佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

Số 0817

KINH PHẬT THUYẾT ĐẠI TỊNH PHÁP MÔN

Hán dịch: Tam tạng Trúc Pháp Hộ, nước Nhục Chi, Thời Tây Tấn.

Việt dịch:  Thích nữ Tịnh Nguyên, (Chùa An tường - TP Nha Trang).

 Chứng nghĩa: Tỳ kheo Thích Đỗng Minh,

Tỳkheo Thích Tâm Hạnh.

--- o0o --- 

Nghe như vầy: Một thuở nọ, đức Phật cùng chúng đại Tỳ kheo 500 vị, và 8000 Bồ tát ở núi Thứu-phong thuộc thành Vương-xá. Tất cả đại thánh đều đă đắc pháp môn Tổng-tŕ, với biện tài vô lượng. Các vị đă kiến lập và phân biệt thánh tuệ, thông suốt ba môn giải thoát, có trí tuệ thông suốt cả ba đời không bị chướng ngại, đắc định Tam-muội, không chuyển đổi, có mười lực, vô úy. Tất cả đều được đầy đủ.

Bấy giờ trong thành Vương-xá có dâm nữ tên Thượng Kim Quang Thủ đoan trang đẹp đẽ, ai thấy cũng đều thích, H́nh dáng thong thả, điệu bộ sáng rỡ như hoa. Nhờ quả báo đă tu đức thuở trước nên thân cô ta tự nhiên có màu vàng rực. Nơi nào cô ta đi dạo, ở, nằm, ngủ, đứng,  ngồi, kinh hành th́ đất nơi ấy cũng đều biến thành màu giống như thân cô ta, lụa vải mặc trên thân th́ tự nhiên chuyển thành màu vàng ṛng được vô số người kính trọng. Ai nh́n cô cũng ngây ngất không biết chán. Cô ta nói năng không cọc cằn thô tháo mà rất nhă nhặn dịu dàng, dung mạo sáng rỡ không tiều tụy. Trong đại thành Vương-xá ấy dù quốc vương, thái tử, đại thần, trưởng giả, cư sĩ, thanh niên... đều yêu thương cô. Họ quyết chí muốn được nh́n thấy cô ta, dù đi đến đâu nơi công viên, bờ sông, ngơ hẽm, giữa rừng họ cũng đi theo. Vô số nam nữ lớn nhỏ đều đi theo sau cô ta để ngắm nh́n.

Một ngày nọ, Thượng Kim Quang Thủ cùng với Úy Gian con ông trưởng giả mua quà đẹp để tặng nhau, làm những thức ăn ngon mang đến vườn Du-quán, có xe tứ mă, cờ lộng, trân bảo, châu minh nguyệt vàng ṛng để trang hoàng, trải tọa cụ tốt đẹp, chở đủ loại hương của hoa Tư-di, theo các kỹ nhạc đến vườn Du-quán để cùng nhau vui chơi. Dẫn đầu đi trước là trống nhạc âm thanh xướng hát, c̣n đồ cúng dường th́ chở theo phía sau. Người đi theo nh́n nhiều không thể kể.

Khi ra khỏi tịnh thất, Văn Thù Sư Lợi sanh ḷng đại bi thương xót quần sanh, xem người nào có thể chuyển hóa hướng về Đại-thừa mà dùng ba phẩm pháp để làm sáng rỡ đạo, huệ, đó là thần túc biến hóa, thuyết pháp biến hóa, giáo thọ biến hóa rồi hướng dẫn họ vào giới luật.

Thấy Thượng Kim Quang Thủ kết bạn với Úy Gian con trưởng giả và cùng ngồi chung một xe đến vườn Du-quán và biết căn nguyện bổn hạnh của cô gái có nhiều phước đức, Văn Thù Sư Lợi nghĩ: “Ta nên hóa độ và giảng pháp chắc chắn cô ta sẽ hiểu rơ thông suốt”. Lập tức Văn Thù Sư Lợi biến thân hóa làm một thiếu niên cực kỳ đẹp đẽ đi trước. Ai thấy cũng vui thích hân hoan, kính chuộng. Dáng vẻ oai vệ rực rỡ choáng cả ánh sáng mặt trời, mặt trăng, dáng kiểu y phục hơn thế gian. Y phục của thiếu niên sáng chiếu cả 40 dặm, từ nơi thân biểu hiện ra các vẻ đẹp theo ư muốn. Sửa soạn y phục xong, Văn Thù theo dơi con đường dâm nữ đi rồi đứng đợi phía trước con đường ấy. Vừa mới đứng ở trước th́ xa mă của con trưởng giả và Thượng Kim Quang Thủ lập tức bị ánh sáng y phục của Văn Thù che lấp không hiện nữa. Ánh sáng của họ tắt mất hẳn giống như khối mực đen ở bên viên minh châu. Thượng Kim Quang Thủ thấy Văn Thù Sư Lợi với dung mạo tuấn tú, ánh sáng trên thân rực rỡ giống như vị trời khó sánh nổi, sắc mặt tươi tắn, y phục khác lạ. Vừa thấy vậy, cô nh́n lại ḿnh không lấy làm lạ. V́ tham y phục của Văn Thù, cô suy nghĩ: “Nên xuống khỏi xe của con trưởng giả này, đến cùng chung vui với người kia. Và lại muốn thân ḿnh có ánh sáng và kiểu y phục ấy”. Cô vừa nghĩ xong, Văn Thù Sư Lợi thâu nhiếp oai thần bảo Tức Ư Thiên Vương hóa thành nam tử nói với cô gái:

- Thôi ! Thôi ! Đừng có tâm phóng đăng ấy nữa. V́ sao ? V́ người kia không để tâm vào sắc dục.

Cô ta hỏi:

- V́ sao ?

Tức Ư Thiên Vương trả lời:

- V́ vị ấy là Bồ tát Văn Thù Sư Lợi.

Cô gái lại hỏi:

- V́ sao đặt tên là Bồ tát ? Đó có phải là thiên tử, rồng, quỉ thần, Càn-đạp-ḥa, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc, Thích-phạm hay Tứ-thiên-vương không ?

Tức Ư trả lời:

- Người mà cô muốn biết đó chẳng phải trời, rồng, thần, cũng chẳng phải Thích phạm. Vị đó gọi là Bồ tát, v́ vị ấy làm thỏa măn tất cả lời nguyện cầu cho mọi người. Thấy chúng sanh mong cầu điều ǵ, đều không làm trái ư họ, nên gọi là Bồ tát.

Cô gái suy nghĩ: “Theo những ǵ ta được nghe, chắc chắn vị ấy sẽ cho ta y phục tốt đẹp”. Nghĩ thế rồi cô liền xuống xe đến chỗ Văn Thù Sư Lợi thưa:

- Thưa nhơn giả ! Hăy cho tôi y phục này.

Văn Thù Sư Lợi trả lời:

- Thưa đại tỷ ! Nếu đại tỷ phát tâm Đạo Vô Thượng Chánh Chơn th́ tôi mới lấy y phục cho cô.

Cô gái nói:

 - Xin vâng ! Sao gọi là Đạo ?

Văn Thù trả lời:

- Muốn biết th́ chính cô là Đạo.

Cô hỏi:

- Thế nào thưa Văn Thù Sư Lợi ! Nếu Ngài không giảng rộng và phân biệt nghĩa lư th́ tôi không sao hiểu được. V́ sao nói rằng thân của tôi là Đạo ?

Bấy giờ, Thượng Kim Quang Thủ nói kệ:           

 Cúi đầu xin Ngài 

 Cho tôi y phục

Mới biết rơ Ngài 

 Thấu sâu Đạo Phật

Như trời không mưa

Hạn hán kéo dài

Nếu người tham tiếc

Chẳng đúng Bồ tát.

Văn Thù Sư Lợi nói kệ:

            Nếu cô có thể              Phát tâm đạo Phật

            Th́ ta sẽ lấy                 Y phục cho cô

            Nếu tâm kiên cố           Trụ vào ư đạo

            Trên trời thế gian          Sẽ đều lễ lạy.

Thượng Kim Quang Thủ nói kệ:

            Như nói về đạo              Lời lẽ thế nào

            Ai là người nói               Ai được đắc đạo

            Chí hướng đến nghiệp    Phải tập thế nào

            Để thành Phật đạo          Dạy người chưa ngộ.

Văn Thù Sư Lợi trả lời:

- Đại tỷ ! Nếu muốn biết th́ có Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác hiệu Thích Ca Văn hiện đang thuyết pháp, diễn bày sự b́nh đẳng của thân, đều phụng hành theo đạo. Đại tỷ nghĩ thế nào ? Chẳng lẽ chính ta sanh các ấm chủng và các nhập sao ?

Nhờ hạnh lành đức sẵn có đă chứa nhóm kiếp trước, nên vừa nghe Văn Thù Sư Lợi nói vậy cô ta đạt được ánh sáng của pháp, và thưa Văn Thù:

- Đúng vậy ! Đúng vậy ! Đúng như Ngài đă nói, nhờ thân của tôi mà đạt đến các nhập và ấm chủng.

Văn Thù hỏi:

- Ư của đại tỷ thế nào ? Sắc có đối tượng để niệm, có đối tượng để biết không ?

Cô gái trả lời:

- Không.

Văn Thù Sư Lợi nói:

- Đại tỷ nên biết ! Đạo không có đối tượng để niệm, không có đối tượng để phân biệt. V́ sao ? V́ Sắc b́nh đẳng nên đạo cũng b́nh đẳng. Do đó mà tôi nói đại tỷ là đạo.

Ư đại tỷ thế nào ? Thọ, tưởng, hành, thức có đối tượng để niệm, có đối tượng để phân biệt không ?

Cô gái trả lời:

- Không.

Văn Thù Sư Lợi nói:

- Đạo không niệm cũng không phân biệt. Thọ, tưởng, hành, thức b́nh đẳng nên đạo cũng b́nh đẳng. Cho nên tôi nói rằng đại tỷ là đạo.

Ư đại tỷ thế nào ? Há có thể thấy sắc ở trong, ngoài, chặng giữa, xanh, vàng, đỏ, trắng, đen, tía, hồng, ở chỗ kia và phương kia không ?

Cô gái trả lời:

- Không.

Văn Thù Sư Lợi nói:

- Đạo cũng không thấy, không ở trong không ở ngoài, không ở chặng giữa, không ở trong tướng hồng tía, không ở chỗ kia, phương kia. V́ sắc đă b́nh đẳng nên Đạo cũng b́nh đẳng. Nên tôi nói rằng đại tỷ là đạo.

Ư đại tỷ thế nào ? Thọ, tưởng, hành, thức có thể thấy ở trong, ngoài, chặng giữa, trong tướng năm màu, phương kia không ?

Cô gái trả lời:

- Không.

Văn Thù Sư Lợi nói:

- Đạo cũng như vậy không ở trong, ở ngoài, chặng giữa và trong năm màu, không kia, không đây cũng không có phương hướng. V́ thọ, tưởng, hành, thức b́nh đẳng nên đạo cũng b́nh đẳng. Nên tôi nói rằng đại tỷ là đạo. Năm ấm như huyễn, hư ngụy, điên đảo, do nhân duyên sanh. Nên đạo cũng như huyễn, là âm thanh giả mượn mà thôi. Huyễn là b́nh đẳng năm ấm b́nh đẳng. Huyễn đă b́nh đẳng th́ đạo cũng b́nh đẳng. Nên tôi nói rằng đại tỷ là đạo. Năm ấm như mộng, không có đầu cuối, đạo cũng như mộng vốn không có xứ sở. V́ mộng b́nh đẳng nên đạo cũng b́nh đẳng. Nên tôi nói rằng đại tỷ là đạo.

Năm ấm giống như sóng nắng do hư dối mà phát sanh nghiệp mê hoặc. Đạo như sóng nắng nên nó là như vậy, không có người tạo tác cũng không có báo ứng. Cho nên năm ấm sóng nắng b́nh đẳng. Sóng nắng đă b́nh đẳng th́ đạo cũng b́nh đẳng. Nên tôi nói rằng đại tỷ là đạo.

Năm ấm như bóng trong gương. Gương không có sở hữu. Đạo cũng như ảnh trong gương không có sở hữu. Do đó mà bóng năm ấm trong gương b́nh đẳng. Bóng trong gương b́nh đẳng nên đạo cũng b́nh đẳng. Nên tôi nói đại tỷ là đạo.

Văn Thù Sư Lợi nói:

- Hăy lắng nghe ! Năm ấm không tạo tác, đạo cũng không tạo tác. Ấm không tự nhiên, đạo cũng không tự nhiên. Ấm không sở hữu, đạo không có chỗ sanh. Năm ấm vô thường, hiểu đạo là vô thường. Năm ấm không an, hiểu đạo là khổ. Năm ấm trống không, không thật, hiểu đạo là trống không. Năm ấm vô ngă, nếu hiểu rơ nghĩa vô ngă th́ đó là đạo. Các ấm tịch nhiên đạm bạc th́ đó là đạo. Các ấm không có người thọ, không có sự thọ đó là đạo. Các ấm không trụ, cũng không có đối tượng để chấp lấy. Không trụ không chấp ấy là đạo. Các ấm không đến cũng không đi, không đến không đi là đạo. V́ có năm ấm nên chấp vào thánh pháp dựa vào âm thanh giả mà nói là Hiền thánh. Nhưng đối với đạo pháp th́ nói ngược lại. Họ đă nói năng nhưng không có ǵ để nói năng. Năm ấm đều không v́ vốn là thanh tịnh. Như Lai hiểu rơ vốn thanh tịnh như vậy mà đắc thành Chánh-giác. Nên tôi nói rằng đại tỷ là đạo.

V́ vậy năm ấm vốn thanh tịnh, đạo cũng vốn thanh tịnh. V́ đạo thanh tịnh nên các pháp thanh tịnh.

Đại tỷ ! Nay các ấm vốn thanh tịnh. Chư Phật Thế Tôn cũng vốn thanh tịnh. Tất cả vốn thanh tịnh là như vậy. Cũng vậy năm ấm của chúng sanh vốn thanh tịnh. Nên tôi nói rằng đại tỷ là đạo.

Đă hiểu rơ năm ấm th́ hiểu rơ đạo là đạo của chư Phật. Lại nữa, chư Phật không ĺa năm ấm mới thành Phật đạo. Đạo không ĺa năm ấm, nhưng biết rơ năm ấm nên mới có hiệu là Phật.

Cho nên này đại tỷ ! Nên quán như vầy: Tất cả chúng sanh đều ở trong Đạo. Đạo cũng ở trong tất cả chúng sanh. Đạo không duyên vào lời nói. Cho nên tôi nói rằng đại tỷ là đạo. Năm ấm do ngă mà sanh bốn chủng. Thế nào là bốn ? Đó là Địa, Thủy, Hỏa, Phong.

Địa chủng là không ngă, không người, không thọ, không mạng. V́ Địa chủng b́nh đẳng nên đạo cũng b́nh đẳng. V́ vốn nó không có đối tượng để thọ nên gọi là b́nh đẳng. Thủy chủng b́nh đẳng, đạo cũng cứu cánh, đầu cuối là như vậy. Hỏa chủng b́nh đẳng v́ đạo là cứu cánh đầu cuối không có tỳ vết. Phong chủng b́nh đẳng v́ đầu cuối của đạo không chỗ thấy.

Đại tỷ nên biết ! Nhờ địa chủng này mà Như Lai thành đạo. Thủy, Hỏa, Phong chủng là Chủng của Như Lai. Cũng vậy, Như Lai nhờ đây mà thành đạo. Nếu hiểu rơ địa chủng và nhờ thủy hỏa phong mà được thành Phật. Nên nói rằng đại tỷ là đạo.

Các chủng địa thủy hỏa phong không có tưởng. V́ không có tư tưởng về bốn đại này, cho nên gọi là đạo. V́ thế tôi nói rằng đại tỷ là đạo.

Bốn đại chủng nương nơi ngă mà có nhăn, nhĩ, tỷ, khẩu, ư. Nhăn ấy là không, nên hiểu Nhăn như vậy. Ai phân biệt được cái không đó th́ là đạo. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, khẩu, ư cũng thế. Ư là không, nếu hiểu rơ cái không như vậy th́ đó là đạo. V́ Nhăn trống không nên không biết t́m cầu sắc. V́ sắc là tự nhiên không nên đó là đạo. Nhĩ, tỷ, khẩu, thân, ư cũng thế. V́ ư trống không nên không biết t́m cầu. Các pháp không chấp trước, pháp tự nhiên không, đó là đạo. Nhăn không tiếp nhận sắc, th́ đạo cũng vậy. V́ nhăn không có sắc; lục t́nh cũng thế tất cả không được tiếp nhận. Lại cho rằng đạo không có tâm pháp.

Như vậy này đại tỷ ! Nhăn thức giới đối với sắc giới không có chỗ trụ, với nhăn thức giới và sắc giới th́ đạo không có chỗ trụ. Nhĩ thức giới, tỷ thức giới, khẩu thức giới, thân thức giới, ư thức giới không trụ vào pháp giới, đạo cũng không trụ. Đối với tâm pháp thức giới th́ đạo không tiếp nhận. Do đó đạo và nhăn thức giới là một. Cũng vậy nhĩ, tỷ, khẩu, thân, ư thức giới... th́ đạo và ư thức là một. Nên tôi nói rằng đại tỷ là đạo.

Lại nữa này đại tỷ ! Nếu phân biệt tường tận về nhăn, đó là đạo. Nhăn vốn trống không, thanh tịnh. Nếu hiểu rơ tự nhiên không th́ đó là đạo. Nhĩ, tỷ, khẩu, thân, ư cũng vậy, vốn tự nhiên không. Nếu phân biệt giác ngộ rơ ràng nó vốn thanh tịnh, tự nhiên không, đó là đạo. V́ nhăn tự nhiên không nên không bị nhiễm không kết hận, không xâm hại, khinh khi, trừ bỏ dâm nộ si, đó là đạo. Nhĩ, tỷ, khẩu, thân, ư cũng thế. Ư là tự nhiên, tự nhiên ấy không nhiễm cũng không kết hận, không bị xâm hại, khinh khi, trừ dâm nộ si, đó là đạo. Nhăn không có chủ tể, không có ngă cũng không tiếp nhận. Nhĩ, tỷ, khẩu, thân, ư cũng vậy không có chủ tể, không có ngă và không tiếp nhận. Đạo cũng không có chủ tể, không có ngă và không tiếp nhận.

Lại cho rằng Nhăn không phải pháp nam, không phải pháp nữ. Nếu đă hiểu rơ về đạo không có pháp nam-nữ, không nam không nữ, đó là đạo. Nhĩ, tỷ, khẩu, thân, ư cũng không có pháp nam, không có pháp nữ. Đạo cũng vậy không có pháp nam nữ. Như Lai đă giác ngộ rơ về Nhăn sắc không có nguồn gốc. Nếu hiểu rơ không nguồn gốc th́ đó là đạo. Nhĩ, tỷ, khẩu, thân, ư cũng vậy. Như Lai đă giác ngộ rơ về ư không có nguồn gốc. Nếu giác ngộ rơ như thế th́ đó là đạo. Nên tôi nói rằng đại tỷ là đạo.

Lại nữa, này đại tỷ ! Chính thân ḿnh không có ngă, không ngă, không nhơn, không thọ, không mạng, không h́nh, không ư, không tạo tác, không thọ nhận, không thấy, không nghe, không nắm bắt, không buông xả, không đắc, không biết, th́ đạo cũng không ngă, không nhơn, không thọ, không mạng, không nam, không nữ, không thân, không tạo tác và cũng không chỗ thấy. Lại không có ư thức về sắc thanh hương vị xúc. Dừng chỉ tất cả pháp đó gọi là đạo.

Nay đại tỷ mờ mịt không trí, thân tà ở hiện tại. Giống như cây cỏ tường vách gạch ngói. Với địa chủng bên trong và địa chủng bên ngoài, Như Lai dùng trí huệ thông đạt rốt ráo. Nếu hiểu địa chủng ấy th́ đạt thành Chánh-giác. Cho nên tôi nói đại tỷ là đạo.

Này đại tỷ ! Các tưởng niệm của tâm ư thức ấy do tâm sai sử ư mà có pháp này. Nhưng pháp này không đến không đi. Thân không chỗ đến, giáo pháp không có chỗ đạt, không có nước dăi, không có gân mạch, không xương cốt lông tóc, không ở năo, không ở tủy, không ở trong, không ở ngoài. V́ nhăn không (chỗ) trụ nên nhĩ, tỷ, khẩu, thân, ư cũng không trụ, không có chỗ trụ, chẳng phải không trụ; không kiến lập cũng không ĺa sự kiến lập; không có xứ sở, không có đất đai, không có phương hướng, không sắc không thấy, không trao không nhận, không sai sử, không dạy bảo, không bỏ ra, không nắm vào, thanh tịnh, lắng trong đó là hiển bày. Tâm thức ấy cũng không tham trước, không thanh tịnh, không dính bụi trần, bổn tế thanh tịnh. V́ thế không tham trước không thanh tịnh. C̣n như hiển bày th́ liền có thân, v́ thế cũng không tham trước, không thanh tịnh.

Này đại tỷ ! Các nhập và ấm chủng tự nhiên là đạo. Đạo cũng tự nhiên hiểu rơ phân biệt các nhập và ấm chủng. Nếu chính ḿnh có thể diệt trừ các nhập và ấm chủng th́ đó là đạo. V́ sao ? V́ Đạo không lo buồn, không bị nguy hại. Nếu hiểu rơ như vậy th́ gọi là Đạo. Giác ngộ rơ ràng tất cả các pháp b́nh đẳng th́ đó gọi là đạo.

Khi Văn Thù Sư Lợi nói pháp này ở vườn Du-quán th́ ở giữa hư không có 500 thiên tử đều phát tâm Vô Thượng Chánh Giác. Đi theo Thượng Kim Quang Thủ có nam nữ lớn nhỏ. Trong đó có 200 người phát tâm đại đạo. 60 vị trời và người xa ĺa trần cấu chứng Pháp nhăn tịnh.

Bấy giờ, Thượng Kim Quang Thủ rất vui mừng, đặt năm vóc lạy sát đất cúi đầu dưới chân Văn Thù Sư Lợi qui y Phật-Pháp-Tăng, tịnh tu phạm hạnh, giữ ǵn năm giới, tâm ngay thẳng phát tâm đạo Vô-thượng-chánh-chơn và nói rằng:

- Con xin vâng làm theo những ǵ Ngài dạy. Xin Văn Thù Sư Lợi thương xót tất cả chúng sanh, không làm đứt đoạn giáo pháp của Phật. Nếu ai phát tâm đạo lớn th́ cũng nên biết như vầy. Đạo được kiến lập ra là để thi hành pháp thí, giáo hóa dân chúng. Lại giảng pháp để rửa sạch nghiệp tội cấu ác, khiến họ được thanh tịnh, th́ tất cả pháp mới được tịch nhiên đạm bạc. Mặc dầu theo sự suy nghĩ nhưng vốn nó không khác. Tự tham đắm lấy thân mà làm những việc điên đảo, không hiểu rơ sự b́nh đẳng để rồi tập theo sắc dục. Dục từ thân phát sanh. V́ dục mà chúng sanh có trần lao.

Thưa Văn Thù Sư Lợi ! Tất cả các pháp và phi pháp vốn thanh tịnh, v́ mê hoặc giả hợp, do nhân duyên hội họp mà có tham dục. Tôi có thể thâu nhiếp tất cả pháp kiến lập vào đạo Vô-thượng-chánh-chơn. V́ sao ? V́ tất cả trần lao do tư tưởng hư ngụy mà có. Ai có thể hiểu biết rơ về hư ngụy th́ có thể diệt trừ sự hư ngụy. Lại nghe Văn Thù Sư Lợi giảng nói phân biệt vấn đề phát sanh trần dục. Nó ví như mây, sương móc tự nhiên không thật. Dục như điện chớp xẹt đó rồi biến mất. Dục như gió xét đầu đến cuối không dính vào đâu. Dục như hư không dung nạp tất cả cơi. Dục như bọt nước không đứng lâu dài. Dục như quỉ biến hóa với niệm bất chánh. Dục như bệnh sốt bị hoảng hốt nói bậy bạ. Dục không thật, nó duyên vào vọng tưởng mà sanh. V́ dục như sợi dây trói buộc chấp có ngă. V́ dục không có h́nh thể nên chấp trước thân. V́ dục như khaùch đến, không có chỗ xuất phát. Dục như huyễn, nó chỉ theo ư tưởng nhớ nghĩ của chúng sanh. Dục như tấm gương do nhiều loại phát sanh ra. Dục không có chỗ sanh chỉ do tham muốn sanh ra. Dục không có sự biết, từ đó mà ngă sanh. Dục được phát sanh là nhờ các ấm. Dục giới như bụi lửa do ư cảnh mà có. Dục như các ấm v́ nhờ các nhập. Dục như bóng v́ là sắc giả danh. Dục không hiểu biết v́ trái chánh niệm.

Thưa Văn Thù Sư Lợi ! Xét dục như vậy, nếu hiểu rơ sự nhàm chán ấy th́ có thể biết đạo. V́ sao ? V́ đạo không động chuyển trần lao của chúng sanh. V́ dục như bị phá hoại nên phân biệt rơ về đạo. V́ dục là tâm, nên hiểu rơ. V́ dục như đàn cầm nên hiểu rơ. V́ sao ? V́ đạo không hoại dục trần không hoại tức là thuận với đạo. Ai thấy được dục th́ đó là đạo. V́ sao ? V́ dục đi vào các cơi, không chỗ nào mà nó không đến. Giả sử Phật thừa không có sở hữu, không có h́nh tướng th́ dục trần lao cũng vậy không có h́nh tướng. Đối với các hữu dục không có sở hữu, trụ mà không có chỗ trụ. Vừa phát sanh th́ diệt ngay. Tâm như vậy nên trần lao cũng vậy. V́ sao ? V́ tâm không thể quán sát. Nếu nói ra tức là tâm bị kết chặt vào nhiễm si. Nếu tâm ấy không có thể thấy th́ dục trần lao cũng không thể thấy. V́ không có chỗ chứa giữ, không có phương hướng.

Bồ tát đại sĩ ! Nếu đă hiểu rơ pháp trần lao th́ nên v́ người tham dục mà giảng giải pháp để họ không nhàm chán. Nếu giáo hóa cho những kẻ ngu si và mọi tầng lớp người th́ nên hướng dẫn khuyến khích, giảng pháp không mệt mỏi uể oải.

Thưa Văn Thù Sư Lợi ! Như thân tôi tham muốn các dục cũng như thế. Nếu tôi sân giận và ngu si th́ tất cả việc sân giận và ngu si cũng như vậy. Tôi có trần lao th́ chúng sanh cũng có trần lao. Như lửa dữ thiêu trụi cây cỏ, th́ lửa trí huệ của Hiền thánh cũng thiêu cháy trụi trần lao.

Ví như ánh sáng mặt trời chiếu sáng chỗ tối tăm nhưng không hợp với tối tăm. Cũng vậy, huệ của bậc Thánh đẩy lùi trần lao nhưng không hợp với trần lao.

Ví như ngọn gió đi qua không bị vướng víu bởi núi non cây cỏ. Cũng vậy, trí hạnh của Bồ tát không vướng mắc vào tất cả dục của trần lao.

Ví như kiếp tận thiêu cháy các h́nh thể nhưng không thể đốt cháy hư không. Cũng vậy, huệ hạnh của Bồ tát thiêu cháy các ái dục, không ḥa hợp với tất cả trần lao.

Ví như nước trong sạch không ḥa với ô uế. Cũng vậy Bồ tát không ḥa hợp với trần lao.

Ví như hư không giữ ǵn trái đất. Cũng vậy, trí huệ không ḥa hợp xen tạp với dục.

Ví như gió lớn phá hoại núi Thiết vi. Cũng vậy, Bồ tát dùng gió trí huệ thổi tan các dục.

Ví như có con tượng tên Cứu Diệm Khí dùng sữa và nước ḥa nhau thành một. Cũng vậy, Bồ tát dùng trí huệ của bậc Thánh diệt trần lao, giáo hóa họ cho sáng suốt để hợp thành một huệ.

 Ví như thiên hạ và người thân quen ở phía Bắc núi Tu di không phóng dật, ngồi dưới gốc cây suy nghĩ. Cũng vậy, Bồ tát dùng sự sáng suốt của trí huệ thấy và phân biệt căn cơ của chúng sanh.

Thưa Văn Thù Sư Lợi ! Tôi nay không sợ dục trần và cũng không bị trở ngại. V́ sao ? V́ tôi hiểu dục trần vốn thanh tịnh. Lại mặc áo giáp đức lớn của Bồ tát dũng mănh tinh tấn, không bị chướng ngại.

Ví như người khiếp sợ mong có ai cứu giúp. Hạng người này không cho là dơng mănh. Bồ tát đại sĩ cũng vậy, nếu ĺa dục không phải là Bồ tát.

Ví như người bị giặc phá hoại, không cho đó là dơng tướng. Cũng vậy, Bồ tát phá hoại ái dục không phải là Bồ tát.

Ví như người muốn lấy nước trong sạch, th́ bỏ viên minh châu vào trong sông dục dơ, nước liền trong ngay, không bị bùn dơ làm ô nhiễm. Cũng vậy, Bồ tát ở trong trần lao ái dục mà không bị ô nhiễm một tỳ vết nào cả.

Sau khi nói vậy, Thượng Kim Quang Thủ xoay lại hỏi Văn Thù Sư Lợi:

- Sao gọi là Bồ tát không có trần lao ? 

Văn Thù Sư Lợi trả lời:

- Nếu Bồ tát c̣n thấy ư sanh hay ư diệt th́ không gọi là Bồ tát. Ví như người hữu hạn mà xem bao quát th́ không gọi là đạt vô lượng. Cũng vậy, nếu Bồ tát thấy trần lao mà tâm có sanh diệt th́ chẳng phải là Bồ tát vô trần. Vô trần dục là không thấy hữu trần, không thấy kết hận, không thấy chẳng thấy, xa ĺa tưởng niệm mới gọi là vô trần. Nếu tâm ư thức của hành giả được tự tại th́ tất cả không có ư tưởng về Nê hoàn. V́ sao ? V́ không có sự duyên vào tưởng niệm của dục trần th́ mới được tự tại. Cũng vậy, đối với những thiện ác, sở hành vô hành, hữu vi vô vi, hữu h́nh vô h́nh... tất cả đều biết rất rơ. Sanh tử trần lao là cấu hữu dư. Mắt quán sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc vật, tâm tiếp pháp. Nếu ư chí được định trong tĩnh lặng th́ đối với ái dục không cấu uế. Như thế mới gọi là không phóng dật, hiệu là vô nghiệp. V́ không có ǵ để tu tập nên nói như vậy. Vô trần lao là ĺa hữu vi và vô vi, chính là không bị tỳ vết.

Này đại tỷ ! Nếu Bồ tát không có trần lao th́ có thể làm thoát khỏi những cấu dục cho người. Như Lai nói như vậy là không có trần lao, cứu vớt dục trần cho người khác, tu tập theo Bồ tát, đó mới là tinh tấn.

Cô gái là hỏi:

- Sao gọi là Bồ tát hiện tại tinh tấn ?

Văn Thù Sư Lợi trả lời:

- Quán không không thối chuyển, nên sanh ḷng thương xót những chúng sanh tà kiến. Quán vô tướng không thối chuyển nên thương xót cứu giúp những chúng sanh hữu tướng. Quán vô nguyện không thối chuyển nên thương xót cứu giúp những chúng sanh tham nguyện. Quán vô sở hành không thối chuyển nên thương xót cứu giúp những chúng sanh chấp vào việc làm. Quán vô sở sanh không thối chuyển nên thương xót cứu giúp chúng sanh trong sanh tử. Quán vô sở khởi không thối chuyển nên thương xót cứu giúp chúng sanh khởi diệt. Quán Thanh Văn thừa đạt quả Thanh Văn khiến không thối chuyển. Quán Duyên Giác thừa đạt quả Duyên Giác không thối chuyển. Quán Bồ tát thừa th́ thương xót tất cả quần sanh. Đó là sự tinh tấn mà Bồ tát tu tập hạnh b́nh đẳng.

Ví như người vào đại hải, phải đi rất xa rất xa mới lấy được châu báu. Cũng vậy, này đại tỷ ! Hăy quán sát cho thật kỹ là quán cho đúng về không, vô tướng, vô nguyện, vô sở hành, không sanh, không khởi, thừa Thanh Văn, thừa Duyên Giác để cho người khó tiến làm cho tiến lên đạt Bất thối chuyển, đó mới ĺa nhân duyên.

Lại như có người vào giữa trận chiến khốc liệt khiến khó tiến lên, nhưng lại cố gắng phấn chấn hăng hái xông lên không bị  hại, đó mới là khó. Cũng vậy, này đại tỷ ! Quán sát đúng đắn ba môn giải thoát, không mất thiện quyền th́ cái khó ấy cũng thế.

Cô gái hỏi:

- Sao gọi Bồ tát là quyền phương tiện ?

Văn Thù Sư Lợi trả lời:

- Quyền phương tiện là biết thời tiết không lo sợ bộ phận sanh tử, kết bạn Nê hoàn, quyền phương tiện là môn sanh tử, môn Nê hoàn, môn không vô, môn sở kiến, môn vô tướng, môn vô nguyện, môn sở tưởng, môn vô sở hành, môn đạo hạnh, bổn đức tinh tấn, môn vô sở xuất, môn đời hiện tại, môn vô sở lập, môn ấm chủng các nhập không chỗ phát sanh, môn không chỗ diệt, môn vô sở hành, môn đạm bạc, môn giáo hóa chỉ dạy chúng sanh, môn pháp giới, môn hộ tŕ chánh pháp, môn Thanh Văn, môn Duyên Giác, môn nói đạo Phật, môn độ đạo Phật. Nếu ai làm cho Bồ tát thấy môn sợ hăi mà không chấp trước vào các môn, đó gọi là thiện quyền phương tiện. Nói tóm lại, môn tham dục ĺa các ái; môn sân giận là ĺa kết hận; môn ngu si là ĺa si mê không sáng suốt; môn trần lao ĺa uế trược; môn các nẽo là không qua lại. Đó là quyền phương tiện của Bồ tát. Cho đến tất cả hành môn của phàm phu ngu si, môn học, vô học, Duyên Giác, Bồ tát, Như Lai, nếu ai có thể hiểu rơ các môn đó th́ gọi là thiện quyền phương tiện.

Bấy giờ đức Thế Tôn tản bộ đi kinh hành bên bờ suối của núi Linh Thứu, lúc đó có thị giả là hiền giả A-nan đi theo. Thế rồi Thế Tôn bèn khen ngợi:

- Lành thay ! Lành thay ! Văn Thù Sư Lợi ! Đó là Bồ tát tu tập hạnh tinh tấn b́nh đẳng, ngay hiện tại có thiện quyền phương tiện. Đúng như những ǵ thầy ấy đă nói.

Lúc đó tiếng lành thay này được vang khắp ba ngàn thế giới. AÂm thanh ấy chấn động sáu cách. Nghe âm thanh này có vô số trời rồng quỉ thần, Càn-đạp-ḥa, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc, nhơn phi nhơn, Thích phạm, Tứ thiên vương đều nhận sắc lệnh đến chỗ Phật, cúi đầu lạy sát chân Phật và lùi đứng qua một bên, rồi bạch Phật:

- Vừa rồi Đại Thánh đă khen ngợi ai vậy, làm cho cả tam thiên đều được nghe và đại thiên chấn động sáu cách ?

Thế Tôn dạy:

- Thiên tử muốn biết ư ? Đó là Ta khen ngợi sự giáo hóa của Văn Thù Sư Lợi đấy.

Thiên tử hỏi:

- Bây giờ Văn Thù Sư Lợi đang giáo hóa ở đâu ?

Phật dạy:

- Ở ngă tư trong cửa Đông thành Vương-xá, ông ta đang giảng nói Kinh pháp và bàn luận những hướng đi cho Thượng Kim Quang Thủ. Các Thiên tử hăy đến đó để nghe pháp.

Khi ấy, trời rồng, Càn-đạp-ḥa, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc, nhơn và phi nhơn, Thích phạm, Tứ thiên vương đều vâng lời và cùng nhau đến chỗ Văn Thù Sư Lợi hiện nửa thân và mưa hoa trời ngập cả đại thành Vương-xá. Ngay lúc này, mặc dầu chư thiên thấy (gặp) người người thấy (gặp) chư thiên nhưng tất cả đều an ổn, không ai tranh giành ồn ào. Hàng ngàn người trong thành Vương-xá nhặt hoa của Chư Thiên rải đem đến chỗ Văn Thù Sư Lợi.

Vua A-xà-thế cùng 4 bộ chúng hậu cung thể nữ, đại thần, bách quan, các vua nhỏ đều đi đến chỗ Văn Thù Sư Lợi. Thấy Thượng Kim Quang Thủ với oai dung rực rỡ, các căn điềm tĩnh, các tôn giả, trưởng giả tử, thái tử, quần thần phá tan các trần lao, ĺa điên đảo, trang hoàng thân bằng đức thù diệu và không c̣n dấy lên những ư tưởng tham dục.

Văn Thù Sư Lợi nói với Thượng Kim Quang Thủ:

- Hôm nay mọi người đến đây hội họp, v́ nguyên do nào mà không c̣n nhiễm trước vậy ? Trước đây bị trần dục sao bây giờ được an lạc tự tại ?

Cô gái thưa Văn Thù Sư Lợi:

- Dục trần lao của tất cả chúng sanh được kiến lập nơi ư chí trí huệ thoát bổn tế, trụ vào vô bổn của pháp giới. Vô bổn là như vậy không có sai khác, không sanh không diệt cũng không có xứ sở. Dục trần ấy là bổn tịnh, phân biệt b́nh đẳng.

Văn Thù hỏi:

- Sao nói dục trần là bổn tịnh ?

Cô gái trả lời:

- Vô tưởng bất tưởng, vô ứng bất ứng, nên dục trần này là bổn tịnh. Tuy dục trần tùy thuận với hành nhưng không sanh khởi đó là bổn tịnh. Nên biết rằng dục trần là khách qua lại, hiểu rơ không huệ ở chung một nhà với đạo. Huệ vô tướng, huệ vô nguyện, minh của bổn tịnh đều ở chung với nhau, quán sát pháp này đều là vô sở hữu. Ví như con rắn ngậm độc hại người. Nếu có người mang đến thuốc hay th́ có thể làm trừ đi chất độc. Được thuốc, chất độc rắn không c̣n nữa. Biết rắn không c̣n khí độc, trai gái lớn nhỏ cùng đùa giỡn quấn nó trong chân mà không bị hại và cũng không bị nọc độc cắn người. Người như vậy vốn chưa từng nghe pháp luật, nghĩ đến những việc không thích hợp nên bị điên đảo, ở trong trần dục bị thiêu đốt. Tự ḿnh tham dục ch́m đắm vào sắc đẹp. Đă quán rơ sắc như đống bọt th́ biết thân pháp giống như huyễn hóa. Biết rơ sự vui thú giống như mộng, hiểu rơ ái dục như bọt nước. Mạng người như sương mai, vạn vật đều vô thường. Hiểu rơ các ấm như năo hoạn, biết thân bất tịnh đều qui về không. Quán tất cả pháp đều vô ngă. Suy nghĩ đúng đắn từ gốc đến ngọn đều là hư vọng, không hủy báng người khác, không tự khen ḿnh, cũng không tự trói buộc ḿnh hay trói buộc người khác. Hôm nay được nghe ngài giảng pháp, tôi đă tin ưa và được giải thoát. Cho nên mắt thấy mà không bị đắm nhiễm. V́ sao ? V́ theo những việc cần làm ở trong trần lao mà Ngài đă nói th́ trần không có dục cấu, vậy ai bị dục cấu ?

Thượng Kim Quang Thủ thưa Văn Thù Sư Lợi:

- Tất cả chư thiên, nhân dân trong đại hội sẽ không lo sợ, v́ họ suy nghĩ đúng như pháp đă giảng. Nay chư thiên hiểu rơ dục trần vốn thanh tịnh, vậy nên thương xót tất cả để họ phát tâm Vô-thượng-chánh-chơn.

Văn Thù Sư Lợi nói:

- Tuy dục trần vốn thanh tịnh nhưng người tin ưa rất ít. V́ sao ? V́ họ không hiểu. Nếu giác ngộ trần là thanh tịnh th́ được thành đạo rồi. Ví như không có lửa th́ không thể thiêu cháy người. Cũng vậy nên biết rằng: niệm vô tưởng th́ không c̣n chấp ngă, ví như làm lửa bùøng cháy rồi tự thiêu đốt ḿnh. Như vậy nên biết ! Do những ư niệm thuộc vọng tưởng và tham dục trần lao mà tạo ra thân sanh tử. Giống như củi sanh ra lửa, rồi ngọn lửa cháy bùng lên. Như vậy nên biết một khi tà kiến điên đảo phát sanh th́ ba cơi trần lao bị thiêu đốt. Cũng như sau khi lửa đă được dập tắt th́ không c̣n ánh sáng của ngọn lửa. Như vậy nên biết điên đảo đă được ngưng lại th́ trần lao không c̣n phát sanh, tức là ở trong ba cơi mà không có dính bụi dơ. Cũng như lửa đă dập tắt trăm ngàn năm con người không nghi ngờ lo sợ khói tro tàn. Như vậy nên biết qua nhiều kiếp tập theo dơ uế của dục trần. Nhưng nếu đă quán rơ ràng nó rồi th́ không c̣n ǵ cất giữ nữa, ví như lửa đă dập tắt ráo không c̣n tác dụng nữa. Nếu minh huệ tĩnh lặng th́ trần lao không phát sanh. Như lửa trong thân nóng ấm, mặc dầu nó có đầy trong thân nhưng không bị cháy. Như vậy xét thấy tâm ấy vốn thanh tịnh sáng suốt vời vợi. Dù khách trần muốn nổi lên nhưng không bao giờ làm ô nhiễm nguồn tâm.

Khi ấy Văn Thù Sư Lợi hỏi cô gái:

- Phải quán sắc thân như thế nào ?

Cô gái trả lời:

- Như bóng trăng trong nước.

Văn Thù hỏi:

- Quán thân năm ấm như thế nào ?

Cô gái trả lời:

- Như hóa Như Lai mà không hóa.

Văn Thù hỏi:

- Quán các chủng như thế nào ?

Cô gái trả lời:

- Như thủy giới, hỏa giới.

Văn Thù hỏi:

- Nên quán các nhập như thế nào ?

Cô gái trả lời:

- Như những hành động về tội phước mà không có nhơn duyên.

Văn Thù hỏi:

- Làm thế nào để quán các hội này ?

Cô gái trả lời:

- Làm chiếu diệu tâm tánh của người trong hội.

Văn Thù hỏi:

- Quán trở lại thân như thế nào ?

Cô gái trả lời:

- Giống như cha mẹ của ḿnh, xem b́nh đẳng không có hai.

Lại hỏi:

- Quán thân như thế nào ?

Trả lời:

- Giống như người mù không thấy các màu sắc.

Lại hỏi:

- Từng nghe pháp này như thế nào ?

Trả lời:

- Đă nghe pháp ấy như nghe việc thầy ảo thuật hóa người.

Lại hỏi:

- Thế nào ? Chẳng lẽ ngươi v́ đạo ấy mà phát tâm đạo Vô thượng Chánh chơn sao ?

Trả lời:

- Đạo ấy tôi không có chí cầu t́m.

Lại hỏi:

- Làm thế nào để thực hành thí độ vô cực ?

Trả lời:

- Tu tất cả độ để xả bỏ trần lao.

Lại hỏi:

- Làm thế nào để đầy đủ giới độ vô cực ?

Trả lời:

- Làm đầy đủ như hư không.

Lại hỏi:

- Làm thế nào để phụng hành nhẫn nhục ?

Trả lời:

- Tuân hành tất cả, đối với các pháp không sanh không khởi.

Lại hỏi:

- Làm thế nào để hành siêng năng tinh tấn ?

Trả lời:

- Tu hành các pháp không bị ngưng trệ.

Lại hỏi:

- Làm thế nào để kiến lập tịnh độ vô cực ?

Trả lời:

- Kiến lập pháp giới, trụ mà không có chỗ trụ.

Lại hỏi:

- Làm thế nào để đầy đủ trí độ vô cực ?

Trả lời:

- Chí không kiêu mạn, tâm không tự đại.

Lại hỏi:

- Hành từ như thế nào ?

Trả lời:

- Hiểu rơ tất cả chúng sanh đều vô sở hữu.

Lại hỏi:

- Nên cầu Bồ tát đại bi ở đâu ?

Trả lời:

- Nên cầu trong trần lao của chúng sanh. V́ sao ? V́ muốn chế ngự trần lao chúng sanh, Bồ tát đại bi phải phát tâm đạo Vô thượng Chánh Chơn.

Lại hỏi:

- Nên cầu Bồ tát hành hỷ ở đâu ?

Trả lời:

- Tâm ḿnh chân thật, bản tánh thanh tịnh, hóa giải các sầu lo, đó là Bồ tát Hỷ.

Lại hỏi:

- Làm thế nào để đầy đủ Bồ tát hành xả ?

Trả lời:

- Hóa giải trọn vẹn những sự tranh căi đấu tranh của chúng sanh để đưa đến sự ḥa thuận.

Lại hỏi:

- Sao gọi là tranh căi ?

Trả lời:

- Vứt bỏ những việc không thật hư ngụy của trần lao, lập chí vững vàng với đạo Phật.

Lại hỏi:

- Tranh căi với ai ?

Trả lời:

- Với bọn ngoại đạo tà kiến dị học, người không hợp ư.

Lại hỏi:

- Bọn học tà dị làm ǵ ?

Trả lời:

- Thấy người khác hưng thịnh lên ḿnh không nhịn nổi rồi chạy theo họ.

Lại hỏi:

- V́ sao Bồ tát nhẫn nhục lập chí hướng ?

Trả lời:

- V́ giáo hóa tất cả chúng sanh. V́ sao ? V́ nếu không khai mở giáo hóa th́ sao gọi là nhẫn nhục hóa độ chúng sanh. Không sân kết hận, không lo buồn đó là nhẫn nhục.

Lại hỏi:

- Sao gọi là nguy hại ?

Trả lời:

- Tích lũy đức bổn mà làm việc ưu năo đó là nguy hại.

Lại hỏi:

- Sao gọi là vô hại ?

Trả lời:

- Các giới không lo là liêm khiết nhơn nghĩa. Đó gọi là vô hại.

Lại hỏi:

- Sao gọi là Bồ tát chọn lựa chiến đấu ?

Trả lời:

- Chọn lựa các pháp mà không nhận pháp nào cả.

Hỏi:

- Thế nào là Bồ tát chiến thắng ma ?

Trả lời:

- V́ không chấp trước nên không diệt trần lao. V́ sao ? V́ Bồ tát chiến thắng 5 ấm nên không tương ưng với trần lao. Do đó mà Bồ tát chiến thắng ma, dẹp sạch bụi trần, không ô nhiễm vốn thanh tịnh, hiểu rơ rốt ráo các pháp xưa nay, khai hóa chúng sanh, giải trừ hoạn nạn lăo tử. Và nói với thiên tử: Bồ tát Văn Thù đă xa ĺa tất cả trí và các thông huệ tưởng.

Hỏi:

- Bồ tát khai hóa chúng sanh như thế nào ?

Trả lời:

- Chuyên giữ thiện quyền tu hành trí huệ.

Hỏi:

- Bồ tát xây dựng chúng sanh như thế nào ?

Trả lời:

- Xây dựng tâm ḿnh đạt được thánh huệ rồi Bồ tát mới có thể khai hóa tất cả quần sanh.

Hỏi:

- Nay Ngài giảng pháp này, chúng hội đều được tiếp thu tốt chứ ?

Trả lời:

- Chúng hội không được tiếp thu tốt. V́ sao ? V́ c̣n ư tưởng về bỉ thử, ngược lại họ cố xây dựng nơi thức.

Hỏi:

- Làm thế nào để người nghe pháp được một cách hoàn hảo ?

Trả lời:

- Nếu ai tin chính ḿnh như mộng, Kinh pháp vị ấy giảng như thầy huyễn biến hóa ra những âm thanh giả, mà không chấp vào âm thanh ấy và không tạo giải thoát. Có hai việc ấy th́ mới gọi là tiếp thu pháp một cách hoàn hảo.

Hỏi:

- Làm sao để được thọ lănh nghĩa lư của pháp ?

Trả lời:

- Đó là qui mạng pháp của Văn Thù Sư Lợi.

Nhờ oai thần của Văn Thù Sư Lợi đồng chơn đă kiến lập và nhờ trí huệ đă tu tập xưa kia nên Thượng Kim Quang Thủ ở giữa chúng nói pháp rất hợp lư. Một vạn hai ngàn người phát tâm đạo Vô Thượng Chánh Chơn. 500 thiên tử nhờ đă trồng phước đức từ kiếp trước lập chí Bồ tát thừa nên đắc khởi pháp nhẫn. Ba vạn hai ngàn  trời, người xa ĺa các pháp trần cấu đắc pháp nhăn tịnh.

Sau khi nói pháp xong, cô gái rất hân hoan liền đắc Nhu Thuận Pháp Nhẫn và đê đầu lạy sát chân Văn Thù Sư Lợi, thưa:

- Cúi xin đấng Chí Thánh cho con được làm Sa môn. Hăy thương xót cứu thoát những ư niệm không chính đáng, những hành nghiệp của chúng sanh. V́ đó đều chẳng phải là Hiển quán.

Khi ấy Văn Thù Sư Lợi nói:

- Bồ tát không cho rằng bỏ râu tóc của ḿnh là xuất gia. V́ sao ? V́ nếu đoạn trừ trần dục của chúng sanh, để tinh tấn tu hành, đó chính là sự xuất gia của Bồ tát.

Bồ tát không cho rằng tự ḿnh mặc áo ca-sa là xuất gia. V́ ca-sa đời Tấn gọi là Khử uế. Nghĩa là trừ bỏ mọi dơ bẩn dâm nộ si của chúng sanh khiến không c̣n chút tỳ vết, thường thực hành tinh tấn. Đó chính là sự xuất gia của Bồ tát.

Bồ tát không cho rằng tự ḿnh giữ ǵn cấm giới là xuất gia. Mà không những ḿnh giữ ǵn mà c̣n chỉ dạy chúng sanh phải giữ ǵn cẩn thận. Đó chính là hạnh xuất gia của Bồ tát.

Bồ tát không lấy việc ḿnh ở nơi thanh vắng là xuất gia. Nếu có thể kiến lập chúng sanh trong 5 đường vào huệ yên tĩnh. Đó chính là hạnh xuất gia của Bồ tát.

Bồ tát không lấy việc dung mạo, h́nh dung. oai nghi, lễ bái là xuất gia. Mà giáo hóa các lê dân khuyên họ sống với ḷng từ bi đó chính là hạnh xuất gia của Bồ tát.

Bồ tát không cho ḿnh có công đức là xuất gia. Mà khuyên dạy làm thấm nhuần tất cả chúng sanh, vun xới gốc đức. Đó chính là hạnh xuất gia của Bồ tát.

Bồ tát không cho ḿnh đă giải thoát lập chí vào diệt độ là xuất gia. Mà giải thoát tất cả tâm tánh chúng sanh để đạt đến diệt độ. Đó chính là hạnh xuất gia của Bồ tát.

Bồ tát không cho ḿnh trừ trần lao là xuất gia. Mà diệt bỏ tất cả trần lao của chúng sanh, đó chính là hạnh xuất gia của Bồ tát.

Bồ tát không v́ giữ cho riêng thân ḿnh, giữ chặt tâm là xuất gia. Mà phải bảo hộ tâm chí cho tất cả quần manh. Đó chính là hạnh xuất gia của Bồ tát.

Bồ tát không cho tự ḿnh giải thoát là xuất gia. Mà độ thoát tất cả quần manh trong luân hồi. Đó mới là hạnh xuất gia của Bồ tát.

Bồ tát không cho cứu nạn sanh tử của chính ḿnh là xuất gia. Mà độ thoát hết hoạn nạn sanh tử của tất cả chúng sanh. Đó mới là hạnh xuất gia của Bồ tát.

Bồ tát không cho sự thích Nê hoàn là xuất gia. Mà đầy đủ các pháp của chư Phật. Đó chính là hạnh xuất gia của Bồ tát.

Ban bố ḷng từ bi thương xót chúng sanh, không t́m kiếm lỗi người, không nói những lầm lỗi của họ, khen ngợi đức ḷng tin của người, chỉ dạy tín hạnh và đem bố thí cho tất cả. Nghĩa xuất gia là như vậy. Nếu xuất gia nương vào người khác đó là Bồ tát không chỗ nương tựa.

Cô gái hỏi Văn Thù Sư Lợi:

- Sao gọi là xuất gia nương nhờ vào người khác ?

Trả lời:

- Người xuất gia nương tựa vào giới cấm, lại không lấy việc tŕ giới để xuất gia. Ngươi muốn biết điều này nên lập chí vào thiền định không phóng dật. Người xuất gia nương vào huệ, không đi theo với bạn ác, tuân hành môn giải thoát đó là xuất gia. Nếu tâm chưa giải thoát th́ không phải là xuất gia.

Cô lại hỏi:

- Sao gọi là Bồ tát không nương tựa vào người khác ?

Văn Thù trả lời:

- Không tin người nào cả là không nương tựa, cũng không ḍ xét để nh́n nhan sắc người. Có trí huệ ǵ đều do sự nhận định sáng suốt của ḿnh. Những người ấy có đức lạ ǵ đều do đạt được các đại huệ thông không mong cầu ǵ cho bản thân ḿnh. Đây gọi là không dựa vào người khác.

Khi Văn Thù Sư Lợi nói phẩm xuất gia này th́ có 500 Bồ tát cởi trân bảo anh lạc đang đeo nơi thân cúng dường Văn Thù Sư Lợi.

Tất cả đều nói:

- Nghe ngài dạy về giáo lư hoàn hảo việc xuất gia, chúng tôi sẽ nương nơi chánh nghĩa này mà thực hành đầy đủ hạnh xuất gia.

Khi ấy Văn Thù Sư Lợi nói với Thượng Kim Quang Thủ:

- Cô hăy lên xe tứ mă, đem giáo pháp này khai thị giáo hóa cho Úy Gian con trưởng giả. Đó là hạnh xuất gia của ngươi đấy.

Bấy giờ đại chúng đều suy nghĩ: “Chẳng lẽ người c̣n dục và người ly dục ở chung với nhau sao ?”. Biết tâm niệm của đại chúng, cô gái liền giải thích:

- Bồ tát ly dục và chúng sanh c̣n dục đều phát sanh cùng một lúc, chỉ v́ muốn khai thị giáo hóa cho họ sáng suốt.

Bổn tánh là thanh tịnh    

Tham dục không làm dơ

Th́ không c̣n sân giân  

Sanh trí huệ sáng suốt

Đại đức được như vậy  

Rồi sau mới lên xe

Trước đây theo Úy Gian

Huân tập việc phóng dật

Tôi vốn ḷng tham dục

Nay đă được thấu rơ

Các lo sợ khổ nạn

Ham muốn về tiền của

Lên xe đă vứt hết

Nên cất tiếng ca tụng

Ví như trời tối đen

Mưa thấm nhuần đất đai

Mặt trời che cung điện 

Mắt người không thể thấy

Nó sáng rỡ không tối   

Không đoạt mất ánh sáng

Do khách mây tạo ra    

Để ánh sáng không hiện

Người ngu tâm vốn tịnh 

Khách trần cũng như vậy

Do vọng tưởng không hiểu

Che ánh sáng trí huệ

Ánh sáng ấy thông suốt

Không chừa nơi nào cả

Đă vứt bỏ trần lao        

Th́ gọi là trí huệ

Trí huệ không kiêu mạn 

Tâm tịnh không tổn giảm

Suy ra không chỗ đến   

Cũng không đi về đâu

Do niệm không chân chánh

Nên có dục trần lao

Đă nghĩ đúng như pháp 

Khởi mà không chỗ đến

Gọi không có xứ sở      

Và cũng không có diệt

Không bày ra không đoạn        

Cũng không dựa người khác

Vui thay ! Chánh pháp này       

Vi diệu rất thanh tịnh

Ví như cây đèn dầu

Chiếu vào chỗ tối tăm

Người chỗ tối tăm ấy

Không biết đường quay về

Trí huệ cũng như vậy    

Diệt trừ các ngu mờ

Không thấy chỗ trần lao       

Theo ư mà t́m đến

Ví như thầy thuốc giỏi  

Trị liệu các chứng bệnh

Không để thân tăng giảm          

Cũng không cho mất mạng

Bệnh như khách dạo chơi        

Bệnh đó rồi hết ngay

Không c̣n bệnh nào khác      

Không biết chỗ chẩn trị

Thưa Ngài cũng như vậy         

Dùng âm thanh ḥa nhă

Thấy chúng sanh bệnh hoạn     

Dùng nhiều thuốc trị liệu

Phủi dơ cho thanh tịnh   

Hướng đến cửa giải thoát

Có người đă tạo tội      

 Phi pháp không nên nói

Nay 5 ấm như vậy                    

Và với các đại chủng

Suy nhập đă hiển bày    

Vốn không có sai khác

Hạng này ở trước đây   

Có cùng độc sân giận

Nay không có tổn hại    

Và không ǵ thay đổi.

Chư vị nên biết: Bồ tát ĺa sân giận ngu si th́ sống chung với hạng người sân giận ngu si. V́ muốn giáo hóa ban bố ḷng từ và sự sáng suốt. Nếu Bồ tát đă ĺa trần lao th́ cùng sống chung với hạng người tham dục để giáo hóa những kẻ dâm dật. Ví như con người, mẹ con sống chung với nhau nhưng không bị ô nhiễm. Cũng vậy, Bồ tát luôn ở chung với tất cả chúng sanh nhưng không bị ô nhiễm. Ví như người đánh đàn cầm và thầy chú thuật. Mặc dầu tập làm theo sở thích nhưng không thích. Cũng vậy, Bồ tát ở trong tưởng niệm của ba cơi, như thần chú thuật không bị đắm nhiễm.

Khi ấy đă đến đúng thời cơ, Thượng Kim Quang Thủ đă thấu đạt  nghĩa pháp, được sáng suốt ĺa các tối tăm, thấy rơ trần lao khai mở chơn đế, đê đầu lạy sát chân Văn Thù và đi nhiễu ba ṿng rồi lên lại trên xe, nói kệ:

Khi ấy Thượng Kim Quang Thủ cùng đi chung xe với con trưởng giả đến vườn Du-quán thanh tịnh.

Văn Thù Sư Lợi giảng nói kinh điển tất cả chúng hội vui mừng hớn hở, tâm họ khai mở bỗng nhiên bừng sáng và họ đều nói:

- Hăy cùng nhau đến chỗ Như Lai để nghe giảng pháp.

Thế rồi họ rời khỏi Du-quán đến tịnh xá của Phật.

Bấy giờ, Thượng Kim Quang Thủ và Úy Gian con trưởng giả ở vườn Du-quán rải hoa, đốt hương, trang hoàng lộng báu, sắp dọn thức ăn uống, xướng ca hát nhạc cùng nhau vui chơi. Dùng hương bột pha lộn với nhau để làm phấn xoa ướp. Thấy con trưởng giả và ư người trong hội đă hài ḷng, cô gái dùng sức thần thông tự hóa thân của ḿnh lập tức qua đời, nhan sắc biến thành xấu xí ghê gớm giống như người chết. Máu mũ trong tai mắt mũi miệng chảy ra. Thân thể śnh lên nát rữa ra không thể nh́n thấy được nữa. Trong miệng xuất ra mùi hối thối tanh ŕnh. Tất cả lỗ chân lông hở ra. Bụng nứt ra, ngũ tạng ruột mật gan phèo phổi, tủy năo đều chảy tràn lan. Ruồi nhặng bay đến bu xung quanh thân thể.

Thấy cô gái này biến thân như vậy, Úy Gian rất sợ hăi không an, muốn t́m chỗ nào để ḿnh nương tựa thoát khỏi lo sợ. Nay gặp cảnh hăi hùng ghê sợ ấy, nên phải đi đâu để tránh khỏi ưu phiền khủng khiếp ấy. Lại có hai nạn: Người phàm phu thấy các vết dơ về tội lỗi của ḿnh sẽ không làm đế vương. A Xà Thế biết ách hại về mạng ḿnh th́ tất cả quyến thuộc và người trong hội sẽ kinh hăi run sợ. Họ đều nói: Phải t́m ai là trời rồng quỉ thần Nhược-càn-đạp, Sa-môn hay Phạm chí để cứu thoát đại ách. Con trưởng giả kia vốn không có đức, nghe Văn Thù Sư Lợi nói kinh và  đối với những việc nên thi hành th́ ông ta không hiểu rơ.

Nhờ oai thần của Văn Thù Sư Lợi đồng chơn làm cho cây trong vườn tự nhiên phát ra âm thanh khen ngợi rằng:

Những ǵ thiếu niên thấy

Các pháp tự nhiên thế

Ba cơi hư không thật     

Như thầy huyễn biến hóa

Kẻ ngu bị mê hoặc        

Che lấp tâm thân khô

Suy nghĩ hư ngụy ấy      

Kẻ ngu bị ô nhiễm

Nó như cái b́nh đẹp     

Trong chứa đầy bất tịnh

Mà người không phân biệt

Đội trên đầu để đi

Đă biết trong đó có       

Đập bể b́nh sẽ thấy

Bất tịnh chảy tràn ra      

Không ôm nữa bỏ chạy

Người không trí cũng vậy         

 Cứ đắm ch́m sắc nữ

Nh́n thấy tướng h́nh dáng       

  Tư tưởng bị ô nhiễm

Thiếu niên nay nên quán

Sáng tỏ thân như vậy

Người trí không chấp trước      

Tỳ vết hôi thối này

Thiếu niên đừng sợ hăi  

Không nên sợ hư ngụy

Trước đây người đă tạo          

Các pháp vốn như vậy

Thế Tôn hiện nơi đời     

Ban úy không c̣n sợ

Hiệu là Thích Sư Tử     

Giảng nói pháp vi diệu

Ái dục không lâu dài     

Ví như tia chớp điện

Tuy thấy mà không thật 

Người trí không chấp trước

Ví như nước ḍng sông 

Muốn lấy đóng bọt nước

Không có ai làm được  

Cũng không thành báo ứng

Danh sắc cũng như vậy 

Không có người tạo tác

V́ có duyên tội phước  

Nên sanh quả báo ứng

Thiếu niên hăy tự thấy   

Nhan sắc do tụ họp

Bất tịnh từ đâu đến      

 Khiến người phải lo sợ

Pháp này không xứ sở  

Cũng không đi về đâu

Không đi cũng không đến        

Tự nhiên mà hóa hiện

Không có người tạo tác            

Cũng không có người thọ

Pháp tạo không chỗ thọ            

Như huyễn không có h́nh

Phóng đảng với người khác      

 Tuổi nhỏ do đó sợ

Nên tự quán thân ḿnh 

 Cũng giống như hạng ấy

Như vui chơi trong mộng          

 Sung sướng và hớn hở

Những việc thích vui chơi         

 Như vừa tỉnh cơn mộng

Thiếu niên có thể đi      

 Đến với Thích Sư Tử

Thế Tôn đại Thánh nhơn          

 Cứu vớt gốc lo sợ

Dù cho có cha mẹ                     

Quyến thuộc và bạn bè

Không thể nào diệt trừ  

Hoạn nạn này cho người

Chỉ có Phật Thế Tôn     

Mới ban bố vô úy

Hăy đến kính lễ Phật     

Pháp và chúng Đại Thánh

Chư thiên, Kiền-đạp-ḥa          

Nhân dân đều cúi đầu

Xa ĺa tất cả nạn                      

Đạt an ổn lợi lớn.

Nghe bài tụng này con trưởng giả rất vui mừng hớn hở, liền sanh thiện ư rồi đem ḥm áo đựng tử thi của cô gái vứt giữa rừng rồi bỏ đi.

V́ muốn giáo hóa con trưởng giả, từ nơi thân đức Thế Tôn phóng ánh sáng chiếu khắp cơi Ma Kiệt. Thiếu niên trông thấy Như Lai có chúng Tỳ-kheo vây quanh nghe pháp, giống như khi mặt trời mọc đường sá tự nhiên hiện lên đủ sự việc vi diệu vọi vọi, hành lang bằng châu báu và răi các loại hoa. Trời Đế thích đứng phía trước khen ngợi:

- Thiếu niên được lợi ích tốt đẹp được phước đức vui vẻ nên phát tâm và an vui, thấy Như Lai với thân Phật cụ túc. Người như vậy trở về con đường chân chánh, muốn thấy ánh sáng và dung mạo Như Lai, nên phát sanh hạnh như thế.

Nghe họ khen ngợi, thiếu niên cùng trời Đế Thích đến chỗ Phật. Đế thích đem hoa ư trời đưa thiếu niên và nói:

- Hăy đem hoa này răi cúng dường Thế Tôn.

Thiếu niên liền lấy hoa rải cúng dường Thế Tôn và đê đầu sát chân Phật rồi đi nhiễu ba ṿng, thưa:

- Con nay xin qui y Phật, Pháp và Thánh chúng, con xin Ngài khuyến hóa giúp đỡ đạo Vô Thượng Chánh Chơn. Kính thưa Đại Thánh ! Có dâm nữ tên Thượng Kim Quang Thủ cô này người trong quận huyện châu thành ai đều biết. Cô đang vui chơi nơi vườn Du-quán th́ hôm nay nhan sắc tự nhiên biến đổi ghê gớm rồi qua đời, ĺa bỏ tất cả ḍng họ quyến thuộc thật đáng sợ hăi, không quốc vương nào t́m đến hỏi cả.

Phật nói:

- Thôi, thôi ! V́ tham dục nên có sợ hăi. Ta sẽ ban úy hết nạn lo sợ. Người qui y Phật không nên sợ hăi. Nếu có sợ hăi th́ phải đoạn trừ tận gốc của nó.

Thiếu niên hỏi:

- Do đâu mà lo sợ ?

Thế Tôn dạy:

- Do dâm nộ si mà có sợ hăi. Do chấp ngă mà kiêu mạn tự đại và thấy điên đảo hợp ân ái, chấp ngă có thật và chuyển tham ái đưa đến đấu tranh. Tự thấy thân ḿnh bị trói chặt, vô thường tưởng là thường, khổ tưởng là lạc, không thân tưởng có thân, không kiến tưởng là thật, nhận lấy 5 ấm để tạo nghiệp, quán 4 đại chủng v́ t́m cầu các nhập có xứ sở, không thấy rơ thọ mạng và sự an nhàn của thân. Do đó mà đưa đến sự lo sợ, hăy vứt những ư ấy đi. Ngươi có thấy thân hư hoại vữa nát của cô gái ấy không ?

Thiếu niên thưa:

- Con đă thấy.

Phật dạy:

- Này thiếu niên ! Tất cả các pháp đều sẽ biệt ly, là pháp khổ hoạn không thường c̣n. Sự ngu si tham lam cũng không lâu dài, thành tựu rồi cũng tan hoại, báo ứng tội phước th́ nguy hiểm nhiều an lạc ít. Sắc như huyễn hóa, như mộng,  như bị sóng nắng làm mê hoặc.   Sắc  như  bóng  chiếu  vụt qua, ví như bóng trong gương do nhân duyên hội họp mà có báo ứng tội phước rồi diệt mất. Như trăng trong nước thành đó rồi hoại đó. Như âm thanh không nói năng gặp duyên th́ nó vang. Như đi trong bóng mát bỗng chốc liền mất. Như co tay lại rồi duỗi tay. Tất cả đều do bổn tịnh sanh khởi tự do. Như gió không giữ lại được là hư ngụy không thật, không có ǵ phải hoảng hốt v́ nó là hư ngụy. Theo ư mà đặt tên và nhờ nhân duyên tụ hội là mà thành. Tất cả các pháp không có chủ tể, nên chớ tham đắm vào nó. Ư của thiếu niên thế nào ? Do thói tham dục rồi sanh tư tưởng sao ?

Thiếu niên trả lời:

- Bạch Thế Tôn ! Kẻ phàm phu ngu si nghĩ đến dung mạo đẹp đẽ xinh xắn rồi khởi lên ḷng tham dục. Đối với nghĩa kinh giáo pháp th́ thấy có tỳ vết không ưa thích. Nếu không suy nghĩ chính chắn chơn thật th́ tập theo tham dục chạy theo buông lung.

Phật dạy:

- Lành thay ! Thiếu niên nói rất đúng. Tâm tánh của thói tham dục là như vậy. Hăy bỏ tư tưởng tà vạy, suy nghĩ điều chân chánh rồi tu tập theo nghiệp ấy, đừng tạo nghiệp tà nữa, ĺa Ngă kiến rồi, nên quán nó đều b́nh đẳng.

Thiếu niên hỏi:

- Sao gọi là Bồ tát tư duy đúng đắn các pháp ?

Phật dạy:

- Này thiếu niên ! Nếu tư duy phân biệt tham dục, sân giận, ngu si và các trần lao vốn đều thanh tịnh, đó là Bồ tát cầu Phật đạo. Ví như thiếu niên là một vật hữu h́nh rồi dâm nộ si. Bồ tát cũng vậy, hiểu rơ tất cả, phân biệt rơ các pháp, sinh hoạt tự tại. V́ ba độc đó không có nguồn gốc cũng không có chỗ trụ. Giống như nhà không có chủ, trong nhà vắng tanh trống rỗng. Do ĺa ngă, nhơn, thọ mạng nên không c̣n vọng tưởng. Người nào không chấp vào ư niệm tức là đă diệt trừ sự chấp trước rồi. V́ bỏ sự chấp trước nên vô nguyện, tâm chí đă được hỷ lạc, th́ ân ái cũng đều tiêu trừ, không có các hành và cũng không có tạo tác. Tánh dâm nộ si vốn thanh tịnh. Bồ tát cũng vậy, do hiểu rơ tất cả pháp nên được tự tại. Nếu Bồ tát học đúng các pháp th́ phát tâm đều là đạo. V́ sao ? V́ nếu hiểu rơ tâm ḿnh th́ hiểu rơ tâm Như. Biết rơ phân biệt tất cả pháp không có sắc không có h́nh th́ không chỉ dạy, tự nhiên như huyễn, do trong ngoài nương tựa vào nhau, đó cũng là đạo. V́ Bồ tát không có đạo nào khác nên phải thi hành để tự hiểu tâm. V́ sao ? V́ nếu hiểu rơ tâm ḿnh th́ có thể hiểu biết tâm tất cả chúng sanh. Tâm ḿnh tĩnh lặng th́ tâm chúng sanh điềm nhiên. Tâm ḿnh vốn thanh tịnh th́ tâm chúng sanh cũng thanh tịnh. Tâm ḿnh thanh khiết, tâm chúng sanh cũng thanh khiết, tâm ḿnh ly dục th́ tâm chúng sanh cũng ly dục. Tâm ḿnh không sân giận th́ tâm chúng sanh cũng không sân giận. Tâm ḿnh không si th́ tâm chúng sanh cũng sáng suốt không si. Tâm ḿnh không có trần cấu th́ tâm chúng sanh cũng không có bụi dơ. Nếu ai hiểu rơ việc như vậy th́ đó là hiểu biết thông suốt với Nhất thiết trí. Ai tu hành đúng như vậy đó là Bồ tát. Gần với bổn tịnh th́ biết tâm niệm của tất cả chúng sanh. Giả sử có những sự ưa thích bị khách vọng tưởng trần lao dựa vào tâm để làm ô uế th́ không nên nhàm chán mà phải tu hành bằng pháp quán. Nếu có người hiểu rơ đúng đắn th́ khách vọng tưởng trần lao không c̣n trần lao nữa.

Sau khi đức Phật nói vậy xong, Úy Gian con trưởng giả đắc được Nhu Thuận Pháp Nhẫn.

Thấy con trưởng giả được khai hóa thuận theo giáo nghĩa, Thượng Kim Quang Thủ cùng 500 ngọc nữ đánh đàn trời trỗi lên các âm nhạc, đến chỗ Phật lễ lạy sát chân Ngài đi nhiễu ba ṿng rồi lui qua một bên.

 Bấy giờ, Văn Thù Sư Lợi nói với Úy Gian:

- Ông biết cô này không ?

Ông trả lời:

- Biết.

Văn Thù hỏi:

- Biết thế nào ?

Khi ấy Úy Gian thưa Văn Thù Bồ tát bằng kệ:

Sắc như đống bọt nước            

Thọ như bong bóng nước

Biết tưởng như sóng nắng         

Tôi hiểu biết như vậy

Hành rỗng như cây chuối         

Thức giống như huyễn hóa

Danh hiệu mượn khách trần      

 Tôi hiểu biết như vậy     

Thân không đáng tham trước    

 Như cỏ cây tường vách

Tâm ấy không thể thấy            

Tôi hiểu biết như vậy

Nó không ngă không nhơn       

 Không thọ cũng không mạng

Thân do các chủng thành

Tôi hiểu biết như vậy

Không có dâm nộ ấy

 Ngu si không chỗ trụ

Thanh tịnh không trần lao

Tôi hiểu biết như vậy

Kẻ ngu bị mê hoặc

 Nghĩ ngược v́ điên đảo

Người trí không đắm nhiễm      

 Tôi hiểu biết như vậy

Giống như giữa rừng cây

 Thân cô gái hôi thối

Sắc ấy là như thế

Tôi hiểu biết như vậy

Vốn không có đời sau

 Quá khứ và hiện tại

Sanh khởi không sở hữu

 Tôi hiểu biết như vậy

Thưa Ngài hăy lắng nghe

 Pháp chơn thật giải thoát

Th́ tránh khỏi vết dơ

 Không c̣n lui tới nữa

Không đầu cũng không cuối

Hiện ở trong sanh tử.

Giáo hóa cho chúng sanh

Ai không phát tâm đạo

Như tôi tham dâm nhuế 

Các trần lao bất chánh

Các pháp không nguồn gốc

Lành thay ! Kinh giải thoát.

Thế rồi, Thế Tôn ứng thời mà cười, trong miệng phát ra ánh sáng 5 màu. Hiền giả A-nan đứng dậy sửa pháp phục, gối phải sát đất chắp tay thưa:

- Bạch Thế Tôn ! V́ sao Ngài cười ? Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác chưa từng cười suông, mà chắc chắn phải có lư do ?

Phật dạy:

- Này A-nan ! Ông có thấy Thượng Kim Quang Thủ không ?

A-nan thưa:

- Thưa Thiên Trung Thiên ! Con đă thấy !

Phật dạy:

- Này A-nan ! Vào thời quá khứ xa xưa, Văn Thù Sư Lợi đă khuyến hóa cô gái này phát tâm đạo. Nay cô ta trở lại nghe pháp liền đạt được Nhu Thuận Pháp Nhẫn. Ông có thấy con trưởng giả kia không ?

A-nan thưa:

- Thưa đă thấy !

 Phật dạy:

- Này A-nan ! Đời trước ta vốn khuyến hóa ông ta phát đạo tâm. Nay trở lại được nghe Phật giảng pháp, liền đạt Nhu Thuận Pháp Nhẫn.

- Này A-nan ! Qua 92 trăm ngàn kiếp, Thượng Kim Quang Thủ sẽ thành Phật hiệu Bảo Quang Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Thế giới tên Bảo Cái, kiếp tên Bảo Thành. Trong nước ấy những thức ăn uống, y phục, nhà cửa giống như trên cơi trời Đao Lợi thứ hai. Quốc độ cơi Phật ấy không có châu bảo nào khác cả, chỉ lấy Bồ tát làm trân bảo. Tuổi thọ của Như Lai ấy sống vô lượng. Sau khi thành Phật rồi th́ con trưởng tên Úy Gian ấy sẽ làm Bồ tát tên Đức Quang Diệu Lănh thọ giáo pháp của Thế Tôn ấy. Khi đức Quang Minh Như Lai chưa diệt độ th́ thọ kư cho Bồ tát Đức Quang Diệu rồi mới Bát Niết Bàn. Sau đời ta, Bồ tát Đức Quang Diệu ấy sẽ được thành Phật hiệu Tŕ Diệm Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác giống như cơi Phật trên không khác.

Vừa thọ kư cho tộc tánh tử này th́ ba ngàn đại thiên thế giới chấn động sáu cách, có ánh sáng lớn chiếu khắp thế giới, khi được thọ kư đầy đủ như vậy, th́ tám ngàn người được phát tâm đạt Vô Thượng Chánh Chơn.

Hiền giả A-nan bạch Phật:

- Cúi xin Đại Thánh ! Kinh này nên đặt tên là ǵ và nên phụng hành như thế nào ?

Thế Tôn dạy:

- Kinh này đặt tên là “Đại Tịnh Pháp Môn Phẩm Văn Thù Sư Lợi Khuyến Trợï Hư Biến”. Lại gọi là “ Thượng Kim Quang Thủ bổn chi hóa”. Nên phụng tŕ và khai thị cho tất cả.

Phật dạy như vậy xong, hiền giả A-nan, Thiếu niên nam tử và nữ nhơn, Văn Thù Sư Lợi, Chư Thiên, rồng, thần, A-tu-la đều rất hoan hỷ.

KINH  PHẬT  THUYẾT  ĐẠI  TỊNH  PHÁP  MÔN

HẾT

 

back_to_top.png

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0