phải lo lắng.

Các Phật tử! Đại Bồ-tát cũng thế, trụ ở Địa thứ nhất nhưng khéo biết rõ pháp thuận nghịch của các địa, cho đến biết rõ pháp thanh tịnh của các Bồ-tát, biết rõ việc nhập trí địa Như Lai. Lúc ấy, Bồ-tát tập họp trí tuệ và phước đức lớn làm tư lương, là thương chủ của chúng sinh; tùy nghi giáo hóa, làm cho chúng sinh thoát khỏi nơi hiểm nạn, xấu ác sinh tử; chỉ dạy đường an ổn và an trụ trong thành lớn trí tuệ của Nhất thiết chủng trí, không còn những ưu não. V́ thế, các Phật tử! Đại Bồ-tát tâm không lười mỏi, siêng năng tu tập bản hạnh các địa, khéo biết nhập trí địa Như Lai.

Các Phật tử! Đó là lược nói pháp môn Đại Bồ-tát nhập địa Hoan hỷ. Nếu rộng nói, th́ có vô lượng trăm ngàn vạn ức vô số việc. Đại Bồ-tát trụ địa này, thường làm vua cõi Diêm-phù-đề, giàu có tự tại, ủng hộ chánh pháp, thâu giữ chúng sinh bằng pháp bố thí, trừ hết xan tham cấu bẩn của chúng sinh. Luôn hành đại bố thí, không keo kiệt, không ngừng tạo các nghiệp thiện. Hoặc bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, làm những việc này nhưng không rời niệm Phật và pháp; không rời suy nghĩ về Bồ-tát chúng bạn, về hạnh nghiệp của Đại Bồ-tát, về Ba-la-mật, về mười Địa, về Lực, về Vô úy, về pháp Bất cộng; cho đến không rời cụ túc niệm Nhất thiết chủng trí. Luôn nghĩ: Bất cứ lúc nào, trong chúng sinh, ta cũng đều là người đứng đầu, là người thù thắng, là tôn quý, là cao thượng, là vô thượng, là người dẫn đường, là bậc thầy, là chỗ dựa cho chúng sinh.

Các Phật tử! Đại Bồ-tát này, nếu muốn xuất gia, siêng năng tu tập th́ trong nháy mắt có thể từ bỏ vợ con, nhà cửa, năm dục, được xuất gia trong Phật pháp. Được xuất gia rồi, siêng năng tu tập, chẳng bao lâu sẽ đạt được trăm pháp Tam-muội, được gặp trăm Đức Phật, biết trăm thần lực của Phật, làm chuyển động trăm cõi Phật, bay qua trăm cõi Phật, chiếu soi trăm cõi Phật, giáo hóa chúng sinh trong trăm cõi Phật, sống lâu trăm kiếp, biết được mọi việc trong hàng trăm kiếp ở quá khứ, vị lai, hiện tại, nhập được trăm pháp môn, biến ra trăm thân, mỗi thân lại thị hiện trăm Bồ-tát quyến thuộc.

Nếu dùng nguyện lực tự tại thị hiện, th́ hơn con số trên, có đến vô số trăm ngàn vạn ức na-do-tha, không thể tính đếm được.

Lúc ấy, Đại Kim Cang Tạng, muốn tuyên rõ nghĩa trên, nên nói kệ rằng:

Nếu có các chúng sinh

Tu tập nhiều căn lành

Thành tựu pháp bạch tịnh

Gần gũi các Đức Phật

Thanh tịnh sức tin lớn

Tùy thuận tâm Từ bi

Người này phát khởi được

Vô lượng trí tuệ Phật

Nhất thiết trí của Phật

Sức Vô lượng thanh tịnh

Sức chịu đựng vững chắc

Thành tựu các Phật pháp

Tâm Bi cứu thế gian

Thanh tịnh các cõi Phật

Chuyển thuyết bánh xe pháp

Phát thệ nguyện vô thượng

Một niệm biết ba đời

Nhưng không hề thay đổi

Mỗi lúc có sai biệt

Thị hiện ở thế gian

Nói gọn là mong cầu

Công đức của chư Phật

Phát khởi tâm rộng lớn

Giống như là hư không

Tâm Bi trí tuệ đầu

Phương tiện để tu hành

Tâm tịnh tín sâu xa

Oai lực không hạn lượng

Tâm chí không chướng ngại

Chẳng tùy thuận pháp khác

B́nh đẳng như chư Phật

Mà sinh tâm rộng lớn

Phật tử nào phát khởi

Tâm chân thật như thế

Sẽ ĺa hạnh phàm phu

Nhập hạnh nghiệp chư Phật

Sinh trong nhà Như Lai

Không ai chê trách được

Giống như các Đức Phật

Sẽ thành đạo Vô thượng

Lúc phát khởi tâm ấy

Đạt được Địa thứ nhất

Tâm ấy không thể động

Vững chãi như núi chúa

Bồ-tát này có được

Tướng hoan hỷ hiển hiện

Tâm luôn luôn thanh tịnh

Làm được những việc lớn

Tâm không thích tranh đấu

Chẳng vui hại chúng sinh

Không có tâm sân hận

Biết hổ thẹn cung kính

Lại tập hành trực tâm

Và bảo hộ các căn

Luôn nghĩ cứu thế gian

Cầu mong trí của Phật

Tâm luôn luôn vui vẻ

Ta sẽ được việc này

Đạt địa Hoan hỷ rồi

Vượt qua năm điều sợ

Sợ không sống, sợ chết

Và lo sợ tiếng xấu

Sợ đọa ba đường ác

Sợ oai đức đại chúng

V́ không tham chấp ngã

Không tham chấp ngã sở

Các Phật tử như vậy

Xa ĺa mọi lo sợ

Luôn hành tâm Từ bi

Tin tưởng và cung kính

Đủ công đức hổ thẹn

Ngày đêm thêm pháp lành

Thích công đức lợi ích

Không ham thích dục lạc

Những giáo pháp được nghe

Luôn suy xét kỹ lưỡng

Không có hạnh tham chấp

Đoạn tâm cầu lợi dưỡng

Luôn thích pháp Bồ-đề

Nhất tâm cầu trí Phật.

Hành các Ba-la-mật

Xả bỏ tâm dua nịnh

Thực hành theo lời dạy

An trụ trong lời Phật

Không ô nhiễm dòng Phật

Chẳng bỏ hạnh Bồ-tát

Xa sự nghiệp thế gian

Lợi lạc ở thế gian

Cầu pháp lành không chán

Tinh tấn ngày thêm lớn

Những Bồ-tát như thế

Ưa thích các công đức

Phát thệ nguyện rộng lớn

Mong được thấy chư Phật

Hộ pháp đến chỗ Phật

Hành diệu hạnh Bồ-tát

Độ tất cả chúng sinh

Thanh tịnh các cõi Phật

Trong cõi Phật của ḿnh

Đông đúc các Bồ-tát

Các Bồ-tát đồng tâm

Kiến văn đều chẳng luống

Ở trong các bụi trần

Thành tựu đạo của Phật

Phát khởi vô số ức

Vô biên nguyện rộng lớn

Nguyện ấy không cùng tận

Như chúng sinh, hư không

Pháp tánh, cõi Niết-bàn

Trí tuệ của chư Phật

Từ tâm sinh trí chủng

Ta nguyện an trụ vậy

Phát thệ nguyện rộng lớn

Tâm nhu nhuyến điều thuận

Tin công đức của Phật

Mà quán sát chúng sinh

Biết từ nhân duyên sinh

Nên sinh từ tâm mẫn

Ta nguyện cứu độ hết

Chúng sinh đang đau khổ

V́ tất cả chúng sinh

Mà thực hành bố thí

Bố thí cõi nước đẹp

Các trân báu vô giá

Voi ngựa cùng xe cộ

Quyến thuộc và nhân dân

Đầu, mắt, tay, cùng chân

Thịt, xương, không hối hận

Học tất cả kinh sách

Tâm không hề mệt mỏi

Hiểu rõ thật nghĩa đó

Tùy thế gian thực hành

Tâm hổ thẹn, chịu đựng

Dần dần được tăng trưởng

Dùng tâm ý cung kính

Cúng dường vô lượng Phật

Người trí, suốt ngày đêm

Siêng tu tập như vậy

Căn lành hiểu sáng suốt

Giống như luyện vàng ròng

Bồ-tát trụ địa này

Hiểu biết rõ mười trụ

Lúc tuần tự tu tập

Không hề có chướng ngại

Ví như người chủ buôn

Muốn lợi ích người buôn

Trước hỏi rõ đường đi

Biết mọi việc nguy hiểm

Bồ-tát trụ sơ địa

Phải biết hạnh các địa

Không có các chướng ngại

Đạt đến địa của Phật

Trụ trong Địa thứ nhất

Thường làm vua Diêm-phù

Biết rõ các giáo pháp

Luôn hành tâm Từ bi

Đúng pháp mà giáo hóa

Tất cả đều kính tín

Khuyến khích tu bố thí

Để cầu trí tuệ Phật

Bồ-tát bỏ đất nước

Xuất gia trong Phật pháp

Siêng năng mà tu tập

Đạt được trăm Tam-muội

Gặp được trăm Đức Phật

Chấn động trăm cõi nước

Độ chúng sinh trăm nơi

Thâm nhập trăm pháp môn

Nhớ biết việc trăm kiếp

Thị hiện trăm loại thân

Lại thị hiện cả trăm

Bồ-tát làm quyến thuộc

Nếu dùng sức thệ nguyện

Hơn vô lượng số đó

Nay giảng nghĩa sơ địa

Chỉ nói gọn mà thôi

Nếu muốn nói rộng ra

Ức kiếp không thể hết

Địa Bồ-tát thứ nhất

Tên là địa Hoan hỷ

V́ tạo lợi ích cho chúng sinh

Nay đã phân biệt nói.

Phẩm 2: ĐỊA LY CẤU

Tất cả các Bồ-tát

Nghe nói nghĩa Sơ địa

Tâm chí đều thanh tịnh

Vui vẻ khó tả hết

Từ chỗ ḿnh đang ngồi

Bay lên trên hư không

Cởi áo đẹp trên thân

Để cúng Kim Cang Tạng!

Đồng cất lời khen ngợi

Khéo nói địa Bồ-tát

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt

Biết tâm chúng thanh tịnh

Muốn được nghe giảng thuyết

Tướng mạo Địa thứ hai

Thưa với Kim Cang Tạng

Đại trí hãy giảng thuyết

Tướng mạo Địa thứ hai

Tất cả đều muốn nghe.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng, nói với Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt:

–Phật tử! Đại Bồ-tát đã đầy đủ Địa thứ nhất, muốn đạt Địa thứ hai, phát khởi mười tâm. Mười tâm đó là ǵ? Đó là các tâm:

1.     Nhu nhuyến.

2.     Điều hòa.

3.     Chịu đựng.

4.     Thiện.

5.     Tịch diệt.

6.     Chân.

7.     Không tạp.

8.     Không tham.

9.     Vui vẻ.

10.    Rộng lớn.

Đại Bồ-tát đã đầy đủ Địa thứ nhất, muốn đạt Địa thứ hai trước phải phát khởi mười tâm này. Phật tử! Bồ-tát trụ địa Ly cấu, từ xưa đến nay xa ĺa tất cả việc sát sinh, vứt bỏ dao gậy, không có tâm sân hận, biết hổ thẹn; đối với chúng sinh, phát khởi tâm Từ, thường t́m việc vui, không có tâm ác, làm hại chúng sinh, huống ǵ tâm thô ác! Bỏ mọi việc trộm cắp, biết đủ với vật cần dùng, không phá tài sản của người. Vật của người th́ người thọ dụng. Vật của người giữ ǵn, th́ dù một cọng cỏ, lá cây của người ta mà đã không cho, th́ không lấy, huống chi là những vật quý báu hơn. Bỏ tà dâm, bằng tâm với vợ ḿnh, không tham vợ người, không sinh tham dục với vợ người huống ǵ cùng hành dâm. Bỏ nói dối, luôn nói lời chân thật, lời ngay thẳng, không nói dối để làm các điều ác, ngay cả trong mộng cũng không nói dối huống ǵ cố ý nói dối! Bỏ nói hai lưỡi, không có tâm hủy hoại, nghe lời người này không nói lại cho người kia nghe, nghe lời người kia không nói lại cho người này, hòa hợp những người tranh tụng ly tán. Bỏ lời nói ác. Những lời nói thô ác khó nghe làm cho người khác sân hận buồn bậc; hoặc v́ sân hận kiêu mạn làm cho người khác buồn phiền lo sợ không vui thích, đó là tự hại, mà cũng là hại người, tất cả những lời nói ấy đều xả bỏ hết. Nói năng vui vẻ, êm dịu, làm vui lòng người, chuyển hóa tâm người, nhu hòa, đầy đủ, được nhiều người nhớ tưởng, làm cho người khác vui vẻ, phải luôn nói những lời như vậy. Bỏ lời nói thêu dệt, luôn cẩn thận trong lời nói; biết những ǵ nên nói, không nên nói; luôn nói đúng lúc, chân thật, lợi ích, đúng pháp, có chừng mực, không nói đùa, nói cợt. Không nói những lời phù phiếm huống ǵ cố ý nói! Không tham vật của người. Nếu vật thuộc người khác, người khác đã tham trước, đã thâu dụng, th́ không nghĩ là sẽ lấy vật ấy. Bỏ tâm sân hại, hiềm thù, bức não. Đối với chúng sinh luôn khởi tâm tốt, yêu mến, lợi ích, từ bỏ. Bỏ việc xem tướng, làm việc bằng chánh kiến, tin sâu chắc nhân duyên tội phước, bỏ dua nịnh, thành tín Tam bảo, phát tâm vững chắc. Bồ-tát luôn hộ đạo lành, thường suy nghĩ: Chúng sinh đọa vào đường ác, đều do mười nhân bất thiện. Ta nên trụ trong mười pháp lành, nói mười pháp lành cho chúng sinh, để biết chỗ mà tu hành chánh pháp. V́ sao? V́ người nào không làm lành mà nói pháp cho người khác an trụ trong pháp lành th́ không bao giờ có. Bồ-tát lại nghĩ: V́ làm mười pháp ác mà đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh; còn thực hành mười pháp lành th́ được sinh lên cõi người hoặc sinh đến cõi trời Hữu đảnh.

Lại nữa, mười pháp lành này là pháp người trí tuệ, hòa hợp tu tập. Những kẻ tâm yếu đuối thích ít công đức, chán sợ ba cõi, ít tâm đại Bi, nghe pháp chỉ đạt đến Thanh văn thừa. Lại, có người thực hành mười pháp lành này, không nghe pháp từ người khác mà tự nhiên hiểu biết, không đầy đủ đại Bi phương tiện nhưng thâm nhập pháp duyên sinh th́ đật đến Bích-chi-phật thừa. Người thực hành mười pháp lành, đầy đủ thanh tịnh, tâm rộng lớn vô lượng, vô biên, đối với chúng sinh, phát tâm đại Bi, có sức phương tiện, chí nguyện bền vững, v́ không hề bỏ chúng sinh, v́ cầu trí tuệ lớn của Phật, v́ làm thanh tịnh các địa của Bồ-tát, v́ thanh tịnh các Ba-la-mật, thâm nhập hạnh rộng lớn sâu xa.

Lại nữa, thanh tịnh thực hành mười pháp lành này, sẽ đạt được mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Trí vô ngại, đại Từ bi của Phật và đạt được đầy đủ Nhất thiết chủng trí, tu tập pháp của Phật. V́ thế chúng ta nên hành mười pháp lành, luôn cầu Nhất thiết trí.

Bồ-tát lại suy nghĩ: Mười pháp bất thiện này, ở bậc thượng th́ nó là nhân của địa ngục, bậc trung là nhân của súc sinh, bậc hạ là nhân của ngạ quỷ.

Tội sát sinh, làm cho chúng sinh đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. nếu sinh vào cõi người, th́ chịu hai quả báo: Một là chết yểu; hai là nhiều bệnh.

Tội trộm cướp cũng làm cho chúng sinh đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu sinh trong cõi người th́ chịu hai quả báo: Một là nghèo thiếu; hai là có của chung, không có chủ quyền.

Tội tà dâm làm cho chúng sinh đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu sinh vào cõi người, th́ chịu hai quả báo: Một là vợ không trinh thuận; hai là bà con không vừa ý.

Tội nói dối, làm cho chúng sinh đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu sinh vào cõi người, th́ chịu hai quả báo: Một là bị nhiều người phỉ báng; hai là bị nhiều người lừa dối.

Tội nói hai lưỡi cũng làm cho chúng sinh đọa vào ba đường ác.

Nếu sinh vào cõi người, th́ chịu hai quả báo: Một là bị con tệ ác; hai là bà con không hòa thuận.

Tội nói ác làm cho chúng sinh đọa vào ba đường ác. Nếu sinh vào cõi người, th́ chịu hai quả báo: Một là thường nghe tiếng xấu; hai là bị người tranh tụng.

Tội thêu dệt, làm cho chúng sinh đọa vào ba đường ác. Nếu sinh vào cõi người, th́ chịu hai quả báo: Một là nói năng không được người tin; hai là nói năng không rõ ràng.

Tội tham dục, làm cho chúng sinh đọa vào ba đường ác. Nếu sinh vào cõi người, th́ chịu hai quả báo: Một là nhiều dục vọng; hai là không biết chán đủ.

Tội sân não, làm cho chúng sinh đọa vào ba đường ác. Nếu sinh vào cõi người, th́ chịu hai quả báo: Một là luôn bị người moi t́m chỗ hay dở; hai là bị người khác làm hại.

Tội tà kiến, làm cho chúng sinh đọa vào ba đường ác. Nếu sinh vào cõi người, th́ chịu hai quả báo: Một là sinh trong nhà tà kiến; hai là có tâm dua nịnh.

Các Phật tử! Mười pháp bất thiện đều là nhân duyên của các loại khổ đau. Bồ-tát lại nghĩ: V́ sao chúng ta không bỏ mười pháp bất thiện, thực hiện mười pháp thiện và làm cho người khác hành mười pháp thiện? Nghĩ như vậy xong, bỏ mười pháp bất thiện, an trụ mười pháp thiện, lại làm cho người khác cũng phát tâm hành mười pháp thiện.

Lúc này, Bồ-tát ở trong chúng sinh sinh tâm an ổn, tâm hỷ lạc, tâm Từ bi, tâm lân mẫn, tâm lợi ích, tâm thủ hộ; tâm làm thầy, tâm làm thầy giỏi. Có những tâm ấy, rồi lại nghĩ: Chúng sinh rơi vào tà kiến, chạy theo tâm tà, đi trong đường tà nguy hiểm, thật đáng xót thương. Ta nên làm cho chúng sinh này trụ trong đạo chánh kiến và pháp như thật. Chúng sinh thường đấu tranh, sân hận, phân biệt ta người; ta nên làm cho chúng sinh trụ trong tâm đại Từ vô thượng. Chúng sinh không biết chán đủ, thường tham tài vật của người khác, nuôi sống bằng nghề tà vạy; ta nên làm cho chúng sinh, trụ trong nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh. Chúng sinh chạy theo nhân tham lam, sân hận, si mê, thường bị lửa lớn phiền não thiêu đốt, không t́m được cách ra khỏi; ta nên làm cho chúng sinh, dập tắt lửa phiền não an ổn ở nơi mát mẻ. Chúng sinh thường bị vô minh đen tối che lấp, thường vào chỗ tối tăm, cách xa ánh sáng trí tuệ, ở trong đường hiểm sinh tử, rơi vào đủ các tà kiến; ta nên làm cho chúng sinh được tuệ nhãn thanh tịnh vô ngại. Nhờ tuệ nhãn này, biết thật tướng của các pháp, không tùy thuận giáo pháp khác, đạt trí như thật không chướng ngại. Chúng sinh ở trong đường hiểm sinh tử, sắp rơi vào hầm sâu địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, bị nhốt trong lưới tà kiến xấu ác, bị rừng rậm ngu si che mờ, xa cách bậc thầy có trí. Không phải đạo xuất thế lại cho là đạo xuất thế, rơi vào đường ác ma, tùy thuận ý ma, xa cách Phật ý; ta nên độ cho những chúng sinh này, thoát khỏi nạn sinh tử nguy hiểm, đặt chúng trong thành lớn vô úy Nhất thiết trí nhân, không còn những suy não. Chúng sinh ch́m trong dòng thác phiền não, trôi lăn trong dòng dục, hữu, kiến, vô minh; chạy theo sinh tử liên tục không dứt, vào trong sông ái lớn, bị uy lực phiền não cuốn hút, không thể cầu đạo xuất thế; luôn bị các loại trùng độc dục, sân não, gây hại; bị La-sát thân kiến trong biển bắt giữ; rơi trong dòng xoáy sâu xa khổ nạn của năm dục bị bùn tham ái làm ô nhiễm; tiều tụy khô gầy, rơi trong vùng ngã mạn, không nơi hướng tới, không ra khỏi làng xóm giặc oán mười hai nhập, không gặp bậc Đạo sư dắt đi con đường chánh; ta nên làm cho những chúng sinh này sinh đại Từ bi, dùng sức của căn lành mà cứu thoát chúng đến nơi an ổn, xa nơi lo sợ đắm ch́m, trụ trong đảo tuệ báu Nhất thiết trí. Chúng sinh tâm quá tham đắm; luôn bị lo lắng, khổ não, hoạn nạn, yêu ghét trói buộc; bị cột chặt trong cùm dục vọng, đi vào rừng rậm vô minh của ba cõi; ta nên làm cho chúng sinh này ra khỏi những tham chấp ở ba cõi; làm cho chúng sinh an trụ Niết-bàn vô ngại ĺa tướng. Chúng sinh chấp chặt ngã, ngã sở; không ra khỏi hang ổ năm ấm, chạy theo bốn điên đảo, dựa vào làng xóm trống không sáu nhập; bị bốn đại xâm hại; bị các giặc phiền não giết hại; chịu vô lượng khổ não; ta nên làm cho chúng sinh này ĺa tất cả sự tham đắm, trụ trong đạo trí không, vô ngã; đó là Niết-bàn, đoạn tất cả chướng ngại. Chúng sinh có tâm nhỏ hẹp, kém cỏi, thích pháp nhỏ, xa cách Nhất thiết trí tuệ vô thượng. V́ tâm tham chấp tiểu thừa, nên không cầu pháp xuất thế Đại thừa rộng lớn; ta nên làm cho những chúng sinh này trụ tâm rộng lớn, ở trong Phật pháp vô lượng, vô biên; đó là Đại thừa vô thượng.

Các Phật tử! Bồ-tát này thường tùy thuận năng lực tŕ giới, thường khéo mở rộng tâm đại Từ bi. Bồ-tát trụ địa Ly cấu, gặp được trăm ngàn Phật th́ cung kính cúng dường các vật cần dùng như y phục, thức uống ăn, thuốc men, ngọa cụ; ở chỗ chư Phật th́ sinh tâm cung kính, thọ tŕ mười pháp lành. Từ lúc lãnh thọ cho đến lúc đạt Vô thượng Bồ-đề, không hề quên mất. Bồ-tát này đã trải qua vô số trăm ngàn vạn ức kiếp; xa lánh trần cấu, xan tham, phá giới; tịnh tu bố thí, tŕ giới.

Phật tử! Ví như luyện vàng ròng, nếu lọc hết cặn bã ra khỏi quặng, th́ vàng càng sáng rực; cũng thế, Bồ-tát trụ địa Ly cấu này, phải trải qua trăm ngàn vạn ức kiếp xa ĺa trần cấu, sân tham, phá giới; tịnh tu bố thí, tŕ giới. Lúc này trong bốn Nhiếp pháp, Bồ-tát tu nhiều về ái ngữ. Trong mười Ba-la-mật. Giới Ba-la-mật là nhiều thù thắng. Còn các Ba-la-mật khác cũng tu tập nhưng chỉ tùy trụ địa mà tăng trưởng.

Các Phật tử! Đó là Địa thứ hai Ly cấu của Đại Bồ-tát. Bồ-tát trụ ở địa này, thường làm Chuyển luân thánh vương, làm đại Pháp vương, đạt nhiều pháp lực, thành tựu bảy báu, có sức tự tại; trừ hết được trần cấu, xan tham, phá giới của chúng sinh, dùng phương tiện khéo léo làm cho chúng sinh được an trụ trong mười pháp lành; tu bố thí rộng nhưng không cùng tận việc tạo những thiện nghiệp; hoặc bố thí, ái ngữ, lợi ích đồng sự đều không rời nghĩ đến Phật và pháp, không rời nghĩ đến chúng bạn Bồ-tát, không rời nghĩ đến sự hành đạo của Bồ-tát; không rời nghĩ đến các Ba-la-mật, mười Địa, mười Lực, bốn Vô úy, các pháp Bất cộng, cho đến không rời nghĩ về Nhất thiết chủng trí một cách trọn vẹn. Bồ-tát luôn nghĩ: Bất cứ lúc nào, trong chúng sinh, ta cùng đều là người đứng đầu, là tối thắng, là cao lớn, là tốt đẹp, là vô thượng, tối thượng; là người dẫn dắt, là bậc tôn quý, là chỗ dựa cho chúng sinh. 

Các Phật tử! Đại Bồ-tát này nếu bỏ nhà, siêng năng tu tập, th́ trong nháy mắt, bỏ vợ con, nhà cửa, năm dục, xuất gia trong Phật pháp. Đã xuất gia rồi sẽ siêng năng tu tập, trong khoảnh khắc, đạt ngàn môn Tam-muội, gặp ngàn Phật, biết thần lực của ngàn Phật, chấn động ngàn cõi Phật, vượt qua ngàn cõi Phật, chiếu sáng ngàn cõi Phật, hóa độ ngàn thế giới chúng sinh, sống lâu ngàn kiếp, biết mọi việc trong ngàn kiếp quá khứ, hiện tại, vị lai; khéo thâm nhập ngàn pháp môn; biến thành ngàn thân, mỗi thân thị hiện ngàn Bồ-tát quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực tự tại mà thị hiện, th́ hơn số này đến trăm ngàn vạn ức na-do-tha, không thể tính kể.

Lúc ấy, Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn nêu lại nghĩa trên nên nói kệ rằng:

Bồ-tát tâm nhu nhuyến

Tâm điều hòa, chịu đựng

Thiện tâm, tịch diệt tâm

Chân tâm, bất tạp tâm

Không có tâm tham tiếc

Tâm vui và tâm lớn

Đạt đủ mười tâm này

Nhập trụ Địa thứ hai

Bồ-tát trụ địa này

Thành tựu các công đức

Thường ĺa bỏ sát sinh

Không làm hại tất cả

Xa bỏ việc trộm cướp

Không sinh tâm tà dâm

Lời thật, không hai lưỡi

Chẳng nói ác, thêu dệt

Vật sở hữu của người

Không sinh tâm tham chấp

Không tổn não chúng sinh

Trực tâm hành chánh kiến

Không có tâm kiêu mạn

Cũng chẳng tâm dua nịnh

Nhu nhuyến không phóng dật

Hộ tŕ giáo Phật pháp

Những khổ não đớn đau

Địa ngục và súc sinh

Ngạ quỷ, thiêu đốt thân

Đều trừ tâm ác sinh

Nay ta đã trừ hết

Những việc ác như vậy

Hành nghĩa lý chân thật

Pháp lành và tịch diệt

Từ người đến Hữu đảnh

Những nơi hưởng dục lạc

Vui thiền, vui ba thừa

Đều từ mười pháp lành

Suy xét như vậy rồi

Tâm không hề buông bỏ

Tự ḿnh tŕ tịnh giới

Lại dạy người ǵn giữ

Quán sát khắp chúng sinh

Chịu các loại khổ não

V́ thương xót chúng sinh

Phát khởi tâm đại Bi

Phàm phu thật đáng thương

Rơi vào các tà kiến

Tâm mang nhiều sân hận

Luôn thích tranh tụng nhau

Tham đắm trong năm dục

Mong cầu không biết chán

Nhân duyên khởi ba độc

Ta nên độ chúng sinh

Bị ngu si che mờ

Đi đường hiểm sinh tử

Rơi trong lưới tà kiến

Nhốt trong lồng thế gian

Luôn bị các giặc ma

Và phiền não gây hại

Chúng sinh thật đáng thương

Ta nên độ thoát chúng

Ch́m sâu biển phiền não

Trôi dạt trong bốn dòng

Chịu đủ trăm ngàn thứ

Khổ não của ba cõi

Ở trong hang năm ấm

Sinh tâm ngã, ngã sở

Ta v́ độ khổ này

Nên siêng năng hành đạo

Bỏ tuệ Phật vô thượng

Lại sinh tâm thấp kém

Làm cho trụ trí Phật

Phát vô lượng tinh tấn

Bồ-tát trụ địa này

Có vô số công đức

Được gặp các Đức Phật

Phụng sự và cúng dường

Chính v́ nhân duyên này

Căn lành càng sáng tịnh

Ví như vàng ròng tốt

Được lọc ra khỏi quặng

Phật tử trụ địa này

Thường làm Chuyển luân vương

Làm cho các chúng sinh

Trụ trong mười pháp lành

Từ phát tâm đến giờ

Tu tập các phước đức

Nguyện cứu độ thế gian

Đạt mười Lực của Phật

Nếu muốn bỏ ngôi vua

Xuất gia tu học đạo

Tâm siêng năng tu tập

Thâm nhập ngàn Tam-muội

Được thấy ngàn Đức Phật

Cúng dường nghe nhận pháp

Bồ-tát trụ địa này

Thị hiện việc như vậy

Nếu dùng nguyện lực ḿnh

Thị hiện các thần thông

Độ thoát những chúng sinh

Hơn số này vô lượng

Luôn luôn v́ thế gian

T́m cầu những việc tốt

Đã giảng nói đầy đủ

Hạnh nghiệp Địa thứ hai.

KINH THẬP TRỤ

Quyển 1   Quyển 2   Quyển 3   Quyển 4

KINH THẬP TRỤ

Hán dịch: Đời Hậu Tần, Tam tạng Cưu-ma-la-thập, người nước Quy Tư.

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 2

Phẩm 3: ĐỊA MINH

Các Bồ-tát nghe được

Hạnh không thể nghĩ bàn

Trong tâm vui khôn tả

Cung kính khó thể lường

Lúc ấy, trong hư không

Mưa các loại hoa thơm

Hoa nhiều như đám mây

Cúng dường Kim Cang Tạng

Đều khen ngợi lành thay!

Lành thay! Kim Cang tạng

Khéo nói các đại nhân

Thanh tịnh hộ tŕ giới

Ở trong các chúng sinh

Phát tâm Từ bi lớn

Tŕnh bày và giảng nói

Hành xứ Địa thứ hai

Hạnh vi diệu Bồ-tát

Chân thật không thay đổi

Những vị Bồ-tát này

Đầy đủ hạnh thanh tịnh

V́ tất cả chúng sinh

Luôn cầu việc tốt đẹp

Địa Tịnh minh thứ hai

Nay đã giảng thuyết xong

Đấng trời người cung kính

Xin nói Địa thứ ba

Khéo thị hiện các hạnh

Bồ-tát hành bằng trí

Xin nói các đại nhân

Làm sao hành bố thí

Giữ giới và nhẫn nhục

Hành tinh tấn thiền định

Trí tuệ cùng phương tiện

Và tâm Từ bi lớn

Làm sao hành pháp ấy

Thanh tịnh nơi hạnh Phật.

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt Lại hỏi Kim Cang Tạng:

Bồ-tát dùng tâm ǵ

Đến được Địa thứ ba.

Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng, nói với Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt:

–Phật tử! Các Đại Bồ-tát tâm thanh tịnh sâu xa, hành Địa thứ hai xong; muốn đạt được Địa thứ ba, phải dùng mười tâm để đạt được. Mười tâm đó là ǵ? Đó là các tâm: 1. Tịnh. 2. Mạnh mẽ lợi ích. 3. Chán xa. 4. Ĺa bỏ. 5. Bất thoái. 6. Kiến cố. 7. Minh thịnh. 8. Không tự mãn. 9. Vui vẻ. 10. Rộng lớn.

Các Phật tử! Đại Bồ-tát dùng mười tâm này nhập Địa thứ ba, quán sát tướng như thật của các pháp hữu vi. Đó là vô thường, khổ, không, vô ngã, bất tịnh, không tồn tại, không thể tin tưởng, niệm niệm sinh diệt. Lại không sinh, không diệt, không đến từ quá khứ, không đi về vị lai, hiện tại không dừng. Cứ thế, Bồ-tát quán thật tướng của các pháp hữu vi. Biết các pháp này; không tạo tác, không phát khởi, không đến đi. Những chúng sinh th́ bị ưu bi, khổ não, yêu ghét trói buộc, không ngừng chứa nhóm, không nơi kiên định, luôn bị lửa tham, sân, si thiêu đốt, thổi hừng ngọn lửa khổ não của đời sau, không có thật tánh, như huyễn hóa. Thấy vậy rồi, Bồ-tát dần chán xa hết thảy các pháp hữu vi, hướng đến trí tuệ Phật. Bồ-tát này, biết được trí tuệ của Như Lai là không thể nghĩ bàn, không thể xưng kể; có uy lực lớn không ai hơn được; không có tướng tạp loạn; không có các khổ, suy não, ưu bi, đến được thành lớn an ổn không lo sợ; không còn trở lại; cứu độ vô lượng chúng sinh khổ não. Do vậy thấy biết được trí của Phật là vô lượng, pháp hữu vi là vô lượng khổ não; đối với tất cả chúng sinh phải phát mười tâm thù thắng. Mười tâm đó là ǵ? Đó là: Chúng sinh đáng thương; cô độc không ai cứu; chịu khổ không chỗ nương; lửa ba độc bừng cháy không dứt; bị nhốt trong ngục tam hữu chắc chắn; luôn sống trong rừng ác phiền não; không có sức chánh quán; ở trong pháp lành bị tâm dục lạc trói buộc; mất diệu pháp của chư Phật; luôn trôi theo dòng sinh tử; sợ Niết-bàn. Bồ-tát này, thấy chúng sinh có nhiều khổ não, nên phát tinh tấn lớn, cứu độ chúng sinh, giải thoát chúng sinh, làm cho chúng sinh được thanh tịnh, được cứu thoát, ưa thích pháp lành, an trụ vui vẻ, biết những việc cần làm, cứu độ, diệt trừ khổ não. Bồ-tát này, xa ĺa tất cả pháp hữu vi, luôn nghĩ đến tất cả chúng sinh, thấy Nhất thiết trí của Phật có vô số lợi ích nên muốn được đầy đủ trí tuệ của Phật để cứu độ chúng sinh, siêng hành đạo Bồ-tát, và luôn nghĩ: Ta phải dùng phương tiện ǵ, nhân duyên ǵ để cứu những chúng sinh đang rơi trong khổ lớn phiền não, được ra khỏi và an trụ vĩnh viễn trong thường lạc cứu cánh, biết trụ trong trí tuệ giải thoát vô ngại mới có thể đạt được trí tuệ giải thoat vô ngại này, không rời trí như thật thông đạt các pháp, hành tuệ vô hành. Ánh sáng trí tuệ đó, do đâu có được? Phải biết trí tuệ đó không ngoài đa văn quyết định. Lại nghĩ: Các pháp vô ngại giải thoát của chư Phật lấy ǵ làm gốc? Gốc của nó chính là việc nghe pháp. Nghĩ như vậy, Bồ-tát lúc nào cũng siêng năng cầu pháp, ngày đêm luôn thích nghe pháp không biết chán, tâm không ngừng nghỉ, vui pháp, mến pháp, nương pháp, theo pháp, trọng pháp, trung thành với pháp, quy y pháp, cứu độ pháp, tùy thuận hành pháp; Bồ-tát với phương tiện như vậy, th́ đối với châu báu, của cải vàng bạc, kho tàng không luyến tiếc, cầu pháp không thấy những vật ấy là khó được, chỉ lo khó gặp Pháp sư. V́ cầu pháp mà mọi vật trong ngoài có được ở thế gian đều có thể đem bố thí cả. Những vật đó là đất nước, nhân dân, quyến thuộc, sản nghiệp, ruộng vườn, tài vật, ngọc báu ma-ni, vàng bạc kho tàng, voi, ngựa, xe cộ, trân bảo, anh lạc, đồ trang sức, vợ con, trai gái, tay, chân, tai, mắt, mũi, lưỡi, bố thí cả toàn thân không hề tham tiếc. Cũng v́ cầu pháp, mà đối với Pháp sư, phải tận tâm cung kính, cúng dường hầu hạ, phá trừ kiêu mạn, ngã mạn, đại mạn… các khổ não xấu ác, những việc trái lý đều có thể chịu đựng. V́ thành thật cầu pháp, nên được một câu pháp chưa từng được nghe, th́ mừng hơn được trân bảo đầy cả tam thiên đại thiên thế giới. Được nghe một bài kệ chánh pháp, còn hơn vô lượng ức kiếp được làm Chuyển luân thánh vương, Thích Đềhoàn Nhân, Phạm thiên vương. Nếu có người đến nói với Bồ-tát: Ta cho ông nghe một câu kinh mà Phật giảng, có thể thanh tịnh đạo hạnh của Bồ-tát, nếu như ông vào hầm lửa lớn làm người chịu khổ não lớn, th́ ta mới ban cho. Bồ-tát liền nghĩ: Ta v́ lãnh thọ một câu pháp mà phải chịu đựng ở trong hầm lửa của tam thiên đại thiên thế giới, Ta từ cõi Phạm thiên rơi xuống còn được, huống ǵ chỉ bị rơi trong hầm lửa nhỏ! V́ cầu pháp, ta chịu hết tất cả khổ não của địa ngục, huống ǵ khổ não nhỏ của cõi người. V́ cầu pháp mà phát tâm như vậy.

Lại nữa, Bồ-tát phải luôn vui vẻ với pháp đã nghe, phải quán sát đúng đắn; nghe pháp xong phải hàng phục tâm, ở chỗ thanh vắng, tâm luôn nghĩ: Thực hành đúng pháp sẽ đạt Phật pháp, không phải chỉ là lời nói suông ở miệng. Bồ-tát như vậy có thể an trụ địa Minh, ĺa các ái dục và pháp bất thiện, có giác, có quán, ly sinh hỷ lạc, nhập Sơ thiền. Diệt giác quán, bên trong tâm thanh tịnh, an trụ một chỗ, không giác không quán, định sinh hỷ lạc, nhập Nhị thiền. Ly hỷ, hành xả tâm niệm, an ổn bằng tuệ, thân thọ lạc, nhập Tam thiền. Đoạn lạc, đoạn khổ, trước diệt ưu hỷ; không còn khổ không còn lạc, hành, xả, niệm đều thanh tịnh, nhập Tứ thiền. Bồ-tát này vượt qua các sắc tướng, diệt tất cả tướng hữu đối, không nghĩ đến tướng sai khác, biết hư không vô biên, liền nhập định cõi thức vô sắc. Vượt qua hết thảy vô sở hữu xứ, biết sự an ổn của phi hữu tưởng phi vô tưởng, liền nhập định phi hữu tưởng phi vô tưởng vô sắc. Chỉ tùy thuận pháp mà hành chứ không tham chấp.

Bồ-tát này nhờ tâm Từ rộng lớn vô lượng; không sân, không hận, không làm hại, có sức tin hiểu, rộng khắp một phương, hai phương, ba phương, bốn phương, bốn góc, trên dưới cũng vậy; tâm Bi, tâm Hỷ, tâm Xả rộng lớn vô lượng, không sân, không hận, không não hại, có sức tin hiểu rộng khắp một phương, hai, ba, bốn phương; bốn góc trên, dưới cũng lại như vậy. Bồ-tát này có đủ các sức thần thông, có thể làm chấn động đại địa, biến một thân thành nhiều thân, nhiều thân thành một thân, hiện mất, rồi lại xuất hiện, vượt qua cả tường đá, núi cao chướng ngại, đi trong hư không, ở trong hư không, kiết già, tới lui, ví như chim bay; ra vào đất như đi vào nước, đi trên nước như đi trên đất, thân phóng khối ánh lửa lớn; mặt trời, mặt trăng có oai lực thần đức lớn mà Bồ-tát có thể dùng tay chạm được; thần lực tự tại lên đến cõi Phạm thiên.

Bồ-tát này, dùng Thiên nhĩ thanh tịnh, vượt hơn tai người nghe hết âm thanh xa gần của trời, người. Bồ-tát này, dùng Tha tâm trí biết như thật tâm người khác. Tâm ô nhiễm th́ biết như thật là tâm nhiễm ô; tâm ĺa nhiễm ô th́ biết như thật là tâm ĺa nhiễm ô. Tâm sân, ĺa tâm sân, tâm si, ĺa tâm si, tâm cấu uế, ĺa tâm cấu uế; tâm lớn, tâm nhỏ; tam tán loạn th́ biết như thật là tâm tán loạn; tâm định, tâm bất định; tâm bị trói buộc, tâm cởi mở; tâm cao thượng, tâm không cao thượng th́ biết như thật là tâm cao thượng hay không cao thượng. Như vậy là dùng tâm ḿnh để biết tâm người.

Bồ-tát này, biết đời sống, nơi thọ sinh kiếp trước; biết một đời, hai, ba, bốn, năm đời cho đến mười, hai mươi, ba mươi, bốn mươi, năm mươi, một trăm, ngàn, vạn, trăm ngàn vạn ức na-do-tha đời; biết một kiếp, hai kiếp cho đến trăm ngàn vạn ức na-do-tha vô lượng vô số kiếp. Trong những kiếp ấy, có vô số sự thành hoại, biết được nhân duyên trải qua trong các kiếp ấy. Biết ta sinh ở nơi đó, dòng họ đó, tên đó, ăn uống như vậy, khổ vui như vậy, sống lâu như vậy; biết ta chết ở đó mà sinh ở cõi này; biết chết ở cõi này mà sinh ở cõi kia; nhớ biết hết tất cả nhân duyên tướng mạo.

Bồ-tát này dùng Thiên nhãn thanh tịnh vượt hơn mắt người, thấy chúng sinh sống chết, h́nh sắc đẹp xấu, thiện ác, nghèo khổ, giàu sang, đến cõi lành, cõi ác, theo nghiệp chịu quả báo, tất cả đều biết như thật. Đó là: Biết chúng sinh này, thành tựu nghiệp ác về thân, khẩu, ý, chống nghịch Hiền thánh, tin thọ tà kiến; do nhân duyên nghiệp tội nên thân chết đọa vào đường ác, sinh vào địa ngục. Các chúng sinh này, thành tựu nghiệp thiện về thân, nghiệp thiện miệng, nghiệp thiện ý, không nghịch Thánh hiền. Do nhân duyên nghiệp thiện này nên sau khi chết, được sinh lên trời.

Bồ-tát này thường ra vào thiền định Tam-muội giải thoát nhưng không tùy sinh; chỉ thấy nơi nào có pháp trợ Bồ-đề th́ v́ nguyện lực nên sinh ở đó. Bồ-tát trụ địa Minh, thấy được trăm ngàn vạn ức na-do-tha các Đức Phật, hết sức cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi; cung phụng y phục, thức ăn uống, ngọa cụ, thuốc men; gần gũi chư Phật để nghe nhận kinh pháp; nghe pháp rồi th́ tùy lực mà thực hành.

Lúc ấy, Bồ-tát quán các pháp không sinh, không diệt, chúng đều do duyên sinh. Trải qua trăm ngàn vạn ức kiếp bị dục trói buộc, bây giờ dần dần mới thoát khỏi hết những trói buộc của hữu, những trói buộc của vô minh; tất cả đều không còn chứa nhóm nữa. V́ không chứa nhóm, nên đoạn trừ được tà tham, sân, si.

Phật tử! Ví như vàng ròng mà được người thợ mài dũa, th́ càng đẹp hơn, ánh sáng nó gấp bội. Bồ-tát cũng vậy trụ địa Minh không bị ba sự trói buộc, đoạn trừ tà tham, sân, si, căn lành dần tăng trưởng và sáng tịnh. Bồ-tát này đủ tâm nhẫn nhục; tâm nhu nhuyến, tâm mỹ diệu, tâm không hoại, không động, không ô trược, không cao thấp; tâm làm mọi việc mà không mong cầu báo đáp; ai làm ǵ cho ḿnh dù nhỏ, cũng luôn có tâm báo đáp; tâm không dua nịnh, không nhiễm loạn, dần dần được sáng sạch.

Lúc ấy, Bồ-tát ở trong bốn Nhiếp pháp, thực hành nhiều về ái ngữ và lợi hành. Trong mười Ba-la-mật, tu nhiều về Nhẫn nhục và Tinh tấn ba-la-mật. Các pháp trợ Bồ-đề khác cũng đều thông sáng. 

Phật tử! Đó là địa Minh, Địa thứ ba của Bồ-tát. Đại Bồ-tát, ở trụ địa này, thường làm Thích Đề-hoàn Nhân, trí tuệ nhanh lẹ, thường dùng nhân duyên phương tiện, chuyển hóa chúng sinh; làm cho chúng sinh ĺa dâm dục, mọi việc làm lành như bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự đều không rời nghĩ về Phật, cho đến không rời nghĩ về cụ túc Nhất thiết chủng trí. Thường sinh tâm nghĩ: Bất cứ lúc nào, ở trong chúng sinh ta cũng là người đứng đầu, tôn quý, làm chỗ dựa cho tất cả chúng sinh. Vị ấy nếu siêng năng tu tập, th́ chẳng bao lâu sẽ đạt mười vạn Tam-muội, cho đến việc có thể thị hiện được mười vạn Bồ-tát làm quyến thuộc, tùy nguyện lực thần thông tự tại không thể kể được. Dù trải qua trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp cũng không thể đếm biết được.

Lúc ấy, Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn làm sáng tỏ lại nghĩa trên, bèn nói kệ rằng:

Bồ-tát dùng tâm này

Đạt trụ Địa thứ ba

Tâm tịnh, tâm chán xa

Tâm ĺa, tâm bất thoái

Vững tâm, kham nhận tâm

Tâm vui, tâm rộng lớn

Dùng những tâm như vậy

An nhập Địa thứ ba

Bậc trí trụ địa Minh

Quán các pháp hữu vi

Bất tịnh, vô thường, khổ

Vô ngã, tướng hư hoại

Không có tánh chắc thật

Không tồn tại, luôn diệt

Suy xét biết như vậy

Như bệnh và ung nhọt

Bị tâm ái trói buộc

Sinh các khổ ưu bi

Chỉ v́ ngọn lửa dữ

Tham, sân, si thiêu đốt

Từ vô thỉ đến nay

Hừng hực không dừng nghỉ

Bấy giờ, sinh nhàm chán

Tất cả pháp ba cõi

Tâm không hề tham chấp

Pháp hữu vi: Giặc ác

Chỉ cầu trí tuệ Phật

Vô biên, vô hạn lượng

Sâu xa khó nghĩ bàn

Thanh tịnh, không khổ não

Thấy trí Phật như vậy

Không còn những khổ đau

Thương yêu các chúng sinh

Nghèo thiếu không phước tuệ

Lửa ba độc luôn đốt

Không một ai cứu hộ

Đọa vào trong địa ngục

Trăm thứ khổ bức não

Kẻ phàm phu buông thả

Ch́m trong nhà phiền não

Mù tối không thấy biết

Mất của báu Phật, pháp

Trôi theo dòng sinh tử

Mà không hề lo sợ

Đối với chúng sinh này

Ta nên siêng độ thoát

Siêng năng cầu trí tuệ

Làm người đem lợi ích

Suy nghĩ t́m cách ǵ

Để cứu độ được chúng

Chỉ có các Như Lai

Trí vô ngại tốt, sâu

Trí này từ đâu sinh

Được sinh từ trí tuệ

Suy xét trí tuệ này

Siêng cầu pháp nghe nhiều

Ngày đêm luôn tinh tấn

Nghe nhận không lười chán

Tụng đọc, ham thích pháp

Chỉ có pháp là quý

V́ mong cầu chánh pháp

Đem những đồ châu báu

Vợ con, người thân yêu

Các quyến thuộc tùy tùng

Đất nước hay xóm làng

Những vật để nuôi sống

Vui vẻ và ban cho

Tâm không có tham tiếc

Đầu, mắt, tai và mũi

Lưới, răng, cùng tay chân

Xương, thịt, thân và máu

Tim, gan, cùng tủy, não

Đem cho người tất cả

Vẫn không xem là khó

Muốn được nghe chánh pháp

Mới là điều khó nhất!

Giả sử có người nào

Nói với Bồ-tát rằng:

Nay ngươi hãy nhảy vào

Đống lửa hừng hực kia

Sau đó ta sẽ nói

Phép của chư Phật dạy

Nghe rồi liền vui mừng

Tự nhảy vào đống lửa.

Giả sử ngọn lửa dữ

Đang đốt ngàn cảnh giới

Từ cung trời rơi xuống

Vẫn không cho là khó

Chỉ cầu mong cầu một câu

Pháp chư Phật thuyết giảng

Cứu độ người khổ não

Được việc đó mới khó

Từ lúc mới phát tâm

Đến lúc thành Phật đạo

Trong khoảng thời gian ấy

Hết bao nhiêu kiếp số

V́ mong cầu giáo pháp

Chịu khổ ngục A-tỳ

Huống là ở cõi người

Chỉ chịu khổ nhỏ nhặt

Nhờ nhân duyên nghe pháp

Phát sinh các thiền định

Các Tam-muội sâu xa

Và năm thứ thần thông

Tuần tự phát khởi hết

Tự tại không tùy sinh.

Bồ-tát trụ địa này

Dùng tâm ý quyết định

Thường cúng dường chư Phật

Nghe nhận những giáo pháp

Đoạn tà kiến sân hận

Các phiền não giảm bớt

Giống như luyện vàng ròng

Điều hòa được vừa ý

Bồ-tát trụ Địa này

Phước đức đầy tràn kho

Thường làm vua Đao-lợi

Tự tại độ kẻ dục

V́ thích công đức Phật

Hóa độ vô lượng chúng

Làm cho chúng an trụ

Trong Phật đạo Vô thượng.

Siêng năng mà tu tập

Đạt trăm ngàn Tam-muội

Được gặp các Đức Phật

Thân trang nghiêm tướng tốt

Tâm chí dần lanh lợi

Nguyện lực được thù thắng

Luôn luôn v́ chúng sinh

Siêng làm những việc tốt

Phân biệt giảng thuyết đó

Địa thứ ba địa Minh.

Phẩm 4: ĐỊA DIỆM

Các Phật tử nghe giảng

Tướng nghĩa, Địa thứ ba

Sâu xa không hạn lượng

Đều vui mừng khôn tả

Rải các loại hoa thơm

Cúng dường các Như Lai

Đất rộng và biển lớn

Đều chấn động rền vang

Các ngọc nữ cõi trời

Đang ở trong hư không

Cùng cất tiếng vi diệu

Khen pháp tối thượng này

Tha hóa tự tại vương

Nghe được rất vui mừng

Làm mưa báu ma-ni

Rải cúng dường Đức Phật

Vui mừng khen ngợi rằng

Hay thay! Phật ra đời

Kho công đức ban cho

Lợi ích khắp chúng ta

Nay ta đã được nghe

Tướng nghĩa Bồ-tát địa

Việc này trăm ngàn kiếp

Khó nghe, lại được nghe

Xin giảng thuyết địa sau

Lợi ích trời và người

Tất cả muốn được nghe

Đạt hành tướng các địa

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt

Lại thỉnh Kim Cang Tạng

Xin v́ các Bồ-tát

Thuyết hạnh Địa thứ tư.

Lúc ấy, Bồ-tát Kim Cang Tạng, nói với Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt:

–Phật tử! Các Đại Bồ-tát đã đầy đủ hạnh thanh tịnh của Địa thứ ba rồi, muốn đạt Địa thứ tư, phải dùng mười pháp môn sáng để nhập.

Mười pháp đó là ǵ?

1.     Suy xét tánh chúng sinh.

2.     Suy xét tánh của pháp.

3.     Suy xét tánh của thế giới.

4.     Suy xét tánh của hư không.

5.     Suy xét tánh của thức.

6.     Suy xét tánh của cõi dục.

7.     Suy xét tánh của cõi sắc.

8.     Suy xét tánh cõi vô sắc.

9.     Suy xét tánh của vui vẻ tin hiểu.

10.    Suy xét tánh của tâm lớn.

Các Phật tử! Bồ-tát nhờ mười pháp môn sáng này mà từ Địa thứ ba được nhập Địa thứ tư. Các Phật tử! Đại Bồ-tát được địa Diệm thứ tư, th́ được ở nhà Như Lai, dần dần có nhiều uy lực, đạt nội pháp, có mười loại trí. Mười trí đó là ǵ?

1.     Tâm không thoái chuyển.

2.     Đạt trí rốt ráo thanh tịnh, có tâm tin Tam bảo không hư hoại.

3.     Tu tập quán pháp sinh diệt.

4.     Tu tập quán các pháp từ xưa đến nay vốn không sinh.

5.     Tu tập biết hoàn chuyển hạnh thế gian.

6.     Tu tập biết do nghiệp mà thọ sinh.

7.     Tu tập biết phân biệt sự sai khác của sinh tử.

8.     Tu tập biết nghiệp sai khác của chúng sinh.

9.     Tu tập biết sự sai khác đời trước, đời sau.

10.    Tu tập biết các hành ở hiện tại luôn diệt, không trụ.

Nhờ mười tâm trí này mà được sinh vào nhà của Phật, dần dần có uy lực. Lại nữa, các Phật tử! Đại Bồ-tát trụ Địa thứ tư, quán nội thân, toàn thân, siêng năng nhất tâm trừ tham ưu của thế gian. Quán ngoài thân, toàn thân; siêng năng nhất tâm trừ tham ưu của thế gian. Quán thọ bên trong, thọ bên ngoài, thọ bên trong bên ngoài; tâm bên trong, tâm bên ngoài, tâm bên trong, ngoài, pháp bên trong, pháp bên ngoài, pháp bên trong bên ngoài; quán toàn pháp, siêng năng nhất tâm trừ tham ưu thế gian. Bồ-tát này, siêng năng phát tâm chân chánh, không cho những pháp ác bất thiện chưa sinh phát sinh; phát tâm tinh tấn chân chánh, đoạn trừ những pháp ác đã sinh; siêng năng phát tâm chân chánh làm phát sinh những pháp lành chưa sinh; siêng năng phát tâm chân chánh an trụ không mất và làm tăng trưởng rộng lớn những pháp lành đã sinh. Bồ-tát này tu hành bốn Như ý phần: Thành tựu dục định đoạn hành như ý phần; chỗ nương tựa yểm, ly, diệt, hồi hướng bằng xả, thành tựu tinh tấn định đoạn như ý phần; thành tựu tâm định đoạn hành như ý phần; thành tựu tư duy định đoạn hành như ý phần; chỗ nương tựa yểm, ly, diệt, hồi hướng bằng xả. Bồ-tát này tu hành tín căn, chỗ nương tựa yểm, ly, diệt, hồi hướng bằng xả; tu hành tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn, chỗ nương tựa yểm, ly, diệt, hồi hướng bằng xả; Bồ-tát này tu hành niệm giác phần, chỗ nương tựa yểm, ly, diệt, hồi hướng bằng xả; tu hành trạch pháp, tinh tấn, hỷ, trừ, định, xả giác phần, chỗ nương tựa yểm, ly, diệt, hồi hướng bằng xả. Bồ-tát này tu hành chánh kiến, chỗ nương tựa yểm, ly, diệt, hồi hướng bằng xả; tu hành chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định, chỗ nương tựa yểm, ly, diệt, hồi hướng bằng xả. Bồ-tát tu hành không bỏ tâm chúng sinh, nhờ sức bản nguyện, lấy tâm đại Bi làm đầu, thực hành cùng tâm đại Từ mà thâu nhiếp Nhất thiết trí, nghiêm trang cõi Phật, có đủ các Lực, Vô úy, pháp Bất cộng, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Phật; đầy đủ âm thanh; tùy thuận pháp giải thoát sâu xa của Phật mà suy xét phương tiện trí tuệ lớn để tu hành.

Các Phật tử! Đại Bồ-tát trụ ở địa Diệm, th́ những thân kiến, ngã, chúng sinh, nhân, thọ, người biết, người thấy, năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới, đối với sự đứng lên, co, duỗi, ra, vào, t́m cầu tâm sở hành, ái trước vật báu, coi trọng sở kiến, là nơi quy thú, là bến bãi đều đoạn trừ hết. Bồ-tát càng thêm tinh tấn, tùy sự tu hành pháp trợ đạo mà trí tuệ phương tiện phát sinh; tâm dần dần được nhu hòa, chịu đựng hữu ích; tâm không lười mỏi, cầu pháp cao thượng, trí tuệ thêm lớn, cứu tất cả thế gian, tùy thuận Pháp sư, cung kính thọ giáo, thực hành theo lời dạy. Lúc ấy, Bồ-tát biết ân, báo ân, tâm dần dần hòa thiện, ở trong sự an lạc; có tâm ngay thật, nhu nhuyến, không tà vạy; hành hạnh chánh định, không kiêu mạn; uyển chuyển lời lẽ, tùy thuận dạy dỗ, người nghe vừa ý; đầy đủ tâm thiện, tâm nhu nhuyến, tâm tịch diệt, tâm nhẫn nhục như vậy; rồi suy xét tu hành các pháp Tịnh địa. Lúc này, Bồ-tát thành tựu tinh tấn không thoái chuyển: Tinh tấn không bỏ, tinh tấn không hoại, tinh tấn không chán, tinh tấn không lười mỏi; tinh tấn rộng lớn, tinh tấn vô biên mãnh lợi, tinh tấn vô đẳng đẳng, tinh tấn cứu tất cả chúng sinh; tinh tấn phân biệt đúng đạo, trái đạo. Bồ-tát này tâm trí thanh tịnh, không mất tâm sâu xa, tin hiểu sáng suốt, các căn lành tăng trưởng, xa ĺa cấu trược của thế gian; bất tín, nghi, hối đều chấm đứt, không nghi, không hối, thành tựu đầy đủ các pháp ấy, không chán bỏ những việc lớn, tin hiểu Phật pháp, tự nhiên an lạc, luôn có tâm vô lượng. Bồ-tát trụ Địa thứ tư địa Diệm này, thấy được trăm ngàn vạn ức na-do-tha Phật; cung kính, tôn trọng, ngợi khen, cúng dường y phục, thức ăn uống, ngọa cụ, thuốc men; gần gũi chư Phật, nhất tâm nghe pháp, nghe rồi tin tưởng phụng hành, thường ở chỗ Phật xuất gia tu đạo. Bồ-tát này tâm an lạc, sâu xa, thanh tịnh, tin hiểu, b́nh đẳng, ngày thêm sáng suốt, sống lâu trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp, căn lành ngày đêm tăng trưởng. Các Phật tử! Ví như vàng ròng mà làm đồ trang sức th́ những đồ khác không bằng. Đại Bồ-tát cũng vậy, trụ ở địa Diệm này th́ các căn lành ngày thêm sáng suốt, các Bồ-tát ở địa dưới không bằng. Ví như ngọc ma-ni, ánh sáng trong suốt chiếu khắp bốn phương, các trân bảo khác không bằng, dù bị ngấm nước mưa, ánh sáng vẫn không mất. Bồ-tát cũng vậy, trụ ở địa Diệm th́ các Bồ-tát ở địa dưới không sánh bằng. Tất cả các loại ma chướng, phiền não đều không thể hủy hoại trí tuệ của vị này. Các Phật tử! Đó là lược nói Địa thứ tư địa Diệm của Đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát trụ ở địa này, thường làm Thiên vương Dạ-ma, giáo hóa nhiều chúng sinh, phá trừ tâm chấp ngã, tu tập thiện nghiệp như bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự; đều không rời niệm Phật, không rời niệm và không rời niệm các đại Bồ-tát là bạn pháp; cho đến không rời niệm cụ túc Nhất thiết chủng trí. Luôn nghĩ: Bất cứ lúc nào, ở trong chúng sinh cũng luôn là người đứng đầu, người tôn quý, cho đến làm chỗ nương tựa cho tất cả chúng sinh. Đại Bồ-tát này, nếu siêng năng tu tập, th́ trong khoảnh khắc, đạt trăm ức Tam-muội, thị hiện được trăm ức Bồ-tát quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực, tự tại thị hiện, th́ hơn cả số này, tới trăm ngàn vạn ức na-do-tha, không sao kể hết được.

Lúc ấy, Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn nêu lại nghĩa trên, nên nói kệ rằng:

Các Bồ-tát đầy đủ

Tu tập địa Minh rồi

Quán tánh của chúng sinh

Tánh pháp, tánh ba cõi

Tánh hư không, tánh thức

Tin hiểu, tánh ba cõi

Tâm thanh tịnh sâu xa

Nhập trụ Địa thứ tư

Ở trong nhà Như Lai

Dần dần được uy lực

Không thoái chuyển Phật đạo

Không hoại tin Tam bảo

Quán sinh, diệt, vô tác

Biết vận chuyển thế gian

Từ nghiệp nên mới có

Sinh tử khác Niết-bàn

Biết nghiệp của chúng sinh

Quán pháp lúc trước sau

Không trụ tướng thường đoạn

Mạnh mẽ ở nhà Phật

Các Đại Bồ-tát này

Đã đạt những pháp đó

Thương yêu các chúng sinh

Tu thân, thọ, tâm, pháp

Trong ngoài bốn Niệm xứ

Nương tựa nơi yểm ly

Và nương tựa tịch diệt

Hồi hướng về Niết-bàn

V́ trừ diệt pháp ác

Thiện pháp được tăng trưởng

Tu hành bốn Chánh pháp

Và bốn phần Như ý

Phụng v́ năm Căn, Lực

Tám Chánh, bảy Giác ý

Tu tập các pháp ấy

Đều là v́ chúng sinh

Tâm Từ bi làm gốc

Hộ trợ cho bản nguyện

Mong cầu Nhất thiết trí

Thanh tịnh các cõi Phật

Đủ công đức mười Lực

Vô úy, pháp Bất cộng

Các âm thanh ngôn thuyết

Pháp đạo sâu vi diệu

Và giải thoát vô ngại

Phương tiện đại trí tuệ

Theo thân kiến làm gốc

Có sáu hai tà kiến

Chúng sinh kiến, nhân kiến

Mạng kiến và tri kiến

Đối với ấm giới nhập

Là chỗ sinh tham chấp

Đạt Địa thứ tư này

Đoạn trừ hết tất cả

Tùy đoạn nghiệp phiền não

Tâm cũng được tịnh theo

Tu tập các nghiệp lành

Đều v́ cứu thế gian

Bồ-tát tâm nhu nhuyến

Luôn sống không buông thả

Tâm chịu đựng, chánh trực

Tâm cầu lợi chúng chánh

Làm những việc như vậy

Đều v́ đạo vô thượng

Đấng có trí tuệ lớn

Làm lợi ích thế gian

Thâm tâm kính dưỡng sư

Vui tu theo lời dạy

Biết ân và báo ân

Chuyển hóa không sân hận

Không có tâm tà vạy

Cùng vui vẻ, nhu hòa

Tu tập các pháp ấy

Tinh tấn không thoái chuyển

Bồ-tát trụ địa này

Thâm tâm và trực tâm

Tinh tâm và tin hiểu

Ngày càng thêm sáng tịnh

Tăng trưởng các căn lành

Pháp nghi, hối, cấu, trược

Tất cả mọi pháp ấy

Đều trừ diệt không còn

Các Bồ-tát an trụ

Địa thứ tư địa Diệm

Gặp được vô lượng Phật

Học hỏi lãnh thọ pháp

Lại ở chỗ chư Phật

Xuất gia không ai hoại

Như vàng ròng trang sức

Các thứ khác không bằng

Bồ-tát trụ địa này

Công đức tâm sâu xa

Trí tuệ và phương tiện

Thực hành đạo thanh tịnh

Cho dù ngàn ức ma

Đều không thể hủy hoại

Như minh châu vi diệu

Không bị nước mưa hoại

Bồ-tát trụ địa này

Được trời người cúng dường

Thường làm vua Dạ-ma

Chuyển hóa kẻ tà kiến

Tu tập các nghiệp lành

Đều v́ trí tuệ Phật

Tâm luôn luôn vững chãi

Không ai lay chuyển được

Nếu siêng năng tu tập

Đạt trăm ức Tam-muội

Gặp được trăm ức Phật

Nguyện lực th́ hơn đây

Trụ Địa thứ tư này

Thanh tịnh tên là Diệm

Đủ vô lượng phước đức

Nay đã giảng nói xong.

Phẩm 5: ĐỊA NAN THẮNG

Các Bồ-tát nghe được

Hành pháp Địa thứ tư

Tâm vui mừng khôn tả

Không thể nào đo lường

Trời mưa các hoa báu

Lả tả như tuyết rơi

Đều khen ngợi: Hay thay!

Bồ-tát Kim Cang Tạng

Tha-hóa-tự-tại vương

Và vô số quyến thuộc

Đang ở trong hư không

Đều phát tâm vui vẻ

Phóng các ánh sáng đẹp

Trổi kỹ nhạc cõi trời

Khen ngợi công đức Phật

Và các hàng Bồ-tát

Các ngọc nữ cõi trời

Đều dùng tiếng vi diệu

Đồng thanh khen ngợi Phật

Bằng lời lẽ như vầy:

Thế Tôn từ lâu xa

Cần khổ mà thệ nguyện

Đạo Vô thượng Chánh chân

Đến nay mới đạt được

Đấng lợi ích trời người

Từ lâu nay mới gặp

Phật Thích-ca Mâu-ni

Nay đã đến cõi trời

Từ lâu xa đến nay

Mới có tướng biến động

Từ lâu xa đến nay

Mới có được an lạc

Mới phóng ánh sáng diệu

Chúng sinh từ lâu nay

Từ lâu mới được nghe

Tiếng phước đức từ bi

Công đức vượt bờ kia

Lâu xa mới được gặp

Thánh vương có thể phá

Tâm chấp ngã kiêu mạn

Đấng siêu việt đáng cúng

Nay mới được cúng dường

Khai mở đạo chư Phật

Khiến đạt Nhất thiết trí

Thế Tôn rất thanh tịnh

Vô lượng như hư không

Chẳng nhiễm pháp thế gian

Như hoa sen trong bùn

Đấng tối cao trong đời

Như núi chúa Tu-di

Như trong biển rộng lớn

Cho nên mừng đảnh lễ

Các Thiên nữ như vậy

Đều dùng lời vi diệu

Tâm cung kính khen ngợi

Im lặng chiêm ngưỡng Phật

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt

Thưa với Kim Cang Tạng

Bồ-tát đạt năm Địa

Tướng mạo, nhân duyên ǵ?

Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng nói với Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt:

–Phật tử! Các Đại Bồ-tát đã đầy đủ ở Địa thứ tư, muốn đạt Địa thứ năm, phải dùng mười tâm b́nh đẳng. Mười tâm đó là ǵ?

1.     Pháp chư Phật ở quá khứ b́nh đẳng.

2.     Pháp chư Phật ở vị lai b́nh đẳng.

3.     Pháp chư Phật ở hiện tại b́nh đẳng.

4.     Tịnh giới b́nh đẳng. 5. Tâm tịnh b́nh đẳng.

6.     Trừ, kiến, nghi, hối, thanh tịnh b́nh đẳng.

7.     Biết đạo, phi đạo thanh tịnh b́nh đẳng.

8.     Hành tri kiến thanh tịnh b́nh đẳng.

9.     Tăng trưởng thanh tịnh các pháp Bồ-đề phần b́nh đẳng.

10.    Hóa độ chúng sinh thanh tịnh b́nh đẳng.

Phật tử! Đại Bồ-tát, dùng mười tâm thanh tịnh b́nh đẳng này, nhập Địa thứ năm, khéo tu pháp Bồ-đề, tâm sâu xa thanh tịnh, cầu đạo thù thắng, nên đạt được Phật đạo. Bồ-tát này được nguyện lực lớn, dùng tâm Từ bi không bỏ tất cả chúng sinh, đạt được uy lực của đạo lý tâm tuệ, tu tập phước tuệ, không bỏ phương tiện; muốn được địa thù thắng ở trên, sáng suốt quán sát pháp, nhẫn được thần lực của chư Phật hộ niệm, phát sinh tâm kiên định không thoái chuyển. Biết đúng như thật đây là Khổ thánh đế, Khổ tập đế, Khổ diệt đế, cho đến Khổ diệt đạo đế. Bồ-tát này khéo biết Thế đế; khéo biết Đệ nhất nghĩa đế, tướng đế, sai biệt đế, thị thành đế, sự đế, sinh khởi đế, tận vô sinh đế; khéo biết nhập đạo đế, tuần tự thành tựu các địa của Bồ-tát. Khéo biết tu tập trí đế Như Lai. Lúc ấy, Bồ-tát thường an trụ Nhất thừa nên khéo biết Đệ nhất nghĩa đế, tùy tâm chúng sinh khiến chúng vui vẻ. Biết thế đế v́ phân biệt tự tướng của các pháp. Biết tướng đế v́ các pháp đều sai khác. Biết sai biệt đế v́ phân biệt ấm, giới, nhập. Biết thị thành đế v́ thân tâm khổ não. Biết khổ đế v́ các đạo sinh liên tục. Biết Tập đế v́ rốt ráo diệt trừ hết các phiền não. Biết diệt đế v́ phát khởi pháp không hai. Biết đạo đế v́ Nhất thiết chủng trí. Biết thứ tự các pháp, thành tựu các địa của Bồ-tát. Khéo biết sự tu tập trí đế Như Lai v́ có sức tin hiểu. Biết phi đắc vô tận đế trí. Bồ-tát dùng những đế trí ấy, để biết đúng như thật tất cả pháp hữu vi là hư giả lừa dối, là tướng hư hoại, giả dối, không tồn tại lâu, mê hoặc kẻ phàm phu. Lúc ấy, đối với chúng sinh, tâm đại Bi của Bồ-tát, dần dần tăng trưởng và ngay trước mắt phóng ánh sáng đại Từ, đạt sức trí tuệ như vậy; không bỏ chúng sinh, luôn cầu trí tuệ của Phật. Quán sát như thật về các pháp hữu vi ở quá khứ, vị lai. Biết chúng sinh từ xưa v́ vô minh, hữu, ái nên lưu chuyển trong sinh tử, không thay đổi được năm ấm, lại làm thêm lớn nhóm phiền não. Trong những thứ đó không có ngã, ngã sở, chúng sinh, nhân, người biết, thọ mạng; vị lai cũng như vậy, đều là không sở hữu; nhưng v́ ngu si tham chấp không dứt được, không biết vô biên hữu xuất, vô xuất. Lúc ấy, Bồ-tát nghĩ: Chúng sinh phàm phu thật ḱ lạ, v́ vô minh ngu si nên có vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ thân đã diệt, đang diệt, sẽ diệt, cứ thế luôn chịu sinh tử, không thể đối với thân sinh tưởng viễn ly, dần dần làm tăng trưởng bộ máy khổ ở thân, làm cho thân luôn trôi nổi trong dòng sinh tử, không quay lại được; không bỏ năm ấm, không thể rời xa, không sợ rắn độc bốn đại, không nhổ được mũi tên kiêu mạn tà kiến, không dập tắt ngọn lửa tham, sân, si, không hủy hoại được vô minh ngu tối, không làm khô được biển lớn ân ái, không cầu đấng Đạo sư Thánh giả đủ mười Lực; mà luôn chạy theo tâm ma, ở trong thành sinh tử, bị các giác quán ác chuyển hóa. Những chúng sinh khổ não nghèo thiếu đơn độc đó, không ai cứu hộ, không có nơi nương tựa, không biết con đường đi tới cứu cánh! Chỉ có ta, không ai khác phải tu tập phước đức trí tuệ; dùng hành trang này làm cho chúng sinh trụ trong chỗ rốt ráo thanh tịnh, rồi làm cho chúng sinh đạt được trí lực vô ngại của Phật ở trong tất cả pháp. Suy xét quán sát đúng như vậy, nên trí lực theo đó phát sinh; phát nguyện tu tập tất cả căn lành là đều v́ độ sinh, v́ chúng sinh mà làm việc tốt, làm việc an lạc, làm việc lợi ích cho chúng sinh; v́ giải thoát chúng sinh, v́ diệt khổ não thô ác của chúng sinh, v́ thanh tịnh tâm chúng sinh, v́ điều phục, v́ diệt tất cả khổ não và làm mãn nguyện chúng sinh.

Lúc này, Bồ-tát trụ trong Địa thứ năm Nan thắng. V́ không quên các pháp nên gọi là niệm. V́ trí tuệ quyết định nên gọi là trí. V́ biết thứ tự của ý kinh nên gọi là hữu đạo. V́ tự hộ, hộ tha nên gọi là có hổ thẹn. V́ không bỏ giữ giới nên gọi là tâm bền vững. V́ khéo suy xét thị xứ, phi xứ nên gọi là giác. V́ không tùy thuận người khác nên gọi là tùy trí. V́ khéo phân biệt thật nghĩa chương cú của các pháp nên gọi là tùy tuệ. V́ khéo tu Thiền định nên gọi là đạt thần thông. V́ tùy pháp thế gian mà thực hành nên gọi là phương tiện. V́ khéo tu tập hành trang phước đức, nên gọi là không đủ chán. V́ thường cầu nhân duyên trí tuệ, nên gọi là không bỏ. V́ tu tập nhân duyên đại Từ đại Bi, nên gọi là không lười mỏi. V́ ý luôn chánh niệm, nên gọi là xa ĺa phá giới. V́ dùng tâm sâu xa cầu mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng của Phật; nên gọi là luôn niệm Phật pháp. V́ thường khiến chúng sinh bỏ ác tu thiện, nên gọi là trang nghiêm cõi Phật. V́ trồng các phước đức trang nghiêm, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp; nên gọi là hành đủ tất cả thiện nghiệp. V́ cầu thân, khẩu, ý trang nghiêm của Phật, nên gọi là siêng năng tu tập. V́ cúng dường tất cả Bồ-tát thuyết pháp, nên gọi là vui vẻ cung kính. Đối với tất cả phương tiện ở thế gian. Bồ-tát có tâm không san ngại, nên gọi là vô ngại. V́ luôn thích giáo hóa chúng sinh, nên gọi là ngày đêm xa ĺa những tâm khác. Lúc ấy, Bồ-tát hành bố thí là v́ giáo hóa chúng sinh; hành ái ngữ, lợi ích, đồng sự cũng v́ giáo hóa chúng sinh; thị hiện sắc thân cũng v́ giáo hóa chúng sinh; thuyết pháp cũng v́ giáo hóa chúng sinh; thị hiện những hạnh nghiệp của Bồ-tát cũng là để giáo hóa chúng sinh; thị hiện việc lớn của Phật cũng là để giáo hóa chúng sinh; thị hiện tội ác sinh tử cũng là để giáo hóa chúng sinh; thị hiện trí tuệ lợi ích của chư Phật cũng là để giáo hóa chúng sinh. Bồ-tát tu tập như vậy dùng đại thần lực, đủ các nhân duyên, phương tiện cũng là để giáo hóa chúng sinh. Bồ-tát này, tuy dùng đủ các thứ nhân duyên phương tiện; nhưng tâm luôn đặt ở trí Phật, không lui không mất căn lành, lại luôn cầu pháp lợi ích thù thắng cho chúng sinh. Vị này, v́ tạo lợi ích cho chúng sinh, nên làm mọi việc của thế gian; như kinh thơ, kỹ nghệ, văn chương, toán số, danh tánh kinh sách; sách trị bệnh khô gầy, bệnh trẻ thơ, quỷ nhập, trùng độc, ung nhọt, hoặc các kinh sách về kỹ nhạc, ca múa, vui chơi hoan lạc; đất nước, xóm làng, nhà cửa, vườn quán, ao suối, hoa trái, cỏ cây, vàng bạc, ma-ni, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não, các thứ trân bảo, mặt trăng, mặt trời, năm sao, hai mươi tám v́ sao, xem tướng tốt xấu, tướng lạ, sách mộng, động đất; các tướng trong thân, bố thí, tŕ giới, nhiếp phục tâm, thần thông, thiền định, bốn Thiền, bốn Vô lượng tâm, bốn Định vô sắc; tất cả những việc không làm hại chúng sinh, đem an lạc cho chúng sinh. V́ thương xót chúng sinh, nên làm những việc này, khiến cho chúng sinh nhập pháp vô thượng của chư Phật. Bồ-tát trụ địa Nan thắng này, gặp được trăm ngàn vạn ức Phật; tôn trọng, cung kính, ngợi khen, cúng dường y phục, thức ăn uống, ngọa cụ, thuốc men, gần gũi nghe pháp. Nghe pháp rồi xuất gia, xuất gia rồi lãnh thọ kinh pháp của Phật, làm Pháp sư thuyết pháp lợi ích, càng học rộng hiểu nhiều, chứa nhóm Tam-muội, cho dù trải qua trăm ngàn vạn ức kiếp, vẫn không quên việc này. Lúc này tất cả căn lành phước đức của Bồ-tát dần dần tăng trưởng, sáng trong.

Phật tử! Ví như luyện vàng ròng, dùng xa cừ mài dũa ánh sáng càng rực rỡ. Bồ-tát trụ ở địa này, v́ sức phương tiện trí tuệ nên công đức lành càng thanh tịnh thù thắng, các địa dưới không thể sánh bằng. Lại như mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao, cung điện cõi trời dù bị phong luân đưa đi nhưng không mất pháp đã độ.

Phật tử! Bồ-tát cũng thế, trụ ở địa Nan thắng, v́ tư duy phương tiện nên phước đức căn lành ngày càng thêm bội phần thù thắng, nhưng không thủ chứng cũng không vội thành Phật.

Các Phật tử! Nay đã lược nói địa Nan thắng của Bồ-tát, Đại Bồ-tát trụ ở địa này, thường làm vua cõi trời Đâu-suất-đà, các căn lanh lẹ, hàng phục được tất cả ngoại đạo. Tu tập những nghiệp lành như bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, đều không rời niệm Phật niệm pháp, niệm chúng Bồ-tát là bạn, cho đến không rời niệm Cụ nhất thiết chủng trí. Lại nghĩ: Bất cứ lúc nào, ở đâu, trong chúng sinh; ta luôn là người đứng đầu, người tôn quý, luôn làm chỗ nương tựa cho chúng sinh.

Các Phật tử! Các Bồ-tát này nếu siêng năng tu tập, th́ trong khoảnh khắc sẽ đạt được ngàn ức Tam-muội, và thị hiện được ngàn ức Bồ-tát làm quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực và thần lực tự tại, th́ hơn số này đến trăm ngàn vạn ức lần không thể biết được.

Lúc ấy, Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn làm cho rõ lại nghĩa trên, nên nói kệ rằng:

Bồ-tát đã đầy đủ

Pháp hành Địa thứ tư

Suy xét Phật ba đời

Giới và tâm b́nh đẳng

Trừ các kiến, nghi, hối

Hành đạo cùng phi đạo

Quán các pháp b́nh đẳng

Được nhập Địa thứ năm

Bốn Niệm xứ là cung

Các căn là tên nhọn

Bốn Chánh cần là ngựa

Bốn Như ý là xe

Năm Lực là áo giáp

Phá các giặc phiền não

Mạnh mẽ không thoái chuyển

Nhập thẳng Địa thứ năm

Áo hổ thẹn không nhơ

Tịnh giới là hương thơm

Thất giác là vòng hoa

Thiền định là hương xoa

Trí tuệ cùng phương tiện

Trang nghiêm bằng các niệm

Như vậy là được vào

Vườn rừng Đà-la-ni

Bốn Như ý là chân

Chánh niệm là đỉnh đầu

Từ bi mắt sáng sạch

Trí tuệ lợi là răng

Không, tiếng gầm vô ngã

Phá các giặc phiền não

Đấng Sư tử cõi người

Nhập được Địa thứ năm

Bồ-tát này đã đến

Trụ Địa thứ năm rồi

Dần tu pháp thắng tịnh

Đều là v́ Phật đạo

Luôn hành tâm Từ bi

Chưa bao giờ lười chán

Chỉ v́ sự tu tập

Hành pháp Địa thứ năm

Chuyên tu hai tư lương

Phước đức và trí tuệ

Dùng các sức phương tiện

Muốn được pháp quán sáng

Luôn được Phật ủng hộ

Thành tựu các niệm tuệ

Tuần tự quán sát rõ

Biết như thật các đế

Đệ nhất đế, thế đế

Sai biệt đế, thành đế

Quán sát các đế đó

Tâm thanh tịnh vi diệu

Tuy là chưa đạt được

Giải thoát vô chướng ngại

Nhưng v́ có trí tuệ

Và có sức tin tưởng

Vượt qua hết tất cả

Trí tuệ của thế gian

Quán các đế như vậy

Biết hết pháp hữu vi

Hư dối và lường gạt

Chẳng kiên cố, chắc thật

Đạt ánh sáng Từ bi

Của các Đức Như Lai

Chỉ v́ các chúng sinh

Chuyên tâm cầu tuệ Phật

Biết trước sau hữu vi

Chúng sinh thật đáng thương

Đọa trong tối vô minh

Bị ái và duyên buộc

Bồ-tát này nhổ được

Khổ não của thế gian

Biết pháp không người thọ

Giống như những cây cỏ

Chúng sinh thường v́ hai

Nhân duyên phiền não đó

Từ đời trước đến nay

Đời sau cũng như vậy

Liên tục không dứt đoạn

Không chấm dứt hết khổ

Phát tâm thương yêu chúng

Và độ thoát chúng sinh

Không vượt nhà năm ấm

Chẳng sợ bốn hại lớn

Không nhổ tên tà kiến

Không tắt lửa ba độc

Không phá tối vô minh

Sẽ rơi biển ái lớn

Chẳng có trí tuệ sáng

V́ ĺa bậc Đạo sư

Biết các việc như vậy

Ngày thêm siêng năng hơn

Nếu khởi nghiệp tạo tác

Đều v́ độ chúng sinh

Thường niệm tuệ chân chánh

Tu đạo biết hổ thẹn

Tâm trí tuệ bền vững

Ngày thêm tăng trưởng hơn

Tu phước tuệ không chán

Giữ giới chẳng yếu kém

Nghe nhiều chẳng mỏi mệt

Chánh tu tịnh cõi Phật

Gieo tướng tốt, tiếng hay

Nhân duyên không chán đủ

Làm tất cả thiện nghiệp

Đều v́ lợi chúng sinh

Chỉ v́ lợi thế gian

Sáng tác những kinh sách

Thuốc chữa trị các bệnh

Và vui chơi ca múa

Lầu gác cùng vườn rừng

Y phục và thức ăn

Thị hiện các trân bảo

Để chúng sinh vui mừng

Xem trăng, trời, năm sao

Hai mươi tám sao khác

Đất động, tướng tốt xấu

Sách đoán mộng việc lạ

Bố thí và giữ giới

Ĺa dục, tu thiền định

Bốn vô lượng thần thông

V́ an lạc thế gian

Bồ-tát trí tuệ lớn

Đạt địa Nan thắng này

Cúng dường ngàn ức Phật

Theo Phật nghe thọ pháp

Tu tập các căn lành

Đều được thanh tịnh sáng

Ví như ngọc xà cừ

Vàng ròng được mài dũa

Lại như cung điện báu

Theo phong luân không mất

Không nhiễm lợi thế gian

Như hoa sen trong bùn

Bồ-tát trụ địa này

Thường làm Đâu-suất vương

Các căn đều nhậm lẹ

Phá tà kiến, ngoại đạo

Tạo ra các nghiệp lành

Đều nhờ trí tuệ Phật

Đạt Phật lực, vô úy

Độ thoát các chúng sinh

Bồ-tát này siêng tu

Thêm sức lớn tinh tấn

Đạt được ngàn vạn ức

Tam-muội thật vi diệu

Cúng dường ngàn ức Phật

Chấn động ngàn thế giới

Tùy nguyện lực của ḿnh

Hơn số đó vô lượng

Địa thứ năm như vậy

Đủ các loại phương tiện

Bậc Thượng nhân đại trí

Như pháp đã thuyết xong.

KINH THẬP TRỤ

Quyển 1   Quyển 2   Quyển 3   Quyển 4

KINH THẬP TRỤ

Hán dịch: Đời Hậu Tần, Tam tạng Cưu-ma-la-thập, người nước Quy Tư.

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 3

Phẩm 6: ĐỊA HIỆN TIỀN

Các Bồ-tát nghe nói

Hành tướng của địa trên

Đang ở trong hư không

Mưa các loại hoa quý

Phóng ánh sáng thanh tịnh

Cúng dường Đấng Thế Tôn

Đều khen ngợi: Hay thay!

Hay thay! Kim Cang Tạng

Lại có vô lượng ức

Chư Thiên tâm hoan hỷ

Đang ở trong hư không

Làm mưa hương vị diệu

Ánh sáng đẹp xen lẫn

Thơm dịu thật đáng ưa

Các hoa thơm ánh lạc

Cờ lọng cúng dường Phật

Tha-hóa-tự-tại vương

Và các hàng quyến thuộc

Mưa các loại báu vật

Lả tả như tuyết rơi

Ngợi khen cúng dường Phật

Ca tụng Kim Cang Tạng

Đều nói: Hay thay!

Hay thay! Vui giảng thuyết.

Ngàn vạn ức Thiên nữ

Đang ở trong hư không

Trỗi các âm nhạc trời

Khen ngợi công đức

Phật Đều đồng thanh nói:

Giáo pháp của Như Lai

Vi diệu không hạn lượng

Diệt trừ các phiền não

Tánh các pháp vốn không

Không có một tướng nào

Trống rỗng, chẳng phân biệt

Giống như là hư không

Không có tướng đi đứng

Cũng không có hý luận

Xưa nay thường thanh tịnh

Như hư không phân biệt

Người nào không đạt được

Tánh của tất cả pháp

Ở trong hữu trong vô

Tâm không hề dao động

Chỉ dùng tâm đại Bi

Độ thoát các chúng sinh

Đó là các Phật tử

Sinh từ khẩu Phật pháp

Thường tu tập bố thí

Lợi ích các chúng sinh

Xưa nay tuy thiện, tịnh

Kiên tâm giữ tịnh giới

Tuy biết pháp không hại

Nhưng tu tập nhẫn nhục

Tuy biết pháp tánh ĺa

Nhưng tu hạnh tinh tấn

Tuy đã diệt phiền não

Nhưng vẫn nhập thiền định

Tuy đã hiểu pháp không

Nhưng vẫn phân biệt pháp

Tuy đủ trí tịch diệt

Nhưng cầu lợi thế gian

Diệt trừ mọi pháp ác

Gọi là bậc đại nhân

Thiên nữ cõi trời ấy

Dùng trăm ngàn tiếng hay

Khen ngợi ca tụng xong

Đều im lặng nh́n Phật.

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt

Thưa với Kim Cang Tạng

Nên dùng tướng mạo ǵ

Thành tựu Địa thứ sáu?

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói:

–Này các Phật tử! Các Đại Bồ-tát đã đầy đủ hạnh của Địa thứ năm, muốn nhập Địa thứ sáu, phải dùng mười pháp b́nh đẳng để nhập. Mười pháp đó là ǵ? 1. Vô tánh. 2. Vô tưởng. 3. Vô sinh. 4. Vô diệt. 5. Xưa nay thanh tịnh. 6. Không hý luận. 7. Không thủ xả. 8. Xa ĺa. 9. Như mộng huyễn. 10. Có không chẳng hai.

Các Phật tử! Các Đại Bồ-tát đã đầy đủ hạnh của Địa thứ năm, dùng mười pháp b́nh đẳng này tức nhập Địa thứ sáu. Các Phật tử! Đại Bồ-tát quán tánh của tất cả pháp như vậy th́ có khả năng chịu đựng, tùy thuận đạt Địa thứ sáu. Vô sinh pháp nhẫn tuy chưa hiện tiền nhưng tâm đã sáng suốt lanh lợi, thành tựu thuận nhẫn. Bồ-tát này quán tướng của tất cả các pháp như vậy, dùng đại Bi làm đầu, tăng trưởng đầy đủ, lại vượt lên quán sát tướng sinh diệt của thế gian, nên nghĩ: Chúng sinh thọ thân và chỗ ở trong thế gian đều v́ tham trước ngã. Nếu ĺa tham chấp ngã, sẽ không có chỗ thọ sinh trong thế gian. Kẻ phàm phu bị ngu si che mù, tham chấp nơi ngã, thích t́m cầu hữu, luôn theo tà niệm thực hành đạo tà vọng, ba hành phát sinh: Hành tội, hành phước, hành bất động; từ những hành đó mà khởi chủng tử của tâm nhiệt não, tâm hữu lậu hữu thủ, tạo thân sinh tử. Đó có nghĩa là nghiệp là đất, thức là hạt giống, vô minh che lấp, nước ái thấm nhuận, tâm ngã tưới tắm, các loại tà kiến ngày càng làm cho thêm lớn, tạo mầm danh sắc. Do danh sắc mà có các căn. V́ các căn hợp nên có xúc, từ xúc có sinh thọ. V́ ham thọ nên có khát ái. V́ khát ái tăng trưởng nên có bốn thủ. V́ bốn thủ có nhân duyên nên tạo nghiệp, rồi từ hữu có thân năm ấm gọi là sinh, năm ấm suy yếu gọi là già, năm ấm diệt là chết. Do già chết nên có các khổ, ưu, bi, nhiệt não tụ tập. Mười hai nhân duyên này không có người tạo tác, tự nhiên có, không có người làm tan mất, tự nhiên tan mất. Nhân duyên hợp th́ có, nhân duyên tan th́ không. Đại Bồ-tát ở trong Địa thứ sáu tùy phải thuận quán mười hai nhân duyên.

Lại nghĩ: V́ không biết như thật Đệ nhất nghĩa đế nên có vô minh che tâm, nghiệp quả của vô minh là các hành. Từ các hành có thức ban đầu, cùng sinh với thức có bốn thủ ấm, dựa vào thủ ấm có danh sắc, danh sắc thành tựu có sáu nhập. Các căn chạy theo trần nên có thức. Từ sự hòa hợp đó có xúc hữu lậu. Cùng sinh với xúc là thọ, tham vui nơi thọ là ái, ái tăng trưởng là thủ, từ thủ tạo ra nghiệp hữu lậu. Có nghiệp nên có quả báo năm ấm là sinh. Năm ấm chín muồi là già, năm ấm hoại là chết. Lúc chết th́ có xa ĺa; kẻ ngu si buồn phiền tham chấp gọi là ưu bi, năm thức khóc kể là khổ. Ý thức là ưu. Ưu khổ càng nhiều là não. Cứ thế sinh ra rừng khổ lớn, khối khổ lớn. Khối khổ mười hai nhân duyên này không có ngã, ngã sở; không có ngưòi tạo tác, không có kẻ sai khiến sự tạo tác.

Bồ-tát lại nghĩ: Nếu có người tạo tác th́ có việc được tạo tác. Nếu không có người tạo tác th́ không có việc tạo tác. Trong Đệ nhất nghĩa, không có người tạo tác và việc tạo tác.

Lại nghĩ: Ba cõi hư dối chỉ do tâm tạo. Đức Như Lai dạy: Mười hai nhân duyên có được đều dựa vào tâm. V́ sao? V́ tùy thuận vào việc mà sinh tâm tham dục. Tâm ấy chính là thức; việc là hành; v́ hành lừa dối tâm nên gọi là vô minh. Nơi thức nương tựa gọi là danh sắc. V́ nhập sinh tâm tham nên gọi là sáu nhập. Ba việc hòa hợp có xúc, sinh với xúc là thọ, tham chấp thọ là khát ái, không bỏ khát ái là thủ, thủ hòa hợp là hữu. Hữu lại hữu, hữu liên tục là sinh. sinh suy yếu là già, già hoại là chết. Trong đó vô minh có hai loại: 1. Duyên si. 2. Nhân của hành. Hành có hai: 1. Sinh ra quả báo đời sau. 2. Nhân của thức. Thức có hai: 1. Làm cho hữu liên tục. 2. Nhân của sinh sắc. Danh sắc có hai: 1. Nương tựa tạo thành. 2. Nhân của sáu nhập. Sáu nhập có hai: 1. Duyên sáu trần. 2. Nhân của xúc. Xúc có hai: 1. Xúc cảnh sở duyên. 2. Nhân của thọ. Thọ có hai: 1. Biết việc yêu ghét. 2. Nhân của si. Ái có hai: 1. Sinh tâm tham chấp với cảnh đáng nhiễm. 2. Nhân của thủ. Thủ có hai 1. Tăng trưởng phiền não. 2. Nhân của hữu. Hữu có hai: 1. Sinh ở các cõi khác. 2. Nhân của sinh. Sinh có hai: 1. Sinh năm ấm. 2. Nhân của già. Già có hai: 1. Làm cho các căn yếu kém. 2. Nhân của chết. Chết có hai: 1. Hoại thân năm ấm. 2. V́ không thấy biết nên liên tục không dứt. Trong đó, vô minh duyên các hành, vô minh làm cho hành không đoạn, hỗ trợ cho hành thành tựu. Hành duyên thức, làm cho thức không đoạn, hỗ trợ cho thức thành tựu. Thức duyên danh sắc, làm cho danh sắc không đoạn, hỗ trợ cho danh sắc thành tựu cho đến sinh duyên già, chết, ưu, bi, khổ, não, làm cho sinh không đoạn, liên tục hỗ trợ cho thành. V́ vô minh diệt, nên các hành diệt; cho đến già, chết, ưu, bi, khổ, não cũng thế. Trong đó, nếu vô minh không th́ các hành cũng không. Nhân diệt th́ quả diệt, các phần khác cũng như vậy. Trong đó ba phần là vô minh, ái, thủ không đoạn phiền não đạo; các hành, hữu không đoạn nghiệp đạo; các phần khác của nhân duyên không đoạn khổ đạo. V́ trước sau nối tiếp không dứt, nên ba đạo không đoạn. Ba đạo này ĺa ngã, ngã sở nhưng có sinh diệt. Ví như hai cây tre dựa vào nhau mà đứng th́ không vững mà giống như vững. Nhân duyên, vô minh, các hành thuộc về việc quá khứ; thức, danh sắc, Sáu nhập, xúc, thọ là việc hiện tại; ái, thủ, hữu, sinh, già, chết là việc vị lai. Như vậy là có ba đời. Vô minh diệt, nên các hành diệt; gọi đó là đoạn trừ sự liên tục. Mười hai nhân duyên gồm có ba khổ: Vô minh, hành, thức, danh sắc, sáu nhập là hành khổ. Xúc, thọ là khổ khổ. Ái, thủ, hữu, sinh, già, chết ưu, bi, khổ, não là hoại khổ. Vô minh diệt nên hành diệt, cho đến già chết gọi là đoạn trừ ba khổ liên tục. Do vô minh mà các hành sinh, các phần khác cũng thế. Vô minh diệt các hành diệt, v́ thể tánh của các hành là không; các phần khác cũng thế. Do vô minh nên các hành sinh khởi trói buộc, các phần khác cũng thế. Vô minh diệt nên các hành diệt, v́ diệt sự trói buộc, các phần khác cũng thế. Vô minh làm duyên cho các hành là tùy thuận quán vô sở hữu. Vô minh diệt nên các hành diệt là tùy thuận quán diệt tận; các phần khác cũng thế. Cứ thế có mười hai cách nghịch thuận để quán pháp mười hai nhân duyên. Đó là, nhân duyên chia thành thứ tự thuộc về thân tâm, hỗ trợ thành pháp, không tách rời nhau, tùy ba đạo hành, phân biệt có trước sau, ba khổ sai khác, từ nhân duyên có sinh diệt trói buộc, có quán vô sở hữu tận.

Lúc ấy, Bồ-tát tùy thuận mười hai nhân suyên mà quán không ngã, không chúng sinh, không thọ mạng, không nhân, tánh trống rỗng, không có người tạo tác, kẻ khiến tạo tác, không có chủ tớ, nhân duyên là vô sở hữu. Lúc quán như vậy th́ pháp môn không giải thoát hiện tiền. Diệt các việc đó th́ không có sự liên tục khác, nên gọi là môn vô tướng giải thoát hiện tiền. Biết hai môn này, th́ không còn thích thọ sinh, chỉ trừ tâm đại Bi để giáo hóa chúng sinh, nên gọi là môn vô nguyện giải thoát hiện tiền. Bồ-tát tu hành ba môn giải thoát này; ĺa những tướng nhân, ngã, người tạo tác, người thọ; ĺa tướng có không, tâm bi tăng trưởng. V́ tôn trọng tâm bi nên siêng năng tu tập. Tuy chưa đầy đủ các trợ pháp Bồ-đề, nhưng v́ muốn được đầy đủ, Bồ-tát nghĩ: Pháp hữu vi do hòa hợp nên tăng, ly tán th́ diệt. Đủ các duyên th́ tăng, không đủ th́ diệt. Ta đã biết pháp hữu vi nhiều tội lỗi, không nên tạo duyên hòa hợp, cũng chẳng cần diệt sạch hết pháp hữu vi là v́ để giáo hóa chúng sinh.

Các Phật tử! Bồ-tát biết pháp hữu vi nhiều tội lỗi, không có tánh chân thật, ĺa tướng bền vững, không sinh diệt, như vậy nên hòa hợp với đại Từ bi, không bỏ chúng sinh, tức thời đạt Bát-nhã ba-la-mật không chướng ngại, ánh sáng hiện tiền; đạt trí tuệ như vậy, tu tập đầy đủ, tạo duyên Vô thượng Bồ-đề nhưng không sống trong pháp hữu vi. Quán tánh của pháp hữu vi là tướng tịch diệt, cũng không trụ trong đó, v́ muốn đầy đủ phần Vô thượng Bồ-đề. Bồ-tát trụ địa Hiện tiền, đạt Tam-muội quyết định không, Tam-muội tánh không, Tam-muội Đệ nhất nghĩa không, Tam-muội Đệ nhất không, Tam-muội đại không, Tam-muội hợp không, Tam-muội sinh không, Tam-muội như thật không phân biệt khômg, Tam-muội nhiếp không, Tam-muội ly bất ly không. Cứ thế, vạn môn Tam-muội không hiện tiền. Tam-muội vô tướng vô nguyện cũng thế. Bồ-tát này trụ ở địa Hiện tiền đạt tâm chí thành, tâm quyết định, tâm thâm, tâm diệu, tâm không thay đổi, tâm không xả, tâm rộng lớn, tâm vô biên, tâm lạc trí, tâm tuệ phương tiện hòa hợp. Các tâm ấy dần tăng trưởng, thù thắng; tùy thuận Vô thượng Bồ-đề. Tất cả luận sư ngoại đạo không thể lay đổ được, nhập vào trí địa, chuyển hóa Thanh văn, Bích-chi-phật, quyết định hướng đến trí Phật. Tất cả ma chướng, phiền não không làm ǵ được, an trụ trong trí sáng của Bồ-tát; khéo tu pháp môn giải thoát ứng với Không, Vô tướng, Vô nguyện. Chuyên dùng phương tiện trí tuệ, tu hành pháp trợ Bồ-đề.

Bồ-tát trụ địa Hiện tiền, ở trong Bát-nhã ba-la-mật, đạt hạnh thù thắng, đạt thượng thuận nhẫn thứ ba, v́ lấy thuận làm pháp, nên không trái nghịch, Bồ-tát trụ ở địa Hiện tiền, được gặp vô số trăm ngàn ức Phật, tôn trọng, cung kính, khen ngợi, cúng dường y phục, thức ăn uống, thuốc men, ngọa cụ; được gần gũi chư Phật, ở chỗ chư Phật nghe pháp. Nghe pháp rồi, thật sự theo ánh sáng trí tuệ tu hành theo pháp, khiến chư Phật hoan hỷ. Vị ấy càng thăng tiến, biết được tạng pháp của chư Phật; cho đến trải qua trăm ngàn vạn ức kiếp, các căn lành cũng dần dần được tinh diệu sáng suốt. Các Phật tử! Ví như vàng ròng, dùng lưu ly mài dũa, th́ ánh sáng màu sắc càng rực rỡ hơn. Bồ-tát trụ ở địa Hiện tiền nhờ phương tiện trí tuệ nên căn lành dần thù thắng, sáng suốt vắng lặng, các địa khác không thể sánh bằng. Các Phật tử! Ví như trăng sáng có thể làm cho chúng sinh dễ chịu, bốn loại gió thổi không lấn át được. Cũng thế, Đại Bồ-tát trụ địa Hiện tiền, căn lành dần được thù thắng, dập tắt được vô lượng phiền não của chúng sinh, bốn loại ác ma không hại được.

Các Phật tử! Đó là địa Hiện tiền của Đại Bồ-tát. Bồ-tát trụ địa này, thường làm Thiên vương Tha hóa tự tại, trí tuệ sắc bén, phá trừ tất cả kẻ tăng thượng mạn, các Thanh văn, không bị cùng tận. Làm những việc như bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự đều không rời niệm Phật, niệm pháp và niệm chúng Bồ-tát bạn, cho đến không rời niệm Nhất thiết chủng trí, thường phát nguyện: Ta ở trong chúng sinh, luôn là người đứng đầu, người tôn quý, cho đến làm chỗ nương tựa cho tất cả chúng sinh. Bồ-tát này, siêng năng tu tập, th́ trong khoảnh khắc, sẽ đạt được mười vạn ức Tam-muội, cho đến thị hiện được mười vạn ức Bồ-tát làm quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực th́ hơn cả số kia, dù trải qua trăm ngàn vạn ức kiếp cũng không tính kể được.

Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng, muốn nêu lại nghĩa trên, bèn nói kệ rằng:

Các Bồ-tát đã đạt

Hạnh nghiệp Địa thứ năm

Biết các pháp không tánh

Không tướng, chẳng sinh diệt

Xưa nay luôn thanh tịnh

Không có sự hý luận

Tu tập trí như vậy

Được nhập Địa thứ sáu

Các pháp luôn ĺa tướng

Không thủ cũng không xả

Tánh không, giống như huyễn

Ĺa hai, không phân biệt

Ai có thể tùy thuận

Thật nghĩa vi diệu đó

Tâm không hề trái nghịch

Được nhập Địa thứ sáu

Trụ ở lợi thuận nhẫn

Đạt trí tuệ thần lực

Quán sát hết tất cả

Tướng sinh diệt thế gian

Nên biết được thế gian

Đều từ si ám sinh

Khi si ám đoạn diệt

Th́ không còn thế gian

Quán sát pháp nhân duyên

Tùy thuận Đệ nhất nghĩa

Nhưng không hoại nhân quả

Tạo tác và giả danh

Như thật không người làm

Cũng chẳng có người nhận

Quán pháp hữu vi vậy

Như mây, không có thật

Không biết nghĩa chân đế

Nên gọi là vô minh

Từ đó có suy xét

Quả báo thân, khẩu hành

Do hành nên có thức

Liền tạo ra danh sắc

Cứ thế sinh ra đời

Đến chỗ sinh già chết

Hiểu rõ ba cõi này

Chỉ do tâm mà có

Biết mười hai nhân duyên

Đều từ một tâm này

Như vậy sự sống chết

Đều từ tâm mà có

Một khi tâm diệt rồi

Th́ không còn sống chết

Vô minh có hai loại

Ngu si và tạo nghiệp

Cho đến già và chết

Phá tan loại năm ấm

Từ những việc như vậy

Nên có đủ khổ não

Việc này chấm dứt hết

Phiền não cũng không còn

Nếu đầy đủ vô minh

Th́ liên tục không đoạn

Nếu chẳng đủ nhân duyên

Th́ không còn liên tục

Vô minh và ái thủ

Chính là phiền não đạo

Hành hữu là nghiệp đạo

Các thứ khác khổ đạo

Từ si đến sáu nhập

Được gọi là hành khổ

Xúc thọ là khổ khổ

Các thứ khác hoại khổ

Diệt ba khổ liên tục

Th́ không còn ngã chấp

Vô minh và các hành

Là việc đời quá khứ

Từ thức cho đến thọ

Là việc của hiện tại

Từ ái đến sinh khổ

Là việc đời vị lai

Một khi vô minh diệt

Th́ không còn khổ não

Si từ nhân duyên sinh

Nên có sự trói buộc

Chúng duyên nếu đã diệt

Các trói buộc cũng diệt

Từ nhân nên có quả

Nhân diệt th́ quả diệt

Cứ thế quán các pháp

Tự tánh là trống không

Tùy thuận ở vô minh

Nên mới có thế gian

Nếu không thuận vô minh

Th́ thế gian không có

Do đây nên có kia

Đây không th́ kia không

Cứ thế mười cách quán

Pháp nhân duyên sâu xa

Quán nhân duyên liên tục

Khứ, lai và hiện tại

Không ngoài một tâm này

Phân biệt có ba đạo

Từ ba khổ quán sát

Các pháp sinh diệt kia

Không sỡ hữu, cùng tận

Nên quán theo thuận nghịch

Bồ-tát dần thâm nhập

Pháp mười hai nhân duyên

Biết trống không như huyễn

Như mộng, lại như bóng

Như ánh lửa, huyễn hóa

Giả dối không người tạo

Cũng chẳng có người nhận

Chỉ lừa gạt kẻ ngu

Cứ thế quán nhân duyên

Người trí tu pháp không

Không duyên th́ không tướng

Biết hai thứ giả hư

Trong tất cả hữu ấy

Nơi đó không sở nguyện

Chỉ dùng tâm đại Bi

Thương xót độ chúng sinh

Bậc Đại sĩ cứ thế

Tu tập môn giải thoát

Tâm bi luôn vui thích

Vô lượng công đức Phật

Biết các pháp hữu vi

Đều từ hòa hợp có

Nên đạt vạn định không

Vô tướng và vô nguyện

Trí tuệ dần tăng trưởng

Thâm nhập thượng thuận nhẫn

Đạt được trí giải thoát

Vô vi của Bồ-tát

Do vậy các căn lành

Dần dần thêm sáng trong

Cúng dường vô lượng Phật

Được chư Phật ngợi khen

Thường ở chỗ chư Phật

Xuất gia học Phật đạo

Đại tạng pháp chư Phật

Căn lành càng thêm lớn

Ví như dùng lưu ly

Để mài dũa vàng ròng

Ánh sáng càng rực rỡ

Dụ này cũng như vậy

Ví như trăng trong không

Tròn đầy và sáng rực

Bốn ngọn gió thổi đến

Cũng không thể ngăn dứt

Ánh sáng trí Bồ-tát

Dập tắt lửa phiền não

Bốn ma không thể phục

Dụ này cũng như vậy

Bồ-tát trụ địa này

Thường làm Thiện hóa vương

Các căn đều nhặm lẹ

Phá trừ tăng thượng mạn

Làm tất cả nghiệp lành

Đều tùy thuận trí tuệ

Thanh văn có vấn nạn

Vẫn không bị cùng tận

Phật tử này nếu muốn

Siêng năng mà tu tập

Th́ đạt được trăm vạn

Vạn ức môn Tam-muội

Được gặp trăm ngàn vạn

Ức số mười phương Phật

Như mùa Xuân trong mát

Ánh sáng mặt trời đẹp

Địa thứ sáu như vậy

Sâu xa khó thấy biết

Thanh văn không hiểu được

Bồ-tát đã lược thuyết.

Phẩm 7: ĐỊA VIỄN HÀNH

Lúc ấy, các Thiên chúng

Đang ở trong hư không

Mưa hoa thơm trân bảo

Như mây cúng dường Phật

Vui mừng cất tiếng hay

Khen ngợi thật lành thay!

Lành thay! Kim Cang Tạng

Khéo biết nghĩa Đệ nhất

Có vô lượng công đức

Hoa sen trong cõi người

Nói hạnh nghiệp thượng diệu

Lợi ích các thế gian

Tha hóa tự tại vương

Phóng ra ánh sáng, hương, hoa

Như mưa tuyết cúng dường

Trừ khổ não ưu bi

Chư Thiên cùng Thiên vương

Đồng cất tiếng vi diệu

Người nghe nghĩa, địa này

Sẽ được lợi ích lớn

Đồng thời trổi trăm ngàn

Kỹ nhạc hay cõi trời

Chư Thiên nữ ca hát

Đều nương thần lực Phật

Phật là Đấng tịch diệt

Biến ác nghiệp thành thiện

Tất cả các thế gian

Đều cung kính tôn trọng

Tuy vượt qua thế gian

Mà thị hiện pháp thế gian

Biết thân tướng như thật

Thị hiện các loại thân

Tuy dùng các âm thanh

Diễn nói pháp tịch diệt

Nhưng vẫn biết ngôn ngữ

Không có tướng âm thanh

Vượt qua trăm ngàn cõi

Cúng Phật vật thượng diệu

Biết thân và cõi Phật

Bỏ tướng trí tự tại

Tuy giáo hóa chúng sinh

Nhưng không tưởng nhân ngã

Rộng tu công đức lớn

Nhưng vẫn không tham chấp

V́ tà kiến thủ tướng

Lửa ba độc đốt thiêu

Không thủ chấp các tướng

Từ bi lại siêng năng

Chư Thiên và Thiên nữ

Đều hoan hỷ cúng dường

Khen ngợi như vậy rồi

Im lặng chiêm ngưỡng Phật

Lúc ấy, Giải Thoát Nguyệt

Thưa với Kim Cang Tạng

Đại chúng đều thanh tịnh

Xin nói tướng thứ bảy.

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói:

–Các Phật tử! Đại Bồ-tát đã đầy đủ hạnh nghiệp Địa thứ sáu, nếu muốn nhập Địa thứ bảy th́ từ phương tiện tuệ phát khởi mười diệu hạnh. Mười diệu hạnh đó là ǵ?

1.     Bồ-tát khéo tu Không, Vô tướng, Vô nguyện, nhưng dùng tâm Từ bi ở trong chúng sinh.

2.     Tùy thuận pháp b́nh đẳng của chư Phật nhưng vẫn không rời sự cúng dường chư Phật.

3.     Luôn thích suy xét môn không trí, nhưng rộng tu tập tư lương phước đức.

4.     Vượt xa ba cõi nhưng vẫn trang nghiêm ba cõi.

5.     Diệt hết lửa phiền não, nhưng vẫn v́ chúng sinh mà diễn nói pháp diệt trừ lửa tham, sân, si.

6.     Tùy thuận các pháp coi đó như huyễn, như mộng, như bóng vang, như huyễn hóa, như trăng trong nước, như ảnh trong gương, không có hai tướng.

7.     Biết tất cả cõi Phật trống rỗng như hư không, các cõi đều ĺa tướng; nhưng vẫn phát tâm tu hạnh thanh tịnh cõi Phật.

8.     Biết Pháp thân của tất cả chư Phật là vô thân, nhưng vẫn hiện sắc thân ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp để trang nghiêm.

9.     Biết âm thanh của chư Phật là tướng không thể nói, tin hiểu âm thanh của Như Lai xưa nay là tướng vắng lặng nhưng vẫn tùy thuận tất cả chúng sinh mà phát ra bao nhiêu thứ âm thanh trang nghiêm.

10.    Biết chư Phật trong khoảnh khắc thông đạt việc của ba đời nhưng phải hiểu là trải qua bao nhiêu tướng, bao nhiêu thời gian, bao nhiêu kiếp số th́ mới đạt quả Vô thượng Bồ-đề. Phải tùy thuận sự tin hiểu của chúng sinh mà nói như vậy.

Các Phật tử! Đó là mười diệu hạnh phát ra từ tuệ phương tiện. Đại Bồ-tát đầy đủ hạnh nghiệp của Địa thứ sáu, rồi tu tập diệu hạnh này, th́ đạt được Địa thứ bảy. Các Phật tử! Như vậy tuệ phương tiện Hiện tiền, gọi là nhập Địa thứ bảy. Bồ-tát trụ Địa thứ bảy, nhập vô lượng tánh của chúng sinh, nhập vô lượng pháp giáo hóa chúng sinh của chư Phật, nhập vô lượng tánh của thế gian, nhập vô lượng cõi nước thanh tịnh của chư Phật, nhập vô lượng sự sai khác của các pháp, đạt vô lượng trí đắc đạo vô thượng của chư Phật, nhập vô lượng sự tính đếm số kiếp, nhập vô lượng sự thông đạt ba đời của chư Phật, nhập vô lượng sự tin thích sai khác của chúng sinh, nhập vô lượng sắc thân sai khác của chư Phật, nhập vô lượng căn tánh, chí hạnh sai khác của Phật và chúng sinh, nhập vô lượng âm thanh, ngôn ngữ của chư Phật làm cho chúng sinh vui vẻ, nhập vô lượng tâm, tâm sở hành sai khác của chúng sinh và chư Phật, nhập vô lượng hành tùy trí tuệ của chư Phật, nhập vô lượng sự tin hiểu của Thanh văn thừa, nhập vô lượng nhân duyên thuyết pháp để chúng sinh tin hiểu của chư Phật, nhập vô lượng sự tu tập trí tuệ của Bích-chi-phật, nhập vô lượng pháp môn do trí tuệ sâu xa của Phật đã thuyết giảng, nhập vô lượng đạo mà Bồ-tát đã thành, nhập vô lượng việc tu tập Đại thừa làm cho chúng sinh an nhập của chư Phật đã từng thuyết giảng. Bồ-tát lại nghĩ: Các Đấng Thế Tôn, có vô lượng, vô biên uy lực lớn như vậy, dù trải qua trăm ngàn vạn ức kiếp, cũng không thể biết được. Uy lực của chư Phật, ta nên tu tập, chứ không do sự phân biệt kia đây mà thành tựu; chỉ dùng sự không phân biệt, không thủ chứng mới thành. Bồ-tát dùng trí tuệ như thế khéo tư duy, thường tu tập đại tuệ phương tiện, để an trụ trong trí của Phật, v́ pháp bất động. Nếu muốn phát khởi các phương độ chúng sinh không bị chướng ngại, th́ thời vị lai cũng phát khởi, thời quá khứ cũng phát khởi; đi, đứng, nằm, ngồi cũng đều phát khởi phương pháp độ thoát chúng sinh; ĺa các ấm cái, trụ trong oai nghi, không rời những tưởng niệm như vậy. Bồ-tát này, trong mỗi niệm có đầy đủ mười Ba-la-mật và mười Địa của Bồ-tát. V́ sao? V́ Đại Bồ-tát trong mỗi niệm, dùng tâm đại Bi làm đầu, tu tập tất cả Phật pháp, đều hồi hướng lên trí tuệ của Như Lai.

Mười Ba-la-mật là: V́ cầu Phật mà Bồ-tát tu tập căn lành, ban cho tất cả chúng sinh, đó là Bố thí ba-la-mật; dập tắt tất cả lửa phiền não là Thi-la ba-la-mật; dùng Từ bi làm gốc, không thương tổn chúng sinh là Nhẫn nhục ba-la-mật; cầu căn lành tăng trưởng, không chán ghét là Tinh tấn ba-la-mật; tâm tu tập đạo, không buông lung, luôn hướng về Nhất thiết trí là Thiền ba-la-mật; hiểu các pháp từ xưa nay không sinh là Bát-nhã ba-la-mật; phát khởi vô lượng môn trí tuệ là Phương tiện ba-la-mật mong trí tuệ càng thù thắng là Nguyện ba-la-mật; tất cả ngoại đạo ma chướng không gây hại được là Lực ba-la-mật; thành tựu như thật về tướng của tất cả pháp là Trí ba-la-mật. Cứ thế, trong mỗi niệm, đầy đủ mười Ba-la-mật. Lúc Bồ-tát đầy đủ mười Ba-la-mật th́ cũng đầy đủ bốn Nhiếp pháp, ba mươi bảy pháp Bồ-đề phần, ba môn giải thoát. Nói tóm lại, trong mỗi niệm đều đầy đủ tất cả các pháp trợ đạo Vô thượng Bồ-đề.

Bấy giờ, Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt hỏi Bồ-tát Kim Cang Tạng: Phật tử! Chỉ Bồ-tát ở Địa thứ bảy, mới đầy đủ pháp trợ Bồ-đề, hay trong các địa khác cũng đầy đủ?

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói:

–Phật tử! Đại Bồ-tát ở trong mười địa, đều đầy đủ pháp trợ Bồ-đề, nhưng v́ ở Địa thứ bảy thù thắng nên được gọi tên. V́ sao? V́ các Đại Bồ-tát ở Địa thứ bảy, đầy đủ công hạnh, nhập đạo trí tuệ thần thông. Phật tử! Bồ-tát ở Địa thứ nhất phát nguyện duyên với tất cả Phật pháp, đầy đủ pháp trợ Bồ-đề. Ở Địa thứ hai, trừ được tâm ác cấu nên đầy đủ pháp trợ Bồ-đề. Trong Địa thứ ba, thệ nguyện dần tăng trưởng, v́ đạt được pháp sáng và đầy đủ pháp trợ Bồ-đề. Ở Địa thứ tư, v́ được nhập đạo nên đầy đủ pháp trợ Bồ-đề. Ở Địa thứ năm, v́ tùy thuận pháp hành thế gian nên đầy đủ pháp trợ Bồ-đề. Ở Địa thứ sáu v́ nhập pháp môn sâu xa nên đầy đủ pháp trợ Bồ-đề. Ở Địa thứ bảy v́ phát khởi tất cả Phật pháp nên đầy đủ pháp trợ Bồ-đề. V́ sao? Phật tử! V́ Đại Bồ-tát ở địa này, đạt trí tuệ do hành đạo, và nhờ sức này nên tự nhiên được thành tựu Địa thứ tám. Phật tử! Ví như hai hay ba tam thiên đại thiên thế giới, một bên thanh tịnh, một bên cấu uế; giữa hai cảnh giới khó vượt qua được, chỉ dùng sức tinh tấn lớn, sức thần thông lớn, sức nguyện lớn mới vượt qua. Các Phật tử! Bồ-tát thực hành các đạo khó vượt qua được, chỉ dùng sức nguyện lớn, sức trí tuệ lớn, sức phương tiện lớn th́ mới có thể vượt qua được.

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt hỏi:

–Bồ-tát Địa thứ bảy gọi là Tịnh hạnh hay Cấu hạnh?

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói:

–Từ địa Hoan hỷ thứ nhất đến địa này, mọi việc làm của Bồ-tát, đều ĺa nghiệp phiền não, tội lỗi. V́ sao? V́ hồi hướng đạo Vô thượng Bồ-đề, tùy địa vị mà thực hành hạnh thanh tịnh, nên không gọi là tội lỗi. Phật tử! Ví như Chuyển luân thánh vương cỡi voi báu lớn, đi khắp bốn cõi, biết có kẻ nghèo, cùng, khổ, não; nhưng lỗi ấy không phải do vua; v́ vua chưa khỏi thân người, nếu bỏ thân vua th́ sinh lên cõi trời Phạm thế, ở trong cung Phạm thế du hành khắp ngàn thế giới tỏ rõ oai lực của Phạm thiên; Lúc ấy, bỏ thân người. Phật tử! Bồ-tát cũng thế, từ Địa thứ nhất đến đây, ở trong pháp Ba-la-mật, biết tất cả những việc làm, những phiền não cấu uế của chúng sinh, nhưng không bị phiền não nhiễm ô, v́ nương đạo lành nên không gọi là tội lỗi. Nếu Bồ-tát, bỏ tất cả công hạnh đã tu từ Địa thứ bảy nhập Địa thứ tám, mới gọi là nương thừa thanh tịnh của Bồ-tát, biết hết tất cả phiền não cấu uế của thế gian nhưng không bị phiền não ô nhiễm, cũng gọi là lỗi.

Các Phật tử! Bồ-tát trụ ở Địa thứ bảy, nhiều lỗi tham dục phiền não. Chúng sinh ở Địa thứ bảy này không gọi là người có phiền não, cũng không gọi là người không phiền não. V́ sao? V́ tất cả phiền não không phát khởi, nên không gọi là có phiền não. V́ tham cầu trí tuệ Như Lai chưa mãn nguyện nên không gọi là người không phiền não. Bồ-tát trụ Địa thứ bảy, thành tựu thân nghiệp thanh tịnh, ngữ nghiệp thanh tịnh, ý nghiệp thanh tịnh; còn những nghiệp bất thiện bị chư Phật quở trách. Những kẻ tùy thuận phiền não, tạo nghiệp như vậy, đều phải có lỗi, nhưng thiện nghiệp được chư Phật khen ngợi, đó là thường hạnh. Lại nữa, những kinh sách kỹ nghệ của thế gian như đã nói trong Địa thứ năm, tự nhiên đạt được; ở trong tam thiên đại thiên thế giới, thật là hy hữu được làm bậc đại sư. Nhập Địa thứ tám, ngoài Như Lai ra không có chúng sinh nào mà tâm sâu xa, hạnh vi diệu sánh bằng. Bồ-tát này, đã có thiền định, thần thông, giải thoát Tam-muội, tuy chưa đạt quả báo nhưng tùy ý thọ thân tự tại, Bồ-tát trụ địa Viễn hành này trong mỗi niệm, tu tập đầy đủ sức tuệ phương tiện và tát cả pháp trợ Bồ-tát dần dần đầy đủ. Bồ-tát trụ địa Viễn hành này có thể nhập vào các Tam-muội Thiện trạch, Tam-muội Thiện tư nghĩa, Tam-muội Ích ý, Tam-muội phân biệt nghĩa tạng, Tam-muội Như thật trạch pháp, Tam-muội Kiến căn an trụ, Tam-muội Tri thần thông môn, Tam-muội Pháp tánh, Tam-muội Như Lai lợi, Tam-muội Chủng chủng nghĩa tạng, Tam-muội Bất hướng sinh tử Niết-bàn. Cứ thế thành tựu đầy đủ trăm vạn Tam-muội của Bồ-tát có khả năng làm thanh tịnh địa này. Bồ-tát đạt Tam-muội và trí tuệ phương tiện đó, v́ thanh tịnh hoàn toàn, v́ đạt sức đại Bi sâu xa nên vượt qua địa Thanh văn, Bích-chi-Phật, hướng đến trí địa của Phật. Bồ-tát trụ ở địa này, vô lượng thân, khẩu, ý nghiệp đều hành vô tướng. Bồ-tát này, v́ hạnh thanh tịnh mà sáng tỏ pháp Vô sinh nhẫn.

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt nói:

–Phật tử! Nếu Bồ-tát trụ ở Địa thứ nhất, th́ có vô lượng thân, khẩu, ý nghiệp có thể vượt tất cả địa Thanh văn, Bích-chi-phật?

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói:

–V́ duyên pháp lớn nên vượt qua được, chẳng phải là sức thật hành ở Địa thứ bảy đó, sức tự thật hành, tất cả Thanh văn, Bích-chi-Phật không thể hủy hoại. Phật tử! Ví như sinh trong nhà vua th́ hơn tất cả quần thần trăm quan. V́ sao? V́ nhờ sức tôn quý, thân gởi nơi cao lớn, thành tựu trí tuệ, chân thật vượt hơn. Phật tử! Các Đại Bồ-tát, lúc mới phát tâm đã hơn tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật; v́ phát nguyện lớn, tâm thanh tịnh sâu xa. Nay trụ ở địa này, tự dùng trí lực nên vượt hơn.

Phật tử! Bồ-tát trụ ở Địa thứ bảy, đạt vô hành xa ĺa sâu xa, thân, khẩu, ý nghiệp chuyên cầu pháp thù thắng nhưng không xả bỏ, nên tâm được thù thắng, tuy hành thực tế nhưng không chứng thực tế.

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt hỏi:

–Đại Bồ-tát từ địa nào đến, th́ nhập tịch diệt?

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói:

–Đại Bồ-tát từ Địa thứ sáu trở đi th́ nhập tịch diệt. Nay trụ địa này ở trong từng niệm đều có thể nhập tịch diệt nhưng không chứng tịch diệt. Đó gọi là Bồ-tát thành tựu thân, khẩu, ý nghiệp chẳng thể nghĩ bàn, hành thực tế nhưng không chứng thực tế. Phật tử! Ví như có người đi thuyền vào biển lớn, biết rõ cách đi, tướng nước th́ không bị tai họa của nước; Đại Bồ-tát trụ Địa thứ bảy cũng thế; nương thuyền Ba-la-mật, thực hành thực tế nhưng không chứng thực tế. Đó là do sức nguyện lớn của Bồ-tát, đạt được sức trí tuệ; là do Thiền định trí tuệ mà phát sinh trí tuệ lớn. Tuy rất thích Niết-bàn nhưng hiện thân sinh tử. Tuy bà con thường vây quanh nhưng tâm luôn xa ĺa; v́ nguyện lực thọ sinh trong ba cõi nhưng không bị pháp thế gian làm nhiễm ô, tâm luôn tịch tĩnh. V́ sức phương tiện nên tuy qua lại trong lửa nhưng không bị lửa thiêu đốt; tùy thuận trí Phật, chuyển địa Thanh văn, Bích-chi-phật. Đạt đến pháp tạng của chư Phật, nhưng thị hiện ở trong cảnh giới ma. Tuy vượt bốn ma đạo, nhưng thị hiện hành hạnh của ma. Tuy thị hiện hành pháp ngoại đạo, nhưng thâm tâm không bỏ Phật pháp. Tuy hiện thân ở khắp thế gian, nhưng tâm luôn ở trong pháp xuất thế. Mọi việc đều trang nghiêm hơn Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân. Tứ thiên vương, Thích-đề-hoàn-nhân, Phạm thiên vương; nhưng không bỏ pháp lạc, pháp ái. Bồ-tát thành tựu trí tuệ như vậy, trụ trong địa Viễn hành, được gặp trăm ngàn vạn ức na-do-tha chư Phật, cung kính, tôn trọng, khen khợi, cúng dường y phục, thức ăn uống, giường chiếu; cúng dường chư Phật rồi hộ tŕ Phật pháp. Dù các Thanh văn, Bích-chi-phật tài trí vấn nạn, cũng không thể phá được. Bồ-tát này thường yêu chúng sinh, nên pháp nhẫn dần được thanh tịnh. Bồ-tát này trong trăm ngàn muôn ức na-do-tha kiếp, căn lành sẽ trở nên thù thắng và thanh tịnh.

Phật tử! Ví như luyện vàng ròng, mà biết trang sức lẫn lộn những báu vật đẹp th́ sáng rực, đẹp đẽ hơn; các báu vật khác không thể sánh bằng. Các Phật tử! Bồ-tát cũng thế, trụ trong địa Viễn hành, các căn lành đều phát sinh từ trí tuệ phương tiện, nên dần dần được sáng suốt, không ai phá được.

Phật tử! Ví như ánh sáng mặt trời, ánh sáng của tất cả các ngôi sao và mặt trăng không thể sánh bằng. Nó có thể làm khô cạn nước bùn trong cõi Diêm-phù-đề. Bồ-tát cũng thế, trụ địa Viễn hành, căn lành dần dần thù thắng, tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật không thể sánh bằng; lại có thể làm khô cạn bùn phiền não nhiễm ô của chúng sinh.

Phật tử! Đó là Bồ-tát trụ Địa thứ bảy, địa Viễn hành. Bồ-tát trụ địa này, thường làm Tha hóa tự tại Thiên vương, các căn lanh lợi, thường phát khởi duyên lành để chúng sinh ngộ đạo, tu tập những nghiệp lành như bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự và đều không rời niệm Phật, niệm pháp và niệm về chúng đại Bồ-tát bạn; cho đến không rời niệm đầy đủ nhất thế chủng trí. Luôn nghĩ: Bất cứ lúc nào, ở trong chúng sinh ta đều là người đứng đầu, người tôn quý, là chỗ nương tựa cho chúng sinh. Bồ-tát này nếu siêng năng tu tập th́ trong khoảnh khắc, đạt trăm ngàn ức na-do-tha Tam-muội, và có thể thị hiện cả trăm ngàn ức na-do-tha Bồ-tát làm quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực tự tại thị hiện của Bồ-tát th́ hơn số kia, dù có trải qua trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp, vẫn không thể tính biết được.

Lúc ấy, Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn nêu lại nghĩa trên, nên nói kệ rằng:

Trí tuệ sâu, tâm định

Đủ hạnh, Địa thứ sáu

Cùng lúc sinh phương tiện

Trí tuệ, nhập Thất địa

Không, Vô tướng, Vô nguyện

Và tu tâm Từ bi

Thuận Phật pháp b́nh đẳng

Mà cúng dường chư Phật

Tuy dùng trí quán không

Nhưng tu phước không chán

Sau đó được an nhập

Địa Viễn hành thứ bảy

Tuy trang nghiêm ba cõi

Nhưng tâm thích xa lánh

Tâm tuy luôn tịch diệt

Nhưng diệt những phiền não

Hành không, pháp bất nhị

Ví như là huyễn mộng

Nhưng hành tâm Từ bi

Được nhập Địa thứ bảy

Tuy quán khắp các cõi

Trống rỗng như hư không

Nhưng lại khéo trang nghiêm

Thanh tịnh các cõi Phật

Tuy biết thân của Phật

Đồng pháp tướng, không tướng

Nhưng có ba hai tướng

Và tám mươi vẻ đẹp

Tuy biết được chư Phật

Tướng, không thể nói năng

Trang Nghiêm âm thanh Phật

Khiến thế gian vui vẻ

Tuy biết được chư Phật

Thành đạo trong một niệm

Nhưng thị hiện nhiều kiếp

Dẫn dắt các chúng sinh

Cứ thế biết các pháp

Được ánh sáng pháp soi

Bồ-tát cứ như thế

Tức nhập Địa thứ bảy

Trụ địa này, quán sát

Vô lượng hạnh chúng sinh

Cũng biết được vô lượng

Uy lực của chư Phật

Thế gian và kiếp số

Pháp tánh đều vô lượng

Lại biết những chúng sinh

Ham thích các dục lạc

Biết giảng pháp ba thừa

Đều là vô lượng cả

Ta phải nên giáo hóa

Thành tựu các chúng sinh

Phải tư duy như vậy

Tuệ phương tiện hòa hợp

Dù đi, đứng, nằm, ngồi

Đều hành đạo như vậy

Trong mỗi mỗi tâm niệm

Đủ pháp trợ Bồ-đề

Đó chính là mười pháp

Ba-la-mật sâu xa

Các Bồ-tát như vậy

Tu tập nhiều phước đức

Bố thí cho chúng sinh

Là Thí ba-la-mật

Diệt trừ tâm nhơ, ác

Là Giới ba-la-mật

Không bị sáu trần hại

Nhẫn nhục ba-la-mật

Phát khởi pháp thù thắng

Tinh tấn ba-la-mật

Đạt được đạo bất động

Là Thiền ba-la-mật

Đạt Vô sinh pháp nhẫn

Bát-nhã ba-la-mật

Hồi hướng về Phật đạo

Phương tiện ba-la-mật

Cầu mong pháp thù thắng

Là Nguyện ba-la-mật

Không có ai hủy hoại

Là Lực ba-la-mật

Hiểu pháp nói như thật

Là Trí ba-la-mật

Các pháp trợ Bồ-đề

Thâu tóm trong mỗi niệm

Phát thệ nguyện rộng sâu

Làm những việc lớn lao

Công đức ở Sơ địa

Được gọi là đầy đủ

Địa thứ hai gọi là

Trừ các tâm nhơ xấu

Địa thứ ba nguyện lớn

Thứ tư là trụ đạo

Thứ năm tùy thế hành

Thứ sáu nhập thâm pháp

Đạt tướng phần vô sinh

Dần dần được tăng trưởng

Thứ bảy gom tất cả

Đủ pháp phần Bồ-đề

Phát sinh các công đức

Và tất cả thệ nguyện

Các công đức như vậy

Ở trong Địa thứ tám

Tất cả mọi hạnh nghiệp

Tự nhiên được thanh tịnh

Địa Viễn hành khó qua

Chỉ sức trí lớn được

Như ngằn mé hai nước

Khó có thể vượt qua

Ở trong Địa thứ bảy

Không có nhiễm như vua

Người trụ trong đạo này

Không gọi là tội lỗi

Nếu đạt Địa thứ tám

Địa trí tuệ Bồ-tát

Lúc này vượt ý giới

An trụ trong trí nghiệp

Như Phạm vương nh́n đời

Không được gọi là người

Bồ-tát tội không nhiễm

Như hoa sen trong nước

Bồ-tát trụ địa này

Vượt qua các phiền não

Không gọi là phiền não

Cũng không hết phiền não

Nhập trong chánh đạo này

Không có các phiền não

Nhờ nguyện cầu Phật đạo

Không gọi hết phiền não

Đối với pháp thế gian

Kinh sách và kỹ nghệ

Văn tụng và chú thuật

Tự nhiên biết rõ cả

Tu tập pháp thiền định

Và các pháp thần thông

Vô lượng tâm lợi đời

Phát khởi mọi việc ấy

Lúc ấy, Đại Bồ-tát

Vượt qua hạnh Nhị thừa

An trụ Địa thứ bảy

Trong các hạnh Bồ-tát

Từ lúc mới phát tâm

Sức của đại nguyện thù thắng

Nay ở trong địa này

Sức trí tuệ thù thắng

Ví như con của vua

Tuy nhỏ, thuộc tôn quý

Sau nhờ đủ công đức

Nên vượt hơn mọi người

Địa này được trí sâu

Dần phát tâm tinh tấn

Niệm niệm nhập tích diệt

Nhưng không hề thủ chứng

Ví như người đi thuyền

Vào trong biển rộng lớn

Tuy vào chỗ nước sâu

Nhưng không bị ch́m chết

Hạnh Bồ-tát thù thắng

Với trí tuệ phương tiện

Đầy đủ các công đức

Thế gian khó biết được

Cúng dường vô lượng Phật

Tâm th́ luôn thanh tịnh

Như vàng ròng trang sức

Xen lẫn các tạp báu

Được ánh sáng trí Phật

Làm khô dòng nước ái

Ví như ánh mặt trời

Làm khô các dòng nước

Bồ-tát trụ địa này

Làm Tha hóa tự tại

Các căn đều lanh lợi

Thông đạt được đạo quả

Nếu siêng năng tu tập

Được gặp mười ngàn ức

Na-do-tha Đức Phật

Dùng sức nguyện hơn đây

Địa thứ bảy trí sáng

Thế gian, hàng Nhị thừa

Đều không thể biết được

Nay đã lược nói xong.

Phẩm 8: ĐỊA BẤT ĐỘNG

Tha hóa tự tại vương

Chư Thiên và Bồ-tát

Nghe giảng thuyết thượng hạnh

Ai nấy đều vui mừng

Cúng dường Phật, đệ tử

Mưa các loại hoa thơm

Anh lạc và cờ lọng

Hương bột cùng áo báu

Ngọc ma-ni chân diệu

Các vật trang sức thân

Như mây trong hư không

Rải cúng Phật, đại chúng

Thiên nữ trong hư không

Trỗi các thứ kỹ nhạc

Cúng dường Đức Như Lai

Và các Đại Bồ-tát

Đồng cất tiếng vi diệu

Khen ngợi những công đức

Hết thảy bậc trí tuệ

Tối tôn trong chúng sinh

V́ thương xót thế gian

Đức Phật hiện thần thông

Hoa hương và trân bảo

Đều phát ra âm thanh

Nhiều lông như cát bụi

Thị hiện na-do-tha

Vô lượng các Đức Phật

Ở trong đó thuyết pháp

Trên mỗi đầu sợi lông

Thấy vô lượng cõi Phật

Tu-di, Thiết vi, biển

Thế gian không chật hẹp

Trên mỗi đầu sợi lông

Đủ cả ba đường ác

Trời, người, A-tu-la

Đều phải chịu nghiệp báo.

Thấy trong các cõi Phật

Diệu âm của chư Phật

Chuyển pháp luân vô thượng

Tùy tâm niệm chúng sinh

Ở trong các cõi Phật

Đủ loại thân chúng sinh

Nước có thân chúng sinh

Thân chúng sinh có nước

Tất cả các trời người

Đều không được ở chung

Phật, trước đã quán sát

Sau mới thuyết giảng nói

Các cõi nước vi tế

Tâm chúng sinh tinh tế

Những cõi nước thô ác

Tâm tướng chúng sinh thô

Phật thị hiện như vậy

Đầy đủ sức thần thông

V́ chúng sinh thuyết pháp

Việc ấy không cùng tận

Dùng diệu âm như vậy

Khen ngợi Đức Thế Tôn

Ai nấy đều vui mừng

Im lặng chiêm ngưỡng Phật

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt

Thưa với Kim Cang Tạng

Phật tử! Hãy thuyết giảng

Nhập tướng Địa thứ tám.

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói:

–Phật tử! Các Đại Bồ-tát, đã tu tập hạnh vi diệu của Địa thứ bảy, đạo phương tiện trí tuệ thanh tịnh, khéo tu tập pháp trợ đạo; với sức của đại nguyện, tâm an trụ bất diệt, được thần lực chư Phật hộ tŕ, được sức căn lành, luôn nghĩ và tùy thuận oai lực, vô úy và pháp Bất cộng của Như Lai; tâm hoan hỷ, tâm sâu xa, thành tựu thiện tịnh, phước đức trí lực; tâm đại Từ bi, không bỏ chúng sinh, tu hành vô lượng trí đạo, có thể nhập nguồn gốc của các pháp, không sinh, không diệt, không tướng, không xuất, không mất, không đi, không trở lại, không có tánh sở hữu, trước giữa sau b́nh đẳng, không khác Như Lai; trí không phân biệt; tất cả tâm, ý, thức, nghĩ nhớ, phân biệt, không có sự tham chấp; nhập tất cả pháp, như tánh hư khồng. Đó là Bồ-tát đạt Vô sinh pháp nhẫn, nhập Địa thứ tám, tức thời nhập địa Bất động, gọi là Bồ-tát có hạnh sâu xa, khó biết được, không thể phân biệt, ĺa tất cả tướng, dứt tất cả tưởng, ĺa tất cả tham chấp. Vô lượng, vô biên không thể nghĩ bàn tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật không thể hủy hoại; trước mắt, luôn đạt được sự xa ĺa lớn.

Phật tử! Ví như Tỳ-kheo đạt thần thông, th́ tâm được tự tại, tuần tự nhập diệt tận định. Tất cả tâm xao động, nhớ tưởng, phân biệt, đều chấm dứt. Cũng thế, Bồ-tát trụ địa Viễn hành th́ mọi việc đều chấm dứt, đạt được việc không thân, khẩu, ý, trụ trong xa ĺa lớn.

Phật tử! Ví như người nằm mộng, muốn qua sông sâu; lúc ấy, người này phát tinh tấn lớn, t́m phương cách lớn để qua sông này, nhưng khi chưa qua sông bỗng nhiên thức dậy, th́ những phương tiện và ý muốn qua sông đều mất hết cả.

Các Phật tử! Cũng vậy, Đại Bồ-tát từ Địa thứ nhất đến đây đã phát đại tinh tấn, rộng tu hành đạo; đến địa Bất độïng, tất cả sự sợ hãi đều vứt bỏ hết, không hành hai tâm, những nhớ nghĩ không còn hiện khởi. Ví như người sinh lên cõi Phạm thế th́ phiền não của cõi dục không hiện khởi. Cũng thế, các Phật tử! Đại Bồ-tát trụ địa Bất động, tất cả tâm, ý, thức không còn hiện khởi; ngay cả tâm Phật, tâm Bồ-đề, tâm Niết-bàn cũng không hiện khởi, huống ǵ tâm đang sinh trong thế gian!

Phật tử! Đại Bồ-tát tùy thuận địa này là do sức bản nguyện. Lại nữa, chư Phật v́ vị ấy mà hiện thân h́nh, trụ trong các địa, ở trong dòng nước pháp, lấy trí tuệ Như Lai làm nhân duyên. Chư Phật đều nói: Hay thay! Hay thay! Thiện nam! Ông đã đạt nhẫn, thứ nhất, tùy thuận pháp của tất cả chư Phật. Thiện nam! Ta có mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng; ông nay chưa đạt được, nhưng để đạt công đức này nên siêng năng tu tập, đừng bỏ pháp nhẫn này. Thiện nam! Tuy ông đạt pháp giải thoát tịch diệt sâu xa bậc nhất này, nhưng phàm phu chúng sinh do bất thiện, không tịch tĩnh, nên thường phát khởi các phiền não, bị bao nhiêu là giác quán gây hại, ông nên thương xót những chúng sinh này. Lại nữa, thiện nam! Ông hãy nhớ bản nguyện của ḿnh là muốn đem lợi ích lớn cho chúng sinh, muốn đạt môn trí tuệ không thể nghĩ bàn. Lại nữa, thiện nam! Tất cả tánh của các pháp, tất cả tướng của các pháp, hoặc có Phật, hoặc không Phật vẫn thường trụ, không khác. Các Đức Như Lai không v́ đạt pháp này, mà gọi là Phật. Thanh văn, Bích-chi-phật cũng có thể đạt pháp tịch diệt không phân biệt này. Thiện nam! Ông hãy quán sát vô lượng thân tướng thanh tịnh của chúng ta, vô lượng trí tuệ, vô lượng cõi nước thanh tịnh; mà phát khởi vô lượng trí tuệ, vô lượng phương tiện, vô lượng ánh sáng, vô lượng tiếng thanh tịnh; nay ông nên phát khởi những việc như vậy. Lại nữa, thiện nam! Ông nay vừa đạt một pháp sáng, đó là tất cả pháp tịch diệt, không có sự phân biệt; pháp sáng không sinh, chúng ta đạt được, dù trải qua vô lượng, vô biên ức kiếp tính đếm, cũng không thể biết được. V́ đạt pháp này nên ông phải phát khởi hạnh này. Thiện nam! Ông quán vô lượng cõi nước ở mười phương, vô lượng chúng sinh, vô lượng pháp sai khác, ông phải thông đạt thật đúng đắn việc này, tùy thuận trí như vậy. Bồ-tát này, được chư Phật cho vô lượng, vô biên pháp môn làm nhân duyên để phát khởi trí tuệ như thế v́ vô lượng pháp môn. Bồ-tát ấy có thể phát khởi vô lượng trí nghiệp sai khác, cũng đều thành tựu.

Các Phật tử! Nay tôi giảng thuyết cho các ông; nếu chư Phật không làm Bồ-tát này trụ môn trí tuệ đó, th́ lúc ấy, Bồ-tát thủ chứng Niết-bàn rốt ráo, bỏ việc lợi ích chúng sinh. V́ chư Phật ban cho Bồ-tát này, vô lượng, vô biên nhân duyên để phát khởi trí tuệ, nên trong một niệm, trí tuệ được phát sinh. Nếu từ Địa thứ nhất cho đến hết Địa thứ bảy, mà so với địa này th́ không bằng một phần trăm, cho đến không bằng một phần ngàn vạn ức, trăm ngàn vạn ức na-do-tha, cho đến không bằng một phần vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ, cho dù tính đếm thí dụ thế nào, cũng không sánh kịp. V́ sao? V́ trước dùng một thân hành đạo tu tập công đức; nay ở địa này, đạt vô lượng thân, tu đạo Bồ-tát; dùng vô lượng âm thanh, dùng vô lượng trí tuệ, vô lượng chỗ thọ sinh, vô lượng cõi thanh tịnh, vô lượng sự giáo hóa chúng sinh, cúng dường hầu cận vô lượng Phật, tùy thuận vô lượng Phật pháp, vô lượng sức thần thông, vô lượng đại hội sai khác, vô lượng nghiệp thân, khẩu, ý tập trung, tất cả đạo hạnh của Bồ-tát, v́ pháp bất động vậy.

Phật tử! Ví như có người đi thuyền vào biển lớn, lúc chưa vào biển th́ dùng nhiều công sức, như dùng tay chèo, đến khi vào biển lớn rồi th́ không dùng sức nữa, chỉ cần dùng sức gió. Khi vào trong biển lớn nếu chỉ do công sức của ḿnh, th́ dù có đi trăm ngàn năm, cũng không bằng được một ngày nhờ sức gió. Các Phật tử! Đại Bồ-tát cũng thế, tu tập nhiều căn lành tư lương, đi thuyền Đại thừa đến biển trí tuệ lớn của Bồ-tát, trong khoảnh khắc, không dùng công sức vẫn gần được trí tuệ của tất cả Phật; nếu dùng công sức của ḿnh, th́ dù trải qua một kiếp, trăm ngàn vạn kiếp cũng không thể đạt được.

Các Phật tử! Đại Bồ-tát Địa thứ tám, từ trí tuệ phương tiện của ḿnh, phát sinh tâm vô công dụng, ở trong đạo Bồ-tát, tư duy uy lực trí tuệ của Phật. Đó là biết thế giới sinh diệt hoại thành. Biết do nghiệp nhân duyên ǵ diệt, nên thế giới hoại; biết do nghiệp nhân duyên ǵ tập họp, nên thế giới thành. Bồ-tát biết được tướng nhỏ của tánh đất; biết tướng lớn của tánh đất, tướng vô lượng, của tánh đất; biết tướng sai biệt của tánh đất; biết tướng nhỏ tướng lớn, tướng vô lượng, tướng sai biệt của tánh nước, gió, lửa; biết tướng nhỏ nhít của vi trần, biết tướng sai biệt của vi trần, sự sai khác của vi trần có trong một cõi nước đều biết hết. Biết trong một cõi nước có bao nhiêu vi trần, đất, nước, gió, lửa. Biết bao nhiêu là vi trần vật báu, bao nhiêu vi trần thân chúng sinh; vi trần vạn vật sai khác trong thế giới; phân biệt chúng sinh với thân thô thân tế bao nhiêu vi trần; thân sinh vào địa ngục; bao nhiêu là vi trần thân sinh vào súc sinh; bao nhiêu vi trần thân sinh vào ngạ quỷ, bao nhiêu là vi trần thân sinh vào A-tu-la bao nhiêu là vi trần, thân sinh cõi trời, bao nhiêu là vi trần thân sinh vào cõi người đều biết rõ. Bồ-tát này nhập vào trí phân biệt vi trần, biết sự thành hoại của cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, biết tướng nhỏ, tướng lớn, tướng vô lượng, tướng sai khác của cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc biết ba cõi như thế. Đó là trợ trí sáng suốt giáo hóa chúng sinh của Bồ-tát. Khéo biết phân biệt thân chúng sinh, khéo quán sát nơi nên thọ sinh, tùy thuận nơi sinh của chúng sinh, tùy thân của chúng sinh mà thọ sinh. Bồ-tát này thị hiện thân có khắp trong tam thiên đại thiên thế giới, tùy thuận thân chúng sinh mà có sự sai khác. Ví như mặt trời hiện ảnh trong nước, thân có khắp trong hai, tam thiên đại thiên thế giới, hoặc trong ba, bốn, năm, mười, hai mươi, ba mươi, bốn mươi, năm mươi, trăm, tam thiên đại thiên thế giới, hoặc ngàn, vạn, trăm vạn, ngàn vạn, trăm ngàn vạn ức na-do-tha thế giới. Cho đến hiện thân khắp trong vô lượng, vô biên, không thể nghĩ bàn, tính kể tam thiên đại thiên thế giới, tùy thân sai khác của chúng sinh mà thọ thân. Bồ-tát này thành tựu trí tuệ như vậy rồi, ở trong một thế giới, thân không dao động, cho đến không thể kể xiết cõi Phật, tùy thân chúng sinh, tùy sự tin ưa, ở trong đại hội của chư Phật mà thị hiện thân h́nh. Nếu ở trong hội Sa-môn th́ thị hiện h́nh sắc Sa-môn; nếu ở trong chúng Bà-la-môn th́ hiện h́nh sắc thân Bà-la-môn, nếu ở hàng Sát-đế-lợi th́ hiện h́nh Sát-đế-lợi; nếu ở trong hàng cư sĩ th́ thị hiện thân cư sĩ, nếu ở trong Tứ thiên vương, Đế Thích, Ma, Phạm thiên th́ thị hiện thân Phạm thiên, cho đến thị hiện thân A-ca-nị-sắc của cõi trời A-ca-nị-sắc. Người đáng dùng thân Thanh văn để độ thoát th́ hiện thân Thanh văn; người đáng dùng thân Bích-chi-phật, Bồ-tát, Phật th́ hiện thân Bích-chi-Phật, Bồ-tát, Phật để độ thoát. Phật tử! Có vô số cõi Phật, tùy thân h́nh chúng sinh và sự tin ưa sai khác mà thị hiện thọ thân; nhưng thật ra là đã xa ĺa thân tướng sai biệt, luôn an trụ trong sự b́nh đẳng của các thân. Bồ-tát này biết thân chúng sinh, thân cõi nước, thân nghiệp báo, thân Thanh văn, thân Bích-chi-phật, thân Bồ-tát, thân Như Lai; biết thân trí, thân pháp, thân hư không. Bồ-tát này, biết sự ham thích sâu xa của chúng sinh; hoặc lấy thân chúng sinh làm thân ḿnh; lấy thân chúng sinh làm thân cõi nước, thân nghiệp báo, thân Thanh văn, thân Bích-chi-phật, thân Bồ-tát, thân Như Lai, thân trí, thân pháp, thân hư không; hoặc lấy thân cõi nước làm thân ḿnh, thân nghiệp báo, cho đến thân hư không; hoặc lấy thân nghiệp báo làm thân ḿnh, cho đến thân hư không; hoặc lấy thân ḿnh làm thân chúng sinh, thân cõi nước, thân nghiệp báo, thân Thanh văn, thân Bích-chi-phật, thân Bồ-tát, thân Như Lai, thân trí, thân pháp, thân hư không. Bồ-tát này biết thân tạo nghiệp, thân quả báo, thân phiền não, thân sắc, thân vô sắc, tướng to tướng nhỏ tướng nhơ tướng tịnh, tướng vô lượng, tướng rộng lớn, tướng điên đảo, tướng bằng phẳng, tướng quanh co, tướng vuông và tướng vuông sai khác của cõi nước Chư Phật; biết thân nghiệp báo là giả danh sai biệt; thân Thanh văn, thân Bích-chi-phật, thân Bồ-tát, thân Như Lai là giả danh sai biệt, khéo phân biệt giảng thuyết như thật các thân tướng: thân Bồ-đề, thân nguyện, thân hóa hiện, thân thọ thần lực, thân tướng tốt trang nghiêm, thân thế lực, thân ý sinh, thân phước đức, thân trí, thân pháp. Khéo phân biệt, giảng thuyết như thật các thân tướng; biết thân pháp là tướng b́nh đẳng, không hoại, biết thân hư không có tướng vô lượng, tướng cùng khắp, tướng vô h́nh. Bồ-tát này khéo biết sự sinh khởi các thân như vậy th́ được mạng tự tại, tâm tự tại, tài vật tự tại, nghiệp tự tại, sinh tự tại, nguyện tự tại, tín giải tự tại, như ý tự tại, trí tự tại, pháp tự tại. Bồ-tát này đạt được mười tự tại của Bồ-tát. Lúc ấy, là người có trí chẳng thể nghĩ bàn, là người vô lượng trí, là người có trí rộng lớn, là người có trí không thể hoại. Bồ-tát tùy thuận trí tuệ như vậy, nên rốt ráo thường tịnh; phát khởi nghiệp thân, khẩu, ý, không có tội; nghiệp thân, nghiệp khẩu, nghiệp ý theo tác động của trí tuệ, lấy Bát-nhã ba-la-mật làm tăng thượng, đại Bi làm đầu, khéo tu phương tiện, khéo phát khởi thệ nguyện, được thần thông chư Phật ủng hộ, không bỏ trí làm lợi ích chúng sinh, biết tất cả mọi việc sai khác trong vô biên thế giới.

Các Phật tử! Nói tóm lại, Bồ-tát trụ địa Bất động, mọi việc làm của thân, khẩu, ý đều hợp với tất cả Phật pháp. Bồ-tát đạt địa này v́ ĺa được tất cả phiền não, nên an trụ trong tâm lực thanh tịnh; v́ tâm không rời đạo, nên trụ trong tâm lực sâu xa; v́ không bỏ chúng sinh, nên khéo an trụ trong bi lực rộng lớn; v́ cứu tất cả thế gian, nên khéo trụ trong sức từ rộng lớn; v́ không quên pháp đã nghe nên an trụ trong sức Đà-la-ni; v́ phân biệt chọn lựa tất cả Phật pháp, nên khéo an trú trong tất cả sức nhạo thuyết; v́ đi lại trong vô số thế giới khác, nên khéo an trụ trong sức thần thông; v́ không bỏ hạnh nghiệp của Bồ-tát nên an trụ trong nguyện lực; v́ tu tập tất cả Phật pháp nên an trụ trong lực Ba-la-mật; v́ khéo phát khởi Nhất thiết chủng trí nên an trụ trong sức Như Lai. Bồ-tát này đạt trí lực như vậy, nên thị hiện làm mọi việc sẽ không bị lỗi lầm. Các Phật tử! Đại Bồ-tát ở địa này không thể bị hủy hoại, nên gọi là địa Bất động; trí tuệ không lay chuyển nên gọi là địa Không thoái chuyển; tất cả thế gian khó lường biết được, nên gọi là địa oai đức; không có tội lỗi gia nghiệp nên gọi là địa Vương tử; tùy ý tự tại nên gọi là địa sinh Bồ-tát; hoàn toàn không tạo tác nên gọi là địa Thành; khéo biết phân biệt nên gọi là địa cứu cánh; khéo phát khởi đại nguyện nên gọi là địa Biến hóa; không chấp các pháp nên gọi là địa Thắng xứ; khéo tu tập phát khởi tiên đạo, nên gọi là địa Vô công lực.

Các Phật tử! Đại Bồ-tát đạt trí tuệ như vậy, gọi là nhập cảnh giới Phật, được ánh sáng công đức Phật soi rọi, gọi là tùy oai nghi hạnh nghiệp của Phật, hướng đến Phật pháp, luôn được thần thông của Phật ủng hộ, luôn được Tứ Thiên vương, Thích Đề-hoàn Nhân, Phạm Thiên vương cung phụng, được thần Kim Cang mật tích hộ vệ, khéo phát khởi Thiền định sâu xa, luôn thị hiện vô lượng thân sai biệt. Trong mỗi thân, đều có uy lực, đạt quả báo lớn và sức thần thông, tự tại trong vô biên Tam-muội, được vô lượng sự thọ ký, tùy theo sự thành tựu của chúng sinh mà thị hiện thành tựu vô lượng Bồ-đề. Bồ-tát này nhập trí tuệ lớn như vậy, thông đạt hết các pháp, thường phóng ra ánh sáng trí tuệ lớn, vượt qua đạo pháp tánh không chướng ngại, biết đạo pháp sai khác của thế gian, thị hiện được tất cả công đức, tùy ý tự tại, hiểu rõ đời trước đời sau, nhập trong trí hồi chuyển ma đạo, nhập cảnh giới mà Như Lai đã tu hành, thường ở trong vô biên thế giới mà hành đạo Bồ-tát. V́ không tướng lay chuyển nên gọi địa này là Bất động.

Các Phật tử! Các Đại Bồ-tát ở địa Bất động, phát sinh sức Thiền định luôn gặp vô số chư Phật, không bỏ sự cúng dường nào, luôn cúng dường chư Phật. Bồ-tát này, trong mỗi kiếp, ở mọi nơi đều gặp vô số trăm ngàn vạn ức na-do-tha vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ Phật để cung kính cúng dường, tôn trọng, ngợi khen t́m đủ mọi vật, mọi việc để cúng dường, gần gũi chư Phật, theo Phật học tất cả pháp môn sai khác của thế gian, dần dần vào sâu tạng pháp của Như Lai, học hỏi mọi sự sai khác của tánh thế gian, vẫn không cùng tận. Cho dù trải qua trăm ngàn vạn ức kiếp, cũng không thể nói hết, các căn lành lại càng sáng tịnh. Ví như vàng ròng đã được luyện thành xen lẫn tạp bảo làm ra chuỗi đeo vào cổ vị vua thống lãnh bốn châu thiên hạ, người cõi Diêm-phù-đề không thể đoạt được.

Các Phật tử! Đại Bồ-tát cũng thế, trụ địa Bất động này, các căn lành dần dần sáng tịnh, tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật, cho đến Bồ-tát ở Địa thứ bảy cũng không thể hoại được. Bồ-tát trụ ở địa này khéo dùng môn trí phân biệt, nên ánh sáng trí tuệ diệt phiền não của chúng sinh. Phật tử! Ví như người làm chủ ngàn thế giới là Đại phạm Thiên vương, trong khoảnh khắc, lưu bố tâm Từ lan khắp ngàn thế giới, lại phóng ra ánh sáng khắp các cõi ấy. Phật tử! Đại Bồ-tát cũng thế, trụ trong địa Bất động, từ thân phóng ra ánh sáng soi khắp chúng sinh trong mười vạn tam thiên đại thiên thế giới, kế đến diệt trừ phiền não làm cho chúng được thanh tịnh.

Phật tử! Đó là lược nói địa Bất động của Đại Bồ-tát. Nếu nói rộng, th́ dù trải qua vô lượng kiếp, cũng không thể nói hết. Bồ-tát trụ trong địa này, thường làm Đại phạm Thiên vương, chủ cả ngàn cõi, các căn lanh lợi, trao cho chúng sinh, đối với Thanh văn, Bích-chi-Phật, Bồ-tát th́ đạo nhân duyên Ba-la-mật không bao giờ cùng tận. Nói trong tánh sai biệt của thế gian th́ không ai hoại được. Làm những việc lành như bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự; tất cả đều không rời nhớ nghĩ về Phật, về pháp, về chúng Bồ-tát bạn; cho đến không rời nhớ nghĩ về Nhất thiết chủng trí. Luôn nghĩ: Bất cứ lúc nào, ở trong chúng sinh, ta cũng người đứng đu, người tôn quý, và luôn làm chỗ dựa cho tất cả chúng sinh. Bồ-tát này, nếu siêng năng tu tập th́ trong khoảnh khắc sẽ đạt Tam-muội nhiều như số bụi trong trăm ngàn vạn tam thiên đại thiên thế giới; cho đến có thể thị hiện Bồ-tát quyến thuộc cũng nhiều như số vi trần trong trăm ngàn tam thiên đại thiên thế giới. Nếu dùng nguyện lực, thần thông tự tại, th́ hơn số đấy; dù trải qua trăm ngàn ức kiếp cũng không thể nói hết.

Lúc ấy, Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn nêu lại nghĩa trên, nên nói kệ rằng:

Bồ-tát Địa thứ bảy

Đã đạt tuệ phương tiện

Khéo tu pháp trợ đạo

Luôn luôn niệm đại nguyện

Được thần lực Phật hộ

Thành tựu các căn lành

Ví mong cầu thắng trí

An nhập Địa thứ tám

Khéo tu tập phước đức

Lại thêm Từ bi lớn

Bỏ những tâm hữu hạn

Tâm ví như hư không

Ở trong pháp giảng thuyết

Tâm đạt sức quyết định

Do vậy đạt tịch diệt

Vô sinh nhẫn vi diệu

Các pháp từ xưa nay

Không sinh cũng chẳng diệt

Không tướng, không xuất phát

Không mất cũng chẳng hành

Các pháp trước, giữa, sau

Như như, không phân biệt

Không có tâm ý hành

Ví như là hư không

Thành tựu nhẫn như vậy

Không có các hý luận

Đạt địa Bất động này

Hạnh sâu xa tịch diệt

Tất cả các thế gian

Không thể đo lường được

Tất cả tướng của tâm

Đều đã chấm dứt hết

Bồ-tát trụ địa này

Tâm thức không phân biệt

Như nhập diệt tận định

Không suy nghĩ phân biệt

Ví như người nằm mộng

Vội vàng muốn qua sông

Tỉnh dậy tâm trống rỗng

Tự biết không tạo tác

Đạt nhẫn sâu xa này

Diệt tất cả tưởng niệm

Cũng như các Phạm vương

Không phiền não cõi Dục

Trước nhờ nguyện lực hộ

Giờ được chư Phật dạy

Pháp nhẫn số một này

Là chức vị của Phật

Trí lực sâu của ta

Vô úy, pháp Bất cộng

Nay ông chưa có được

Hãy siêng năng tu tập

Ông nay tuy dập tắt

Tất cả lửa phiền não

Nhưng hãy xét thế gian

Phiền não luôn hừng hực

Hãy nhớ nguyện của ḿnh

Muốn lợi ích chúng sinh

Nên hiểu hết các pháp

Rộng độ tất cả loài

Tướng thật tánh các pháp

Thường trụ không đổi khác.

Nhị thừa tuy đạt được

Không thể gọi là Phật

Chỉ đạt đến vô ngại

Trí sâu xa vi diệu

Nhờ thông hiểu ba đời

Nên được gọi là Phật

Là Đấng vô đẳng đẳng

Được trời người cúng dường

Mở bày các pháp trí

Khiến nhập pháp của Phật

Thành tựu không cùng tận

Vô lượng trí tuệ mầu

Các pháp hành từ trước

Chẳng bằng một niệm này

Các Bồ-tát như vậy

Đạt địa diệu trí tuệ

Dù chỉ trong một niệm

Thân đến khắp mười phương

Nhập môn trí tuệ này

Hành đạo nhanh không ngại

Như đi trong biển lớn

Nhờ sức gió đẩy nhanh

Bỏ hết tâm dụng công

Chỉ trụ trong trí nghiệp

Quán thế giới mười phương

Thành hoại và an trụ

Biết bốn đại là một

Lại biết mọi sai khác

Vô lượng tướng lớn nhỏ

Đủ các thứ sai biệt

Biết được số vi trần

Tam thiên đại thiên giới

Lại biết thân chúng sinh

Số vi trần bốn đại

Thân chư Thiên quý báu

Số vi trần sai khác

Soi sáng khắp mọi nơi

Các việc khác cũng vậy

Nhờ nhân duyên trí tuệ

Tâm dần được nhu hòa

V́ lợi ích chúng sinh

Thân cùng khắp các cõi

Lấy thân của chúng sinh

Làm thân của chính ḿnh

Và các loại thân h́nh

Trong thế giới chư Phật

Như nhật nguyệt theo gió

Ảnh hiện trong dòng nước

Bồ-tát cũng như vậy

Tùy thuận gió trí tuệ

Thường trụ trong pháp tánh

Lặng yên không dời đổi

Với chúng sinh tâm tịnh

Hiện đủ loại thân h́nh

Tùy ý chúng ưa thích

Mà thị hiện thọ sinh

Ở trong hội trời người

Thị hiện thân h́nh ấy

Với nhân duyên Bồ-tát

Trong hòa hợp, tự tại

Cho đến tùy thuận ý

Mà thị hiện thân Phật

Thân chúng sinh, cõi nước

Thân nghiệp báo, Hiền thánh

Thân Trí và thân pháp

Biết đều là b́nh đẳng

Chính v́ nhân duyên này

Đạt thần thông như ý

V́ khiến đời an vui

Mà hiện các thân h́nh

Nên đạt được mười thứ

Trí tự tại vi diệu

Làm việc bằng trí tuệ

Tùy thuận tâm Từ bi

Khéo léo tu tập hết

Tất cả pháp của Phật

Trụ trong ba tịnh nghiệp

Vững chãi như Tu-di

Lại đạt được mười lực

Của các Đại Bồ-tát

Tất cả chúng ma quân

Đều không lay chuyển được

Luôn được chư Phật hộ

Thích Phạm đều kính lạy

Thần Kim Cang mật tích

Luôn theo để hộ vệ

Bồ-tát đạt địa này

Công đức không hạn lượng

Trải qua trăm vạn kiếp

Không thể nói hết được

Gần gũi vô số Phật

Căn lành càng tăng trưởng

Như vàng ròng tạp bảo

Trang sức nơi cổ vua

Bồ-tát trụ địa này

Thường làm Đại Phạm vương

Làm chủ ngàn cõi nước

Công đức nhiều vô lượng

Thường dùng ba thừa giáo

Nhưng không hề cùng tận

Tâm từ sáng chiếu khắp

Phá trừ các phiền não

Nếu muốn trong chốc lát

Được vô số Tam-muội

Như số bụi trần trong

Tam thiên đại thiên cõi

Gặp được Phật mười phương

Số nhiều cũng như vậy

Nếu dùng nguyện lực ḿnh

Hơn đây, không hạn lượng

Nay đã lược giảng thuyết

Diệu tướng Địa thứ tám

Nếu nói rộng về nó

Ngàn ức kiếp không hết.

KINH THẬP TRỤ

Quyển 1   Quyển 2   Quyển 3   Quyển 4

KINH THẬP TRỤ

Hán dịch: Đời Hậu Tần, Tam tạng Cưu-ma-la-thập, người nước Quy Tư.

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 4

Phẩm 9: ĐỊA DIỆU THIỆN

Lúc Phật tử diễn thuyết

Diệu nghĩa Địa thứ tám

Do thần lực của Phật

Chấn động vô lượng cõi

Hiện thân Nhất thiết trí

Vô lượng quang vi diệu

Soi khắp mười phương cõi

Chúng sinh được an lạc

Ngàn vạn ức Bồ-tát

Đang trụ trong hư không

Cúng dường vật vi diệu

Vô số chư Thiên nhân

Đại tự tại Thiên vương

Và Tha hóa Thiên vương

Vui mừng và cúng dường

Phật, biển lớn công đức

Ngàn vạn các Thiên nữ

Cung kính và vui mừng

Cùng cất tiếng vi diệu

Khen ngợi công đức Phật

V́ thần lực của Phật

Phát sinh pháp vi diệu

Người khéo hành tịch diệt

Không có những tâm ác

Đều ở trong địa này

Tu tập hạnh Bồ-tát

V́ lợi ích thế gian

Đi khắp cả mười phương

Dạy chúng sinh Phật pháp

Tâm trống rỗng vô ngại

Thần lực các Bồ-tát

Cúng dường vật thượng diệu

Hơn trời người mười phương

Do phước đức đưa đến

Phật tử thích người trí

Nhờ đấy hiện Phật lực

Ở một cõi bất động

Mà hiện khắp mọi nơi

Lợi ích cho thế gian

Như trăng sáng tròn đầy

Dứt tất cả âm thanh

Ngôn ngữ và tưởng nhớ

Mà dùng các âm thanh

Thuyết pháp như tiếng vang

Tùy chúng sinh thấp kém

Tâm họ chán và đắm

Hiện nói đạo Thanh văn

Làm thoát khỏi các khổ

Tùy chỗ chúng sinh có

Giảng thuyết đạo Thanh văn

Những kẻ ít lanh lợi

Thích các pháp nhân duyên

Th́ thuyết Bích-chi-phật

Tùy chỗ lợi căn có

Làm lợi ích chúng sinh

Có tâm Từ bi lớn

Th́ giảng pháp Bồ-tát

Người tâm lớn vô thượng

Chắc chắn thích việc lớn

Th́ hiện thành thân Phật

Thuyết vô lượng Phật pháp

Ví như nhà ảo thuật

Hiện các loại thân h́nh

Các thân tướng như vậy

Đều không thật sự có

Các Phật tử như vậy

Khéo biết giữ trí tuệ

Thị hiện tất cả hạnh

Tâm xa ĺa có không

Ngàn vạn các Thiên nữ

Dùng tiếng hay ca ngợi

Ca ngợi như vậy rồi

Im lặng chiêm ngưỡng Phật

Giải Thoát Nguyệt lại thưa

Phật tử, Đại chúng tịnh

Nhất tâm và thích nghe

Chánh hạnh Địa thứ chín.

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói:

–Phật tử! Các Đại Bồ-tát này dùng vô lượng trí như thế quán sát Phật đạo; muốn cầu tịch diệt giải thoát càng sâu xa hơn và muốn tư duy trí tuệ của Như Lai tốt hơn; muốn nhập pháp sâu xa bí mật của Như Lai; muốn phân biệt, nắm bắt đại trí tuệ không thể nghĩ bàn; muốn phân biệt các Tam-muội Đà-la-ni khiến thanh tịnh; muốn khiến các thần thông rộng lớn, muốn tùy thuận hạnh sai khác của thế gian; muốn tu tập các Lực, Vô úy, pháp Bất cộng của Phật, không ai hoại được; muốn tùy thuận hành sức chuyển pháp luân của chư Phật, không bỏ đại Bi, đại nguyện đã thọ tŕ được nhập Địa thứ chín. Bồ-tát trụ địa này biết như thật phát khởi hành pháp thiện, bất thiện, vô ký; biết hành pháp hữu lậu, vô lậu; hành pháp thế gian, xuất thế gian; hành pháp tư ngh́, chẳng thể nghĩ bàn; hành pháp định, bất định; hành pháp Thanh văn, Bích-chi-phật, Bồ-tát, Như Lai; hành pháp hữu vi, vô vi. Tùy thuận trí tuệ như vậy, như thật biết tâm sở hành Bồ-đề khó, các phiền não khó, nghiệp khó, các căn khó, nguyện nhạo khó, tánh khó, chí tâm khó, thâm tâm khó, sinh khó, tàn khí khó, tam tụ sai biệt khó; biết tướng sai biệt của tâm, tướng tạp của tâm, tướng khinh chuyển của tâm; tướng hoại bất hoại của tâm, tướng của tâm, tướng vô biên tự tại của tâm, tướng vô h́nh, sai biệt thanh tịnh của tâm, tướng cấu, tướng vô cấu của tâm, tướng trói buộc của tâm, tướng cởi mở của tâm, tướng dua nịnh của tâm, tướng ngay thẳng của tâm, tướng tùy đạo của tâm… Tất cả đều biết như thật. Bồ-tát biết tướng sâu xa của phiền não, biết tướng thô cạn của phiền não, biết tướng bạn, tướng không rời của tâm phiền não, biết tướng trói buộc, sai khác, biết tướng tâm ấy tương ưng hay không tương ưng, biết tướng quả báo khi sinh, biết các tướng sai khác trong ba cõi, biết tướng ái, si, kiến nhập sâu như mũi tên, biết tướng tội nặng của kiêu mạn si; biết tướng nhân duyên ba nghiệp không đoạn, cho đến biết như thật tướng sai biệt của tám vạn bốn ngàn phiền não. Bồ-tát này biết tướng của các nghiệp thiện, bất thiện, vô ký, tướng phân biệt, chưa phân biệt; tướng bạn với tâm; tướng không xa ĺa; tướng tự nhiên tận; tướng hành đạo tận; tướng chủng, tướng tập, tướng không mất quả báo, tướng thứ lớp, tướng hữu báo, tướng vô báo; tướng hắc hắc báo, bạch bạch báo; tướng hắc bạch hắc bạch báo; tướng không phải hắc, không phải bạch, chấm dứt nghiệp; biết tướng nơi khởi nghiệp; tướng thọ nghiệp pháp sai khác; biết tướng nghiệp vô lượng nhân duyên khởi; biết tướng sai khác của nghiệp thế gian, nghiệp xuất thế gian; tướng hiện báo, tướng sinh báo, tướng hậu báo; tướng tùy thuận các nghiệp định, bất định; cho đến biết như thật tướng sai biệt của tám vạn bốn ngàn nghiệp. Bồ-tát này biết tướng sai biệt của các căn nhu nhuyến, vừa phải, lanh lợi; biết tướng sai biệt của đời trước, đời sau, tướng không sai khác; biết tướng thượng trung hạ; biết tướng bạn của phiền não; tướng không, rời nhau; tướng tùy thuận các thừa, định, bất định; tướng thuần thục, tướng chưa thuần thục; tướng tùy tâm hành, tướng hư hoại, tướng giữ chặt, tướng tăng thượng, tướng không hoại được, tướng chuyển, tướng bất chuyển; tướng sai biệt của ba đời, tướng sai biệt sâu xa an ổn cùng sinh; cho đến biết như thật tướng sai biệt của tám vạn bốn ngàn căn. Bồ-tát này biết tướng nhu nhuyến, vừa phải, lanh lợi trong dục lạc của chúng sinh; cho đến biết như thật tướng sai khác của tám vạn bốn ngàn dục lạc. Bồ-tát này biết tướng các tánh nhu nhuyến, vừa phải, lanh lợi, cho đến biết như thật tướng sai biệt của tám vạn bốn ngàn tánh. Bồ-tát này biết tướng nhu nhuyến, lanh lợi, vừa phải, của tâm sâu xa, cho đến biết như thật tướng sai biệt của tám vạn bốn ngàn tâm sâu xa. Bồ-tát này phân biệt và biết được các kết sử trói buộc cùng sinh với tâm, không cùng sinh với tâm; tâm tương ưng, tâm không tương ưng; tướng thâm nhập, tướng từ vô thỉ đến nay theo não hại chúng sinh, trái với tất cả thiền định giải thoát, thần thông, nó trói buộc chắc chắn trong ba cõi, trói buộc tâm vô lượng không để hiện tiền, mở cửa các nghiệp, không hay biết tướng có thể đối trị tướng vô sở hữu, tướng vô định sự, tướng không khác Thánh đạo, tướng diệt động. Bồ-tát này biết như thật tướng sai biệt của chúng sinh; đó là sự sai biệt của địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, A-tu-la, trời, người, sự sai biệt của Sắc giới, Vô sắc giới; sự sai biệt hữu tưởng, vô tưởng. Nghiệp là ruộng, ái là nước, vô minh là tối tăm, thức bị che là hạt giống, thân sau là mầm, danh sắc cùng sinh không rời nhau; tướng si ái tương tục; dục sinh, dục tác, dục ái không rời tướng ưa chúng sinh; phân biệt tướng sai biệt ba cõi, tướng tam hữu tương tục; tất cả đều biết như thật. Bồ-tát này biết như thật các tập khí, hoặc hữu dư, hoặc vô dư, tùy nơi thọ sinh có tập khí, tùy chúng sinh cộng trụ có tập khí, tùy nghiệp phiền não có tập khí; thiện, bất thiện, vô ký có tập khí; ĺa dục có tập khí; tùy thân sau có tập khí; tuần tự rong ruổi có tập khí; tướng thâm nhập đạo đoạn, tướng tŕ phiền não, xa ĺa th́ không còn pháp. Tất cả đều biết như thật. Bồ-tát này biết như thật tướng định, tướng bất định của chúng sinh, tướng chánh định, tướng tà định; tướng bất định, tướng tà định trong tà kiến; tướng chánh định trong chánh kiến; rời xa hai tướng vô định này, mỗi cái ngũ nghịch là tướng tà định, năm căn là tướng chánh định, tà vị là tà định, chánh vị là chánh định. V́ không còn tạo tác nữa, ĺa hai vị này, đó là tướng bất định, thâm nhập nhóm tà có tướng khó chuyển được, phải khiến tu tướng nhân duyên đạo vô thượng; nhóm bất định, nhóm tà định, tướng thủ hộ chúng sinh đều biết như thật.

Phật tử! Các Đại Bồ-tát tùy thuận trí như vậy, gọi là an trụ địa Diệu thiện. Bồ-tát trụ địa này, biết tướng các hành sai khác của chúng sinh, như thế tùy sự giải thoát mà tạo nhân duyên. Bồ-tát này, biết pháp giáo hóa chúng sinh, biết pháp độ chúng sinh. Biết như thật, rồi thuyết pháp về tướng của Thanh văn thừa, tướng Bích-chi-phật thừa, tướng Bồ-tát thừa, tướng Như Lai địa. Biết như thật tùy thuận nhân duyên của chúng sinh mà thuyết pháp; tùy tâm tánh, tùy căn cơ, tùy dục lạc sai khác mà thuyết pháp; tùy hành xứ, trí tuệ xứ mà thuyết pháp; biết tất cả hành xứ theo đó mà thuyết pháp; tùy tánh chúng sinh, thâm nhập chỗ khó mà thuyết pháp; tùy đạo, tùy cuộc sống, tùy phiền não, tập khí chuyển mà thuyết pháp; tùy ham thích khiến được giải thoát mà thuyết pháp. Bồ-tát trụ địa này, làm đại Pháp sư ǵn giữ tạng pháp của chư Phật. Tùy ở nghĩa sâu xa, đại Pháp sư sẽ dùng vô lượng tuệ phương tiện, bốn trí vô ngại, phát khởi ngôn từ Bồ-tát mà thuyết pháp. Bồ-tát này thường tùy thuận bốn trí vô ngại, nhưng không phân biệt. Bốn pháp đó là ǵ? 1. Pháp vô ngại. 2. Nghĩa vô ngại. 3. Từ vô ngại. 4. Nhạo thuyết vô ngại.

Bồ-tát này dùng trí pháp vô ngại biết tự tướng các pháp; dùng trí nghĩa vô ngại biết sự sai biệt của các pháp; dùng trí từ vô ngại biết thuyết các pháp không phân biệt; dùng trí nhạo thuyết vô ngại biết các pháp nối nhau không dứt. Lại dùng trí pháp vô ngại biết các pháp không thể tánh; dùng trí nghĩa vô ngại biết tướng sinh diệt của các pháp; dùng trí từ vô ngại biết giả danh của các pháp nhưng nói không đoạn giả danh; dùng trí nhạo thuyết vô ngại, nói tùy giả danh không hoại vô biên. Lại dùng trí pháp vô ngại biết tướng sai biệt của các pháp hiện tại; dùng trí nghĩa vô ngại biết tướng sai biệt của các pháp quá khứ, vị lai, dùng trí từ vô ngại biết các pháp quá khứ, vị lai, hiện tại mà dùng không phân biệt thuyết giảng; dùng trí nhạo thuyết vô ngại để trong mỗi đời được giảng vô biên pháp tướng. Lại dùng trí pháp vô ngại để biết các pháp sai biệt; dùng trí nghĩa vô ngại để biết nghĩa sai biệt của các pháp; dùng trí từ vô ngại để biết tùy thuận ngôn ngữ mà thuyết pháp; dùng trí nhạo thuyết vô ngại để tùy thuận sự ham thích hiểu biết mà thuyết pháp. Lại dùng trí pháp vô ngại và dùng trí pháp để biết sự sai biệt của các pháp; dùng phương tiện để biết sự không sai biệt của các pháp; dùng nghĩa vô ngại và tỷ trí biết như thật sự sai biệt của các pháp dùng trí từ vô ngại, trí thế giảng thuyết sự sai biệt của các pháp; dùng trí nhạo thuyết vô ngại để khéo giảng thuyết đệ nhất nghĩa. Lại dùng trí pháp vô ngại để biết một tướng không hư hoại của các pháp; dùng trí nghĩa vô ngại để khéo nhập ấm, nhập giới, xét kỹ pháp nhân duyên; dùng trí từ vô ngại làm cho tất cả thế gian có chỗ quy thú, v́ dùng lời hay, v́ dùng trí nhạo thuyết vô ngại nên việc thuyết giảng thù thắng làm cho chúng sinh đạt vô biên pháp sáng. Lại dùng trí pháp vô ngại để biết các pháp không có phân biệt, thâu nhiếp trong một thừa; dùng trí nghĩa vô ngại nhập môn phân biệt sự sai biệt của các pháp; dùng trí từ vô ngại thuyết giảng các thừa, nghĩa không phân biệt; dùng trí nhạo thuyết vô ngại để dùng một pháp môn thuyết vô biên pháp môn. Lại dùng trí pháp vô ngại có thể nhập tất cả hạnh Bồ-tát: Trí hành, pháp hành, tùy trí hành; dùng trí nghĩa vô ngại có thể phân biệt, thuyết giảng nghĩa sai khác của mười địa; dùng trí từ vô ngại không phân biệt, thuyết giảng đạo tùy thuận các địa; dùng trí nhạo thuyết vô ngại, thuyết giảng tướng vô biên của các hành. Lại dùng trí pháp vô ngại đẻ biết tất cả Phật, trong một niệm, đạt được Bồ-đề; dùng trí nghĩa vô ngại để biết các loại sai biệt của thời, xứ, dùng trí từ vô ngại để tùy thuận thuyết giảng sự sai khác về việc đắc đạo của chư Phật; dùng trí nhạo thuyết vô ngại, dù trải qua vô biên kiếp, giảng thuyết pháp cú không cùng tận. Lại dùng trí pháp vô ngại biết tất cả Phật pháp, lực Phật, Vô sở úy, pháp Bất cộng, đại Từ, đại Bi, Trí vô ngại, Chuyển pháp luân tùy thuận Nhất thiết trí; dùng trí nghĩa vô ngại, tùy âm thanh của Như Lai phát ra tám vạn bốn ngàn, tùy tâm, tùy căn cơ và tùy sự ham thích sai biệt của chúng sinh; dùng trí từ vô ngại, dùng âm thanh Như Lai, không phân biệt thuyết giảng tất cả các hành; dùng trí nhạo thuyết vô ngại, dùng sức trí tuệ của chư Phật để tùy chúng sinh thích âm thanh ǵ mà thuyết giảng. Các Phật tử! Đại Bồ-tát khéo biết trí vô ngại như vậy, an trụ Địa thứ chín, gọi là đạt tạng pháp của chư Phật; có thể làm bậc đại pháp sư; thông đạt chúng nghĩa Đà-la-ni; chúng pháp Đà-la-ni; khởi trí, chúng minh Đà-la-ni, thiện ý Đà-la-ni, chúng tài Đà-la-ni, danh văn Đà-la-ni, oai đức Đà-la-ni, vô ngại Đà-la-ni, vô biên toàn Đà-la-ni, nghĩa Đà-la-ni. Đạt trăm vạn a-tăng-kỳ Đà-la-ni như vậy, tùy phương tiện mà giảng thuyết vô lượng pháp môn sai biệt như thế. Bồ-tát này đạt vô lượng môn Đà-la-ni như vậy, có thể ở chỗ vô lượng Phật nghe pháp, nghe rồi không quên, còn giảng thuyết lại cho mọi người bằng vô lượng pháp môn sai khác như đã nghe. Bồ-tát này, ở chỗ một Đức Phật, dùng trăm vạn a-tăng-kỳ Đà-la-ni nghe thọ pháp. Nghe pháp ở một Đức Phật như vậy, ở vô lượng, vô biên Đức Phật cũng vậy. Bồ-tát này lúc lạy Phật, nghe pháp sáng chẳng phải nhờ học nhiều ở Thanh văn đạo mà đạt sức mà trải qua mười vạn kiếp thọ tŕ. Bồ-tát này, đạt sức Đà-la-ni, các trí vô ngại, sức nhạo thuyết nên khi thuyết pháp, ngồi ở pháp tòa mà tùy ý thuyết pháp cho chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới. Bồ-tát này ngồi trên pháp tòa là người thù thắng nhất, trừ chư Phật và các Đại Bồ-tát; Bồ-tát này trong tâm đạt vô lượng pháp minh. Bồ-tát này ngồi tại pháp tòa dùng một âm thanh, làm cho tất cả đại chúng đều hiểu rõ; hoặc dùng mọi thứ âm thanh, làm cho đại chúng đều hiểu rõ; hoặc im lặng chỉ phóng ra ánh sáng mà làm cho hết thảy đại chúng hiểu rõ pháp; hoặc từ tất cả lỗ chân lông phát ra pháp âm; hoặc vật có sắc, không sắc trong tam thiên đại thiên thế giới đều phát ra pháp âm; hoặc dùng một âm biến khắp các cõi, làm cho chúng sinh đều hiểu. Bồ-tát này, dù cả chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới đồng thời vấn nạn, mỗi chúng sinh dùng vô lượng, vô biên âm thanh sai khác để vấn nạn, những ǵ người này hỏi, người khác không hỏi lại th́ Bồ-tát ấy, trong một niệm, nhận tất cả sự vấn nạn nhưng chỉ dùng một âm thanh làm cho tất cả đều hiểu rõ. Cứ thế, dù hai tam thiên đại thiên thế giới; ba, bốn, năm, mười, hai mươi, ba mươi, bốn mươi, năm mươi, hoặc trăm, tam thiên đại thiên thế giới, hoặc ngàn tam thiên đại thiên thế giới, hoặc một vạn, mười vạn, trăm vạn, hoặc một ức tam thiên đại thiên thế giới, hoặc mười ức, trăm ngàn ức na-do-tha cho đến không thể nói, không thể nói tam thiên đại thiên thế giới, đầy cả chúng sinh trong đó cũng đều rộng thuyết pháp cho họ. Khi thuyết pháp, nương thần lực Phật, có thể chúng sinh rộng làm các việc Phật, siêng năng hơn nữa, để thâu giữ trí sáng như vậy. Giả như trong một hào ly, có không thể nói, không thể nói số thế giới vi trần đại hội, Đức Phật ở trong đó thuyết pháp, Phật tùy thuận bao nhiêu tâm chúng sinh mà thuyết pháp, làm cho mỗi chúng sinh đều đạt vô lượng pháp. Như một Đức Phật, tất cả chư Phật ở trong đại hội thuyết pháp, cũng đều như vậy; như đầu một sợi lông, tất cả thế giới ở mười phương cũng đều như vậy, ở trong đó, phát sinh sức nhớ nghĩ lớn; ở trong một niệm có thể đến chỗ tất cả Phật, thọ tất cả pháp sáng nhưng không mất một câu. Ví như vô số chúng sinh trong đại hội nghe pháp, lúc đó, Bồ-tát dùng pháp môn thanh tịnh quyết định thuyết giảng làm cho chúng đều khai ngộ. Trong một niệm, làm cho tất cả chúng sinh đều hoan hỷ, huống ǵ chúng sinh trong vài thế giới.

Bồ-tát trụ trong địa này, căn lành dần tăng trưởng, ngày đêm không còn niệm khác, thâm nhập hành xứ của chư Phật, thường ở chỗ Phật, thâm nhập giải thoát của Bồ-tát, thâm nhập tùy thuận của Bồ-tát. Nhờ trí như vậy, thường được gặp chư Phật. Trong mỗi kiếp, đem vô lượng, vô biên trăm ngàn ức phẩm vật vi diệu, cúng dường chư Phật, ở chỗ các Đức Phật học hỏi tất cả, thông đạt các pháp Đà-la-ni. Bồ-tát này, căn lành dần được sáng suốt. Phật tử! Ví như vàng ròng đã được luyện thành đồ trang sức, đầy đủ sự đẹp đẽ làm mão báu hay chuỗi ngọc cho Chuyển luân thánh vương sử dụng, th́ tất cả những vua nhỏ và người trong bốn cõi không thể đoạt được. Các Phật tử! Đại Bồ-tát cũng thế, trụ ở địa Diệu thiện này, các căn lành dần dần được sáng suốt, không ai hoại được, Thanh văn, Bích-chi-phật và Bồ-tát ở các địa dưới không thể hoại được. Bồ-tát này, căn lành sáng suốt, chiếu khắp những chỗ hiểm nạn phiền não của chúng sinh, chiếu xong thâu lại.

Phật tử! Ví như Đại phạm vương, trong tam thiên đại thiên thế giới, soi rọi được tất cả những chỗ hiểm nạn. Bồ-tát cũng thế, trụ ở địa Diệu thiện, căn lành sáng suốt, soi chiếu tất cả chỗ hiểm nạn phiền não của chúng sinh, chiếu xong thâu lại.

Phật tử! Đó là lược nói địa Diệu thiện, Địa thứ chín của Đại Bồ-tát. Nếu nói rộng, th́ dù trải qua vô lượng vô số kiếp, cũng không thể hết. Đại Bồ-tát trụ trong Địa này thường làm Đại phạm vương, làm chủ cả tam thiên đại thiên thế giới không ai hơn được. Người hiểu nghĩa như thật, ở trong tự tại mà đạt tự tại; khéo giảng thuyết cho Thanh văn, Bích-chi-phật, Ba-la-mật của Bồ-tát, chúng sinh có vấn nạn cũng không bị cùng tận. Tạo những nghiệp lành như Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự đều không rời niệm Phật, niệm pháp và niệm chúng Bồ-tát bạn, cho đến không rời niệm Nhất thiết chủng trí; luôn nghĩ, bất cứ lúc nào, ở trong chúng sinh ta là người đứng đầu, người tôn quý, cho đến là chỗ nương tựa cho tất cả chúng sinh. Bồ-tát này nếu siêng năng tu tập, th́ trong khoảnh khắc, đạt số Tam-muội nhiều như số bụi trần trong trăm vạn a-tăng-kỳ tam thiên đại thiên thế giới; cho đến thị hiện được vô số Bồ-tát và quyến thuộc nhiều như số bụi trần trong trăm vạn a-tăng-kỳ tam thiên đại thiên thế giới. Nếu dùng nguyện lực, thần thông tự tại, th́ hơn số này, dù trải qua trăm ngàn ức na-do-tha kiếp, cũng không thể nói hết.

Lúc ấy, Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn nêu lại nghĩa trên nên nói kệ rằng:

Các Bồ-tát tùy thuận

Vô lượng trí lực sâu

Là vi diệu số một

Tất cả đời khó biết

Người lợi ích chúng sinh

Đạt đến Địa thứ chín

Được nhập tạng bí mật

Của tất cả chư Phật

Đạt được Đà-la-ni

Tam-muội vi diệu nhất

Sức thần thông rộng lớn

Khéo nhập tướng thế gian

Sức trí tuệ bền chắc

Quán sát các Phật pháp

Nguyện lớn, tâm bi tịnh

Nhập được Địa thứ chín

Thuận thành địa cao thượng

Giữ tạng pháp chư Phật

Liền thông đạt các pháp

Thiện, bất thiện, vô ký

Hữu lậu và vô lậu

Thế gian, xuất thế gian

Đây so lường xét được

Kia không thể suy lường

Biết pháp định, bất định

Đầy đủ tướng ba thừa

Suy xét và phân biệt

Tướng hữu vi, vô vi

Biết các pháp như vậy

Phá trừ tối vô minh

Tùy thuận tâm trí này

Là vi diệu số một

Biết tất cả chúng sinh

Hiểm nạn các tạp tâm

Tâm khinh suất chuyển đổi

Tâm vô biên tự tại

Tướng phiền não cạn sâu

Gần tâm, không rời tâm

Lại biết tướng trói buộc

Tùy thuận có liên tục

Biết đủ các tạp nghiệp

Với bao tướng sai khác

Nhân diệt, quả không mất

Thông đạt việc như vậy

Lại biết các chúng sinh

Các căn độn, vừa, lợi

Rộng lớn và sai biệt

Tướng đời trước, đời sau

Thượng, trung, hạ khác nhau

Và các thứ dục lạc

Cho đến biết tất cả

Tám vạn bốn ngàn loại

Tánh thế gian cũng thế

Chỗ phiền não khó thấy

Từ xưa nay không đoạn

Tất cả kết sử, tâm

Luôn cộng hành với tâm

Buộc tâm khó đoạn trừ

Biết tất cả kết sử

Chỉ vọng tưởng bất định

Không có chỗ dừng ở

Cũng là tướng bất định

Lại không rời xa thân

Và thật là khó biết

Sức Thiền định ngăn được

Kim Cang đạo đoạn được

Lại biết các chúng sinh

Vào sáu đạo sai khác

Sông ái, si, che lấp

Ruộng, nghiệp, biết là giống

Là mầm sinh thân sau

Danh sắc cùng tăng trưởng

Từ xưa nay, sinh tử

Liên tục trong ba cõi

Biết cả trời và rồng

Tâm phiền não nghiệp thân

Nếu xa ĺa tâm ý

Th́ không hề có ǵ

Tất cả các chúng sinh

Đều ở trong ba tụ

Hoặc ch́m trong tà kiến

Hoặc ở trong trí đạo

Bồ-tát trụ địa này

Biết tâm của chúng sinh

Các căn và dục lạc

Đủ các thứ sai biệt

Thâm tâm khéo suy xét

Tùy nghi mà thuyết pháp

Trí vô ngại thông đạt

Khéo dùng ngôn từ dạy

Bồ-tát là Pháp sư

Ví như Sư tử chúa

Trâu chúa và núi chúa

An trụ không lo sợ

Mưa thức ăn cam lồ

Khắp tất cả các cõi

Ví như rồng chúa lớn

Mưa ngập cả biển lớn

Bồ-tát này khéo biết

Pháp, Nghĩa, Từ vô ngại

Tùy thuận mà thực hành

Đầy đủ sức nhạo thuyết

Và đạt được trăm vạn

A-tăng-kỳ Tổng tŕ

Lãnh thọ pháp của Phật

Như biển nhận nước mưa

Bồ-tát đã đạt được

Sức thanh tịnh sâu xa

Vô lượng Đà-la-ni

Và sức các Tam-muội

Chỉ trong một khoảnh khắc

Thấy được vô lượng Phật

Nghe Phạm âm thanh tịnh

Diễn nói pháp vi diệu

Bồ-tát này giáo hóa

Chúng sinh đại thiên giới

Tùy tâm căn ưa thích

Thuyết pháp khiến vui vẻ

Cứ thế có vô lượng

Tam thiên đại thiên cõi

Sâu xa và siêng năng

Suy xét việc như vậy

Trên đầu một sợi lông

Vô lượng Phật thuyết pháp

Phật v́ tất cả chúng

Diễn nói pháp vi diệu

Bồ-tát lãnh thọ pháp

Như đất nhận hạt giống

Lại phát lời thệ nguyện

Tất cả các chúng sinh

Trong cõi nước mười phương

Đều hợp thành một hội

Chỉ trong một khoảnh khắc

Biết tâm niệm của chúng

Dùng một tiếng thuyết pháp

Đoạn trừ hết lưới nghi

Bồ-tát trụ địa này

Pháp vương của trời người

Làm bậc đại Pháp sư

Tùy thuận tâm chúng sinh

Suốt cả ngày lẫn đêm

Cùng ở chỗ chư Phật

An trụ thâm diệu

Tịch diệt trí giải thoát

Cúng dường vô lượng Phật

Căn lành dần sáng tịnh

Ví như Chuyển luân vương

Trang sức vàng trên mão

Ánh sáng chiếu chúng sinh

Nơi phiền não hiểm nạn

Như ánh sáng Phạm vương

Chiếu khắp đại thiên cõi

Bồ-tát trụ địa này

Thường làm Đại phạm vương

Chủ tam thiên đại thiên

Các căn đều lanh lợi

Khéo dùng phép ba thừa

Khai thị độ chúng sinh

Làm tất cả nghiệp lành

Đều tùy thuận chánh niệm

Chỉ trong một khoảnh khắc

Đạt Tam-muội nhiệm mầu

Nhiều như số bụi trần

Trong vô lượng cõi nước

Thấy mười phương chư Phật

Dùng diệu âm thuyết pháp

Thấy thần lực của Phật

Lại phát vô lượng nguyện

Địa thứ chín như thế

Nơi đại trí thực hành

Sâu xa khó thấy biết

Nay đã lược nói xong.

Phẩm 10: ĐỊA PHÁP VÂN

Đã nói việc vô thượng

Mà Bồ-tát thực hành

Vô số na-do-tha

Chư Thiên Thủ đà hội

Đang ở trong hư không

Đều vui mừng khôn xiết

Ai nấy đều cung kính

Cúng Phật vật thượng diệu

Na-do-tha Bồ-tát

Vui mừng không hạn lượng

Đốt các hương thơm lạ

Diệt trừ mọi phiền não.

Tha hóa tự tại vương

Và các chúng cõi trời

An trụ trong hư không

Tâm vui mừng khôn xiết

Ai nấy đều cung kính

Cúng dường đủ các loại

Và rải những y báu

Từ hư không bay xuấng.

Vô lượng ức Thiên nữ

Các căn đều tươi vui

Đang ở trong hư không

Cung kính cúng dường Phật

Lại trổi vô lượng ức

Na-do-tha kỹ nhạc

Trong tất cả mọi vật

Đều phát tiếng như vậy.

Phật ngồi ở nơi này

Nhưng hóa thân khắp cả

Trong cõi nước mười phương

Đều có Phật thị hiện

Đầy đủ vô lượng ức

Tướng tốt trang nghiêm thân

Xinh đẹp không ai bằng

Ở trong khắp mọi nơi

Trong mỗi lỗ chân lông

Phóng vô lượng ánh sáng

Dập tắt hết tất cả

Lửa phiền não thế gian

Như số bụi mười phương

Không thể nào đếm hết

Ánh sáng mỗi chân lông

Cũng không thể cùng tận

Thấy mỗi thân Đức Phật

Đủ ba hai tướng tốt

Và tám mươi vẻ đẹp

Chuyển xe pháp vô thượng

Hoặc thấy vô số Phật

Thuyết pháp cho chúng sinh

Hoặc thấy ở Đâu-suất

Giáo hóa các thiên nhân

Hoặc thấy từ Đâu-suất

Giáng hạ ở trong thai

Hoặc thấy lúc đản sinh

Hoặc thấy đêm xuất gia

Hoặc thấy ngồi nơi đạo tràng

Mà thành đạo Vô thượng

Hoặc thấy chuyển xe pháp

Hoặc thấy nhập Niết-bàn…

Ở vô lượng cõi nước

Thị hiện đủ mọi cách

Để độ thoát chúng sinh

Nên có việc như vậy.

Ví như nhà ảo thuật

Biết các thuật huyễn ảo

Thị hiện những chúng sinh

Đủ các loại h́nh tướng

Trí tuệ Phật cũng thế

Khéo léo mà thị hiện

Biến hóa các loại thân

Khắp tất cả thế gian

Như các pháp vắng lặng

Xưa nay không tánh tướng

Trống rỗng như hư không

Đại sư cũng như vậy

Thâm nhập nghĩa đệ nhất

Tánh tướng rất vi diệu

Tùy tánh tướng của pháp

Hiện đại thần lực Phật

Tánh hạnh của chư Phật

Của tất cả chúng sinh

Đều ở trong tánh ấy

Tướng, khả tướng, đồng tướng

Tất cả các pháp đó

Nhập vào nghĩa đệ nhất

Trong nghĩa thú tịch diệt

Hoàn toàn không có tướng

Nếu muốn được trí Phật

Hãy bỏ các vọng niệm

Thông đạt cả có không

Làm thầy của trời người

Các thể nữ cõi trời

Đều cất ngàn vạn tiếng

Vi diệu lại hay ho

Im lặng chiêm ngưỡng Phật

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt

Thấy đại chúng im lặng

Thưa với Kim Cang Tạng

Phật tử đại danh xưng

Bồ-tát từ cửu địa

An nhập Địa thứ mười

Xin đấng đại thần lực

V́ đại chúng lược nói.

Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng nói:

–Phật tử! Đại Bồ-tát có vô lượng trí tuệ như vậy, khéo tu hành Phật đạo đạt đến Địa thứ chín, khéo tu tập các bạch pháp, tu vô lượng pháp trợ đạo, được đại công đức trí tuệ hộ tŕ, rộng tu hạnh đại Bi, phân biệt biết rõ tánh sai biệt của thế gian, vào các chỗ nạn xứ của chúng sinh, đến chỗ của Như Lai hành, nhớ nghĩ tùy thuận vào chỗ hành tịch diệt của Như Lai, hướng đến Thần lực, Vô sở úy, pháp Bất cộng của Phật, kiên tŕ không bỏ, đạt địa vị Nhất thiết trí tuệ. Các Phật tử! Đại Bồ-tát tùy hành trí như vậy, gần địa vị Phật, th́ hiện tiền đạt các Tam-muội ly cấu của Bồ-tát; lại nhập Tam-muội Pháp tánh sai biệt, Tam-muội Trang nghiêm đạo tràng, Tam-muội Vũ nhất thiết thế gian hoa quang, Tam-muội Hải tạng, Tam-muội Hải ấn, Tam-muội Hư không quảng, Tam-muội Quán trạch nhất thiết pháp tánh, Tam-muội Tùy nhất thiết chúng sinh tâm hành, Tam-muội Như thật trạch nhất thiết pháp, Tam-muội Đắc Như Lai trí tín; đạt trăm vạn a-tăng-kỳ Tam-muội như vậy ngay trong hiện tại. Bồ-tát này nhập được những Tam-muội này, biết rõ công dụng sai biệt của chúng. Tam-muội cuối cùng là Ích nhất thiết trí vị. Lúc Tam-muội này hiện tiền, hoa sen báu lớn xuất hiện tròn đầy, như trăm vạn tam thiên đại thiên thế giới. Tất cả các báu khác trang hoàng xen lẫn nhiều hơn tất cả những vật quý có trong thế gian, đó là sự phát sinh do căn lành xuất thế gian. Các pháp hành như huyễn, do tuệ tánh không thành tựu, ánh sáng soi chiếu tất cả thế giới. Cọng sen bằng lưu ly báu hơn tất cả vật báu có ở cõi trời, đài bằng chiên-đàn vương không thể lường, tua bằng mã não, cánh bằng vàng Diêm-phù-đàn. Bên trong có vô lượng ánh sáng, tất cả báu đẹp đều ở trong đó, lưới báu che bên trên. Lại có vô số hoa sen bao quanh, nhiều như số bụi trong mười tam thiên đại thiên thế giới. Lúc ấy, thân Bồ-tát tươi đẹp như đóa hoa. Bồ-tát này, v́ đạt sức Tam-muội Ích nhất thiết trí, nên hiện thân ngồi trên tòa sen lớn. Tức thời các quyến thuộc trên hoa sen đều có Bồ-tát vây quanh, mỗi Bồ-tát, ngồi trên hoa sen, đề đạt trăm vạn Tam-muội, đều nhất tâm cung kính, chiêm ngưỡng Đại Bồ-tát. Lúc Bồ-tát này lên tòa sen; tất cả các cõi nước hiện ở mười phương đều chấn động; tất cả cõi ác đều chấm dứt; ánh sáng chiếu khắp các cõi nước mười phương; tất cả cõi nước đều sáng đẹp, thấy nghe được tất cả đại hội của chư Phật. V́ sao? V́ Bồ-tát này khi ngồi trên tòa sen lớn, th́ ở dưới chân phóng ra trăm vạn a-tăng-kỳ ánh sáng, chiếu khắp mười phương, đến tận ngục A-tỳ, diệt trừ khổ não cho chúng sinh. Trên hai đầu gối, phóng vô số ánh sáng, chiếu khắp mười phương, đến hết thảy loài súc sinh để diệt trừ khổ não. Từ rốn, phóng vô số ánh sáng, chiếu khắp mười phương, đến hết thảy loài ngạ quỷ để diệt trừ khổ não. Hai bên hông, phóng ra vô số ánh sáng, chiếu khắp cõi người ở mười phương, làm cho an ổn, khoái lạc. Hai tay phóng vô số ánh sáng, chiếu khắp cung điện cõi trời và A-tu-la. Hai vai, phóng vô số ánh sáng, chiếu khắp mười phương, đến chúng Thanh văn. Cổ phóng vô số ánh sáng, chiếu khắp mười phương, đến chúng Bích-chi-phật. Miệng, phóng vô số ánh sáng, chiếu khắp mười phương, đến cả Bồ-tát trụ Địa thứ chín. Từ lông trắng, phóng vô số ánh sáng, chiếu khắp mười phương, đến vị Đại Bồ-tát. Tất cả cung ma đều bị che khuất không hiện. Trên đỉnh đầu, phóng vô số ánh sáng, nhiều như số bụi trong trăm ngàn a-tăng-kỳ tam thiên đại thiên thế giới, chiếu đến đại hội của chư Phật nơi mười phương, nhiễu quanh mười vòng, trụ trong hư không, thành lưới ánh sáng cao lớn rực rỡ, cúng dường chư Phật. Sự cúng dường của hàng Bồ-tát từ lúc phát tâm cho đến Địa thứ chín, so với sự cúng dường này, không bằng một phần trăm, cho đến không bằng một phần trăm ngàn vạn ức, cho dù tính đếm ví dụ thế nào cũng không bằng được. Lưới ánh sáng này hơn tất cả vật cúng dường của mười phương cõi nước như hương hoa, hương bột, hương đốt, hương xoa, y phục, cờ phướn lọng báu, chuỗi ngọc, châu ma-ni. V́ nó từ căn lành xuất thế phát sinh. Trên mỗi chư Phật của đại hội, đều có mưa báu vậy như mây lớn. Chúng sinh nào biết được sự cúng dường này chắc chắn sẽ đạt đạo lớn vô thượng. Phóng ra ánh sáng và mưa lớn cúng dường xong, nhiễu quanh đại hội chư Phật mười vòng, nhập dưới chân của chư Phật. Lúc ấy, chư Phật và các Đại Bồ-tát trong hội, biết từ nước nào, Đại Bồ-tát nào đã hành đạo như vậy, và đã thành tựu chức thọ đó.

Các Phật tử! Ngay lúc đó, vô biên Bồ-tát, kể cả những vị đạt Địa thứ chín, đều đến vây quanh thiết lễ đại cúng dường, nhất tâm cung kính, chiêm ngưỡng, lễ lạy. Các Bồ-tát đạt vạn Tam-muội và đạt chức vị đó, từ báu kim cương trang sức trên ngực, phóng luồng ánh sáng lớn gọi là phá ma tặc. Có vô số trăm ngàn ánh sáng vây quanh, chiếu khắp các cõi nước mười phương, thị hiện vô lượng thần lực, rồi lại nhập nơi ngực Đại Bồ-tát. Khi ánh sáng này mất, Bồ-tát ấy sẽ đạt thế lực lớn, thần thông trí tuệ gấp trăm ngàn vạn lần.

Các Phật tử! Lúc đó, chư Phật phóng luồng ánh sáng ở lông trắng giữa chặng mày gọi là Ích nhất thiết trí vị, có vô lượng, vô biên ánh sáng bao quanh, chiếu khắp các cõi nước mười phương, không sót nơi nào. Chiếu quanh các cõi nước mười phương mười vòng, thị hiện sức thần thông lớn của chư Phật, khuyên dạy vô lượng, vô biên trăm ngàn vạn ức Bồ-tát. Tất cả các cõi nước ở mười phương, chấn động sáu cách, diệt trừ tất cả khổ não trong đường ác. Tất cả cung ma bị che mất, thị hiện nơi đắc đạo của tất cả chư Phật, thị hiện việc trang nghiêm đại hội của tất cả chư Phật, rộng lớn như tánh pháp, cứu cánh như hư không. Chiếu sáng tất cả cõi nước xong, trụ trong hư không, quay bên phải, thị hiện việc trang nghiêm đại thần thông, nhập trên đỉnh đầu của Bồ-tát này. Các ánh sáng khác, th́ nhập trên đỉnh đầu của các Bồ-tát quyến thuộc. Lúc ấy, Đại Bồ-tát đều đạt mười ngàn Tam-muội mà trước chưa đạt. Ánh sáng đó, nhập trên đỉnh đầu Bồ-tát này. Như ánh sáng của một Đức Phật, ánh sáng của tất cả Đức Phật cũng vậy. Lúc ánh sáng của chư Phật ở mười phương, nhập trên đỉnh đầu của Bồ-tát th́ gọi là đạt chức, là nhập cảnh giới của chư Phật. Phật tử! Ví như trưởng tử của Chuyển luân thánh vương, do đại phu nhân sinh ra, thành tựu tướng Chuyển luân vương. Chuyển luân thánh vương bảo con ngồi trên tòa vàng Diêm-phù-đàn của voi trắng báu, trang sức đủ loại, tràng phan, kỹ nhạc; cầm chuông vàng, đem nước thơm bốn biển rưới trên đỉnh đầu của con th́ gọi là quán đỉnh. Đại vương đầy đủ mười nghiệp thiện gọi là Chuyển luân thánh vương.

Các Phật tử! Cũng thế, Đại Bồ-tát lúc nhận chức, chư Phật dùng nước trí rưới trên đỉnh đầu của Bồ-tát gọi là quán đỉnh Pháp vương, là đủ mười lực của Phật, vào hàng số Phật. Phật tử, đó là chức trí tuệ lớn của Đại Bồ-tát. V́ chức này, các Đại Bồ-tát chịu vô lượng trăm ngàn vạn ức khổ, làm các việc khó làm. Bồ-tát đạt chức này, là an trụ Địa Pháp vân của Bồ-tát, có vô lượng công đức, trí tuệ tăng trưởng.

Các Phật tử! Bồ-tát trụ địa Pháp vân này biết như thật tập cõi Dục, tập cõi Sắc, tập cõi Vô sắc; biết như thật tập thế gian tánh, tập chúng sinh tánh, tập thức tánh, tập hữu vi tánh, tập vô vi tánh, tập hư không tánh, tập pháp tánh, tập Niết-bàn tánh, tập tà kiến chư phiền não tánh; biết như thật hành pháp, hoàn pháp của thế gian biết như thật tập đạo Thanh văn, tập đạo Bích-chi-phật, tập đạo Bồ-tát, tập oai Lực, Vô úy, pháp Bất cộng của Phật; tập sắc thân, Pháp thân; tập Nhất thiết trí tuệ; như vậy tập đạt Phật đạo, tập chuyển pháp luân, tập thị hiện diệt độ. Nói tóm lại, biết như thật thị hiện tập tất cả pháp sai biệt. Bồ-tát này, dùng trí tuệ ấy tùy thuận hạnh Bồ-đề, dần dần thâm nhập như thật, biết sự huyễn hóa của chúng sinh, của nghiệp, của phiền não, của tà kiến, của tánh thế gian, của pháp tánh, của Thanh văn, của Bích-chi-phật, của Bồ-tát, của Như Lai; tất cả sự huyễn hóa, có huyễn hóa phân biệt, không phân biệt. Lúc ấy, Bồ-tát biết như thật sự hộ tŕ của Phật lực, về pháp xứ, về nghiệp, về phiền não, về thời gian, về nguyện, về đời trước, về hành, về kiếp sống, về trí. Bồ-tát trụ Địa thứ mười này, th́ bao nhiêu hành trí vi tế của Phật như: Trí sinh tử vi tế, trí thế, trí xuất gia, trí đạt đạo, trí thần lực tự tại, trí chuyển pháp luân, trí giữ mạng sống, trí thị hiện Niết-bàn, trí làm pháp tồn tại lâu, đều biết như thật. Lại nữa, những chỗ bí mật của chư Phật như: Bí mật thân, khẩu, ý; bí mật trù lương; bí mật thời, phi thời; bí mật thọ ký cho Bồ-tát; bí mật nhiếp phục chúng sinh; bí mật các thừa sai khác; bí mật tám vạn bốn ngàn các căn sai biệt; bí mật tạo nghiệp như thật; bí mật hành; bí mật đạt đạo Bồ-đề; tất cả bí mật như thế đều biết như thật. Bồ-tát này đối với trí nhập kiếp số của Phật như: Một kiếp thâu nhiếp a-tăng-kỳ kiếp, a-tăng-kỳ kiếp thâu nhiếp một kiếp; có số thâu nhiếp không số; không số thâu nhiếp có số; một niệm thâu nhiếp vô lượng đời; vô lượng đời thâu nhiếp một niệm; kiếp thâu nhiếp phi kiếp; phi kiếp thâu nhiếp kiếp; kiếp có Phật thâu nhiếp kiếp không Phật; kiếp không Phật thâu nhiếp kiếp có Phật; kiếp quá khứ vị lai thâu nhiếp kiếp hiện tại; kiếp hiện tại thâu nhiếp kiếp quá khứ, vị lai; kiếp vị lai, quá khứ thâu nhiếp kiếp hiện tại; kiếp hiện tại thâu nhiếp kiếp vị lai, quá khứ; kiếp dài thâu nhiếp kiếp ngắn; kiếp ngắn thâu nhiếp kiếp dài; tất cả tướng thâu nhiếp của các kiếp đều như thế. Bồ-tát này, đối với trí nhập mao đạo của Phật, hoặc trí nhập vi trần, hoặc trí cõi nước, trí thân tâm, trí đắc đạo, hoặc trí chúng sinh thân tâm đắc đạo, trí chúng sinh hành, đạt đạo, trí biến hành Phật đạo, trí thuận hành thị hiện, trí nghịch hạnh thị hiện, trí bất khả tư ngh́, có thể biết thế gian, có thể biết Thanh văn, có thể biết Bích-chi-phật, có thể biết Bồ-tát, có cái không thể biết, chỉ có Như Lai mới có thể biết, đều nhập như thật.

Phật tử! Trí của chư Phật rộng lớn vô lượng, vô biên. Bồ-tát trụ địa này, sẽ nhập được trí tuệ như vậy. Phật tử! Đại Bồ-tát này, tùy thuận địa hành, đạt giải thoát không thể nghĩ bàn của Bồ-tát, đạt vô ngại giải thoát, tịnh hạnh giải thoát, phổ môn minh giải thoát, Như Lai tạng giải thoát, tùy vô ngại luận giải thoát, nhập ba đời giải thoát, pháp tánh tạng giải thoát, giải thoát minh giải thoát, ly sai biệt giải thoát. Các Phật tử! Bồ-tát này trước hết đạt mười giải thoát này. Cứ thế đạt vô lượng, vô biên trăm ngàn vạn ức a-tăng-kỳ giải thoát. Đều ở địa này đạt trăm ngàn vạn vô lượng a-tăng-kỳ Tam-muội, trăm ngàn vạn ức a-tăng-kỳ Đà-la-ni, trăm ngàn vạn ức a-tăng-kỳ thần thông, cũng đều như thế. Bồ-tát này thành tựu trí tuệ như vậy, tùy thuận Bồ-đề, thành tựu sức niệm vô lượng; có thể trong một niệm đến vô lượng cõi Phật ở mười phương, thọ vô lượng pháp minh, vô lượng mưa pháp, tất cả đều có thể thọ tŕ. Ví như Bà-ca-la Long vương làm mưa lớn, ngoài biển ra, các nơi khác không thể chứa đựng hết.

Phật tử! Đại Bồ-tát cũng thế, thọ tŕ mưa pháp lớn, nhập chỗ bí mật của Như Lai. Mưa pháp lớn này, tất cả chúng sinh Thanh văn, Bích-chi-phật-đều không thể thọ tŕ. Bồ-tát từ Sơ địa đến Địa thứ chín cũng không thể thọ tŕ; chỉ có Đại Bồ-tát trụ địa Pháp vân, mới thọ tŕ được.

Phật tử! Ví như biển lớn, nhận lấy hết nước mưa của một con rồng. Cho dù hai, ba, bốn, năm, mười, hai mươi, ba mươi, bốn mươi, năm mươi, trăm, ngàn, vạn, ức, trăm ức, ngàn vạn ức na-do-tha cho đến vô lượng, vô biên con rồng lớn, khởi mây làm mưa cùng một lúc, th́ biển cũng nhận lấy hết. V́ sao? V́ biển lớn là vật chứa vô lượng. Các Phật tử, Đại Bồ-tát cũng thế, trụ địa Pháp vân ở chỗ một Đức Phật thọ tŕ mưa pháp lớn ở hai Đức Phật, ba bốn, năm, mười, trăm, ngàn, vạn, ức cho đến vô lượng, vô biên không thể xưng, không thể nói hết, không thể hạn lượng, vượt trên sự tính đếm, ở trong một khoảnh khắc cũng có thể thọ tŕ mưa pháp lớn của vô số chư Phật như vậy. V́ thế địa này gọi là địa Pháp vân.

Hỏi:

–Phật tử! Trong một khoảnh khắc, Đại Bồ-tát có thể thọ tŕ mưa pháp lớn của bao nhiêu Đức Phật?

Đáp:

–Không thể nào tính đếm biết được, chỉ có thể dùng ví dụ để biết. Phật tử! Ví như vô số chúng sinh nhiều như số bụi trong trăm ngàn vạn ức na-do-tha cõi nước, đều nghe và thọ tŕ Đà-la-ni, làm thị giả Phật, làm đại Thanh văn, làm bậc Đa văn bậc nhất, ví như Đức Phật Kim Cương Liên Hoa Thượng có Tỳ-kheo Đại Trạch là bậc đa văn bậc nhất, mỗi chúng sinh đó đều thành tựu sức đa văn như thế, tất cả chúng sinh khác cũng đều như vậy. Giáo pháp của người thứ nhất thọ tŕ th́ người thứ hai không thọ tŕ. Cứ thế tất cả đều khác nhau. Phật tử! Các ông nghĩ sao? Tất cả chúng sinh thọ tŕ sức đa văn nhiều không?

Đáp:

–Vô lượng!

–Phật tử! Tôi sẽ nói cho các ông, Bồ-tát trụ địa Pháp vân này, trong một khoảnh khắc, ở chỗ Đức Phật, có thể thọ tŕ tạng pháp tánh ba đời, tên là Đại pháp minh vũ. Sức đa văn của tất cả chúng sinh ở trên, so với vị này th́ trong trăm phần không bằng một phần, ngàn phần, vạn phần, ngàn vạn ức na-do-tha phần cho đến tính đếm ví dụ thế nào cũng không bằng được. Ở chỗ chư Phật nhiều như số bụi trong vô số thế giới nơi mười phương thọ tŕ mưa pháp lớn, cho dù hơn số này vô lượng, vô biên đi nữa, th́ trong khoảnh khắc cũng thọ tŕ được đại pháp minh vũ; v́ thế gọi là địa Pháp vân. Lại nữa, đại Bồ-tát trụ địa Pháp vân này, từ nguyện lực tự phát sinh đại Từ bi, phát tiếng sấm pháp lớn, những kẻ thông minh không sợ, cho là ánh chớp; phát trí tuệ lớn như là gió mạnh, căn lành đại phước đức như là mây đen, hiện các thân h́nh như là mây tạp sắc, thuyết pháp hàng phục ma như là tiếng sấm. Trong một niệm, biến khắp thế giới như đã nói ở thiên, hoặc hơn số đó; mưa pháp cam lồ, pháp lành, dập tắt lửa phiền não do tâm vô minh ham thích của chúng sinh phát ra. V́ thế gọi là Địa Pháp vân.

Lại nữa, các Phật tử! Đại Bồ-tát trụ địa Pháp vân này, ở trong một thế giới, từ cõi trời Đâu-suất giáng hạ, cho đến thị hiện đại Niết-bàn, làm mọi việc Phật, tùy sự độ thoát chúng sinh mà hiện thần lực, hoặc hai, tam thiên thế giới, cho đến vô số thế giới nhiều như số bụi đã nói ở trên. Lại còn hơn số đó trăm ngàn vạn ức a-tăng-kỳ thế giới, từ cõi Đâu-suất giáng hạ cho đến thị hiện đại Niết-bàn, làm mọi việc Phật, tùy chúng sinh độ thoát mà hiện thần lực. Bồ-tát trụ địa này đạt sức tự tại lớn trong trí tuệ, khéo chọn trí tuệ lớn, hoặc lấy cõi nước nhỏ làm lớn, cõi nước lớn làm nhỏ; hoặc lấy cõi nước nhơ làm sạch; cứ thế, tất cả tánh thế gian đều có thần lực. Bồ-tát này, hoặc trong một vi trần có một tam thiên đại thiên thế giới núi Thiết vi, sông suối nhưng không hề chật hẹp; hoặc có hai, ba, bốn, năm, mười, hai mươi, ba mươi, bốn mươi, năm mươi, trăm, ngàn, vạn, ức vô lượng vô lượng vô lượng thế giới, tất cả mọi việc trang nghiêm đều nhập vào một vi trần, hoặc biến mọi việc trang nghiêm trong một thế giới, thị hiện vô lượng vô lượng thế giới; hoặc đem chúng sinh trong vô lượng vô lượng thế giới đặt trong một thế giới nhưng vẫn không chật hẹp. Hoặc đem chúng sinh trong một thế giới, đặt trong vô lượng vô lượng thế giới, hoặc đem vô lượng vô lượng thế giới, đặt trên đầu một sợi lông nhưng không làm hại chúng sinh, hoặc trong một sợi lông, thị hiện tất cả việc trang nghiêm của thần lực Phật, hoặc trong một niệm thị hiện thân nhiều như số bụi trong vô lượng vô lượng thế giới nơi mười phương,trong mỗi thân thị hiện vô lượng tay, dùng tay ấy siêng năng cúng dường chư Phật ở mười phương, mỗi tay, cầm hằng hà sa số hoa sen, rải cúng Phật, các thứ như hương hoa, tạp hương, hương bột, hương xoa y phục, cờ phướn, báu vật; tất cả đồ trang sức đều dùng tay cầm dâng cúng Phật, mỗi thân đều như thế. Lại nữa, mỗi thân hóa hiện vô số đầu, mỗi đầu có vô số lưỡi, dùng thần lực đó tán thán chư Phật; trong mỗi niệm, đi khắp mười phương, làm những việc ấy. Trong mỗi niệm, dùng thần lực, ở vô lượng thế giới, thị hiện việc đạt Phật đạo, chuyển bánh xe pháp, cho đến nhập đại Niết-bàn. Ở trong ba đời, dùng sức thần thông, thị hiện vô lượng thân, từ trong mỗi thân, thị hiện vô lượng, vô biên việc trang nghiêm cõi Phật. Trong mỗi thân, thị hiện sự thành hoại của tất cả thế giới. Hoặc khiến tất cả gió đều phát ra từ một lỗ chân lông, mà không làm hại chúng sinh. Hoặc muốn đem vô lượng, vô biên thế giới làm thành nước của một biển; trong biển này, hóa hoa sen lớn, màu sắc rực rỡ, chiếu khắp vô lượng, vô biên thế giới. Ở đó, lại thị hiện việc mầu nhiệm là đạt Bồ-đề trang nghiêm, cho đến thị hiện đạt Nhất thiết chủng trí. Trong thân, lại có đủ tất cả ánh sáng của ma-ni, bảo châu, ánh chớp, mặt trời, mặt trăng, sao, cho đến tất cả những vật có ánh sáng trong thế giới nơi mười phương cũng đều hiện trong thân. Thổi một hơi thở, làm cho vô lượng, vô biên thế giới trong mười phương đều chấn động, nhưng không làm cho chúng sinh kinh sợ. Lại thị hiện thế giới mười phương, thủy kiếp hết; phong kiếp, hỏa kiếp hết; nhưng thân chúng sinh tùy ý trang nghiêm; hoặc thị hiện thân ḿnh thành thân Như Lai, thân Như Lai thành thân ḿnh, thân Như Lai thành cõi Phật ḿnh, cõi Phật ḿnh thành thân Như Lai.

Các Phật tử! Đại Bồ-tát ở Địa Pháp vân, có thần biến như vậy. Lại còn thị hiện vô lượng thần lực tự tại khác lạ. Lúc ấy, trong hội, các Bồ-tát, Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Khẩn-na-la, Mahầu-la-già, Thích Đề-hoàn Nhân, Phạm thiên vương, Tứ Thiên vương, Thiên tử Tự tại, trời Tịnh cư đều nghĩ: Bồ-tát có vô lượng, vô biên sức thần thông trí tuệ như vậy, th́ Đức Phật như thế nào?

Lúc ấy, Đại Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt, biết những suy nghĩ trong tâm của đại chúng, bèn hỏi Kim Cang Tạng:

–Phật tử! Hiện giờ đại chúng đều nghi ngờ; v́ nghe sức đại thần thông trí tuệ của Bồ-tát mà họ rơi vào lưới nghi, ngài hãy đoạn trừ tất cả nghi hoặc, thị hiện việc vi diệu trang nghiêm thần thông của Bồ-tát.

Kim Cang Tạng liền nhập Tam-muội thể tánh nhất thiết Phật quốc. Tất cả đại chúng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Thích Đề-hoàn Nhân, Phạm thiên vương, Hộ thế Thiên vương, Thiên tử Tự Tại, trời Tịnh cư đều thấy thân ḿnh nhập vào thân Kim Cang Tạng. Ở trong thân thấy các việc trang nghiêm tam thiên đại thiên thế giới, cho dù qua một kiếp cũng không nói hết được. Ở đó, lại thấy cây đạo tràng của Phật. Chu vi cây rộng mười vạn tam thiên đại thiên thế giới, cao trăm vạn tam thiên đại thiên thế giới, che mát cả ba ngàn ức tam thiên đại thiên thế giới. Tương xứng với sự cao rộng của cây, có tòa Sư tử, trên tòa có Phật hiệu Nhất Thiết Trí Vương Như Lai. Tất cả đại chúng đều thấy Phật ngồi trên tòa; ở đó, có đủ mọi vật cúng dường thật tốt và trang nghiêm, mà dù trải qua một kiếp, cũng không thể nói hết. Bồ-tát Kim Cang Tạng thị hiện thần lực lớn như thế rồi, làm cho đại chúng trở về chỗ cũ. Lúc ấy, tất cả đại chúng đều ngạc nhiên, im lặng nhất tâm, nh́n Bồ-tát Kim Cang Tạng.

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt lại hỏi Bồ-tát Kim Cang Tạng:

–Phật tử! Thật là hy hữu, Tam-muội này có thần lực lớn, vậy Tam-muội này tên ǵ?

Đáp:

–Tam-muội này tên là Thể tánh nhất thiết Phật quốc.

Hỏi:

–Thế lực của Tam-muội này ra sao?

Đáp:

–Phật tử! Đại Bồ-tát tu tập thành tựu lực Tam-muội này; có khả năng hiện vô lượng hằng hà sa tam thiên đại thiên thế giới trong một thân; còn lại hơn số đó nữa. Phật tử! Đại Bồ-tát ở địa Pháp vân, đạt vô lượng, vô biên trăm ngàn ức Tam-muội. V́ thế, Bồ-tát trụ ở địa này, có thân và thân nghiệp khó lường biết, khẩu và khẩu nghiệp, ý và ý nghiệp cũng khó lường biết; sức oai thần tự tại, quán sát pháp ba đời cũng khó lường biết; hành nhập các Tam-muội, trí lực, các giải thoát du hý; tạo ra biến hóa, tạo ra thần lực, tạo ra uy lực cũng khó lường biết được. Nói tóm lại, cho đến cả việc cất chân lên lên đặt chân xuống; cho đến Bồ-tát Tiểu vương tử trụ ở địa Diệu thiện, cũng không thể lường biết được.

Phật tử! Bồ-tát trụ địa Pháp vân có đến vô lượng, nay đã lược nói. Nếu nói rộng, th́ trải qua vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ kiếp, cũng không thể nói hết.

Hỏi:

–Phật tử! Sức hành xứ sức thần thông của Bồ-tát như thế, th́ sức hành xứ, sức thần thông của Phật ra sao?

Đáp:

–Phật tử! Ví như có người, lấy hai ba cục đất trong bốn cõi mà nói: Đất của vô biên thế giới nhiều như vầy sao? Việc ông hỏi cũng thế. Vô lượng trí tuệ của Như Lai làm sao dùng trí tuệ của Bồ-tát mà so lường được? Phật tử! Ví như người nắm một ít đất trong bốn cõi, số còn lại là rất nhiều. Các Bồ-tát ở địa Pháp vân, mà phải trải qua vô lượng kiếp để nói huống ǵ địa Như Lai? Phật tử! Ta sẽ nói cho các ông biết, việc chứng ngộ hiện tại của Phật. Ví như ở mỗi phương, có các thế giới Chư Phật nhiều như số vi trần trong vô lượng, vô biên thế giới, hàng Bồ-tát thập địa có đầy trong đó nhiều như lúa mè rừng cây. Các Bồ-tát này, có vô lượng, vô biên nghiệp, tu tập công đức, trí tuệ, thiền định của Bồ-tát th́ đối với công đức trí tuệ của Như Lai, không bằng một phần trăm, một phần trăm ngàn vạn ức, cho đến tính đếm ví dụ thế nào cũng không bằng được.

Phật tử! Bồ-tát này, tùy trí tuệ ấy, thuận thân, khẩu, ý của Như Lai, cũng chẳng bỏ Tam-muội của Bồ-tát, lại siêng cúng dường chư Phật. Trong mỗi kiếp, dùng những vật vi diệu để cúng dường vô lượng, vô biên chư Phật, lại được thọ lãnh tất cả thần lực của Phật, dần dần thù thắng. Vấn nạn về pháp tánh th́ không ai thắng được Bồ-tát này, cho dù trải qua vô lượng, vô biên trăm ngàn vạn ức kiếp, cũng không cùng tận. Phật tử! Ví như thợ luyện vàng, khéo biến chế vàng thành những vật trang sức, rồi xen lẫn ma-ni bảo châu quý giá, trang sức trên cổ của Tự tại Thiên vương, chư Thiên khác không thể đoạt được, tất cả đồ trang sức của chư Thiên khác cũng không sánh kịp.

Phật tử! Bồ-tát trụ Địa thứ mười, có căn lành, trí tuệ, công đức mà tất cả Bồ-tát từ Địa thứ nhất đến Địa thứ chín không thể sánh kịp. Bồ-tát trụ địa này, được trí tuệ chiếu sáng, nên có thể tùy thuận tất cả mọi trí tuệ; mà ánh sáng trí tuệ đó không thể hủy hoại được.

Phật tử! Ví như ánh sáng của Đại tự tại Thiên vương, hết thảy ánh sáng của chúng sinh nơi thọ sinh không thể sánh kịp, nó có thể khiến thân tâm chúng sinh được mát mẻ. Các Phật tử! Đại Bồ-tát cũng vậy; trụ ở địa Pháp vân, trí tuệ sáng suốt, hết thảy bậc Thanh văn, Bích-chi-phật không sao sánh kịp. Đại Bồ-tát từ Sơ địa đến Địa thứ chín cũng không thể sánh kịp. Bồ-tát trụ địa này, làm cho vô lượng chúng sinh trụ trong đạo Nhất thiết trí.

Phật tử! Đại Bồ-tát trụ địa này, được chư Phật nơi mười phương v́ họ mà giảng nói trí tuệ, làm cho thông đạt ba đời, biết đúng tướng của pháp tánh; dùng trí bao trùm tất cả thế gian, soi sáng tánh thế gian, đem tâm Từ bi lớn bao trùm khắp tất cả chúng sinh, biết đúng tất cả pháp. Nói tóm lại, Đức Phật nói tất cả, cho đến đạo Nhất thiết trí.

Phật tử! Đó là địa Pháp vân, Địa thứ mười của Đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát trụ trong địa này, thường làm Ma-hê-thủ-la Thiên vương, trí tuệ minh đạt khéo giảng pháp Thanh văn, Bích-chi-phật và Ba-la-mật của Bồ-tát. Trong pháp tánh, dù ai vấn nạn cũng không cùng tận. Làm các việt tốt như Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự đều không rời niệm Phật, niệm pháp, niệm chúng Bồ-tát bạn, niệm hạnh Bồ-tát, niệm Ba-la-mật, niệm hành các địa cũng không rời niệm mười Lực, Vô sở úy, pháp Bất cộng, cho đến không rời niệm cụ túc Nhất thiết chủng trí. Luôn nghĩ: Lúc nào, đối với chúng sinh, ta cũng là người đứng đầu, người tôn quý, thắng diệu, to lớn, vô thượng, là thầy, người dẫn dắt, cho đến là chỗ dựa cho tất cả chúng sinh. Nếu siêng năng tu tập, th́ trong khoảnh khắc, đạt Tam-muội nhiều như số bụi trong vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha bất khả thuyết thế giới, cho đến thị hiện số Bồ-tát quyến thuộc cũng nhiều như vậy. Nếu dùng nguyện lực thần thông tự tại th́ hơn số đó là hành các vật cúng dường thượng diệu, tin hiểu sự tạo nghiệp hoặc thân, miệng, ánh sáng, các căn, như ý, âm thanh, thành xứ cho dù trải qua trăm ngàn vạn ức kiếp, cũng không thể đếm kể được.

Phật tử! Đó gọi là tuần tự thuận hành thú hướng Nhất thiết chủng trí các địa của Đại Bồ-tát.

Phật tử! Ví như bốn con sông chảy từ ao A-nậu-đạt lan khắp bốn cõi chảy mãi không cùng tận cho đến khi chảy vào biển lớn. Các Phật tử! Đại Bồ-tát cũng thế, từ Bồ-tát phát ra nước căn lành nguyện lớn, dùng bốn Nhiếp pháp độ hết chúng sinh nhưng không cùng tận, dần dần tăng trưởng đạt đến Nhất thiết chủng trí.

Phật tử! Các Bồ-tát mười địa, do trí Phật mà có sai biệt. Ví như từ mặt đất mới có mười núi lớn. Mười núi lớn đó là ǵ? Đó là núi Tuyết, núi Hương, núi Kha-lê-la, núi Tiên thánh, núi Do-càn-đà-la, núi Mã nhĩ, núi Ni-dân-đà-la, núi Phá-ca-bà-la, núi Chúng tướng, núi Tu-di.

Phật tử! Núi Tuyết lớn th́ tất cả cỏ thuốc đều mọc ở đó không cùng tận. Phật tử! Cũng thế, Đại Bồ-tát trụ ở địa Hoan hỷ, biết hết kinh sách, kỹ nghệ, văn tụng, chú thuật của tất cả thế gian không cùng tận.

Phật tử! Núi Hương là nơi có tất cả hương thơm không cùng tận. Cũng vậy, Đại Bồ-tát trụ ở địa Ly cấu, tu tập tất cả giới, Đầu-đà, oai nghi, pháp trợ đạo không cùng tận.

Phật tử! Núi Kha-lê-la toàn bằng báu vật, đủ các hoa không cùng tận. Cũng thế, Đại Bồ-tát trụ địa Minh, tu tất cả thiền định, thần thông, giải thoát Tam-muội của thế gian không cùng tận.

Phật tử! Núi Tiên thánh toàn bằng báu vật, có nhiều thánh nhân đạt năm thần thông không cùng tận. Cũng vậy, Đại Bồ-tát trụ ở địa Diệm, làm cho chúng sinh có nhân duyên nhập đạo, học hỏi, đủ các vấn nạn không cùng tận.

Phật tử! Khi núi Do-càn-đà-la toàn bằng báu vật, tập họp nhiều đại thần Dạ-xoa, chúng La-sát không cùng tận. Cũng vậy, Đại Bồ-tát trụ địa Nan thắng, đủ tất cả thần thông, tự tại, như ý, nói không cùng tận.

Phật tử! Núi Mã nhĩ toàn bằng báu vật, đủ các trái ngon không cùng tận. Cũng vậy, dại Bồ-tát trụ địa Viễn hành, đủ các phương tiện trí tuệ, nói đạo Bích-chi-phật không cùng tận.

Phật tử! Núi Phá-ca-bà-la toàn bằng báu vật, đủ các vật có tâm tự tại không cùng tận. Cũng thế, Đại Bồ-tát trụ địa Vô động, đủ tất cả đạo tự tại của Bồ-tát, nói tánh thế gian không cùng tận.

Phật tử! Núi Chúng Tướng toàn bằng báu vật, đủ sức thần lớn, vô số A-tu-la không cùng tận. Cũng vậy, Đại Bồ-tát trụ địa Diệu thiện đủ hành trí để chuyển hóa chúng sinh, nói tướng thế gian không cùng tận.

Phật tử! Núi Tu-di toàn bằng báu vật, đủ vô số Thiên thần không cùng tận. Cũng thế, Đại Bồ-tát trụ địa Pháp vân, đủ mười Lực, bốn Vô sở úy của Như Lai, nói các Phật pháp không cùng tận.

Các Phật tử! Mười núi báu này đều ở trong biển lớn, do nước biển lớn mà có tướng sai biệt. Cũng vậy, mười địa của Bồ-tát đều ở trong trí Phật, từ Nhất thiết trí mà có tướng sai biệt.

Phật tử! Ví như biển lớn có mười tướng nên gọi là biển lớn, không ai hoại được. Mười tướng đó là ǵ?

1.     Càng ra xa càng sâu.

2.     Không chứa xác chết.

3.     Các dòng sông ra đến biển th́ mất tên cũ.

4.     Một vị.

5.     Nhiều báu vật.

6.     Khó vào đến chỗ sâu xa.

7.     Rộng lớn vô lượng.

8.     Nhiều chúng sinh có thân lớn nương tựa và ở.

9.     Thủy triều không quá hạn mức thường có.

10.    Nhận tất cả nước mưa mà không tràn ngập.

Phật tử! Hạnh Bồ-tát cũng vậy, do mười duyên mà không ai hoại được. Mười duyên đó là ǵ? Ở trong địa Hoan hỷ dàn dần phát nguyện kiên cố; trong địa Ly cấu không ở chung với kẻ phá giới; trong địa Minh bỏ những giả danh của thế gian; trong địa Diệm, ở chỗ Phật, đạt nhất tâm tịnh tín không hoại; ở địa Nan thắng, phát sinh vô lượng phương tiện thần thông thế gian, làm việc thế gian; ở địa Hiện tiền, quán pháp nhân duyên sâu xa; ở địa Viễn hành dùng tâm rộng lớn phân biệt các pháp; ở địa Vô động, thị hiện mọi việc trang nghiêm; ở địa Diệu thiện, đạt giải thoát sâu xa, thông đạt hạnh thế gian, như thật không lỗi lầm; ở địa Pháp vân, thọ lãnh tất cả pháp minh vũ của chư Phật. Phật tử! Ví như ngọc ma-ni báu lớn, có mười việc đem đến báu vật cho chúng sinh. Mười việc đó là ǵ?

1.     Lấy ra từ biển lớn.

2.     Thợ khéo mài dũa.

3.     Dần tinh xảo.

4.     Trừ cấu uế.

5.     Luyện trong lửa.

6.     Các đồ báu trang sức.

7.     Xâu thành sợi báu.

8.     Đặt trên trụ cao lưu ly.

9.     Ánh sáng chiếu khắp bốn cõi.

10.    Tùy ý vua, mưa các vật báu.

Các Phật tử! Đại Bồ-tát phát tâm báu Bồ-đề, cũng có mười việc.

Mười việc đó là ǵ?

1.     Phát tâm bố thí ĺa keo kiệt.

2.     Giữ giới Đầu-đà khổ hạnh.

3.     Thiền định Tam-muội giải thoát làm cho càng tinh diệu.

4.     Đạo hạnh thanh tịnh.

5.     Luyện phương tiện thần thông.

6.     Trang nghiêm bằng pháp nhân duyên sâu xa.

7.     Xuyên suốt các môn trí tuệ phương tiện sâu xa.

8.     Đạt thần thông tự tại.

9.     Quán hạnh chúng sinh, phóng ra ánh sáng đa văn trí tuệ.

10.    Chư Phật trao trí chức.

Lúc này, đối với tất cả chúng sinh, làm mọi việc Phật, ở trong Nhất thiết chủng trí. Các Phật tử! Tất cả pháp môn, công đức, trí tuệ mà Bồ-tát thực hành, những kẻ không trồng căn lành sâu th́ không được nghe.

Hỏi:

–Người được nghe th́ phải có bao nhiêu phước?

Đáp:

–Phước đức của người theo thế lực trí tuệ của Phật mà phát tâm Nhất thiết chủng trí có được như thế nào th́ phước đức của người nghe pháp này cũng như vậy. V́ sao? V́ nếu không có tâm Bồ-tát mà nghe pháp môn này, th́ không thể tin hiểu thọ tŕ, nên chẳng thể đem thân tu tập mà thành tựu được. Các Phật tử! V́ vậy nên biết, người này phải tùy thuận Nhất thiết chủng trí mới được nghe tin hiểu thọ tŕ tu hành.

Lúc giảng nói kinh này, nhờ thần lực Phật, vô số thế giới như vi trần, mười ức cõi Phật ở mười phương, chấn động sáu cách với mười tám tướng. Pháp thường là phải chấn động. Chư Thiên mưa nhiều hương hoa, anh lạc, y báu trời, phướn lọng, báu vật, những thứ trang sức nơi thân, trổi nhạc ca tụng, lại có tiếng lớn ca tụng việc thù thắng của mười địa. Kinh này được nói ở cung Tha hóa tự tại vương, đồng thời ở tất cả thế giới mười bốn cõi cũng đều giảng nói kinh thập địa này. Nhờ thần lực Phật, nên vô số Bồ-tát ở trong vô số cõi Phật, đều tập họp đến đầy khắp hư không mười phương, và đều nói:

–Hay thay! Hay thay! Bồ-tát Kim Cang Tạng! Ông đã khéo giảng thuyết tướng của các địa mà Đại Bồ-tát an trụ. Phật tử! Chúng tôi cũng đồng hiệu Kim Cang Tạng, từ thế giới Kim cang đức, nơi Phật Kim Cang Tạng đến đây. Những nơi chúng tôi đi qua, đều giảng thuyết kinh này, đại chúng, ngôn ngữ, nghĩa thú cũng vậy, không tăng giảm. Phật tử! Chúng tôi nương thần lực của Phật đến đây để chứng minh việc này. Phật tử! Cùng với chúng tôi đến đây, tất cả thế giới nơi mười phương, mỗi thế giới trong bốn cõi, lên đến bảo điện Ma-ni của cung Tha hóa tự tại cũng đều có vô số Bồ-tát nhiều như số vi trần trong mười ức cõi Phật cũng đến đây để chứng minh.

Lúc ấy, Bồ-tát Kim Cang Tạng quán sát mười phương, quán tất cả đại chúng, quán tánh sâu xa khen ngợi và hỗ trợ việc phát tâm Nhất thiết chủng trí, thị hiện đại lực của Bồ-tát cho chúng sinh, tùy thuận Nhất thiết chủng trí, trừ tất cả trần cấu của thế gian, đem lại nhân duyên Nhất thiết chủng trí cho chúng sinh; thị hiện những việc trí tuệ trang nghiêm vi diệu không thể nghĩ bàn; nói tất cả tướng sai biệt về công đức của Bồ-tát. Lại muốn làm rõ nghĩa lý này cho chúng sinh, nên nương thần lực Phật mà nói kệ rằng:

Hạnh nghiệp của Bồ-tát

Vui, tịch diệt hoàn toàn

Tâm không có tham chấp

Trống rỗng như hư không

Trừ cấu tham, sân, si

An trụ trong trí đạo

Hạnh vô thượng như vậy

Vui vẻ xin được nghe

Do vậy các Bồ-tát

Ở trong vô lượng kiếp

Siêng năng luôn tu tập

Vạn ức các căn lành

Cúng dường vô lượng Phật

Bích-chi, A-la-hán

V́ tạo lợi ích cho chúng sinh

Phát khởi tâm Bồ-đề

Siêng năng giữ giới hạnh

Đầu-đà trừ tội lỗi

Tu thiện nhẫn tăng trưởng

Đủ oai đức hổ thẹn

Nhờ nhân duyên phước tuệ

Tâm cao thắng sáng suốt

Vui thích trí của Phật

Phát Bồ-đề như Phật

Cúng dường tất cả Phật

Trong ba đời mười phương

Đất nước như hư không

Đều khiến được thanh tịnh

Tất cả pháp b́nh đẳng

Khéo thông đạt hết thảy

V́ độ thoát chúng sinh

Phát khởi tâm Bồ-đề

Các Bồ-tát như vậy

Phát khởi tâm vô lượng

Đạt đến địa Hoan hỷ

Dứt ác, thích bố thí

Đạt được sức bản nguyện

Tu nhiều tâm Từ bi

Hành sâu mười thiện nghiệp

Đạt đến địa Ly cấu

Đủ công đức giới, văn

Từ tâm thương thế gian

Dứt hẳn mọi cấu uế

Tâm sâu xa, thanh tịnh

Quán sát khắp thế gian

Lửa ba độc hừng hực

Các bậc Đại sĩ này

Nhập minh Địa thứ ba

Quán ba cõi đều không

Vô thường như bệnh tất

Như ung nhọt, ghẻ lở

Trăm thứ khổ đốt thiêu

Thấy các lỗi hữu vi

Ham thích công đức Phật

Đạt ánh sáng trí Phật

Nhập địa Diệm thứ tư

Thành tựu về niệm tuệ

Đạt đến đạo trí tuệ

Ở đây thường cúng dường

Trăm ngàn Đức Như Lai

Luôn tư duy tưởng niệm

Vô lượng đức của Phật

An nhập địa Nan thắng

Vượt tất cả thế gian

Dùng trí tuệ phương tiện

Thị hiện đủ mọi cách

Làm bất cứ việc ǵ

Đều v́ lợi thế gian

Cúng dường các Đức Phật

Làm việc lợi chúng sinh

Chứng nhập pháp vô sinh

Được nhập địa Hiện tiền.

Hạnh nghiệp của Bồ-tát

Thế gian khó biết được

Không còn tâm chấp ngã

Ĺa cả có lẫn không

Các pháp vốn vắng lặng

Mười hai duyên chuyển hành

Hiểu rõ pháp vi tế

Sẽ nhập địa Viễn hành

Hành trí tuệ phương tiện

Đạt tướng pháp tịch diệt

Các bậc Đại sĩ này

Khó lường, khó sánh kịp

V́ muốn cho thế gian

Đạt tịch diệt thanh tịnh

Nên tu tập các hạnh

Đủ mọi việc phước đức

Thâm nhập tâm hành xứ

Của tất cả chúng sinh

Do vậy được an nhập

Địa Bất động đều không

Bồ-tát bậc đại trí

Đầy đủ tất cả hạnh

Và các nghiệp trí tuệ

Cùng mười Lực tự tại

Dùng vô lượng, vô biên

Vô số các thân tướng

Hiện ở khắp mười phương

V́ chúng, thuyết diệu pháp

Thông đạt tánh thế gian

Và tánh của chúng sinh

Với tâm Từ bi lớn

Sẽ nhập địa Diệu thiện

Trí tịnh diệu số một

Quán sát các thế gian

Nghiệp phiền não trói buộc

Quanh co nơi hiểm nạn

V́ độ thoát chúng sinh

Đạt tạng pháp chư Phật

Giảng thuyết nghĩa đệ nhất

Không sai trái lỗi lầm

Tuần tự mà thực hành

Đầy đủ các thiện pháp

Đạt đến Địa thứ chín

Tu tập phước và tuệ

Mong đạt oai lực Phật

Lợi diệu thêm tối thượng

Ở chỗ tất cả Phật

Được lãnh thọ trí chức

Trước đạt vô số định

Trí hạnh rất rộng lớn

Sau cùng đạt Tam-muội

Trí chức khó hư hoại

Những ai đã đạt được

Tam-muội nhất thiết chức

Trang nghiêm các báu vật

Hoa sen lớn xuất hiện

Bồ-tát xứng hoa sen

Hiện thân ngồi trên đó

Các Bồ-tát hoa khác

Đều nhất tâm chiêm ngưỡng

Lúc ấy, Đại Bồ-tát

Từ thân phóng vô lượng

Trăm ngàn ức ánh sáng

Diệt các khổ thế gian

Sau từ đỉnh đầu phóng

Trăm ngàn ức ánh sáng

Chiếu khắp mười phương cõi

Hội chúng của chư Phật

Rồi ở lại hư không

Hóa thành dưới ánh sáng

Cúng dường Đức Phật xong

Nhập vào lưới chân Phật

Lúc ấy, các Đức Phật

Và các Đại Bồ-tát

Đều biết Bồ-tát này

Đã thọ lãnh trí chức

Do vậy các Đức Phật

Giữa mày phóng ánh sáng

Tên là Nhất thiết chức

Nhập đỉnh đầu Bồ-tát

Vô lượng các Đức Phật

Thọ ký chức Bồ-tát

Ví như Chuyển luân vương

Truyền ngôi cho thái tử

Lúc ấy, mười phương cõi

Thảy đều chấn động lớn

Dứt trừ tất cả khổ

Cho đến ngục A-tỳ

Bồ-tát v́ tất cả

Trí tuệ được chức này

Như thế được gọi là

Địa Pháp vân vô thượng

Người trụ trong địa này

Trí tuệ không hạn lượng

Khéo biết cả nhân duyên

Độ thoát hết thế gian

Nhập pháp sắc, vô sắc

Cõi Dục, Sắc, Vô sắc

Biết được tánh chúng sinh

Tánh cõi nước, tánh pháp

Lại an nhập các pháp

Đếm được, không đếm được

Cho đến quán sát biết

Vô lượng tánh hư không

Nhập địa này có đủ

Thần biến của Bồ-tát

Sức oai thần của Phật

Việc kín, trí vi tế

Lại còn thông đạt được

Tất cả các kiếp số

Từ mỗi đầu sợi lông

Thấy rõ tánh thế gian

Tất cả Đức Như Lai

Ở Địa vô thượng này

Sinh ra rồi xuất gia

Đạt đạo, chuyển pháp luân

Thị hiện nhập Niết-bàn

Đều tùy thuận trí tuệ

Từ địa này đạt được

Tịch diệt và giải thoát

Các Đại sĩ địa này

Sức ức niệm rộng lớn

Thọ tŕ được tất cả

Đại mưa pháp của Phật

Cũng ví như biển lớn

Chứa hết nước rồng mưa

Bồ-tát cũng như vậy

Thọ tŕ mưa Phật pháp

Như ở chỗ một Phật

Lắng nghe thọ tŕ pháp

Chúng sinh nhiều như bụi

Vô lượng cõi mười phương

Đều được nghe Tổng tŕ

Thành tựu Thanh văn thừa

Chẳng bằng Bồ-tát này

Tính đếm cũng chẳng kịp

V́ sức trí tuệ lớn

Và sức thệ nguyện lớn

Chỉ trong một khoảnh khắc

Ở khắp vô lượng cõi

Mưa nước pháp cam lồ

Dập tắt lửa phiền não

V́ thế Đức Phật gọi

Đây là địa Pháp vân

Bồ-tát trụ địa này

Dâng vật cúng dường Phật

Hơn vật của chư Thiên

Thị hiện sức thần lớn

Sức thù thắng vi diệu

Hơn số này vô lượng

Người nào muốn suy lường

Chỉ rối thêm không hiểu

Đại trí trụ địa này

Việc cất chân, đặt chân

Tất cả các Bồ-tát

Kể cả Địa thứ chín

Đều không thể biết được

Huống ǵ chúng sinh khác

Ba đời các Thanh văn

Cùng với Bích-chi-phật

Trụ nơi chư Phật hiện

Tất cả việc trí tuệ

Lại khiến cho thông đạt

Trí vô ngại ba đời

Thị hiện tánh pháp lặng

Và bao nhiêu thần biến

Tất cả loài chúng sinh

Ở khắp mọi cõi nước

Thực hành tất cả pháp

Vi diệu và an ổn

Tuần tự hiện biết hết

Hết thảy công đức Phật

Bồ-tát trụ địa này

Dùng vật dụng tối thượng

Cúng dường mười phương Phật

Lan truyền khắp mọi nơi

Tất cả vật cúng dường

Của vô số chúng sinh

Và những cõi phương khác

Cũng không thể sánh kịp

Bậc trí, trụ địa này

Phá trừ được tất cả

Vô minh và tăm tối

Khai thị bằng Phật đạo

Như Tự tại Thiên vương

Phóng quang diệt phiền não

Ánh sáng trí, Phật tử

Diệt phiền não cũng vậy

Trụ địa này thường làm

Tự tại vương ba cõi

Thông đạt các trí tuệ

Dùng ba thừa hóa độ

Chỉ trong một khoảnh khắc

Đạt vô lượng Tam-muội

Thấy được vô số Phật

Đang ở khắp mười phương

Bồ-tát Kim Cang Tạng

Bảo các Đại sĩ rằng

Tôi đã lược thuyết giảng

Diệu hạnh của mười địa

Nếu nói rộng hết cả

Ngàn kiếp cũng không cùng

Đó chính là thanh tịnh

Các địa của Bồ-tát

V́ đạt trí của Phật

Trụ trong những địa này

An trụ không lay động

Ví như núi chúa lớn

Sơ địa đủ tất cả

Kinh sách và kỹ thuật

Ví như núi Tuyết lớn

Mọc đầy các cỏ thuốc

Giữ giới và đa văn

Trụ trong Địa thứ hai

Cũng giống như núi Hương

Đủ tất cả hương thơm

Như núi Kha-lê-la

Có nhiều hoa báu lạ

Địa Minh tập văn trí

Cũng giống như núi này

Địa Diệm tụ tập nhiều

Đạo pháp báu không hoại

Như trong núi Tiên thánh

Có nhiều đấng Thiện tịch

Thần thông Địa thứ năm

Không ai sánh kịp được

Như núi Do-càn-đà

Có nhiều thần Dạ-xoa

Địa thứ sáu phân biệt

Phước quả không cùng tận

Ví như núi Mã nhĩ

Có vô số trái cây

Tuệ lớn Địa thứ bảy

Không ai sánh kịp được

Như núi Ni-dân-đà

Có rất nhiều rồng chúa

Trụ trong Địa thứ tám

Vô lượng trí tự tại

Như núi Phá-ca-la

Có nhiều bậc Tự tại

Địa chín, tâm thanh tịnh

Thuyết pháp không chướng ngại

Ví như núi Chúng tướng

Rất nhiều A-tu-la

Địa thứ mười có đủ

Vô lượng đức của Phật

Ví như núi Tu-di

Rất nhiều chúng Thiên thần.

Lại nữa ở sơ địa

Phát thệ nguyện rộng lớn

Địa thứ hai giữ giới

Thứ ba tu công đức

Địa thứ tư tu thiền

Thứ năm làm việc tốt

Thứ sáu tướng sâu xa

Thứ bảy tâm rộng lớn

Địa thứ tám có đủ

Các thần thông trang nghiêm

Địa chín trí vi diệu

Vượt tất cả các cõi

Địa thứ mười thọ tŕ

Đại mưa pháp của Phật

Hạnh Bồ-tát như biển

Không cùng, khó lay động

Phát tâm xuất thế gian

An nhập Địa thứ nhất

Địa hai giữ tịnh giới

Địa ba tu thiền định

Địa tư đạo tịnh hạnh

Địa năm tuệ phương tiện

Địa sáu tu nhân duyên

Bảy, tuệ phương tiện sâu

Tám, đạt tràng lưu ly

Địa chín hành chúng sinh

Tất cả nơi hiểm nạn

Ánh sáng tuệ chiếu khắp

Địa mười thọ trí lực

Ví như vua trao ngôi

Tuần tự được thanh tịnh

Tâm Bồ-đề quý báu

Tất cả số bụi trần

Trong thế giới nơi mười phương

Chỉ trong một khoảnh khoắc

Tính biết được ít nhiều

Trên đầu một sợi lông

Tính biết khắp hư không

Công đức lớn của Phật

Vô lượng không cùng tận

Lúc giảng nói kinh Thập Trụ này, Tự tại Thiên vương, các Thiên chúng, Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt, các Bồ-tát, tất cả thế gian đều rất vui mừng, tin thọ và phụng hành.

KINH THẬP TRỤ

 

MỤC-LỤC

-

TRANG CHỦ*--KINH ĐIỂN*--ĐẠI TẠNG KINH*--THẦN CHÚ*--HÌNH ẢNH*--中文*--ENGLISH

Uploaded on 2020-11-18

 

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0