佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

Số 1585  Trọn bộ 10 Quyển

Quyển 1  Quyển 2  Quyển 3  Quyển 4  Quyển 5  Quyển 6  Quyển 7  Quyển 8  Quyển 9  Quyển 10

Thành Duy Thức Luận

Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Ḥa Thượng Thích Thiện Siêu
  Mùa An cư P.L. 2539 – 1995

-o0o-

QUYỂN 10

 Mười một chướng này (mười chướng cộng thêm chướng c̣n thừa ở Phật địa thành mười một) đều thu vào hai chướng là phiền năo và sở tri.

- Trong phiền năo chướng, phần chủng tử thuộc kiến đạo đoạn, th́ khi vào kiến đạo vị của Sơ điạ cực hỷ, bắt đầu đoạn trừ; c̣n phần hiện hành phiền năo chướng thuộc kiến đạo đoạn, th́ đă khắc dẹp trước khi vào Sơ địa. Phần chủng tử phiền năo chướng thuộc tu đạo đoạn, th́ khi Kim cang dụ định hiện tại tiền, tất cả đều kíp đoạn một lần. C̣n phần hiện hành của phiền năo chướng thuộc tu đạo đoạn th́ đă tạm khắc dẹp trước khi vào Sơ địa; từ Sơ địa trở lên, kíp dẹp hết loại hiện hành này một lần, khiến vĩnh viện không hiện hành, như A la hán. Chỉ trừ do sức cố ư mà trong bảy địa đầu tuy có tạm thời khởi lên nhưng không phải là lỗi. Nếu từ địa thứ tám trở lên, th́ loại phiền năo thuộc tu đạo đoạn, hoàn toàn không c̣n hiện hành. (Ở A na hàm khởi Kim cang dụ định, dứt sạch chủng tử, phiền năo mà chứng A la hán).

Trong sở tri chướng, phần chủng tử thuộc kiến đạo đoạn, th́ khi vào kiến đạo vị của Sơ địa cực hỷ, bắt đầu đoạn trừ; c̣n phần hiện hành của sở tri chướng thuộc kiến đạo đoạn th́ khắc phục trước khi vào Sơ địa. Phần chủng tử sở tri chướng thuộc tu đạo đoạn th́ trong mười địa lần lượt đoạn dứt, thẳng đến khi Kim cang dụ định hiện tại tiền th́ mới vĩnh viễn dứt sạch.

C̣n phần hiện hành sở tri chướng thuộc tu đạo đoạn th́ trước sơ địa đă lần lần khắc phục, cho đến địa thứ mười mới vĩnh viễn dứt sạch. Nếu từ địa thứ tám trở lên, th́ câu sanh sở tri chướng tương ưng với thức thứ sáu không c̣n hiện hành, v́ tâm quán vô lậu và "trí quả sanh không" thường tiếp tục, trái với nó. Nhưng câu sanh sở tri chướng tương ưng thức thứ bảy vẫn c̣n hiện hành, phải có trí quả quán pháp không hiện khởi mới dẹp được nó. Năm chuyển thức trước dù chưa được chuyển y, nhưng do sức quán vô lậu (quán hai không) đè dẹp, mà sở tri chướng nơi năm thức này không thể khởi được. (Ở Đẳng giác địa khởi Kim cang dụ định dứt hết chủng tử Sở tri mà chứng Diệu giác).

Tuy trong mười địa vị tu đạo không cốt dứt chủng tử phiền năo chướng, (chỉ cốt sở tri chướng), nhưng mà tánh thô trọng (không kham nhậm) của nó cũng đă dần dần dứt. Do đó nên nói hai chướng thô trọng, mỗi mỗi mỗi có ba địa vị đoạn trừ.

Tuy trong các địa vị đều dứt thô trọng, nhưng có địa vị rơ rệt cho nên nhấn mạnh nói (ba địa đoạn trừ là Thông đạt vị, Tu tập vị, Cứu cánh vị).

Dút chủng tử hai chướng Tiệm, Đốn (lần lần, một lần) như thế nào?

- Chủng tử phiền năo chướng tương ưng với thức thứ bảy, khi hàng Tam thừa sắp được quả vị vô học, chỉ một sát na th́ đoạn hết chướng này trong ba cơi. C̣n chủng tử sở tri chướng, khi sắp thành Phật, trong một sát na th́ dứt hết tất cả. V́ nó lặng lẽ nhậm vận khởi lên bên trong, không có thô tế.

- Chủng tử của phiền năo chướng tương ưng với thức thứ thứ sáu, nếu thuộc loại kiến đạo đoạn, th́ trong chơn kiến đạo của kiến đạo vị Tam thừa, dứt hết tất cả một lần. Nêú thuộc loại tu đạo đoạn th́ tùy chỗ thích hợp, hoặc có một loại Nhị thừa đối với câu sanh phiền năo trong ba cơi, chín địa mỗi mỗi lần lượt đoạn từng chín phẩm riêng. Lại có một loại Nhị thừa đối với câu sanh phiền năo trong ba cơi, chín địa, hợp lại làm một nhóm chín phẩm riêng. C̣n Bồ tát th́ đến khi khởi Kim cang dụ định, trong một sát na, mới đoạn hết phiền năo trong ba cơi một lần.

- Chủng tử sở tri chướng thuộc kiến đạo đoạn, (tương ưng với thức thứ sáu), th́ khi vào sơ tâm của Sơ địa là đoạn hết một lần. Nếu là thuộc loại tu đạo đoạn, th́ sau trong tu đạo vị của mười địa, lần lượt dứt, cho đến khi chính thức khởi lên Kim cang dụ định, trong một sát na mới đoạn hết được. V́ sở tri chướng (tương ưng với thức thứ sáu) duyên cả cảnh thô tế bên trong thân và ngoài thân mà sanh khởi, có nhiều phẩm loại sai khác (nên không thể dứt một lần).

Hàng Nhị thừa căn độn, cho nên khi lần lượt đoạn chướng ắt phải khởi riêng vô gián đạo; c̣n nếu là gia hạnh đạo thắng tấn đạo th́ hoặc khởi chung, hoặc khởi riêng.

Hàng Bồ tát v́ lợi căn, khi ở địa vị dứt lần lần sở tri chướng không cần phải khởi riêng vô gián đạo, giải thoát đạo, mà ngay trong từng sát na, có thể đoạn hoặc và chứng quả, nên bốn vị là gia hạnh, vô gián, giải thoát, thẳng tấn, trước sau trông nhau, đều dùng có đủ.

Mười Chơn như là:

1. Biến hành chơn như - Tức là chơn như do hai không hiển lộ, không một pháp nào mà không có nó.

2. Tối thắng chơn như - Tức là chơn như đủ vô biên đức, đối tất cả pháp là tối thắng hơn cả.

3. Thắng lưu chơn như - Tức là chơn như này tuông ḍng giáo pháp, tối thắng hơn cả.

4. Không nhiếp thọ chơn như - Tức là chơn như không chi hệ thuộc, chẳng phải làm chỗ nương cho ngă chấp v.v...

5. Loại vô biệt chơn như - Tức là chơn như loại không sai khác, không như loại mắt, tai v.v... sai khác nhau.

6. Không nhiễm tịnh chơn như - Tức là chơn như tánh vốn không nhiễm, nên không thể nói về sau nó mới thanh tịnh.

7. Pháp không sai biệt chơn như - Tức là chơn như, tuy có nhiều thứ giáo pháp an lập, mà vẫn không sai khác.

8. Không tăng giảm chơn như - Tức là chơn như chấp tăng giảm, v́ không theo tịnh nhiễm mà có tăng giảm, nó cũng được gọi là chơn như làm chỗ nương cho thân tướng quốc độ tự tại. Nghĩa là nếu chứng được chơn như này rồi th́ tự tại hiện thân tướng, quốc độ.

9. Trí tự tại sở y chơn như - Tức là nếu chứng đưọc chơn như này rồi th́ được tự tại đối với sự hiểu biết vô ngại.

10. Nghiệp tự tại sở y chơn như - Tức là nếu chứng được chơn như này rồi, th́ khắp tự tại đối với tất cả thần thông, tác nghiệp, tổng tŕ, định môn.

Tuy tánh chơn như vốn thật sai khác, nhưng theo đức tính thù thắng sai khác mà giả lập, làm mười thứ.

Tuy trong Sơ địa đă đạt được hết thảy, nhưng mười Thắng hạnh để chứng đạt chơn như c̣n chưa viên măn. Để viên măn mười Thắng hạnh đó, cho nên nương các thắng đức tiếp theo sau chơn như biến hành mà lập ra mười Chơn như.

- Như vậy, Bồ tát ở trong mười địa, dơng mănh tu hành mười Thắng hạnh, dứt mười Trọng chướng, chứng Chơn như, liền chứng đắc có hai thứ chuyển y.

- Địa vị chuyển y sai khác lược có sáu thứ:

1. Tổn lực ích năng chuyển - Tức là ở tư lương vị gia hạnh vị, do tu tập thắng giải, và có tâm tàm qúy, làm suy tổn thế lực chủng tử tạp nhiễm trong bản thức, và làm tăng ích công năng chủng tử thanh tịnh trong bản thức; tuy chưa dứt hết chủng tử hai chướng, thực chứng chuyển y, song đă lần lượt khắc phục hiện hành hai chướng, cũng gọi là chuyển.

2. Thông đạt chuyển - Tức là ở địa vị thông đạt, do sức kiến đạo, thông đạt chơn như, dứt phần thô trọng của hai chướng phân biệt, chứng được một phần chơn như chuyển y.

3. Tu tập chuyển - Tức là ở địa vị tu tập, do thường tu tập mười Thắng hạnh của mười địa, lần lần đoạn phần thô trọng của hai chướng câu sanh, thứ lớp chứng được chuyển y chân thật. Nhưng trong luận Nhiếp Đại thừa lại nói: "Tu Tập chuyển này ở tại sáu địa đầu", là v́ ở đây do quán hữu tướng, quán vô tướng, mà thông đạt cả chơn và tục đế, xen lẫn hiện tiền, khiến phi chơn hiện, chơn không hiện, hoặc chơn hiện, phi chơn không hiện. C̣n nói tu tập chuyển là ở bốn địa sau trong mười địa, vị ở đây trí thuần quán vô tướng luôn luôn hiện tiền, dơng mănh tu tập, dứt các thô trọng c̣n thừa, phần nhiều làm cho phi chơn  không hiển hiện được.

4. Quả viên măn chuyển - Tức là ở địa vị cứu cánh do ba đại A tăng kỳ kiếp, tu tập vô biên thắng hạnh khó hành, cho đến khi Kim cang dụ định hiện tại tiền, th́ vĩnh viễn dứt sạch tất cả thô trọng từ xưa nay, kíp chứng Phật quả, viên măn chuyển y, tột đời vị lai lợi lạc vô tận.

5. Hạ liệt chuyển - Tức là hàng Nhị thừa v́ lẽ chuyên cầu tự lợi, chán khổ ưa tịch diệt, nên chỉ thông đạt được chơn như do sanh không hiển lộ, chỉ dứt được chủng tử phiền năo chướng, và chỉ chứng được chơn trạch diệt vô vi, không có sức kham năng, cho nên gọi là hạ liệt chuyển.

6. Quảng đại chuyển - Tức là hàng Đại thừa, v́ lẽ lợi tha mà hướng tới đại Bồ đề, không chán sanh tử, không thích Niết bàn, thông đạt được chơn như do hai không hiển lộ, dứt cả chủng tử hai chướng sở tri và phiền năo, và kíp chứng Vô thượng Bồ đề Niết bàn. Có sức kham năng đặc biệt như vậy cho nên gọi là quảng đại chuyển.

Trong bài Tụng nói "được chuyển y", chính là nói về quảng đại chuyển y này, do bỏ hết phần thô trọng của hai chướng mà chứng được.

- Nghĩa của chuyển y sai khác có bốn thứ là năng chuyển đạo, sở chuyển y, sở chuyển xả, sở chuyển đắc.

1. Năng chuyển đạo, đây lại có hai:

a. Đạo năng phục, là khắc phục thế lực tùy miên của hai chướng, khiến không cho dẫn sanh ra hiện hành của hai chướng. Đạo này thông cả hai đạo hữu lậu và vô lậu, cũng thông ba trí gia hạnh, căn bản, hậu đắc. Tùy chỗ thích hợp mà lần lần hoặc một lần khắc phục hiện hành hai chướng.

b. Đạo năng đoạn, là có thể vĩnh viễn dứt tùy miên của hai chướng. Đạo này nhất định không phải là đạo hữu lậu và trí gia hạnh, có  khả năng làm được, v́ đạo hữu lậu đă từng tập quen, và là do tướng chấp (tướng phiền năo trong thức thứ bảy) dẫn phát, chưa dứt tướng được, nên dùng trí gia hạnh mà hướng cầu chứng chơn như, dẫn sanh căn bản trí, th́ chưa thể thành được.

- Có người cho rằng, trí căn bản vô phân biệt, thân chứng chơn lư do hai không hiển lộ, v́ không có tướng cảnh, nên có thể dứt tùy miên; c̣n trí hậu đắc th́ không được như vậy (v́ c̣n biến tướng quán không, nên không phải là đạo dứt hoặc).

- Có người cho rằng trí hậu đắc vô phân biệt, tuy không thân chứng chơn lư hai không, không đủ sức dứt được tùy miên mê lư, nhưng đối với tướng an lập và phi an lập, chứng đạt rơ ràng hiện tiền không điên đảo, cũng có thể dứt vĩnh viễn tùy miên mê sự. Nên luận Du già nói: "Trong địa vị tu đạo (Tu tập vị) có đạo thế xuất thế đoạn hoặc"; chứ không có chỉ thuần dùng đạo thế gian mà có thể hại vĩnh viện tùy miên, v́ đạo thế gian là đă từng tập quen, lại do tướng chấp (tướng phiền năo trong thức thứ bảy) dẫn phát. Do lẽ đó mà các tùy miên mê lư thuộc kiến đạo đoạn hay tu đạo đoạn chỉ có trí căn bản vô phân biệt thân chứng chơn lư mới chính thức đoạn được. Ngoài ra, các tùy miên mê sự thuộc tu đạo đoạn th́ cả trí căn bản và trí hậu đắc đều chính thức đoạn được.

2. Sở chuyển y (chỗ nương được chuyển), đây lại có hai:

a. Chỗ nương duy tŕ chủng tử, là thức căn bản, nó duy tŕ chủng tử các pháp nhiễm tịnh và làm chỗ nương cho các pháp nhiễm tịnh; do Thánh đạo chuyển nó, khiến bỏ nhiễm được tịnh. Các pháp y tha khởi tuy cũng làm chỗ nương, nhưng không thể duy tŕ chủng tử, cho nên đây không nói.

b. Chỗ nương của mê ngộ, tức là chơn như, nó làm căn bản cho mê ngộ, các pháp nhiễm tịnh nương đó mà được sanh khởi; do Thánh đạo chuyển nó, khiến bỏ nhiễm được tịnh. Các pháp khác cũng làm chỗ nương cho mê ngộ, nhưng không phải căn bản, cho nên đây không nói.

3. Sở chuyển xả (bị chuyển bỏ), đây lại có hai:

a. Bị dứt bỏ, đó là chủng tử hai chướng; khi chơn vô gián đạo hiện tại tiền, th́ v́ chướng đối trị và đạo đối trị trái nhau, nên chủng tử hai chướng kia tự khắc phải bị đoạn diệt, vĩnh viễn không thể thành tựu lại, nói đó là "bỏ". Chủng tử kia đă đoạn rồi không c̣n hiện hành, vọng chấp ngă pháp và tướng pháp bị chấp cũng không c̣n đối với vọng t́nh biến kế, nên cũng nói là "bỏ". Do đó gọi là bỏ Biến kế sở chấp.

b. Bị vứt bỏ, tức là các chủng tử thiện hữu lậu và chủng tử vô lậu yếu kém; khi Kim cang dụ định hiện tại tiền, dẫn phát ra bản thức rất viên minh thuần tịnh, nó không c̣n làm chỗ nương cho chủng tử thiện hữu lậu và chủng tử vô lậu yếu kém, cho nên hai thứ chủng tử này đều bị vứt bỏ. Chủng tử kia đă bị vứt bỏ rồi th́ hiện hành hữu lậu pháp và pháp vô lậu yếu kém hoàn toàn không sanh khởi được. Đă vĩnh viễn không sanh, nên cũng nói là "bỏ". Do đó gọi là pháp yếu kém sanh tử biến dịch.

 - Có người cho rằng các chủng tử pháp hữu lậu và chủng tử pháp vô lậu yếu kém; khi Kim cang dụ định hiện tại tiền, nó đều bị vứt bỏ, cùng lúc bỏ chủng tử vi tế của hai chướng câu sanh.

- Có người cho rằng bấy giờ chỉ bỏ chủng tử hai chướng, nhưng chưa bỏ chủng tử thiện hữu lậu và chủng tử vô lậu yếu kém, v́ nó không trái với vô gián đạo. Nếu nói bây giờ đă vứt bỏ th́ Bồ tát đáng lẽ không c̣n sanh tử biến dịch. Lại ở địa vị này, chủng tử hữu lậu nếu đă vứt bỏ th́ lẽ đáng cũng không có thức Dị thục duy tŕ chủng tử huân tập. Thế th́ trong lúc trú vô gián đạo, không nên c̣n gọi là Bồ tát Kim cang hậu tâm, mà nên gọi là Phật. Và nếu đă gọi Phật th́ giải thoát đạo sau đó trở thành vô dụng. Cần phải biết như vậy. Ngoài ra các chủng tử hữu lậu c̣n lại phải đợi đến giải thoát đạo khởi lên mới vứt bỏ hết, v́ tịnh thức thứ tám không phải là chỗ nương của hai chướng.

4. Sở chuyển đắc (đắc do chuyển đổi), đây lại có hai, là: sở hiển đắc, sở sanh đắc.

A. SỞ HIỂN ĐẮC (đắc do hiển lộ) là Đại Niết bàn. Niết bàn tuy xưa nay tự tánh thanh tịnh, nhưng do khách trần chướng ngại che lấp làm cho không hiển lộ. Khi chơn Thánh đạo phát sanh, dứt hết khách chướng khiến cho tướng thanh tịnh đó hiển lộ, gọi là đắc Niết bàn. Đây là nương theo việc chơn như ĺa khỏi chướng mà thiết đặt tên gọi, c̣n thể của Niết bàn chính là pháp giới thanh tịnh.

Nghĩa của Niết bàn sai biệt lược có bốn thứ:

 Niết bàn bản lai tự tánh thanh tịnh - Tức lư chơn như, chỗ dựa của hết thảy pháp (uẩn, xứ, giới), tuy có sự ô nhiễm từ bên ngoài mà tánh nó vốn thanh tịnh, đầy đủ vô số lượng công đức vi diệu, không sanh không diệt, lặng lẽ như hư không. Hết thảy hữu t́nh, b́nh đẳng cùng có. Nó cùng với hết thảy pháp chẳng một, chẳng khác, xa ĺa mọi tướng, mọi phân biệt, bặt đường suy nghĩ, dứt lối danh ngôn, chỉ có bậc chơn Thánh mới tự chứng ngộ bên trong. V́ tánh vốn tịnh lặng cho nên gọi là Niết bàn.

- Niết bàn hữu dư y - Tức chơn như ra khỏi chướng phiền năo, tuy c̣n có thân trí làm chỗ nương cho khổ vi tế, nhưng phiền năo chướng đă tịch lặng vĩnh viễn, cho nên gọi là Niết bàn.

- Niết bàn vô dư y - Tức chơn như ra khỏi khổ sanh tử, phiền năo sạch hết, thân dư thừa cũng diệt, bặt hết các khổ, cho nên gọi là Niết bàn.

- Niết bàn không trú xứ - Tức chơn như ra khỏi luôn cả sở sở tri chướng, có Đại bi, và Bát nhă thường phụ giúp, do đó không trụ sanh tử, không trụ Niết bàn, lợi lạc hữu t́nh, tột cùng đời vị lai. Tuy ứng dụng mà thường tịch lặng, cho nên gọi là Niết bàn.

Tất cả hữu t́nh đều có Niết bàn tánh tịnh. Nhị thừa vô học có ba thứ đầu, chỉ đức Thế Tôn mới có thể có đủ cả bốn.

Hỏi: Tại sao đấng Thiện Thệ (khéo đi qua) mà c̣n có khổ vi tế chưa hết, để nói là có"Hữu dư y"?

Đáp: - Tuy không thật có thân cho khổ nương mà hiện ra như có; hoặc có thân cho khổ nương đă hết, mà nói là "Vô dư y"; hoặc có thân cho chẳng phải khổ nương (vô lậu ngũ uẩn) đang c̣n mà nói là Phật có "Hữu dư y". Thế nên đức Thế Tôn có thể nói có đủ cả bốn thứ Niết bàn.

Hỏi: - Nếu hàng Thanh văn có "Vô dư y" th́ tại sao có chỗ nói Thanh văn không có? Lại có chỗ nói hàng Nhị thừa hoàn toàn không có Niết bàn, vậy há "Hữu dư y" Nhị thừa cũng không có sao?

Đáp: - Nhưng v́ trong lúc quán trí và báo thân hàng Thanh văn đang tồn tại, do có sở tri chướng, nên thân cho khổ nương chưa hết, tính viên tịch c̣n mờ ẩn, nên nói là không Niết bàn, chứ không phải Thanh văn thật không có Hữu dư y Niết bàn, do dứt sạch phiền năo chướng hiển lộ chơn lư. lại nhân lúc bấy giờ chưa chứng Vô dư y viên tịch, nên cũng nói hàng Thanh văn không có "Vô dư y", chứ không phải nói Thanh văn lúc sau, khi đă dứt hết báo thân và quán trí, và chỗ cho khổ nương không c̣n mà vẫn không có Vô dư y Niết bàn.

- Hoặc lại nói Nhị thừa không có Niết bàn, đó là nói không có Niết bàn vô trụ xứ, chứ không phải không có ba thứ Niết bàn đầu.

Lại nói Nhị thừa không có Vô dư y, là chỉ cho Nhị thừa bất định tánh, học vừa chứng đắc hữu dư Niết bàn, đă quyết định hồi tâm cầu vô thượng giác, do sức định và nguyện cầu mà để thân lại lâu dài thế gian, chứ không như một loại Nhị thừa định tánh, quá ưa viên tịch, được sanh không quán, thân chứng chơn như, dứt sạch vĩnh viễn phiền năo chướng chiêu cảm thọ sanh, trước hết hiển lộ Hữu dư Niết bàn dựa nơi chơn lư. V́ phiền năo chiêu cảm thọ sanh nơi họ đă sạch hết, nên Dị thục quả đời sau không do đâu sanh trở lại, nên nơi thân cho khổ nương hiện tại tự nhiên chấm dứt; các pháp hữu vi đă không có chỗ nương cũng phải kíp bị xả bỏ một lần với thân cho khổ nương kia, mà hiển lộ Vô dư Niết bàn dựa nơi chơn lư. Bấy giờ Nhị thừa tuy không có báo thân và trí quán, nhưng do trước đó thân trí của hàng Nhị thừa đă chứng được lư này, nên có thể noí Nhị thừa có Vô dư Niết bàn.

- Trong địa vị Vô dư y Niết bàn đó, chỉ có chơn như thanh tịnh, ĺa tướng vắng lặng, tịch diệt an lạc, căn cứ đó mà nói Nhị thừa với Phật không khác, nhưng Nhị thừa không có Bồ đề và sự nghiệp lợi lạc quần sanh như Phật, nên nói Nhị thừa với Phật có khác.

Hỏi: - sở tri chướng đă không chiêu cảm thọ sanh, tại sao sở tri chướng lại được Niết bàn vô trú xứ?

Đáp: - V́ sở tri chướng che lấp chơn như pháp không, khiến cho không phát sanh ra Đại bi Bát nhă làm lợi lạc hữu t́nh cùng tột đời vị lai, cho nên khi dứt sở tri chướng th́ lư pháp không hiển lộ. Lư đó tức là Niết bàn vô trú xứ, không trụ cả hai bên sanh tử và Niết bàn.

Hỏi: - Nếu sở tri chướng cũng chứng Niết bàn vô trú xứ, tại sao sở tri chướng lại không được Trạch diệt vô vi?

Đáp: Trạch diệt vô vi là ĺa sự trói buộc của phiền năo mà được; c̣n sở tri chướng không phải trói buộc sanh tử phân đoạn như phiền năo.

Hỏi: - Sở tri chướng đă không trói buộc như phiền năo, th́ khi dứt nó đâu được Niết bàn vô trú xứ?

Đáp: - Không phải các Niết bàn đều thuộc Trạch diệt vô vi. Nếu các Niết bàn đều thuộc Trạch diệt vô vi, th́ như tánh tịnh Niết bàn không phải do tuệ trạch diệt mà có được, lại không phải Niết bàn sao?

- Thế nên phải biết, phiền năo trói buộc hữu t́nh trụ sanh tử phân đoạn, khi dứt nó th́ nói là được Trạch diệt vô vi; c̣n sở tri chướng không chiêu cảm sanh tử phân đọan, không phải như phiền năo trói buộc hữu t́nh, cho nên khi dứt sở tri chướng không gọi là được trạch diệt vô vi. Nhưng do dứt sở tri chướng, mà lư pháp không hiển lộ và tướng của lư đó vắng lặng, nên nói là Niết bàn; không thể bảo Niết bàn vô trú xứ này cũng lấy Trạch diệt làm tánh.

- Cho nên bốn thứ viên tịch Niết bàn này đối chiếu với các vô vi; hai thứ Niết bàn đầu và cuối tức chơn như vô vi; hai thứ Niết bàn giữa thuộc Trạch diệt vô vi.

Hỏi: - Nếu chỉ dứt trói buộc của phiền năo mà được Trạch diệt, thời Bất động diệt vô vi, Thọ tưởng diệt vô vi, thuộc vô vi nào trong bốn vô vi?

Đáp: Hai thứ vô vi đó không nhiếp vào phi Trạch diệt vô vi, nó chỉ tạm thời ĺa trói buộc mà có tính cách tợ như là Phi trạch diệt vô vi, do duyên khuyết không sanh được. Nếu thật là Trạch diệt vô vi, th́ chỉ có hoàn toàn diệt, c̣n Phi trạch diệt như hai vô vi th́ không phải vĩnh viễn diệt.

- Hoặc lại có thể nói Niết bàn vô trú xứ, cũng là nhiếp vào Trạch diệt vô vi, v́ do năng lực của trí pháp không chơn thật lựa chọn diệt được sở tri chướng mà hiển bày.

Trạc diệt có hai:

a. Dứt trói buộc mà được, tức là dứt phiền năo chiêu cảm thọ sanh mà được.

b. Dứt chướng mà được, tức là dứt sở tri chướng mà chứng đắc.

Cho nên bốn thứ viên tịch (Niết bàn) đối trong các vô vi; Niết bàn tánh tịnh đầu tức chơn như vô vi; ba thứ Niết bàn sau đều là Trạch diệt vô vi. Nếu là Bất động diệt, Thọ tưởng diệt vô vi th́ chỉ tạm phục diệt phiền năo, tức vào Phi trạch diệt, và phải hoàn toàn diệt, mới nhiếp vào Trạch diệt vô vi.

Hỏi: - Đă nói sở tri chướng cũng chướng Niết bàn vô trú xứ, tại sao nay chỉ nói chướng Bồ đề?

Đáp: Như nói phiền năo chướng chỉ chướng Niết bàn, nhưng đâu phải nó không chướng Bồ đề. Nên biết Thánh giáo thường dựa nơi công dụng đặc biệt mà nói dứt mỗi thứ chứng mỗi quả, chứ đúng lư th́ dứt phiền năo hay sở tri chướng đều chứng cả hai quả Bồ đề và Niết bàn.

Trong bốn thư Niết bàn như vậy, chỉ có ba thứ sau là chứng được do hiển bày (sở hiển đắc).

B. SỞ SANH ĐẮC (đắc do phát sanh) - Tức là đại Bồ đề. Bồ đề tuy xưa nay vốn có chủng tử năng sanh, nhưng v́ bị sở tri chướng ngăn ngại không sanh được, nay do sức Thánh đạo, khiến chủng tử ấy sanh khởi, gọi là được Bồ đề. Các chủng tử ấy khởi lên rồi tương tục măi tột cùng đời vị lai. Đó là Tâm phẩm tương ưng với bốn trí.

Thế nào là tâm phẩm tương ưng với bốn trí?

1. Tâm phẩm tương ưng với trí Đại viên cảnh - Nghĩa là tâm phẩm này ĺa các phân biệt, hành tướng và sở duyên của nó vi tế khó biết. Nó không dối, không ngu đối với mọi tướng cảnh, tánh tướng thanh tịnh, ĺa các tạp nhiễm, làm chỗ nương cho hiện hành, và chỗ duy tŕ cho chủng tử của các công đức thuần tịnh viên măn, có thể hiện sanh  ảnh tượng ba thân tự thọ dụng, bốn độ và ba trí tiếp sau là B́nh đẳng, Diệu quán sát và Thành sở tác, không xen không dứt, cùng tột đời vị lai, như tấm gương tṛn lớn, hiện rơ muôn sắc tượng.

2. Tâm phẩm tương ưng với trí B́nh đẳng tánh - Nghĩa là tâm phẩm này quán tất cả pháp hữu t́nh tự tha thảy đều b́nh đẳng, có tánh đại từ bi thường tương ưng, tùy đại căn cơ của hữu t́nh ở mười địa ưa thích mà thị hiện thân và độ tha thọ dụng với ảnh tưọng sai khác. Trí này là chỗ nương riêng của trí Diệu quán sát, và là chỗ dựng lập Niết bàn vô trú xứ, nhất vị tương tục, cùng tột đời vị lai.

3. Tâm phẩm tương ưng  trí Diệu quán sát - Nghĩa là tâm phẩm này vô ngại phát sanh, khéo quán sát tự tướng và cộng tướng các pháp, thu dấu vô lượng môn tổng tŕ quán sát và phát sanh trân bảo công đức, tự tại hiện ra vô biên tác dụng sai khác giữa hội đại chúng, mưa trận mưa đại pháp, dứt sạch nghi lầm, khiến các hữu t́nh đều được lợi lạc.

4. Tâm phẩm tương ưng với trí Thành sở tác - Nghĩa là tâm phẩm này v́ muốn lợi lạc cho các hữu t́nh, nên thị hiện khắp mười phương các thứ ba nghiệp biến hóa, thành tựu các việc đáng nên làm của sức bản nguyện.

Như vậy tâm phẩm tương ưng bốn trí, tuy mỗi tâm phẩm nhất định có hai mươi hai tâm (khi đă chuyển y, mỗi Tâm vương tương ưng với hai mươi mốt Tâm sở là năm Biến hành, năm Biệt cảnh, mười một Thiện, công một Tâm vương thành 22), đủ cả chủng tử hiện hành câu sanh, năng biến (tự chứng, chứng tự chứng), sở biến (kiến tướng), nhưng trong đó công dụng của trí mạnh hơn, cho nên lấy trí để hiển bày chứ không lấy tâm khác. V́ thế bốn trí phẩm này tổng nhiếp hết tất cả công đức hữu vi của Phật địa (xưng tánh khởi tu đức).

Bốn trí phẩm này chính do chuyển các thức hữu lậu thứ tám, bảy, sáu, năm và các tâm phẩm tương ưng với nó theo thứ tự mà thành được.

Trí không phải thức, nhưng nương thức chuyển, thức là chủ, cho nên nói chuyển thức thành trí. Lại trong địa vị hữu lậu, trí yếu thức mạnh, trong địa vị vô lậu, trí mạnh thức yếu. V́ để khuyến khích loài hữu t́nh nương trí bỏ thức, cho nên nói chuyển tám thức được bốn trí này.

- Tâm phẩm tương ưng Đại viên cảnh trí: Có người cho rằng Bồ tát khi Kim cang dụ định hiện tại tiền (ở Đẳng giác), th́ trí Đại viên cảnh này bắt đầu hiện khởi, cùng lúc đó xả bỏ các chủng tử sở tri chướng vi tế trong thức Dị thục. Nếu bấy giờ trí Đại viên cảnh chưa hiện khởi th́ không có bản thức để duy tŕ chủng tử thanh tịnh.

Có người cho rằng trí phẩm này phải đợi khi giải thoát đạo, bắt đầu thành Phật nó mới bắt đầu khởi lên, v́ chủng tử trong thức Dị thục kia, khi Kim cang dụ định hiện tại tiền, c̣n chưa kíp bỏ; v́ chủng tử đó không trái với vô gián đạo (cho nên vô gián đạo không diệt được nó). Vô gián đạo chỉ trái với chủng tử hai chướng, chứ không phải trái với chủng tử thiện hữu lậu và chủng tử vô lậu yếu kém. Hai thứ chủng tử này nhất định trái với Phật quả. Lại nếu ở Kim cang dụ định không có thức Dị thục chịu huân, thiện vô lậu không c̣n tăng nữa, (v́ đă tṛn đủ rồi) th́ lẽ ra khi đó là đă thành Phật.

Do lẽ đó, trí Đại viên cảnh này, từ khi mới thành Phật cho đến tột cùng đời vị lai, tương tục không dứt, duy tŕ chủng tử vô lậu, không để mất.

- Tâm phẩm tương ưng trí B́nh đẳng tánh; Bồ tát khi ở địa vị kiến đạo bắt đầu hiện tiền, v́ nó trái với hai chướngngă pháp phân biệt, cho nên trí B́nh đẳng tánh này mới được bắt đầu khởi sau trong mười địa, V́ c̣n chưa dứt hai chướng ngă pháp câu sanh, cho nên ở địa vị hữu lậu này c̣n gián đọan, không hiện tiền, thẳng đến pháp vân địa hậu tâm, nó cùng với thức thanh tịnh thứ tám nương nhau tương tục cho đến tột cùng đời vị lai.

- Tâm phẩm tương ưng trí Diệu quán sát: Phân biệt có hai:

a. Bậc sanh không quán - Nhị thừa ở kiến đạo vị, trí quán sanh không này bắt đầu được khởi lên, từ đó triển chuyển đến vô học vị mới được trọn vẹn, rốt ráo; hoặc đến cuối cùng địa vị giải hạnh của Bồ tát, trí này mới khởi; hoặc đến địa thứ bảy, nếu khi không phải tâm hữu lậu hoặc khi nhập Diệt tận định vô tâm, th́ trí này đều khởi được.

b. Bậc pháp không quán - Bồ tát khi ở địa vị kiến đạo th́ trí quán pháp không này mới được khởi, từ đó về sau triển chuyển cho đến khi lên mười địa. Nếu khi không phải tâm hữu lậu và khi không chỉ có sanh không trí quả, hoặc là khi không phải nhập Diệt tận định vô tâm, trí này đều khởi lên được.

- Tâm phẩm tương ưng trí Thành sở tác: Có người cho rằng Bồ tát ở trong địa vị tu đạo, nhờ trí hậu đắc tương ưng thức thứ sáu dắt dẫn, mà trí Thành sở tác này được bắt đầu khởi.

Có người cho rằng khi thành Phật, trí này mới được khởi, v́ khi ở trong mười địa, nhăn, nhĩ v.v... nương thức Dị thục biến hiện, không phải là vô lậu. Giả sử cho rằng do năm căn bất cộng y hữu lậu, đồng duyên một cảnh phát ra năm thức vô lậu, theo lư không thể tương ưng, v́ thức vô lậu thủ cảnh th́ sáng, mà căn hữu lậu thủ cảnh th́ tối, khác nhau. Do đó, trí phẩm này phải đến khi thành Phật, nương nơi năm căn (nhăn, nhĩ, căn v.v...) vô lậu, mới phát khởi được, nhưng thường gián đoạn, phải chờ có tác ư (dụng ư) mới khởi lên.

Bốn thứ trí này tánh tuy vốn có nhưng phải huân tập mới phát hiện. Trong nhân vị th́ tăng dần dần, đến Phật quả mới viên măn, không c̣n tăng giảm, tột cùng đời vị lai, v́ bấy giờ chỉ chủng tử phát sanh, chứ không huân tập thành chủng tử nữa, v́ không thể có việc đức tánh của Phật trước viên măn hơn Phật sau.

- Về tâm phẩm tương ưng trí Đại viên cảnh, có người cho rằng nó chỉ duyên chơn như làm cảnh, đây là trí không phân biệt, chẳng phải trí hậu đắc, nên hành tướng và sở duyên của nó không thể biết được.

Có người cho rằng trí này duyên tất cả pháp. Luận Trang Nghiêm nói: "Trí Đại viên cảnh, đối với hết thảy cảnh không ngu, không mê". Kinh Phật Địa nói: "Trong trí Đại viên cảnh của Như Lai hiện đủ các ảnh tượng căn, trần, thức". Lại trí này nhất định duyên chủng tử vô lậu và các ảnh tượng thân, độ, nhưng v́ hành tướng và sở duyên của nó vi tế, nên nói là không thể biết. Giống như thức A lại da, nó cũng duyên tục đế. Nên biết trước duyên chơn như là trí căn bản vô phân biệt, sau duyên các cảnh khác là trí hậu đắc. Hai trí này thể là một mà tùy tác dụng chia ra làm hai, v́ rơ được tục đế là do chứng chơn như, cho nên nói là hậu đắc, (được sau). Ba trí tiếp theo cũng như vậy, thể chỉ một mà dụng chia làm hai. Chuẩn theo đây nên hiểu.

- Về tâm phẩm tương ưng trí B́nh đẳng tánh, có người cho rằng trí này chỉ duyên tịnh thức thứ tám, giống như thức thứ bảy ô nhiễm duyên Tạng thức.

Có người cho rằng trí này chỉ duyên chơn như làm cảnh, v́ nó duyên tánh b́nh đẳng của tất cả pháp.

Có người cho rằng, nó khắp duyên cả chơn và tục, v́ kinh Phật địa nói: "Trí B́nh đẳng tánh chứng được mười thứ tánh b́nh đẳng", và Luận Trang Nghiêm nói: "Duyên các hữu t́nh tự tha b́nh đẳng. Tùy theo chỗ thắng giải của hữu t́nh mà thị hiện vô biên ảnh tượng Phật". Do đó, trí phẩm b́nh đẳng tánh duyên cả chơn và tục, nhiếp về hai trí, đối với lư không trái.

- Tâm phẩm tương ưng trí Diệu quán sát - Tức là duyên tự tướng, cộng tướng của hết thảy các pháp đều không ngăn ngại, và nhiếp về hai trí.

- Về tâm phẩm tương ưng trí Thành sở tác, có người cho rằng nó chỉ duyên năm thứ hiện cảnh, v́ Luận Trang Nghiêm nói: "Năm căn của Như Lai, mỗi mỗi đều đối năm cảnh mà sanh khởi".

Có người cho rằng trí phẩm này cũng khắp duyên các pháp trong ba đời, không trái chánh lư, v́ kinh Phậy địa nói: "Trí Thành sở tác khởi làm các việc biến hóa nơi ba nghiệp, quyết trạch tâm hành sai khác của hữu t́nh, lănh thọ các pháp quá khứ, hiện tại". Nếu trí này không khắp duyên, th́ không thể có được các việc như vậy. Nhưng trí phẩm này, tùy theo ưa thích mà duyên một pháp hoặc duyên hai hay duyên nhiều pháp. Trong luận Trang Nghiêm chỉ nói qua là năm căn của Như Lai duyên nơi năm cảnh, chứ không phải nói "chỉ" duyên năm cảnh, cho nên không trái nhau.

Trí này tùy theo tác ư mà khởi, chỉ duyên cảnh sự tướng, để khởi lên sự nghiệp hóa tha, cho nên nó chỉ nhiếp về trí hậu đắc.

- Bốn tâm phẩm này tuy đều duyên khắp tất cả pháp, nhưng công dụng có khác. Trí viên cảnh th́ hiện tướng thân và tịnh độ tự thọ dụng, duy tŕ chủng tử vô lậu. Trí b́nh đẳng th́ hiện tướng thân và tịnh độ tha thọ dụng. Trí Thành sự th́ hiện tướng thân và độ biến hóa. Trí Diệu quán sát th́ quán sát công năng và lỗi lầm của tự và tha, mưa trận mưa đại pháp, phá các lưới nghi, lợi lạc hữu t́nh.

- Bốn trí có các phẩm tính như thế, sai biệt nhiều thứ.

- Bốn tâm phẩm này gọi là "đắc do phát sanh" (sở sanh đắc).

Sở sanh đắc này, chung gọi là Bồ đề, cùng với sở hiển đắc (đắc do hiển bày) là Niết bàn trước đó, cả hai gọi chung là sở chuyển đắc (đắc do chuyển đổi).

Tuy nghĩa chữ "chuyển y" gồm có bốn thứ là năng chuyển đạo, sở chuyển y, sở chuyển xả, sở chuyển đắc, nhưng ư bài tụng cốt lấy nghĩa "sở hiển đắc và sở sanh đắc" trong "sở chuyển đắc" này để đặt lời tụng "chứng được chuyển y".

Tu tập vị này chỉ nói là năng chứng đắc, chứ không nói là đă chứng đắc, v́ nó c̣n thuộc về nhân vị tu tập (chưa phải quả vị Phật).

XXIV. CỨU CÁNH VỊ

- Thứ năm, cứu cánh vị tướng nó như thế nào?

Tụng rằng:

 Đây, tức giới vô lậu,

Chẳng nghĩ ngh́, thiện, thường.

An lạc, thân giải thoát.

Đại Mâu ni pháp thân.

Luận rằng: Quả chuyển y của địa vị tu tập thành được trước đó, tức là tướng trạng của cứu cánh vị này. Chữ "đây" trong bài tụng là chỉ hai quả chuyển y trước đó, nó nhiếp vào giới cứu cánh vô lậu. Các lậu vĩnh viễn sạch hết, vô lậu theo đó tăng lên, tánh trong sạch tṛn sáng, cho nên gọi "vô lậu". Chữ "giới" nghĩa là "kho tàng", v́ trong đó dung chứa vô biên đại công đức hy hữu. Hoặc "giới" nghĩa là "nhân" v́ có thể sanh ra sự lợi lạc cho cả năm thừa thế và xuất thế gian.

Hỏi: - Pháp giới thanh tịnh có thể chỉ nhiếp về vô lậu, c̣n bốn trí tâm phẩm tại sao chỉ là vô lậu?

Đáp: - V́ nó nhiếp về Đạo đế, nên chỉ là vô lậu. Nghĩa là công đức và thân, độ của Phật đều từ chủng tử vô lậu phát sanh, v́ chủng tử pháp hữu lậu đă vĩnh viễn dứt bỏ, tuy có thị hiện làm thân sanh tử và các nghiệp phiền năo, tợ như là Khổ đế, Tập đế, song kỳ thật thuộc về vô lậu Đạo đế.

Hỏi: - Tập Luận nói: "Mười lăm giới chỉ hữu lậu", đức Như Lai há không có mười lăm giới là năm căn, năm thức, năm trần hay sao?

Đáp: - Có người cho rằng công đức và thân, độ của Như Lai sâu xa vi diệu, chẳng phải có chẳng phải không, ĺa các phân biệt, dứt hết hư luận, không nhiếp vào các pháp môn giới, xứ, nên không trái với Tập Luận nói.

Có người cho rằng năm căn, năm cảnh của đức Như lai từ diệu định Thủ Lăng Nghiêm phát sanh, chỉ nhiếp về pháp giới sắc (chứ không phải sắc trần); c̣n năm thức của chín giới hữu t́nh không phải Phật, tuy dựa nơi pháp giới sắc của Phật mà biến ra tướng phần để duyên, nhưng tướng phần th́ thô, mà pháp giới sắc th́ tế khác nhau, cho nên pháp giới không nhiếp vào năm trần , mà năm thức của Như Lai cũng không thuộc năm thức giới, v́ Kinh nói: "Tâm Phật thường ở trong định, và luận nói năm thức tánh tán loạn".

Hỏi: - Năm thức Như Lai đă không phải là năm thức giới, thế th́ trí Thành sở tác tương ưng với thức thanh tịnh nào?

Đáp: - Tương ưng với tịnh thức thứ sáu, do nó quán căn cơ mà khởi tác dụng biến hóa thành ba loại phân thân.

Hỏi: - Đă cùng tịnh thức thứ sáu tương ưng, vậy tính nó với tánh của trí Diệu quán sát có ǵ khác nhau?

Đáp: - Trí Diệu quán sát là quán tự tướng, cộng tướng của các Pháp; c̣n Thành sở tác trí này chỉ khởi lên tác dụng biến hóa, cho nên có sai khác.

Hỏi: - Nếu vậy th́ hai thứ này không thể đồng sanh, v́ một loại thức mà hai trí không thể cùng khởi?

Đáp: - Chấp nhận không đồng khởi, đối với lư không trái; hoặc thể đồng, mà dụng khác, nên đồng khởi cũng không lỗi.

Lại, trí Thành sở tác hoặc cùng với tịnh thức thứ bảy tương ưng, v́ nương năm căn, duyên năm cảnh là tác dụng sai khác của trí B́nh đẳng tánh.

Nghĩa là tịnh thức thứ bảy khởi lên các tướng thân và độ tha thọ dụng, là thuộc B́nh đẳng tánh trí; c̣n khởi ra thân và độ biến hóa là thuộc về trí Thành sự.

Hỏi: - (Đă nói nương năm căn, duyên năm trần, th́) há không phải là trí Thành sở tác nhiếp thuộc năm thức cũng được chứ?

Đáp: - Không phải v́ chuyển năm thức được trí Thành sở đắc, mà thể của trí Thành sở tác tức là năm thức, giống như chuyển sanh tử được Niết bàn, nhưng không thể cho Niết bàn đồng với sanh tử. Cho nên không nên cật nạn chuyện đó.

 - Có người cho rằng công đức, thân, độ của Như lai, như chỗ thích ứng mà nhiếp vào năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới, v́ uẩn xứ, giới đều thông cả hữu lậu, vô lậu. Nhưng Tập Luận nói: "Mười lăm giới (năm căn, năm thức, năm trần) chỉ là hữu lậu", đó là chỉ dựa nơi cảnh Nhị thừa thô thiển mà nói, chứ không phải nói tất cả. Nghĩa là nếu chín giới hữu t́nh kia, thành tựu được mười tám giới, th́ ba giới sau là ư căn, ư thức, pháp trần thông về vô lậu; c̣n nếu Phật thành tựu mười tám giới, th́ cả mười tám giới đều vô lậu, nhưng đây không phải là cảnh giới mà Nhị thừa biết được. Hoặc có chỗ khác nói công đức của Phật không nhiếp vào xứ, giới, là chỉ v́ công đức đó không đồng với tướng xứ, giới mà Nhị thừa liệt trí biết được. Lư phải như vậy. V́ sao? V́ Kinh nói: "Tất cả pháp hữu vi đều thuộc vào năm uẩn", lại nói: "Tất cả pháp hữu lậu, vô lậu đều thuộc vào mười tám giới, mười hai xứ". nếu có uẩn thứ sáu, xứ thứ mười ba, giới thứ mười chín là điều không thể có, đức Phật ngăn chận.

Lại nếu v́ dứt hết các hư luận mà Phật thân không thuộc vào giới xứ, th́ cũng không nên nói: "Đây tức là giới vô lậu, thiện, thường, an lạc, thân giải thoát". Lại nơi nơi đều nói chuyển năm uẩn vô thường, được năm uẩn thường trụ; chuyển mười tám giới, mười hai xứ cũng thế, chứ đâu phải nói hẳn Như Lai không nhiếp vào uẩn, xứ, giới. Cho nên phàm nói Như Lai không thuộc uẩn, xứ, giới, đó chỉ là "mật ư nói".

Lại Luận nói: "Năm thức tánh tán loạn", là nói năm thức của chín giới hữu t́nh kia, chứ không nói năm thức của Phât. Cho nên trong thân Phật có đủ cả mười tám giới, nhưng thuần là vô lậu.

- Hai quả chuyển y này lại "không thể nghĩ bàn", vượt khỏi đường suy tư nghị luận, vi diệu thậm thâm, tự chứng ngộ bên trong, không phải lấy chuyện thế gian ví dụ được.

- Hai quả chuyển y này lại chỉ là "thiện", v́ là tánh bạch tịnh, đồng với pháp giới thanh tịnh, xa ĺa sanh diệt, cùng cực an ổn, v́ tâm phẩm bốn trí diệu dụng vô biên, cùng cực thiện xảo. V́ hai quả này đều có tướng thuận chánh lư, ích quần sanh, trái với pháp bất thiện, nên đều nói là thiện.

Hỏi: - Luận nói trong mười hai xứ, th́ năm căn và hương, vị, xúc, trần thuộc tánh vô kư, mấy xứ kia th́ thông cả ba tánh thiện, ác, vô kư chứ không chỉ là vô kư hết. Nay bốn trí của Phật đều chỉ là thiện, vậy há Phật không có năm căn vô kư và ba trần vô kư hay sao?

Đáp: - Trong đây có ba lối giải thích, đă nói rộng như trước ở trong đoạn nói về giới vô lậu, đây chỉ nêu lối giải thích thứ ba là hết thảy thân và độ của Như Lai đều thuộc về Diệt đế, cho nên chỉ là thiện. V́ tánh Diệt đế, Đạo đế chỉ là tánh thiện nên nói Phật độ không thuộc Khổ đế, Tập đế. Thức của Phật biến ra các tướng hữu lậu, bất thiện, vô kư, đều là nơi chủng tử vô lậu sanh, cho nên đều thuộc về vô lậu thiện.

- Hai quả chuyển y này lại đều là "thường", v́ không có thời kỳ cùng tận, đồng với pháp giới thanh tịnh, không sanh, không diệt, tánh không biến đổi, cho nên gọi là thường. Tâm phẩm bốn trí nưong nơi pháp giới được thường, không có thời kỳ cùng tận, cũng nói là thường, chứ bốn trí không phải là tự tánh thường, v́ tâm phẩm bốn trí từ nhân chủng tử sanh ra, đă sanh ắt phải diệt, là điều chắc chắn (nhất hướng kư) v́ không thấy sắc tâm nào mà không phải vô thường. Nhưng tâm phẩm bốn trí cũng chẳng phải vô thường, v́ do sức bản nguyện và loài hữu t́nh được hóa độ không có thời kỳ cùng tận, tột đời vị lai, không dứt, không hết.

- Hai quả chuyển y này lại đều "an lạc". V́ không bức năo, đồng với pháp giới thanh tịnh, tĩnh lặng các tướng, cho nên gọi là an lạc, và v́ vĩnh viễn xa ĺa cái hại của trí thể (tức pháp chấp, sở tri chướng) cho nên gọi là an lạc. Tự tánh hai quả chuyển y này đều không bức hại, lại có thể làm cho chúng hữu t́nh an lạc.

Hàng Nhị thừa được hai quả chuyển y, chỉ vĩnh viễn dứt hết sự ràng buộc của phiền năo chướng, chứ không có pháp thù thắng, cho nên nơi Nhị thừa chỉ gọi là thân giải thoát.

Đấng Đại Giác Thế Tôn thành tựu pháp tịch mặc vô thượng, cho nên gọi là Đại Mâu ni (tịch mặc). Đấng Mâu ni được hai quả chuyển y, vĩnh viễn xa ĺa hai chướng, nên cũng gọi là "Pháp thân". Pháp là có vô lượng, vô biên đại công đức, như mười lực, bốn vô úy v.v... làm trang nghiêm; thân có nghĩa thân thể, là nơi nương tựa, là tích tụ, đều gọi là thân. Cho nên Pháp thân này gồm cả 5 pháp là chơn như và bốn trí làm bản tánh, chứ không phải chỉ riêng môt nghĩa chơn như pháp giới đơn độc mà gọi là pháp thân; v́ hai quả chuyển y đều thuộc về pháp thân.

Pháp thân như vậy có ba tướng sai khác.

1. Tự tánh thân - Tức là pháp giới chơn tịnh mà Như Lai chứng đắc; nó là chỗ nương b́nh đẳng của thân thọ dụng và thân biến hóa. Ĺa các tướng, rất vắng lặng, bặt hết hư luận, đầy đủ công đức chơn thường, không có biên tế, đó là thật tánh b́nh đẳng của hết thảy pháp. Chính tự tánh đó cũng gọi là pháp thân trong ba thân, v́ nó là chỗ nương (thân) của pháp đại công đúc (pháp).

2. Thọ dụng thân đây có hai:

a. Tự thọ dụng thân - Tức là các đức Như Lai trải ba vô số kiếp tu tập vô lượng tư lương phước đức, trí tuệ, giúp làm phát sanh bốn trí Bồ đề và vô biên công đức chơn thật, thành tựu sắc thân rất viên măn, thanh tịnh, thường hằng biến khắp, tương tục, lặng lẽ, cùng tột đời vị lai, thường thọ dụng pháp lạc rộng lớn.

b. Tha thọ dụng thân - Tức là các đức Như Lai do năng lực của trí B́nh đẳng thị hiện công đức thanh tịnh vi diệu, ở cơi thuần tịnh; v́ hàng Bồ tát ở mười địa mà các đức Như Lai hiện thần thông lớn, lăn xe Chánh pháp, dứt bỏ lưới nghi, khiến họ thọ dụng pháp lạc Đại thừa. Hợp hai thứ thân trên lại gọi chung là thọ dụng thân.

3. Biến hóa thân - Tức là các đức Như lai, do năng lực của trí Thành sự, biến hiện ra vô lượng hóa thân theo loại hữu t́nh, ở cơi vừa tịnh, vừa uế; các đức Như Lai v́ chúng Bồ tát chưa lên mười địa và hàng Nhị thừa cới một loại Dị sanh, xứng theo cơ nghi của họ, mà các đức Như Lai hiện thần thông nói Pháp, khiến họ đều được các việc lợi lạc.

- Lấy năm pháp thu nhiếp ba thân - Có thuyết cho rằng, nhất chơn pháp giới và trí Đại viên cảnh, nhiếp thuộc tự tánh thân, v́ Kinh nói: "Chơn như là Pháp thân". Luận nói: "Chuyển bỏ thức A lại da được thân tự tánh", vậy đồng với trí phẩm Đại viên cảnh do chuyển Tạng thức mà chứng được.

Hai trí B́nh đẳng và Diệu quán sát th́ thuộc thọ dụng thân, v́ nói trí B́nh đẳng ở cơi thuần tịnh; v́ hàng Bồ tát mà các đức Như Lai hiện ra thân Phật, và nói trí Diệu quán sát, tự tại ở giữa hội chúng nói pháp dứt nghi, và nói do chuyển các chuyển thức mà đắc thân thọ dụng.

Cuối cùng là trí Thành sở tác, nhiếp thuộc thân biến hóa, v́ nói trí Thành sự mà các đức Như Lai hiện ra vô lượng các thứ biến hóa khó nghĩ ngh́ ở nơi mười phương quốc độ. Lại trí thù thắng đủ nhiếp ba thân, cho nên ba thân đều có thật trí.

Có thuyết cho rằng nhất chơn pháp giới nhiếp thuộc tự tánh thân, v́ nói tự tánh thân, bản tánh thường và v́ Pháp thân của Phật không sanh diệt, và nói Pháp thân do chứng mà đưọc, chứ không phải do sanh mà được. Lại nói Pháp thân, các đức Phật đều có, biến khắp tất cả pháp, giống như hư không, không tướng không làm, chẳng phải sắc tâm. Nhưng Luận nói: "Chuyển tạng thức được tự tánh thân", có nghĩa là do chuyển diệt thô trọng hai chướng trong thức thứ tám mà hiển lộ Pháp thân.

Lại trong trí thù thắng nhiếp có Pháp thân. Tức nói Pháp thân là chỗ dựa cho bốn trí, là thật tánh của bốn trí. Kỳ thật tự tánh Pháp thân tuy có vô biên công đức chơn thật, nhưng là vô vi, không thể nói đó là sắc hay tâm.

Công đức chơn thật của bốn trí và sắc thân thường hằng biến khắp, nếu do trí Đại viên cảnh  khởi lên, th́ nhiếp vào Tự thọ dụng thân; c̣n Phật thân từ trí B́nh đẳng hiện, th́ nhiếp về Tha  thọ dụng; các thân tướng từ trí. Thành sự thị hiện theo các loại, th́ nhiếp về Biến hóa thân.

Nên nói trí Viên cảnh nhiếp vào Tự thọ dụng thân, v́ chuyển các chuyển thức mà được thân Thọ dụng. Tuy chuyển tạng thức, cũng đắc Tự thọ dụng thân, nhưng v́ đă nói chuyển tạng thức hiển lộ Pháp thân, nên lược bớt mà không nói được Tự thọ dụng thân.

- Lại nói Pháp thân không sanh, không diệt, chỉ do chứng ngộ mà được, không phải sắc tâm; nay trí Viên cảnh trái với Pháp thân, nếu trí Viên cảnh không thuộc Tự thọ dụng thân th́ nhiếp vào thân nào?

Lại Tự thọ dụng thân nhiếp hết thảy công đức hữu vi chơn thật riêng của Phật (không chung với Nhị thừa), cho nên bốn trí phẩm thật có sắc tâm, đều nhiếp về thân thọ dụng.

Lại thân Tha thọ dụng và thân Biến hóa, đều v́ hóa tha mà phương tiện thị hiện, cho nên không thể nói hai thân này lấy thật trí làm thể. Tuy nói Hóa thân cũng là nhiếp vào trí thù thắng, nhưng mà tương tợ như trí hiện ra, hoặc từ trí phát khởi, nên giả nói là trí, chứ thật thể không phải trí. Chỉ nói trí B́nh đẳng và trí Thành sở tác là có thể hiện thân Tha thọ dụng và Hóa thân đủ ba nghiệp, chứ không nói hai thân tứclà hai trí. Cho nên hai trí này cũng là nhiếp vào Tự thọ dụng thân.

Song Biến hóa thân và Tha thọ dụng thân, tuy không phải là Tâm và Tâm sở thực, nhưng mà hóa hiện ra Tâm và Tâm sở. Bởi đấng Vô thượng Giác thần lực khó lường, cho nên có thể hóa hiện ra pháp không h́nh chất (Tâm, Tâm sở). Nếu không như vậy th́ làm sao đức Như Lai hiện ra có tham, có sân (tức hiện ra có Tâm sở, không h́nh chất?) Như Lai đă dứt hết tham, sân lâu rồi vậy.

Lại làm sao hàng Thanh văn và loài Bàng sanh có thể biết tâm Như Lai? V́ thật là tâm của Như Lai th́ Đẳng Giác Bồ tát c̣n không biết được. Do đó, kinh nói: "Như Lai hóa ra vô lượng loại thân đều có tâm". Lại nói trí Thành sở tác của Như Lai hóa làm ba nghiệp; lại nói biến hóa có tâm y tha, nghĩa là nương nơi tâm thật của người không mà hiện ra tướng phần để duyên. Tuy có chỗ khác nói thân Biến hóa không có căn và tâm, đó là căn cứ thân Biến hóa của Nhị thừa và Bàng sanh mà nói, chứ không phải nói thân Biến hóa của Như Lai. Lại sắc căn cùng Tâm và Tâm sở của các người khác biến hóa th́ không có tác dụng của căn và tâm, cho nên không nói.

Như vậy ba thân tuy đều đầy đủ vô biên công đức, nhưng mỗi thân có khác.

Nghĩa là tự tánh thân chỉ có công đức vô vi chơn thật. Thường, Lạc, Ngă, Tịnh, ĺa hết tạp nhiễm, làm chỗ nương cho các thiện. Nhưng nó không có tướng dụng sai khác của sắc tâm.

- Tự thọ dụng thân th́ có đủ vô lượng các thứ công đức chơn thật của sắc tâm thù diệu.

Nếu Tha thọ dụng thân và Biến hóa thân th́ chỉ có đủ vô biên công đức hóa tướng của sắc thân tương tợ, với tác dụng lợi lạc cho kẻ khác.

- Lại tự tánh thân chính là thuộc về tự lợi, tịch tịnh an vui, không có động tác, cũng kém lợi tha, là làm duyên tăng thượng, khiến cho loài hữu t́nh được lợi lạc, lại làm chỗ nương cho Thọ dụng thân và Biến hóa thân, cho nên thuộc cả hai lợi.

Tự thọ dụng thân chỉ là tự lợi; Tha thọ dụng thân và Biến hóa thân th́ thuộc lợi tha, v́ người khác mà thị hiện.

- Lại Tự tánh thân, ở pháp tánh độ, tuy thân và độ này một thể không sai khác, nhưng pháp tánh thuộc nơi Phật th́ gọi là Pháp thân; thuộc nơi pháp th́ gọi là pháp tánh hay pháp tánh độ, đó là pháp tánh theo tướng thân, tướng độ mà có sai khác. Thân Phật và quốc độ không thuộc về sắc pháp. Tuy không thể nói h́nh lượng lớn nhỏ, nhưng tùy theo sự thọ dụng mà biến hóa thân độ, sự tướng h́nh lượng vô biên; ví như hư không cùng khắp hết mọi nơi.

- Tự thọ dụng thân, vẫn nương ở thọ dụng độ. Nghĩa là tịnh thức tương ưng với trí Viên cảnh, do nhân duyên từ xưa v́ tự lợi mà tu hành, thành thục Phật độ thuần tịnh vô lậu, nên khi mới thành Phật cho đến tận đời vị lai tương tục biến thành Phật độ thuần tịnh tṛn khắp không biến tế, đủ các báu trang nghiêm, thân Tự thọ dụng thường nương ở Phật độ đó. Như lượng của Tịnh độ, thân lượng cũng thế, vô hạn thiện căn dẫn sanh các tướng tốt mỗi mỗi vô biên. Công đức trí tuệ đă không phải sắc pháp, không thể nói h́nh lượng nó lớn nhỏ, nhưng nương chơn như đă chứng và tự tánh Pháp thân cũng có thể nói là biến khắp tất cả.

- Thân Tha thọ dụng, cũng nương ở nơi tha thọ dụng độ. Nghĩa là sức đại từ bi B́nh đẳng tánh trí, do nhân duyên v́ lợi tha mà từ xưa tu tập thành thục Phật độ vô lậu thuần tịnh, nên tùy cơ nghi của Bồ tát trú ở mười địa mà biến làm Tịnh độ, hoặc nhỏ, hoặc lớn, hoặc kém, hoặc hơn, hoặc trước sau chuyển đổi; thân Tha thọ dụng nương ở tịnh độ đó. Thân lượng cũng không có hạn lượng nhất định.

- Nếu thân Biến hóa th́ ở biến hóa độ. Nghĩa là sức đại từ bi thành sự trí, do nhân duyên v́ lợi tha mà từ xưa tu hành đă thành thục Phật độ vô lậu thuần tịnh, nên tùy cơ nghi của loài hữu t́nh chưa lên mười địa, hóa làm Phật độ, hoặc tịnh, hoặc uế, hoặc nhỏ, hoặc lớn, trước sau chuyển đổi; thân Phật biến hóa nương đó mà ở. Thân lượng nương ở cũng không có hạn lượng nhất định.

Tự tánh thân, tự tánh độ, đồng là chỗ chứng của hết thảy Như Lai, thể không sai khác. Tự thọ dụng thân, tự thọ dụng độ, tuy tất cả Phật đều biến hiện không giống nhau, nhưng đều là vô biên và không chướng ngại nhau. Tha thọ dụng thân, tha thọ dụng độ và biến hóa thân độ, th́ tùy các loài hữu t́nh biến hóa của các đức Như Lai hóa độ có chung và không chung. Nếu loài hữu t́nh được hóa độ là chung, đồng chỗ, đồng thời th́ các đức Phật đều biến làm thân làm độ, có tướng trạng tương tợ, không chướng ngại nhau, triển chuyển xen nhau làm tăng thượng duyên, khiến các hữu t́nh được hóa độ, tự trên thức họ biến ra Phật hóa thân, Phật hóa độ, mà chúng sanh kia chỉ cho rằng nơi một Phật độ chỉ có một Phật thân hiện thần thông thuyết pháp làm lợi ích (mà không biết đó là do nhiều Phật chung biến ra), túc là đối với hữu t́nh được hóa độ không chung (th́ dù chúng có gọi là thấy mười phương Phật) mà kỳ thật chỉ do một Phật biến hiện. Bởi các hữu t́nh từ vô thỉ lại, chủng tử tánh t́nh của chúng, vốn đă có sự hệ thuộc lẫn nhau, nên hoặc nhiều hữu t́nh mà chỉ một Phật hóa độ, hoặc một hữu t́nh mà nhiều Phật hóa độ. Thế nên chúng sanh được hóa độ có chung và không chung. Nếu không như vậy, thời nhiều Phật trụ lậu tại thế gian, đều làm các việc mệt nhọc, thật là vô ích, v́ một Phật cũng có thể làm lợi ích cho tất cả chúng sanh.

- Ba thân bốn độ này, hoặc tịnh, hoặc uế, nếu là từ trên thức vô lậu của Phật biến hiện, th́ thân độ ấy đều là thiện vô lậu đồng thời với thức năng biến. V́ nó do nhân duyên thuần thiện vô lậu phát sanh nên thuộc về Đạo đế, chứ không phải Khổ, Tập đế. C̣n nếu là tướng uẩn, xứ, giới trên thức chúng sanh dựa theo Phật độ này mà biến ra, th́ không hẳn đều đồng thiện vô lậu v́ tướng uẩn, xứ, giới do nhân duyên ba nghiệp là ư căn, ư thức, pháp trần tạp nhiễm của chúng sanh dẫn sanh ra.

Ba thân bốn độ này hoặc tịnh, hoặc uế, nếu là từ trên thức hữu lậu của chín giới hữu t́nh (mười giới, trừ Phật giới) mà biến hiện, th́ nó là hữu lậu đồng với thức năng biến; v́ nó thuần từ nhân duyên hữu lậu mà phát sanh, nó thuộc Khổ, Tập đế chứ không phải Diệt, Đạo đế.

Thức năng biến tuy chỉ là vô kư, nhưng tướng thiện, ác, vô kư biến ra trên thức không hẳn đều đồng vô kư, v́ nó do nhân duyên của chủng tử bi tánh lẫn lộn biến ra. Tướng uẩn, xứ, giới của Phật biến ra trên thức chúng sanh, có đồng tánh, có khác tánh, chuẩn theo đây mà biết. Nếu không như vậy, thời thân hóa Phật không có năm uẩn, mười hai xứ v.v...

Nhưng Tướng phần, Kiến phần đều nương thức biến hiện, chẳng phải là thực y tha như thức tánh. Nếu không vậy th́ lư Duy thức không thành, v́ cho rằng cảnh trong thức thực có.

Hoặc nói kiến phần, tướng phần trong thức, đều là duyên sanh, đều là y tha khởi, hư và thực giống như thức. Nói chữ "Duy" là chỉ để khiển trừ ngă pháp chấp bên ngoài, chứ không phải để ngăn cảnh tướng phần trong thức. Nếu không như vậy, căn bản trí duyên chơn như, chơn như đó cũng không thật hay sao?

Hỏi: - Nội cảnh tướng và thức, đă nói là không phải hư giả, vậy tại sao chỉ nói là "Duy thức" mà không nói "duy cảnh"?

Đáp: - Thức chỉ có bên trong; cảnh th́ thông luôn cả trong ngoài đều có. V́ sợ xen lạm với tướng biến kế chấp bên ngoài cho nên nói là "Duy thức".

Lại hoặc v́ kẻ ngu mê chấp nơi cảnh mà khởi nghiệp phiền năo, chịu sanh tử trầm luân, không biết tự quán tâm, siêng cầu ra khỏi, v́ thương hạng người đó mà các đức Như Lai nói Duy thức, khiến họ tự quán tâm ḿnh, giải thoát sanh tử, chứ không phải bảo cảnh bên trong thức cũng hoàn toàn không thật có như cảnh bên ngoài.

Hoặc Tướng phần, Kiến phần đều lấy thức làm thể tánh, do sức huân tập mà tương tợ sanh ra nhiều phần.

Chơn như cũng là thật tánh của thức, cho nên trừ ngoài thức tánh, không có pháp ǵ khác.

Trong Luận đây nói "Thức" là cũng bao gồm Tâm sở, v́ Tâm và Tâm sở nhất định tương ưng nhau.

Luận này có ba phần (là tôn, nhân, dụ. Hoặc lược tiêu thức tướng, quảng minh thức tướng, và tu hành vị. Hoặc cảnh - hai mươi lăm tụng đầu; Hạnh - bốn tụng tiếp; Quả - một tụng cuối. Hoặc thức tướng, thức tánh, thức vị), để thành lập Duy thức, cho nên nói là "Thành Duy Thức Luận". Cũng nói Luận này tên là "Tịnh Duy thức", v́ hiển bày lư Duy thức hết sức trong sáng.

Bốn luận này gọi là Duy thức ba mươi. 30 bài tụng, hiển bày lư Duy thức được viên măn, không thêm, không bớt.

Đă nương Thánh giáo và chánh lư,

Phân biệt nghĩa tánh tướng Duy thức,

Được bao công đức thí quần sanh,

Đồng nguyệnmau lên Vô Thượng Giác.

 (Dịch xong chiều 19/6/1995
    tức 22/5 Ất Hợi - Thiện Siêu)

(Hết cuốn X của bản Hán)

CHÚ THÍCH

(1). Các vị Luận sư có thông lệ mỗi khi tạo Luận, mở đầu đều có lời quy kính Tam Bảo.

Đây cũng vậy, khi các Luận sư Thắng Thân, Hỏa Biện v.v... định tạo luận giải thích 30 bài tụng Duy thức của Bồ tát Thế Thân, cũng mở đầu bằng bài tụng bốn câu này để tỏ ḷng quy kính Tam Bảo.

Duy thức tánh tức là tánh Viên thành thật, là tánh Chơn như. Như trong bài tụng này có câu tụng: "Đây thắng nghĩa các pháp, cũng chính là chơn như, v́ thường như tánh nó, tức thực tánh Duy thức".

Duy thức tánh là chơn như thật tánh của các pháp, là chỗ nương của mê ngộ, là chỗ chứng ngộ của bậc Thánh.

Kính lễ Duy thức tánh là kính lễ Pháp bảo. Chứng Duy thức tánh trọn vẹn là đă chuyển tám thức thành bốn trí, chứng đắc chuyển y; chuyển bỏ phần tạp nhiễm y nơi bản thức và chuyển đắc phần thanh tịnh y nơi bản thức, giải thoát khỏi phân đoạn sanh tử và biến dịch sanh tử. Đă chứng trọn vẹn Duy thức tánh, đó là đức Phật, Phật bảo. C̣n mới chuyển được thức thứ sáu thành Diệu quan sát trí, chuyển thức thứ bảy thành B́nh đẳng tánh trí, mới dứt hết mười trọng chướng, chứng mười chơn như, chỉ mới chứng từng phần Duy thức tánh, đó là các vị Bồ tát Thánh Tăng, Tăng bảo.

(2) Đoạn này nêu ba lư do tạo luận:

a. Chỉ cho chúng sanh thấy tánh chấp ngă, chấp pháp là một lối chấp sai lầm điên đảo, chính v́ chấp ngă mà phát sanh tâm tham, sân, si thành phiền năo chướng, làm chướng ngại không chứng Niết bàn giải thoát. Chính v́ chấp pháp thành sở tri chướng, làm chướng ngại không thấy được chơn lư, không chứng được đại Bồ đề. Nếu rơ lư ngă không, pháp không th́ sẽ phá bỏ chấp ngă, chấp pháp, dứt hết chướng phiền năo và sở tri, chứng được Niết bàn và Bồ đề giải thoát an lạc (đây là ư của Luận sư An Huệ).

b. V́ không hiểu đúng lư Duy thức nên mới chấp ngă, chấp pháp. Nếu hiểu lư Duy thức, th́ bệnh chấp ngă, chấp pháp tiêu tan và không c̣n bị ràng buộc trong ṿng sanh tử (đây là ư của Hỏa Biện).

c. Trừ bốn lối chấp sai lầm chỉ v́ không hiểu đúng lư Duy thức. Đó là hoặc như phái Hữu bộ dựa theo kinh A hàm Phật nói về mười hai xứ v.v... rồi chấp mười hai xứ trong đó gồm cả tâm, và cảnh đều thật có như nhau. Đâu biết rằng Phật nói mười hai xứ là cốt để chỉ bày lư vô ngă, chứ không phải nói mười hai xứ là thật có. Nếu rơ lư Duy thức th́ sẽ rơ sáu trần đều là tướng phần do thức biến; năm căn chỉ là công năng chủng tử của sắc nương nơi bản thức mà có. Hoặc như phái Thanh Biện dựa theo Đại thừa giáo nói hết thảy đều không tánh, rồi bác luôn hết thảy sắc tâm đều hoàn toàn không cả. Chơn đế không mà tục đế cũng không. Nếu rơ lư Duy thức là Y tha khởi tánh, duyên khởi kiến phần, tướng phần là có chứ không phải như ngă chấp pháp chấp biến kế hư vọng trống rỗng. Hoặc như một hạng quyền thừa Bồ tát dựa theo Đại thừa giáo nói: "Tâm sanh hết thảy pháp" rồi chấp tâm chỉ có một mà tác dụng ra nhiều thứ khác nhau; đâu biết rằng Đại thừa giáo nói nhất tâm, chơn như, Như Lai tạng là để chỉ rơ hết thảy pháp lư thể không hai, chứ không phải nói tám thức không có chủng tử, hành tướng, sở duyên riêng. Đứng về Chơn đế th́ thể tánh không hai, mà đứng về Tục đế th́ tướng dụng có khác. Nên đối với các thức, kinh Lăng già nói: "Tâm, Ư và Ư thức, tục nên tướng có sai biệt, chơn nên tướng không sai biệt, v́ tướng sở tướng đều không". Ở trong Chơn đế không có tướng năng, tướng sở nên không thể nói một nói khác, chấp một chấp khác đều sai, nhưng ở trong tục đế duyên sanh mà chấp không một không khác cũng không đúng. Nếu rơ lư Duy thức th́ lối chấp này không c̣n. Hoặc như phái Kinh Bộ dựa lời trong kinh nói: "Nhiễm tịnh do tâm", rồi chấp Tâm sở chỉ là thuộc tánh của thức chứ không có thể dụng riêng. Đâu biết kinh nói nhiễm tịnh do tâm, mà không nói Tâm sở. V́ tâm là chủ, là ưu thắng; c̣n tâm sở là tôi tớ, là liệt hạ. Nếu rơ lư Duy thức th́ sẽ rơ Tâm và Tâm sở đều có vị trí riêng (đây là ư của Hộ Pháp).

(3). Đoạn này là đoạn chủ yếu nhất, tóm thâu hết nghĩa lư của bộ luận, những đoạn tiếp theo là những giải thích rộng cho đoạn này.

Mở đầu nhà viết luận tự đặt câu hỏi để tiện giải đáp làm sáng tỏ đạo lư Duy thức.

Hỏi: Nếu chỉ có thứ, ngoài ra không có chi hết, thế tại sao người thế gian và ngay cả trong Phật giáo đều nói có ngă có pháp?

Sự sự vật vật vô lượng vô biên, nhưng chỉ một chữ pháp cũng thâu trọn hết. Pháp là "Nhậm tŕ tự tánh, quỷ sanh vật giải". Bất cứ những ǵ hữu h́nh vô h́nh, hữu vi vô vi, hữu t́nh, vô t́nh, vật chất hay ư niệm, thời gian không gian, chơn lư hay quy luật, bản thể, hiện tượng, giả hay thật v.v... hễ tự giữ được tính riêng, làm đối tượng cho sự nhận thức biết nó là nó, đều gọi là pháp. Nhưng ở đây chữ "Pháp" phân chia làm hai loại, một là loại hữu t́nh, hai là loại vô t́nh. Nơi hữu t́nh thấy có một cá tánh bản ngă, đó là ngă chấp; nơi vô t́nh thấy có cá tánh thật thể, đó là pháp chấp, vậy nói ngă và pháp là gom hết mọi sự vật.

Theo lư Duy thức, th́ ngoài thức không có tồn tại, hiện hữu, thế sao người thế gian và Phật giáo vẫn nói ngă và pháp. Vậy ngă và pháp đó không phải hiện hữu ngoài thức sao?

Tụng đáp:

 Do giả nói ngă, pháp v.v...

Tụng đáp đây là lời ngài Thế Thân. Mở đầu của ba mươi bài tụng, mà đạo lư chủ yếu của Duy thức nằm cả trong sáu câu tụng mở đầu này.

Luận chủ không phủ nhận việc người thế gian và Phật giáo nói ngă, nói pháp, nhưng ngă và pháp đó chỉ là giả nói mà thôi. Giả nói là chỉ có trên danh ngôn chứ không có trên thực tế. Nếu dựa theo danh ngôn nói ngă pháp để đi t́m cho ra thực thể của ngă pháp ở đâu, th́ không khác ǵ nghe nói lông rùa rồi đi t́m lông rùa th́ thật là sai lầm quá lẽ. Không có thật mà vẫn nói về nó, nên gọi là giả nói. Giả nói ngă pháp đồng nghĩa với giả nói muôn sự muôn vật.

Ngă và pháp của thế gian nói hoàn toàn do vọng tưởng bịa đặt ta chứ không dựa vào một thật thể nào cả; đó là vô thể tùy t́nh giả.

Ngă và pháp của Phật giáo nói là dựa nơi sắc tâm y tha khởi mà gượng đặt ra. Các bậc Thánh đă chứng ngộ các pháp đều là y tha khởi, là duyên sanh. Như năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới v.v... ở đó không có ǵ chuẩn đích là ngă, là ngă pháp cả, nhưng Phật gượng nói là ngă, là pháp để tiện việc hóa độ chúng sanh. Cho nên cũng gọi là giả nói; đó là hữu thể thi thiết giả.

Các tướng ngă theo Phật giáo nói, như dứt hết kiến hoặc gọi là quả Dự lưu; dứt hết sáu phẩm tư hoặc cơi Dục, gọi là quả Nhất lai v.v... cho đến dứt hết hai chướng phiền năo và sở tri, gọi là quả A la hán, Bích chi, Như lai v.v... Các tướng pháp của Phật giáo nói, như năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới, bốn đế, mười hai nhân duyên, sáu độ v.v... các tướng ngă pháp ấy đều nương vào sự chuyển biến của thức mà giả thi thiết.

Thức là tính liễu biệt nhận thức, cả tám thức Tâm vương và các Tâm sở đều có tánh liễu biệt nhận thức. Liễu biệt như thế nào? Bản thể của thức là liễu biệt, từ bản thể ấy khi chuyển biến th́ hiện ra hai phần, một phần có khả năng phân biệt nhận biết, gọi là Kiến phần, một phần kia không có khả năng phân biệt, chỉ làm đối tượng cho kiến phần gọi là Tướng phần. Nói cách khác là phần biết và phần bị biết. Hai phần này luôn luôn cùng sanh cùng diệt, có phần này th́ có phần kia, phần này không th́ phần kia không. Tự hai phần đó không có chi là ngă là pháp, nhưng hàng phàm phu mê muội cứ dựa vào phần biết chấp cho là ngă, dựa vào phần bị biết chấp cho là pháp. Đây là một lối thi thiết giả tạo, chứ nếu ĺa ngoài hai phân biết và bị biết kia th́ chẳng có chi gọi là ngă, pháp. Như vậy, ngă, ngă pháp dựa vào hai phần kiến tướng của nội thức mà giả lập, nên ngă pháp đó chỉ có theo nghĩa thế tục, tức là giả dối, bị Thánh đạo đối trị. C̣n nội thức là duyên sanh vừa có theo nghĩa thế tục, lại vừa có theo nghĩa thắng nghiă. như Phật dạy dạy tánh duyên khởi của các pháp là thường trú, không phải có Phật ra đời th́ có, không có Phật ra đời th́ không.

(4). Đoạn này nêu các lối chấp ngă để phá. Trong đó có điểm cần lưu ư: Ngă thể được chấp nó có là cảnh sở duyên cho ngă kiến không? Nếu nó không là cảnh sở duyên cho ngă kiến th́ nó chỉ là một thứ ǵ vô tung vô tích, làm sao biết đó là thật ngă? Nếu nó là có thật, có tung tích, làm sở duyên cho cho ngă kiến, vậy th́ người nào thấy có ngă là người thấy đúng, thấy đúng th́ được giải thoát Niết bàn; c̣n người nào thấy vô ngă là thấy sai, thấy sai là bị trầm luân sanh tử, được không? Đâu có thể như vậy!

Lại ngă kiến không duyên được thật ngă, v́ nó có sở duyên riêng, như tâm duyên các pháp khác. Tâm duyên các pháp khác như duyên sắc, duyên tiếng v.v... cũng chỉ duyên cái tướng phần được biến ra trên thức chứ không duyên được thứ sắc, thứ tiếng nào ngoài thức, vậy ngă kiến có duyên ngă th́ cũng chỉ duyên tướng giả ngă biến ra trên thức, chứ không phải duyên cái thật ngă nào ngoài thức được. Lại cảnh sở duyên của ngă kiến nhất định không phải là thật ngă; v́ nếu cảnh sở duyên của ngă kiến là thật ngă, th́ thật ngă ấy hóa thành cảnh sở duyên. Thật ngă đă hóa thành cảnh sở duyên, th́ nó trở thành đối tượng vô tri, vô giác như các pháp khác đều là sở duyên của thức, chứ không phải là thật ngă nữa; v́ thật ngă th́ phải là chủ tể, chủ thể, chứ không phải khách thể vô tri.

(5). Đoạn này phân biệt tướng chấp ngă. Tóm tắt có hai thứ ngă chấp:

a. Ngă chấp câu sanh là thứ ngă chấp đă có chủng tử mầm mống sẵn trong tạng thức, cùng với thân sanh ra một lần. Nghĩa là có thân là có nó, không đợi phải nghe tà giáo, tác ư phân biệt mới có, nên gọi câu sanh.

Thứ câu sanh này có hai:

- Một là thường tương tục, do thức thứ bảy duyên kiến phần thức thứ tám, chấp cho đó là ngă. Đây là nguồn gốc mê lầm, là căn bản vô minh, rất sâu kín bền chắc, tương tục thường hằng, phải thường quán lư sanh không vô ngă thật sâu mới dứt được nó mà chứng quả A la hán. V́ thức Mạt na thứ bảy và Tạng thức thứ tám là hai thức không gián đoạn cho dù khi thức khi ngủ, khi chết khi sống, nó vẫn liên tục có mặt, nếu chưa ngộ lư vô ngă một cách thấu đáo.

- Hai là có gián đoạn, do ư thức thứ sáu duyên năm uẩn bên ngoài mà chấp cho là ngă, rồi huân tập thành chủng tử trong Tạng thức, khi có thân th́ có nó. Nhưng năm uẩn là vô thường, thức thứ sáu là thức biến chuyển, nên tướng ngă do nó chấp cũng có gián đoạn. Tuy vậy, nó đă bám rễ từ lâu, nên cũng phải ngộ lư vô ngă thấu đáo mới dứt được.

b. Ngă chấp phân biệt, đây là thứ chấp ngă của ư thức, nó không cùng sanh với thân một lần, mà phải đợi có nghe tà giáo, có tác ư phân biệt mới chấp. Nếu không có ngoại duyên tà giáo, không tác ư phân biệt th́ không chấp. Thứ này cũng có hai:

- Một là nghe tà giáo nói năm uẩn hợp lại là ngă, hay bốn đại hợp lại là ngă, rồi chấp ngă theo.

- Hai là nghe tà giáo nói có một tiểu ngă, môt linh hồn tồn tại ngoài xác thân, rồi chấp ngă theo.

Cả hai thứ ngă chấp phân biệt này thô thiển dễ đoạn trừ; hễ biết quán lư sanh không (ngă không, nhân vô ngă) lúc được thấy đạo, th́ nó bị dứt ngay.

Thức thứ bảy duyên hiện hành kiến phần thức thứ tám mà chấp ngă là một sai lầm, v́ kiến phần là kiến phần chứ kiến phần không phải ngă. Thức thứ sáu duyên năm uẩn mà chấp ngă cũng là một sai lầm, v́ năm uẩn là vô thường, năm uẩn là không thật, như Kinh A hàm dạy: " Quán sắc như tụ mạc, thọ như thủy thượng bào, tưởng như dương thời diệm, chư hành như ba tiêu, chư thức pháp như huyễn" (quán sắc uẩn như bọt nước, thọ uẩn như bong bóng nước, tưởng uẩn như sóng nắng, hành uẩn như cây chuối, {lột tới cùng không có lơi}, quán thức uẩn như tṛ huyễn).

(6). Đoạn này giải đáp ba nạn vấn. Lâu nay tin tưởng ngă là chủ tể, vĩnh hằng, là khả năng cơ bản vủa mọi sự nhớ, biết, tụng, tập v.v... nay nếu nói chỉ có thức không có ngă, th́ những việc nhớ, biết, tụng, tập v.v... làm sao có được. Tóm tắt trong ba nghi vấn:- Câu hỏi thứ nhất liên quan đến ba đời:

* Nếu không có ngă th́ làm sao nhớ lại việc quá khứ, biết việc hiện tại, tụng tập việc tương lai? Vậy phải có một thật ngă thường nhất xuyên suốt ba đời mới có được các việc ấy?

Đáp: - Không đúng. Nếu thật có một ngă thể thường nhất trước sau không thay đổi, không thêm bớt, lúc nào cũng giống như lúc nào, th́ làm sao có các việc nhớ, biết, tụng tập; v́ nhớ có khi không nhớ, biết có khi không biết, tụng tập có khi không tụng tập. Hoặc lúc nào cũng nhớ, biết, tụng, tập, hoặc không lúc nào có nhớ, biết, tụng, tập. Nếu cho rằng ngă thể thường nhất, chứ ngă dụng vô thường biến dịch, nên có được các việc nhớ, biết, tụng, tập th́ cũng không đúng; v́ dụng không ĺa thể, thể thế nào th́ dụng thế ấy, chứ sao dụng lại khác thể được?

- Câu hỏi thứ hai liên quan đến việc tạo nghiệp thọ quả báo:

* Nếu không có ngă th́ ai tạo nghiệp, ai chịu quả báo?

Đáp: - Nếu chấp có thật ngă thường nhất không biến đổi như hư không, th́ làm sao tạo nghiệp, chịu quả báo?

- Câu hỏi thứ ba liên quan đến việc luân hồi và Niết bàn.

* Nếu không có thật ngă th́ ai luân hồi, cái ǵ Niết bàn?

Đáp: - Nếu chấp có một thật ngă thường nhất không sanh diệt như hư không th́ cũng không có việc sanh tử luân hồi. Và đă không luân hồi th́ sẽ không có Niết bàn; v́ có luân hồi để chấm dứt luân hồi mà nhập Niết bàn, nếu không luân hồi th́ chấm dứt cái chi để nhập Niết bàn.

Nhưng các loài hữu t́nh mỗi mỗi đều có thức tâm, tuy vô thường nhưng trước sau một loại tương tục, có khả năng huân tập các việc nhớ, biết, tụng, tập, và tạo nghiệp mà có thọ quả sanh tử, Niết bàn. Như kinh Đại Niết bàn dạy: "Sư Tử Hống Bồ tát bạch Phật: "Bạch Thế Tôn, chúng sanh năm uẩn là không, không có ǵ hiện hữu, thế th́ ai lănh thọ giáo pháp, tu tập đạo hạnh?"

- Phật bảo: "Thiện nam tử, hết thảy chúng sanh đều có niệm tâm, tuệ tâm, phát tâm, tinh tấn tâm, định tâm v.v... những pháp như vậy, tuy niệm niệm sanh diệt, nhưng trước sau tương tợ nhau, tương tục không dứt, cho nên có việc thọ giáo tu đạo. Ví như ngọn đèn, tuy niệm niệm sanh diệt, nhưng có ánh sáng phá trừ bóng tối. Lại ví như chúng sanh ăn, thức ăn thay đổi từng sát na mà cũng làm cho kẻ đói được no. Cũng ví như thuốc trị bệnh, tuy nó niệm niệm thay đổi cũng trị lành được bệnh. Hoặc như ánh sáng mặt trời mặt trăng, tuy niệm niệm sanh diệt cũng làm cho cây cỏ tăng trưởng. Tâm chúng sanh cũng vậy, tuy niệm niệm sanh diệt nhưng không dứt, nên có thể làm tăng trưởng các việc nhớ, biết, tụng, tập v.v...

(7). Đoạn này nêu các lối chấp của ngoại đạo để phá. Trước hết phá phái Số luận chấp 25 đế. Số luận là một phái triết học cổ Ấn Độ ra đời trước thời Phật. Số hay Tăng khư là dịch âm chữ Phạn "Samkya", do Kapila (Ca Tỳ la) xướng xuất. Nguyên do ông tu Thiền định có khả năng biết được việc tám vạn kiếp về trước, trước đó mù mịt không biết được. Ông cho đó là Minh sơ (cũng gọi là Minh đế, Minh tánh, Tự tánh thắng tánh). Từ Minh sơ sanh giác đại (hiểu biết), giác đại sanh ngă tâm (ngă mạn), ngă tâm sanh ngũ duy (ngũ duy là sắc, thanh, hương, vị, xúc), ngũ duy sanh ngũ đại (địa, thủ, hỏa, phong, không), ngũ đại sanh ngũ tri căn (nhăn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân), ngũ tri căn sanh ngũ tác nghiệp (miệng, tay, chân, đường đại, đường tiểu), ngũ tác nghiệp sanh tâm b́nh đẳng (ư căn), cuối cùng là thân ngă; cộng là 25 đế (phạm trú), căn nguyên của muôn pháp.

Vốn tánh của thần ngă là "Tư" nó suy nghĩ tới cảnh tốt đẹp để thọ dụng; ba đức của trong minh tánh là Tát đoả, Lạt xà, Đáp ma liền hợp lại tạo thành 23 đế 25 trừ minh tánh và thần ngă, c̣n 23). Khi thần ngă thọ dụng cảnh đó th́ bị ràng buộc mà không giải thoát được. Nếu thần ngă chấm dứt "Tư", nghĩa là không suy nghĩ tạo dựng cảnh nữa th́ được giải thoát.

Theo Số luận, minh tánh là thường, ba đức là chuyển biến để thành 23 đế kia, 23 đế kia do ba đức hợp thành, nó là vô thường. Dù thường hay vô thường, cũng đều là pháp thật có cả.

Luận chủ dựa theo lối chấp của họ như vậy để phá bác, để chỉ cho họ biết 25 đế đó là không thật, chỉ do vọng t́nh chấp bậy mà thôi.

(8). Đọan này phá các lối chấp thật của phái Thắng luận.

- Thắng luận hay Vệ thế sử ca, là dịch từ chữ Phạn (Vaisesika), ra đời khoảng thế kỷ thứ nhứt, thứ hai Tây lịch, do Ưu lâu khư (Uluka, Kanada) xướng xuất. Học thuyết này được chép thành kinh Vệ thế sử ca (Vaisesika) theo học thuyết này vạn vật không phải là khái niệm trừu tượng, mà là có thật thể; được quy kết trong sáu cú nghĩa (sáu phạm trú) căn bản, là Thật, Đức, Nghiệp, Đại hữu, Đồng dị, Ḥa hợp.

a. Thật là thật thể của các pháp, làm chỗ dựa cho Đức và Nghiệp (Thể).

b. Đức là đức tướng (tướng).

c. Nghiệp là tác dụng (Dụng).

d. Đại hữu tánh là tánh có duy nhất.

e. Đồng dị tánh là tánh đồng và khác giữa sự vật, đất đối với đất là đồng, đất đối với nước là dị, là khác.

g. Ḥa hiệp tánh là tánh ḥa hợp làm sự vật trụ lại.

Thật cú nghĩa gồm có 9 thứ là đất, nước, lửa, gió, thời gian, phương hướng, ngă, ư.

Đức cú nghĩa có 24 thứ là sắc, hương, vị, xúc, số, lượng, tánh nương, tánh hợp, tánh ĺa, tánh kia, tánh đây, giác, vui, khổ, muốn, sân, cần dơng, trọng tánh, dịch tánh, nhuận tánh, hành, pháp, phi pháp, âm thanh.

Nghiệp cú nghĩa có 5 là lấy, bỏ, co, duỗi, hành động.

- Đại hữu cú là duy nhất.

- Đồng dị tánh cú nghĩa chỉ một.

- Ḥa hiệp tánh cú nghĩa chỉ một.

Tất cả đều là đồ thọ dụng của ngă. Khi chưa giải thoát th́ bị ràng buộc theo sáu cú nghĩa đó, khi giải thoát rồi th́ không cần nó nữa.

Theo Thắng luận, sáu cú nghĩa là nguồn gốc, là quy luật của mọi sự sanh thành biến hóa.

Luận chủ: Trước hết nêu tính cách thường, vô thường, có chất ngại, không chất ngại trong các cú nghĩa để phá chung. Tiếp theo phá thật cú nghĩa, đức nghiệp cú nghĩa, đại hữu tánh, đồng dị tánh, ḥa hiệp tánh, chúng đều là hư dối, do vọng t́nh phân biệt biến ra trên tự thức để duyên, chứ hoàn toàn không phải hiện hữu ngoài thức, cho nên chúng không phải do hiện lượng nhận biết, mà chỉ do phi lượng nhận thức sai khác mà bịa đặt ra.

(9). Đoạn này c̣n tiếp phá về phá chấp. Có ngựi chấp Đại Tự Tại thiên là thật có và là nguồn gốc sanh ra vạn vật. Hoặc chấp vị Phạm Thiên, thời gian, phương hướng, bản tế, tự nhiên, hư không, ngă v.v... là thật có và là nguồn gố sanh ra vạn vật. Hoặc phái Thanh Minh luận chấp âm thanh là thật có thường hằng, làm định lượng để diễn tả mọi sự. Hoặc chấp cực vi (như thuyết Nguyên tử ngày nay) là vật thế tối hậu thường c̣n bất biến, làm cơ bản cho vạn vật.

Tất cả các lối chấp pháp trên đều bị Luận chủ nêu ra để phá và chỉ cho thấy các lối chấp ấy đều phi lư không đứng vững.

(10). Đoạn này tiếp phá về pháp chấp của ngoại đạo. Tất cả lối pháp chấp trên chung lại ở trong bốn lối chấp: Một là chấp các pháp bị tạo sanh với tánh tạo sanh (Minh đế) là một như Số luận. Hai là chấp các pháp bị tạo sanh với tánh tạo sanh (Đại hữu tánh) khác, như Thắng luận. Ba là chấp các pháp bị tạo sanh với tánh tạo sanh cũng một cũng khác như Vô tàm ngoại đạo. Bốn là chấp các pháp bị tạo sanh với tánh tạo sanh chẳng phải một chẳng phải khác như Tà mạng ngoại đạo.

Luận chủ chỉ rơ bốn lối chấp này đều phi lư. Những người có trí chớ nhận lầm theo bốn lối chấp chạy lỗi quanh co đó. Khi c̣n mang nặng vọng t́nh chấp trước cho mọi pháp đều là thật có thường nhất, th́ nói một cách khác, nói cũng một cũng khác, nói chẳng một chẳng khác, nói phủ định, nói khẳng định, đều không đúng cả, chứ không phải như Phật pháp nói. Phật pháp mỗi khi nói về chơn đế thường nói là chẳng phải tức (chẳng phải một) chẳng phải ĺa (chẳng phải khác) các pháp hiện tượng và pháp tánh chẳng một chẳng khác, đều là những lời nói Già (phủ định). Bởi đă ngộ được vạn pháp đều là duyên sanh vô tự tánh, như huyễn, không thật có, th́ dù có nói nó một, khác, đoạn, thường, có, không, đều không đúng cả (sở đắc). Đă vô sở đắc mà nói khẳng định th́ không đúng, mà nói phủ định cũng không đúng. Nhưng nói khẳng định dễ bị hiểu lầm, nói phủ định để chỉ thấy các pháp duyên sanh vô tánh, để phá bỏ vọng chấp th́ tốt hơn, nên Phật pháp thường dùng lối nói phủ định (già thuyên) bằng các chữ là phi, bất, vô, chứ nếu tâm đă giác ngộ, không chấp trước th́ nói thị nói phi đều không có lỗi. Như nói các pháp với tánh là một, như sóng tức là nước, hoặc nói các pháp với pháp tánh là khác, như sóng không phải nước, hoặc nói các pháp tánh cũng một cũng khác, chẳng phải một chẳng phải khác, đều theo nghĩa tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên, không phải là lối nói hoài nghi, hay quanh co chạy lỗi.

(11). Đoạn này phá pháp chấp của các bộ phái Tiểu thừa. Đại thừa Duy thức nói hết thảy pháp gồm 100 pháp. Bộ phái Tiểu thừa nói có 75 pháp gồm: Tâm pháp có 1, Tâm sở 46, Sắc 11, Bất tương ưng hành 14, và Vô vi pháp có 3, cộng thành 75. Trừ Tâm và Tâm sở, c̣n Sắc pháp, Bất tương ưng hành pháp, Vô vi pháp, họ đều chấp cho là thật có ngoài thức. Đây luận chủ lần lượt phá ba lối chấp đó.

Trước hết pháp chấp sắc pháp là thật có.

Sắc có ba loại là sắc có đối đăi chướng ngại như năm căn, năm trần. Sắc không đối đăi chướng ngại tức pháp trần, và sắc hữu biểu vô biểu.

Trước phá sắc có đối đăi chướng ngại là thật có, v́ các cực vi ḥa hợp tạo thành nó không thật có. V́ sao các cực vi không thật có? V́ cực vi nếu có thể chất chướng ngại th́ nó như b́nh, bàn là giả chứ không phải thật; c̣n nếu cực vi không có thể chất chướng ngại th́ cực vi như Tâm và Tâm sở làm sao hợp lại thành b́nh bàn. Lại cực vi nếu có vị trí trong không gian, có phương hướng Đông Tây Nam Bắc, như cây trụ, khi ánh sáng chiếu phía Đông th́ phía Tây có bóng hiện ra, như vậy th́ cực vi c̣n có thể chia chẻ ra được. Nếu c̣n chia chẻ ra được th́ không c̣n là cực vi (vật rất nhỏ). Như vậy cực vi đâu có thật?

Hỏi: - Nếu không có sắc th́ lấy ǵ làm căn cho năm thức nương, làm cảnh cho năm thức duyên?

Đáp: - Căn cho thức nương, cảnh cho thức duyên chỉ là công năng tướng phần do sức nhân duyên huân tập mà khi thức sanh th́ biến hiện ra để nương và để duyên, chứ không phải do từ sắc bên ngoài. Không phải do hiện lượng biết được căn tức là công năng, mà chỉ do công năng dẫn ra thức mà so sánh biết đó là căn. Và cũng chỉ tướng phần biến hiện trên thức mới là sở duyên duyên của năm thức, v́ tướng phần có đủ hai nghĩa là có khả năng dẫn sanh ra thức, và làm đối tượng cho thức duyên; c̣n các thứ khác như cực vi, cũng chỉ có thể dẫn phát sanh ra thức, chứ thức không duyên đến cực vi, tướng cực vi trên năm thức không hiện ra, nghĩa là cực vi đối với năm thức chỉ có một nghĩa là khả năng dẫn phát sanh ra, cũng như nhân duyên hay đẳng vô gián duyên, cũng chỉ có khả năng dẫn phát ra thức, không thể gọi là sở duyên duyên của năm thức được. Cho dù cực vi ḥa hợp lại, tụ tập lại thành ra b́nh bàn, th́ chỉ có một nghĩa là làm đối tượng cho năm thức duyên như mặt trăng thứ hai, nên cũng không phải là sở duyên duyên của năm thức.

Tới lui suy xét như thế, thấy rơ các sắc có đối ngại cho đến cực vi tạo ra các sắc đó đều không thật có, chỉ do thức biến hiện.

Sắc có đối ngại của năm thức không thật như vậy, th́ sắc không đối ngại là pháp trần của ư thức duyên, cũng không thật như vậy.

(12). Đoạn này tiếp phá Tiểu thừa chấp "Biểu, Vô biểu sắc".

Biểu sắc là sự biểu hiện bên ngoài của đông tác nơi thân gọi là thân biểu nghiệp, nơi miệng gọi là ngữ biểu nghiệp, hay gọi là biểu sắc. C̣n những động tác như một năng lực ngấm ngầm bên trong không biểu hiện ra bên ngoài nơi thân gọi là thân Vô biểu nghiệp, hay gọi là Vô biểu sắc. Theo Tiểu thừa chấp sắc biểu, Vô biểu ấy là thật có mà không biết rằng sắc lấy ǵ làm thân biểu? Nếu lấy b́nh làm thân biểu th́ b́nh có thể phân tích tức không thật. Nếu lấy động tác làm thân biểu, th́ động vừa sanh liền diệt, làm sao thành động. Vả lại sắc có loại là hiển sắc như xanh vàng đỏ trắng, h́nh sắc như dài ngắn vuông tṛn, loại không phải hiển không phải h́nh như thanh, hương, vị, xúc. Vậy nói thân biểu nghiệp là sắc th́ nó thuộc sắc nào trong ba loại đó. V́ vậy nên biết nói thân biểu nghiệp là sắc thật có, là không đúng. Chấp có sắc ngữ biểu nghiệp, cũng sai như thế.

Biểu sắc như vậy th́ Vô biểu sắc cũng thế, không có ǵ để gọi là sắc Vô biểu. Chỉ dựa vào "Tư tâm sở" có khả năng ngăn chận thân làm ác, miệng nói ác, mà giả gọi là Vô biểu sắc, chứ không thật có sắc ǵ cả.

Trong kinh đức Thế Tôn nói có ba nghiệp là chỉ Tư tâm sở (Tâm sở suy nghĩ tạo tác) trong ba giai đoạn. Đầu tiên thẩm xét suy nghĩ gọi là thẩm lự tư; tiếp đó quyết định nên hay không nên về điều đă thẩm xét suy nghĩ, gọi là quyết định tư. Hai tư này ở nơi ư gọi là ư nghiệp, khi nó phát động ra nơi thân gọi là thân nghiệp, phát động ra nơi miệng gọi là ngữ nghiệp, chung hai sự phát động đó gọi là phát động tư. Chứ Phật không nói ba nghiệp đó có sắc ǵ cả.

(13). Đoạn này bác Tiểu thừa chấp "Bất tương ưng hành pháp" là thật có. Theo tiểu thừa; nhờ có pháp Bất ưng hành hợp với pháp khác mà pháp khác mới thành đắc; phi đắc; nhờ có tướng sanh hợp lại thành pháp sanh; nhờ có tướng trụ hợp lại mới thành pháp trụ v.v...

Bất tương ưng hành uẩn. Hành uẩn gồm hai loại, một loại tương ưng với tâm, một loại không tương ưng với tâm. Loại tương ưng với tâm là 49 Tâm sở, tức trong 51 Tâm sở, trừ Thọ và Tưởng hai uẩn, c̣n lại 49 Tâm sở thuộc hành uẩn. Loại không tương ưng với tâm gồm có 14  thứ (Đại thừa có 24 Bất tương ưng hành) là đắc, phi đắc, chúng đồng phận, vô tưởng quả, vô tưởng định, diệt tận định, mạng căn, sanh, trụ, dị, diệt, danh, cú, văn thân. Mười bốn thứ này v́ không có khả năng hiểu biết nên không tương ưng với Tâm và Tâm sở; v́ không chất ngại nên không tương ưng với sắc; v́ có sanh diệt nên không tương ưng với pháp vô vi. Gọi chung là 14 pháp Bất tương ưng hành.

Trước hết luận nêu ba lư do để bác các pháp Bất tương ưng hành là không thật có.

a. Pháp bất tương ưng hành nhất định không phải khác với Sắc, Tâm, Tâm sở có thật thể thật dụng riêng (tôn) là v́ pháp đó nhiếp vào Hành uẩn (nhân) ví như sắc nhiếp vào sắc uẩn; tâm nhiếp về thức uẩn (dụ).

b. Pháp Bất tương ưng hành nhất định không phải thật có (tôn), v́ nó không nhiếp thuộc vào Tâm, Tâm sở hay Vô vi pháp (nhân) ví như vật hoàn toàn không có (dụ).

c. Pháp Bất tương ưng hành nhất định không thật có (tôn), v́ nó không nhiếp thuộc vào thật pháp nào cả (nhân), ví như các giả pháp khác (dụ).

Tiếp theo, Luận mới bác riêng theo bảy mục: đắc, phi đắc, chúng đồng phận, mạng căn, vô tâm định, bốn tướng hữu vi, danh cú, văn thân, tùy miên.

Cuối cùng là bác ba pháp vô vi: Hư không vô vi, Trạch diệt vô vi, Phi trạch diệt vô vi của Tiểu thừa.

a. Hư không vô vi - Hư không đây không phải chỉ khoảng trống không, mà chỉ cho tánh không chướng ngại. Nhờ có tính không chướng ngại mà pháp này không qua pháp kia; pháp sanh cứ sanh, pháp diệt cứ diệt, không bị chướng ngại. Chính tánh không chướng ngại này nó không sanh diệt theo pháp, nên gọi là vô vi. nhưng mắt không thấy, tay không chạm nó được mà chỉ do ư phân biệt rồi huân tập vào bản thức, nên khi thức biến hiện có tướng đó, lầm chấp cho là có thật.

b. Trạch diệt vô vi - Vô vi là chơn như, là Duy thức tánh, v́ bị kiến tư hoặc mà không hiển bày được. Kiến tư hoặc có năm bộ. Về kiến hoặc có bốn bộ do mê Bốn đế mà có. Bốn bộ kiến hoặc hễ thấy đạo lư Tứ đế th́ dứt trừ. Tư hoặc một bộ, trong ba cơi chín địa, mỗi địa lại có chín phẩm tư hoặc, cộng chín địa thành tám mươi mốt phẩm tư hoặc. Nhờ nương trí tuệ giản trạch mà dứt được từng phần mỗi bộ mỗi phẩm hoặc mà hiển lộ từng phần thực tánh chơn như cho nên gọi đó là Trạch diệt vô vi.

c. Phi trạch diệt vô vi, Chơn như pháp tánh vô vi vốn không sanh diệt, tự nó là thanh tịnh vô vi, chứ không cần nhờ trí tuệ giản trạch hoặc mới hiển lộ nên gọi là Phi trạch diệt. Hoặc v́ duyên bị khuyết mà kiến tư hoặc không sanh ra làm che lấp chơn như, nên chơn như không bị ô nhiễm, đó cũng gọi là Phi trạch diệt vô vi.

Kinh nói có Hư không vô vi v.v... lược có hai thứ. Như Luận trong đây đă nói rơ, cho đến do khổ lạc thọ diệt mà gọi là Bất động diệt vô vi; do tưởng và thọ uẩn không hiện hành mà gọi là Tưởng thọ diệt vô vi. Tóm lại cả năm vô vi, chỉ dựa tánh chơn như mà giả lập; chính danh từ Chơn như cũng giả thiết đặt. Hàng ngoại đạo Tiểu thừa không thấy lẽ đó nên chấp cho là thật có. Luận chủ bác:

- Các pháp mà ngoại đạo và tiểu thừa giáo chấp, khác với Tâm và Tâm sở không có thật tánh riêng (tôn), v́ nó là sở thủ tức tướng phần (nhân), ví như Tâm và Tâm sở kiến phần (dụ).

- Tánh tri giác thu nhận tướng các pháp kia cũng không duyên được tướng các pháp đó ngoài tâm (tôn), v́ năng thủ tức kiến phần (nhân), ví như tánh tri giác duyên tướng phần bên trong (dụ).

Tướng phầnn sở thủ, kiến phần năng thủ, đều từ tự chứng phần khởi lên, nghĩa là đều không ĺa thức, cho nên các pháp họ chấp đó về mặt sở thủ hay năng thủ đều là Duy thức. Chỉ v́ không hiểu mà chấp cho thật có.

Nhưng các thức Tâm và Tâm sở cũng chẳng phải thật có, v́ Y tha khởi (nhân) ví như sự huyễn (dụ).

Thức là pháp Y tha khởi, nó hiện hữu nhờ các duyên, chứ thức không phải là cái ǵ thật có riêng ngoài mọi pháp. Phật v́ khiển trừ cái bịnh vọng chấp cho thật có pháp độc lập với thức, nên nói duy có thức. Nếu lại chấp Duy thức là thật có, không khác ǵ chấp ngoại cảnh, th́ cũng là pháp chấp.

Đoạn trên là mượn thức Y tha khởi để phá Biến kế sở chấp, đoạn này, nói thức là Y tha khởi như huyễn, không thật, nếu chấp thật có Duy thức, cũng thành pháp chấp.

Như vậy tôn chỉ của Pháp tướng Duy thức thật không khác ǵ với tôn chỉ của Pháp tánh Chơn không. Cho nên kinh Đại Phật đảnh nói: "Ngộ nhập Viên thành thật, th́ xa ĺa chấp Y tha và Biến kế".

(14). Đoạn này phân biệt về pháp chấp. Pháp chấp có hai là Câu sanh pháp chấp, Phân biệt pháp chấp. Câu sanh lại có hai là thường tương tục, và có gián đoạn. Phân biệt cũng có hai là duyên tà giáo nói về uẩn xứ, giới mà chấp và duyên tà giáo nói về tự tánh v.v... mà chấp. Như trong luận đă giảng rơ.

Từ bắt đầu luận văn đến đây đă phân tích chỉ rơ ngă và pháp đều không thật có; ngă và pháp chỉ là giả nói. Đến đây có người nghi hoặc hỏi: - Nếu không có thật ngă thật pháp ngoài thức th́ giả ngă, giả pháp cũng không? V́ giả phải dựa nơi việc thật, việc tương tợ và đức tính chung, mới thành giả. Như có lửa thiệt, có người tợ như lửa, có đức tánh chung giữa những việc đó như sắc đỏ mănh liệt. Lửa thiệt có sắc đỏ mănh liệt, người tợ như lủa có sắc đỏ mănh liệt, mới nói người kia giống như lửa. Cũng vậy, nếu ngă pháp không thật có th́ dựa vào đâu mà giả nói, và không giả nói, vậy tợ ngă tợ pháp cũng không thành, làm sao nói tâm chuyển hiện ra tợ ngă tợ pháp?

Luận chủ giải thích: Dựa vào đức tánh cùng loại mà giả nói th́ không đúng; v́ đức tánh sắc đỏ mănh liệt nơi người không cùng loài với đức tánh sắc đỏ mănh liệt có khả năng đốt cháy nơi lửa. Nếu người có sắc đỏ mănh liệt nhưng không có khả năng đốt cháy giống như lửa mà vẫn nói người như lửa, th́ nước có sắc đỏ mănh liệt mà không có khả năng đốt cháy như lửa, vậy có nói như lửa không? Không được. Do đó giả nói người như lửa không cần dựa nơi đức tánh cùng loại; và giả nói ngă pháp cũng vậy.

C̣n nương nơi sự thật mới giả nói được, cũng không đúng; v́ sự thật tức chính tự thân sự vật. Trí phân biệt giả dối và ngôn thuyên đâu có duyên được tự thân sự vật; thế mà vẫn nói vật này vật kia, đó là giả nói, mà không cần dựa nơi sự thật.

Vậy tướng ngă pháp đều do thức biến. Phàm phu không hiểu rơ mới chấp cho là thật có. V́ đề khiến trừ lối chấp đó mà nói chữ "giả", chữ "tương tợ". Khi đă dứt hết vọng chấp rồi th́ giả tợ cũng vô nghĩa.

- Tất cả các đoạn trên là nói về ngă pháp sở biến, thuộc Biến kế sở chấp tánh. Từ đây trở đi nói về thức năng biến, thuộc Y tha khởi tánh. Đến bài tụng hai mươi ba, hai mươi bốn, hai mươi lăm, nói về ba vô tánh, là thuộc về Viên thành thật tánh. Từ bài tụng hai mươi sáu cho đến bài tụng ba mươi là nói về quả vị tu chứng.

(15). Đoạn này nói về thức năng biến lược có ba thứ là thức Dị thục , thức Tư lương, và thức Liễu biệt cảnh tức sáu thức trước.

Năng biến có hai:

a. Nhân năng biến, tức nhân biến hiện. Tám thức là pháp Y tha khởi. Nó không tự có, mà dựa vào đẳng lưu tập khí và Dị thục tập khí mà có. (Hai tập khí này có giải rơ trong bài tụng thứ mười chín ở đoạn sau). Như vậy tám thức là quả, mà hai tập khí là nhân. Do hai tập khí biến hiện ra tám thức, nên gọi là Nhân năng biến.

b.Quả năng biến, tức quả biến hiện. Tám thức là quả. Chính từ tám thức thể tự chứng phần biến ra kiến phần tướng phần, rồi dựa vào kiến tướng đó phân biệt vọng chấp cho là ngă là pháp, tức hữu t́nh vô t́nh. Như vậy tám thức là quả mà biến hiện ra các pháp, nên gọi là Quả năng biến.

Quả năng biến là tám thức chia làm ba thứ gọi là ba thức năng biến.

(16). Thức năng biến thứ nhất được định nghĩa trong mười câu tụng từ câu "Đầu, A lại da đến A la hán bỏ hết" gồm có mười hai mục:

a. Tự tướng (tức đầu A lại da thức).

b. Quả tướng (tức Dị thục thức).

c. Nhân tướng (tức Nhất thiết chủng thức).

d. Không thể biết.

e. Sở duyên (tức chấp thọ và xứ).

f. Hành tướng (tức Liễu).

g. Tương ưng (tức thường cùng tâm sở Xúc v.v... ).

h. Thọ (tức xả thọ).

i. Ba tánh (tức tánh vô phú vô kư).

k. Tâm sở lệ Tâm vương (tức Tâm sở cũng như vậy).

l. Nhân quả pháp dụ (tức hằng chuyển như ḍng nước).

m. Phục đoạn vị (tức A la hán vị xả bỏ).

Thức là pháp Y tha khởi, là duyên sanh, cho nên nó có nhiều mặt liên hệ, nhiều tính cách sai khác như thế. Dưới đây lần lượt giải thích các mục ấy.

Thức năng biến thứ nhất có tên là A lại da, dịch Tàng thức, gồm đủ ba nghĩa là năng tàng, sở tàng, ngă ái chấp tàng. Thức thứ tám có khả năng chứa nhóm và duy tŕ các chủng tử thiện, ác, hữu vi, vô vi, hữu lậu, vô lậu, nên nói là năng tàng. Lại nó là chỗ bị các chủng tử dồn chứa vào nên nói là sở tàng. Lại nó là chỗ mà loài hữu t́nh ưa chấp làm tự ngă, nên gọi là ngă ái chấp tàng.

Tàng thức là tự tướng của thức thứ tám, gồm đủ cả tính nhân quả, thành tự tướng. Tàng thức ví dụ như một đống dồ vật, chứa đủ mọi thứ tốt có, xấu có. Đồ vật lại cũng từ đống đồ vật mà ra. Và đồ vật ǵ cũng chứa vào đống đồ vật. Không có đồ vật th́ không có đống đồ vật; không có đống đồ vật th́ không có đồ vật. Đồ vật và và đống đồ vật làm nhân duyên nhân quả cho nhau mà hiện hữu. Đồ vật có thay đổi chứ đống đồ vật khi nào cũng vẫn có, chẳng qua khi chứa đồ vật nhơ th́ gọi là đống đồ nhơ, khi chứa đồ vật sạch th́ gọi là đống đồ vật sạch thế thôi. Tàng thức cũng vậy, không có chủng tử các pháp th́ không có Tàng thức; không có Tàng thức th́ không có chủng tử các pháp. Tàng thức và chủng tử các pháp làm nhân duyên nhân quả cho nhau. Đây là nghĩa của câu "Tàng thức và các pháp tạp nhiễm làm duyên cho nhau".

Thức năng biến thứ nhất lại có tên là Dị thục. Có ba nghĩa. Một là biến dị nhi thục, tức từ nhân tới quả trước sau biến đổi h́nh thái mà thành thục, nếu cứ ở nguyên trạng không thay đổi th́ không thành thục được. Hai là Dị thời nhi thục, tức nhân trước quả sau, khác với thời gian mới thành thục. Ba là Dị loại nhi thục, tức khác loại mà thành thục, loại tức là tánh. Trong nhân có thiện tánh ác tánh mà trong quả th́ chỉ là tánh vô kư. Nhân thiện ác mà quả vô kư, khác tánh loại mà thành thục. Ví dụ đất nước tạo thành cái b́nh. Đất là đất, nước là nước, khác nhau nhưng khi tạo thành cái b́nh, cái b́nh là vô kư, không phải đất không phải nước. Chúng sanh cũng vậy khi tạo nghiệp nhân có thiện ác nhưng khi hợp cả nghiệp nhân thiện ác ấy tạo thành một báo thân ở cơi người hoặc cơi A tu la v.v... th́ chính báo thân ấy là vô kư, không phải thiện ác. Chính tổng báo thân của mỗi loại đó gọi là chơn dị thục, do dẫn nghiệp đưa đến. Từ tổng báo thân chơn dị thục ấy bao gồm các thứ sai khác, hiện hành ra có khổ có vui, có tốt có xấu, lành, dữ v.v... khác nhau gọi là Dị thục sanh, do măn nghiệp chiêu cảm đến. Thức Dị thục là quả tướng của thức năng biến thứ nhất. Nếu là nhân tướng của thức năng biến thứ nhất th́ gọi là Nhất thiết chủng.

(17). Đoạn này nói về Nhất thiết chủng thức, tức nói về nhân tướng của thức năng biến thứ nhất.

Chủng tử là ǵ? Là những công năng, năng lực. quán tính, là hạt giống chứa ở trong Tạng thức, hễ gặp duyên th́ khởi dậy, xuất hiện, gọi là hiện hành các tướng pháp nọ kia. Chủng tử là nhân, hay nhân pháp, không hiện hành ra tướng pháp nọ pháp kia là quả, hay quả pháp. Nhân pháp nào hiện ra quả pháp ấy không lộn xộn; ví như hạt giống mè sanh ra cây mè, giống đậu sinh ra cây đậu, chủng tử thiện sanh ra thiện, chủng tử ác sinh ra ác, chủng tử trí sanh ra trí, chủng tử ngu sanh ra ngu v.v... bất cứ chủng tử ǵ cũng đều có hai loại:

Một là câu sanh, tức loại có sẵn trong Tạng thức từ bao giờ. Hễ có thân sanh ra là có nó cùng sanh. Do đó mà trẻ sơ sanh dù chưa biết ǵ hết nhưng không phải là nó không có tham, sân, si, hoặc không có những tính tốt. Dựa vào đó mà nói người mới sanh tánh vốn lành hay vốn ác, hay vốn không lành không ác.

Hai là loại phân biệt. Loại chủng tử này khi sanh ra chưa có, về sau tiếp xúc với hoàn cảnh tốt hoặc xấu, hoặc khôn hoặc dại, phân biệt theo hoàn cảnh mà lâu ngày thành thói quen, tức là chủng tử.

Dù chủng tử câu sanh hay phân biệt cũng đều có hai tánh là hữu lậu gồm những chủng tử ác, thiện và hữu phú vô kư, và vô lậu tức những chủng tử thiện hoàn toàn trong sạch phát xuất từ tính vô ngă. C̣n chủng tử ác, thiện, hữu phú vô kư là v́ phát xuất từ tính chấp ngă nên gọi là hữu lậu.

Chủng tử c̣n có tên là Tùy miên, v́ nó thường theo dơi chúng sanh, ngầm ngủ yên trong Tạng thức, nh́n bên ngoài tưởng không có, nhưng gặp duyên th́ nó nổi dậy.

Chủng tử gọi là tập khí, v́ nó là khí phần, là hơi hám do tập nhiễm mà thành.

Chủng tử cũng gọi là thô trọng, v́ tính nó thô kịch trầm trọng, và không kham nổi một trách nhậm ǵ (Tánh không kham nhậm).

Khi gọi là chủng tử là Tùy miên, Tập khí, Thô trọng, Tánh không kham nhậm, đều là chỉ cho chủng tử hữu lậu, chứ không phải nói chủng tử vô lậu.

Chủng tử dù hữu lậu, vô lậu, chúng đều nương thức Dị thục, nhưng khi chủng tử chưa hiện hành, c̣n tiềm ẩn trong thức Dị thục th́ nó đồng tánh vô kư với thức Dị thục; trái lại chủng tử vô lậu dù nương thức Dị thục nhưng trước sau vẫn là thiện.

- Tất cả chủng tử đều vốn có hay mới sanh? Có ba loại ư kiến. Có ư kiến cho chủng tử chỉ là vốn có sẵn. Có loại ư kiến cho chủng tử chỉ mới huân tập sanh. Có loại ư kiến cho chủng tử đều có đủ cả thứ vốn có, và thứ mới sanh. Hoặc vốn có nhưng cũng phải do huân tập mới lớn mạnh phát sanh. Ư kiến thứ ba đúng nhất.

- Có người dẫn kinh nói: "Tâm tánh vốn tịnh, do khác trần phiền năo làm ô nhiễm" để chủ trưong chủng tử vô lậu là vốn có chứ không phải mới sanh - Nói thế cũng không đúng, v́ người không có chủng tử vô lậu vốn có th́ măi măi họ không thành bậc Thánh hay sao? Và dù có chủng tử vô lậu vốn có, cũng phải nhờ nghe pháp, suy nghĩ, tu tập, cứ huân tập lâu ngày làm cho chủng tử vô lậu lớn mạnh mới sanh được. Nếu không th́ nó không thể sanh.

Có ư kiến lại nói do hai chướng là phiền năo chướng và sở tri chướng có hay không mà nói chủng tử vô lậu có hay không. Nói thế cũng không đúng, v́ nếu không có chủng tử vô lậu th́ lấy ǵ để dứt hai chướng ấy.

Nhưng phải có đủ sáu nghĩa (tính cách) này mới thành chủng tử được, đó là sát na diệt, quả câu hữu, hằng tùy chuyển, tánh quyết định, đăi chúng duyên, dẫn tự quả; và phải do huân tập mới thành chủng tử. Huân tập nghĩa là xông ướp, tập nhiễm; và phải có hai bên mới thành huân tập. Tức là một bên bị huân, chịu huân, và một bên năng huân, có khả năng xông ướp; như một bên trà, một bên hoa. Ướp hoa vào trà, mùi thơm của hoa xông qua trà làm cho trà trở nên thơm. Thế gọi là huân tập. Đây cũng vậy, một bên Tạng thức là sở huân, bị huân, một bên là bảy thức trước là năng huân, có khả năng huân. Bên nào cũng phải có đủ bốn tánh cách (nghĩa) mới thành sở huân hay năng huân.

Bốn tính cách của sở huân là tánh kiên trụ, tánh vô kư, tánh khả huân, tánh cùng ḥa hợp với năng huân.

Bốn tính cách của năng huân là tánh sanh diệt, có tác dụng mạnh, có thêm bớt, cùng sở huân ḥa hợp chuyển biến.

Trong tám thức, chỉ có Tạng thức có đủ bốn nghĩa sở huân, nên luôn luôn chỉ Tạng thức là sở huân, chứ bảy chuyển thức không được, cũng như Tạng thức không thể là năng huân.

Ngược lại chỉ có bảy chuyển thức trước là năng huân, chứ Tạng thức không thể là năng huân được; cũng như không bao giờ bảy chuyển thức là sở huân.

(18). Đoạn này nói về hành tướng và sở duyên của thức năng biến thứ nhất. Hành tướng là tướng hành động của nó. Tướng hành động của thức năng biến thứ nhất là ǵ? Là Liễu biệt, nhận biết, tức là kiến phần.

Kiến phần có năm loại:

a. Chứng kiến gọi là kiến - Tức căn bản trí chứng ngộ chơn như.

b. Chiếu kiến gọi là kiến - Tức năm căn và tâm chiếu cảnh.

c. Năng duyên gọi là kiến - Tức là kiến phần, tự chứng phần, chứng tự chứng phần.

d. Niệm giải gọi là kiến - Tức nhớ nghĩ giải liễu các nghĩa lư.

đ. Suy đạt gọi là kiến - Tức suy luận so sánh.

 Trong đó, trừ sắc căn, tự chứng phần, chứng tự chứng phần, c̣n lại đều thuộc kiến phần.

- Sở duyên của thức năng biến thứ nhất là ǵ? Là xứ, chủng tử, và căn thân. Trong đó chủng tử và căn thân hai thứ được thức thứ tám lấy làm sở duyên, và chấp thủ làm tự thể, duy tŕ không mất, đồng an nguy với nó.

Hành tướng liễu biệt là năng duyên, là kiến phần của thức; c̣n sở duyên là tướng phần của thức.

Tướng phần gồm có năm:

a. Thật tướng gọi là tướng - Tức là tính chơn như, thật tính của mọi pháp.

b. Cảnh tướng hay thể tướng gọi là tướng - Tức là tướng tự thân của mọi pháp đối hiện trước căn và thức.

c. Tướng trạng gọi là tướng - Tức là tướng trạng của các pháp hữu vi, dài, ngắn, vuông, tṛn, lớn, nhỏ, đỏ, vàng v.v...

d. Tướng mạo gọi là tướng - Tức là dáng mạo đi, đứng, nằm, ngồi, co, duỗi.

đ. Nghĩa tướng gọi là tướng - Tức là đức tính, thuộc tính của mọi pháp xấu, tốt, thường, vô thường, vô ngă v.v...

Ví dụ như mặt trăng. Thật tướng của mặt trăng là thế nào? Không thể biết được. Thật tướng của mặt trăng là vô tướng chơn như, vô sở đắc, chỉ biết bằng trí giác ngộ chứ không thể biết bằng thức. Cảnh tướng hay thể tướng của mặt trăng là thế nào? Chính tự thân mặt trăng hiện trước mắt ta đó. Tướng trạng của mặt trăng là thế nào? Là tướng tṛn, méo, sáng, mờ đó. tướng mạo của mặt trăng là thế nào? Chính sự di chuyển cao thấp của nó đó. Nghĩa tướng của mặt trăng là thế nào? là đẹp, xấu, thường, vô thường v.v...

Tướng phần có tướng phần riêng. Như chủng tử và căn thân do nghiệp riêng (biệt nghiệp) của mỗi hữu t́nh tự biến ra. Và tướng phần chung (cộng tướng) như khí thế giới (xứ) do nghiệp chung (cộng nghiệp) của các hữu t́nh chung biến ra.

Nhưng biến có hai cách là phân biệt biến và nhân duyên biến. Phân biệt biến là do vọng t́nh điên đảo phân biệt biến ra. Như khi vui thấy cảnh vui, khi buồn thấy cảnh buồn, khi ưa khen đẹp, khi ghét chê xấu v.v... Hoặc như thức thứ bảy duyên thức thứ tám, chấp làm ngă và như năm tâm sở Biến hành của thức thứ tám biến ra cảnh mà duyên; hoàn toàn là ảo tưởng không có căn cứ. Nhân duyên biến là do vọng t́nh dựa nơi tướng phần, kiến phần. Không phải ngă mà cho là ngă; không phải pháp mà cho là pháp; không phải hữu t́nh vô t́nh mà chấp hữu t́nh vô t́nh; không phải sắc tâm mà chấp là sắc tâm. Cứ huân tập măi các danh tướng đó vào tạng thức, lâu ngày thành chủng tử, tức là thói quen cố hữu lâu đời, nên khi gặp duyên th́ hiện ra, nh́n ở đâu cũng thấy cả ngă và pháp. Thế giới muôn h́nh vạn trạng đều là những tướng ngă pháp theo cách nh́n đó, khó mà thay đổi được.

- Tướng phần là một trong bốn phần của thức. Đối với thức Tâm vương, Tâm sở, theo Luận sư An Huệ chủ trương chỉ có một phần là phần Tự chứng; c̣n Luận sư Nan Đà th́ chủ trương có hai phần là Kiến và Tướng. Luận sư Trần Na th́ chủ trương có ba phần là Kiến, Tướng và Tự chứng phần. Tự chứng phần là tự thể của thức; Kiến phần, Tướng phần là tướng dụng của thức. Lại Kiến phần lường biết Tướng phần. Vậy cái ǵ lường biết Kiến nếu không có Tự chứng phần. Có năng lượng sở lượng tức phải có lượng quả. Như thước đo vải, thước là Kiến phần năng lượng; vải là tướng phần sở lượng. Vậy thước đo vải kết quả có bao nhiêu làm sao biết, nếu không có người thứ ba (?) Tự chứng phần cũng như người thứ ba, kết quả của sự lường biết. Nhưng Luận sư Hộ Pháp lại chủ trương có bốn phần, lấy lẽ sự nhận biết của thức có khi trực tiếp biết, đó là hiện lượng; có khi gián tiếp biết, đó là tỷ lượng. Nhưng có khi trực tiếp biết sai, gián tiếp biết sai, th́ đó là phi lượng. - Kiến phần biết Tướng phần có khi hiện lượng, có khi tỷ lượng, có khi phi lượng. Trong khi Tự chứng phần chỉ biết bằng hiện lượng. Tự chứng phần chứng biết Kiến phần, vậy cái ǵ chứng biết Tự chứng phần (?) Bởi Kiến phần chứng biết Tự chứng phần không được, v́ kiến phần có khi phi lượng, mà Tự chứng phần là tự thể của thức, luôn luôn là hiện lượng, làm sao Kiến phần chứng biết được? Vậy phải có phần thứ tư là Chứng tự chứng phần để chứng biết tự chứng phần, và ngược lại Tự chứng phần; chứng biết chứng Tự chứng phần, v́ hai phần này đồng là hiện lượng biết.

Nhưng nói một cách rốt ráo th́ bốn phần chỉ là tương đối. Có thể gom phần thứ tư vào phần thứ ba mà chỉ có ba phần; hoặc lại gom phần thứ hai mà chỉ có hai phần, lại Kiến, Tướng hai phần vốn không tự thể mà phải dựa vào một tâm, một chơn pháp giới làm tự thể, lấy thể một tâm mà bao dung tác dụng, th́ dụng không khác thể, nên có thể nói "nhất sắc nhất hướng vô phi Trung đạo" và như vậy, dù nói Duy thức, hay nói Duy sắc, Duy hướng đều được.

(19). Đoạn này nói thức A lại da chỉ tương ưng với năm Biến hành tâm sở và xả thọ.

Năm Biến hành tâm sở là xúc, tác ư, thọ, tưởng, tư.

Năm Tâm sở này có đủ bốn sự biến khắp là biến khắp hết thảy tánh, tức thiện, ác, vô kư; biến khắp hết thảy địa, tức khắp có trong chín địa, ba cơi; biến khắp hết thảy thời, bất cứ khi nào tâm khởi là có đủ năm Tâm sở này cùng khởi; biến khắp hết thảy Tâm vương. Dù tám thức Tâm vương cùng khởi lên, th́ cũng đều có năm Tâm sở này đồng khởi, cho đến khi đă được chuyển thức thành trí vẫn có năm Tâm sở này tương ưng.

Năm Tâm sở này có hành tướng khác với thức, v́ thức Tâm vương lấy liễu biệt làm hành tướng; c̣n xúc th́ lấy sự xúc đối giữa căn, trần, thức, làm hành tướng; tác ư ấy sự cảnh tỉnh làm hành tướng; thọ lấy sự lảnh nạp cảnh làm hành tướng; tưởng lấy sự chấp thủ ảnh tượng làm hành tướng; tư lấy sự tạo tác làm hành tướng. Song cả năm đối với thức có bốn sự đồng ngang nhau nên nói là Tâm tương ưng. Bốn sự đồng nhau, tức Tâm vương, Tâm sở đều có tự thể riêng như nhau; sở duyên như nhau, tức Tâm vương, Tâm sở đồng duyên một cảnh; đồng một lúc duyên cảnh, và đồng nương một căn chung.

Dù năm Tâm sở này luôn luôn tương ưng thức A lại da nhưng nó không thể có khả năng thọ huân (chịu sự huân tập) như A lại da.

A lại da cũng chỉ tương ưng với xả thọ, và tánh luôn luôn là vô phú, vô kư. Nghĩa là nó không có ngă tánh, chỉ có thức thứ bảy lầm chấp nó là ngă, chứ tự nó không phải là ngă, nên mới tiếp nhận tất cả những ǵ do bảy chuyển thức huân tập vào. Nếu có ngă tánh chắc nó có phân biệt chọn thứ này bỏ thứ kia, không thể tiếp nhận hết mọi sự huân tập vào. Và cũng v́ vậy ở A lại da không có các Tâm sở thiện, ác, ô nhiễm tương ưng.

(20). Đoạn này nói A lại da là trung tâm của lư duyên nhân quả.

A lại da giống như gịng nước thường hằng, mà chuyển biến, không phải đoạn, không phải thường, chỉ trong một sát na mà gồm đủ cả sanh, diệt, nhân, quả; ví như hai đầu quả cân cao thấp cùng lúc. Hai đầu quả cân dụ cho nhân quả, cao thấp dụ cho sanh diệt. Sanh diệt nhân quả đồng ở một chỗ cùng trong một sát na hiện tại. Ngay trong hiện tại trông về quá khứ nói hiện tại là quả, trông về tương lai nói hiện tại là nhân, ước theo quả hiện tại nói quá khứ là nhân. Thế thời muôn vàn ức kiếp trước vẫn như ngày nay, tướng nhân đó chỉ là tướng tương tợ in như có, do thức biến ra, chứ quá khứ đă qua, thức nào có trực tiếp biết thấu. Hoặc ước theo nhân hiện tại mà nói quả tương lai, thời vô lượng kiếp sau cũng ở trước mắt, chỉ do thức biến hiện tương tợ như có quả tương lai, chứ quả tương lai chưa có, thức đâu có thực sự duyên đến. Do vậy Cổ đức nói: "Vô biên sát hải tự tha bất cách ư mao đoan, thập thế cổ kim thủy chung bất ly ư đương nhiệm" (muôn vàn thế giới tự tha chung trên đầu sợi lông, mười đời kim cổ thủy chung chỉ ở trong một niệm).

Tôn Cảnh Lục nói: "Quá khứ vị lai vô thể, do sát na huân tập, đều thuộc hiện tại. Chính ngay khi vọng niệm hiện tại khởi lên, trái với chơn tánh, gọi là thức sơ khởi, chứ chẳng phải có thức sơ khởi nào trong quá khứ. Cho nên biết ngang trùm hết mọi nơi, dọc suốt hết mọi thời, đều ở ngay trong một niệm hiện tại.

Ước theo hiện tại, thức biến ra tướng nhân quá khứ, tướng quả trong tương lai; trước sau sanh diệt, đều là giả thiết đặt, chứ không thật có. Thế nhưng các bộ phái khác lại cho nhân quả sanh đó đều không thật có, có pháp làm nhân, có pháp làm quả, có thật, có diệt thật. Đó đều là mê lầm chấp pháp chứ không đúng đạo lư rốt ráo.

(21). Đoạn này nói sự xả bỏ thức A lại da, và nói các tên khác của thức thứ tám.

A lại da là Tàng thức gồm có năng tàng, sở tàng, ngă ái chấp tàng. Trong đó ngă ái chấp tàng là đầu mối của mê lầm, phát sanh phiền năo tạo nghiệp, chịu luân hồi sanh tử. Vậy khi nào dứt hết ngă ái chấp tàng là bỏ tên A lại da. (Chứ không phải cả bỏ thức thứ tám).

Ba địa vị vô học của Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, dứt hết phiền năo chướng, bỏ ngă ái chấp tàng, nên ở ba địa vị này không c̣n có tên A lại da.

Nghĩa là ở địa vị A la hán, Độc giác phật và Bồ tát từ đệ bát địa trở lên đều bỏ tên A lại da, v́ không c̣n chấp ngă.

Thức thể chỉ có một, theo nghĩa mà đặt tên ra nhiều tên, tùy mỗi địa vị này mà bỏ tên này nhận tên khác chứ không phải bỏ tên là bỏ luôn cả thể. V́ chủng tử các pháp nếu không phải là hữu lậu th́ là vô lậu, lúc nào cũng có, nếu không có thức thể thứ tám để duy tŕ th́ các chủng tử kia tiêu mất, trở thành đoạn diệt, cho nên khi nào cũng có thức thể thứ tám để duy tŕ các chủng tử, và không trở thành đoạn diệt. Thức thể thứ tám luôn luôn có nhưng thay đỏi tên gọi tùy theo sự thay đổi tính chất. Khái quát có hai địa vị nhiễm và tịnh rơ rệt. Ở địa vị nhiễm tức địa vị hữu lậu th́ gọi là A lại da hoặc Dị thục, nó tương ưng với năm tâm sở Biến hành. Ở địa vị tịnh tức địa vị vô lậu, đă chuyển thành trí, th́ gọi là vô cấu thức, cũng gọi là bạch tịnh thức, nó tương ưng với hai mươi mốt Tâm sở là năm Biến hành, năm Biệt cảnh và mười một Thiện.

C̣n các tên Tâm, A đà na, Sở tri y, Chủng tử thức thứ tám th́ cả các địa vị nhiễm tịnh đều có, và chỉ tương ưng với năm tâm sở Biến hành.

(22). Đoạn này láy Thánh giáo để chứng minh ngoài bảy chuyển thức, có thức thứ tám.

Một là dẫn kinh giáo để chứng minh, gồm có ba kinh Đại thừa và bốn kinh Nikayà A hàm thuộc các bộ phát hành tŕ.

a. Kinh Đại thừa A tỳ đạt ma có hai bài kệ, một bài bắt đầu câu "Vô thủy thời lai giới" ... đến "Cấp Niết bàn chứng đắc". Một bài bắt đầu câu: "Do nhiếp tàng chư pháp" ... đến "Thắng giả ngă khai thị".

b. Kinh Giải Thâm Mật một bài kệ bắt đầu câu:

"A đà na thức thậm thậm thâm tế" ... đến "Khủng bỉ phân biệt chấp v́ ngă".

c. Kinh Nhập Lăng già một bài kệ bắt đầu câu: "Như hải ngộ phong duyên" ... đến "Hiện tiền tác dụng chuyển".

Tiếp đó là dẫn lời bốn kinh thuộc các bộ phái hành tŕ:

a. Trong kinh A cấp ma (A hàm) thuộc Đại chúng bộ có mật ư nói: "Thức căn bản". Nên biết thức căn bản đây là chỉ cho thức thứ tám này, chứ không thể chỉ cho thức nào hay pháp nào khác được.

b. Kinh và Phân biệt luận giả thuộc Thượng tọa bộ cũng mật ư nói đến tên: :"Hữu phần thức". Nên biết cũng để chỉ thức thứ tám này chứ không thức nào khác, hay pháp nào khác.

c. Trong kinh thuộc Hóa địa bộ cũng mật ư nói đến tên: "Cùng sanh tử uẩn". Nên biết cũng chỉ thức thứ tám mới đi đến tận cùng ngằn mé sanh tử (tức bắt đầu Niết bàn giải thoát) chứ không thức nào được như vậy.

d. Kinh Tăng Nhứt thuộc Nhất thiết hữu bộ cũng mật ư nói đến tên: "A lại da". Nên biết chỉ thức thứ tám có tên ấy, chứ không thức nào có được.

Hai là dẫn lư nghĩa đă được nói trong kinh để làm chứng có A lại da, có mười lư:

a. Kinh nói đến "Tâm tập khởi".

b. Kinh nói đến "Tâm Dị thục".

c. Kinh nói đến  "Chủ thể của ba cơi, năm thú, bốn loài sanh".

d. Kinh nói đến "Có thức chấp giữ và lănh thọ thân căn".

đ. Kinh nói đến "Thọ, Noăn, Thức".

e. Kinh nói đến "Tâm trong khi sanh và trong khi chết".

g. Kinh nói "Hành duyên thức, thức duyên danh sắc".

h. Kinh nói đến "Bốn cách ăn trong đó có thức thục".

i. Kinh nói "Diệt tận định vẫn có thức".

k. Kinh nói đến "Tâm thanh tịnh, Tâm tạp nhiễm".

Nếu không có thức thứ tám để giải thích cho chữ Tâm, chữ Thức và các việc nói trong kinh như trên, th́ không biết lấy ǵ để giải thích thích đáng các nghĩa trong lời kinh đó.

Trên vừa nói trong mười hai nhân duyên có thức duyên danh sắc, danh sắc duyên thức, hành duyên thức, thức đây là thức nào? Nếu nói thức đây là chuyển thức th́ không được, v́ chuyển thức có sanh diệt gián đoạn không thể thọ huân tŕ chủng tử. Hành là hành động, nghiệp, thức đây là Dị thục quả thức. Thức thứ tám do hành động huân tập thành chủng tử nghiệp lực làm chuyển biến thức thứ tám thành Dị thục thức. Dị thục thức h́nh thành là do hành. Vậy nếu không có thức thứ tám duy tŕ chủng tử nghiệp của hành huân tập, th́ chủng tử đó tiêu tan, lấy ǵ mà làm duyên sanh danh sắc. Vậy chính chủng tử thức Dị thục và chủng nghiệp do hành huân tập thành, chung lại gọi là "thức chi". Và chính chi này làm duyên cho danh sắc. C̣n nếu nói hành duyên thức mà thức là thức kiết sanh ô nhiễm th́ cũng không được. Thức kiết sanh ô nhiễm là thức trong tham ái, tật đố trong lúc đi t́m duyên cha mẹ để thọ sanh. Nó là ái, tắng, thuộc phiền năo, chứ không thuộc nghiệp. Vậy nói hành duyên thức là thức kiết sanh ô nhiễm cũng không đuợc. Nếu hành làm duyên danh sắc th́ cũng không được, v́ hành và danh sắc gián cách nhau đâu có thể làm duyên được, v́ hành và danh sắc gián cách đâu có thể làm duyên được. Và nếu hành làm duyên danh sắc được th́ mất hết thứ tự mười hai nhân duyên.

Luận Du già Sư địa ghi:

Hỏi - V́ sao vô minh duyên hành, hành duyên danh sắc v.v... có thứ lớp như vậy?

Đáp: - V́ kẻ ngu trước hết là ngu đối với điều đáng phải hiểu đúng, hiểu rơ (vô minh) từ đó phát sanh hành động tà ác (hành), do hành động tà ác làm cho tâm điên đảo; thức do tâm điên đảo nên kiết sanh tương tục (danh sắc bào thai); do kiết sanh tương tục nên các căn đầy đủ (lục, nhập, xúc); do các căn đầy đủ nên thọ dụng cảnh (thọ); do thọ dụng cảnh nên đắm trước, hy cầu (ái); do hy cầu nên t́m cầu, phiền năo lớn mạnh (thủ); do phiền năo lớn mạnh phát khởi nghiệp đáng ưa không đáng ưa đời sau (hữu); do nghiệp lực lớn mạnh nên sanh quả khổ trong năm thú (sanh); khổ quả đă sanh nên có già chết (lăo tử), nội thân già chết khổ, ngoại cảnh biến đổi sanh ưu sầu nhiệt năo khổ. (Thành đại khổ tụ).

Như thế hành đă không thể vượt bỏ thức để trực tiếp làm duyên cho danh sắc, th́ các chi sau cũng thế, không thể bỏ băng thứ lớp mà làm duyên cho chi khác được.

Lại chúng sanh có khi hữu lậu ô nhiễm, có khi vô lậu thanh tịnh, khi ở địa vị hữu lậu phải có thức thứ tám th́ mới thành "hành làm duyên". Tức th́ khi ở địa vị thanh tịnh cũng phải có thức thứ tám duy tŕ chủng tử vô lậu mới thành thanh tịnh các bậc Thánh được. Nếu không có thức thứ tám th́ không có ǵ duy tŕ chủng tử vô lậu, mà không có chủng tử vô lậu th́ không thể tu nhân giải thoát, chứng quả Niết bàn. Không thể nói chủng tử hữu lậu sanh ra chủng tử đạo vô lậu xuất thế được.

Pháp thanh tịnh tức pháp tu chứng của ba Hiền mười Thánh. Có ba thứ khác nhau: Một là đạo thế gian, tức chỉ các pháp tu tập trước khi lên thập địa; hai là đạo xuất thế gian, tức các pháp tu tập ở thập địa; ba là đoạn quả kết quả dứt trừ mê hoặc do tu hai đạo trên. Nếu không có thức thứ tám duy tŕ chủng tử đạo thế gian, chủng tử đạo xuất thế gian, th́ tu ǵ mất nấy, không có chủng tử tức không có nhân, không có nhân th́ không sanh quả, không giải thoát khỏi mê lầm khổ đau. Như khi đang tu đạo thế gian về Tứ Thiền Tứ Không, lại tu quán vô ngă. Khi nhập quán vô ngă đó là tu đạo xuất thế gian, khi xuất quán vô ngă trở lại Tứ Thiền Tứ không, th́ đó là trở lại đạo thế gian. Không thể nói từ đạo thế gian sanh ra đạo thế gian được. Đem tâm c̣n hữu ngă thế gian mà nghe Chánh pháp huân tập thành chủng tử vô lậu xuất thế gian, th́ đó là huân trưởng chứ không phải huân sanh. V́ tâm hữu lậu nghe pháp chỉ giúp cho chủng tử vô lậu sẵn có được lớn mạnh để đoạn hết phiền năo mà được giải thoát, chứ không phải nó làm sanh ra chủng tử vô lậu, ngược lại cũng vậy.

(23). Thức tư lương năng biến thứ hai được định nghĩa trong mười hai câu tụng, từ câu "Thức năng biến thứ hai" ... đến câu "Xuất thế dạo, không c̣n". Gồm có mười mục:

a. Thích tên.

b. Sở y (tức nương kia chuyển).

c. Sở duyên (túc trở lại duyên kia).

d. Thể tánh (tức tư lương làm tánh).

đ. Hành tướng (tức thẩm tự tư lương).

e. Nhiễm câu (tức bốn phiền năo).

g. Dư tương ưng (tức xúc khác thảy).

h. Tam tánh (tức hữu phú vô kư).

i. Giới hệ (tướng sanh theo A lại da).

k. Phục đoạn (tức hai câu tụng chót).

Luận văn lần lượt giải thích mười mục đó.

(24). Đoạn này giải thích danh từ Ư (Mạt na). Ư có nghĩa là hằng thường thẩm xét tư lương nên gọi là Ư. Nó khác với Ư thức ở chỗ: Thức này gọi là Mạt na hay Ư thức, là đặt tên theo lối tŕ nghiệp. Tức căn cứ đức tính khả năng mà đặt tên; do tánh thẩm xét tư lường của nó mà gọi nó là Ư thức. Nghĩa là thức tức ư, giống như Tạng thức, là đặt tên theo lối tŕ nghiệp. Thức có khả năng chứa nhóm gọi là Tạng. Tạng tức thức, nên gọi là Tạng thức. Lấy đức tính của chính nó mà đặt tên cho nó, chứ không phải dựa vào cái không để đặt tên. Như nhăn thức là dựa nhăn căn mà đặt tên nhăn thức. Đây là cách đặt tên theo lối y chủ.

(25). Đoạn này giải thích chữ "Nương kia chuyển" của bài tụng. Kia là chỉ cho thức thứ tám. Có hai ư kiến: Một là Mạt na chỉ nương chủng tử của nó trong thức thứ tám mà khởi lên. Hai là Mạt na nương cả chủng tử của nó trong thức thứ tám và đồng thời nương cả hiện thức thứ tám mà khởi lên. Ư thứ hai đúng hơn. V́ Mạt na là thức có chuyển dịch, khi có Thánh đạo khởi lên th́ nó chuyển nhiễm thành tịnh.

Nhưng Mạt na cũng như Tâm, Tâm sở khác đều có ba chỗ nương: Một là nhân duyên y tức chủng tử y; hai là Tăng thượng duyên y tức Câu hữu y; ba là Đẳng vô gián duyên y tức Khai đạo y.

Trước hết nói về chủng y. Có hai ư kiến: Một ư kiến cho rằng chủng tử và hậu quả không đồng thời, chủng tử diệt rồi th́ hiện quả mới sanh; như hạt giống diệt mới có mầm sanh. Ư kiến thứ hai cho chủng tử và hiện quả đồng thời; giống như ngọn lửa và tim đèn đồng thời. Tức là tim đèn sanh ngọn lửa, ngọn lửa đốt cháy tim đèn. Tim đèn sanh ngọn lửa là thí dụ chủng tử sanh hiện hành; lửa đốt cháy tim đèn là thí dụ hiện hành huân chủng tử; nếu tim đèn giờ trước trông đến tim đèn giờ sau là thí dụ chủng tử dẫn chủng tử; ngọn lửa giờ trước trông đến ngọn lửa giờ sau là thí dụ hiện hành dẫn hiện hành. Trong đó chủng dẫn chủng thuộc nhân duyên y, nhưng không đồng thời; c̣n chủng sanh hiện, hiện huân chủng tử cũng thuộc nhân duyên y, nhưng là đồng thời; chỉ có hiện dẫn hiện là thuộc Đẳng vô gián duyên y, và không đồng thời.

Thứ đến là Câu hữu y. Có bốn ư kiến khác nhau, nhưng ư kiến thứ tư là đúng nhất.

Cuối cùng là Khai đạo y. Có ba ư kiến. Ư kiến thứ nhất cho rằng năm thức trước v́ bị gián đoạn nên không thể tự làm Khai đạo y cho ḿnh, phải nhờ thức thứ sáu làm Khai đạo y. Ư kiến thứ hai cho rằng chư Phật khi được tự tại rồi năm thức hỗ dụng vẫn làm Khai đạo y cho nhau được; v́ nơi Phật luôn luôn có tâm nhậm vận quyết định, chứ không có tâm tầm cầu như các chúng sanh khác.

Nên biết khi tâm duyên đến sự vật có năm hành tướng (trạng thái) là:

a. Suất nhĩ tâm, khi gặp cảnh vụt khởi lên.

b. Tâm cầu tâm, t́m cầu đạt đến cảnh đó.

c. Quyết định tâm, thẩm trí cảnh đó rơ ràng quyết định.

d. Nhiễm tịnh tâm, đối với cảnh đó hoặc ưa hoặc chán, sanh tâm nhiễm tịnh.

đ. Đẳng lưu tâm, niệm niệm duyên cảnh đó trước sau liên tục. Năm thức trước chỉ có bốn, trừ tâm tầm cầu, v́ năm thức trước chỉ có tự tánh phân biệt, chứ không có tùy niệm và kế đạt phân biệt. Thức thứ sáu th́ đủ cả năm tâm. Thức thứ bảy chỉ có ba tâm là quyết định, nhiễm tịnh, đẳng lưu. V́ thức thứ bảy thường duyên cảnh hiện tại nên không có tâm suất nhĩ và tâm cầu. Thức thứ tám th́ có ba tướng là suất nhĩ, quyết định, đẳng lưu. Suất nhĩ đây là chỉ thức thứ 8 khi mới thọ sanh.

Ư kiến thứ ba mới là đúng, như trong luận nói rơ. Hai ư kiến đầu là của Nan Đà và An Huệ, cho tám thức trông nhau đắp đổi làm Khai đạo y cho nhau; c̣n ư kiến thứ ba là của Hộ Pháp cho rằng tám thức, mỗi tự loại niệm trước làm Khai đạo y cho niệm sau.

(26). Đoạn này nói về cảnh sở duyên của Mạt na.

Cảnh sở duyên của Mạt na chia làm hai giai đoạn. Giai đoạn chưa chuyển y, và giai đoạn đă chuyển y.

- Giai đoạn chưa chuyển y: Có bốn ư kiến:

a. Nan Đà chủ trương Mạt na duyên Tâm vương, Tâm sở thức thứ tám làm cảnh.

b. Hỏa Biện chủ trưong Mạt na duyên kiến phần, tướng phần Tâm vương thức thứ tám làm cảnh. Duyên kiến phần chấp làm ngă, duyên tướng chấp làm ngă sở.

c. An Huệ chủ trương Mạt na duyên hiện hành và chủng tử thức thứ tám làm cảnh. Duyên hiện hành chấp làm ngă, duyên chủng tử chấp làm ngă sở.

d. Hộ Pháp chủ trương Mạt na chỉ duyên hiện hành kiến phần thức thứ tám làm cảnh, và chấp làm ngă. Ngă và ngă sở không phải chỉ có hai cảnh riêng biệt, không thể ĺa ngă có ngă sở mà chỉ có một ngă kiến diễn dịch ra ngă và ngă sở, chứ không phải hai thứ riêng biệt nhau. Mạt na duyên thức thứ tám chấp làm ngă, rồi lại chấp đó là ngă của ta, ngă của ngă mà thành ngă sở thôi.

- Giai đoạn đă chuyển y: Mạt na chuyển thành B́nh đẳng tánh trí, chứng được mười tánh b́nh đẳng, th́ không chỉ duyên Tạng thức mà cùng duyên chơn như và hết thảy pháp. Nhờ biết rơ tri giải của Bồ tát Thập địa sai khác như thế nào, mà khởi hiện thân hiện độ tha thọ dụng để thuyết pháp giáo hóa. Đó gọi là "Như Lai hiện khởi tha thọ dụng, Thập Bồ tát sở bị cơ".

Kinh Phật Địa nói mười thứ b́nh đẳng tánh như sau:

a. Các tướng tăng thượng hỷ lạc b́nh đẳng.

b. Hết thảy lănh thọ duyên khởi b́nh đẳng.

c. Xa ĺa dị tướng phi tướng b́nh đẳng.

d. Đại từ hoằng tế b́nh đẳng.

đ. Đại từ không chờ đợi b́nh đẳng.

e. Thị hiện theo sở lạc của hữu t́nh b́nh đẳng.

g. Nói ngă ái của hữu t́nh b́nh đẳng.

h. Thế gian đồng một vị tịch tịnh b́nh đẳng.

i. Pháp khổ lạc của thế gian nhất vị b́nh đẳng.

k. Tu trồng vô lượng công đức rốt ráo b́nh đẳng.

Mạt na từ thức đệ bát sanh lại duyên thức đệ bát giống như thức niệm trước sanh lại duyên thức niệm trước. Như vậy khi Mạt na lấy thức thứ tám làm chỗ nương, đó là tăng thượng duyên; khi lấy thức thứ tám làm cảnh sở duyên, đó là sở duyên duyên.

Mạt na lấy tư lương làm tự tánh và hành tướng của ḿnh.

(27). Mạt na thường tương ưng với bốn thứ Tâm sở là ngă si, ngă kiến, ngă mạn, ngă ái. Do mạt na có bốn thứ phiền năo qúa tội lỗi này, nên dù có tu sáu độ hạnh như bố thí, tŕ giới v.v... vẫn không vong tướng, vẫn thành hữu lậu, cho nên gọi là tạp nhiễm. Nếu muốn giải thoát, trước phải siêng năng quán lư vô ngă, trừ hết bệnh vọng chấp mới giải thoát được. Song bệnh chấp ngă của thức Mạt na thuộc loại câu sanh rất vi tế, rất khó diệt trừ. Tự nó không thể quán vô ngă, phải nhờ ư thức thứ sáu có tâm sở Chánh tuệ tương ưng mói quán sát đứng đắn lư vô ngă, huân tập chủng tử kiến giải vô ngă vào Tạng thức, tô bồi cho chủng tử vô lậu vô ngă vốn có, được phát triển mạnh lên cho đến khi thành thục, có thật trí vô lậu hiện tiền, rồi dùng trí ấy nhiều lần tu quán sau đó mới có thể dứt sạch bốn thứ phiền năo ấy.

Tại sao Mạt na không tự quán vô ngă mà phải nhờ Ư thức quán? - V́ khi đang mê, nghĩa là khi chưa chuyển y, Mạt na mê lầm rất trầm trọng, không tự đứng dậy được. Và lại chính ư thức tuy bị Mạt na lây nhiễm, những ư thức có tiếp xúc bên ngoài và trở lại bồi dưỡng Mạt na. Nếu nó bồi dưỡng những điều ô nhiễm th́ ngă chấp của Mạt na càng sâu đậm bền chắc thêm; c̣n nếu nó nghe được giáo lư vô ngă, rồi quán vô ngă th́ Mạt na mất sự bồi dưỡng ngă, trái lại làm cho ngă chấp của Mạt na biến dần đi cho đến khi tiêu mất; để chuyển thành trí b́nh đẳng tánh, bây giới nó lại luôn luôn tương ưng với hai mươi mốt Tâm sở như A lại da.

Ngoài bốn phiền năo này, Mạt na c̣n tương ưng với phiền năo nào nữa không? Đối việc này có năm ư kiến:

a. Chủ trương nó không c̣n tương ưng với Tâm sở nào nữa hết.

b. Chủ trương nó tương ưng với 15 Tâm sở. Tức là bốn căn bản phiền năo, năm Biến hành, thêm năm tùy phiền năo là hôn trầm, trạo cử, bất tín, giải đăi, phóng dật và Biệt cảnh tuệ.

c. Chủ trương nó tương ưng với 19 Tâm sở, tức mười lăm thứ trên cộng thêm niệm, định, tuệ và hôn trầm.

d. Chủ trương nó tương ưng với 24 Tâm sở. Tức là bốn Căn bản phiền năo, năm Biến hành, mười Tùy phiền năo, cộng thêm năm Biệt cảnh.

đ. Hộ Pháp chủ trương nó tương ưng với 18 Tâm sở. Tức là bốn Căn bản phiền năo, năm Biến hành, tám Đại tùy phiền năo, thêm Biệt cảnh tuệ.

(28). Đoạn này giải thích Mạt na tương ưng với thọ nào? Có ư kiến cho nó tương ưng xả thọ, có ư kiến cho nó tương ưng với bốn thọ ưu, lạc, hỷ, xả. Nhưng đúng nhất là ư kiến cho nó chỉ tương ưng với xả thọ.

Mạt na cũng như Tạng thức khi đă chuyển y rồi th́ tương ưng với hai mươi mốt Tâm sở là năm Biến hành, năm Biệt cảnh, mười một Thiện, và Xả thọ.

C̣n tánh của Mạt na khi chưa chuyển y là hữu phú vô kư mà khi đă chuyển y th́ chỉ là thiện tánh.

Khi chưa chuyển y th́ tùy thức A lại da sanh cơi địa nào, nó đều hệ thuộc theo mà chấp ngă theo cơi ấy, địa ấy. Khi đă chuyển y th́ tự tại không c̣n hệ thuộc.

(29). Đoạn này nói đến địa vị khắc phục và dứt trừ Mạt na có hai:

- Một là không có Mạt na ô nhiễm. Đó là ở địa vị A la hán, Vô học, các chủng tử lẫn hiện hành Mạt na ô nhiễm đều dứt sạch. C̣n địa vị khi nhập Dịệt tận định th́ cũng tạm thời dẹp trừ, nhưng khi xuất định th́ vẫn c̣n. Bậc Hữu học cũng vậy, khi có đạo xuất thế hiện tiền th́ không có Mạt na ô nhiễm, khi đạo xuất thế không hiện tiền th́ lại có. Chơn kiến thật thấy lư vô ngă và hậu đắc trí, đều là vô lậu, nên gọi là xuất thế đạo; khác với lối tu c̣n hữu ngă gọi là thế gian đạo.

- Hai là có Mạt na thanh tịnh, v́ Mạt na xuyên suốt cả địa vị nhiễm và không ô nhiễm. Nếu có tương ưng với Bổ đặc già la ngă kiến (tức câu sanh ngă chấp) th́ từ phàm phu cho đến bậc Hữu học, khi không quán vô ngă th́ đều có Mạt na ô nhiễm. Nếu nó tương ưng với pháp ngă kiến, th́ từ phàm phu đến Thanh văn, Duyên giác và một hạng Bồ tát chưa có trí quả pháp không, th́ đều có Mạt na vừa nhiễm vừa tịnh. Nếu nó tương ưng với B́nh đẳng tánh trí th́ chỉ có ở Như Lai. Đây là Mạt na thanh tịnh.

(30). Đoạn này dẫn Thánh giáo để chứng minh có thức Mạt na riêng ngoài bảy thức kia.

Dẫn giáo chứng có hai:

1. Trong nhiều kinh, đức Bạt già phạn nói đến tâm, ư, thức. Theo nghĩa đặc biệt trỗi hơn th́ tâm có nghĩa là tập khởi; ư có nghĩa là tư lương; thức có nghĩa đặc biệt, là liễu biệt. C̣n theo nghĩa thông đồng th́ tâm, ư, thức đều có đủ ba nghĩa là tập khởi, tư lương và liễu biệt. Như vậy nói ư tức là chỉ cho thức Mạt na. Trong mọi trường hợp lúc nào cũng có thức Mạt na, v́ khi ở địa vị tâm hữu lậu từ phàm phu, Nhị thừa Hữu học và Bồ tát trước đệ bát địa, th́ Mạt na thường duyên thức A lại da, hằng thẩm xét tư lương Bổ đặc già la, tức nhân ngă hay sanh ngă chấp. Ở địa vị nhập Diệt tận định và địa vị có trí quả sanh không hiện tiền th́ Mạt na thường duyên thức Dị thục, hằng thẩm tư lương pháp ngă chấp. Ở địa vị Bồ tát địa thượng khi trí quả sanh không hiện tiền, th́ Mạt na duyên thức Dị thục, hằng thẩm tư lương hai vô ngă, ở địa vị Như Lai th́ Mạt na duyên vô cấu thức, hằng thẩm tư lương hai vô ngă.

Tiểu thừa th́ lấy tâm quá khứ làm ư, tâm hiện tại làm thức, tâm vị lai làm tâm. Một tâm có ba tên theo ba đời.

Bạt già phạn tức Tức Thế Tôn. Theo kinh Phật địa, đủ sáu nghĩa gọi là Bạt già phạn.

a. Tự tại, vĩnh viễn không hệ thuộc theo phiền năo.

b. Xí thạnh, lửa trí mănh liệt.

c. Danh xưng, viên măn mọi công đức thù diệu.

d. Đoan nghiêm, đủ ba mươi hai tướng tốt.

đ. Cát tướng, thế gian thân cận, tán thán cúng dường.

e. Tôn quư, phát huy phương tiên, lợi lạc hữu t́nh, không hề giải đăi.

Hoặc phá hoại bốn ma, gọi là Bạt già phạn.

2. Trong kinh Giải Thoát có tụng: "Nhiễm ô ư hằng thời, Cùng các hoặc sanh diệt, Nếu giải thoát các hoặc, Chẳng đă và sẽ có". Nhiễm ô ư đây tức là thức Mạt na; hằng thời tương ưng với bốn căn bản phiền năo là ngă si, kiến, mạn, ái. Khi nhờ có đạo đối trị (quán không vô ngă) dứt hết phiền năo th́ Mạt na được giải thoát, bấy giờ phiền năo tương ưng với nó chẳng những hiện tại không có, mà quá khứ vị lai cũng không có; v́ phiền năo không có tự tánh thật. Do một niệm vọng t́nh hiện tại mà chứa đủ vô lượng chủng tử hoặc, nghiệp, khổ quá khứ để sanh ra vô lượng hoặc nghiệp, khổ trong vị lai. Nhưng quá khứ th́ đă mất, vị lai th́ chưa đến, chỉ một sát na tâm hiện tại, tâm hiện tại thay đổi không ngừng, đâu có thật thể. - Dựa vào vọng tâm mà thấy có ba đời, nếu t́m tâm không thấy được, thời hiện tại đă không, ba đời đâu có. Chỉ khi nào ngay tại chỗ ngồi hiện tại mà dứt hết vọng niệm ba đời, mới thấu đạt được ba đời. Lại t́m tâm không thấy được, th́ c̣n h́nh tướng cách ngại, ngay khi đó mười phương tiêu vong trí sáng chiếu khắp mười phương, như Cổ đức nói đấy là nghĩa câu "Phiền năo chẳng đă có, chẳng sẽ có".

Do đạo đối trị tức trí quán hai không mà thấy rơ phiền năo vốn không tự tánh. Đă không tự sanh, cũng không tha sanh, không tự tha cọng sanh, không vô nhân sanh, chỉ là nhân duyên ḥa hiệp hư vọng có sanh. Ngay khi vọng sanh, vốn không ở trong, không ở ngoài, không ở trung gian, không ở quá khứ, không ở hiện tại, không ở vị lai, sanh tức vô sanh, rốt ráo không tự tánh. Tự tánh đă không, tha tánh đâu có, tự tha đă không, cọng tánh đâu có, nói có sanh c̣n không được, huống là nói vô nhân sanh. Quán sâu sắc như vậy không ngừng th́ giải trừ sự huân tập mới, và chủng tử nghiệp hoặc tự tiêu. Cho nên phần quyết trạch trong luận Du già nói: "Hỏi: Khi dứt phiền năo là xả bỏ trói buộc (triền, hiện hành) hay xả bỏ tùy miên (chủng tử phiền năo)? Đáp: Chỉ xả bỏ tùy miên, th́ trói buộc hết. Hỏi: Bỏ tùy miên quá khứ, hay tùy miên hiện tại, hay tùy miên vị lai? Đáp: Chẳng phải dứt quá khứ, vị lai, hiện tại, nhưng nói tùy miên ba đời dứt. V́ sao? - V́ nếu quá khứ có tâm tùy miên th́ nó đă tự diệt, tánh nó đă dứt, c̣n dứt cái ǵ? Nếu ở vị lai có tâm tùy miên, th́ tánh nó vốn chưa sanh, tự thể đă không có, th́ sẽ dứt cái ǵ? Nếu ở hiện tại có tâm tùy miên, th́ sát na nó sau biến chuyển, không trụ, không cần phải dứt. Lại tâm có tùy miên và tâm ĺa tùy miên, không ḥa hợp nhau, cho nên hiện tại chẳng phải dứt. Nhưng do nhân duyên của chánh pháp bên ngoài và chơn chánh tác ư bên trong, mà có chánh kiến phát sanh. Tùy khi tâm đối trị các hoặc bị đối trị phát ra, mà các tâm tùy miên bị đối trị diệt. Ngay khi tâm này sanh, tâm kia diệt, b́nh đẳng b́nh đẳng. Đạo đối trị sanh, tùy miên bị đối trị diệt. Khi tâm đối trị có chánh kiến tương ưng, th́ ngay ở hiện tại không có tùy miên, mà ở quá khú cũng không có tùy miên, sát na sau tâm ĺa tùy miên, nên đời vị lai cũng không có tùy miên. Từ đây đă được chuyển y, đă dứt tùy miên, nhờ đó ngay trong thân tương tục này sẽ có được tâm thiện vô kư thuộc thế gian (nghĩa là điều thiện này c̣n sanh diệt). Ở vị trí quá khứ, hiện tại, vị lai đều ĺa tùy miên, cho nên nói tùy miên ba đời đều dứt".

(31). Đoạn này dẫn chánh lư chứng minh có thức Mạt na riêng ngoài bảy thức kia. Trên là giáo chứng có hai, đây là lư chứng có sáu, là: hằng hành vô minh, làm duyên sanh thức, tư lương gọi là ư, vô tâm định sai khác, trời Vô tưởng ô nhiễm, ô nhiễm trong ba thời:

a. Hằng hành vô minh - Là thứ vô minh vi tế làm chướng ngại chánh trí, nó luôn có mặt khắp các tâm thiện, ác, vô kư, nơi loài dị sanh trong mọi địa vị, nên gọi là hằng hành. Nó lại là thứ vô minh chỉ tương ưng với thức Mạt na chứ không có ở các thức khác, nên cũng gọi nó là bất cọng vô minh. Gọi đủ là "Hằng hành bất cọng vô minh", khác với độc hành bất cọng vô minh, là thứ vô minh chỉ mê lư Tứ đế và chỉ tương ưng với thức thứ sáu. Lại vô minh có hai thứ là tương ưng vô minh, tức vô minh cùng khởi với tham, sân v.v... và độc hành vô minh là vô minh khởi riêng một ḿnh nó. Vô minh nơi Mạt na cũng khởi với tham, sân, cũng gọi là tương ưng vô minh, nhưng vô minh này đặc biệt luôn có mặt khắp nơi, nên không gọi là tương ưng mà gọi là hằng hành; c̣n vô minh cùng khởi với tham, sân nơi thức thứ sáu th́ là tương ưng. Nếu nó khởi riêng một ḿnh th́ gọi là "độc hành" thuộc vào bốn bộ loại kiến hoặc, chỉ do kiến đạo đoạn. Nếu nó khởi chung với mười tiểu tùy phiền năo th́ gọi là độc hành không phải chủ, thuộc vào năm bộ hoặc, phải do kiến đạo và tu đạo đoạn.

b. Làm duyên sanh thức - Năm thức trước đều lấy năm căn làm câu hữu y, tăng thượng duyên mà phát sanh. Vậy thức thứ sáu cũng phải có chỗ dựa làm câu hữu y, tăng thượng duyên mới phát sanh được. Vậy câu hữu y và tăng thượng duyên của thức thứ sáu là ǵ, nếu không phải Mạt na?

c. Tư lương gọi là ư - Khế kinh nói Tư lương gọi là ư. Nếu không có Mạt na th́ ư tư lương này không có.

d. Định vô tâm sai khác - Trong hai định vô tâm là vô tưởng định chỉ diệt thức thứ sáu và Tâm sở của nó; c̣n Diệt tận định phải c̣n diệt thêm nhiễm ô ư thứ bảy. Nếu không có nhiễm ô ư thứ bảy th́ hóa ra hai định này không khác ǵ nhau sao?

đ. Trời Vô tưởng ô nhiễm - Trời Vô tưởng dứt hết Tâm và Tâm sở của Ư thức. Nếu Ư thức đă không c̣n, Mạt na cũng không có th́ trời Vô tưởng là cơi c̣n thuộc trong ba cơi luân hồi, hóa ra không c̣n ô nhiễm nữa sao?

e. Ô nhiễm suốt ba tánh - Trong cả ba tâm thiện, ác, vô kư của chúng sanh đều là ô nhiễm hữu lậu, nếu không có Mạt na th́ thiện, vô kư làm sao ô nhiễm?

Tóm lại, do giáo và lư chứng minh trên đó, phải có thức Mạt na. Sở dĩ trong kinh nhiều khi chỉ nói sáu thức, đó là lối nói theo lối lư tùy chuyển, tức chuyển lư Đại thừa rốt ráo mà nói; c̣n nói theo lư Tiểu thừa th́ chưa rốt ráo. Chứ theo lư rốt ráo phải có đủ tám thức.

(32). Đoạn này nói về thức năng biến thứ ba, tức là thức liễu biệt cảnh hay sáu thức trước, gồm có ba mươi hai câu tụng, từ câu "Thức năng biến thứ Ba" ... đến câu "Khi ngủ mê, chết ngất", được chia ra làm chín môn để giải.

- Môn sai biệt - Thức năng biến thứ ba là liễu biệt cảnh thức, cũng là sáu thức, dựa theo sáu căn mà đặt tên. Thức dựa nhăn căn phát sanh gọi là nhăn thức; thức dựa nhĩ căn phát sanh gọi là nhĩ thức v.v... và v́ nó dựa 6 trần mà phát sanh nên cũng có thể gọi là sắc thức cho đến pháp thức. Nhưng khi đă được tự tại như Phật th́ chỉ nhăn thức cũng có thể duyên hết thảy trần, cho nên dựa trần mà đặt tên sắc thức, thanh thức v.v... không ổn. Năm trần cũng là pháp nhưng không nói mắt thấy pháp mà chỉ nói thấy sắc, v́ sắc thanh là cuộc hạn nên chỉ mỗi thức duyên, c̣n pháp trần là chung, chỉ có Ư thức mới duyên được.

Căn đủ năm nghĩa: a. Y căn, tức dựa sáu căn câu hữu. b. Phát căn, từ sáu căn phát ra. c. Thuộc căn, lệ thuộc vào căn, căn mạnh thấy sáng, căn hỏng thấy mờ. d. Trợ căn, giúp cho căn tỏ rỏ. đ. Như căn, duyên đúng như cảnh của căn.

Môn tự tánh và hành tướng, Sáu thức đều lấy việc liễu biệt làm tự tánh và hành tướng.

- Cảnh có ba là tánh cảnh, đới chất cảnh, độc ảnh cảnh.

Tánh cảnh cũng gọi là thật cảnh. Cảnh có thật, gồm có hai; a. Thắng nghĩa tánh cảnh hay vô chất tánh cảnh, tức là chơn như thật tánh. Cảnh này chỉ do trí chứng, chứ không do thức phân biệt. b. Thế tục tánh cảnh hay hữu chất tánh cảnh là cảnh có thật do nhân duyên chủng tử phát sanh chứ không phải do chủ quan phân biệt biến hiện, như năm trần của năm thức duyên, hay như cảnh trong định. Cảnh này tuy có thật, nhưng là thật theo nghĩa tương đối thế tục, chứ không phải theo thắng nghĩa th́ năm căn năm cảnh và thức cũng chỉ là giả huyễn. Thức thứ tám và sáu thức trước duyên được hữu chất tánh cảnh này.

Độc ảnh cảnh là cảnh ảnh tượng của riêng Ư thức duyên. Có hai: a. Hữu chất độc ảnh, là cảnh ở lúc này chỗ này không có, nhưng ở lúc khác chỗ khác có. Như Ư thức hiện tại nhớ lại cảnh đă trải qua. b. Vô chất độc ảnh, là cảnh ở lúc này chỗ này không có, mà ở lúc khác chỗ khác cũng không có, như lông rùa sừng thỏ, hay cảnh tượng tượng của Ư thức bịa ra. Khi chưa chứng chơn như tánh cảnh mà Ư thức biến ra tướng chơn như để quán cũng thuộc cảnh vô chất độc ảnh này.

Đới chất cảnh, là cảnh thức biến có mang theo chất liệu bên ngoài. Có hai: a. Chơn đới chất, là cảnh lấy tâm duyên tâm, như ư thức duyên hết thảy Tâm, Tâm sở, Mạt na duyên kiến phần đệ bát. b. Tợ đới chất, là lấy tâm duyên sắc. Cảnh này chỉ là cảnh của độc đầu ư thức, là cái tướng mà Ư thức gán thêm lên trên sự vật. Như phân biệt cái bàn, cái ghế, mắt chỉ thấy hiển sắc, h́nh sắc; thân chỉ đụng chạm cứng, trơn; mũi chỉ ngửu thấy mùi gỗ v.v... thế là độc đầu ư thức lại thấy đó là cái bàn. Trong khi thấy tướng cái bàn, tướng đó vẫn mang theo hiển sắc, h́nh sắc v.v... cho nên gọi là đới chất.

- Môn ba tánh - Là thiện, ác, vô kư. Sáu thức đều có đủ. Nhưng có ư kiến cho năm thức có đủ ba tánh là do ư thức đạo dẫn.

(33). - Môn Tâm sở tương ưng - Ư thức thứ sáu có đủ năm mươi mốt Tâm sở tương ưng. Đó là năm Biến hành, năm Biệt cảnh, mười một Thiện, sáu Căn bản phiền năo, 20 Tùy phiền năo và bốn Bất định. C̣n năm thức th́ tương ưng 34 thứ Tâm sở là năm Biến hành, năm Biệt cảnh, mười một Thiện, hai Trung tùy, tám Đại tùy, và Tham, Sân, Si.

Các Tâm và Tâm sở đều là pháp duyên sanh. Nó đều có tương quan với nhiều phía, nên sau khi luận giải thích danh nghĩa các Tâm, Tâm sở, tiếp theo c̣n phân biệt mặt tương quan khác của nó, gọi là phân biệt các môn. Như môn tùy cảnh lập danh, môn câu sanh hoặc phân biệt khởi, môn tự loại tương ưng, môn cùng các thức khởi, môn tương ưng các thọ, môn ba tánh, môn học v.v...

(34). Mười chơn như - Chơn như là thật tánh của tất cả pháp. Không hư vọng là chơn; không biến đổi là như. Thứ nhất biến hành chơn như. Biến hành nghĩa là có mặt khắp mọi pháp. Chơn như vốn không có hai, có ba huống ǵ có mười? Sở dĩ chia có mười chơn như là tùy chỗ chứng ngộ cạn sâu sai khác mà chia. Biến thành chơn như là chính, tức nói tánh chơn như biến khắp các pháp. Chơn như đồng nghĩa với chữ "vô vi" ở các nơi khác nói. Như kinh Kim Cang nói: "Nhất thiết Hiền Thánh đều do chứng ngộ vô vi cạn sâu mà chia ra nhiều địa vị sai khác".

(35) Chữ Duy thức nguyên chữ Phạn là Vijnàptimàtratà. Vijnàpti Tàu dịch âm là Tỳ nhă để, dịch nghĩa là Thức. Chữ Màtrata Tàu dịch âm là  Ma đát lạt đa, dịch nghĩa là Duy.

Thức là liễu biệt, nhận biết. Liễu là liễu tri, biệt là biệt chỉnh cảnh. Tức liễu tri mỗi mỗi  cảnh riêng biệt, như nhăn thức liễu tri sắc, nhĩ thức liễu tri thanh v.v...

Thức, nói một cách tổng quát là gồm đủ năm vị tức năm mặt:

1. Thức tự tướng, tức tám thức Tâm vương.

2. Thức tương ưng, tức sáu vị Tâm sở.

3. Thức sở biến, tức hai phần Kiến và Tướng.

4. Thức phận vị tức hai mươi bốn giả pháp Bất tương ưng hành, chúng chỉ là giả tướng sai biệt giữa Sắc và Tâm.

5. Thức thực hành, tức chơn lư, chơn như thật tánh của bốn thứ trên. Như vậy Thức thật tánh là lư, c̣n bốn thứ trên là sự. Năm vị pháp này là bao quát hết thảy pháp thế gian, xuất thế gian, hữu vi vô vi, hữu lậu vô lậu. Chúng đều không ĺa thức, đều là biểu hiện của thức, nên gọi là Duy thức.

Mỗi mỗi hữu t́nh từ vô thỉ vốn có tám thức, sáu vị Tâm sở, các pháp sự lư như vậy. Chúng chỉ hiện hữu được trên thức, ngoài thức ra th́ không có hiện hữu nào hết, v́ ngoài thức ra th́ ta không thể biết có ǵ cả, nếu ta tưởng tượng có một hiện tượng ǵ ở ngoài thức, th́ nó cũng là thức biến, v́ nó là tướng của thức tưởng tượng ra.

Duy có ba nghĩa:

1. Nghĩa giản tŕ: giản là giản biệt, kén chọn bỏ đi có tánh phủ định, giá thuyên. Bỏ đi cái ǵ? Bỏ đi hai chấp ngă và pháp thật có. Tŕ là giữ lấy, có tính khẳng định, biểu thuyên. Giữ lấy cái ǵ? Giữ lấy thức tướng Y tha khởi và thức tánh Viên thành thật. Các pháp Y tha duyên khởi là tướng của thức. Hai không (ngă không, pháp không) hiển lộ Viên thành thật tánh là tánh của Thức.

2. Nghĩa quyết định: Luận Biện Trung Biên nói: "Thử trung định hữu không, ư bỉ diệc hữu thử" nghĩa là trong thức tướng Y tha duyên khởi thuộc tục sự này quyết định có thức tánh do hai không hiển lộ thuộc chơn lư kia, v́ chơn không ĺa tục mà có, ngược lại, trong chân lư hai không kia quyết định có tục sự Y tha duyên khởi này, v́ tục không thể ĺa chơn mà có.

Như vậy "Thức" vừa có nghĩa giá và biểu. "Giá"th́ ngăn chận, loại trừ ngă và pháp thật có ở ngoài thức. "Biểu" th́ biểu thị thức tướng Y tha khởi và thức tánh Viên thành thật. Sự và lư, tục và chơn hai mặt quyết định gắn liền với nhau của thức.

3. Nghĩa hiển thắng: Thắng là hơn, là thù thắng, nhằm chỉ cho thức Tâm vương hơn là cho thức Tâm sở mỗi khi nói Duy thức. Khi nói Duy thức là chú ư nói Duy thức Tâm vương.

Torng ba nghĩa trên, trong Duy thức thường chỉ dùng nghĩa thứ nhất.

(Chú thích số 35 này là dựa theo lời giải thích của Thái Hư Đại Sư).

 BA MƯƠI BÀI TỤNG DUY THỨC

1. Do giả nói ngă pháp,

    Có tướng ngă pháp chuyển.

    Chúng nương thức biến hiện.

    Thức biến hiện có ba.

 

2. Là Dị thục, Tư lương,

    Và thức Liễu biệt cảnh.

    Đầu, Thức A lại da

    Dị thục, Nhất thiết chủng.

 

3. Không thể biết chấp thọ,

    Xứ, liễu, tương ưng, xúc,

    Tác ư, thọ, tưởng, tư.

    Và chỉ có xả thọ.

 

4. Tánh vô phú vô kư,

    Xúc, thảy cũng như thế,

    Hằng chuyển như ḍng nước.

    A la hán, bỏ hết.

 

5. Thức biến hiện thứ hai,

    Gọi là thức Mạt na.

    Nương kia chuyển, duyên kia,

    Tư lương làm tánh tướng.

 

6. Tương ưng bốn phiền năo,

    Là ngă si, ngă kiến,

    Và ngă mạn, ngă ái,

    Cùng tâm sở Biến hành.

 

7. Tánh hữu phú vô kư,

    Sanh theo A lại da.

    Chứng La hán, Diệt định,

    Xuất thế đạo, không c̣n.

 

8. Thức biến hiện thứ ba,

    Sai biệt có sáu thứ,

    Tánh tướng là biết cảnh,

    Thiện, bất thiện, vô kư.

 

9. Cùng tâm sở Biến hành,

    Biệt cảnh, Thiện, Phiền năo,

    Tùy phiền năo, Bất định.

    Đều tương ưng ba Thọ.

 

10. Trước là Biến hành: xúc

      Tiếp, là Biệt cảnh: dục,

      Thắng giải, niệm, định, tuệ.

      Cảnh sở duyên không đồng.

 

11. Thiện là tín, tàm, quư,

      Không tham, không sân si,

      Siêng, an, không phóng dật,

      Hành xả và không hại.

 

12. Phiền năo là tham, sân,

      Si, mạn, nghi, ác kiến.

      Tùy phiền năo là phần,

      Hận, phú, năo, tật, xan,

 

13. Dối, nịnh và hại, kiêu,

      Không hổ và không thẹn,

      Trạo cử với hôn trầm,

      Không tin cùng giải đăi,

 

14. Phóng dật và thất niệm,

      Tán loạn, không chánh tri.

      Bất định là hối, miên.

      Tầm, tứ hai đều hai.

 

15. Nương dựa căn bản thức,

      Năm thức theo duyên hiện,

      Đồng thời khởi, hoặc không,

      Như sóng ṃi nương nước.

 

16. Ư thức thường hiện khởi,

      Trừ sanh trời Vô tưởng

      Và hai định vô tâm,

      Khi ngủ say, chết ngất.

 

17. Các thức ấy chuyển biến,

      Phân biệt, bị phân biệt,

      Do kia, đây đều không,

      Nên hết thảy Duy thức.

 

18. Do thức Nhất thiết chủng,

      Biến như vậy như vậy,

      V́ năng lực triển chuyển,

      Kia kia, phân biệt sanh.

 

19. Do tập khí các nghiệp,

      Cùng tập khí hai thủ,

      Thân Dị thục trước hết.

      Lại sanh Dị thục khác.

 

20. Do biến kế nọ kia,

      Biến kế chủng chủng vật,

      Biến kế sở chấp này,

      Tự tánh toàn không có.

 

21. Nên nó cùng Y tha,

      Chẳng khác chẳng không khác.

      Như tánh vô thường thảy,

      Thấy đây, mới thấy kia.

 

23. Chính nương ba tánh này,

      Lập ba vô tánh kia.

      Nên Phật "mật ư" nói:

      "Hết thảy pháp không tánh".

 

24. Trước là "Tướng không tánh",

      Kế, "Không tự nhiên tánh".

      Sau, do ĺa tánh trước,

      Là tánh chấp ngă pháp.

 

25. Đây, thắng nghĩa các pháp,

      Cũng tức là chơn như;

      V́ thường như tánh nó,

      Tức thực tánh Duy thức.

 

26. Cho đến chưa khởi thức.

      Cầu trụ tánh Duy thức.

      Đối hai thủ tùy miên,

      C̣n chưa thể phục diệt.

 

27. Hiện tiền lập chút vật,

      Cho là tánh Duy thức.

      V́ c̣n có sở đắc,

      Chưa thực trụ Duy thức.

 

28. Khi đối cảnh sở duyên,

      Trí không sở đắc ǵ,

      Bấy giờ trụ Duy thức,

      Do ĺa tướng hai thủ.

 

29. Không đắc, chẳng nghĩ ngh́

      Là trí xuất thế gian.

      V́ bỏ hai thô trọng,

      Chứng đắc hai chuyển y.

 

30. Đây, tức giới vô lậu,

      Chẳng nghĩ ngh́, thiện, thường.

      An lạc, thân giải thoát,

      Đại Mâu ni pháp thân.

Trong 30 bài tụng này, 24 bài đầu là nói rơ Tướng Duy thức. Bài thứ 25, nói rơ Tánh Duy thức. Năm bài sau chót nói năm hạnh vị tu chứng.

Trong 24 bài đầu, một bài rưỡi đầu lược biện Tướng Duy thức; hai mươi hai bài rưỡi tiếp theo rộng biện Tướng Duy thức. 

HẾT

 

previous.png   back_to_top.png

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

 

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0