* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

LUẬN CÂU-XÁ
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân
Hán dịch Huyền Trang

Việt dịch: Đạo Sinh

--o0o--

Chương 2a : Phân biệt căn

Phần 3

Trong chương nói về giới trước đây đă có liệt kê các căn (indriya), như vậy căn có nghĩa là ǵ?

Ngữ căn ind có nghĩa là năng lực tối thượng (paramaiśvarya) (Dhātupāṭtha, i. 64). Loại pháp có được năng lực tối thượng có tên là căn. Như vậy ư nghĩa tổng quát của căn là tăng thượng (adhipati). 

(Hỏi) Ư nghĩa tăng thượng của căn nằm ở những sự việc nào?

Tụng đáp:

傳說五於四               四根於二種
      五八染淨中            各別為增上

 [Theo truyền thuyết, năm căn nhăn, v.v., có bốn sự.

Mỗi một trong bốn căn nam, v.v., đều có hai loại.

Năm căn thọ, v.v., tám căn tín, v.v., đối với các pháp nhiễm tịnh

Đều có riêng ư nghĩa tăng thượng.]

Luận: mỗi một trong năm căn nhăn, v.v., có ư nghĩa tăng thượng đối với (1) sự trang nghiêm của thân (ātmabhāvaśobha), (2) sự bảo dưỡng thân (parirakṣaṇa), (3) sự sinh khởi thức (vijñāna) và các tâm sở tương ưng với thức, (4) sự hoạt động riêng biệt.

Các căn nhăn, nhĩ có ư nghĩa tăng thượng v́ (1) làm trang nghiêm thân, nếu không có hai căn này th́ sẽ bị đui điếc, xấu xí, (2) bảo dưỡng thân, tức nhờ thấy và nghe mà tránh được những điều nguy hiểm, (3) phát sinh nhăn thức, nhĩ thức và các tâm sở pháp tương ưng, (4) hoạt động riêng biệt, như khả năng nh́n thấy chỉ thuộc về nhăn căn, khả năng nghe tiếng chỉ thuộc về nhĩ căn.

Các căn tỷ, thiệt và thân có ư nghĩa tăng thượng bởi v́ (1) làm trang nghiêm thân, (2) bảo dưỡng thân nhờ hấp thụ các thức ăn cứng (đoạn thực, kavaḍīkahāra), (3) sinh khởi ba thức, (4) họat động riêng biệt, (như ngửi mùi, nếm vị, xúc chạm).

Bốn căn nam, nữ, mạng và ư có ư nghĩa tăng thượng đối với hai việc (Vibhāṣā, 147, 10).

Nam và nữ căn (1) giúp phân loại chúng sinh (hữu t́nh dị, sattavbheda), tức v́ có hai căn nên chúng sinh được xếp thành hai loại nam nữ khác nhau; (2) giúp phân biệt chúng sinh (phân biệt dị, sattvavikalpabheda), tức nhờ có hai căn nên mới có sự khác biệt giữa hai giới tính về h́nh dáng (saṃsthāna), giọng nói (svara), phong cách sinh hoạt (ācāra).

Có luận sư (cổ đức, pūrvācārya) không chấp nhận giải thích trên. Họ cho rằng hai căn nam nữ chỉ cho thấy sự khác biệt giữa những chúng sinh ở Sắc giới không có các căn nam nữ và sự phân loại về giới tính dựa vào sự khác biệt này. V́ thế nếu hai căn nam nữ có được ư nghĩa tăng thượng đối với hai việc th́ hai việc đó là sự ô nhiễm và sự thanh tịnh. Thật vậy ba loại hoạn quan (phiến suy, bán trạch) và lưỡng trạch (nhị h́nh nhân) đều nằm ngoài (1) các pháp tạp nhiễm (saṃkleśika) như không đắc luật nghi, tạo vô gián nghiệp, đoạn thiện căn; và cũng nằm ngoài (2) các pháp thanh tịnh (vāiyavadanika) như đắc luật nghi, đắc quả ly nhiễm (vairāgya).

Mạng căn có ư nghĩa tăng thượng v́ (1) làm cho chúng đồng phần (niākayasabhāga) được tương tục (saṃbandha), tức tạo ra (utpatti) một hiện hữu; và (2) duy tŕ () chúng đồng phần này, tức sự kéo dài của một hiện hữu từ khi sinh ra cho đến khi chết.

Ư căn có ư nghĩa tăng thượng v́ (1) làm cho đời sống kế tiếp (hậu hữu) được tương tục (punarbhavasaṃbandha), như kinh có nói: “lúc bấy giờ Kiện-đạt-phược (Gandharva), tức một chúng sinh đang ở vào giai đoạn trung hữu (antarābhava), có một trong hai tâm là ái hoặc sân…”; và (2) có khả năng tự tại (vaśībhāvānuvartana): Tất cả các pháp đều phải tùy thuộc vào ư, như kinh (Saṃyutta, i, 39) nói: “Tâm có khả năng dẫn đường cho thế gian, bao nhiếp thế gian; tất cả các pháp đều phải tùy phục một tâm này”. Năm căn thọ là lạc, khổ,hỷ, ưu, xả và tám căn tín, cần, niệm, định, tuệ, vị tri đương tri, dĩ tri, cụ tri đều có ư nghĩa tăng thượng đối với các pháp nhiễm và tịnh.

Các căn lạc, v.v., có ư nghĩa tăng thượng đối với nhiễm pháp bởi v́ thường bị các pháp tùy miên như tham, v.v., đeo bám, tăng trưởng. Tám căn tín, v.v., có ư nghĩa tăng thượng đối với tịnh pháp bởi v́ tất cả các pháp thanh tịnh đều dựa vào chúng để sinh khởi và tăng trưởng.

Có luận sư (Vibhāṣā, 142, 11) cho rằng các thọ cũng có ư nghĩa tăng thượng đối với tịnh pháp, như kinh có nói: “nhờ lạc nên tâm định, nhờ khổ nên có tín, nhờ hỷ, ưu, xả nên có xuất ly”.

Đây là giải thích của Tỳ-bà-sa.

Các luận sư (Sautrāntika) lại nói rằng (1) sự tăng thượng của các căn nhăn, v.v., không phải là bảo dưỡng thân mà đó là khả năng của các thức nhăn, v.v.; bởi v́ nhờ có phân biệt nên mới tránh được nguy hiểm và thọ dụng các loại thức ăn cứng; và (2) sự hoạt động riêng biệt như thấy sắc, v.v., là thuộc về nhăn thức chứ không phải nhăn căn. V́ thế những giải thích trước đây về ư nghĩa tăng thượng của các căn nhăn, v.v., đều không hợp lư.

(Hỏi) Nếu vậy, ư nghĩa tăng thượng của các căn là ǵ?

Tụng đáp:

     了自境增上                  總立於六根
 從身立二根                  女男性增上
 於同住雜染                  清淨增上故
 應知命五受                  信等立為根
 未當知已知                  具知根亦爾
 於得後後道                  涅槃等增上

 [V́ tăng thượng đối với sự liễu biệt cảnh

Cho nên cả sáu căn đều được lập thành.

Từ thân lập thành hai căn

V́ tăng thượng đối với nữ tánh đối với nữ tánh và nam tánh.

Đối với sự đ́nh trụ của đồng phần, nhiễm pháp

Và tịnh pháp v́ có tăng thượng

Cho nên biết rằng mạng, năm thọ,

Và tín, v.v., đều được lập làm căn.

Các căn vị tri đương tri, dĩ tri

Và cụ tri cũng như vậy.

V́ đối với việc đắc được các đạo quả kế tiếp

Như Niết-bàn, v.v., đều có tăng thượng.]

Luận: Liễu biệt (upalabdhi) tự cảnh chính là sáu thức thân. Năm căn nhăn, v.v., có tác dụng tăng thượng đối với loại thức có khả năng liễu biệt các cảnh sở duyên riêng của ḿnh và ư căn có tác dụng tăng thượng đối với loại thức có khả năng liễu biệt tất cả các cảnh; v́ thế nhăn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ư đều được gọi là căn.

(Hỏi) Các cảnh sắc, v.v., cũng có ư nghĩa tăng thượng đối với các thức liễu biệt lẽ ra cũng nên gọi là căn?

(Đáp) Cảnh không có tác dụng tăng thượng bởi v́ tăng thượng (ādhipatya) có nghĩa là năng lực thù thắng (ādhikaprabhuta). Nhăn căn được gọ là tăng thượng bởi v́ có năng lực tự tại trong việc phát khởi loại thức liễu biệt sắc và là nhân cho tất cả các thức liễu biệt sắc; trong khi mỗi cảnh chỉ hỗ trợ cho việc phát một thức độc nhất. Hơn nữa, nhăn thức có được rơ ràng hay mơ hồ, mạnh hay yếu là tùy thuộc vào năng lực của nhăn căn trong khi sắc lại không có khả năng này. Đối với các căn và các cảnh khác cũng như vậy.

Từ thân căn (kāyendriya) lại lập thành hai căn nam và nữ bởi v́ chúng có tác dụng tăng thượng đối với nữ tánh và nam tánh. Hai căn này không khác với thân căn v́ chúng vẫn tri nhận xúc. Tuy nhiên có một phần của thân căn có tên là nam căn hoặc nữ căn là v́ phần này có tác dụng tăng thượng đối với tánh chất nam hay nữ. Nữ tánh bao hàm h́nh dáng (ākṛti), âm thanh (svara), cử chỉ (ceṣṭā), chí hướng (abhiprāya) thuộc riêng về nữ giới; đối với nam giới cũng như vậy. Sự khác biệt giữa hai giới là nhờ vào hai phần này của thân cho nên biết rằng hai phần này có tác dụng tăng thượng đối với hai tánh và v́ thế được lập thành căn.

V́ có tác dụng tăng thượng đối với sự đ́nh trú của chúng đồng phần, đối với các nhiễm pháp và các tịnh pháp mà mạng căn, năm thọ và năm căn tín, v.v., đă được lập thành căn.

Mạng căn có tác dụng tăng thượng đối với sự kéo đài đời sống từ khi sinh cho đến khi chết; tuy nhiên các luận sư Tỳ-bà-sa lại cho rằng không phải là sự kéo dài đời sống mà là sự nối kết đời sống này với đời sống khác và sự nối kết này hoàn toàn tùy thuộc vào ư (mana).

Năm căn lạc, v.v., có tác dụng tăng thượng đối với các nhiễm pháp, như kinh (Madhyamāgama 17, 11; Saṃyutta, iv. 208) nói: “tham nương vào lạc thọ mà tăng trưởng, sinh nương vào khổ thọ mà tăng trưởng, vô minh nương vào bất lạc bất khổ mà tăng trưởng”. (Về điểm này các luận sư thuộc Kinh bộ đều đồng ư với Tỳ-bà-sa.)

Năm căn tín, v.v., có tác dụng tăng thượng đối với các tịnh pháp bởi v́ nhờ có thế lực của chúng mà hàng phục (viṣkambhyante) được các phiền năo (kleśa) và dẫn dắt (āvāhyate) được thánh đạo. Ở đây nói “ưng tri” là hàm ư là hành giả nên thừa nhận rằng mỗi một pháp được bàn đến ở trên đều có khả năng được lập thành căn.

Ba căn vị tri đương tri, dĩ tri và cụ tri đều có tác dụng tăng thượng đối với việc đắc được các quả cao hơn như Niết-bàn, cho nên cũng giống như vậy. Nói “cũng giống như vậy” (diệc nhĩ) là hàm ư cả ba căn này đều được lập thành.

Vị tri đương tri căn có tác dụng tăng thượng đối với việc đắc được đạo quả là dĩ tri căn.

Dĩ tri căn có tác dụng tăng thượng đối với đắc được đạo quả là cụ tri căn.

Cụ tri căn có tác dụng tăng thượng đối với việc đắc được đạo quả là Niết-bàn (nirupadhiśeṣanivāṇa) bởi v́ không có trường hợp tâm chưa được giải thoát mà lại có thể nhập Niết-bàn (parinivāṇa).

Chữ “đẳng” (vân vân) của tụng văn hàm ư có thêm một giải thích khác:

Vị tri đương tri căn có tác dụng tăng thượng đối với sự hủy diệt của các phiền năo được đoạn trừ ở kiến đạo (kiến sở đoạn phiền năo).

Dĩ tri căn có tác dụng tăng thượng đối với sự hủy diệt của các phiền năo được đoạn trừ ở tu đạo (tu sở đoạn phiền năo).

Cụ tri căn có tác dụng tăng thượng đối với hiện pháp lạc trụ (dṛṣṭadharmasukhavihāra); nhờ nó mới có khả năng lănh thọ (pratisaṃvedanā) hỷ (prīti = saumanasya) và lạc (sukha = praśrabdhisukha) của sự giải thoát các phiền năo.

(vấn nạn của Số luận, [Saṃkhya]) Tại sao chỉ lập hai mươi hai căn? Nếu v́ có tác dụng tăng thượng nên được lập làm căn th́ vô minh (avidyā) và các chi khác thuộc mười hai nhân duyên (pratītyasamutpāda) cũng nên lập làm căn bởi v́ các nhân vô minh, v.v., có tác dụng tăng thượng đối với các quả là hành (saṃskāra), v.v.; ngoài ra tiếng nói (vāk), tay, chân, giang môn, dương vật (upastha) đều có tác dụng tăng thượng đối với lời nói, sự cầm nắm, sự bước đi, sự bài tiết, sự vui thích (ānanda) cũng nên được lập thành căn.

(đáp) không có chỗ dành cho vô minh, v.v., trong số hai mươi hai căn mà Thế tôn đă thuyết giảng. Khi kể ra các căn, Thế tôn đă căn cứ vào các tính chất như sau:

心所依此別                  此住此雜染
      此資糧此淨                  由此量立根

[Làm sở y cho tâm, giúp phân biệt nam nữ,

Giúp đ́nh trụ, làm cho tạp nhiễm,

Làm hành trang tu tập, làm cho thanh tịnh,

V́ các tính chất trên nên được lập làm căn.]

Luận: Sở y (āśraya) của tâm là sáu căn của thức, từ nhăn căn cho đến ư căn. Chúng là sáu xứ (āyatana) ở bên trong, là những thành phần cấu tạo đầu tiên của một chúng sinh (maulasattvadravya).

Các tính chất khác biệt của chúng sinh này là do nữ hoặc nam căn.

Chúng sinh này có đ́nh trụ trong một thời gian là do mạng căn.

Chúng sinh này bị nhiễm ô là v́ năm thọ.

Chúng sinh này có thể chuẩn bị cho sự tu tập giải thoát là nhờ có năm căn tín, v.v.

Chúng sinh này được thanh tịnh là nhờ ba căn vô lậu.

Các pháp này có tính chất tăng thượng đối với sự tạo thành, sự phân loại, v.v., của chúng sinh nên được gọi là căn. Các pháp khác như tiếng nói không có tính chất này nên không lập thành căn.

Có luận sư đă đưa một giải thích khác về tính chất của căn như sau:

 

或流轉所依                  及生住受用
      建立前十四                  還滅後亦然

 [Hoặc v́ làm sở y cho lưu chuyển, v́ giúp sinh khởi, đ́nh trụ và thọ dụng,

Nên lập thành mười bốn căn đầu.

Về sau đối với hoàn diệt cũng như vậy]

Luận: Chữ “hoặc” ở đây là chỉ cho ư kiến của các luận sư khác:

Sáu căn nhăn, v.v., (lục xứ, ṣaḍāyatana) là sở y (āśraya) của lưu chuyển (luân hồi, saṃsāra).

Sáu xứ sinh khởi là nhờ có nữ hoặc nam căn, đ́nh trụ được là nhờ có mạng căn, lănh thọ được là nhờ có năm thọ. Như vậy đă dựa vào các ư nghĩa trên để lập thành mười bốn căn thuộc giai đoạn lưu chuyển.

Ở giai đoạn hoàn diệt (Niết-bàn, nīrvāṇa) cũng dựa vào bốn ư nghĩa này để lập thành tám căn: Năm căn tín, v.v., là sở y của Niết-bàn; Niết-bàn sinh khởi nhờ có loại căn vô lậu thứ nhất, đ́nh trụ nhờ có loại căn vô lậu thứ hai, và thọ dụng là nhờ có loại căn vô lậu thứ ba bởi v́ nhờ có loại căn này mới có thể thọ hỷ và lạc (prītisukha) của giải thoát. Như vậy số lượng và thứ tự của các căn vẫn giống như đă được kinh lập thành.

Về tiếng nói (vāc), tay (pāṇi), chân (pāda), cửa đại tiểu tiện (pāya), bộ phận sinh dục (upastha), đều không phải là căn.

Tiếng nói không có tác dụng tăng thượng đối với lời nói (vacana) bởi v́ lời nói h́nh thành được là nhờ sự học tập. Tay và chân không có tác dụng tăng thượng đối với sự cầm nắm (ādāna) và đi lại (viharaṇa) bởi v́ sự cầm nắm và đi lại chỉ là sự sinh khởi của tay và chân ở sát-na kế tiếp trong một vị trí khác với một h́nh dạng khác; hơn nữa không có tay chân vẫn có thể cầm nắm và đi lại như trong trường hợp các loại ḅ sát. Các cửa đi đại tiểu tiện không có tác dụng tăng thượng đối với sự bài tiết bởi v́ những vật nào nặng (gurudravya) th́ luôn luôn rơi xuống trong khoảng không, hơn nữa chính sức gió (phong giới, vāyudhātu) đẩy các chất thải này ra ngoài. Các bộ phận sinh dục cũng không có tác dụng tăng thượng đối với sự vui thích (ānanda) bởi v́ sự vui thích phát sinh là do nữ căn hoặc nam căn.

Nếu cho rằng tay, chân, v.v., là căn th́ cổ họng (kaṇṭha), răng (danta), mí mắt (akṣivartman), các khớp xương (angulīparvan) cũng phải được lập thành căn bởi v́ chúng cũng có tác dụng nuốt (abhyavaharaṇa), nhai (carvaṇa), mở đóng (unmeṣanimeṣa), co duỗi các đốt xương (saṃkocavikāśa); hoặc tất cả các nhân có tác động (puruṣakāra) đến quả đều phải được lập làm căn. Tuy nhiên căn chỉ được lập thành khi có tác dụng tăng thượng (ādhipatya).

Trên đây đă giải thích về các căn nhăn, v.v., và hai căn nam nữ. Mạng căn sẽ được tŕnh bày trong phần nói về các pháp tâm bất tương ưng (cittaviprayukta) bởi v́ nó cũng là một trong số các pháp này. Năm căn tín, v.v., là các tâm sở (caitta) cho nên sẽ được đề cập cùng với các tâm sở. Năm căn thọ và ba căn vô lậu sẽ được tŕnh bày tiếp sau đây bởi v́ chúng không c̣n được nói đến ở nơi nào khác.

身不悅名苦                即此悅名樂
      及三定心悅                          餘處此名喜
      心不悅名憂               中捨二無別
      見修無學道               依九立三根

 [Thân không vui gọi là khổ;

Nếu vui th́ gọi là lạc

Ở đệ tam định, tâm vui cũng gọi như vậy

Ở các chỗ khác, tâm vui gọi là hỷ

Tâm không vui gọi là ưu

Xả nằm ở giữa v́ không phân biệt khổ hay lạc

Ở kiến đạo, tu đạo và Vô học đạo

dựa vào chín căn để lập ba căn.]

Luận: “Thân” là thân thọ v́ nương vào thân để khởi và tương ưng với năm thức nhăn, v.v.; “bất duyệt” (không thích ư, asātā) là làm (upaghātikā). Loại thọ tương ưng với năm thức thân và làm tổn năo được gọi là khổ căn (duḥkhendriya).

“Duyệt” (thích ư, sātā) là làm thoải mái, dễ chịu (anugrāhikā). Loại thân thọ làm cho thích ư được gọi là lạc căn (sukhendriya).

Ở đệ tam thiền, loại thọ tương ưng với tâm và làm cho thích ư cũng được gọi là lạc căn. Nói “thọ tương ưng với căn” (tâm thọ) là hàm ư ở đệ tam thiền không có thân thọ bởi v́ không có năm thức thân cho nên thọ chỉ tương ưng với tâm (ư thức, manovijñāna); khi tâm cảm thấy thoải mái dễ chịu th́ gọi loại tâm thọ này là lạc căn.

Ở ba địa dưới (Dục giới, sơ thiền, đệ nhị thiền) loại thọ này được gọi là hỷ căn (saumanasyendriya).

Ở các địa bên trên đệ tam thiền đều không có loại thọ này.

Ở đệ tam thiền, loại tâm thọ này vốn an tịnh (kṣema, śānta) bởi v́ hành giả khi nhập định đă xả ly hỷ tham (prītivītarāgatvāt) v́ thế chỉ có lạc mà không có hỷ. Trong khi ở các địa dưới loại tâm thọ này vốn thô động bởi v́ hành giả chưa xả ly hỷ tham cho nên chỉ gọi là hỷ.

Loại tâm thọ (thọ tương ưng với ư thức) thường làm tổn năo được gọi là ưu căn.

Chữ “trung” (ở giữa) có nghĩa là “không phải thích ư cũng không phải không thích ư” tức chỉ cho loại thọ không khổ không lạc (bất khổ bất lạc, aduḥkhāsukhā). Ở đây, loại thọ nằm ở giữa (trung thọ) này được gọi là xả căn (upekṣendriya).

(Hỏi) Như vậy xả căn thuộc về thân thọ hay tâm thọ?

(Đáp) thuộc về cả hai.

(Hỏi) Tại sao vừa thuộc thân vừa thuộc tâm mà chỉ có một căn?

(Đáp) Bởi v́ dù thuộc thân hay tâm, xả thọ đều không có sự phân biệt (vikalpa). Các tâm thọ khổ, lạc sinh khởi là do sự phân biệt về “khả ái”, “không khả ái”, v.v.. Trái lại các thân thọ sinh khởi là do cảnh ở ngoài (viṣayavaśāt). Các bậc a-la-hán cũng như vậy, tức không c̣n phân biệt về khả ái, bất khả ái, v.v., nhưng vẫn c̣n có các thân thọ sinh khởi do cảnh ở ngoài.

V́ thế đă dựa vào hai loại thân và tâm thọ khác nhau để lập thành các căn khổ, lạc.

Xả căn th́ khác, sinh khởi một cách tự nhiên (svarasena, anabhisaṃskāreṇa) giống như tất cả các loại thân thọ khác nhưng lại sinh khởi ở một người không có bất cứ khái niệm phân biệt nào cả (avikalpayata, anabhinirūpayata) v́ thế chỉ lập thành một căn cho cả hai loại thân và tâm.

Hơn nữa, các loại thọ khổ lạc khi ở thân và khi ở tâm đều làm tổn năo hay vui thich theo cách riêng của mỗi loại. V́ thế phải lập riêng thành hai loại thuộc thân và tâm khác nhau. 

Trong khi xả căn dù ở thân hay tâm đều không có tính chất phân biệt (vikalpana), không làm tổn năo cũng không làm vui thích. V́ tính chất không khác nhau này mà ở thân và tâm chỉ lập chung làm một căn.

Chín căn ư, lạc, hỷ, xả, tín, cần, niệm, định và tuệ lập thành vị tri đương tri căn ở giai đoạn kiến đạo (darśanamārga), lập thành dĩ tri căn ở giai đoạn tu đạo (bhāvanāmārga) và lập thành cụ tri căn ở Vô học đạo (Aśaikṣamārga).

(Hỏi) V́ sao ba loại căn ở trên được gọi tên như vậy?

(Đáp) Khi hành giả ở kiến đạo nỗ lực t́m hiểu những điều chưa hiểu được (anājñātam āñātuṃ pravṛtta) là tứ đế th́ suy nghĩ răng: “ta sẽ hiểu được”. V́ thế loại căn này có tên là vị tri đương tri căn (anājñātamājñāsyāmīndriya). Khi ở vào giai đoạn tu đạo (bhāvanāmārga, con đường của sự thiền quán về [tứ đế], hành giả không có ǵ mới để t́m hiểu và là người “đă biết” (ājña). Tuy nhiên để đoạn trừ các phiền năo (anuśaya) c̣n lại, hành giả phải thường xuyên quán sát tứ đế đă được liễu tri; v́ thế loại căn này có tên là dĩ tri căn (ājñām evendriyam iti vā). Khi ở Vô học đạo, hành giả biết được là ḿnh đă biết, hành giả biết được (āva = avagama) rằng tứ đế đă được liễu tri (ājñātām-iti). V́ có được “cái biết là ḿnh đă biết” (ājñātā-āva) này mà hành giả được gọi là người cụ tri (ājñātāvin người biết rằng ḿnh đă biết) và loại căn này được gọi là cụ tri căn (ājñātāvīdriya). Hoặc v́ hành giả (ājñātāvin) thường thực hành “cái biết (avitum) rằng lư tứ đế đă được liễu tri (ājñāta)” này lâu ngày thành tánh (thói quen, śīla) nên nói là cụ tri. Thật vậy khi hành giả đắc được tận trí (kṣyajñāna) và vô sinh trí (anutpādajñāna) th́ tự biết được như thật rằng: “tất cả những ǵ về khổ ta đă biết hết, không c̣n ǵ để biết về nó nữa”; “tất cả những ǵ về tập ta đă biết hết, không c̣n…”; v.v..

Trên đây đă giải thích các tính chất riêng biệt của các căn; tiếp theo là phần nói về các nội dung khác nhau của chúng. Trong hai mươi hai loại căn này, căn nào thuộc hữu lậu và căn nào thuộc vô lậu?

 唯無漏後三                  有色命憂苦
      當知唯有漏                  通二餘九根

 [Chỉ có ba căn cuối cùng là vô lậu.

Các sắc căn, mạng căn, ưu căn, khổ căn chỉ là hữu lậu.

Chín căn c̣n lại thuộc cả hai loại.]

 Luận: Ba căn cuối cùng thuộc vô lậu. Vô lậu (anāsrava, không có khuyết điểm) có nghĩa là vô cấu (amala, không có vết bẩn) bởi v́ cấu và lậu tuy gọi tên khác nhau nhưng có nghĩa giống nhau.

Bảy sắc căn (rūpin) (gồm nhăn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn, nữ căn và nam căn bởi v́ đều thuộc về sắc uẩn) mạng căn, khổ căn và ưu căn đều thuộc hữu lậu.

Ư căn, lạc căn, hỷ căn, xả căn, và năm căn tín, v.v., có thể vô lậu hoặc hữu lậu.

Có luận sư (Vibhāṣā, 2, 10) cho rằng năm căn tín, v.v., chỉ thuộc vô lậu, bởi v́ Thế tôn có nói: “những người nào ở vào mức độ nào đó, hoàn toàn không có năm căn tín, v.v., th́ ta gọi người đó là người ở ngoài, thuộc về hàng dị sinh”. (Saṃyutta, v. 204). Như vậy nếu đắc được năm căn tín, v.v., ở một mức độ nào đó th́ đó là một a-la-hán và thuộc về vô lậu.

Trích dẫn trên đây không thể làm luận chứng. Thế tôn nói như vậy là để chỉ cho những người không có năm căn tín, v.v., vô lậu; bởi v́ trước đây Thế tôn đă dựa vào năm căn tín, v.v., vô lậu để lập thành các hàng thánh giả khác nhau. Như vậy ngài đă ám chỉ năm loại tín, v.v., dành riêng cho hàng thánh giả, tức phải thuộc về vô lậu; và những ai thiếu các căn vô lậu này hiển nhiên phải thuộc về dị sinh (pṛthagjana). Hoặc có thể là bản kinh này đă nói một cách tổng quát về năm loại tín, v.v., bởi v́ có hai loại dị sinh: Loại ở ngoài (bāhyaka) và loại ở trong (ābhyantaraka). Loại ở ngoài (ngoại dị sinh) đă đoạn thiện căn nhưng loại ở trong (nội dị sinh) th́ không đoạn thiện căn. Chính v́ muốn ám chỉ hàng ngoại dị sinh mà Thế tôn đă nói: “ta gọi người đó là người ở ngoài, thuộc về hàng dị sinh”. Hơn nữa kinh (Dīgha, ii. 38; Majjhima, i. 169) có nói rằng trước khi chuyển pháp luân có những người ở tại thế gian, hoặc sinh ra hoặc lớn lên đều có các căn cao, thấp, trung b́nh khác nhau, v́ thế biết rằng năm căn tín, v.v., cũng thuộc về hữu lậu.

Cuối cùng đức Thế tôn c̣n nói: “nếu ta không biết được như thật nguồn gốc, sự thối thất, sự lợi ích (āsvāda), sự bất lợi (ādīnava), sự xuất ly (niḥsaraṇa) của năm căn tín, v.v., th́ ta không thể cởi bỏ (mukta) ra khỏi (niḥsṛta) tách rời (visaṃyukta) giải thoát (vipramukta) thế gian của người, trời, ma (Māra), phạm (Brahmā), v.v.; ta sẽ không thể chứng đắc vô thượng chánh đẳng Bồ-đề…” (Saṃyktāgama, 26, 4). Như vậy có thể thấy rằng đoạn kinh ở trên không chỉ bàn riêng đến các pháp vô lậu bởi v́ các pháp vô lậu vốn không có các tính chất như “lợi ích”, “bất lợi”, “xuất ly”, v.v., v́ thế năm căn tín, v.v., đều thuộc về vô lậu và hữu lậu.

(Hỏi) Trong hai mươi căn, căn nào dị thục, căn nào không phải dị thục?

Tụng đáp:

命唯是異熟                  憂及後八非
      色意餘四受                  一一皆通二

[Mạng căn luôn luôn thuộc về dị thục

Ưu căn và tám căn cuối không phải là dị thục

Sắc căn, ư căn và bốn thọ c̣n lại đều thuộc cả hai loại.]

Luận: Mạng căn chỉ thuộc về dị thục. 

(Hỏi) Khi một bí-sô a-la-hán (Bhikṣu Arhat) ổn định hoặc kéo dài (sthāpayati, adhitiṣṭhati) các năng lực sinh tồn (thọ hành, āyuḥsaṃskāra) của ḿnh th́ năng lực này chính là mạng căn. Như vậy loại mạng căn này là dị thục của loại nghiệp nào?

(Đáp) Bổn luận (Mūlaśāstra) (Jñānaprasthāna, 12, 14) viết: “Một bí-sô ổn định thọ hành như thế nào? - Khi một vị a-la-hán thành tựu thần thông (ṛddhimān = prāptābhijñāḥ), đắc tâm tự tại (cetovaśita), và đem các vật dụng cần thiết cho cuộc sống (jīvatapariṣkāra), y phục, b́nh bát, v.v., bố thí cho tăng chúng (saṃgha) hay cho chỉ một người; sau đó phát nguyện nhập đệ tứ biên tế tĩnh lự (prātakoṭika) khi xuất định vị này suy nghĩ rồi nói rằng: “nguyện cho loại nghiệp có khả năng chiêu cảm một quả dị thục có tính chất hưởng thụ (phú dị thục quả, bhogavipāka) này có thể chuyển biến mà chiêu cảm một quả dị thục về sự sống (thọ dị thục quả, āyurvipāka)!” Lúc bấy giờ loại nghiệp (bố thí và thiền định) lẽ ra phải chiêu cảm quả phú dị thục của vị này liền chuyển biến mà chiêu cảm quả thọ dị thục.”

Các luận sư khác lại cho rằng thọ mạng kéo dài của một a-la-hán là quả dị thục của một nghiệp xa xưa. Họ nói rằng sự lưu lại (uccheṣa) của một quả thọ dị thục lẽ ra đă chín ở kiếp trước nhưng bị gián đoạn chết trước định kỳ, nay nhờ có định lực của đệ tứ biên tế tĩnh lự dẫn dắt cho nên có thể thọ dụng trở lại.

(Bổn luận lại viết tiếp): “các bí-sô xả bỏ các thọ hành như thế nào? - Một vị a-la-hán thành tựu thần thông, đắc tâm tự tại, bố thí các thứ như trên cho tăng chúng, sau đó phát nguyện nhập đệ tứ biên tế tĩnh lự. Khi xuất định vị này suy nghĩ rồi nói rằng: “nguyện cho loại nghiệp có khả năng chiêu cảm quả thọ dị thục có thể chuyển biến mà chiêu cảm một quả phú dị thục!”. Lúc bấy giờ loại nghiệp lẽ ra phải chiêu cảm quả thọ dị thục của vị này đă chuyển biến mà chiêu cảm một quả phú dị thục.”

Tôn giả Diệu âm (Bhadanta Ghoṣaha) nói: Nhờ năng lực của đệ tứ biên tế tĩnh lự dẫn dắt mà các đại chủng (mahābhūta) thuộc Sắc giới có thể hiện khởi (saṃmukhibhūta) trong thân của vị a-la-hán; tuy nhiên các đại chủng này có thể thuận hoặc nghịch với thọ hành v́ thế một vị a-la-hán mới có thể kéo dài hoặc xả bỏ đời sống.

Đúng như giải thích trên (của kinh bộ), nhờ vào sự tự tại của định (samādhivaśita) mà một a-la-hán có thể làm ngừng lại (vyāvartayante) sự phát khởi kéo dài trong một thời gian (sthitikālāvedha) của các đại chủng tạo thành căn, một sự phát khởi do nghiệp đời trước tạo ra; và rồi lại tạo ra một sự phát khởi mới từ định. V́ thế mạng căn, trong trường hợp thọ mạng được kéo dài của một vị a-la-hán không phải là dị thục. Tất cả các trường hợp khác đều là dị thục.

Từ vấn đề trên đây lại phát sinh một vấn đề khác: Tại sao a-la-hán lại kéo dài thọ hành? - V́ muốn làm lợi ích cho người khác, v́ muốn cho chánh pháp trụ thế lâu dài hơn (śāsanacirasthiti), v́ quán sát đời sống của ḿnh sắp diệt, v́ quán sát người khác không thể đảm đương hai mục đích trên.

Tại sao a-la-hán xả bỏ thọ hành? - V́ quán sát thấy sự có mặt của ḿnh ở thế gian không đem lại nhiều lợi lạc cho người khác hoặc v́ bị bệnh tật bức khổ thân như có bài tụng nói rằng: “đă khéo thành tựu các phạm hạnh; đă khéo tu tập các thánh đạo; hoan hỷ khi thọ mạng chấm dứt; giống như xả bỏ được bệnh tật”.

(Hỏi) Dựa vào chỗ nào để kéo dài hoặc xả bỏ thọ hành? Và những ai có thể làm việc này?

(Đáp) Trong ba châu (dvīpas) nam giới và nữ giới cũng như a-la-hán thuộc bất thời giải thoát (asamayavimukta) đă đắc biên tế tĩnh lự đều có thể kéo dài hoặc xả bỏ thọ hành bởi v́ đă có tự tại định và không c̣n phiền năo.

(Hỏi) Kinh (Divyāvadāna, 203; Dīgha, ii. 90) nói Thế tôn sau khi kéo dài nhiều mạng hành (jīvitasaṃskāra) đă xả bỏ nhiều thọ hành (āyuḥsaṃskāra); như vậy mạng hành và thọ hành khác nhau như thế nào?

(Dáp) Có luận sư nói rằng không khác nhau. Bổn luận (Mūlaśāstra) (Jñānaprasthāna, 14, 19) viết: “mạng căn là ǵ? - Đó là các thọ (āyus) trong tam giới”.

Có luận sư nói rằng thọ hành là quả của các nghiệp thuộc tiền kiếp; và mạng hành là quả của các nghiệp hiện tại.

Có luận sư cho rằng thọ hành giúp cho chúng đồng phần đ́nh trụ lâu dài (nikāyasabhāgasthiti) nhưng mạng hành chỉ giúp chúng đồng phần tạm thời đ́nh trụ. 

Ở đây nói “nhiều” (đa) là hàm ư kéo dài hoặc xả bỏ mạng hành và thọ hành trong nhiều niệm chứ không phải chỉ một sát-na. (bởi v́ chỉ nhờ vào sự tương tục trong nhiều sát-na, a-la-hán mới có thể làm lợi lạc cho người khác; hơn nữa chỉ một sát-na không thể là nhanh của sự đ́nh trụ.

Có luận sư cho rằng kinh nói “nhiều” là hàm ư bác bỏ chủ trương (Sāṃmitīyas) mạng và thọ là một thực thể kéo dài qua nhiều sát-na (kālāntarasthāvara).

Có luận sư (Sautrāntika) cho rằng nói “nhiều” là hàm ư bác bỏ chủ trương (Sarvāstivādins) có một thực thể gọi là mạng, thọ. Thật ra mạng và thọ chỉ được giả lập dựa vào các hành. Nếu không phải vậy lẽ ra kinh không nên phải dùng đến chữ “mạng hành” mà phải nói là “Thế tôn kéo dài các mạng (jīvitas), xả bỏ các thọ (āyus)”.

(Hỏi) Tại sao Thế tôn xả bỏ nhiều thọ hành mà kéo dài nhiều mạng hành?

(Trả lời của luận chủ) Để chứng tỏ rằng đă được tự tại đối với sự chết nên xả bỏ nhiều thọ hành; và để chứng tỏ đă được tự tại đối với sự sống nên kéo dài các mạng hành. Thế tôn kéo dài mạng hành chỉ trong ba tháng, không nhiều hơn cũng không ít hơn; bởi v́ sau ba tháng th́ việc giáo hóa (hóa sự, vineyakārya) của ngài đă xong, nhưng nếu ít hơn th́ việc hoằng pháp lợi sinh (phật sự, buddhakārya) của ngài lại không được rốt ráo.

(Giải thích của Tỳ-bà-sa [Vibhāṣā, 126, 6]) Hoặc v́ để thực hiện những điều phật đă nói trước đây (pratijñātasaṃpādanārtham): “tất cả bí-sô đă khéo tu tập tứ thần túc (ṛdhipāda) có thể tùy ư kéo dài một kiếp hay nhiều hơn một kiếp”. (Dīgha, ii. 103, iii. 77; Divya, 201).

Các luận sư Tỳ-bà-sa (Vaibhāṣikas) nói rằng Thế tôn xả bỏ và kéo dài là để chứng tỏ đă chế phục được hai loại uẩn ma và tử ma. Trước đây khi ngồi dưới cây Bồ-đề, ngài đă hàng phục hai loại thiên ma và phiền năo ma. (Ekottarikā, 39, 1).

Như vậy ưu căn và tám căn cuối cùng là tín, v.v., đều không phải dị thục bởi v́ chúng thuộc hữu kư.

Mười hai căn c̣n lại là bảy sắc căn nhăn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, nam, nữ, cọng thêm ư căn và bốn thọ c̣n lại, tức trừ đi ưu căn; tất cả đều có thể đều là dị thục hoặc không.

Bảy sắc căn nếu thuộc trưởng dưỡng (aupacayika) th́ không phải dị thục; ngoài ra đều là dị thục.

Ư căn và bốn căn thọ không phải là dị thục nếu chúng thuộc về thiện (kuśala) hoặc nhiễm (kliṣṭa) bởi v́ dị thục đều là vô kư; hoặc nếu chúng là vô kư nhưng tùy theo từng loại riêng lại thuộc về uy nghi lộ (airyāpathika), hoặc công xảo xứ (śailpasthānika), hoặc năng biến hóa (nairmāṇika). Các trường hợp khác đều là dị thục.

Các căn cuối là tín, v.v., đều là thiện nên không phải là dị thục.

(Luận chủ) Làm sao có thể khẳng định ưu căn không phải là dị thục khi kinh (Ekottarāgama, 72, 9) nói rằng: “Có một loại nghiệp đưa đến quả là hỷ thọ (thuận hỷ thọ nghiệp), có một loại nghiệp đưa đến quả là ưu thọ (thuận ưu thọ nghiệp), có một loại nghiệp đưa đến quả là xả thọ (thuận xả thọ nghiệp)”

(Tỳ-bà-sa) Khi nói thuận ưu thọ nghiệp (daurmanasya karma) không có nghĩa là “loại nghiệp phải được kinh qua, phải đưa đến ưu thọ” mà chỉ hàm nghĩa “một loại nghiệp có ưu thọ tương ưng với nó”; như khi kinh nói về trường hợp của xúc (sparśa) là “thuận lạc thọ” (sukhavedanīya): Như vậy lạc (sukha) không phải là quả dị thục của xúc. Rơ ràng loại xúc “thuận lạc thọ” này là loại xúc có lạc thọ tương ưng với nó. V́ thế loại nghiệp “thuận ưu thọ” chỉ là loại nghiệp có ưu thọ tương ưng với nó (chứ không phải là loại nghiệp đưa đến quả là ưu thọ).

(Luận chủ) Nếu đă giải thích về thuận ưu thọ nghiệp theo cách trên th́ đối với thuận hỷ thọ nghiệp và thuận xả thọ nghiệp cũng phải được giải thích như vậy. Và kết quả thuận hỷ thọ nghiệp chỉ là một loại “nghiệp có hỷ thọ tương ưng” chứ không phải là loại “nghiệp đưa đến quả là hỷ thọ” và điều này có nghĩa hỷ thọ không phải là dị thục.

(Tỳ-bà-sa) Không có ǵ sai khi giải thích thuận hỷ thọ nghiệp là loại nghiệp “đưa đến quả hỷ thọ” hay “có hỷ thọ tương ưng với nó”. Tuy nhiên cách giải thích thứ hai về chữ “thuận” (vedanīya) th́ có giá trị hơn đối với trường hợp của “thuận ưu thọ nghiệp” bởi v́ nó nhằm chỉ cho một loại nghiệp có ưu thọ tương ưng.

(Luận chủ) Dù có giải thích kinh theo cách trên th́ vẫn chưa có thể giải thích được vấn nạn này. V́ nguyên nhân nào mà ưu thọ không phải là dị thục?

(Tỳ-bà-sa) Ưu thọ sinh khởi là do phân biệt (parikalpa), tức khi nghĩ về những điều đáng lo sợ và khi ưu thọ chấm dứt cũng như vậy, tức khi nghĩ về những điều được hy vọng. V́ thế ưu thọ không thể thuộc về dị thục.

(Luận chủ) Nếu vậy hỷ thọ cũng không phải dị thục bởi v́ cũng sinh khởi và chấm dứt giống như ưu thọ.

(Tỳ-bà-sa) Nếu cho rằng ưu căn là dị thục th́ khi một người tạo nghiệp vô gián (ānantarya) và sau đó sinh ưu th́ loại nghiệp này lẽ ra phải gọi là “quả dị thục” (qủa đă chín). Tuy nhiên điều này không thể chấp nhận được.

(Luận chủ) Vẫn có thể đưa ra một vấn nạn như thế đối với trường hợp của hỷ căn. Nếu các ông cho rằng hỷ căn là dị thục th́ khi một người tạo được một nghiệp phước thù thắng và sau đó sinh hỷ th́ loại nghiệp này lẽ ra cũng phải gọi là “quả dị thục”.

(Tỳ-bà-sa) Những người đă ly dục (vītarāga) th́ không có ưu căn v́ thế những căn mà họ có chỉ là dị thục, như nhăn căn, v.v.. Như vậy ưu căn không phải là dị thục.

(Luận chủ) Nếu vậy những người đă ly dục làm thế nào để có được hỷ vốn là dị thục?

Chắc chắn những người này đều có hỷ căn sinh khởi từ định. Tuy nhiên về nhĩ căn này thuộc thiện cho nên không phải là dị thục. V́ thế những người đă ly dục không có tất cả các căn thuộc về dị thục.

Sự thực là những người đă ly dục vẫn có hỷ căn cho dù hỷ căn này có thể là dị thục hay không phải là dị thục. Trong khi ưu căn th́ không bao giờ sinh khởi ở những người này. V́ thế mà Tỳ-bà-sa đă kết luận rằng ưu căn không phải là dị thục.

Tám căn nhăn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, mạng, nữ, và nam nếu sinh vào con đường lành (thiện thú, sugati) là quả dị thục của việc thiện, nếu sinh vào con đường ác (ác thú, durgati) là quả dị thục của ác nghiệp.

Ư căn ở vào thiện thú cũng như ác thú đều là quả dị thục của thiện nghiệp và ác nghiệp.

Lạc căn, hỷ căn và xả căn là quả dị thục của thiện nghiệp.

Khổ căn là quả dị thục của ác nghiệp.

Các sắc căn của thiện thú là quả dị thục của thiện nghiệp. Đối với những người lưỡng tính (dị h́nh nhân) ở thiện thú th́ nữ căn hoặc nam căn là quả dị thục của thiện nghiệp; nhưng tính chất lưỡng tính là do ác nghiệp chiêu cảm.

(Hỏi) trong hai mươi hai căn, căn nào có dị thục (savipāka) căn nào không có dị thục (avipāka)?

Tụng đáp:

憂定有異熟                  前八後三無
      意餘受信等                  一一皆通二

[Ưu căn luôn luôn có dị thục

Tám căn đầu, ba căn cuối không có

Ư căn, bốn căn thọ c̣n lại, năm căn tín, v.v.,

Đều có cả hai loại.]

Luận: Như nội dung đă được tranh luận ở trên, ưu căn luôn luôn là dị thục. Tụng văn nói “định” là v́ tính chất “luôn luôn” này; đồng thời ưu căn được nói đến trước tiên là v́ hai ư nghĩa sau: (1) Ưu căn không bao giờ thuộc về vô kư (avyākṛta) bởi v́ sinh khởi từ một loại phân biệt rất cường mạnh (cường tư, vikalpaviśeṣa) (như các phân biệt về khả ái, khả ố v.v.); và (2) ưu căn không bao giờ thuộc về vô lậu (anāsrava) bởi v́ không bao giờ sinh khởi ở thiền định (tức chỉ có ở tám định).

Tám căn đầu (gồm năm căn nhăn, v.v., mạng căn, nữ căn và nam căn) không bao giờ thuộc về dị thục bởi v́ đều là vô kư. Ba căn cuối (gồm vị tri, dĩ tri và cụ tri) không bao giờ thuộc về dị thục bởi v́ đều vô lậu.

Mười căn c̣n lại đều có cả hai loại:

Ư căn và ba căn lạc, hỷ và xả đều có dị thục nếu thuộc bất thiện (akuśala) hoặc thiện hữu lậu (kuśalasāsrava); nếu thuộc vô kư hoặc vô lậu th́ không có dị thục.

Khổ căn (duḥkha) có dị thục nếu thuộc thiện hoặc bất thiện; nếu thuộc vô kư th́ không có dị thục.

Năm căn tín, v.v., có hoặc không có dị thục tùy theo chúng có hữu lậu hay vô lậu.

(Hỏi) Trong hai mươi hai căn, có bao nhiêu căn thiện, bất thiện và vô kư?

唯善後八根                  憂通善不善
      意餘受三種                  前八唯無記

[Tám căn cuối luôn luôn thuộc thiện.

Ưu căn thuộc thiện hoặc bất thiện.

Ư và các thọ c̣n lại thuộc cả ba loại.

Tám căn đầu luôn luôn vô kư.]

Luận: tám căn cuối là tín, v.v., chỉ thuộc thiện. (Tám căn này tuy nằm ở sau nhưng dựa theo thứ tự câu hỏi nên được tŕnh bảy trước.)

Ưu căn thuộc về thiện hoặc bất thiện.

Ư căn và bốn căn thọ là lạc, khổ, hỷ, xả có thể thuộc thiện, bất thiện hoặc vô kư.

Tám căn đầu là nhăn, v.v., đều vô kư.

(Hỏi) trong hai mươi hai giới, có bao nhiêu căn hệ thuộc Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới?

Tụng đáp:

欲色無色界                  如次除後三
      兼女男憂苦                  并除色喜樂

[Ở Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới

Theo thứ tự trên (ở Dục giới) trừ ba căn cuối;

(ở Sắc giới) trừ các căn nữ, nam, ưu, khổ;

(ở Vô sắc giới) trừ các sắc căn, hỷ và lạc.]

 

Luận: Ở Dục giới có tất cả các căn, ngoại trừ ba căn cuối vốn thuộc bất nhiễm (amala), tức vô lậu (anāsrava). Ba căn này không hệ thuộc ba giới dục, sắc và vô sắc và đă vượt qua các giới này (āpratisaṃyukta = adhātupattita).

Ở Sắc giới có mười lăm căn, tức trừ ba căn ở trên và bốn căn nam, nữ, khổ, ưu. Tất cả mười lăm căn này rất thường thấy ở hai tầng thiền đầu tiên. Sở dĩ không có hai căn nam nữ là v́ các chúng sinh ở Sắc giới đă xả ly dâm dục và v́ hai căn này làm cho thân tướng xấu xí.

(Hỏi) Tại sao kinh nói “không có trường hợp nữ thân làm Phạm thiên, mà chỉ có nam thân”? (Vibhanga, tr. 336).

(Đáp) chúng sinh ở Sắc giới đều là nam thân nhưng không có nam căn. Họ chỉ có các tính chất thường thấy ở nam giới của Dục giới như thân h́nh, giọng nói, v.v..

Khổ căn không có ở Sắc giới bởi v́ (1) sự tịnh diệu của thân (accha = bhāsvara) cho nên không có khổ thọ sinh khởi do sự đối kháng (abhighātaja); (2) không có các bất thiện nghiệp chiêu cảm cho nên không có khổ thọ sinh khởi từ dị thục (dị thục sinh, vipāja).

Ưu căn không có ở Sắc giới bởi v́ (1) tâm của chúng sinh ở Sắc giới luôn luôn nằm sau tâm định (śamathasnigdhasaṃtāna); và (2) không có các nhân làm năo hại (āghātavastu). (Dīgha, iii. 262; Anguttara, iv. 408, v. 150)

Ở Vô sắc giới có tám căn là ư căn, mạng căn, xả căn, và năm căn tín, v.v.; tức trừ ba căn vô lậu, năm sắc căn nhăn, v.v., lạc căn và hỷ căn.

(hỏi) trong hai mươi hai căn, căn nào thuộc kiến sở đoạn, thuộc tu sở đoạn hoặc phi đoạn?

Tụng đáp:

意三受通三                  憂見修所斷
      九唯修所斷               五修非三非

[Ư và ba thọ có cả ba loại.

Ưu thuộc kiến và tu đoạn.

Chín căn chỉ thuộc tu đoạn.

Năm căn thuộc tu đoạn, phi đoạn, ba căn thuộc phi đoạn.]

 Luận: Ư căn, lạc căn, hỷ căn và xả căn thuộc về cả ba loại.

Ưu căn thuộc cả kiến đoạn và tu đoạn bởi v́ không bao giờ là pháp vô lậu.

Chín căn nhăn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, nam, nữ, mạng và khổ chỉ thuộc tu đoạn bởi v́ (1) tám căn đầu không phải là pháp nhiễm ô (kliṣṭa); (2) căn thứ chín không phải là “lục sinh” (aṣaṣthaja); và (3) tất cả đều là hữu lậu.

Năm căn tín, v.v., v́ (1) không phải nhiễm pháp nên thuộc về kiến đoạn; và (2) có thể là vô lậu nên không thuộc các pháp bị đoạn (phi đoạn).

Ba căn cuối thuộc phi đoạn bởi v́ (1) chúng là pháp vô lậu, (2) và v́ các pháp không có khuyết điểm (vô quá pháp, ādīnava, apakṣāla) th́ không bị đoạn trừ.

(Hỏi) Có bao nhiêu căn thuộc dị thục được chúng sinh ở các giới đắc được đầu tiên?

Tụng đáp: 

欲胎卵濕生                  初得二異熟
      化生六七八                  色六上唯命

[Thai sinh, noăn sinh và thấp sinh ở Dục giới

Đầu tiên đắc được hai căn dị thục;

Hóa sinh đắc được sáu bảy hoặc tám

Sắc giới đắc được sáu.

Vô sắc giới chỉ đắc mạng căn.]

 Luận: Ở Dục giới các chúng sinh sinh từ thai, trứng hoặc nơi ẩm thấp vào giai đoạn mới thọ sinh đắc được hai căn dị thục là thân căn (kāyendriya) và mạng căn (jīvitendriya). Các căn khác sẽ từ từ đắc được.

(Hỏi) Tại sao không kể đến ư căn và xả căn?

(Đáp) V́ lúc mới sinh hai căn này đều thuộc nhiễm ô cho nên không phải là dị thục.

Các chúng sinh thuộc về hóa sinh đắc được sáu, bảy hoặc tám căn. Loại không có nam căn hoặc nữ căn (vô tính), tức sinh vào thời kỳ đầu tiên của vũ trụ, đắc được sáu căn là năm căn nhăn, v.v., và mạng căn; nếu là loại có nữ hoặc nam căn th́ đắc được bảy căn; nếu là loại lưỡng tính th́ đắc được tám căn.

(Hỏi) Một chúng sinh thuộc về lưỡng tính có thể hoá sinh không?

(đáp) Ở các cơi ác (ác thú) có thể có loại hóa sinh lưỡng tĩnh.

Trên đây đă nói về Dục giới; tiếp theo là phần nói về Sắc giới và Vô sắc giới.

Được gi là Dục giới bởi v́ ở giới này dục (kāma) có vai tṛ chủ chốt (pradhānatva), bao hàm các tính chất thuộc về tham dục (kāmaguṇas) và các sự vật được thụ hưởng. Được gọi là Sắc giới bởi v́ ở giới này các sắc pháp (rūpa) đóng vai tṛ chủ yếu. Kinh cũng đă từng nói như thế: “giải thoát tịch tĩnh vượt ra ngoài sắc, vô sắc”. (Saṃyutta, ii. 123).

Ở Sắc giới các chúng sinh lúc đầu cũng đắc được các căn dị thục, giống như loài hóa sinh vô tính của Dục giới.

Tụng văn nói “thượng” (cao) là chỉ cho Vô sắc giới. Thật ra không phải giới này nằm cao hơn Sắc giới, nhưng vẫn được gọi như vậy là v́ các tầng thiền định ở giới này thù thắng (para) hơn: Phải tu tập các tầng thiền ở Sắc giới trước rồi sau đó mới đến các tầng thiền Vô sắc giới; và v́ ở giới này có (pradhānatara) khả năng tồn tại lâu dài hơn (upapattitas).

Ở Vô sắc giới các chúng sinh bắt đầu đắc được một căn dị thục là mạng căn.

(hỏi) có bao nhiêu căn dị thục bị diệt ở các giới vào lúc chết?

Tụng đáp:

正死滅諸根                  無色三色八
      欲頓十九八                  漸四善增五.

[Các căn bị diệt khi chết: 

Vô sắc giới có ba; Sắc giới có tám; 

Dục giới nếu nhanh th́ có mười, chín, tám; nếu chậm th́ có bốn. 

Nếu thuộc tâm thiện th́ cọng thêm năm.]

Luận: Ở Vô sắc giới, chúng sinh vào lúc lâm chung có ba căn bị diệt sau cùng là mạng căn, ư căn và xả căn.

Ở Sắc giới có thêm năm căn nhăn, v.v.. Tất cả chúng sinh thuộc loại hóa sinh (upapāduka) đều sinh và diệt cùng với tất cả các căn (samagrendriya).

Ở Dục giới nếu chết nhanh (yugapat) th́ có tám căn, chín căn hoặc mười căn bị diệt sau cùng tùy theo người chết thuộc loại vô tính, hữu tính hay lưỡng tính. Loại vô tính có tám căn bị diệt sau cùng là các căn đă nói ở trên; loại hữu tính có chín căn v́ cộng thêm một căn nam hoặc nữ; loại lưỡng tính có mười căn v́ cộng thêm hai căn nam và nữ vào số tám căn ở trên. Nếu chết chậm th́ có bốn căn bị diệt sau cùng là thân căn, mạng căn, ư căn và xả căn. Tất cả bốn căn này đều diệt cùng một lúc.

Tất cả các trường hợp trên đây đều chỉ cho các tâm nhiễm ô (kliṣṭa) hoặc vô phú vô kư (anivṛtāvyākṛta) vào lúc mạng chung. Nếu tâm này thuộc thiện (kuśala) th́ trong số các căn bị diệt sau cùng ở cả ba giới phải cộng thêm năm căn tín, v.v..

Cần nghiên cứu kỹ thể và dụng của tất cả các căn được bàn đến trong phẩm phân biệt căn này (indriyaprakaraṇe). Như vậy trong số hai mươi hai căn, những căn nào đắc được quả vị sa-môn (śrāmaṇyaphala)?

Tụng đáp:

 九得邊二果                  七八九中二
      十一阿羅漢                  依一容有說

[Chín căn đắc được hai quả ở biên.

Bảy căn, tám căn hoặc chín căn đắc được hai quả giữa. 

Mười một căn đắc quả a-la-hán,

Có thể căn cứ vào một người đắc quả để nói như vậy.]

 Luận: “biên” (ở hai đầu) là chỉ cho hai quả Dự lưu (Srotāpanna) và a-la-hán (Arhat) bởi v́ trong số các quả Sa-môn th́ đây là hai quả nằm ở đầu và cuối. Chữ “trung” (ở giữa) là chỉ cho hai quả Nhất lai (Sakṛdāgāmin) và Bất hoàn (Anāgāmin) bởi v́ hai quả này nằm giữa quả đầu và quả cuối.

Quả Dự lưu đắc được nhờ có chín căn là ư, xả, năm căn tín, v.v., vị tri đương tri và dĩ tri.

Vị tri đương tri (anājñātamājñāsyāmi) lập thành vô gián đạo (ānantaryamārga) dĩ tri (ājña) lập thành giải thoát đạo (vimuktamārga). Nhờ có hai căn này nên mới đắc được quả Dự lưu. Vị tri đương tri căn là dẫn nhẫn, tức có khả năng dẫn đến (āvāhaka) việc đắc được (prāpti) việc xả ly các hệ phược (ly hệ đắc) và dĩ tri căn là y nhân, tức có khả năng làm nơi nương tựa và tŕ giữ của việc đắc được này.

Quả a-la-hán cũng đắc được nhờ có chín căn là ư, một căn thọ thuộc hỷ, lạc hoặc xả, năm căn tín, v.v., dĩ tri và cụ tri. Trong trường hợp này dĩ tri căn lập thành vô gián đạo và cụ tri căn (ājñātāvīndriya) lập thành giải thoát đạo.

Quả nhất lai có thể đắc được trong hai trường hợp: (1) Thứ đệ chứng (ānupūrvaka) là hành giả trước khi đắc quả nhất lai đă đắc được quả Dự lưu; (2) Siêu việt chứng (bhūyovitarāga) là hành giả trước khi bước vào vô lậu đạo, tức là giai đoạn liễu tri tứ đế (satyābhisamaga), đă nương vào thế gian đạo hữu lậu mà cởi bỏ được sáu phẩm phiền năo đầu tiên thuộc Dục giới; v́ thế khi đạt đến kiến đạo th́ thánh giả này đắc được quả nhất lai mà không cần đắc quả Dự lưu trước đó.

Hành giả thuộc thứ đệ chứng, tức đang ở vào hàng Dự lưu, có thể đắc quả nhất lai bằng thế gian đạo - tức không có tu tập thiền quán về tứ đế - nhờ vào bảy căn là ư, xả và năm căn tín, v.v.; hoặc có thể đắc được quả nhất lai bằng vô lậu đạo (anāsrava) hay c̣n gọi là xuất thế đạo, nhờ vào tám căn là dĩ tri căn và bảy căn ở trên.

Hành giả thuộc siêu việt chứng, tức đang ở vào hàng dị sinh (pṛthagjana), có thể đắc quả nhất lai nhờ vào chín căn, tức ngoài bảy căn ở trên phải có thêm hay căn là vị tri đương tri và dĩ tri cũng giống như trường hợp đắc quả Dự lưu.

Quả bất hoàn có thể đắc được qua hai trường hợp: (1) thứ đệ chứng là hành giả đă đắc được các quả trước đó; hoặc (2) siêu việt chứng là hành giả không nhập vào vô lậu đạo nhưng đă xả bỏ chín phẩm phiền năo thuộc Dục giới hoặc các phiền năo thuộc thượng địa.

Hành giả thuộc trường hợp thứ đệ chứng đắc được quả bất hoàn bằng thế gian đạo hoặc vô lậu đạo nhờ vào bảy căn hoặc tám căn, giống như trường hợp thứ đệ chứng đắc quả nhất lai ở trên.

Hành giả thuộc siêu việt chứng đắc quả bất hoàn bằng sự liễu tri tứ đế (kiến đạo, darśanamārga) nhờ vào chín căn, giống như trường hợp siêu việt chứng đắc quả nhất lai ở trên.

Các định nghĩa tổng quát trên đây cần phải được chi tiết hơn:

(1)                                 Hành giả thuộc siêu việt chứng đắc quả bất hoàn bằng “sự liễu tri tứ đế”. Để có được sự liễu tri này, hành giả phải nhập đinh thuộc tầng thiền thứ ba; hoặc phải nhập định thuộc tầng thiền thứ nhất hoặc thứ hai (căn bổn địa); hoặc phải nhập vị chí định (anāgamya) hoặc trung gia định (dhyānāntara) hoặc tầng thiền thứ tư: tùy theo từng trường hợp mà các căn thọ của hành giả có thể là lạc, hỷ hoặc xả.

Trái lại một hành giả thuộc Siêu việt chứng (bhūyovitarāga) luôn luôn đắc quả nhất lai với xả căn.

(2)                                 Hành giả thuộc Thứ đệ chứng, vốn phải tiếp tục tu tập để đắc quả nhất hoàn ở vị chí định, nếu có năm căn tín, v.v., mănh lợi th́ ở giải thoát đạo thứ chín có thể xuất vị chí định để nhập tầng thiền thứ nhất hoặc thứ hai (căn bổn địa).

Khi hành giả xả ly các phiền năo bằng thế gian đạo th́ đắc được quả nhờ vào tám căn chứ không phải bảy căn: Thật vậy, vị chí định ở vô gián đạo thứ chín có xả căn; và tầng thiền thứ nhất hoặc thứ hai, ở giải thoát đạo thứ chín, lại có hỷ thọ. V́ thế việc đắc được ly hệ xuất phát từ xả căn và hỷ căn, cũng giống như việc đắc được ly hệ trong trường hợp của Dự lưu phát xuất từ vị tri căn và dĩ tri căn. 

Khi hành giả xả ly các phiền năo bằng xuất thế đạo, tức bằng sự tu tập thiền quán về tứ đế (tu đạo) th́ phải thêm vào căn thứ chín là dĩ tri căn; bởi v́ vô gián đạo và giải thoát đạo đều là dĩ tri căn.

(Hỏi) Bổn luận (Jñānaprasthāna) viết: “Đắc quả a-la-hán phải có bao nhiêu căn? - mười một căn” như vậy tại sao ở đây nói rằng chỉ có chín căn?

(Đáp) Thật ra đắc quả a-la-hán chỉ có chín căn. Nhưng Bổn luận nói do mười một là v́ đă dựa vào bản thân người đắc được quả này chứ không phải dựa vào sự chứng đắc. Một thánh giả có thể bị thối thất quả vị a-la-hán nhiều lần và có thể đắc được trở lại qua nhiều tầng thiền định khác nhau, khi th́ có lạc căn (như ở tầng thiền thứ ba), khi th́ có hỷ căn (như ở tầng thiền thứ nhất và thứ hai), khi th́ có hỷ căn (như ở vị chí đinh, v.v..); tuy nhiên cả ba căn này không bao giờ hiện khởi cùng một lúc.

(Hỏi) trong trường hợp đắc quả bất hoàn, tại sao Bổn luận không nói như vậy?

(Đáp) Bởi v́ không có trường hợp thánh giả thối thất quả bất hoàn và chứng đắc trở lại nhờ vào lạc căn. Hơn nữa, thánh giả thuộc siêu việt chứng vốn là người đă xả ly tất cả phiền năo thuộc Dục giới cho nên khi đă đắc được quả bất hoàn th́ không thể thối thất quả vị này. Sự xả ly của thánh giả đắc được là nhờ vào hai đạo, sinh khởi nhờ thế gian đạo và tư trợ bởi xuất thế đạo cho nên rất kiên cố.

(Hỏi) Những người đă thành tựu một căn nào đó th́ nhất định sẽ thành tựu được bao nhiêu căn khác?

Tụng đáp:

     成就命意捨                  各定成就三
 若成就樂身                  各定成就四
 成眼等及喜                  各定成五根
 若成就苦根                  彼定成就七
    若成女男憂                  信等各成八
    無漏十一                  初無漏十三

[Nếu thành tựu mạng, ư hoặc xả, 

Nhất định thành tựu cả ba.

Nếu thành tựu lạc hoặc thân

Nhất định thành tựu bốn

Nếu thành tựu một trong năm căn nhăn, v.v., hoặc hỷ

Nhất đinh thành tựu năm.

Nếu thành tựu khổ căn

Nhất định thành tựu bảy

Nếu thành tựu nữ, nam, ưu hoặc một trong năm căn tín, v.v.,

Nhất định thành tựu tám

Nếu thành tựu hai căn vô lậu, nhất định thành tựu mười một căn.

Nếu thành tựu căn vô lậu thứ nhất, nhất định thành tựu mười ba căn.]

Luận: Trong ba căn mạng, ư và xả nếu thành tựu được một căn th́ sẽ thành tựu luôn hai căn kia. Nếu thiếu một trong ba căn th́ hai căn kia cũng không có.

Sự thành tựu các căn khác không có tính chất nhất định. Những người nào thành tựu ba căn này có thể thành tựu hoặc không thành tựu các căn khác.

(1)                                Sinh Vô sắc giới không thành tựu các căn nhăn, nhĩ, tỷ và thiệt. Sinh Dục giới có thể không thành tựu những căn này khi chưa đắc được (như ở thời kỳ đầu của thai nhi) hoặc đă bị mất (như bị mù ḷa, v.v.; chết dần).

(2)                                Sinh Vô sắc giới không thành tựu thân căn.

(3)                                Sinh Vô sắc giới hoặc Sắc giới không thành tựu nữ căn. Sinh Dục giới có thể không có loại căn này khi chưa đắc được hoặc đă bị mất. Về nam căn cũng như vậy.

(4)                                Dị sinh ở tầng thiền thứ tư, (ở tầng thiền thứ hai) ở các cơi vô sắc không thành tựu lạc căn. 

(5)                                Dị sinh ở tầng thiền thứ tư, tầng thiền thứ ba, ở các cơi vô sắc không thành tựu hỷ căn.

(6)                                Chúng sinh ở Sắc giới hoặc Vô sắc giới không thành tựu khổ căn.

(7)                                Những người đă ly dục đều không thành tựu ưu căn.

(8)                                Những người đă đoạn thiện căn không thành tựu năm căn tín, v.v..

(9)                                Tất cả dị sinh và thánh giả đang ở một quả vị nào đó không thành tựu căn vô lậu thứ nhất (vị tri đương tri căn).

(10)                            Dị sinh, thánh giả ở kiến đạo và a-la-hán không thành tựu căn vô lậu kế tiếp (dĩ tri căn).

(11)                            Dị sinh và hàng Hữu học không thành tựu căn vô lậu cuối (cụ tri căn).

Từ sự liệt kê trên đây có thể lập thành sự thành tựu ở tất cả các trường hợp khác.

Nếu thành tựu lạc căn th́ sẽ thành tựu luôn mạng căn, ư căn và xả căn. Nếu thành tựu thân căn th́ cũng thành tựu luôn ba căn này.

Nếu thành tựu một trong các căn nhăn, v.v., th́ nhất định thành tựu luôn mạng căn, ư căn, ư căn và thân căn, (tức nếu thành tựu nhĩ căn th́ nhất định cũng thành tựu các căn như vậy).

Nếu thành tựu hỷ căn th́ nhất định thành tựu luôn mạng căn, ư căn, xả căn và lạc căn.

(Hỏi) Sinh vào tầng thiền thứ hai và chưa đắc được tầng thiền thứ ba th́ thành tựu loại lạc căn nào?

(Đáp) thành tựu loại lạc căn nhiễm ô của tầng thiền thứ ba.

Nếu thành tựu khổ căn th́ nhất định đang thuộc về Dục giới và thành tựu luôn mạng căn, ư căn, thân căn, lạc căn, hỷ căn và xả căn; tức trừ đi ưu căn trong trường hợp ly dục (vītarāga).

Nếu thành tựu nữ căn hoặc nam căn, hoặc ưu căn th́ nhất định thành tựu luôn các căn như được nói trong phần thành tựu khổ căn (tức thêm bảy căn là mạng, ư, thân, lạc, khổ, hỷ, xả bởi v́ chúng sinh này nhất định đang thuộc về Dục giới.)

Nếu thành tựu một trong năm căn tín, v.v., th́ nhất định thành tựu luôn mạng căn, ư căn, xả căn, và bốn căn c̣n lại của năm căn tín, v.v..

Nếu thành tựu dĩ tri căn hoặc cụ tri căn th́ nhất định thành tựu luôn mạng căn, ư căn, lạc căn, hỷ căn, xả căn và năm căn tín, v.v..

Nếu thành tựu vị tri đương tri căn th́ nhất định thành tựu mạng căn, ư căn, thân căn, bốn căn thuộc thọ là khổ, lạc, hỷ, xả, và năm căn tín, v.v.. (Chỉ ở Dục giới mới có kiến đạo v́ thế người nào thành tựu loại căn này vẫn đang c̣n ở Dục giới và nhất định thành tựu luôn mười hai căn nói trên. Không nhất định phải thành tựu ưu căn và các căn nhăn, v.v., bởi v́ vẫn có thể có trường hợp ly dục hoặc mù ḷa, v.v..)

(Hỏi) Trong trường hợp có ít căn nhất th́ sẽ thành tựu những căn nào? (Vibhāṣā, 150, 13).

Tụng đáp:

 極少八無善                  成受身命意
      愚生無色界                  成善命意捨.

[Người không có thiện thành tựu ít nhất là tám căn;

Đó là năm căn thọ, thân căn, mạng căn và ư căn.

Người ngu ở Vô sắc giới (cũng như vậy).

Thành tựu năm thiện căn, mạng căn, ư căn và xả căn.]

 Luận: Những người được gọi là “không có thiện” (vô thiện, niḥśubha) là những người đă đoạn thiện căn và nhất định đang ở Dục giới chứ không thể ly dục. V́ thế chỉ thành tựu năm căn thọ, mạng căn, ư căn, xả căn.

Tụng văn nói “thọ” (vid) có nghĩa là năng thọ (vedayate), tức chỉ cho người lănh nạp (kartari kvip); hoặc c̣n có nghĩa là các thọ lạc, v.v. (vedana).

Người ngu sinh ở Vô sắc giới cũng thành tựu tám căn là xả căn, mạng căn, ư căn và năm căn tín, v.v..

Người “ngu” là chỉ cho hạng dị sinh (pṛthagjana) bởi v́ họ chưa thấy được các đế.

Thiện căn là năm căn tín, v.v., v́ hoàn toàn thuộc thiện.

(Hỏi) Nếu vậy lẽ ra phải có cả ba căn vô lậu?

(Đáp) không thể được; bởi v́ ở đây tất cả chỉ thành tựu được tám căn và người thành tựu lại là người ngu ở Vô sắc giới.

(Hỏi) trong trường hợp có nhiều căn nhất th́ sẽ thành tựu những căn nào?

Tụng đáp:

 極多成十九                  二形除三淨
      聖者未離欲                  除二淨一形.

[Thành tựu nhiều nhất là mười chín căn. 

Đối với loài lưỡng tính, trừ đi ba căn vô lậu.

Đối với thánh giả chưa ly dục

Trừ hai căn vô lậu và một căn nam hoặc nữ.]

 Luận: Chúng sinh lưỡng tính nhất định thuộc về Dục giới không thuộc loại ly dục, và có thể thành tựu các thiện căn cũng như tất cả các căn nhăn, v.v.. Nhưng bởi v́ thuộc dị sinh nên ba căn vô lậu không thể có ở hạng người này.

Ở đây các căn vô lậu được tụng văn gọi là “tịnh” bởi v́ đă xa rời các nhiễm pháp (tương ưng phược) và không có các tính chất của cảnh sở duyên (sở duyên phược).

Thánh giả chưa ly dục (rāgin) tức đang c̣n thuộc hàng Hữu học chứ không phải là a-la-hán, cũng thành tựu được mười chín căn. Tức phải trừ đi nam căn hoặc nữ căn và cụ tri căn trong tất cả mọi trường hợp; trừ thêm dĩ tri căn khi thánh giả Hữu học đang c̣n ở kiến đạo, và vị tri căn dang ở vào tu đạo.

Phần 4.

Tất cả các pháp hữu vi đều có những tính chất không giống nhau, và sự sinh khởi của chúng cũng thế. Có phải chúng luôn luôn cùng nhau sinh khởi không?

-Luôn luôn cùng nhau sinh khởi.

Các pháp hữu vi (saṃskṛta) chia làm năm loại: Sắc pháp (rūpa); tâm pháp (citta), tâm sở (caitta), là các pháp tương ưng với tâm; tâm bất tương ưng hành (cittaviprayukta), là các hành (saṃskāra) không tương ưng với tâm; vô vi (asaṃskṛta). Các pháp vô vi v́ không sinh nên ở đây không bàn đến.

Trước hết hăy nói đến sự sinh khởi cùng lúc (sahotpāda) của các sắc pháp.

欲微聚無聲                  無根有八事
      有身根九事                  十事有餘根.

[Vi tụ Dục giới nếu không có thanh

Không có căn th́ có tám sự.

Nếu có thân căn th́ có chín sự.

Có mười sự nếu có các căn khác.]

 Luận: Thành phần vi tế nhất của các tập hợp sắc (sắc tụ, rūpau) được gọi là vi tụ (saṃghātaparamāṇu, cực vi tụ) bởi v́ trong các sắc tụ không c̣n bất cứ cái ǵ có thể nhỏ hơn các vi tụ này nữa. (Ở đây cực vi không được hiểu theo ư nghĩa riêng của nó như là một thực pháp (dravya) ở đơn vị nguyên tử.

Ở Dục giới, loại vi tụ này nếu không có thanh (sabda, śabdāyatana), không có căn, th́ có chứa tám thực pháp và không thể thiếu bất kỳ pháp nào trong số này. Tám thực pháp này là bốn đại chủng (mahābhūta) và bốn sở tạo sắc (bhautika) là sắc, hương, vị và xúc.

Nếu vi tụ không có thanh nhưng có thân căn (kāyendriya, kāyāyatana) th́ có chứa chín thực pháp, tức thân căn là thực pháp thứ chín.

Nếu vi tụ không có thanh nhưng có một căn mới nào đó ngoài thân căn này th́ có chứa mười thực pháp, tức loại căn mới này (như nhăn căn, v.v.) là thực pháp thứ mười; bởi v́ các căn nhăn, nhĩ, tỷ, thiệt không sinh khởi ngoài thân và tạo thành các xứ riêng biệt.

Trong các vi tụ được nói đến trên đây nếu có thanh th́ số thực pháp theo thứ tự trên sẽ lên đến chín, mười, mười một; bởi v́ thanh (śabdāyatana) vốn sinh khởi từ các đại chủng nên không thể tồn tại độc lập ngoài các căn.

(Hỏi) nếu bốn đại chủng không bao giờ tách rời nhau mà luôn luôn sinh khởi cùng một lúc th́ trong một sắc tụ làm sao có thể tri nhận riêng một trong bốn tính chất cứng, ướt, nóng, động chứ không phải tri nhận bốn tính chất?

(Đáp) Trong một sắc tụ, đại chủng nào có thế dụng mạnh hơn (paṭutama, sphuṭutama) th́ được tri nhận, cũng giống như khi cầm một bó các mầm cây lẫn lộn với mũi kim (sūcītūlīkalāpa) th́ sẽ tri nhận mũi kim trước, hoặc khi ăn bánh có trộn muối th́ sẽ tri nhận vị mặn trước.

(Hỏi) Làm sao có thể biết được một sắc tụ có chứa các đại chủng không tri nhận được ở đó?

(Đáp) Tất cả các đại chủng đều được biểu hiện qua các tác dụng riêng của chúng như tŕ giữ, kết dính, làm chín và làm tăng trưởng (dhṛti, saṃgraha, pakti, vyūhana).

Có luận sư (Bhadanta Śrīlābha) cho răng các sắc tụ có chứa bốn đại chủng bởi v́ khi gặp một nhân duyên nào đó th́ đại chủng cứng, v.v., có thể trở thành chất lỏng v.v.. Đại chủng lửa có ở trong nước bởi v́ khi nước quá lạnh th́ có tính chất ấm sinh khởi. Tuy không rời nhau nhưng tác dụng của lạnh vẫn có thể tăng, cũng giống như tác dụng của thọ và thanh có mạnh yếu khác nhau.

Có luận sư (Sautrāntika) lại cho rằng các đại chủng không tri nhận được ở trong một sắc tụ vẫn đang tồn tại trong trạng thái của các chủng tử (bījata, śaktita, sāmarthyata) chưa có thể dụng. Như Thế tôn nói: “Trong mảnh gỗ này có rất nhiều giới (dhātu) hoặc khoáng chất” (Saṃyktāgama, 18, 10). Ở đây Thế tôn có ư nói rằng mănh gỗ có chứa các chủng tử, các năng lực tiềm tàng (śakti) của nhiều giới bởi v́ vàng, bạc, v.v., thực sự không có ở trong gỗ.

Kinh bộ c̣n đưa ra vấn nạn: “Làm thế nào biết được sự hiện hữu (sadbhāva) của màu sắc (hiển sắc, varṇa) ở trong gió?

(Trả lời của Tỳ-bà-sa) Đây là vấn đề thuộc về niềm tin (śraddhanīya) chứ không thể suy luận được. Hoặc có thể sở dĩ biết được trong gió có màu sắc là v́ nhờ xúc chạm với gió hoặc mùi hương; bởi v́ mùi hương không bao giờ tách rời với màu sắc.

Trước đây có nói mùi và vị không có ở Sắc giới. Như vậy các vi tụ ở Sắc giới phải giảm bớt số lượng các thực pháp. Tức sẽ có sáu, bảy hoặc tám thực pháp; và khi có thân th́ sẽ có bảy, tám hoặc chín. Điều này không cần phải giải thích chi tiết bởi v́ so sánh với trường hợp trên có thể biết.

(Hỏi) Tỳ-bà-sa nói rằng một vi tụ ở Dục giới có chứa ít nhất là tám thực pháp (dravya) vậy th́ các thực pháp này v́ có thể tánh riêng hay v́ có các xứ riêng mà được gọi tên như vậy?

Nếu dựa vào thể tánh để nói rằng “sẽ có sáu, bảy hoặc tám thực pháp” th́ số lượng các thực pháp sẽ quá ít. Bởi v́ nếu cho rằng một vi tụ có chứa bốn sở tạo sắc là sắc, hương, vị, xúc th́ theo chúng tôi vi tụ này sẽ không chỉ có màu sắc (varṇa) mà c̣n có cả h́nh dạng (saṃsthāna) v́ trong đó vẫn có nhiều cực vi hội tụ. Hơn nữa vi tụ này c̣n chứa cả sở tạo sắc xúc (spraṣṭavya); v́ thế theo chúng tôi vi tụ này sẽ nặng hoặc nhẹ, nhám hoặc trơn, và cũng có thể có lạnh, đói, khát. Như vậy vi tụ này sẽ có các thực pháp là nặng, nhẹ, nhám, trơn, lạnh, đói, khát; và nếu vậy con số được đưa ra ở trên chứng tỏ quá ít. Trái lại nếu các con số mà Tỳ-bà-sa đưa ra ở trên là dựa vào các xứ riêng biệt của các thực pháp th́ lại quá nhiều bởi v́ các đại chủng tạo thành một phần của xúc xứ. Và như vậy chỉ nên nói là vi tụ chỉ có chứa bốn thực pháp là sắc, hương, vị và xúc.

(Trả lời của Tỳ-bà-sa) giải thích ở trên của chúng tôi vẫn đúng. Trong trường hợp này, chữ “thực pháp” (dravya) nhằm chỉ cho các thực chất đă được nói riêng và cả các xứ. Trong số các thực pháp của vi tụ, có (1) bốn thực chất được nói riêng này - tức là bốn đại chủng làm chỗ dựa và phát sinh (āśraya) các sở tạo sắc; và cũng có (2) bốn xứ - tức bốn sở tạo sắc được bốn đại chủng tŕ giữ là sắc, hương, vị và xúc.

(Hỏi) Trả lời trên không hợp lư bởi v́ mỗi một sở tạo sắc đều được duy tŕ bởi một nhóm bốn đại chủng; và như vậy một vi tụ phải có đến hai mươi thực pháp (gồm bốn đại chủng của vi tụ và mười sáu đại chủng thuộc bốn sở tạo sắc của vi tụ).

(Trả lời của Tỳ-bà-sa) Không phải như vậy. Chúng tôi đă căn cứ vào thể tánh của các đại chủng là cứng, v.v., cho nên thể của bốn đại chủng của vi tụ cũng chính là thể của mười sáu đại chủng tŕ giữ các sở tạo sắc là sắc, hương,vị, xúc.

(Kết luận của luận chủ) Thế nhưng tại sao Tỳ-bà-sa lại sử dụng văn tự một cách mơ hồ như vậy và lại dùng chung một chữ “thực pháp” (dravya) để chỉ cho hai trường hợp khác nhau?

Mặc dù ngôn ngữ phát xuất là do tư ư nhưng cũng cần phải cân nhắc kỹ lưỡng ư nghĩa của chúng trước khi dùng.

Trên đây đă bàn về loại pháp hữu vi thứ nhất là sắc pháp; tiếp theo là phần nói về loại thứ hai: tâm pháp.

 心心所必俱                  諸行相或得

[Tâm và tâm sở nhất định cùng sinh khởi

(cũng cùng sinh khởi) với các hành tướng hoặc đắc.]

Luận: Tâm và tâm sở không thể sinh khởi tách rời nhau; nếu thiếu pháp này th́ pháp kia cũng không thể khởi.

Hành (saṃskāra) chính là tất cả các pháp hữu vi bao gồm toàn bộ sắc pháp, tâm pháp, tâm sở hữu pháp, tâm bất tương ưng hành pháp. Tất cả các pháp hữu vi này khi sinh khởi đều có bốn tính chất của hành (hành tướng, hữu vi tướng, saṃskṛtalakṣaṇa) là sinh, trụ, dị, diệt kèm theo. Ư nghĩa của hai chữ “tất câu” (nhất định cùng sinh) ở hàng tụng thứ nhất cũng được bao hàm trong hàng tụng thứ hai.

Thỉnh thoảng cũng cùng sinh khởi với đắc (prāpti).

Trong số các pháp hữu vi, những pháp nào hợp nhất với loài hữu t́nh (sattvākhya, sattvasaṃkhyāta) th́ nhất định cùng sinh khởi với loại đắc tương ưng với các pháp này. Trong các trường hợp khác th́ không có đắc; v́ thế tụng văn mới nói là “hoặc” (có khi).

(Hỏi) Các tâm sở pháp là ǵ?

Tụng đáp:

心所且有五                  大地法等異

[Tâm sở có hai loại khác nhau: 

Đại địa pháp, v.v.]

Luận: tâm sở pháp có năm loại: (1) đại địa pháp (mahābhūmika), đi kèm theo tất cả các tâm; (2) đại thiện địa pháp (kuśalamahābhūmika), đi kèm theo tất cả các tâm thiện; (3) đại phiền năo địa pháp (kleśamahābhūmika), đi kèm theo tất cả các tâm nhiễm; (4) đại bất thiện địa pháp (akuśalamahābhūmika), đi kèm theo tất cả các tâm ác; (5) tiểu phiền năo địa pháp (parīttakleśabhūmika) có địa là các tiểu phiền năo.

Địa (bhūmi) có nghĩa là “nơi xuất pháp” (hành xứ, gativiṣaya, utpattiviṣaya). Nơi xuất phát của một pháp chính là địa của pháp này. Nếu là địa của một đại pháp - tức là một pháp có khả năng hiện hữu ở khắp nơi - th́ được gọi là đại địa (mahābhūmi). Như vậy đại địa pháp (mahābhūmika) là pháp thuộc về đại địa, có nghĩa là pháp này thường xuyên hiện hữu trong tất cả các tâm.

Các đại địa pháp là ǵ? 

 受想思觸欲                  慧念與作意
      勝解三摩地                  遍於一切心.

[Thọ, tưởng, tư, xúc, dục

Tuệ, niệm và tác ư

Thắng giải, tam-ma-địa

Có ở tất cả các tâm.]

 Luận: Theo truyền thuyết (Vibhāṣā, 12, 10), mười pháp trên đây hiện hữu trong tất cả các sát-na của tâm (cittakṣaṇa).

Thọ (vedanā) là ba loại lănh nạp (anubhava) thuộc về lạc, khổ và không khổ không lạc.

Tưởng (saṃjñā) là nắm bắt các tính chất sai biệt (như nam, nữ, v.v.) của cảnh sở duyên (viṣayanimittagrahaṇa = viṣayaviśeṣarūpagrāha).

Tư (cetanā) là tác động thúc đẩy tâm tạo tác (cittābhisaṃskāra, cittaprasyanda).

Xúc (sparśa) là sự tiếp xúc (spṛṣṭi) phát sinh từ sự ḥa hợp (saṃnipāta) của căn, cảnh và thức (vijñāna). Nói cách khác, Xúc là loại pháp có khả năng giúp căn, cảnh và thức ḥa hợp khi tiếp xúc với nhau.

Dục (chanda) là sự mong muốn tạo tác.

Tuệ (prajñā) (được tụng văn Phạn ngữ đề cập dưới danh từ mati) là sự phân biệt các pháp. 

Niệm (smṛti) là sự ghi nhớ rơ ràng các duyên (ālambanāsaṃpramoṣa), là pháp có khả năng giúp cho tâm (mana) không quên các cảnh sở duyên (vismarati); có thể nói là nhờ có niệm cho nên tâm mới ôm ấp cảnh sở duyên. Tác ư (manaskāra) là sự khúc chiết (cảnh giác, ābhoga) của tâm (ceta); nói cách khác, tác ư là “uốn cong”, “đặt để” tâm hướng đến cảnh sở duyên.

Thắng giải (adhimukti) là sự thừa nhận cảnh sở duyên.

Tam-ma-địa (samādhi) là sự hợp nhất của tâm đối với cảnh (cittaikāgratā); nói cách khác tam-ma-địa là pháp có khả năng làm cho một ḍng tâm tương tục (prabandhena) đ́nh trụ (vartate) ở cảnh.

(Hỏi) Làm thế nào biết được mười tâm sở trên đây, vốn có thể tánh khác biệt nhau, có thể hiện hữu trong cùng một tâm độc nhất?

(Đáp) Các tính chất khác biệt nhau (viśeṣa) của tâm và tâm sở thật sự rất vi tế. Phân biệt được mỗi một tâm sở vận hành trong sự tương tục thuần nhất của chúng đă là chuyện khó huống hồ là phân biệt tất cả các tâm sở cùng vận hành trong cùng một sát-na. Sự khác biệt về mùi vị của các loại dược thảo vốn có thể tri nhận qua các sắc căn c̣n khó phân biệt huống hồ là sự phân biệt của các pháp vô sắc vốn chỉ có thể phân biệt qua ư thức.

Trên đây đă nói về mười đại địa pháp; tiếp theo là phần nói về đại thiện địa pháp.

Nơi xuất phát của các thiện pháp có khả năng hiện khởi ở khắp nơi (Đại thiện địa pháp) được gọi là đại thiện địa (kuśalamahābhūmi). Các tâm sở có khả năng làm cho “nơi xuất phát” này hưng khởi được gọi là đại thiện địa pháp (kuśalamahābhūmika), tức là các pháp được t́m thấy trong tất cả các tâm thiện.

(Hỏi) những pháp nào được gọi là đại thiện địa pháp?

Tụng đáp: 

信及不放逸                  輕安捨慚愧
      二根及不害                  勤唯遍善心.

[Tín, bất phóng dật,

Khinh an, xả, tàm, quư,

Hai căn thiện, bất hại,

Cần, luôn luôn ở các tâm thiện.]

 Luận: Các pháp này luôn luôn được t́m thấy ở các tâm thiện.

Tín (śraddhā) là làm cho tâm trở nên trong sạch. (Jñānaprasthāna, 1, 19).

Có thuyết cho rằng tín là sự tin theo thuyết nghiệp quả, tam bảo và tứ đế.

Bất phóng dật (apramāda) có nghĩa là tu tập (bhāvanā), tức sở hữu và tô bồi các thiện pháp.

(Hỏi) Sự sở hữu và tô bồi các thiện pháp không là ǵ khác hơn các thiện pháp được sở hữu và tô bồi này. Như vậy làm sao có thể lập bất phóng dật thành một tâm sở riêng biệt?

(Đáp) Bất phóng dật là chuyên chú (avahitatā) vào thiện pháp. Nhưng ở đây khi nói “tu tập” (bhāvanā) là có ư tỷ dụ; thật ra bất phóng dật chỉ là nhân của sự tu tập.

Có thuyết (Mahāsaṃghika) cho rằng bất phóng dật là khả năng pḥng giữ (ārakṣā) tâm.

Khinh an (praśrabdhi) là pháp có khả năng giúp cho tâm được mănh lợi, nhẹ nhàng, khéo léo (cittakarmaṇyatā, cittalāghava).

(Vấn nạn của Kinh bộ) Chẳng lẽ kinh không nói đến khinh của thân sao?

(Đáp) Kinh có đề cập đến thân khinh an khi nói về thân thọ (kāyikī vedanā). Thể của tất cả các thọ đều thuộc về tâm; tuy nhiên khi kinh nói “thân thọ” là có ư chỉ cho các thọ có năm sắc căn làm sở y và tương ưng với năm thức thân. Đối với khinh an của các tâm dựa vào năm sắc căn cũng vậy; tức khinh an của năm thức thân được gọi tên là thân khinh an.

(Giải thích của Kinh bộ) Nếu giải thích như vậy, làm sao thân thọ có thể được lập làm một trong các giác chi (saṃbodhyanga)? Cả năm thức thân đều thuộc về Dục giới bởi v́ chúng không tĩnh định (asamāhita); có nghĩa là chúng không bao giờ sinh khởi ở trạng thái định, trong khi các giác chi vốn tĩnh định. V́ thế theo chúng tôi, thân khinh an được nói đến trong kinh chính là sự mănh lợi hay khéo léo của thân (kāyavaiśāradya, kāyakarmaṇyatā).

(vấn nạn của Hữu bộ) Nếu giải thích như vậy, làm thế nào thân khinh an có thể trở thành một giác chi? Bởi v́ sự mănh lợi của thân vốn thuộc hữu lậu (sāsrava).

(Giải thích của kinh bộ) Nhưng v́ thân khinh an thuận hợp với tâm khinh an mà tâm khinh an lại là một giác chi; v́ lẽ đó thân khinh an vẫn được gọi là giác chi. Cách nói này vẫn thường áp dụng trong kinh. Tỷ dụ như kinh nói rằng hỷ và pháp gây ra hỷ (prītisthānīya, thuận hỷ pháp) lập thành giác chi có tên là hỷ; sân và nhân duyên của sân (pratighanimitta) lập thành chướng ngại thuộc ác pháp (vyāpādanīvaraṇa, sân nhuế cái); chánh kiến (dṛṣṭi), chánh tư duy (saṃkalpa), chánh cần (vyāyāma) lập thành tuệ uẩn (prajñāskandha): Mặc dù tư duy, vốn lấy sự suy lư (vitarka) làm thể và cần, vốn lấy tinh tấn (vīrya) làm thể đều không phải là tuệ nhưng v́ thuận hợp với tuệ cho nên vẫn được gọi là tuệ. Thân khinh an v́ cũng là một điều kiện của tâm khinh an v́ thế vẫn được kể là một trong các giác chi giống như tâm khinh an.

Xả (upekṣa) là sự b́nh đẳng của tâm (cittasamatā); tức là pháp có khả năng giúp cho tâm giữ được sự b́nh đẳng mà không bị khúc chiết (cảnh giác, anābhoga).

(vấn nạn của Kinh bộ) Nếu tất cả các tâm đều tương ưng với tác ư vốn có tính chất “khúc chiết” th́ làm sao các tâm thiện có thể tương ưng với xả vốn có tính chất “không khúc chiết”?

(Giải thích của Tỳ-bà-sa) Trước đây đă có nói tính chất vi tế của các tâm và tâm sở rất khó biện biệt.

(Kinh bộ) Đó không phải là vấn đề mà chúng tôi muốn đặt ra bởi v́ dù khó đến đâu nhưng nếu chịu khó thẩm tra suy đạc th́ cũng có thể biết được. Điều nan giải ở đây là tại sao cùng một tâm lại có thể tương ưng với các tâm sở vốn tương phản nhau như có cảm giác, không có cảm giác, có lạc, không có lạc.

(Tỳ-bà-sa) Có tính chất khúc chiết đối với sự vật này nhưng vẫn có tính chất không khúc chiết đối với sự vật kia; v́ thế không hề có sự tương phản khi cả hai tính chất cùng hiện hữu.

(Kinh bộ) Nếu vậy, các tâm sở tương ưng sẽ cùng duyên một cảnh; và điều này sẽ đi ngược lại định nghĩa của các ông về các pháp tương ưng. Theo chúng tôi, các pháp tương phản nhau như tác ư và xả trong trường hợp này hoặc tầm và tứ trong trường hợp khác đều không hiện khởi cùng lúc mà phải nối tiếp nhau.

Về hai loại tàm (hrī) và quư (apatrāpya) sẽ được giải thích ở phần sau.

Hai thiện căn là vô tham (alobha) và vô sân (adveṣa). Về thiện căn thứ ba là vô si (amoha) v́ có tánh và phân biệt (tuệ, prajñā) nên được xếp vào các đại địa pháp.

Vô hại (avihiṃsā) là không làm tổn năo.

Cần (vīrya) là sự chịu đựng, sự dũng mănh của tâm (cetaso bhyutsāhaḥ).

Các tâm sở trên đây đều tương ưng với tất cả các tâm thiện.

Nơi xuất phát của các đại phiền năo được gọi là đại phiền năo địa (mahākleśabhūmi).

Các tâm sở thuộc về địa này, tức hiện khởi trong tất cả các tâm nhiễm (kliṣṭa) đều là các đại phiền năo địa pháp (kleśamahābhūmika). 

(Hỏi) Những pháp nào được gọi là đại phiền năo địa pháp?

Tụng đáp:

 癡逸怠不信                  惛掉恒唯染

[Si, dật, đăi, bất tín

Hôn, trạo luôn luôn thuộc về nhiễm pháp]

Luận: Si (moha) là ngu si, tức là vô minh (avidyā), vô trí (ajñāna), vô hiển (mi gsal ba).

Dật (pramāda) là phóng dật, tức trái với bất phóng dật: Không sở hữu và tô bồi các thiện pháp.

Đăi (kausīdya) là giải đăi, tức trái với cần.

Bất tín (āśaraddhya) là tâm không trong sạch, tức trái với tín.

Hôn (styāna) là hôn trầm tức trái với khinh an. Luận đối pháp (Jñānaprasthāna, 2, 9) viết: “hôn trầm là ǵ? - là tính chất nặng nề của thân, tính chất nặng nề (gurutā) của tâm, tính chất bất lực (akarmaṇayatā) của thân, tính chất bất lực của tâm. Tính chất hôn trầm của thân và tính chất hôn trầm của tâm được gọi là hôn trầm”.

(Hỏi) Như vậy hôn trầm là một tâm sở, làm sao có thể có loại thân hôn trầm?

(Đáp) cũng giống như trường hợp của thân thọ.

Trạo (auddhatya) là trạo cử, làm cho tâm không được định tĩnh (avyupaśama).

Chỉ có sáu pháp trên đây được gọi là đại phiền năo địa pháp.

(Hỏi) Tuy nhiên Bổn luận A-tỳ-đạt-ma (Mūla Abhidharma) lại nói rằng có tất cả mười đại phiền năo địa pháp, đồng thời loại bỏ hôn trầm trong số mười pháp này.

Mười pháp đó là ǵ? - là bất tín, giải đăi, thất niệm (muṣitasmṛtitā), tâm tán loạn (vikṣepa), vô minh, bất chánh tri (asaṃprajanya), phi lư tác ư (ayoniśomanaskāra), tà thắng giải (mithyādhimokṣa), trạo cử, và phóng dật.

(Đáp) Thiên ái (devānāṃpriyaḥ), người chỉ đeo bám vào ngôn từ mà quên mất ư chỉ!

(Hỏi) Ư chỉ nào vậy? 

(đáp) Năm trong số các pháp được A-tỳ-đạt-ma đề cập đến là thất niệm, tán loạn, bất chánh tri, phi lư tác ư, và tà thắng giải đă được kể đến trong các đại địa pháp lẽ ra không nên lập làm đại phiền năo địa pháp một lần nữa. Thiện căn vô si cũng không nên được lập làm đại phiền năo địa pháp bởi v́ vốn có thể tánh là tuệ th́ vô si phải thuộc về đại địa pháp. Thất niệm không phải là pháp nào khác so với niệm (smṛti) nhiễm ô. Tâm loạn chính là đẳng tŕ nhiễm ô. Bất chánh tri là tuệ nhiễm ô. Phi lư tác ư là tác ư nhiễm ô; và tà thắng giải là thắng giải nhiễm ô. Đó là lư do tại sao Bổn luận A-tỳ-đạt-ma đă liệt kê mười đại phiền năo địa pháp bằng cách chuyển các đại địa pháp sang các pháp ở trạng thái nhiễm ô (kliṣṭa).

(Hỏi) Một đại địa pháp có thể cũng là một đại phiền năo địa pháp không?

(Đáp) Có bốn trường hợp: (1) thọ, tưởng, tư, xúc và dục chỉ làm đại địa pháp; (2) bất tín, giải đăi, vô minh, trạo cử và phóng dật chỉ làm đại phiền năo địa pháp; (3) niệm, đẳng tŕ, tuệ, tác ư và thắng giải thuộc về cả hai loại; (4) tất cả các pháp khác (đại thiện địa pháp v.v.) không thuộc hai loại trên.

Có luận sư (Vibhāṣā, 42, 17) cho rằng tâm loạn (vikṣepa) không phải là tà đẳng tŕ (mithyāsamādhi) v́ thế đă lập thành bốn trường hợp theo cách khác; tức thêm vào tâm loạn trong trường hợp thứ hai và rút đẳng tri ra khỏi trường hợp thứ ba.

(Hỏi) Nếu A-tỳ-đạt-ma v́ thừa nhận hôn trầm tương ưng với tất cả các nhiễm pháp mà loại bỏ ra khỏi các đại phiền năo địa pháp th́ đó là lỗi của chúng tôi hay của các luận sư A-tỳ-đạt-ma?

(Trả lời của các luận sư A-tỳ-đạt-ma) Lẽ ra cũng phải kể đến hôn trầm trong số các đại phiền năo địa pháp nhưng đă không nói đến v́ hôn trầm thuận hợp với đẳng tŕ (samādhi). Một người mắc bệnh hôn trầm (hôn trầm hành, styānacarita) tức bị tŕ độn có thể phát định nhanh hơn một người mắc bệnh trạo cử (trạo cử hành, auddhatyacarita).

(Hỏi) Nhưng có người nào mắc bệnh hôn trầm mà lại không bị trạo cử? và có người nào mắc bệnh trạo cử mà lại không bị hôn trầm? Chưa từng thấy hai căn bệnh này lại không đi đôi với nhau bao giờ.

(Đáp) Đúng là hôn trầm và trạo cử đi đôi với nhau nhưng ở đây chữ “hành” (bệnh căn) là chỉ cho sự thái quá (adhimātra). Người nào bị hôn trầm quá nặng th́ gọi là “tŕ độn” cho dù người này cũng có thể đang bị trạo cử.

Chúng tôi cũng biết được điều này giống như các ông; tuy nhiên v́ dựa vào thể để sắp xếp các pháp thành từng loại khác nhau cho nên phải thừa nhận rằng sáu pháp này là các đai phiền năo địa pháp bởi v́ chỉ có chúng mới cùng sinh khởi với tất cả các pháp.

Trên đây đă nói về các đại phiền năo địa pháp; tiếp theo là phần nói về đại bất thiện địa pháp.

Nơi xuất phát của các pháp đại bất thiện được gọi là đại bất thiện địa. Các tâm sở thuộc về địa này được gọi là đại bất thiện địa pháp (akuśalamahābhūmika) bởi v́ chúng thường xuyên sinh khởi ở các tâm bất thiện.

(Hỏi) Những pháp nào được gọi là đại bất thiện địa pháp?

Tụng đáp:

 唯遍不善心                  無慚及無愧

[Luôn luôn ở khắp các tâm bất thiện

(Chính là) vô tàm và vô quư.]

Luận: Chỉ có hai tâm sở thường xuyên hiện khởi ở các tâm bất thiện là vô tàm (āhrikya) và vô quư (anapatrāpya) v́ thế chỉ có hai pháp này mang tên loại địa pháp này. Về các tính chất của chúng sẽ được giải thích ở phần sau.

Nơi phát xuất các pháp tiểu phiền năo được gọi là tiểu phiền năo pháp địa. Nếu có pháp nào thuộc về địa này th́ được gọi là tiểu phiền năo địa pháp (parīttakleśabhūmika), tức chỉ cùng khởi với một phần trong số các tâm nhiễm ô.

(Hỏi) những pháp nào có tên là tiểu phiền năo địa pháp?

Tụng đáp:

忿覆慳嫉惱                  害恨諂誑憍
      如是類名為                  小煩惱地法.

[Phẩn, phú, xan, tật, năo

Hại, hận, siểm, cuống, kiêu;

Loại này được gọi là 

Tiểu phiền năo địa pháp]

 Luận: Các tâm sở trên có tên gọi như vậy bởi v́ chúng có địa là tiểu phiền năo. Ở đây “tiểu phiền năo” là chỉ cho vô minh, loại vô minh ở trạng thái đơn độc, tức không tương ưng với tham dục, v.v.. Các tâm sở này chỉ tương ưng với vô minh, loại vô minh chỉ thuộc về ư thức và được đoạn trừ ở tu đạo (bhāvanāmārga). V́ lẽ đó các tâm sở này chỉ có tên là tiểu phiền năo địa pháp. Chúng sẽ được bàn đến trong chương nói về các pháp tùy miên.

Trên đây đă nói về năm loại tâm sở. Ngoài ra c̣n có các loại tâm sở thuộc loại bất định (aniyata), có khi tương ưng với một tâm thiện, có khi tương ưng với một tâm bất thiện hoặc vô kư. Đó là ố tác (kaukṛtya), thùy miên (middha), tầm (vitarka), tứ (vicāra), v.v..

(Hỏi) Có bao nhiêu tâm sở cùng khởi với mỗi loại tâm thiện, bất thiện, vô kư?

Tụng đáp:

 欲有尋伺故                  於善心品中
      二十二心所                  有時增惡作
      於不善不共                  見俱唯二十
      四煩惱忿等                  惡作二十一
      有覆有十八                  無覆許十二
      睡眠遍不違                  若有皆增一.

[Ở Dục giới v́ có tầm tứ

Nên đối với loại tâm thiện

Có hai mươi hai tâm sở;

Có khi lại tăng thêm ố tác.

Ở tâm bất thiện bất cọng

Hoặc có kiến cùng khởi,

Th́ chỉ có hai mươi.

Nếu có bốn phiền năo, phẩn, v.v.

Hoặc ố tác th́ có hai mươi mốt.

Tâm vô phú hữu phú có mười tám

Tâm vô vô phú có mười hai.

Thùy miên có ở tất cả các loại tâm

Mà không tương vi

Nếu có loại tâm sở này th́ đều tăng thêm một.]

Luận: Ở Dục giới có tất cả năm loại tâm: (1) tâm thiện (kuśala) lập thành một loại; (2) - (3) tâm bất thiện (akuśala) lập thành hai loại tùy theo từng trường hợp: Chỉ tương ưng với một ḿnh vô minh (bất cọng vô minh, avidyā) hay tương ưng với các phiền năo khác như tham (rāga), v.v.; (4) - (5) tâm vô kư (avyākṛta) có nghĩa là không sinh quả dị thục, lập thành hai loại tùy theo từng trường hợp: Nhiễm ô (nivṛta, hữu phú vô kư) - tức tương ưng với hữu thân kiến (satkāyadṛṣṭi) và biên chấp kiến (antagrāhadṛṣṭi); hoặc không nhiễm ô (anivṛta, vô phú vô kư) - tức là tâm dị thục.

Tâm ở Dục giới luôn luôn tương ưng với tầm và tứ. Tâm này, khi thiện, có đến hai mươi hai tâm sở là mười đại địa pháp, mười đại thiện địa pháp, và hai pháp bất định (anityata) là tầm và tứ. Khi tâm thiện duyên ố tác (kautṛtya) th́ số lượng tâm sở lên đến hai mươi ba.

(Hỏi) Ố tác có nghĩa là ǵ?

(Đáp) Theo nghĩa đen th́ ố tác là thể của những ǵ thuộc về điều ác (kukṛtabhāva); nhưng ở đây khi nói đến ố tác là có ư chỉ cho loại tâm sở có sở duyên là ố tác được hiểu theo nghĩa trên, tức chỉ cho sự truy hối (vipratisāra) có liên quan đến điều ác đă tạo tác. Cũng giống như trường hợp gọi giải thoát môn (vimokṣamukha) là không (śūnya) bởi v́ pháp này có sở duyên là không hoặc vô ngă, gọi vô tham (alobha) là bất tịnh (aśubhā) bởi v́ pháp này có sở duyên là các pháp bất tịnh. Và cũng giống như thế gian thường dựa vào pháp sở y để đặt tên cho pháp năng y như khi nói đến cả các thôn ấp, xứ sở đều đến tập hội tức đă dựa vào nơi chốn (sthāna, āśraya) để chỉ cho những người đang sống ở các nơi đó (sthānin, āśrayin). Ố tác chính là sở y của sự truy hối nhưng đă dựa vào sở y để đặt tên nên đă gọi sự truy hối này là ố tác. Đây là trường hợp quả mang tên của nhân, như kinh có nói: “sáu xúc xứ () chính là nghiệp tạo tác ở đời trước”.

(Hỏi) Khi duyên một sự vật chưa được tạo tác làm sao có thể gọi đó là ố tác?

(Đáp) Đối với một việc chưa làm vẫn có thể gọi là ố tác; như khi truy hối và nói rằng “thật đáng tiếc (ố tác) là trước đây ta đă không làm việc đó.”

(Hỏi) Những trường hợp nào ố tác được gọi là thiện?

(Đáp) Ố tác được gọi là thiện khi liên quan đến một điều thiện đă bị bỏ lỡ hoặc một điều ác đă lỡ làm; và ố tác được gọi là bất thiện khi liên quan đến một điều ác đă bị bỏ lỡ hoặc một điều thiện đă lỡ làm. Cả hai loại ố tác này đều dựa vào cả hai trường hợp trên để khởi.

Loại tâm bất thiện bất cọng (āveṇika) hoặc tương ưng với kiến (dṛṣṭi) th́ có hai mươi tâm sở; khi tương ưng với một trong bốn phiền năo; hoặc với phẩn, v.v., th́ có hai mươi mốt tâm sở.

Tâm bất cọng là tâm chỉ tương ưng với vô minh (avidyā) mà không tương ưng với các phiền năo khác như tham (rāga), v.v..

Tâm bất thiện tương ưng với kiến là tâm tương ưng với tà kiến (mithyādṛṣṭi), kiến thủ (dṛṣṭiparāmarśa), hoặc giới cấm thủ (śīlavrataparāmarśa); nếu tương ưng với hữu thân kiến (satkāyadṛṣṭi) và biên chấp kiến (antagrāhadṛṣṭi) th́ không phải bất thiện (akuśla) mà là hữu phú vô kư (nivṛtāvyākṛta).

Trong cả hai trường hợp này, tâm bất thiện có mười đại địa, sáu đại phiền năo địa pháp, hai đại bất thiện địa pháp, và hai tâm sở bất định là tầm, tứ. Kiến không được kể riêng thành một số bởi v́ kiến chỉ là một loại tuệ (prajñā) và tuệ vốn đă thuộc về đại địa pháp.

Khi tương ưng với bốn loại phiền năo tham (rāga), sân (pratigha), mạn (māna), nghi (vicikitsā) th́ tâm bất thiện có hai mươi mốt tâm sở là hai mươi tâm sở kể trên cộng thêm tham hoặc sân, v.v.

Khi tương ưng với phẩn, v.v., th́ đây là một trong số các tùy phiền năo (upakleśa) đă được kể đến ở trên.

Tâm vô kư có mười tám tâm sở nếu thuộc về hữu phú và chỉ có mười hai nếu thuộc về vô phú.

Ở Dục giới tâm vô kư là loại tâm không sinh quả dị thục, khi tương ưng với hữu thân kiến và biên chấp kiến th́ thuộc về hữu phú - tức bị ngăn che bởi các phiền năo (nivṛta-kleśachādita) - và có mười tám tâm sở là mười đại địa pháp, sáu đại phiền năo địa pháp và hai tâm sở bất định là tầm, tứ.

Nếu thuộc về vô phú th́ tâm vô kư chỉ có mười hai tâm sở là mười đại địa pháp, tầm và tứ.

Các luận sư ngoại quốc cho rằng ố tác cũng có thể thuộc về vô kư, chẳng hạn như ố tác trong khi nằm mộng. Như vậy tâm vô kư vô phú tương ưng với ố tác vô kư sẽ có mười ba tâm sở.

Thùy miên (middha) không tương vi với tất cả các loại tâm kể trên. Bất kỳ loại tâm nào nếu có thùy miên đều tăng thêm một số.

Thùy miên có thể thiện, bất thiện, hoặc vô kư. Như vậy loại tâm có thùy miên tương ưng sẽ có hai mươi ba tâm sở thay v́ là hai mươi hai trước đó, hoặc hai mươi bốn tâm sở thay v́ là hai mươi ba trước đó; điều này tùy thuộc tâm này là thiện và không có ố tác hay là thiện và có ố tác.

Trên đây đă nói về số lượng các tâm sở tương ưng với các loại tâm ở Dục giới. Tiếp theo là phần nói về các giới ở trên.

初定除不善                  及惡作睡眠
      中定又除尋                  上兼除伺等.

[Ở sơ định trừ bất thiện

Ố tác và thùy miên

Ở trung gian định trừ thêm tầm.

Ở các định trên từ tứ, v.v.]

 Luận: Ở tầng thiền thứ nhất không có các tâm sở bất thiện, ố tác và thùy miên; ngoài ra tất cả đều có đủ.

Ở tầng thiền thứ nhất không có tâm sở bất thiện là (1) sân (pratigha), (2) tất cả các phiền năo thuộc nhóm phẩn, v.v., ngoại trừ siểm (śāṭhya), cuống (māya), và kiêu (mada), (3) hai đại bất thiện pháp là vô tàm và vô quư, (4) ố tác, và (5) thùy miên. Các tâm sở khác thuộc Dục giới đều có ở tầng thiền thứ nhất.

Ở tầng thiền trung gian lại trừ thêm tầm (vitarka).

Ở tầng thiền thứ hai trở lên cho đến Vô sắc giới lại trừ thêm tứ, siểm và cuống. (Kiêu luôn luôn có ở cả ba giới).

(Câu hỏi của Tỳ-bà-sa) (Vibhāṣā, 129, 1) kinh nói: siểm và cuống sinh khởi cho đến cơi Phạm thiên; nhưng ở những cơi trời cao hơn nơi mà chúng sinh không sống chung với nhau th́ không có hai loại tâm sở này. Đại Phạm vương (Mahābrahmā) khi đang ngồi giữa chúng thiên th́ bị bí-sô Mă thắng (Bhikṣu Aśvajit) hỏi rằng: “Bốn đại chủng diệt tận ở giai đoạn nào?” Đại Phạm vương không thể trả lời câu hỏi này nhưng đă nói dối rằng: “Ta là Phạm vương, là đại Phạm vương, là chúa tể, là bậc tạo tác, ban phát, nuôi dưỡng, là người cha của tất cả.” Sau đó Phạm vương t́m cách bảo Mă thắng rời khỏi thiên chúng và khuyên ngài nên quay về chỗ của thầy ḿnh để hỏi.

Trên đây đă nói về số lượng các tâm sở tương ưng với tất cả các loại tâm ở tất cả ba giới. Tiếp theo sẽ nói về sự khác nhau của một phần nhỏ các tâm sở đă được giải thích ở trên.

(Hỏi) Vô tàm và vô quư khác nhau như thế nào? Ái và kính khác nhau như thế nào?

Tụng đáp:

無慚愧不重                  於罪不見怖
      愛敬謂信慚                  唯於欲色有

[Vô tàm, vô quư là không kính trọng,

Không sợ trước tội lỗi

Ái, kính là tín, tàm

Chỉ có ở dục và Sắc giới.]

 Luận: Vô tàm là không có sự kính trọng; có nghĩa là không có sự tôn sùng (apratīśatā), phục ṭng (abhayavaśavartitā) đối với các công đức (maitrī, karuṇā) của ḿnh và người khác cũng như đối với bậc hữu đức. Vô tàm là loại tâm sở tương phản với kính (gaurava, sagauravatā, sapratīśatā, sabhayavaśavartitā).

Vô quư là pháp làm cho người ta không thấy được các quả không đáng ưa (phi ái quả, aniṣṭaphala) của tội lỗi.

Tội lỗi (avadya) là điều mà những người tốt (thiện sĩ) ghét bỏ.

Các “kết quả không đáng ưa” được tụng văn gọi là “sự sợ hăi” (bố, bhaya) bởi v́ các quả này tạo ra sự sợ hăi.

T́nh trạng của một người đang mang tội nhưng lại không thấy các kết quả như thế - tức là pháp phát sinh ra t́nh trạng này - chính là vô quư.

(vấn nạn) Câu nói “không thấy các kết quả không đáng ưa” (bất kiến bố, abhayadarśitva) có nghĩa là “thấy rằng chẳng có kết quả nào đáng gọi là không đáng ưa” (kiến nhi bất bố, abhayasya darśitvam) hay có nghĩa là “không thấy có các kết quả không đáng ưa” (bất kiến bỉ bố abhayasya adarśitvam)? Trong hai cách giải thích trên không có cách nào hợp lư cả; bởi v́ cách giải thích thứ nhất cho thấy có một loại tuệ nhiễm ô, tức là một cái biết không chính xác; và cách giải thích thứ hai cho biết chỉ có vô minh.

(Giải thích) Câu nói “không thấy các kq không đáng ưa” không có nghĩa là “thấy” (tuệ nhiễm), cũng không có nghĩa là “không thấy” (vô minh) mà nó chỉ nhằm chỉ cho một trong các pháp tùy phiền năo (upakleśa) có nhân là tà kiến (mithyādṛṣṭi) và vô minh và được gọi là vô quư (anapatrāya). (Vibhāṣā, 34, 19)

Có luận sư cho rằng không thấy hỗ thẹn về tội lỗi khi đối diện với chính ḿnh là vô tàm và không thấy hổ thẹn với tội lỗi khi đối diện với người khác là vô qúy.

(Hỏi) Nếu vậy th́ cả hai trường hợp không thấy hổ thẹn về tội lỗi này không thể nào xảy ra cùng một lúc được?

(Đáp) Không phải chúng tôi muốn nói là cả hai sự không thấy hổ thẹn này phải xảy ra trong cùng một lúc. Nếu một người không thấy hổ thẹn về tội lỗi khi đối diện với chính ḿnh th́ đó là vô tàm, xuất phát từ tham dục (rāganisyanda); và nếu không thấy hổ thẹn khi đối diện với người khác th́ đó là vô quư xuất phát từ si (moha).

Tàm (hrī) và qúy (apatrāya) là hai pháp trái ngược với hai pháp trên đây. Nếu hiểu ngược lại cách giải thích thứ nhất ở trên th́ tàm chính là sự kính trọng, tôn sùng, phục tùng và quư là sự sợ hăi trước các kq tội lỗi; nếu theo cách giải thích thứ hai th́ tàm là sự hổ thẹn về tội lỗi đối với bản thân ḿnh và quư là sự hổ thẹn đối với người khác.

Trên đây là phần nói về sự khác biệt giữa vô tàm và vô quư; tiếp theo là phần tŕnh bày các sự khác biệt giữa ái và kính.

Ái, tức yêu thương, lấy tín làm thể. Ái có hai loại là nhiễm ô (kliṣṭa) và không nhiễm ô. (Vibhāṣā, 29, 12).

Loại ái nhiễm ô chính là tham (rāga) như yêu thương vợ, con, v.v.. loại ái không nhiễm ô là tín (śraddhā) như yêu thương thầy dạy, người hiền đức.

Có trường hợp tín không phải là ái như sự tin tưởng đối với khổ đế và tập đế.

Có trường hợp ái không phải là tín, như loại ái nhiễm ô.

Có trường hợp tín chính là ái, như sự tin tưởng đối với diệt đế và đạo đế.

Các tâm sở khác, các pháp không tương ưng với tâm, không phải là tín cũng không phải là ái. 

Có thuyết cho rằng tín là sự tin tưởng đối với các đức tính (guṇasaṃbhāvanā) từ sự tin tưởng này đă phát sinh ái (priyatā). V́ thế ái không phải là tín mà là quả của tín.

Kính, tức kính trọng, lấy tàm làm thể. Như đă giải thích ở trên, tàm là sự kính trọng, tôn sùng, v.v..

Có trường hợp tàm không phải là kính, như loại tàm có liên quan đến khổ đế và tập đế.

Loại tàm có liên quan đến diệt đế và đạo đế cũng là kính.

Có thuyết cho rằng kính là sự tôn sùng (sapratīśata); từ kính phát sinh ra sự hổ thẹn (lajjā) gọi là tàm (hrī). Như vậy kính là nhân của tàm chứ không phải tàm. 

Về ái và kính có thể phân tích qua bốn trường hợp: 

(1)                                Ái không phải là kính, như đối với vợ con, đồng đạo (sārdhavihārin),v.v.

(2)                                Kính không phải là ái, như đối với thầy của người khác, người có đạo đức, v.v..

(3)                                Kính chính là ái, như đối với thầy ḿnh, cha mẹ ḿnh, v.v..

(4)                                Không phải kính cũng không phải ái như đối với những người khác.

Cả hai loại này đều có ở Dục giới và Sắc giới nhưng không có ở Vô sắc giới.

(Hỏi) Chẳng phải ở trên vừa mới nói rằng ái là tín và kính là tàm sao? Và nếu như vậy th́ ái và kính phải có ở cả Vô sắc giới bởi v́ tín và tàm đều là các đại thiện địa pháp.

(Đáp) Ái và kính đều có hai loại: một loại liên quan đến pháp và một loại liên quan đến người. Loại thứ nhất có ở cả ba giới; nhưng ở đây đang nói về loại thứ hai cho nên chỉ có ở dục và Sắc giới.

Trên đây đă nói về sự khác biệt giữa ái và kính; tiếp theo là phần nói về sự khác biệt giữa tầm và tứ.

尋伺心麤細                  慢對他心舉
      憍由染自法                  心高無所顧.

[Tầm, tứ là sự thô, tế của tâm

Mạn là do so sánh với tâm người khác mà có

Kiêu là do đam nhiễm các phẩm tính của ḿnh mà tâm sinh cao ngạo không xem người khác ra ǵ.]

 Luận: Tầm (vitarka) và tứ (vicāra) là sự khác nhau giữa thô và tế của tâm. Tâm thô động th́ gọi là tầm; tâm vi tế th́ gọi là tứ.

(Hỏi) Làm thế nào mà tầm và tứ có thể tương ưng với tâm cùng một lúc?

(Đáp) Có thuyết (Vibhāṣā, 42, 14) cho rằng tứ cũng như nước lạnh, tầm giống như lớp váng sữa có nước lạnh chảy qua và tầm là ánh nắng chiếu vào lớp váng sữa này. Nhờ có nước và ánh nắng, lớp váng sửa không tan chảy cũng không đông cứng. Tầm và tứ tương ưng với tâm cũng giống như vậy. Tâm không quá vi tế là nhờ có tầm, cũng không quá thô động là nhờ có tứ.

Tuy nhiên chúng tôi cho rằng với giải thích trên th́ tầm và tứ không phải là tính chất vi tế và thô động của tâm mà là nhân (nimitta) của hai tính chất này; bởi v́ nước lạnh và ánh nắng không phải là trạng thái đông cứng và tan chảy của lớp váng sữa mà là nhân gây ra các trạng thái này.

Có thuyết (Dārṣṭāntika) lại cho rằng tính chất thô và tế của tâm được lập thành là do sự đối đăi và có nhiều mức độ khác nhau: tâm của tầng thiền thứ nhất th́ vi tế so với tâm của Dục giới, nhưng lại thô động so với tầng thiền thứ hai. Trong cùng một giai đoạn, các phẩm tánh và phiền năo có thể thô động hơn hoặc vi tế hơn bởi v́ chúng có đến chín mức độ khác nhau. V́ thế nếu tầm và tứ là hai tính chất thô và tế của tâm th́ cả hai đều phải hiện khởi cho đến tầng cao nhất của Vô sắc giới. (Vibhāṣā, 52, 6). Và như thế hai loại tâm này sẽ chấm dứt kể từ tầng thiền thứ hai. Hơn nữa hai tính chất thô và tế này sẽ không thể có thể loại riêng biệt (jatibheda) và sẽ không có cơ sở nào để có thể phân biệt tầm và tứ. 

Có thuyết (Sautrāntika) lại cho rằng tầm và tứ là hai yếu tố (hành) của ngôn ngữ bởi v́ kinh nói rằng “cần có sự t́m hiểu và xét đoán trước th́ mới có ngôn ngữ; không có trường hợp không t́m hiểu và xét đoán trước mà lại có thể có ngôn ngữ.” Yếu tố nào của ngôn ngữ mà thô động th́ gọi là tầm. (Như vậy theo giải thích này, có thể hiểu rằng ngôn ngữ hiện khởi không do hai pháp riêng biệt là tầm và tứ mà do sự tập hợp của tâm và tâm sở kích phát ngôn ngữ và tập hợp tâm sở này có thể là thô hoặc tế.) 

(Vấn nạn của Tỳ-bà-sa) Nếu trong một tâm cùng có hai pháp tương ưng và trong hai pháp này có một pháp thô và một pháp tế th́ điều này có nghịch lư không?

(Giải thích của Kinh bộ) Không nghịch lư nếu hai pháp này có thể loại riêng biệt; như trường hợp của thọ và tưởng dù thọ th́ thô mà tưởng th́ tế nhưng chúng vẫn cùng hiện khởi. Tuy nhiên nếu cùng thể loại mà có mạnh yếu và thô tế khác nhau th́ không thể cùng khởi.

(Tỳ-bà-sa) Tầm và tứ vẫn có thể loại riêng biệt.

(Kinh bộ) Thể loại riêng biệt này là ǵ?

(Tỳ-bà-sa) Rất khó giải thích thể loại riêng biệt này; tuy nhiên chúng có thể được biểu hiện (vyakta) qua các năng lực mạnh hoặc yếu của tâm.

(Kinh bộ) Sự mạnh và yếu của tâm không thể biểu lộ tính chất riêng biệt này bởi v́ cùng một thể loại vẫn có thể có khi mạnh có khi yếu khác nhau.

(Kết luận của luận chủ) Tầm và tứ không tương ưng với cùng một tâm độc nhất mà hiện khởi nối tiếp nhau. Tỳ-bà-sa không thừa nhận tầng thiền thứ nhất có năm chi và trong số đó có tầm và tứ. Theo chúng tôi tầng thiền thứ nhất vẫn có năm chi khi năm chi này là địa của tầng thiền thứ nhất mặc dù nếu căn cứ vào một sát-na th́ tầng thiền thứ nhất sẽ không có bốn chi, hỷ (prīti), lạc (sukha), định (samādhi) và tầm hoặc tứ.

Trên đây đă giải thích về sự khác biệt giữa tầm và tứ; tiếp theo là phần nói về sự khác biệt giữa mạn (māna) và kiêu (mada).

Mạn là tính chất tự cao của tâm (cetasa unnatiḥ) khi đối với người khác. Khi so sánh các đức tánh có được hoặc nghĩ là ḿnh có được so với người khác th́ sinh tâm cao ngạo và khinh miệt người khác. Trái lại, kiêu là sự phóng dật của tâm ở những người bị mê hoặc bởi các phẩm tính riêng của chính ḿnh.

V́ chấp trước các phẩm chất riêng của ḿnh cho nên sinh tâm cao ngạo, phấn khích và buông thả.

Có luận sư giải thích rằng giống như rượu có thể tạo ra một sự hưng phấn vui vẻ (saṃpraharṣaviśeṣa) thường được gọi là trạng thái say sưa th́ sự đam trước các phẩm chất riêng của một người cũng như vậy.

Trên đây đă nói về các phẩm loại khác nhau, các tính chất bất đồng và số lượng cùng khởi của tâm và tâm sở. tiếp theo là phần phân tích các tâm sở khác nhau được nói đến trong kinh điển của các tâm và tâm sở này.

心意識體一                  心心所有依
      有緣有行相                  相應義有五.

[Tâm, ư và thức có cùng thể.

Tâm và tâm sở có sở y

Sở duyên, hành tướng

Và tương ưng. Về tương ưng có năm ư nghĩa.]

Luận: Tâm (citta) là sự tập khởi (cinoti) (cả thiện pháp và bất thiện pháp). Tâm được gọi là ư (mana) khi có sự hiểu biết (tư lương, manute); và được gọi là thức (vijñāna) khi có sự phân biệt sở duyên (ālambanaṃ vijānāti).

Có giải thích cho rằng bị nhuộm (citra) bởi các giới tịnh và bất tịnh nên gọi là tâm. Khi tâm là sở y (āśrayabhūta) cho một tâm tiếp theo th́ gọi là y; Khi nương vào căn và cảnh (āśritabhūta) th́ gọi là thức.

Như vậy ba danh từ tâm, ư và thức có các nghĩa khác nhau nhưng đều cùng chỉ cho một thể. Cũng giống như trường hợp của tâm, ư và thức, các danh từ “có sở y”, “có sở duyên”, “có h́nh tướng”, “có tương ưng” của tâm và tâm sở tuy có ư nghĩa khác nhau nhưng đều chỉ chung một thể.

Các tâm và tâm sở được gọi là “có sở y” (āśraya) bởi v́ chúng đều nương vào các căn, được gọi là “có sở duyên” (sālambana) bởi v́ chúng đều nắm bắt cảnh sở duyên (viṣayagrahaṇa), được gọi là “có h́nh tướng” (sākāra) bởi v́ chúng đều mang các h́nh thái khác nhau dựa theo từng loại sở duyên khác nhau, và được gọi là “có tương ưng”, tức có sự “tương tợ và hợp nhất” (saṃprayukta) bởi v́ chúng có tương tợ (sama) nhau và không tách rời (aviprayukta) nhau.

(Hỏi) Dựa vào ư nghĩa nào để nói là “tương tợ và hợp nhất”?

Đáp) tâm và tâm sở được gọi là tương ưng v́ có năm sự tương tợ (samatā) về sở y, sở duyên, hành tướng và thời gian (kāla) và số lượng các thực pháp (sự, dravya). Tỷ dụ như tâm sở thọ, v.v., và tâm có thể tương ưng với nhau v́ chúng có cùng một sở y, một sở duyên, một hành tướng; v́ chúng sinh khởi cùng thời gian; và v́ trong sự tương ưng này, mỗi một loại đều được biểu hiện bởi một thực pháp duy nhất. Trong một sát-na chỉ có thể sinh khởi một tâm, tức một thực pháp độc nhất; và đối với một tâm độc nhất này cũng chỉ có một tâm sở, tức cũng là một thực pháp của mỗi loại, tương ưng: Đó là tâm sở thọ, v.v..

Trên đây là phần giải thích chi tiết các tính chất của tâm và tâm sở.

(Hỏi) các hành (saṃskāra) không tương ưng với tâm (cittaviprayukta) là ǵ?

Tụng đáp:

 心不相應行                  得非得同分
      無想二定命                  相名身等類

[Các hành không tương ưng với tâm

Là đắc, phi đắc, đồng phần,

Hai định vô tưởng, mạng,

Các tướng hữu vi danh thân, v.v..]

Luận: Các pháp không tương ưng với tâm đều có thể tánh không thuộc về sắc (rūpa). Chúng đều thuộc về hành uẩn (saṃskāraskandha): Đây là lư do tại sao chúng được gọi là “tâm bất tương ưng hành” (cittaviprayukta saṃskāra) bởi v́ chúng tách rời với tâm và v́ chúng thuộc về vô sắc cũng giống như tâm.

Dưới đây là phần nói về các tính chất của đắc và phi đắc. 

得謂獲成就                  非得此相違
      得非得唯於                  自相續二滅.

[Đắc là hoạch, thành tựu

Phi đắc là trái với đắc.

Đắc và phi đắc chỉ có ở

Thân tương tục của chính ḿnh và hai diệt.]

Luận: Đắc (prāpti) có hai loại: (1) thu vào (lābha, pratilambha) những ǵ chưa đắc được (prāpta) hay những ǵ đă mất (vihīna); (2) sở hữu (thành tựu, samanvaga, samanvāgama) những ǵ đă đắc được hay không bị mất.

Phi đắc là trái với hai trường hợp trên.

(Hỏi) những pháp nào có đắc và phi đắc?

(Đáp) Một cá nhân và hai pháp diệt có thể có đắc và phi đắc.

Khi một pháp hữu vi (saṃskṛta) rơi vào trong thân tương tục của một cá nhân th́ có sự đắc được hoặc không đắc được pháp hữu vi này: Chứ không phải khi rơi vào trong thân tương tục của một cá nhân khác bởi v́ không ai có thể sở hữu các pháp thuộc về người khác. Cũng không thể có sự đắc được hay không đắc được nếu như pháp hữu vi này không rơi vào trong một thân tương tục nào cả; bởi v́ không ai có thể sở hữu các pháp không thuộc về loài hữu t́nh (asattvākhya). 

Về các pháp vô vi (asaṃskṛta) th́ có sự đắc được hai pháp trạch diệt (pratisaṃkhyānirodha) và phi trạch diệt (apratisaṃkhyānirodha).

Tất cả chúng sinh đều có thể thành tựu pháp phi  trạch diệt đối với các pháp không sinh v́ thiếu duyên.

Luận Đối pháp (Jñānaprasthāna, 19, 9) viết: “Ai sở hữu các pháp vô lậu (anāsrava)? - tất cả chúng sinh đều có thể sở hữu pháp trạch diệt ngoại trừ các thánh giả c̣n bị hệ phược ở sát-na đầu tiên (sơ sát-na cụ phược thánh giả, sakalabandhana-ādikṣaṇastha) - tức các chúng sinh ở cơi thiên đang c̣n bị ràng buộc bởi các phiền năo ở vào sát-na đầu tiên của kiến đạo - và ngoại trừ tất cả dị sinh (pṛthagjana) đang c̣n đủ loại hệ phược. Tất cả chúng sinh khác, tức chúng thiên và dị sinh khác đều có thể sở hữu pháp trạch diệt.

Không ai có thể sở hữu (samanvāgata) hư không (ākāśa) v́ thế không có sự đắc được hư không.

Theo Tỳ-bà-sa, đắc và phi đắc được lập thành là do sự đối lập với nhau. Tất cả những ai có đắc th́ cũng có phi đắc. Điều này cũng quá dễ hiểu cho nên không cần phải giải thích chi tiết.

(Vấn nạn của kinh bộ) Làm thế nào (Tỳ-bà-sa thuộc nhất thiết hữu bộ) có thể biết được có một thực pháp (dvaryadharma) riêng biệt gọi là đắc?

(Trả lời của hữu bộ) Kinh (Madhyamāgama, 49, 16) nói rằng “nhờ sinh khởi được (utpāda), đắc được (pratilambha), sở hữu được (thành tựu, samanvāgata) mười pháp của a-la-hán (Vô học) mà thánh giả trở thành người đoạn trừ được năm chi phiền năo.

(Kinh bộ) Nếu vậy th́ vẫn có thể thành tựu các pháp không thuộc về hữu t́nh và các pháp thuộc về người khác. Bởi v́ kinh (Cakravartisutra) nói rằng “bí-sô, các ông nên biết rằng chuyển luân vương thành tựu (sở hữu) bảy thứ trân báu.” (Dīgha, iii. 59) (trong số bảy báu này có thứ không thuộc về hữu t́nh như bánh xe, và có thứ thuộc về người khác như nữ thân.)

(Hữu bộ) Trong đoạn kinh trên, khi nói “thành tựu” là hàm nghĩa “làm chủ” (tự tại, vaśitva). Chuyển luân vương có khả năng làm chủ đối với các thứ trân báu bởi v́ nhà vua có thể có được tùy theo ư muốn (kāmacāra). Nhưng khi kinh nói về sự thành tựu mười pháp của a-la-hán th́ chữ “thành tựu” này lại chỉ cho một thực pháp riêng (dravyadharma). 

(Kinh bộ) Nếu trong kinh Chuyển luân vương chữ “thành tựu” có nghĩa là “làm chủ” th́ tại sao có thể biết chắc rằng trong cuốn kinh khác chữ này lại chỉ cho một thực pháp là đắc.

Pháp đắc này không được tri nhận trực tiếp giống như trường hợp của sắc, thanh, v.v., của tham, sân, v.v.; đồng thời cũng không thể dựa vào tác dụng (kṛtya) để kết luận rằng nó có hiện hữu giống như trường hợp của nhăn căn, nhĩ căn, v.v., bởi v́ không thấy có những tác dụng tương tợ như vậy đối với đắc.

(hữu bộ) Nói như vậy thật sai lầm. Pháp đắc này vẫn có tác dụng của nó. Đó là nhân của sự sinh khởi (sinh nhân, utpattihetu) các pháp.

(Kinh bộ) Câu trả lời trên thật đáng buồn! Nếu các pháp sinh khởi là nhờ có đắc th́ (1) sinh và sinh sinh sẽ thành vô dụng; (2) các pháp thuộc về phi t́nh (asattvākhya) sẽ không thể sinh; (3) làm thế nào để giải thích sự khác nhau của các phiền năo (kleśa) như mạnh, yếu, trung b́nh ở những người đang c̣n bị hệ phược (sakalabandhana) bởi v́ tất cả những người này đều sở hữu các pháp đắc (prāpti) đối với tất cả phiền năo thuộc Dục giới. Nếu các ông biện minh rằng vẫn có sự khác nhau v́ có các nhân khác nhau của đắc th́ như vậy chính các nhân này là những nhân chính tạo ra các phiền năo mạnh, yếu, hoặc trung b́nh khác nhau; và lúc đó đắc sẽ có tác dụng ǵ?

(Hữu bộ) Có ai nói rằng đắc là nhân sinh ra các pháp? Đó không phải là chủ trương của chúng tôi. Theo chúng tôi, đắc là nhân kiến lập các trạng thái, hoàn cảnh của chúng sinh. Nếu không có đắc th́ làm sao có thể phân biệt được sự khác nhau giữa dị sinh và hàng thánh giả (Ārya) ở sát-na khởi tâm thế tục (laukika)? Sở dĩ có thể biết được sự khác nhau này là nhờ hàng thánh giả, ngay cả khi đang khởi tâm thế tục, th́ vẫn thành tựu (prāpti) một số pháp vô lậu nào đó.

(Kinh bộ) Theo chúng tôi, sở dĩ có sự khác nhau là v́ thánh giả đă đoạn trừ một phần phiền năo nhưng dị sinh th́ chưa đoạn trừ được (prahīṇāprahīṇākleśatāviṣeṣa).

(hữu bộ) Đương nhiên là như vậy; nhưng nếu không có đắc th́ làm thế nào có thể nói rằng một phiền năo đă được hay chưa được đoạn trừ? Chỉ có thể đoạn trừ một phiền năo khi nào xả ly (vigama) được “pháp đắc của phiền năo này”; chừng nào mà “pháp đắc của phiền năo này” c̣n hiện khởi th́ vẫn chưa thể đoạn trừ được phiền năo này.

(Chủ trương của kinh bộ) sự đoạn trừ hay không đoạn trừ được phiền năo chủ yếu dựa vào một điều kiện nào đó của cá nhân (sở y, āśraya). Ở thánh giả, nhờ lực của kiến đạo và tu đạo mà thân sở y được chuyển biến và trở thành khác biệt với thân sở y trước đó. Phiền năo một khi đă được diệt trừ bởi kiến đạo th́ không c̣n có công năng hiện khởi trở lại. Giống như hạt giống bị lửa đốt sẽ khác với trước và không c̣n có khả năng nảy mầm th́ đối với thánh giả cũng vậy. Một thánh giả khi đă đoạn được phiền năo th́ trong thân sẽ không c̣n loại chủng tử phát sinh phiền năo. Đối với thế gian đạo th́ chưa thể rốt ráo diệt trừ phiền năo nhưng đă có thể làm cho chúng bị tổn hoại hoặc lay chuyển. V́ thế mới nói răng dị sinh, nếu chỉ có thể tu tập thế gian đạo, th́ vẫn có thể đoạn trừ phiền năo khi trong thân sở y không c̣n chứa các chủng tử của loại phiền năo đă bị làm tổn hoại (upahata) bởi con đường tu tập này. Trái lại nếu các loại chủng tử này chưa bị thiêu đốt hoặc chưa bị tổn hoại th́ các phiền năo vẫn chưa được đoạn trừ. Khi một người chưa đoạn được phiền năo theo cách đă nói ở trên th́ gọi là “thành tựu” phiền năo; và khi đă đoạn được th́ gọi là “không thành tựu” phiền năo. Cả “thành tựu” và “không thành tựu” đều không phải là thực pháp mà chỉ là sự giả lập (prajñapti).

Trên đây đă nói về sự thành tựu và không thành tựu các phiền năo; tiếp theo là phần nói về sự thành tựu và không thành tựu các pháp.

Có hai loại thiện pháp: (1) các thiện pháp ở trong (aupapattika, upapattilābhika, sinh đắc) có được không nhờ vào sự nổ lực (āyatnabhavin), (2) có thiện pháp có được nhờ vào sự nổ lực hay tu tập (prāyogika, prāyogalabhika).

Một người được gọi là thành tựu các thiện pháp sinh đắc khi trong thân sở y của ḿnh c̣n sở hữu nguyên vẹn chủng tử các thiện pháp; nếu chủng tử bị tổn hoại th́ gọi là không thành tựu. Thật vậy, nếu chủng tử các phiền năo có thể rốt ráo diệt tận (atyantaṃ samudghāta, apoddharaṇa), giống như trong trường hợp của thánh giả, th́ các thiện căn không bao giờ bị đoạn tận. Chính v́ sự hạn chế này mà khi một người chặt đứt các thiện căn v́ lực của tà kiến th́ người ta nói rằng người đó đă đoạn thiện căn bởi v́ chủng tử của các thiện căn này, tức các chủng tử thuộc về thân sở y của người này đă bị làm tổn hoại bởi tà kiến (mithyādṛṣṭi).

Một người được gọi là thành tựu các thiện pháp tu đắc khi các pháp đă sinh này và công năng sinh khởi các thiện pháp (mới) không bị làm tổn hoại.

Như vậy khi nói “thành tựu” (samanvāgama) th́ đây không phải là một pháp có một thực thể riêng (nānyad dravyam) được gọi là đắc (prāpti) như Hữu bộ đă chủ trương mà chỉ là một t́nh trạng nào đó (avasthā) của thân sở y (āśraya = nāmarūpa); tức được dùng để chỉ cho các trường hợp: (1) các chủng tử phiền năo chưa được nhổ tận gốc (bạt, anapoddhṛta) bởi thánh đạo, (2) các chủng tử của phiền năo chưa bị làm tổn hoại (anupahata) bởi thế gian đạo (laukika), (3) các chủng tử của thiện căn sinh đắc (aupapattika) chưa bị làm tổn hoại bởi tà kiến, (4) các chủng tử của thiện căn tu đắc vẫn c̣n nguyên vẹn vào sát-na muốn hiện khởi thiện pháp này. Khi thân sở y của một người đang ở vào một t́nh trạng như thế th́ được gọi là “thành tựu phiền năo, thiện căn, v.v..”

(Câu hỏi của Hữu bộ) Chủng tử (bīja) là ǵ?

(Đáp) Chủng tử là danh và sắc (nāmarūpa), tức là một tập hợp ngũ uẩn, có khả năng sinh quả một cách trực tiếp hoặc gián tiếp nhờ vào sự chuyển biến sai biệt (pariṇāmaviśeṣa) trong một chuỗi tương tục. 

Chuỗi tương tục (saṃtati) là chỉ cho các hành (saṃskāra) thuộc về quá khứ, hiện tại và vị lai có tương quan nhân quả với nhau và tạo thành một chuỗi tương tục không gián đoạn. 

Chuyển biến (pariṇāma) là chỉ cho sự chuyển biến của chuỗi tương tục này, là sự sinh khởi khác biệt trong mỗi sát-na.

Sai biệt (viśeṣa) là thời kỳ lên đến cực điểm của sự chuyển biến này, là sát-na mà chuỗi tương tục có đủ năng lực sinh ra quả trực tiếp.

(Bác bỏ của Tỳ-bà-sa) Kinh nói: “người nào thành tựu tham (lobhena samanvāgataḥ) th́ không thể tu bốn niệm trụ”.

(Giải thích của Kinh bộ) Ở đoạn kinh trên, khi nói “thành tựu tham” là hàm ư “chấp nhận” (adhivāsana, abhyanujñāna) hoặc “không xả bỏ” (avinodana, avyupaśama) tham. Kinh không nói rằng một người có chủng tử tham th́ không thể tu bốn niệm trụ mà chỉ hàm ư khi có tham hiện hành th́ không thể có năng lực tu tập bốn niệm trụ.

Nói tóm lại, dù “thành tựu” (samanvāgama) được hiểu theo cách nào đi nữa th́ đó vẫn không phải là một pháp có thực thể (dravyadharma) mà chỉ là một pháp giả định (prajñaptidharma); trong trường hợp của “không thành tựu” cũng như vậy; đó chỉ là một phản nghĩa của thành tựu.

Các luận sư Tỳ-bà-sa nói rằng đắc và phi đắc là các thực pháp chứ không phải giả định.

Cả hai chủ thuyết trên đây đều có thể chấp nhận. Bởi v́ sao? - bởi v́ thuyết thứ nhất không trái lư; và thuyết thứ hai là ư chỉ của bổn tông.

Trên đây đă nói về tự tánh của đắc và phi đắc; tiếp theo là phần tŕnh bày các điểm sai biệt.

Trước hết là phần tŕnh bày đắc: 

三世法各三                  善等唯善等
      有繫自界得                  無繫得通四
      非學無學三                  非所斷二種.

[Các pháp trong ba đời đều có ba loại đắc

Thiện pháp, v.v., chỉ có đắc thuộc thiện

Pháp hệ thuộc vào một giới có đắc thuộc giới đó.

Pháp không hệ thuộc giới nào cả có bốn loại đắc

Pháp không thuộc Hữu học và Vô học có ba loại đắc.

Các pháp không thể đoạn có hai loại đắc.]

Luận: Đắc được các pháp ở quá khứ, hiện tại và vị lai đều có ba loại khác nhau.

Các pháp ở quá khứ có thể là đối tượng của pháp đắc thuộc quá khứ, pháp đắc thuộc hiện tại và pháp đắc thuộc vị lai. 

Các pháp ở hiện tại và vị lai cũng giống như vậy.

Đối với các pháp thuộc thiện th́ chỉ có pháp đắc thuộc thiện; các pháp bất thiện th́ có pháp đắc thuộc bất thiện; và các pháp vô kư th́ có pháp đắc thuộc vô kư.

Các pháp hệ thuộc vào giới nào th́ có pháp đắc thuộc về giới đó. Các pháp hệ thuộc ba giới đều là pháp hữu lậu (sāsrava). Một pháp thuộc Dục giới chỉ có pháp đắc thuộc Dục giới. Các pháp ở Sắc giới hoặc Vô sắc giới cũng giống như vậy.

Các pháp không hệ thuộc giới nào cả, nói chung là các pháp vô lậu, th́ có bốn loại pháp đắc: ba pháp đắc thuộc về ba giới và một pháp đắc thuộc về vô lậu. Tuy nhiên cần phải phân tích chi tiết hơn nữa: 

(1)                                Phi trạch diệt có pháp đắc thuộc về cả ba giới.

(2)                                Trạch diệt có pháp đắc thuộc về Sắc giới, Vô sắc giới và vô lậu.

(3)                                Đạo đế (mārgasatya) chỉ có pháp đắc thuộc về vô lậu.

Các pháp thuộc hàng Hữu học (Śaikṣa) có pháp đắc thuộc Hữu học; các pháp thuộc hàng Vô học (Aśaikṣa) có pháp đắc thuộc Vô học.

Các pháp không thuộc Hữu học cũng không thuộc Vô học (naivaśaikṣanāśaikṣa), tức các pháp hữu lậu và ba pháp vô vi (asaṃskṛta) có pháp đắc không thuộc Hữu học cũng không thuộc Vô học.

Nh́n chung pháp đắc thuộc loại này có ba trường hợp:

(1)                                Các pháp hữu lậu có pháp đắc thuộc phi học phi Vô học;

(2)                                Pháp trạch diệt không do thánh đạo dẫn khởi và pháp phi trạch diệt có pháp đắc thuộc phi học phi Vô học.

(3)                                Pháp trạch diệt do Hữu học đạo dẫn khởi có pháp đắc thuộc Hữu học; pháp trạch diệt do Vô học đạo dẫn khởi có pháp đắc thuộc Vô học.

Các pháp thuộc kiến đoạn hoặc tu đoạn có pháp đắc thuộc kiến đoạn hoặc tu đoạn.

Các pháp không được đoạn trừ bởi kiến đạo hoặc tu đạo (phi đoạn) có các pháp đắc khác nhau: 

Các pháp vô lậu (anāsrava) là các pháp phi đoạn.

Pháp phi trạch diệt có pháp đắc thuộc tu đoạn (bhāvanāheya).

Pháp trạch diệt không do thánh đạo dẫn khởi có pháp đắc thuộc tu đoạn.

Pháp trạch diệt do thánh đạo dẫn khởi và đạo đế đều có pháp đắc thuộc phi đoạn, tức thuộc vô lậu.

Trên đây đă nói về các pháp trong tam thế đều có ba pháp đắc thuộc quá khứ, hiện tại và vị lai khác nhau; tiếp theo là phần phân tích chi tiết hơn các tính chât khác nhau này.

無記得俱起                  除二通變化
      有覆色亦俱               欲色無前起.

[Pháp vô kư có đắc cùng khởi

Trừ hai loại thần thông và biến hóa

Sắc pháp hữu phú cũng có đắc cùng khởi.

Sắc pháp Dục giới không có loại đắc khởi trước.]

 Luận: Pháp vô phú vô kư (anivṛtāvyākṛta) chỉ có pháp đắc cùng khởi chứ không có trước hoặc sau bởi v́ loại pháp này có thế lực yếu liệt. Pháp vô phú vô kư ở quá khứ có pháp đắc thuộc quá khứ; pháp vô phú vô kư ở vị lai có pháp đắc thuộc vị lai.

Điều này không áp dụng cho tất cả các pháp vô phú vô kư. Hai loại nhăn thông (cakṣurabhijñā) nhĩ thông (śrotrābhijñā) và biến hóa tâm (nirmāṇacitta) có thế lực cường mănh (batavat) v́ được thành biện bởi lực gia hành đặc biệt (prayogaviśeṣa) cho nên vẫn có các pháp đắc thuộc quá khứ, hiện tại và vị lai.

Có luận sư (Vāibhaṣika) cho rằng các pháp vô phú vô kư thuộc loại công xảo (śailpasthānika) và uy nghi (airyāpathika) nếu được chuyên cần tu luyện (atya rtham abhyastam = bhṛśām ātmanaḥkṛtam) cũng có thể có các pháp đắc thuộc quá khứ và vị lai. 

Sắc pháp hữu phú vô kư (nivṛtāvyākṛta) chỉ có pháp đắc cùng khởi. Loại sắc pháp này là thân nghiệp và ngữ nghiệp phát khởi từ tâm hữu phú vô kư. Loại nghiệp này mặc dù do một tâm cường mănh sinh khởi nhưng lại không có khả năng tạo ra vô biểu (avijñapti) v́ thế chúng có thế lực rất yếu liệt và chỉ có pháp đắc thuộc hiện tại mà không có quá khứ hoặc vị lai.

(Hỏi) trường hợp trên có xảy ra đối với pháp đắc thuộc tam thế của các thiện pháp và bất thiện pháp?

(Đáp) Có. Sắc pháp ở Dục giới không có pháp đắc sinh khởi trước đó (tiền khởi) mà chỉ có pháp đắc cùng khởi (câu sinh) hoặc khởi sau đó (hậu khởi). Loại sắc pháp này, dù thiện hay bất thiện, không thể đắc được trước khi chúng sinh khởi.

(Hỏi) Pháp phi đắc (aprāpti) có thể thuộc thiện, bất thiện hoặc vô kư như các pháp đắc không?

Tụng đáp:

非得淨無記                  去來世各三
      三界不繫三                  許聖道非得
      說名異生性                  得法易地捨.

[Phi đắc chỉ thuộc vô phú vô kư

Pháp ở quá khứ và vị lai có ba loại (phi đắc)

Các pháp thuộc tam giới và các pháp bất hệ cũng có ba loại.

Thừa nhận phi đắc thánh đạo

Là tánh chất của dị sinh.

Khi đắc pháp và chuyển địa th́ xả (phi đắc).]

Luận: Phi đắc luôn luôn thuộc tánh vô phú vô kư.

Pháp ở quá khứ hoặc vị lai có thể có các pháp phi đắc thuộc quá khứ, hiện tại và vị lai. 

Các pháp ở hiện tại nhất định đều đắc được v́ thế chỉ có pháp phi đắc thuộc quá khứ và vị lai.

Các pháp hệ thuộc Dục giới có thể có pháp phi đắc thuộc về Dục giới, Sắc giới hoặc Vô sắc giới; điều này tùy thuộc thân sở y, có pháp phi đắc này thuộc về loại giới nào. Các pháp vô lậu cũng có các pháp phi đắc như vậy.

Phi đắc không bao giờ thuộc tánh vô lậu.

(Hỏi) Tại sao?

(Đáp) bởi v́ dị sinh là hàng không bao giờ đắc được thánh đạo. Bổn luận (Jñānaprasthāna, 2, 21) viết “tính chất dị sinh là ǵ (pṛthagjanatva)? - Là không đắc được (phi đắc) các pháp của hàng thánh giả (āryadharmāṇāmalābhaḥ).” Tính chất của dị sinh vốn không phải là vô lậu v́ thế sự không đắc được này (alābh = aprāpti) cũng không thể là vô lậu.

Hăy t́m hiểu thêm định nghĩa trên đây. Khi Bổn luận nói rằng tính chất của hàng dị sinh là không đắc được các pháp thuộc hàng thánh giả th́ luận muốn chỉ cho những thánh pháp nào?

-                                 Đó là tất cả các pháp bắt đầu từ giai đoạn của khổ pháp trí (duḥkhe dharmajñānakṣānti) và bao gồm tất cả vô lậu đạo hoặc thánh đạo.

(Hữu bộ) Bổn luận muốn nói đến tất cả các pháp trên bởi v́ không nêu riêng bất kỳ một pháp nào cả.

(luận chủ) Hăy coi chừng. Theo cách hiểu của các ông th́ một người không đắc được khổ nhẫn (duḥkhe kṣānti) sẽ là một dị sinh nếu như người này không đắc tất cả các thánh pháp.

(hữu bộ) Khi Bổn luận nói “không đắc được” (bất hoạch) là hàm ư sự không đắc được này không có đắc (prāpti) kèm theo: trường hợp các ông trưng dẫn ở trên mặc dù không đắc được các pháp khác của thánh giả vẫn không phải là hàng dị sinh bởi v́ sự không đắc được các pháp này có kèm theo sự hoạch đắc nhẫn. Đây là điều quá hiển nhiên; bởi v́ nếu không phải như vậy th́ phật Thế tôn vốn không thành tựu các pháp thuộc hàng thanh văn (Śrāvaka) và độc giác (Pratyekabuddha) sẽ phải trở thành một dị sinh.

(Luận chủ) Đúng như vậy, nhưng lẽ ra Bổn luận phải nói rơ là “tính chất của dị sinh là sự hoàn toàn (thuần) không hoạch đắc (alābha eva) các thánh pháp, chứ không phải là “sự không hoạch đắc” mà thôi.

(Hữu bộ) Bổn luận không cần phải nêu rơ bởi v́ khi nói “một câu” (nhất cú, ekapada) là đă hàm nghĩa giới hạn (avadhāraṇāni) và chữ “hoàn toàn” (thuần, eva) th́ không c̣n cần thiết; cũng giống như khi nói loại này “ăn nước” (thực thủy, abbhakṣa) tức hàm ư loại này “chỉ sống nhờ nước” và “ăn gió” (thực phong, vāyubhakṣa) tức hàm ư loại này “chỉ sống nhờ gió”.

Có thuyết (Vibhāṣā) cho rằng tính chất của dị sinh là không hoạch đắc giai đoạn đầu tiên của kiến đạo (khổ pháp trí nhẫn) và các pháp cùng sinh (sahabhū).

(Vấn nạn của luận chủ) Nếu nói như vậy th́ khi đến giai đoạn của đạo loại trí (mārge ‘nvayajñāna) hành giả sẽ là dị sinh mà không c̣n là thánh giả bởi v́ lúc đó đă xả bỏ khổ pháp trí nhẫn.

(Giải thích của Tỳ-bà-sa) Không phải như vậy; bởi v́ sự không đắc được loại nhẫn này (bỉ phi đắc) vốn h́nh thành tính chất của dị sinh, đă hoàn toàn bị tổn hoại ở giai đoạn đầu tiên.

(Vấn nạn) Loại nhẫn đang được nói đến vốn thuộc về cả ba thừa thanh văn, độc giác và phật. Các ông muốn nói đến sự không đắc được nhẫn nào khi đưa ra định nghĩa về tính chất của dị sinh?

(Giải thích) Cả ba loại.

(Vấn nạn) Hăy coi chừng! Nếu hiểu như vậy vốn không hoạch đắc ba loại nhẫn này lúc đó sẽ phải trở thành dị sinh.

(Giải thích) Chúng tôi khi nói “không đắc được” là hàm ư sự không đắc được này không có đắc đi kèm theo…, như đă được giải thích ở trên, cho đến hai tỷ dụ về “ăn nước” và “ăn gió”.

(Trả lời của luận chủ) Nếu nói như vậy th́ những cố gắng giải thích các vấn nạn trên đây sẽ trở thành vô dụng; và giải thích hợp lư nhất sẽ là của Kinh bộ. Theo Kinh bộ, tính chất của dị sinh chính là sự tương tục mà trong đó chưa hề có thánh pháp nào được sinh khởi (anutpannāryadharmā saṃtatiḥ).

(Hỏi) Phi đắc được xả vào thời điểm nào?

(Đáp) Phi đắc của một pháp được xả bỏ khi đắc được pháp này hoặc khi chuyển đổi sang một địa khác. Như trường hợp phi đắc đối với thánh đạo, vốn tạo thành tính chất của một dị sinh, sẽ bị xả bỏ khi đắc được thánh đạo này hoặc khi chuyển sang một địa khác. Trường hợp phi đắc đối với các pháp khác cũng như vậy.

(Vấn nạn) Phi đắc được xả bỏ (vihīyate) khi (1) sự không đắc được phi đắc này sinh khởi, có nghĩa là khi không c̣n đắc tính chất của dị sinh bởi v́ chuyển sang một địa khác và khi (2) sự đắc được phi đắc này bị đoạn, có nghĩa là khi đoạn trừ tính chất dị sinh bởi v́ đạt được thánh đạo. Như vậy có thể nói rằng có sự đắc (prāpti) được đắc và phi đắc không? Và có sự không đắc được đắc và phi đắc không?

(Giải thích) Đối với đắc và phi đắc (aprāpti) vẫn có sự đắc được và không đắc được mà người ta thường gọi là “pháp đắc thứ hai” (anuprāpti), “pháp phi đắc thứ hai”. Như vậy người ta phân biệt loại “đắc căn bản” (mūlaprāpti) với loại “đắc thứ hai” (anuprāpti) hay c̣n gọi là “đắc đắc”.

(Vấn nạn) Nếu như vậy sẽ mắc lỗi vô cùng (anavasthā)?

(Giải thích) Không mắc lỗi vô cùng; bởi v́ người ta đắc được pháp đắc (prāpti) nhờ có pháp đắc đắc (prāptiprāpti = anuprāpti) và ngược lại. Vẫn có sự đắc được một pháp nhờ có một pháp khác (parasparasamanvāgama). Ở đây chúng tôi muốn nói rằng trong thân tương tục khi một pháp sinh - pháp này được gọi là pháp gốc (bổn pháp, mūladharma) - th́ có hai pháp khác cùng sinh là pháp đắc được bổn pháp này (pháp đắc) và pháp đắc được pháp đắc này (đắc đắc). Thân tương tục này thành tựu (samanvāgama) được bổn pháp (mūladharma) và đắc đắc (prāptiprāpti) là nhờ có sự sinh khởi của pháp đắc (prāpti); và thành tựu được pháp đắc (prāpti) này là nhờ có sự sinh khởi của đắc đắc. Cho nên không mắc lỗi vô cùng. Khi một thiện pháp hoặc nhiễm pháp sinh khởi th́ cũng có ba pháp, tức đă bao hàm thiện pháp hoặc nhiễm pháp này, cùng sinh vào thời điểm này; đó là bổn pháp, đắc, và đắc đắc. Ở sát-na thứ hai (tiếp theo) lại có sáu pháp cùng sinh là (1) pháp đắc (prāpti) được bổn pháp, (2) pháp đắc (prāpti) được pháp đắc thuộc sát-na trước đó, (3) pháp đắc (prāpti) được pháp đắc đắc thuộc sát-na trước đó; cộng thêm ba “pháp đắc thứ hai” (anuprāpti) là các pháp mà nhờ nó người ta đă thành tựu ba pháp đắc (prāpti) nói trên. Ở sát-na thứ ba lại có mười tám pháp cùng sinh; đó là chín pháp đắc: ba pháp đắc (prāptis) của ba pháp sinh khởi thuộc sát-na đầu tiên, sáu pháp đắc (prāptis) của sáu pháp sinh khởi của sát-na thứ hai; cộng thêm chín “pháp đắc thứ hai” (anuprāpti) mà nhờ nó mà người ta đă thành tựu được chín pháp đắc (prāptis) nói trên.

Cứ như thế, các pháp đắc (prāpti) tiếp tục tăng thêm về số lượng trong từng sát-na. Đối với tất cả phiền năo và tùy phiền năo (kleśa, upakleśa) ở hiện tại và vị lai cũng như các pháp sinh đắc thiện (upapattilābhika) cùng với các pháp tương ưng (saṃprayukta) và câu hữu (sahabhū) th́ trong chuỗi dài vô thỉ vô chung của sinh tử, các pháp đắc (prāpti) tiếp tục sinh khởi trong từng sát-na với số lượng không cùng tận. Nếu xét đến thân tương tục của một chúng sinh trong ṿng luân chuyển của sinh tử th́ cho đến vô số pháp đắc sinh khởi trong mỗi sát-na; nếu xét đến thân tương tục của tất cả chúng sinh th́ lại có vô lượng vô biên các pháp đắc cùng khởi. Điều may mắn là tuy có số lượng nhiều như vậy nhưng các pháp đắc đều là pháp vô đối ngại và có thể nhường chỗ cho nhau. Nếu không phải như vậy th́ chỉ có các pháp đắc của một chúng sinh không thôi hư không cũng khó dung nạp chứ đừng nói đến của hai chúng sinh.

 Phần 5

Trước đây đă bàn về các tính chất của đắc và phi đắc. Đồng phần là ǵ?

同分有情等

[Đồng phần là hữu t́nh, v.v.]

Luận: Có một thực pháp (dravya) được gọi là đồng phần (sabhāgata); đây là pháp mà nhờ nó chúng sinh cũng như các pháp rơi vào trong thân tương tục của chúng sinh (sattvasaṃkhyāta) có thể trở thành đồng nhất (sabhāga, sama, sanāna, śadṛśa) với nhau.  (Vibhāṣā, 27, 4).

Bổn luận (Jñānaprasthāna, v.v) đề cập đến thực pháp này với tên gọi là chúng đồng phần (niāyasabhāga) nhưng ở đây luận chủ dùng chữ đồng phần (sabhāgatā) là để phù hợp với âm vận của tụng văn.

Đồng phần có hai loại là chung (vô sai biệt, abhinna) và riêng (hữu sai biệt, bhinna).

Loại thứ nhất có ở tất cả các; nhờ có loại này mới có sự giống nhau giữa các chúng sinh. Loại này có tên là hữu t́nh đồng phần (sattvasabhāgatā).

Loại thứ hai bao gồm nhiều loại khác nhau; và mỗi một loại khác nhau này chỉ có ở một loại chúng sinh nào đó mà thôi. Các chúng sinh khác nhau là do giới (dhātu), các địa (bhūmi) của các giới này, thú (gati), sinh, chủng tánh, giới tánh, tính chất thuộc về cận sự (Upāsaka), bí-sô (Bhikṣu), Hữu học (Śaikṣa), Vô học (Aśaikṣa), chính nhờ các pháp đồng phần này mà mỗi chúng sinh thuộc một loại nào đó có thể giống với các chúng sinh khác thuộc cùng loại này.

C̣n có loại đồng phần liên quan đến các pháp thuộc về chúng sinh có tên là pháp đồng phần (dharmasabhāgatā); nhờ nó mới có thể phân biệt các loại uẩn, xứ và giới khác nhau như uẩn đồng phần (skandhasabhāgatā), v.v., hoặc sắc uẩn đồng phần (rūpaskandhasabhāgatā), v.v.. Nếu không có riêng một thực pháp gọi là đồng phần (sattvasabhāgatā, hữu t́nh đồng phần) th́ làm sao có thể giải thích sự hiểu biết (giác, buddhi) và các sự thi thiết (prajñāpti) tổng quát về hữu t́nh, v.v.. Đối với các loại chúng sinh khác nhau; đồng thời cũng nhờ có một thực pháp gọi là pháp đồng phần (dharmasabhāgatā) mà người ta có thể xác minh được các sự hiểu biết về các sự thi thiết về uẩn, xứ, v.v..

(Hỏi) Có trường hợp một chúng sinh khi chết mà không xả bỏ hoặc khi sinh mà không đắc được loại hữu t́nh đồng phần này không?

(Đáp) Có bốn trường hợp: (1) Chết ở một chỗ (như ở Dục giới chẳng hạn) và sinh trở lại cũng ở chỗ này th́ đồng phần vẫn giữ nguyên, mặc dù vẫn có lưu chuyển của tử và sinh. (2) Khi nhập chánh tánh ly sinh (niyāmāvakrānti) tức không có sự lưu chuyển của tử và sinh th́ xả bỏ đồng phần của dị sinh và đắc được đồng phần của thánh giả. (3) Chết ở nẻo này (thú, gati) nhưng sinh vào một nẻo khác th́ có xả và đắc đồng phần. (4) Ngoài ba trường hợp trên.

Kinh bộ không thừa nhận có một pháp gọi là đồng phần và đưa ra nhiều bác bỏ: Nếu có một thực pháp gọi là đồng phần dị sinh (pṛthagjanasabhāgatā), tại sao c̣n tưởng tượng ra một dị sinh tánh (pṛthagjanatva) không thành tựu thánh pháp (āryadharma)? Bởi v́ trong trường hợp của con người, ngoài pháp đồng phần thuộc về người ra (manuṣyasabhāgatā) không hề thấy có riêng một pháp gọi là nhân tính (manuṣyatva).

Thế gian không thể hiện kiến đồng phần v́ đó không phải là sắc pháp; và cũng không phải là pháp được giác tuệ liễu biệt bởi v́ không có riêng tác dụng. Tuy nhiên thế gian mặc dù không biết ǵ về pháp đồng phần hữu t́nh (sattvasabhāgatā) nhưng vẫn thấy được sự không khác nhau của chúng hữu t́nh (sattvānaṃ, jātyabheda); v́ thế giả sử như thật có một pháp gọi là đồng phần đi nữa th́ tác dụng (vyāpāda) của nó là ǵ?

Tại sao Tỳ-bà-sa không thừa nhận một pháp đồng phần đối với phi t́nh (vô t́nh đồng phần) như lúa ḿ, đậu, vàng, sắt, cây xoài, cây sa-kê, khi mà chúng vẫn có chủng loại riêng và tương tợ nhau?

Các pháp đồng phần mà Tỳ-bà-sa đă thừa nhận vốn là các pháp sai biệt thuộc về các loại chúng sinh, các giới, các thú, v.v., khác nhau; nhưng tại sao mọi người đều có sự hiểu biết và thi thiết như nhau về chúng để rồi tất cả đều gọi đó là đồng phần (sabhāgatā)?.

Nếu có chủ trương như trên th́ đúng là Hữu bộ đang xiển dương học thuyết của Thắng luận (Vaiśeṣika). Bộ phái này vốn chủ trương có một thực thể (cú nghĩa, ) gọi là “đồng” (sāmānya); nhờ vào loại đồng cú nghĩa này mới có thể phát sinh các ngôn từ cũng như các sự tri nhận giống nhau về sự vật. Thắng luận c̣n tin rằng có một thực thể khác gọi là dị cú nghĩa (viśeṣa) có khả năng phát khởi các ngôn từ và sự tri nhận khác nhau về sự vật.

Tỳ-bà-sa đă biện minh rằng chủ trương của họ không giống với học thuyết của Thắng luận vốn tin rằng “đồng” (sāmānya) chỉ là một thực thể (padārtha) độc nhất tồn tại trong nhiều các thể khác nhau (eko ‘py anekasmin vartate). V́ thế cho dù Tỳ-bà-sa có tán thành với Thắng luận về sự thừa nhận có một thực thể gọi là “đồng” đi nữa th́ họ vẫn chỉ trích lối diễn giải mà Thắng luận đă đưa ra về vấn đề này. Thực ra đồng phần vẫn là một thực pháp; bởi v́ Thế tôn khi giảng về trường hợp của một kẻ sát nhân tái sinh vào hỏa ngục có nói: “nếu người đó trở lại đây, nếu người đó đắc được pháp đồng phần thuộc về người…” (Madhyama, 24, 3).

(Vấn nạn của Kinh bộ) Tuy có nói như vậy nhưng kinh không nói rằng có một thực pháp có tên là đồng phần.

(Câu hỏi của Tỳ-bà-sa) Nếu vậy đồng phần được nói đến trong kinh có ư nghĩa ǵ?

(Trả lời của Kinh bộ) Với câu nói “pháp đồng phần thuộc về người”, kinh có ư chỉ sự tương tợ trong cách thế hiện hữu; cũng giống như sự đồng phần của lúa, lúa ḿ, đậu, v.v.. 

Tỳ-bà-sa không thừa nhận sự giải thích trên bởi v́ không phù hợp với chủ trương của tông phái họ.

Trên đây đă bàn về đồng phần; tiếp theo là phần nói về vô tưởng (āsaṃjñika).

無想無想中                  心心所法滅
      異熟居廣果

[Pháp vô tưởng ở chúng sinh vô tưởng

Làm cho tâm, tâm sở bị diệt;

Pháp này là quả dị thục. Chúng sinh vô tưởng sống ở Quảng quả.]

Luận: Nếu sinh ra trong số các chúng sinh vô tưởng hoặc chúng thiên vô tưởng th́ có một pháp có khả năng chặn đứng tất cả tâm, tâm sở và được gọi là “vô tưởng”. Nhờ có loại thực pháp này mà tâm và các pháp vị lai bị ngăn chặn không cho phát khởi trong một khoảng thời gian nào đó và không có năng lực để sinh. Pháp vô tưởng này cũng tương tợ như con đê ngăn nước của một ḍng sông (nadītoyanirodhavat).

Pháp vô tưởng là quả dị thục của Vô tưởng định (asaṃjñisamāpatti).

Chúng sinh vô tưởng sống ở cơi trời Quảng quả (Bṛhatphala). Ở Quảng quả thiên có một nơi được nâng cao lên và là nơi sinh sống của loài chúng sinh này; cũng giống như trung gian tĩnh lự (dhyānāntarikā) là nơi sinh sống của chúng thiên Đại phạm và là nơi được nâng cao lên ở cơi trời Phạm phụ (Brahmapurohita). (Vibhāṣā, 154, 8)

(Hỏi) Chúng sinh vô tưởng được gọi tên như vậy v́ họ luôn luôn không có tưởng hay có khi cũng có tưởng?

(Đáp) Họ có tưởng vào lúc sinh và lúc chết (Vibhāṣā, 154, 9). Sở dĩ được gọi là vô tưởng bởi v́ trong khoảng thời gian dài từ sau khi sinh cho đến khi chết không có loại tưởng nào sinh khởi ở trong họ. Sau khoảng thời gian dài này, khi khởi tưởng trở lại cũng là lúc họ chết. Như kinh nói: “Giống như một người thức dậy sau một giấc ngủ dài, khi họ khởi tưởng trở lại là lúc họ chết.”

Những người sau khi chết ở cơi trời vô tưởng chỉ sinh trở lại Dục giới mà không phải ở bất kỳ chỗ nào khác; bởi v́ thế lực của sự tu tập Vô tưởng định trước đây mà nhờ nó họ đă có thể sinh vào Vô tưởng thiên đến nay đă hết và trong suốt thời gian sống ở Vô tưởng thiên họ đă không thể tiếp tục tu tập loại định này. V́ thế sau khi chết họ phải sinh trở lại Dục giới cũng giống như mũi tên hết đà phải rơi xuống đất. Hơn nữa một chúng sinh muốn sinh vào cơi trời vô tưởng phải có một loại nghiệp “sinh quả ở Dục giới” và “sinh quả ở đời sống kế tiếp” (Dục giới thuận hậu thọ nghiệp); cũng như chúng sinh nào muốn sinh trở lại vào Bắc-câu-lư châu (Uttarakuru) cần phải có loại nghiệp có thể sinh quả ở một cơi trời ngay sau khi đời sống ở châu này chấm dứt.

Bổn luận (Mūlaśāstra) viết: “Hai định là ǵ? - Là Vô tưởng định (asaṃjñisamāpatti) và Diệt tận định (nirodhasamāpatti)”.

(Hỏi) Các tính chất của Vô tưởng định là ǵ?

Tụng đáp:

如是無想定                  後靜慮求脫
      善唯順生受                  非聖得一世

[Vô tưởng định cũng giống như vậy.

Sinh ở tĩnh lự cuối cùng

Tu để cầu giải thoát

Thuộc tánh thiện, chỉ chiêu cảm thuận sinh thọ, 

không phải thánh pháp, chỉ đắc được một đời.]

 Luận: Như trên đă nói, có một pháp có khả năng làm cho tâm, tâm sở bị diệt và được gọi là vô tưởng. Cũng giống như vậy, có một loại pháp có khả năng làm cho tâm, tâm sở bị diệt được gọi là Vô tưởng định. Vô tưởng định là loại định trong đó hành giả không có tưởng (asaṃjñināṃ, samāpattiḥ) hoặc là loại định không có tưởng.

Chữ “như thị” ở trên hàm ư loại định này cũng có thể làm cho tâm và tâm sở bị diệt giống như pháp vô tưởng (āsaṃjñika).

(Hỏi) Vô tưởng định thuộc về địa nào?

(Đáp) Để có thể tu tập loại định này, hành giả phải sinh vào tầng thiền thứ tư (đệ tứ tĩnh lự).

(Hỏi) Tu Vô tưởng định có mục đích ǵ?

(Đáp) Để cầu giải thoát. V́ chấp vô tưởng là giải thoát thực sự cho nên tu Vô tưởng định.

Ở trên đă nói vô tưởng là dị thục v́ thế thuộc về tánh vô kư. Trong lúc Vô tưởng định hoàn toàn thuộc tánh thiện và có khả năng chiêu cảm quả dị thục là năm uẩn của chúng thiên vô tưởng.

(Hỏi) Nếu chỉ là tánh thiện th́ vô tưởng chiêu cảm loại quả nào?

(Đáp) Loại quả thuộc đời kế tiếp (thuận sinh thọ). Vô tưởng định không chiêu cảm loại cảm thuộc đời sống hiện tại (thuận hiện thọ), thuộc đời sống sau đời sống kế tiếp (thuận hậu thọ), hay loại quả bất định. Theo Tỳ-bà-sa, nếu trước đó có khởi Vô tưởng định nhưng rồi bị thối thất th́ về sau vẫn có thể khởi lại loại định này và tái sinh vào cơi trời vô tưởng. V́ thế nếu đă đắc được (lābhin) loại định này th́ không thể nhập chánh tánh ly sinh.

Chỉ có dị sinh đắc được định này chứ không phải thánh giả. Thánh giả xem vô tưởng là hố sâu nên không muốn nhập vào đó. Dị sinh v́ chấp Vô tưởng định là giải thoát thực sự nên có ư tưởng xuất ly v́ thế mới tu loại định này. Trái lại tất cả thánh giả đều biết rằng pháp hữu lậu không thể là giải thoát thực sự do đó không tu loại định này.

(Hỏi) Khi nhập tầng thiền thứ tư, thánh giả có đắc được Vô tưởng định thuộc quá khứ và vị lai, giống như đă đắc được tầng thiền thứ tư thuộc quá khứ và vị lai kể từ khi họ nhập vào tầng thiền này không?

(Đáp) Những người không thuộc hàng thánh giả cũng không đắc được Vô tưởng định thuộc quá khứ và vị lai. 

(Hỏi) Tại sao?

(Đáp) V́ loại định này thuộc về vô tâm cho nên dù trước đó đă từng tu tập cũng chỉ có thể đắc được với sự nổ lực lớn (đại gia hành, mahābhisaṃskāra). V́ thế khi mới đắ được Vô tưởng định th́ chỉ đắc được ở một thời là hiện tại mà không thể có được quá khứ và vị lai; cũng giống như trường hợp của những người đắc biệt giải thoát (prātimokṣasaṃvara). Sau khi đắc được loại định này rồi, vào sát-na thứ hai cũng như tất cả các sát-na tiếp theo cho đến khi xả định mới có thể đắc được vô tưởng quá khứ. Mặt khác v́ thuộc vô tâm cho nên không thể có trường hợp đắc Vô tưởng định vị lai (nānāgatā bhāvyate).

Tiếp theo là phần nói về Diệt tận định.

滅盡定亦然                  為靜住有頂
      善二受不定                  聖由加行得
      成佛得非前                  三十四念故

[Diệt tận định cũng như vậy. 

Là loại định tĩnh trụ, có ở Hữu đảnh,

Thuộc thiện, chiêu cảm hai thọ và bất định,

Chỉ thuộc thánh, đắc được do gia hành.

Phật đắc được định này khi thành phật, không phải trước đó

Và có tận trí trong ba mươi bốn niệm.]

Luận: Diệt tận định cũng giống như vô tưởng và vô tưởng đinh bởi v́ pháp này làm cho tâm và tâm sở bị diệt.

(Hỏi) Hai loại định này khác nhau như thế nào?

(Đáp) Thánh giả tu tập Diệt tận định v́ xem đó như là một loại định tĩnh trụ (śāntavihāra); trong khi vô tưởng được tu tập là v́ dị sinh xem đó như là một sự giải thoát (hiḥsarana = mokṣa).

Diệt tận định thuộc về Hữu đảnh, tức xuất phát từ phi tưởng phi phi tưởng xứ (naivasaṃjñānāsaṃjñāyatana); trong khi Vô tưởng định chỉ thuộc về tầng thiền thứ tư. 

Giống như Vô tưởng định, Diệt tận định cũng thuộc về thiện tánh chứ không phải vô kư hay nhiễm ô bởi v́ khởi từ nhân cũng thuộc về thiện.

Diệt tận định có thể chiêu cảm hai loại quả dị thục là thuận sinh thọ (upapadyavedanīya) hoặc thuận hậu thọ (upaparyāyavedanīya). Diệt tận định c̣n có thể chiêu cảm quả bất định bởi v́ thánh giả tu loại định này có thể đắc được Niết-bàn ngay trong đời sống hiện tại.

(Hỏi) Quả dị thục của loại định này chiêu cảm những ǵ?

(Đáp) Chiêu cảm bốn uẩn của Hữu đảnh; tức chỉ cho một đời sống ở Hữu đảnh.

Loại định này chỉ có thánh giả đắc được chứ không phải dị sinh, bởi v́ dị sinh sợ sự hủy diệt (ucchedabhīrutva) và v́ Diệt tận định chỉ có thể sinh khởi nhờ vào lực của thánh đạo. Thật vậy, chỉ có thánh giả mới thấy được Niết-bàn và dám có quyết định nhập vào đó.

Mặc dù loại định này chỉ đắc được bởi hàng thánh giả nhưng không phải hoàn toàn chỉ nhờ vào sự xả ly (vairāgya) mà cần phải có sự nổ lực tu tập (gia hành đắc, prayogalabhya).

Không thể đắc được Diệt tận định quá khứ hoặc vị lai; điều này được giải thích giống như phần nói về Vô tưởng định.

(Hỏi) Có phải Thế tôn cũng đắc được Diệt tận định nhờ vào gia hành?

(Đáp) Không phải. Thế tôn đắc được loại định này khi thành phật, tức là khi đắc được tận trí (kṣayajñāna). Không có một phẩm tánh nào (guṇa) của đức phật đắc được nhờ gia hành; tất cả các phẩm tánh của phật đều đắc được do sự xả ly hệ phược. Bất kỳ khi nào đức phật muốn có được các phẩm tánh này th́ chúng đều hiện khởi tùy theo ư ngài.

(Hỏi) Làm thế nào Thế tôn trước đó chưa từng khởi loại định này (nirodhasamāpatti) lại có thể đắc được hai loại giải thoát (câu phần giải thoát, ubhayatobhāgavimukta), tức phiền năo chướng và định chướng (samāpattyāvaraṇa), vào lúc đắc tận trí (kṣayajñāna)?

(Đáp) bởi v́ Thế tôn có khả năng phát khởi loại định này bất cứ khi nào ngài muốn.

Các luận sư tây phương (Pāścātya) cho rằng Bồ-tát khởi Diệt tận định trước rồi sau đó mới đắc được Bồ-đề. Tại sao không thừa nhận chủ trương này?

Nếu thừa nhận tức sẽ phù hợp với Lư mục túc luận (Netrīpadaśāstra) của tôn giả Ổ-ba-cúc-đa (Sthavira, Upagupta) khi ngài nói rằng “những người nào đắc được tận trí sau khi đă khởi Diệt tận định th́ nên được gọi là Như lai”.

Các luận sư Tỳ-bà-sa ở Ca-thấp-di-la không thừa nhận trường hợp khởi Diệt tận định trước khi đắc tận trí; bởi v́ theo truyền thuyết (Vibhāṣā, 153, 10-11) Bồ-tát đắc được Bồ-đề là nhờ ba mươi bốn niệm trụ. Đó là mười sáu niệm trụ tạo thành sự “liễu biệt các đế” (đế hiện quán, satyābhisamaya); và mười tám niệm trụ tạo thành sự xả ly các phiền năo thuộc Hữu đảnh (ly Hữu đảnh tham), tức chín vô gián đạo (ānantaryamārga) và chín giải thoát đạo (vimuktamārga). Niệm trụ thứ mười tám là tận trí. - Ba mươi bốn niệm trụ này cũng đă đủ bởi v́ Bồ-tát trước khi nhập vào kiến đạo, tức khi vẫn c̣n là dị sinh, th́ đă nhờ vào thế gian đạo mà xả ly tất cả các địa ngoại trừ Hữu đảnh. - Mười tám niệm trụ này lập thành một thánh đạo mà trong đó thánh giả không hề sinh khởi một loại tâm có thể tánh khác đi, tức chỉ có một loại tâm thế tục hữu lậu, tỷ dụ như loại tâm muốn nhập vào Diệt tận định. V́ thế Bồ-tát khi đang c̣n ở giai đoạn Hữu học, tức trước khi trở thành a-la-hán và ở vào thời khoảng của kiến đạo và mười tám niệm trụ xả ly thuộc Hữu đảnh mà không khởi Diệt tận định.

(Hỏi) Các luận sư ngoại quốc (bahirdeśaka) nói: “nếu ở trung gian Bồ-tát khởi tâm hữu lậu th́ có ǵ sai?”

(Đáp) Nếu nói như vậy tức Bồ-tát đă vượt quá quyết tâm của ḿnh (việt kỳ tâm, vyuthānāśayaḥ syāt) trong khi Bồ-tát lại không làm như vậy.

(Giải thích) Thật ra, Bồ-tát không vượt quá quyết tâm của ḿnh nhưng điều này không có nghĩa là Bồ-tát không vượt quá thánh đạo vô lậu để có thể khởi một tâm hữu lậu.

(Hỏi) Nếu vậy làm sao không thể vượt quá quyết tâm của ḿnh được?

(Đáp) Bởi v́ Bồ-tát đă có quyết tâm rằng (Madhyamāgama, 56, 6): “Nếu chưa diệt tận phiền năo th́ ta không bao giờ tĩnh tọa (kiết già phu tọa, utkuṭukāsana)”. V́ thế Bồ-tát không vượt quá quyết tâm này. Bởi v́ chính nhờ vào chỉ một lần tĩnh tọa mà có thể thành tựu được mục đích của ḿnh.

Chủ thuyết đầu th́ hợp lư v́ đó là tông chỉ của chúng tôi.

Mặc dù hai loại định trên có nhiều khác biệt; tuy nhiên chúng vẫn có điểm tương đồng.

二定依欲色                  滅定初人中.

[Hai định đều nương vào dục và Sắc giới.

Diệt tận định sơ khởi ở loài người.]

Luận: Cả hai loại định trên đều khởi ở những chúng sinh thuộc Dục giới và Sắc giới. Nếu không thừa nhận Vô tưởng định khởi ở Sắc giới tức trái với Bổn luận (Jñānaprasthāna, 19, 17) khi luận này viết: “có một hiện hữu ở Sắc giới không có năm uẩn; đó là (1) hiện hữu của những chúng sinh hữu tâm thuộc Sắc giới khi nhập Vô tưởng định hoặc Diệt tận định, và (2) hiện hữu của những chúng sinh thuộc Sắc giới thành tựu được vô tưởng (āsaṃjñika) và sinh ra trong số chúng thiên vô tưởng.”

Đoạn văn trên cho thấy cả hai loại định này đều được tu tập ở Dục giới cũng như Sắc giới.

Tuy nhiên vẫn có những điểm khác nhau:

Một người chưa bao giờ đắc được Vô tưởng định có thể khởi loại định này ở Dục giới hoặc Sắc giới; nhưng đối với Diệt tận định, nếu là lần đầu tiên, th́ chỉ có con người mới khởi được. Một người, một vị thánh trước đó đă khởi được Diệt tận định nhưng có thể bị đọa lạc, đánh mất mà không sinh trở lại Sắc giới th́ có thể khởi lại loại định này ở đó.

(Hỏi) Vẫn có trường hợp bị thối đọa từ Diệt tận định, vốn đă tương tợ như Niết-bàn, sao?

(Trả lời của Tỳ-bà-sa) Vẫn có trường hợp này. Nếu không thừa nhận sự thối thất này tức trái với kinh Ổ-đà-di (Udāyisūtra). Kinh này nói: “cụ thọ, một bí-sô có đủ giới, định và tuệ th́ có thể nhập và xuất Diệt tận định nhiều lần. Nếu trong đời sống này bí-sô không chuyên cần tu tập ngay cả khi lâm chung th́ sau khi thân này bị hoại sẽ vượt quá cơi trời có chúng thiên đang c̣n dùng đồ ăn thô cứng (đoạn thực thiên) mà tái sinh trong một thân do ư tạo thành ở cơi thiên (ư thành thiên thân, divye manomaye kāye). Như vậy sau khi tái sinh bí-sô vẫn có thể thường nhập và xuất Diệt tận định.

Đoạn kinh trên thật sự cho thấy vẫn có trường hợp thối đọa từ Diệt tận định.

Hơn nữa, theo đức phật th́ loại thân do ư tạo thành (mà Xá-lợi-phất [Śariputra] đă nói đến ở trên) vốn thuộc về Sắc giới. Mặt khác, Diệt tận định lại thuộc về Hữu đảnh là tầng trời cao nhất ở Vô sắc giới. V́ thế một bí-sô nếu đă đắc được loại định này mà không thối thất th́ không thể nào tái sinh vào Sắc giới.

Có bộ phái (Đại chúng bộ, Mahāvyutpatti) cho rằng tầng thiền thứ tư cũng có Diệt tận định và không có trường hợp bị thối thất loại định này.

Chủ trương trên không đúng. Diệt tận định không thuộc tầng thiền thứ tư bởi v́ kinh (Dīrgha, 17, 11; Dīgha, iii. 266; Mahāvyutpatti, 68, 7) nói rằng chín loại định này - bốn thiền Sắc giới, bốn thiền Vô sắc giới và Diệt tận định - đều đắc được theo thứ tự.

(Hỏi) Nếu vậy làm sao có thể giải thích về loại định được gọi là “Vượt quá” (siêu việt, vyutkrāntaka), loại định mà trong đó hành giả có thể bỏ qua nhiều tầng định khác nhau?

(Đáp) Nói rằng là phải theo thứ tự các định này là dựa vào các hành giả sơ cơ. Nếu là trường hợp của những người đă có khả năng tự tại đối với định th́ có thể tùy ư vượt qua.

Như vậy hai loại định Vô tưởng định và Diệt tận định có rất nhiều điểm khác nhau.

(1)                                  Địa (bhūmi) khác nhau: Vô tưởng định thuộc tầng thiền thứ tư (đệ tứ tĩnh lự); Diệt tận định thuộc Hữu đảnh (phi tưởng phi phi tưởng xứ, naivasaṃjñānāsaṃjñāyatana).

(2)                                  Gia hành (prayoga) khác nhau: Vô tưởng định khởi do tác ư cho rằng vô tưởng là chân giải thoát; Diệt tận định khởi là do tác ư cầu tịch tĩnh.

(3)                                  Thân tương tục (saṃtāna) khác nhau: Vô tưởng định khởi ở thân dị sinh; Diệt tận định khởi ở thân thánh giả.

(4)                                  Dị thục khác nhau: Vô tưởng định chiêu cảm quả ở cơi trời vô tưởng; Diệt tận định khởi ở cơi trời Hữu đảnh.

(5)                                  Tính chất dị thục (hoạnh thọ) khác nhau: Dị thục của Vô tưởng định có tính chất nhất định (niyata) tức sẽ khởi trong đời sống kế tiếp (thuận sinh thọ); dị thục của Diệt tận định nếu là trường hợp của Bất hoàn (Anāgāmin) th́ có tính chất nhất định, nếu là trường hợp của a-la-hán th́ không nhất định; trong cả hai trường hợp, nếu khởi th́ sẽ khởi ở đời sống kế tiếp (thuận sinh thọ) hoặc ở các đời về sau (thuận hậu thọ).

(6)                                  Sinh khởi trong lần đầu tiên (sơ khởi) khác nhau: Vô tưởng định có thể sinh khởi ở hai giới; Diệt tận định chỉ sinh khởi ở cơi người.

Tính chất chung của hai loại định này là sự dừng lại của tâm và tâm sở (cittacaittānāṃ nirodhaḥ).

(Hỏi) Tại sao gọi Vô tưởng định là loại định “không có tưởng” (asaṃjñisamāpatti) và Diệt tận định là loại định “diệt tưởng và thọ” (saṃjñāveditanirodhasamāpatti)?

(Đáp) Bởi v́ gia hành của Vô tưởng định chỉ trái chống với tưởng (yếm nghịch, pratikūla) trong khi gia hành của Diệt tận định lại trái chống với tưởng và thọ. Giống như trong trường hợp của tha tâm trí (paracittajñāna) khi duyên các tâm sở của người khác: Loại trí này có tên là “tha tâm” bởi v́ gia hành của nó chỉ nhắm vào tâm của người khác (tha tâm).

(Hỏi) Trong hai loại định trên, tâm đều bị gián đoạn trong một thời gian dài. Như vậy, vào khi xuất định, làm thế nào một tâm mới sau đó có thể sinh khởi từ một loại tâm đă bị diệt trong một thời gian dài như thế?

(Đáp) các luận sư Tỳ-bà-sa (Vibhāṣā,, 152, 10) cho rằng các pháp quá khứ vẫn tồn tại. V́ thế loại tâm có trước định (tiền tâm) tức loại “tâm thuộc định” (định tâm, samāpatticitta) hoặc loại tâm khi nhập định (nhập định tâm) là nhân tương tợ và trực tiếp (đẳng vô gián, samanantarapratyaya) sinh khởi loại tâm có sau định (hậu tâm) hoặc loại tâm khi xuất định (vyutthānacitta).

Có luận sư (Sautrāntika) nói rằng trong trường hợp sinh ở Vô sắc giới th́ sắc (rūpa) vốn bị đoạn trong một thời gian dài; sau đó nếu tái sinh vào Dục giới hoặc Sắc giới th́ loại sắc mới (hậu sắc) này sẽ không sinh khởi từ chuỗi tương tục của các sắc đă bị đoạn trong một thời gian dài trước đó mà lại sinh khởi từ tâm. Tâm khi xuất định cũng giống như vậy, tức không có loại tâm có trước định làm nhân và phải sinh từ loại “thân có căn” (hữu thân căn, sendriyakāya). V́ thế các luận sư đời trước mới nói rằng hai pháp làm chủng tử cho nhau (anyonyabījaka) và hai pháp này chính là tâm và hữu căn thân.

Tôn giả Thế hữu (Vasumitra) trong bản Vấn luận (Paripṛcchā) nói: “vấn đề làm thế nào tâm có thể sinh khởi trở lại sau khi xuất định chỉ được đặt ra đối với những ai chấp rằng Diệt tận định là một loại định không có tâm. Theo tôi, Diệt tận định vẫn c̣n một loại tâm vi tế v́ thế không cần phải đặt ra vấn đề trên.”

Tôn giả Diệu âm (Bhadanta Ghoṣaka) cho rằng phát biểu trên đây của Thế hữu không đúng; bởi v́ nếu có một thức nào đó (vijñāna) c̣n tồn tại trong loại định này th́ sẽ phải có xúc (sparśa) là sự ḥa hợp của ba pháp thức, căn và cảnh. Và v́ có xúc cho nên sẽ có thọ (vedanā) và có tưởng (saṃjñā); như Thế tôn nói: “nhờ có ư căn và các pháp nên ư thức mới sinh; mới có xúc là sự ḥa hợp của ba pháp và lúc đó mới sinh khởi thọ, tưởng và tư.” (Saṃyktāgama, 11, 8). V́ thế nếu thừa nhận rằng tâm (vijñāna, citta) có tồn tại trong loại định này th́ thọ và tưởng cũng không thể bị diệt ở trong đó. Như vậy làm sao có thể gọi là diệt thọ tưởng định (saṃjñāveditanirodha)?

(Thế hữu) Kinh nói: “nhờ có thọ nên có ái”; trong lúc đó a-la-hán mặc dù có cảm nhận các thọ nhưng ái vẫn không tồn tại ở a-la-hán. Trường hợp trên đây cũng giống như vậy: Tất cả các xúc không phải là nhân của thọ.

(Diệu âm) Giải thích trên không đúng. Kinh đă giản lược khi đă nói rằng “ái sinh là nhờ có thọ khởi từ loại xúc có vô minh kèm theo” (Saṃyktāgama, 12, 14; Saṃyutta, iii. 96); nhưng thật ra kinh vẫn hàm ư “thọ sinh khởi là nhờ có xúc”. Như vậy, theo Tỳ-bà-sa, tâm vẫn bị gián đoạn ở Diệt tận định.

(Thế hữu) Loại định này hoàn toàn không có tâm th́ làm sao có thể nói đó là định (samāpatti)?

(Diệu âm) Vẫn được gọi là định bởi v́ nó khiến cho các đại chủng đều ở vào một trạng thái b́nh đẳng khác với những khi sinh khởi tâm; hoặc c̣n v́ hành giả đă nhập được định (samāgacchanti, samāpadyante) là nhờ vào lực của tâm: Chính v́ lư do này mà các tầng thiền (dhyāna), v.v., cũng được gọi là định (samāpatti).

(Hỏi) Như vậy hai định này là thực hữu (dravyata, svalakṣaṇata) hay giả hữu?

(Trả lời của Hữu bộ) Là thực bởi v́ chúng cản trở sự sinh khởi của tâm (cittotpattipratibandhanāt).

(Chủ trương của Kinh bộ) Không phải như vậy. Sự sinh khởi của tâm không bị cản trở bởi những các ông đă gọi là “định” ở trên mà bởi một loại “định tâm” (samāpatticitta), tức loại tâm có trước định: Loại tâm này vốn tương vi với sự sinh khởi của tâm nên đă khiến cho các tâm khác không thể sinh khởi trong một khoảng thời gian nào đó. Loại “định tâm” này khiến cho sở y (āśraya) hoặc thân  tương tục (saṃtāna) trở nên không thích hợp (tương vi, virudha) với sự sinh khởi của tâm. Cái được gọi là “định” chỉ là sự không hiện hữu của tâm (apravāṛttimātra) trong một khoảng thời gian nào đó và không phải là một pháp thực hữu (dravyadharma) mà chỉ là một “pháp giả đinh”(giả pháp, prajñaptidharma).

(Hữu bộ) Nếu không phải là thực pháp, làm sao có thể gọi loại định này thuộc về pháp hữu vi (saṃskṛta)?

(Kinh bộ) Giai đoạn “không hiện hữu của tâm” này (bất chuyển phần vị) không xảy ra trước loại “định tâm” (samāpatticitta) và sẽ chấm dứt khi hành giả sinh khởi một tâm mới (hậu tâm định, xuất định tâm, vyutthānacitta); điều này có nghĩa là sự “không hiện hữu của tâm” cũng có bắt đầu và chấm dứt v́ thế có thể xem nó như là một pháp hữu vi; hoặc cái được mệnh danh là “định” chỉ là một t́nh trạng (avasthāvśeṣa) của thân sở y được dẫn khởi bởi loại định tâm này.

Đối với Vô tưởng định cũng như vậy. Vô tưởng (āsaṃjñika) không phải là một thực pháp có khả năng ngăn chặn sự sinh khởi của tâm mà chỉ là một t́nh trạng không có tưởng của chúng thiên ở cơi trời vô tưởng, một t́nh trạng được dẫn khởi bởi một loại tâm nào đó.

Các luận sư Tỳ-bà-sa không thừa nhận chủ trương trên. Họ cho rằng vô tưởng và hai loại định này đều là các pháp thực hữu.

Trên đây đă nói về hai loại định; tiếp theo là phần nói về mạng căn (jīvitendriya).

命根體即壽                  能持煖及識

[Thể của mạng căn là thọ,

Có khả năng tŕ giữ noăn và thức.]

Luận: Thể của mạng (jīvita) chính là mạng sống (thọ, āyus); v́ thế luận Đối pháp viết: “mạng căn là ǵ? - Là mạng sống ở ba giới (tam giới thọ).”

(Hỏi) Mạng sống là loại pháp ǵ?

(Đáp) Là loại pháp có khả năng tŕ giữ hơi ấm (noăn) và thức. Thế tôn nói: “ba pháp mạng sống, hơi ấm và thức khi xa rời thân th́ thân sẽ bị sụp đổ giống như thân cây mà không c̣n hay biết ǵ nữa.” V́ thế có riêng một pháp - có khả năng ǵn giữ hơi ấm và thức, đồng thời làm nhân cho sự tồn tại của thân tương tục - được gọi là “mạng sống”.

(Câu hỏi của kinh bộ) Nếu mạng sống ǵn giữ hơi ấm và thức th́ cái ǵ sẽ ǵn giữ nó?

(Trả lời của Tỳ-bà-sa) Chính hơi ấm và thức ǵn giữ nó.

(Kinh bộ) Nếu ba pháp mạng sống, hơi ấm và thức hỗ tương ǵn giữ cho nhau và hiện khởi tương tục (saṃtānapravṛtti) th́ với sự hỗ trợ cho nhau này làm sao chúng có thể chấm dứt?

Pháp nào sẽ bị diệt trước tiên để cho hai pháp kia có thể diệt theo? Bởi v́ nếu không có pháp nào trong ba pháp này bị diệt trước tiên th́ tất cả sẽ thường hằng và không bao giờ mất (vô tạ, anivṛtti).

(Tỳ-bà-sa) Mạng sống do nghiệp tŕ giữ. Mạng sống được nghiệp dẫn dắt và tương tục hiện khởi tùy theo sự dẫn khởi của nghiệp này.

(Kinh bộ) Nếu vậy tại sao không thừa nhận hơi ấm và thức do nghiệp tŕ giữ mà lại chỉ cho mạng sống?

(Tỳ-bà-sa) Pháp được nghiệp tŕ giữ phải có tính chất dị thục. Nếu thức cũng được nghiệp tŕ giữ th́ tất cả các thức, từ khi đầu thai cho đến khi chết đều sẽ là dị thục; và điều này không thể chấp nhận được. Từ đó biết rằng chính mạng sống chính do nghiệp tŕ giữ đă tŕ giữ hơi ấm và thức.

(Kinh bộ) Nếu vậy hăy nói rằng nghiệp tŕ giữ hơi ấm và hơi ấm tŕ giữ thức; chứ cần ǵ phải có mạng sống?

(Tỳ-bà-sa) Phải có mạng sống v́ Vô sắc giới không có hơi ấm. Pháp ǵ sẽ tŕ giữ thức ở Vô sắc giới nếu mạng sống không có ở đó?

(Kinh bộ) Nghiệp sẽ tŕ giữ thức ở Vô sắc giới.

(Tỳ-bà-sa) Chẳng lẽ các ông có thể tùy tiện thay đổi ư kiến của ḿnh như vậy sao? Khi th́ cho rằng thức được hơi ấm tŕ giữ, khi lại cho rằng thức được nghiệp tŕ giữ. Hơn nữa ở trên các ông vốn đă thừa nhận là không nên nói rằng tất cả các thức từ khi đầu thai cho đến khi chết đều là dị thục. V́ thế nhất định phải thừa nhận có riêng một pháp được gọi là mạng sống có khả năng giữ ǵn hơi ấm và thức.

(Kinh bộ) chúng tôi không phủ nhận mạng sống; chúng tôi chỉ nói rằng mạng sống không phải là một thực pháp.

(Tỳ-bà-sa) thế th́ mạng sống là loại pháp ǵ?

(Kinh bộ) Đó là một năng lực (thế phần) mà nghiệp đời trước tạo ra trong một chúng sinh lúc đi đầu thai; một loại năng lực mà nhờ nó, trong một thời gian nhất định nào đó (trụ thời), các uẩn sẽ có thể tái sinh trong một chuỗi tương tục thuần chủng (đồng phần) để tạo thành một đời sống. Cũng giống như hạt lúa có thể tạo ra cho mầm mộng của nó một năng lực mà nhờ nó cây có thể phát triển cho đến khi chín; hoặc cũng giống như một mũi tên được bắn đi có thể tạo ra một năng lực làm cho mũi tên có thể bay được trong một khoảng thời gian nhất định nào đó.

(Bác bỏ của luận chủ về một chủ trương của Thắng luận) Thắng luận tin rằng có một loại tính chất (đức, guṇa) nào đó gọi là hành (saṃskāra, vega, impetus) sinh khởi ở nơi mũi tên; và nhờ vào lực của tính chất này mà mũi tên có thể bay liên tục không ngừng cho đến khi rơi xuống đất.

Thể của tính chất gọi là “hành” này chỉ là một, hơn nữa mũi tên bay mà không gặp chướng ngại; như vậy sẽ không có ǵ khác biệt có thể xảy ra đối với sự di chuyển của mũi tên; và mũi tên sẽ không bao giờ rơi. Nếu các ông cho rằng có gió làm chướng ngại tính chất “hành” này, th́ loại gió làm chướng ngại này vốn không thay đổi dù ở xa hay ở gần và như vậy lẽ ra mũi tên sẽ bị rơi ngay khi mới được bắn đi hoặc là phải bay đi măi măi.

Tỳ-bà-sa vẫn duy tŕ chủ trương của ḿnh là có riêng một thực pháp tŕ giữ hơi ấm và thức được gọi là mạng sống.

(Hỏi) Có phải sự chết xảy ra là v́ mạng sống đă hết hay v́ nguyên nhân nào khác?

(Đáp) Luận Thi thiết (Prajñāptiśāstra) viết: “chết là v́ mạng sống đă hết (āyuḥkṣayāt) chứ không phải v́ phước tận. Có bốn trường hợp: (1) chết v́ nghiệp chiêu cảm mạng sống đă hết; (2) chết v́ nghiệp chiêu cảm quả phú lạc (bhoga) đă hết; (3) chết v́ hai loại nghiệp này () đă hết; (4) chết v́ không tránh được các nhân làm tổn hại (viṣaṃāparihāra), chẳng hạn như bị trúng thực (atyaśana). Ở đây cần nói thêm trường hợp chết v́ xả bỏ thọ hành (āyuḥsaṃskāra).

Khi mạng sống đă hết th́ loại nghiệp chiêu cảm phú lạc dù đă hết cũng không đủ năng lực để đưa đến cái chết và ngược lại. Như vậy trường hợp thứ ba ở trên có nghĩa là “chết v́ hai loại nghiệp đều hết”.

Luận phát trí (Jñānaprasthāna) viết: “Có thể nói rằng mạng sống tùy thuộc vào thân tương tục (saṃtānavartin) hay một khi đă sinh th́ có thể tự tồn tại (sakṛd utpannaṃ tiṣṭhati)?

-                                 Trường hợp thứ nhất xảy ra đối với chúng sinh ở Dục giới không nhập Vô tưởng định cũng như Diệt tận định. Trường hợp thứ hai xảy ra đối với chúng sinh ở Dục giới đă nhập vào Vô tưởng định cũng như Diệt tận định, và đối với chúng sinh ở sắc và Vô sắc giới.

(Hỏi) Đoạn văn trên có ư nghĩa ǵ?

(Đáp) Khi thân sở y (āśraya) bị tổn hoại tức mạng sống cũng bị tổn hoại bởi v́ mạng sống dính liền thân tương tục (āśrayasaṃtatibaddha). Nếu thân sở y không bị tổn hoại th́ mạng sống sẽ kéo dài như đă được nghiệp dẫn khởi và trường hợp này gọi là “mạng sống một khi đă sinh tức có thể tự tồn tại”.

Các Luận sư Tỳ-bà-sa ở Ca-thấp-di-la nói rằng loại mạng sống thứ nhất có chướng ngại (sātarāya) nhưng loại thứ hai th́ không.

Từ đó biết rằng có cái chết trước thời hạn (phi thời tử).

Theo kinh có bốn trường hợp thành tựu đời sống, loại đời sống có thể bị hủy hoại bởi chính ḿnh chứ không phải bởi người khác, v.v.: (1) chỉ bị chính ḿnh hủy hoại; đây là trường hợp của các chúng sinh ở các cơi Hư vong niệm thiên (Krīḍāpradūṣika) và Ư phẩn nhuế thiên (Manaḥpradūṣika) thuộc Dục giới, tự hủy hoại ḿnh bằng sự vui chơi hoặc sân hận quá độ; ở đây cần nói thêm trường hợp các vị phật tự ḿnh nhập vào Niết-bàn; (2) chỉ v́ người khác hủy hoại; đây là trường hợp các chúng sinh nằm trong thai hoặc trứng; (3) bị chính ḿnh và người khác hủy hoại; đây là trường hợp chung của các chúng sinh ở Dục giới; ở đây cần nói thêm trường hợp các chúng sinh ở địa ngục (nāraka) và trung hữu, v.v.; (4) không bị chính ḿnh hoặc người khác hủy hoại; đây là trường hợp của các chúng sinh ở trung hữu, tất cả chúng sinh ở Sắc giới và Vô sắc giới, một phần chúng sinh ở Dục giới, các chúng sinh ở địa ngục và ở Bắc câu-lư châu (Uttarakuru), những người đang ở kiến đạo, đang nhập Tứ định, Vô tưởng định, Diệt tận định, các vương tiên (rājaṛṣi) tức các chuyển luân thánh vương đă từ bỏ đời sống phàm tục, các sứ giả của phật, những người đă được phật thọ kư như Đạt-nhị-la (Dharmila), Ô-đát-la (Uttara), Khắc-kỳ-la (Gangila), những người con trai của trưởng giả Da-xá, Cưu-ma-la (Yaśas, Kumāra), Thời-bà (Jīvaka), các Bồ-tát ở đời sống cuối cùng, các người mẹ đang mang thai các vị Bồ-tát này, các chuyển luân vương, các người mẹ đang mang thai các vị chuyển luân vương này.

(Hỏi) Nếu vậy tại sao khi Xá-lợi-tử hỏi phật “những chúng sinh nào mà đời sống của họ (tự thể, ātmabhāvapratilambha) không thể bị hủy hoại bởi chính ḿnh cũng như bởi người khác?” th́ phật đă trả lời rằng “đó là những chúng sinh ở cơi trời phi tưởng phi phi tưởng xứ”, tức ở Hữu đảnh là tầng trời cao nhất của Vô sắc giới. Như vậy theo đọa kinh trên làm sao có thể nói rằng đời sống của tất cả chúng sinh ở Sắc giới và Vô sắc giới đều không bị hủy hoại bởi chính ḿnh cũng như người khác?

(Đáp) Truyền thuyết (Vibhāṣā, 151, 12) cho rằng đời sống của chúng sinh ở Sắc giới và ba tầng đầu của Vô sắc giới có thể bị làm tổn hại bởi chính ḿnh - tức bởi thánh đạo thuộc tự địa - và cũng có thể bị làm tổn hại bởi người khác - tức bởi thánh đạo nằm ở gần (cận phần, sāmantaka) tầng cao hơn. Tuy nhiên ở tầng cuối cùng của Vô sắc giới (Hữu đảnh) v́ không có thánh đạo thuộc về tầng này cũng thánh đạo thuộc về tầng cao hơn cho nên đời sống của các chúng sinh ở đây không bị làm tổn hại bởi chính ḿnh cũng như bởi người khác.

Luận chủ) Giải thích trên đây không hợp lư bởi v́ ở Hữu đảnh vẫn có thể khởi thánh đạo thuộc về tầng nằm kề dưới đó (ākiñcanyāyatana); do đó phải thừa nhận một giải thích khác (cũng của Tỳ-bà-sa) trong câu trả lời cho Xá-lợi-phất, đức phật khi nhắc đến các chúng sinh thuộc cơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ là muốn ám chỉ tất cả chúng sinh ở Sắc giới và Vô sắc giới; bởi v́ khi nói đến cái sau cùng (paryanta) cũng chính là muốn chỉ cho (saṃpratyana) cái đầu tiên. Có thể có một vấn nạn được đặt ra ở đây là làm như thế có ích ǵ? - Bởi v́ có khi kinh chỉ nêu tên cái đầu tiên nhưng lại có ư chỉ cho tất cả các tên c̣n lại, chẳng hạn như trong câu: “Lạc sinh thiên (i) thứ nhất, đó là (như, tadyathā) chư thiên ở Phạm chúng thiên”; điều này có nghĩa là “chư thiên ở Phạm chúng thiên (Brahmakāyika), Phạm phụ thiên (Brahmapurohita) và Đại phạm thiên (Mahābrahma)”. Có khi kinh chỉ nêu tên cái sau cùng như “Lạc sinh thiên thứ hai, đó là chúng thiên ở Cực quang tịnh thiên”; điều này có nghĩa là chúng thiên ở Thiểu quang thiên (Parītābha), Vô lượng quang thiên (Apramāṇābha), và Cực quang tịnh thiên”.

(Vấn nạn) Giải thích trên vẫn có thể bị bác bỏ. Trong hai đoạn kinh được trích dẫn trên đây, chữ “như” (tadyathā) có nghĩa là tỷ dụ. V́ thế phải diễn dịch là “tỷ dụ như” chứ không phải là “đó là”. Với cách diễn đạt này vẫn có thể nêu tên của một trường hợp để chỉ cho các trường hợp khác tương tợ v́ thế vẫn có thể chấp nhận rằng trong hai đoạn kinh trên khi nói đến Lạc sinh thiên (sukhopapattis) là có ư chỉ cho tất cả các cơi trời c̣n lại. Tuy nhiên trong câu trả lời của Thế tôn dành cho Xá-lợi-tử lại không có chữ “như” này.

(Giải thích) Cách diễn đạt trên đây không nhằm đưa ra một tỷ dụ mà nhằm đưa ra một sự liệt kê toàn bộ bởi v́ điều này có thể t́m thấy trong các bản kinh khác như: “chúng sinh thuộc hữu sắc có thân khác nhau, có tưởng khác nhau, đó là (như, tadyathā) tất cả con người và một phần chúng thiên, v.v..”. Như vậy chữ “như” vẫn có thể được dùng để đưa ra một định nghĩa chứ không phải là tỷ dụ. V́ thế Thế tôn khi trả lời cho Xá-lợi-tử chỉ nêu ra cái cuối cùng để chỉ cho cái đầu tiên; có nghĩa là muốn nói đến hai cơi trời cao hơn trong toàn bộ của chúng.

Trên đây đă nói về mạng căn; tiếp theo là phần giải thích các tính chất (tướng, lakṣaṇa) của pháp hữu vi (saṃskṛtasya).

相謂諸有為                  生住異滅性

[Tướng của pháp hữu vi

Là các tính chất sinh, trụ, dị, diệt.]

Luận: Bốn pháp sinh (jāti), trụ (sthiti), dị (jarā), diệt (anitya) là các tính chất của pháp hữu vi. Những pháp nào có các tính chất này th́ thuộc về hữu vi; những pháp nào không có các tính chất này th́ thuộc về vô vi (asaṃskṛta).

Sinh là pháp tạo ra hoặc sinh ra (utpādayati) các pháp hữu vi; trụ là pháp làm cho pháp hữu vi ổn định hoặc tồn tại (sthāpayati); dị là pháp làm cho pháp hữu vi suy yếu; và diệt là pháp làm cho pháp hữu vi bị hủy hoại.

(Hỏi) Chẳng phải kinh đă nói là pháp hữu vi chỉ có ba tính chất hữu vi sao? Như kinh (Trilakṣaṇasūtra) nói: “này các bí-sô, về pháp hữu vi có ba tính chất và ba tính chất này cũng chính là các pháp hữu vi. Ba tính chất đó là ǵ? Đối với pháp hữu vi th́ sự sinh khởi hoặc nguồn gốc (utpāda) là cảnh sở duyên của thức; sự biến mất (tận, vyaya) của sự sinh khởi này là cảnh sở duyên của thức; sự tồn tại và biến đổi (trụ dị, sthiyanyathātva) của sự sinh khởi này cũng như vậy”.

(Trả lời của Tỳ-bà-sa) Lẽ ra kinh phải nói đến bốn tính chất nhưng đă lược bỏ một tính chất là trụ. Thật ra kinh có dùng đến chữ “trụ” (sthiti) trong nhóm từ “trụ dị” (sthiyanyathātva) tuy nhiên nhóm từ này chỉ hàm nghĩa là sự suy yếu (dị) cũng giống như kinh khi dùng chữ “khởi” (utpāda) để thay cho chữ “sinh” (jāti), chữ “tận” (vyaya) để thay cho chữ “diệt” (anityata), v́ thế khi nói “trụ dị” (sthiyanyathātva) là kinh có ư thay cho chữ “dị” (jarā).

Nếu kinh chỉ nói đến ba tính chất th́ điều đó v́ kinh muốn làm cho chúng sinh sinh tâm chán ghét cho nên đă mô tả các pháp có khả năng làm cho một pháp hữu vi lưu chuyển trong tam thế như là các tính chất thuộc về điều kiện: có nghĩa là năng lực của sinh đă khiến cho một pháp hữu vi có thể vận hành (saṃcārayati) từ vị lai đến hiện tại, năng lực của dị (trụ dị) và diệt đă khiến cho một pháp hữu vi vận hành từ hiện tại đến quá khứ, bởi v́ sau khi dị đă làm cho pháp hữu vi suy yếu (durbalīkṛtya) th́ chính diệt làm cho pháp hữu vi này bị hủy hoại (vighātāt). Ở đây truyền thuyết (Vibhāṣā, 39, 6) đă đưa ra một sự so sánh: Cũng giống như một người đang ở trong rừng rậm và có ba người có thù oán muốn t́m giết. Người thứ nhất lôi người này ra khỏi rừng, người thứ hai làm cho người này suy kiệt và người thứ ba đă kết liễu mạng căn của người này. Ba tính chất của một pháp hữu vi cũng như vậy; trong khi đó “trụ” lại ǵn giữ và làm cho pháp hữu vi tồn tại v́ thế kinh đă không coi đó là một trong những tính chất thuộc về hữu vi. Hơn nữa pháp vô vi vốn có tính chất thường trụ (tự tướng trụ, svalakṣṇe sthitibhāva); và tính chất “trụ” của pháp hữu vi lại không giống với tính chất này của pháp vô vi. V́ thế để tránh sự nhầm lẫn, kinh đă không kể đến trụ như là một trong những tính chất của pháp hữu vi.

Có luận sư (Sautrāntika) nói rằng kinh có nói đến trụ nhưng lại kết hợp với dị; tức nhóm từ “trụ dị” (sthiyanyathātva) có nghĩa là “trụ” (sthiti) và “dị” (anyathātva).

(hỏi) Kinh kết hợp hai tính chất này lại thành một để làm ǵ?

(Trả lời của Kinh bộ) Trụ chính là pháp mà chúng sinh thường chấp trước; v́ thế để có thể khiến chúng sinh khởi tâm chán ghét, kinh đă nói đến trụ cùng chung với dị; cũng giống như khi nói đến sự cát tường có “lỗ tai đen” đi kèm theo; cho nên biết rằng có đến bốn tính chất hữu vi.

(Hỏi) Các pháp sinh, trụ, v.v., cũng là các pháp hữu vi; v́ thế chúng cũng phải sinh, trụ, dị và diệt. Nếu pháp sinh có bốn tính chất sinh, v.v., th́ tính chất sinh của pháp sinh này (tức tính chất sinh thứ hai [tùy tướng, anulakṣaṇa], đến lượt nó, cũng là một pháp hữu vi và cũng phải có bốn tính chất sinh (tức tính chất sinh thứ ba), trụ, v.v.. Như vậy tức sẽ mắc lỗi vô cùng?

(Đáp) Vẫn có thêm các tính chất này nhưng không mắc lỗi vô cùng bởi v́:

此有生生等                  於八一有能.

[Bổn tướng có các tùy tướng sinh sinh, v.v.

Bổn tướng tác động đến tám pháp; tùy tướng chỉ tác động một pháp.]

Luận: Bốn tính chất đầu tiên (bổn tướng, mūlalakṣaṇa) như đă được nói đến ở trên.

Bốn tính chất kế tiếp (tùy tướng, anulakṣaṇa) là sinh của sinh, trụ của trụ, dị của dị và diệt của diệt.

Tất cả các pháp hữu vi được gọi là pháp có điều kiện bởi v́ đều có bốn tính chất đầu tiên nói trên. Các tính chất đầu tiên này, đến lượt chúng, được gọi là pháp có điều kiện là v́ đều có bốn tính chất phụ này.

Nếu cho rằng mỗi một trong bốn bổn tướng phải có bốn tính chất cũng giống như một pháp hữu vi có bốn bổn tướng tức không hiểu được công năng (pháp tác dụng, dharmakāritra) của các tính chất khác nhau này.

Khi một pháp sinh khởi - tức một tâm, tâm sở và được gọi là bổn pháp - th́ có chín pháp được bao hàm trong pháp này cùng sinh khởi với nó là bổn pháp, bốn bổn tướng và bốn tùy tướng. Bổn tướng đầu tiên là sinh (bổn sinh, mūlajāti) có khả năng sinh khởi bổn pháp, ba bổn tướng trụ, dị, diệt và bốn tùy tướng: Tất cả là tám pháp. Bổn tướng sinh không có khả năng sinh ra chính nó mà do tùy tướng sinh của sinh (sinh sinh, jātijāti) sinh ra; giống như một con gà có thể sinh ra nhiều trứng nhưng mỗi một quả trứng th́ chỉ được một con gà (Vibhāṣā, 39, 4), bổn tướng sinh cũng như vậy: Nó có thể sinh ra tám pháp trong khi tùy tướng sinh sinh th́ chỉ sinh được một pháp, đó là bổn tướng sinh.

Đối với các bổn tướng và tùy tướng khác cũng giống như vậy. Tùy tướng Trụ trụ chỉ làm cho bổn tướng trụ được tồn tại; trong khi chính bổn tướng trụ này mới có thể giúp cho sự tồn tại của bổn pháp, ba bổn tướng khác và bốn tùy tướng trong đó có bao hàm tùy tướng trụ trụ. Hai bổn tướng dị và diệt cũng như vậy: Chúng có thể làm suy yếu và hủy diệt tám pháp, trong khi tự thân lại bị làm cho suy yếu và hủy diệt bởi tùy tướng tương ưng là tùy tướng dị dị (jarājarā) và diệt diệt (anityatānityatā).

Như vậy các bổn tướng đều có các tính chất gọi là tùy tướng (anulakṣaṇa); và các tùy tướng này chỉ có bốn chứ không phải mười sáu cho nên không mắc lỗi vô cùng.

Các luận sư Kinh bộ nói: 

(1)                                  Bàn luận về các điều trên cũng giống như việc đi phân tích hư không! Các tính chất sinh, trụ, v.v., không có thực pháp thể (na dravyataḥ saṃvidyante). Không thể định lượng các tính chất này bằng hiện lượng, tỷ lượng hoặc thánh giáo lượng để chứng minh rằng chúng có pháp thể thực hữu.

(Giải thích của Kinh bộ) Kinh (Saṃyktāgama, 12, 21; Saṃyutta, i. 152) nói: “Sự sinh khởi của pháp hữu vi là cảnh sở duyên của thức, v.v.”

(Kinh bộ) Thiên ái các ông đă chấp vào văn tự mà bỏ mất văn nghĩa. Thế tôn đă dạy rằng phải nương vào văn nghĩa chứ không phải văn tự.

(Hữu bộ) Nếu vậy, ư nghĩa đích thực của đoạn kinh trên là ǵ?

(Kinh bộ) Kẻ ngu phu v́ bị vô minh che lấp cho nên đối với chuỗi tương tục (prabandha) của các hiện tượng có điều kiện (hành tướng, saṃskāra) đă chấp đó là “ngă” và “thuộc về ngă” (ngă sở). Thế tôn v́ muốn đoạn trừ sự chấp trước này cho nên đă chỉ rơ rằng chuỗi tương tục trên có tính chất hữu vi (saṃskṛta), tức sinh khởi do các nhân duyên tiếp nối nhau (duyên sinh tánh, pratītya samutpanna). Ba tính chất của các pháp do duyên sinh mà ngài đă chỉ dạy là ǵ? - “ba tính chất hữu vi của pháp hữu vi là cảnh sở duyên của thức.” Chính chuỗi tương tục này đă được Thế tôn gọi là pháp hữu vi. Rơ ràng cả ba tính chất này đều không thuộc về chuỗi tương tục trong cùng một lúc bởi v́ Thế tôn đă nói rằng chúng là cảnh sở duyên của thức. Điều này có nghĩa là sự sinh khởi trong một sát-na, v.v., không thể làm cảnh sở duyên của thức và những ǵ không phải là cảnh sở duyên của thức th́ không thể lập thành một tính chất. Nếu kinh lập lại đến hai lần chữ hữu vi trong câu “có ba tính chất hữu vi của pháp hữu vi” chính là v́ biết rằng ba tính chất này không phải là chứng cứ cho thấy sự tồn tại của pháp hữu vi như trong trường hợp con c̣ biểu thị cho sự sinh hoạt ở gần nước; cũng không phải là dấu hiệu chỉ tính chất của pháp hữu vi như trong trường hợp những biểu hiện của một người con gái có thể cho ta biết đó là người hiền lành hay độc ác. Các tính chất ở trên hiện khởi trong một thực pháp chỉ để cho thấy rằng thực pháp này có tính chất hữu vi. (Như vậy đoạn kinh trên có thể được hiểu là : “pháp hữu vi có ba đặc điểm để nh́n thấy và có thể giúp ta nhận ra đó là một pháp h́nh thành có điều kiện, có nghĩa là được sinh khởi bởi các nhân nối tiếp nhau. Các đặc điểm này là sự sinh khởi, sự yếu kém và sự hủy diệt.”)

(2)                                  Khi nói khởi hai sinh (utpāda, jāti) là hàm ư chuỗi tương tục này bắt đầu (pravāhasya ādiḥ); khi nói tận hay diệt (vyaya, anityatā) là hàm ư sự kết thúc hay chấm dứt (nivṛtti, uparati) của chuỗi tương tục này; khi nói trụ (sthiti) là hàm ư chuỗi tương tục này tiếp nối (anuvartamāna) từ lúc bắt đầu cho đến lúc kết thúc; khi nói trụ dị (sthityanyathātva) hoặc dị (jarā) là hàm ư sự biến đổi của chuỗi tương tục này, tức sự khác biệt giữa các giai đoạn nối tiếp nhau của chúng. Chính v́ điều này - tức chỉ xem các tính chất sinh, diệt, v.v., của pháp hữu vi như là sự bắt đầu, sự chấm dứt, sự tồn tại và sự biến đổi của một chuỗi tương tục - mà Thế tôn đă nói với Nan-đà: “Thiện nam tử, ông khéo biết các thọ của ḿnh sinh, các thọ của ḿnh tồn tại, các thọ của ḿnh chấm dứt và hủy diệt.” (Saṃyukta, 11, 14). V́ thế chúng tôi nói rằng: “chuỗi tương tục khởi gọi là sinh; đến khi kết thúc gọi là diệt, trung gian tồn tại gọi là trụ; trước sau khác nhau gọi là trụ dị.”

Và “trước không nay có gọi là sinh; tương tục tùy chuyển gọi là trụ; khác biệt trước sau là trụ dị; tương tục bị đoạn chính là bị diệt.”

Và “nếu cho rằng v́ thuộc về sát-na cho nên nếu không có trụ pháp sẽ bị diệt ngay th́ thật phi lư; bởi v́ nếu đă thuộc về sát-na tức sẽ bị diệt ngay cho dù có trụ hay không.”

Như vậy khi nói trụ là kinh có ư chỉ cho sự tương tục này và chính điều này đă chứng minh luận Đối pháp (Prakaraṇapāda, 14b7) là đúng khi luận này viết: “trụ là ǵ? - là các hành pháp đă sinh và chưa diệt.” Bởi v́ “đă sinh và chưa diệt” không bao giờ được gọi là thể tánh của sát-na (sát-na pháp tánh, kṣaṇadharmatā).

Luận Phát trí (Jñānaprasthāna, 2, 13) nói: “Đối với một tâm th́ khởi có nghĩa là ǵ? - Là sinh (jāti); tận có nghĩa là ǵ? Là tử (maraṇa). Trụ dị có nghĩa là ǵ? - là lăo.” Tuy nói như vậy nhưng luận này có ư căn cứ vào tâm của một chúng sinh đồng phần (niāyasabhāgacitta) chứ không phải căn cứ vào một sát-na của tâm. (Trong một chúng đồng phần có nhiều tâm; tuy nhiên các tâm này có thể được xem như là một tâm.)

(3)                                  Hơn nữa không cần phải chấp các tính chất hữu vi là thực pháp, ta vẫn có thể nói rằng từng sát-na riêng biệt vẫn thành tựu được bốn tính chất này.

(Hỏi) Làm sao có thể nói là thành tựu?

(Đáp) Bởi v́ (a) mỗi một sát-na đang hiện khởi vốn không có trước đó (abhūtva bhāvaḥ) và sự hiện khởi này v́ so sánh với sự không hiện khởi trước đó nên gọi là sinh; (b) sau khi đă hiện khởi lại trở thành không (bhūtvā abhāvaḥ) cho nên gọi là tận (vyaya); (c) sự đ́nh trụ của sát-na chính là chuỗi dài của các sát-na tiếp sau (uttarottarakṣaṇānubandha) bởi v́ sát-na ở sau cũng như sát-na ở trước cho nên nó có thể thay cho sát-na ở trước (pratinidhībhūta) và có thể nói là sát-na trước đó vẫn c̣n tồn tại. Như vậy có thể xem sát-na ở sau là sự kéo dài của sát-na ở trước; (d) v́ sự sai biệt của chuỗi dài các sát-na này cũng có thể hiểu theo cách trên và đây là tính chất biến đổi (trụ dị sthityanyathātva) của sát-na.

(Hỏi) Có phải các ông nói rằng sẽ không có sự sai biệt khi mà các sát-na tiếp nối nhau đều giống nhau (sadṛśa)?

(Đáp) Không. Vẫn có sai biệt cũng giống như sự khác nhau về thời gian rơi nhanh hay chậm của một viên kim cương được ném đi hay không được ném đi, được ném với một lực mạnh hay không có lực: Sự khác nhau là do chuyển biến của các đại chủng (mahābhūtapariṇāmaviśeṣa) trong từng trường hợp khác nhau. Khi các pháp nối tiếp nhau trong một chuỗi tương tục thuần nhất th́ sự khác nhau không đáng kể; v́ thế mặc dù khác nhau, các pháp vẫn được xem như là tương tợ.

(Vấn nạn của Hữu bộ) Định nghĩa (vyavasthā) của các ông về các tính chất hữu vi không có giá trị đối với toàn bộ các pháp hữu vi. Định nghĩa về tính chất trụ (trụ tướng) đ̣i hỏi phải có một sát-na kế tục nhưng sát-na này lại không có đối với sát-na tối hậu của một âm thanh hay của một ngọn lửa, đối với sát-na tâm tối hậu của một a-la-hán. Như vậy sát-na tối hậu của âm thanh, ngọn lửa hay của vị a-la-hán sẽ không có sự đ́nh trụ cũng như biến dị.

(Trả lời của Kinh bộ) Chúng tôi không gán ghép tính chất trụ cho các pháp hữu vi mà chỉ nói rằng tính chất này phụ thuộc vào tính chất dị. Thế tôn dạy về cả ba tính chất này bởi v́ trong những trường hợp nào đó đă có đủ ba tính chất này; tuy nhiên đối với sát-na tối hậu của một ngọn lửa th́ chỉ có hai tính chất sinh và diệt mà không cần đến trụ và dị.

Nói tóm lại, các pháp hữu vi bởi v́ trước đó không có nhưng nay có, sau khi có lại trở thành không cho nên mới nói rằng chuỗi tương tục của các pháp này là trụ và sự sai biệt của chuỗi tương tục này là dị. Đây chính là lời dạy của Thế tôn nói về ba tính chất hữu vi. V́ thế ở đây không cần thiết phải tạo thêm các thực pháp sinh, trụ, v.v.

(4)                                  (Vấn nạn của Tỳ-bà-sa) theo các ông sinh, sinh chính là pháp đang hiện khởi và trước đó vốn không hiện khởi; và như vậy một pháp có tính chất này (sở tướng, lakṣya) cũng sẽ chính là tính chất này (năng tướng, lakṣaṇa).?

(Trả lời của Kinh bộ) Nếu vậy cũng không có ǵ sai; bởi v́ các tính chất của bậc đại sĩ (Mahāpuruṣa) không khác với bậc đại sĩ. Các tính chất của một con ngựa vằn như sừng, chỗ u, cái yếm, móng chân, cái đuôi cũng không khác với con ngựa văn. Các đại chủng (mahābhūta) cũng không tồn tại ngoài các tính chất riêng của chúng là cứng, ướt, v.v. Cũng như thế, đối với các luận sư Tỳ-bà-sa vốn là người thừa nhận tính chất sát-na diệt của các pháp (kṣaṇikavādin), th́ sự bay lên của đám khói không phải là ǵ khác hơn chính là đám khói này.

Tuy nhiên vẫn có thể nắm bắt được tự tánh (svabhāva) của sắc, thanh, v.v., vốn là các pháp thuộc hữu vi mặc dù không biết được rằng các pháp hữu vi này trước đây chưa từng có cũng như sau này cũng sẽ không c̣n; đồng thời vẫn thấy được những chuỗi tương tục này đang biết đổi cho dù không biết rằng tính chất của chúng là thuộc về hữu vi. V́ thế biết rằng thể tánh của pháp hữu vi không phải là những tính chất hữu vi (hữu vi tướng) được nói đến ở trên, mà chỉ là “trước không sau có”, v.v.; và cũng không thể có các thực pháp như sinh, trụ, v.v., nằm ngoài các sắc pháp thanh, v.v., này cũng như các pháp hữu vi khác.

(5)                                  Nếu thừa nhận các tính chất hữu vi là thực hữu bởi v́ cho rằng chúng có thể sinh khởi cùng thời (sahabhūta) th́ cũng phải thừa nhận rằng một pháp vừa sinh, vừa trụ, vừa biến đổi, vừa hủy diệt trong cùng một lúc.

Ở đây Hữu bộ sẽ đưa ra vấn nạn là tính chất hữu vi không có tác dụng cùng thời (kāritrakālabheda): Tính chất sinh (sinh tướng) vốn có tác dụng sinh khởi trước khi nó được sinh ra cho nên vẫn c̣n ở vị lai, và môt khi đă được sinh ra th́ sẽ không c̣n tác dụng sinh khởi trở lại; các tính chất trụ, dị và diệt chỉ có tác dụng khi chúng thực sự hiện khởi chứ không phải ở vị lai v́ thế chúng chỉ có tác dụng vào sát-na mà tính chất đầu tiên (sinh tướng) đă không c̣n tác dụng. Như vậy có thể nói rằng bốn tính chất này tuy khởi cùng thời nhưng không tương vi.

Trước hết hăy xét đến tác dụng của sinh tướng - một tính chất vốn nằm ở vị lai - tức sẽ phải xem xét một pháp vị lai có thực sự tồn tại (thực hữu, dravyata) hay không và nếu thực sự tồn tại th́ pháp vị lai này có tác dụng hay không. Nếu pháp vị lai này, tức sinh tướng, có tác dụng sinh khởi th́ làm sao có thể nói là nó ở vị lai? Bởi v́ theo Tỳ-bà-sa pháp vị lai là pháp không khởi tác dụng (aprātakāritraṃ hy anāgatam iti siddhāntaḥ); tại sao cứ nói là vị lai. Mặt khác khi một pháp được sinh ra th́ tác dụng của sinh tướng đă ở quá khứ; như vậy làm sao nó có thể hiện khởi để các ông cho rằng nó có ở hiện tại.

Về ba tính chất c̣n lại, nếu chúng đều có tác dụng cùng một lúc th́ trong khi trụ tướng làm cho một pháp tồn tại th́ dị tướng lại làm cho pháp này biến đổi và diệt tướng làm cho pháp này bị hủy diệt; như vậy một pháp sẽ tồn tại, biến đổi và diệt hoại trong cùng một lúc. Nếu ba tính chất này không có tác dụng cùng thời th́ phải thừa nhận có ba sát-na khác nhau; và điều này có nghĩa là phải phủ nhận chủ trương sát-na diệt của tự tâm.

(Trả lời của Tỳ-bà-sa) Chúng tôi khi nói sát-na là có ư chỉ cho thời điểm mà các tính chất hữu vi đều đă khởi xong các tác dụng của ḿnh.

(Kinh bộ) Nếu vậy các ông phải giải thích làm thế nào trụ tướng vốn sinh khởi cùng thời với dị và diệt lại có thể khởi xong tác dụng “làm tồn tại những những pháp cần được làm tồn tại” (năng trụ sở trụ pháp, sthāpyam sthāpayati) trước khi dị tướng và diệt tướng khởi xong các tác dụng làm suy yếu và hủy diệt của chúng? - Nếu các ông trả lời v́ trụ tướng có lực mạnh hơn nên có thể khởi xong tác dụng trước tiên th́ chúng tôi xin hỏi là bằng cách nào mà trụ tướng lại trở thành yếu liệt để khi gặp phải dị tướng và diệt tướng th́ trụ tướng bị suy yếu và hủy diệt cùng với bổn pháp mà chính nó phải làm cho tồn tại? - Có thể các ông sẽ trả lời rằng “trụ tướng v́ đă khởi xong tác dụng của nó (kṛtakṛtya) nên không thể khởi lại lần nữa, cũng giống như sinh tướng nếu đă sinh tức không c̣n sinh khởi trở lại” th́ so sánh này không hợp lư. Tác dụng (sĩ dụng, puruṣakāra) của sinh tướng là dẫn dắt một pháp từ vị lai và đưa pháp này vào hiện tại; một khi pháp này đă nhập vào vị lai th́ sinh tướng không thể đưa nó nhập vào một lần nữa. Trong khi tác dụng của trụ tướng là làm tồn tại (sthāpayati) một pháp “cần phải được làm cho tồn tại” (sthāpya) là ngăn chặn pháp mà nó đang làm cho tồn tại không bị suy yếu và hủy diệt. Đối với pháp đang tồn tại th́ trụ tướng phải làm cho nó được tồn tại vĩnh viễn; v́ thế trụ tướng có khả năng lập lại tác dụng của chính nó.

Như vậy câu hỏi được đặt ra ở đây là: “v́ chướng ngại nào hay v́ những lực tương phản nào mà tác dụng của trụ tướng sẽ chấm dứt một khi đă sinh khởi? Có phải những lực này là dị tướng và diệt tướng; có phải dị tướng sẽ làm cho trụ tướng suy yếu để rồi sau đó sẽ bị hủy hoại bởi diệt tướng? Nếu dị tướng và diệt tướng có lực mạnh hơn th́ lẽ ra chúng phải khởi dụng trước trụ tướng. Hơn nữa theo quan niệm của các ông, không chỉ có bổn tướng mà ngay cả dị tướng và diệt tướng cũng phải nhờ đến tác dụng của trụ tướng mới có thể tồn tại. Như vậy khi tác dụng của trụ tướng chấm dứt th́ bổn pháp, dị tướng và trụ tướng cũng không thể tiếp tục tồn tại. Và ở đây có thể nêu lên câu hỏi là bằng cách nào và v́ mục đích ǵ mà dị tướng và diệt tướng phải khởi các tác dụng làm suy yếu và hủy diệt của chúng?

Chúng tôi thực sự không thấy dị tướng và diệt tướng có tác dụng ǵ cả; bởi v́ chính nhờ vào trụ tướng mà một pháp sau khi sinh khởi đă tạm thời không bị hủy diệt, không bị hủy diệt ngay khi vừa mới sinh khởi (utpannamātra). Nếu trụ tướng sau khi đă làm xong phần việc của ḿnh và không thể tŕ giữ bổn pháp được nữa th́ chắc chắn bổn pháp sẽ không thể tồn tại; và điều này có nghĩa là bổn pháp sẽ tự diệt.

Trên đây đă giải thích về hai tính chất trụ và diệt của một pháp; tức trụ là pháp đă sinh nhưng chưa diệt và diệt là pháp bị hủy hoại sau khi trụ. Tuy nhiên làm thế nào để gán ghép thêm cho pháp này một tính chất dị? Dị là sự biến đổi, là sự không tương đồng giữa hai t́nh trạng trước sau. Như vậy làm thế nào có thể nói rằng một pháp lại trở nên khác biệt với chính nó?

Tụng đáp: “Nếu pháp này vẫn giữ nguyên như vậy th́ nó không phải là một pháp khác; nếu nó có biến đổi th́ không c̣n là pháp này. Như vậy sự biến đổi (dị tướng) của một pháp không thể được lập thành.”

Có bộ phái (Saṃmitīya) cho rằng v́ gặp các nhân duyên hủy diệt ở ngoài như lửa, cái búa, v.v., nên diệt tướng mới có thể hủy hoại các pháp như củi, cái b́nh, v.v. Luận thuyết này thật phi lư! Nếu nói như vậy th́ cũng giống như một người bệnh sau khi uống thuốc xong đă cảm tạ ông trời giúp ḿnh được b́nh phục; bởi v́ nếu đă có các nhân duyên hủy diệt ở ngoài th́ chính các nhân duyên này đă có khả năng hủy diệt chứ đâu cần đến diệt tướng. Luận thuyết này c̣n cho rằng tâm và tâm sở, âm thanh và ngọn lửa đều bị hủy diệt ngay trong sát-na (sát-na diệt, kṣaṇanirodha) nhờ có diệt tướng chứ không cần đến các nhân duyên ở ngoài. Diệt tướng và trụ tướng nếu cùng khởi tác dụng trong một thời điểm th́ một pháp phải vừa tồn tại vừa hủy diệt trong cùng một lúc. Điều này không thể chấp nhận được.

V́ thế biết rằng chính v́ căn cứ vào sự tương tục mà Thế tôn đă dạy về các tính chất hữu vi. Điều này không đi ngược lại với chánh lư mà c̣n phù hợp với kinh (khi kinh nói rằng: “Có ba tính chất cho thấy pháp hữu vi là pháp có điều kiện, tức được sinh khởi bởi các nhân duyên tương tục…”).

(Hỏi) Nếu sinh tướng ở vị lai sinh ra một pháp mà nó phải sinh ra th́ tại sao tất cả các pháp vị lai không được sinh ra cùng một lúc?

Tụng đáp:

生能生所生                  非離因緣合.

[Sinh tướng có thể sinh ra pháp phải sinh

Nhưng không thể tách rời sự ḥa hợp các nhân duyên.]

Luận: Nếu tách rời với sự ḥa hợp (sāmagrya) của các nhân duyên th́ một ḿnh sinh tướng không có khả năng (sāmartha) sinh ra pháp mà nó phải sinh. V́ thế tất cả các pháp vị lai không sinh khởi cùng một lúc.

(Vấn nạn của Kinh bộ) Nếu vậy chúng tôi tinh rằng chính các nhân duyên sinh ra chứ không phải sinh tướng - sinh tướng chỉ phối hợp với một pháp ngay từ lúc ban đầu và giúp cho pháp này sinh khởi khi mà tất cả các nhân duyên rốt cùng đă ḥa hợp được với nhau. Khi nhân duyên đầy đủ th́ pháp sinh, khi nhân duyên đầy đủ th́ pháp không sinh; như vậy sinh tướng có tác dụng ǵ?

(Trả lời của Hữu bộ) Chẳng lẽ các ông có thể biết được tất cả các pháp đang hiện hữu sao? Thể tánh của các pháp vốn rất vi tế. Tuy có thể nh́n thấy chúng nhưng vẫn không thể biết được thể tánh của chúng. Hơn nữa nếu không có sinh tướng th́ lẽ ra cũng không thể có ư niệm về “sinh” (jātabuddhi – jāta iti). Và nếu sinh tướng không phải là một thực pháp khác với pháp “trước đó không có nhưng nay đang sinh khởi” th́ các sở thuộc cách như “sự sinh khởi của màu sắc”, “sự sinh khởi của thọ”, v.v., sẽ không được chứng minh thực; bởi v́ lúc đó sẽ phải nói là “màu sắc của màu sắc”, “thọ của thọ”, v.v. Đối với dị tướng, dị tướng và diệt tướng cũng như vậy.

Kinh bộ) Luận thuyết trên sẽ dẫn các ông đi quá xa bời v́ để chứng thực cho ư niệm về không (śūnya) và ư niệm về vô ngă các ông sẽ phải thừa nhận sự hiện hữu của một thực pháp là “không” và một thực pháp là “vô ngă” để chứng thực cho các ư niệm về một, hai, lớn, nhỏ, riêng, hợp, tan, cái này, cái kia, thực hữu tánh, v.v., th́ các ông sẽ giống như Thắng luận (Vaiśeṣika) phải thừa nhận một loại các “thực thể” như số (saṃkhyā), lượng (parimāṇa), biệt (pṛthaktva), hợp (saṃyoga), ly (vibhāga), thử (paratva), bỉ (aparatva), hữu (sattā), v.v.; và các ông c̣n phải tạo ra một “thực thể b́nh” (ghaṭatva) để chứng thực cho ư niệm về cái b́nh.

Về sở thuộc cách th́ các ông không thừa nhận rằng tự tánh (svabhāva) của màu sắc và màu sắc là các thực pháp khác nhau nhưng trong khi đó các ông lại nói: “tự tánh của màu sắc”.

Như vậy các ông đă không thể lập thành sinh tướng là một thực pháp; các ông đă không thể lập thành sinh tướng không phải là pháp chỉ được giả lập (prjñāptimātra), một pháp mà trước đó vốn không đến nay mới có.

Khi chúng tôi muốn chỉ cho người khác thấy rằng một pháp nào đó trước đây vốn không có nhưng đến nay mới có th́ chúng tôi sẽ nói là: “pháp này sinh khởi”; và khi nói như vậy chúng tôi đă giả định là pháp này đă được sinh ra. Có rất nhiều pháp như màu sắc, các thọ, v.v., được sinh ra như vậy; có nghĩa là “trước đây không có đến nay mới có”. Như vậy sẽ có nhiều sự sinh ra, tức nhiều pháp sinh ra. Sự sinh ra (sinh tướng) như vậy th́ rất nhiều; và v́ muốn phân biệt các sự sinh ra này để cho người khác có thể biết rằng sự sinh ra này có tên là “màu sắc” chứ không phải có tên là “thọ”, chúng tôi sẽ dùng đến sở thuộc cách là “sự sinh ra của màu”, “sự sinh ra của thọ” mặc dù sự sinh ra (sinh tướng) của màu sắc thật ra chỉ là “màu sắc sinh ra”, tức sinh tướng cũng chính là pháp sinh ra. Cũng giống như thế gian thường nói “mùi hương của cây chiên đàn” mặc dù cây chiên đàn chính là mùi hương, hoặc “thân của bức tượng” mặc dù bức tượng cũng chính là thân. (Madhyamakavṛtti, tr. 66; Sāṃkhyapravacanabhāṣya, tr. 84, 148).

(Hữu bộ) Nhờ thừa nhận có sinh tướng thuộc về các pháp hữu vi chứ không phải các pháp vô vi cho nên có thể dễ dàng giải thích lư do tại sao các pháp vô vi không thể sinh khởi. Nếu pháp hữu vi sinh khởi mà không có sinh tướng th́ tại sao các pháp vô vi như hư không, v.v., không thể sinh khởi?

(Kinh bộ) Pháp hữu vi sinh khởi bởi v́ trước đó không có đến nay mới có (abhūtvā bhavanti); trong khi pháp vô vi vốn hiện hữu th́ làm sao có thể sinh? Nếu giải thích rằng có một số pháp như pháp vô vi không có sinh tướng bởi v́ đó là thể tánh của thực pháp (pháp tánh, dharmatā) th́ chúng tôi sẽ nói rằng chính nhờ pháp tánh mà tất cả các pháp đều không sinh khởi. Hơn nữa các ông muốn thừa nhận các pháp hữu vi đều có sinh tướng như nhau, loại sinh tướng mà các ông cho rằng pháp vô vi không thể có; trong khi đó các ông lại thừa nhận có những nhân duyên có khả năng sinh khởi màu sắc chứ không có khả năng sinh khởi thọ. Theo chúng tôi th́ các pháp hữu vi và vô vi cũng giống như vậy: Tất cả đều không có sinh tướng; và tất cả những nhân duyên sinh ra pháp hữu đều không có tác dụng đối với các pháp vô vi.

Các luận sư Tỳ-bà-sa cho rằng, bốn tính chất sinh, v.v., đều là các thực pháp. Bởi v́ sao? Chẳng lẽ có quá nhiều vấn nạn mà phải buông bỏ ư chỉ (Āgamas = Abhidharmaśāstras) của tự tông. Không nên v́ sợ hươu nai mà không trỉa hạt; cũng đừng nên v́ có ruồi nhặng mà bỏ món ăn ngon. Cần phải bác bỏ các vấn nạn để giữ lấy ư nghĩa của bổn tông.

Trên đây đă bàn về các tính chất hữu vi; tiếp theo là phần nói về danh thân (nāmakāya), cú thân (padakāya) và văn thân (vyañjanakāya).

 名身等所謂                  想章字總說

(Danh thân, v.v., là

Tập hợp các tưởng, chương và chữ)

Luận: Chữ “đẳng” ở trên bao hàm cú thân và văn thân.

Danh (nāman) (có nghĩa là tên hay từ) là pháp tạo ra một ư tưởng (tạo tưởng, saṃjñākaraṇa), như các từ sắc, thanh, hương, vị, v.v.

Cú (pada) (có nghĩa là câu) là chỉ cho chương (vākya), tức một bài hoặc một câu có thể diễn đạt trọn vẹn một ư nghĩa nào đó, như câu “các hành là vô thường…” và phần c̣n lại; hoặc cú c̣n có nghĩa là pháp giúp chúng ta hiểu được những thể thức khác nhau của các hoạt động, các tính chất, các thời điểm có liên quan đến một người nào đó; chẳng hạn như: nó nấu ăn, nó đọc sách, nó đi; nó màu đen, màu vàng, màu đỏ; nó nấu ăn, nó sẽ nấu ăn, nó đă nấu ăn.

Văn (vyñjana) có nghĩa là chữ (akṣara) là âm tố (varṇa) thuộc về nguyên âm hoặc phụ âm, như [a], [ā], [i], [ī], v.v.) 

(Hỏi) Có phải chứ, âm tố, là tên gọi của chữ viết không?

(Đáp) Không phải, v́ chỉ hiểu thị ư niệm về chữ viết và các âm tố được tạo ra đă được phát thành tiếng; nhưng chính v́ để hiển thị ư niệm về các âm tố mà chữ viết đă được tạo ra, đă được viết ra. Mục đích để khi không nghe thấy âm tố th́ vẫn có khái niệm về chúng nhờ vào chữ viết. V́ lẽ đó các âm tố không phải là các tên gọi để chỉ cho các chữ viết.

Thân (kāya) là sự tập hợp (tổng thuyết, samukti) các tưởng, v.v. Theo Dhātupāṭha, iv. 114, trong từ  samukti (tổng thuyết) có ư nghĩa của samavāya (tập hợp).

Như vậy danh thân là “sắc”, “thanh”, “hương”, v.v.; cú thân là “các hành là vô thường, các pháp là vô ngă, Niết-bàn là tịch tĩnh…”; văn thân là [ka], [kha], [ga], v.v.

(Vấn nạn của kinh bộ) Chẳng phải tánh của danh, cú và văn là ngữ (vāc) và thể của chúng là thanh (śabda) sao? Nếu thể của chúng là thanh th́ chúng phải thuộc về sắc uẩn (rūpaskandha) chứ không phải là các hàng pháp không tương ưng với tâm như Hữu bộ đă quan niệm.

(trả lời của Kinh bộ) Danh, cú, văn không phải là ngữ. Ngữ là tiếng được phát ra từ miệng (âm thanh, ghoṣa); chỉ có một tiếng được phát ra từ miệng, như một tiếng la chẳng hạn, th́ không đủ để có thể nhận biết sự vật. Trong khi danh (tên gọi, từ) vừa là tiếng được phát ra từ miệng (vācam, upādāya), vừa làm sáng tỏ (dyotayati) sự vật và giúp nhận biết được (pratyāyayati) sự vật.

(Kinh bộ) Khi nói là ngữ, chúng tôi không có ư chỉ cho một loại tiếng được phát ra từ miệng mà thôi; mà chúng tôi muốn chỉ cho “loại tiếng phát ra từ miệng có khả năng giúp ta nhận biết sự vật”, có nghĩa là một loại tiếng mà người nói ra đă có quy ước với nhau là nó sẽ biểu thị ư nghĩa của một sự vật nào đó. Chính v́ thế mà những người xưa đă cùng lập ra tiếng “cù” (go) có thể biểu thị chín ư nghĩa khác nhau; như đă được tŕnh bày qua bài tụng sau đây: “bậc trí giả lập ra tiếng “cù” để chỉ cho ư nghĩa của chính loại là phương hướng, thú vật, đất đai, ánh sáng, lời nói, kim cương, con mắt, bầu trời và nước.”

Luận sư nào chấp rằng “danh có thể làm sáng tỏ sự vật” th́ cũng phải thừa nhận rằng tiếng “cù” này đă được nhiều người cùng gán cho nhiều ư nghĩa khác nhau. Nếu ư nghĩa của một sự vật có thể được biểu thị cho người nghe nhờ vào một từ hoặc một tên gọi như thế th́ chỉ cần một “tiếng được phát ra từ miệng” (âm thanh, ghoṣa) cũng đă đủ để nói lên ư nghĩa của sự vật chứ cần ǵ phải lập ra một thực thể gọi là “danh”.

Danh có thể do ngữ phát sinh (utpādya, janya) (tức khi có ngữ th́ có danh - là pháp bất tương ưng hàng - sinh ra) hoặc có thể do ngữ biểu thị (prakāśya, vyangya) (tức danh - là pháp bất tương ưng hàng - sinh ra cùng với ngữ cũng đang sinh ra).

Trong trường hợp thứ nhất, v́ ngữ lấy âm thanh (tức loại tiếng phát ra từ miệng) làm tánh cho nên chỉ cần đến loại tiếng này, chẳng hạn như tiếng kêu của một con vật, cũng đă đủ để sinh ra danh. Nếu các ông chỉ trả lời rằng danh chỉ được sinh ra bởi một loại tiếng có một tính chất nào đó, như loại tiếng được phát âm rơ ràng chẳng hạn, th́ chúng tôi nhận thấy rằng “loại tiếng được phát ra từ miệng” nói trên vốn đă có khả năng sinh ra danh th́ đă có khả năng chỉ rơ sự vật.

Trường hợp thứ hai cũng được phân tích như trên, chỉ thay động từ “sinh ra” bằng động từ “biểu thị”.

Tuy nhiên thật là phi lư khi cho rằng ngữ sinh ra danh bởi v́ các thanh (tiếng) không hiện khởi trong cùng một lúc, như trong trường hợp của từ (danh) rūpa sẽ có các thanh r-ù-p-a không thể hiện khởi cùng một lúc; và danh (nāman) vốn được các ông coi như là một pháp, là một thực thể th́ không thể được sinh ra theo từng phần trước sau. Như vậy làm sao ngữ có thể sinh ra danh được? Ở đây có thể các ông sẽ trả lời rằng trường hợp này cũng tương tợ như trường hợp của vô biểu (avijñapti), tức sát-na cuối cùng của biểu nghiệp thuộc thân hoặc ngữ nhờ vào những sát-na trước đó cho nên có thể tạo ra vô biểu. Nhưng theo chúng tôi, nếu sát-na cuối cùng của ngữ thanh (tức thanh của ngữ) có thể tạo ra danh th́ chỉ cần nghe được thanh cuối cùng cũng đủ để nhận biết sự vật.

Nếu chấp nhận rằng ngữ sinh ra văn (âm tố, vyañjana), văn sinh ra danh, và danh giúp ta nhận biết sự vật th́ cũng sẽ gặp phải lời bác bỏ như trên, tức “các âm tố không cùng hiện khởi trong một lúc, v.v.”

V́ các lư do trên, thật phi lư khi chấp rằng ngữ biểu thị danh. {các thanh không thể sinh khởi cùng thời và một “thực pháp” như danh th́ không thể được biểu thị bởi các thành phần riêng biệt}

Hơn nữa, nếu văn khác biệt với ngữ th́ khi bậc thức giả chú tâm tư trạch sẽ không thể nhận biết các tính chất của nó. Mặt khác ngữ không thể sinh khởi cũng không thể biểu thị văn v́ những lư do trong trường hợp ngữ không thể sinh khởi hoặc biểu thị danh.

Nếu (Hữu bộ) chấp rằng danh cùng sinh khởi với sự vật cũng giống như trường hợp của sinh tướng th́ vấn đề t́m hiểu danh có được ngữ sinh khởi hoặc biểu thị hay không không cần phải đặt ra nữa. Bởi v́ lúc đó sẽ không có một pháp nào được gọi là danh ở hiện tại để chỉ cho một sự vật thuộc về quá khứ hay vị lai. Hơn nữa những người làm cha, làm mẹ hoặc những người khác đều có thể đặt tên cho con, v.v., tùy theo ư muốn th́ làm sao có thể thừa nhận là danh sinh khởi cùng thời với vật giống như trường hợp của sinh tướng? Và kết quả là các pháp vô vi cũng sẽ không có tên bởi v́ chúng không thể sinh khởi: Một kết quả mà Hữu bộ không thể nào chấp nhận.

(Hữu bộ) Thế tôn có nói: “các bài tụng đều dựa vào danh…” (Saṃyktāgama, 36, 27; Saṃyutta, i. 38)

(Kinh bộ) Danh (nāman) là một thanh (śobda) mà con người đă cùng nhau lập ra để biểu thị ư nghĩa của một sự vật nào đó. Bài tụng (gātha) hoặc câu (vākya, pada) là một sự sắp đặt (racanā) các danh (từ) và chính v́ điều này mà Thế tôn nói rằng tụng dựa vào (saṃniśarita) danh. Nếu chấp có một thực thể gọi là câu (cú, pada) th́ quá phi lư; cũng giống như chấp rằng ngoài kiến và các tâm ra có một thực pháp gọi là “đàn kiến” hay “ḍng tâm”. V́ thế nên biết rằng chỉ có văn (âm tố, akṣara) tức cũng là thanh, mới thực sự hiện hữu.

Các luận sư Tỳ-bà-sa thừa nhận có các hành không tương ưng với tâm như danh thân, cú thân và văn thân bởi v́ họ cho rằng không phải tất cả các pháp đều nằm trong tầm hiểu biết. Nếu nói như vậy th́ (1) văn, danh và cú hệ thuộc vào giới nào? (2) Chúng có thuộc về hữu t́nh (sattvākhya) không? (3) Chúng thuộc về dị thục, trưởng dưỡng hay đẳng lưu? (4) Chúng là thiện, bất thiện hay vô kư?

 欲色有情攝  等流無記性.

[Thuộc chúng sinh Dục giới và Sắc giới,

Là quả đẳng lưu thuộc tánh vô kư.]

Luận: Văn, danh và cú thuộc về Dục giới và Sắc giới. Có thuyết cho rằng chúng cũng thuộc Vô sắc giới nhưng không thể phát thành tiếng (bất khả thuyết, anabhilāpya, akathya).

Văn, danh và cú thuộc về loài hữu t́nh được sinh khởi nhờ vào năng lực của loài hữu t́nh và có các âm được phát ra (varṇa) bởi v́ chúng thuộc về người nói chứ không thuộc về sự vật được nói đến.

Chúng là quả đẳng lưu (naiṣyandika) được chiêu cảm bởi đồng loại nhân (sabhāgahetu); chúng không phải là dị thục bởi v́ xuất phát từ ư muốn của người nói; chúng không phải là trưởng dưỡng (aupacayika) v́ không phải là sắc pháp.

Chúng có tánh vô phú vô kư (anivṛtāvyākṛta).

Và các tính chất của các pháp bất tương ưng khác chưa được nói đến ở trên sẽ được sơ lược tŕnh bày tiếp theo đây:

同分亦如是  并無色異熟
      得相通三類  非得定等流.

[Đồng phần cũng như vậy

C̣n có thêm Vô sắc giới và dị thục.

Đắc, hữu vi tướng có cả ba loại.

Phi đắc, hai định chỉ là đẳng lưu.]

Luận: “Diệc như thị” có nghĩa là đồng phần (sabhāgatā) cũng giống như văn, danh, cú, tức cũng thuộc về các chúng sinh ở Dục giới và Sắc giới, là quả đẳng lưu và vô phú vô kư. Tuy nhiên đồng phần không phải là đẳng lưu mà cũng là dị thục; và không chỉ thuộc về hai giới trên mà c̣n có ở Vô sắc giới.

Pháp đắc (prāpti) có ba loại là sát-na, đẳng lưu và dị thục.

Các tính chất sinh, trụ, v.v., cũng có ba loại giống như đắc.

Hai định và phi đắc (aprāpti) chỉ là đẳng lưu. Nếu “chỉ” có nghĩa là không phải dị thục, v.v.

Trên đây đă nói về các pháp bất tương ưng chưa được nói đến. Về vô tưởng và mạng căn th́ giống như đă được giải thích ở trước.

(Hỏi) Tại sao không nói đắc, v.v., chỉ thuộc về hữu t́nh?

(Đáp) Bởi v́ đă nói là được hữu t́nh thành tựu, v.v.

(Hỏi) Tại sao không nói các tướng sinh, trụ, v.v. bao hàm của hữu t́nh và phi t́nh?

(Đáp) Bởi v́ đă nói cùng khởi với tất cả các pháp hữu vi.

Về các pháp c̣n lại chưa được nói đến có thể căn cứ vào các tính chất của chúng để biết.

 

previous.png      Hết Chương 2a      next.png

ĐẦU TRANG | C1 | C2a | C2b | C3a | C3b | C4a | C4b | C5 | C6 | C7 | C8 | C9

 

 

 

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

 

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0