佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

 TRANG CHỦ*--KINH ĐIỂN*--ĐẠI TẠNG KINH*--THẦN CHÚ*--HÌNH ẢNH*--中文*--ENGLISH

VT0403-2

Quyển 1    Quyển 2    Quyển 3    Quyển 4    Quyển 5    Quyển 6    Quyển 7

KINH A SOA MẠT BỒ TÁT

Hán Dịch: Tam Tạng Pháp Sư Trúc Pháp Hộ, Nước Nguyệt Chi - Đời Tây Tấn

Việt Dịch: Tuệ Khai Cư Sĩ - Phan Rang

Chứng Nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh

Quyển thứ nhất

Nghe như vầy: Một thuở đức Phật ở tại vùng đất du cư của Như Lai với đạo tràng báu nghiêm tịnh lồng lộng. Chính là sự kiến lập của Chánh Giác, đại đức trang nghiêm mà nương theo tích lũy hạnh nghiệp thần diệu, là báo ứng thành Phật, cung của các Bồ tát, tuyên dương vô lượng biến hóa của Như, vào tuệ không đáy, dạo nơi thù thắng, ḷng mang vui vẻ, phân tách đều khắp, đă tu hạnh Thánh, hỏi han đương lai, công huân không bờ cơi, danh xưng không giới hạn, b́nh đẳng Chánh Giác, đă thành Phật đạo, giỏi chuyển pháp luân, khai hóa vô số những môn đồ theo học mà đối với các pháp thường được tự tại, biết tính chúng sinh, hiểu rơ các căn, qua đến bờ kia, tùy lúc phương tiện, trừ các ngăn ngại, Phật sự không chỗ, trụ không chỗ trụ. Đức Phật cùng với chúng đại Tỳ kheo gồm sáu trăm vạn người. Họ đều là những người tâm hạnh an ḥa, tiêu diệt trần lao, ân ái, mọi thứ tệ ác, chính là pháp vương tử của đức Như Lai đă tu pháp thâm áo, do chính pháp sinh ra, uy nghi, lễ tiết, tiến lùi sáng ngời, là thần hộ mệnh của đại chúng, thân cận theo về với Như Lai.

 Đức Phật lại cùng với vô cực những Bồ tát, số ấy rất nhiều chẳng thể nói lên hạn lượng. Tất cả Đại Thánh thần thông đă đạt, chứng được Tổng tŕ, biện tài vô ngại, thần trí diệu đạt, chẳng thể nêu ví dụ, trong khoảnh khắc một niệm đi đến vô lượng đất nước cúng dường những chúng Như Lai trong mười phương, phụng sự bậc minh thức, nghe pháp không chán, hỏi han thọ tŕ, tôn phụng, tuyên dương. Các vị ấy thường ôm ḷng cần tu, dạy răn quần lê, đầy đủ trí quyền biến, đă độ vô cực, lập vô cái môn, đều vượt qua vọng tưởng, không ứng ǵ chẳng ứng, gần gũi Nhất thiết trí và các thông tuệ địa.

 Những vị Bồ tát ấy tên là Thiên Minh Bồ tát, Tuyển Chiến Bồ tát, Chiếu Tạng Bồ tát, Trừ Mạn Bồ tát, Dũng bộ Bồ tát, Nhăn Căn (Quán) Bồ tát, Ly Ngôn Bồ tát, Trừ Minh (tối) Bồ tát.v.v... Những hạng Bồ tát như vậy tụ hội với phước đức chẳng thể nghĩ bàn mênh mông rực rỡ. Tất cả những vị Bồ tát đều như vậy.

 Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nhập vào sở nguyện thành hạnh của các Bồ tát. Pháp ấy gọi là Vô Cái môn. Pháp môn này làm tịnh các khai sĩ, nghiêm diệu đạo tràng, pháp lực chánh giác đủ vô sở úy, ở nhà Thánh tuệ dạo chơi các pháp mà được tự tại, nhiếp lấy ấn Tổng tŕ, hiểu rơ biện tài, đă vào cửa đạo, dùng đại thần thông, đến khắp nơi mở ra ánh sáng, giảng thông phân biệt pháp luân bất thoái, b́nh đẳng điều ngự các thừa, thông tất cả pháp, không bị phá hoại, ban tuyên các căn ư tính của chúng sinh, thông đạt điều kiên yếu, quyết định tất cả pháp, hàng phục ma trường, theo ứng thuận pháp đều có thể khai hóa. Trần lao kết chặc, mê hoặc tà kiến sáu mươi hai nghi, mở Vô ngại trí, minh giải vô tế, sự khuyến trợ nghiệp liền vi phân phát đi, vào đến đạo tuệ b́nh đẳng của chư Phật, không thí không mong không xứ sở môn, diễn nói các pháp như xét chân đế, b́nh đẳng xử sự với có tưởng và cùng vô tưởng, hiểu rơ thâm áo mười hai nhân duyên, tích lũy công đức chẳng thể nói lên hạn lường, trang nghiêm hạnh thân miệng ư của chư Phật, chí được sự biết vô tận do thân tu bốn thánh đế, giáo thọ thân tâm Thanh văn tịch tịnh, hóa độ Duyên giác thừa chứng Nhất thiết trí, đủ A duy nhan hưng khởi Đại thừa học, vào tất cả pháp mặc t́nh độc bộ, khen vịnh đức công huân của Như Lai, tùy thời mà tuyên dương, hiển thị, ủy thác, vỗ về, giúp đỡ, răn dạy dần dần, dẫn đường mở mang pháp tạng hiển bày xứ sở ấy, diệt trừ sự ngăn che nhỏ, khai thị ánh sáng. Đức Thế Tôn đào tạo, diễn giảng, giải thích lời pháp giáo khiến cho lưu bố cùng khắp mười phương.

 Vào lúc ấy, phương Đông tự nhiên xuất hiện ánh sáng lớn màu vàng. Ánh sáng ấy soi đến đạo tràng Bảo Tịnh này và sáng chói cả ba ngàn đại thiên thế giới, không đâu chẳng cùng khắp. Ánh sáng rực rỡ che hết cơi này. Mặt trời, mặt trăng, Phạm vương, Đế Thích và Tứ Thiên Vương, ánh sáng oai thần của họ đều không thể hiện, làm cho ánh sáng của trời đại thần diệu, các đấng tôn quí lồng lộng, trời, rồng, quỉ, thần, Kiền đạp ḥa, A tu luân, Ca lâu la, Chân đà la, Ma hầu lặc đều tiêu tan. Ánh sáng của những ngọc Minh nguyệt, ngọc báu Diệm quang, lửa lớn đ́nh liệu... cũng đều tiêu diệt. Chỉ riêng có ánh sáng lớn vô cực của đức Như Lai chí chân và ánh sáng thân những A duy nhan Bồ tát là hiển hiện, c̣n tất cả những ánh sáng khác đều biến mất. Cả ngàn nước này trở lại xa xăm sâu kín tối tăm. Ánh sáng mặt trời mặt trăng tuy là rộng lớn, nhưng chẳng thể đuổi kịp ánh sáng uy thần lồng lộng chiếu soi đến vùng đó. Ánh sáng ấy chẳng ngại cây cối, tường vách, núi đại Tu di, Tuyết sơn, Hắc sơn, núi Mục Lân, núi Đại Mục Lân, núi Thiết Vi, núi Đại Thiết Vi, ánh sáng ấy đều thông qua, soi đến ba ngàn đại thiên thế giới, đến ngục Vô Trạch, soi lên đến cực cùng phương trên. Những người trong địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh th́ thân họ nhờ ơn luồng ánh sáng này mà mọi nỗi khổ đều tiêu trừ, mọi đau đớn đều ngưng nghỉ, thân tâm được yên ổn, đều chúc mừng nhau tự cho là gặp thời. Ở đạo tràng Bảo Tịnh, phía bên trái đức Phật, liền tự nhiên sinh ra những sáu mươi ức hoa sen bảy báu. Hương thơm hoa ấy sực nức lan tỏa khắp nơi, ngữi được không ai chẳng vui mừng. Hoa ấy nhu nhuyến lớn như bánh xe, màu sắc rực rỡ, cánh hoa nhiều vô số ức. H́nh dáng hoa ấy tṛn trỉnh do trăm ngàn thứ báu tạo thành. Trên hoa ấy trưng bày trướng giao lộ, trang hoàng tàng che ngọc. Hoa ấy phô bày vẻ đẹp đẽ, tỏa hương thơm ngát khắp cùng ba ngàn đại thiên thế giới. Những hương thơm danh tiếng có trong chư thiên nhân dân của ba ngàn đất nước này gặp phải hương hoa ấy đều cũng tiêu tan. Những loài sống trên trời, ở thế gian nhờ ơn hương hoa này đều ưa pháp hương, chẳng ưa ái dục.

 Đến đây, hiền giả Xá Lợi Phất nh́n thấy hiện tượng ánh sáng vô cực hoa sen thanh tịnh như vậy th́ kinh ngạc vui mừng không lường, liền đứng dậy, đi đến chỗ đức Phật, qú dài, ṿng tay, hỏi đức Thế Tôn rằng :

 - Hiện tượng con thấy hôm nay là điềm ứng ǵ? Hiện ra h́nh tượng, hiển đại quang minh, hoa sen thanh tịnh chẳng thể xưng kể như vậy, từ xưa đến nay con chưa từng thấy nghe.

 Đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất rằng :

 - Có một vị Bồ tát tên là A Soa Mạt từ phương Đông đến cùng sáu mươi ức Bồ tát với quyến thuộc vây quanh. Những vị ấy sắp đến cơi này nên hiện trước điềm ứng!

 Đức Phật nói chưa bao lâu th́ Bồ tát A Soa Mạt tức thời hiện thân cùng với sáu mươi ức Bồ tát đồng tiến đến. Do dùng đại thần túc hiển hiện thần uy của Bồ tát, bậc khai sĩ biến hóa làm chấn động nước Phật, tuông ánh sáng chói ḷa, mưa xuống mọi hương hoa, lại cũng tấu lên trăm ngàn kỹ nhạc. Đến đạo tràng Bảo Tịnh rộng răi rồi, những vị ấy đi đến chỗ đức Phật, trụ trên hư không như ở dưới đất, ṿng tay tự qui y, dùng một âm thanh mời gọi ba ngàn đại thiên thế giới, dùng nghĩa kệ khen đức Thế Tôn rằng :

 Thánh hùng bỏ tham dục

 Không nhiễm bẩn sạch trong

 Tuệ ấy trừ u tối

 Mắt thanh tịnh đem ban.

 Đoạn ba cấu mệt nhọc

 Mọi tỳ vết tiêu tan

 Các trần lao diệt măi

 Nay cúi đầu Thế Tôn!

 Khử bỏ việc phá hoại

 Lưới ngu si xẻ tan

 Thánh chủ có mười lực

 Sợ hăi đều phục hàng.

 Siêu việt ở chúng hội

 Bỏ hết ba buông lung

 Độc bộ như sư tử

 Dạo bước không kinh hoàng.

 Ánh sáng ly cấu ấy

 Không đâu chẳng sáng thông.

 Nghĩ đến khắp tất cả

 Tế độ mọi lỗi lầm

 Vô minh c̣n che kín

 Tiêu diệt những tối tăm.

 Ánh sáng ấy chiếu sáng

 Như nhật xuất mây tan

 Thấy mọi người cô khổ (cô độc)

 V́ họ dấy xót thương.

 Tiêu trừ già bệnh chết

 Cứu hộ kẻ lỡ làng (người không ai cứu)

 Đạo sư dụ sinh chúng

 Hoằng từ thường xót thương.

 Đă tu hạnh nghiệp ấy

 Như thầy thuốc chữa bệnh

 Ngài Xá Lợi ngự chúng

 Hóa ngu xuẩn vô minh.

 Nghe xong hoạn người khác

 Độ họ như lái thuyền

 Trần lao khởi vọng tưởng

 Đă hóa độ không lường.

 Chỗ du cư vị ấy

 Không (nhiễm) trước như hoa sen

 Rơ tất cả các pháp

 Bản tịnh là lặng yên.

 AÂm thanh miệng đă diễn

 Đều sinh từ nhân duyên

 Không ngang ngạnh tạo tác

 Đạt điều này do (tập) quen.

 Mang từ ai mẫn thế

 Hàng phục, dạy chúng sinh

 Như hư không qui mạng

 Thấy tất cả như trên (đấy).

 Ở tại nơi pháp thế

 Chẳng động như đại sơn

 Chúng sinh do không biết

 Quen làm nghiệp chẳng cầu (yếu).

 Tuy sống tập cư xứ

 Đều qua nạn tử sinh

 Mắt đạo rất tươi sáng

 Giống như hoa sen xanh.

 Uy thần ấy lồng lộng

 Như vầng trăng đầy tṛn

 Tất cả người thế gian

 Đều chung hỏi han đức

 Bỏ năo (phiền) chẳng ưa tục

 Nên con lễ Thế Tôn!

 Đến đây, ngài A Soa Mạt cùng sáu mươi ức Bồ tát tung bài kệ này, khen ngợi đức Phật xong th́ từ hư không hạ xuống, cúi đầu dưới chân đức Phật, nhiễu quanh đức Thánh bảy ṿng, lui về ngồi lên hoa sen. Ngài Xá Lợi Phất thừa uy thần đức Phật mà hỏi rằng :

 - Kính thưa đức Thế Tôn! Bồ tát A Soa Mạt từ đâu lại? Danh hiệu đức Phật ở đó? Đất nước loại ǵ? Thế giới xa gần? Cách đây bao xa?

 Đức Phật đáp rằng :

 - Ông tự đem việc này hỏi ông A Soa Mạt th́ sẽ được tỏ bày!

 Ngài Xá Lợi Phất hỏi ngài A Soa Mạt rằng :

 - Thưa Tộc tính tử! Từ chỗ ngài đến cách đây xa gần? Hiệu đức Phật ấy và thế giới là ǵ?

 Ngài A Soa Mạt bảo ngài Xá Lợi Phất rằng :

 - Trưởng lăo c̣n tư tưởng khứ (đi) lai (lại) ư?

 Ngài Xá Lợi Phất đáp rằng :

 - Thưa Tộc tính tử! Tưởng tôi đă đoạn!

 Ngài A Soa Mạt nói rằng :

 - Thưa ngài Xá Lợi Phất! Tưởng ấy đoạn rồi th́ chí chẳng mang hai, v́ sao ngài dấy niệm mà hỏi vấn đề từ đâu lại. Thưa ngài Xá Lợi Phất! Có lại ấy là dấu vết của hợp hội. Giả sử đi là dấu vết của biệt ly. Nếu khiến cho chẳng hợp hội, không biệt ly th́ đó không đi, lại. Không đi, lại ấy là hạnh Thánh đạo. Thưa ngài Xá Lợi Phất! Có lại ấy là tướng tự nhiên tạo. Nếu có đi là tướng tội phước hết. Kể ra tội phước là tướng tự nhiên. Nếu đối với những tướng tội phước tận th́ không có tướng. Tướng không đến là hướng đến của Thánh đạo. Thưa ngài Xá Lợi Phất! Có lại ấy gọi là tướng sở nguyện (?). Nếu có đến (văng) th́ ĺa khỏi sở nguyện. Tướng sở nguyện ấy ĺa khỏi tướng sở văng (đến) tức là tướng của Thánh đạo. Thưa ngài Xá Lợi Phất! Có lại ấy là tướng sinh khởi. Nếu có đến (văng) th́ tức là diệt tướng. Trừ diệt tướng sinh văng, chẳng khởi, chẳng diệt, không sở trụ th́ tức là tướng của Thánh đạo. Thưa ngài Xá Lợi Phất! Tướng có lại ấy là cửa dạy răn (huấn hối môn). Nếu có đến (văng) th́ dạy trao tan hết. Sinh vào cửa vô tận không dạy trao tức là hướng đến Thánh đạo. Thưa ngài Xá Lợi Phất! Nếu có văng lai th́ rơi vào Tục, không có khứ lai mới gọi là đạo. Thưa ngài Xá Lợi Phất! Tiêu diệt khứ lai, trừ khỏi đương lai và các cảnh giới th́ mới hướng đến Thánh đạo. Thưa ngài Xá Lợi Phất! Có lại ấy là tướng hiện tại. Nếu có đi th́ chính là tướng biệt ly. Đến với hiện tại và bỏ tướng biệt ly tức là hướng đến Thánh đạo. Thưa ngài Xá Lợi Phất! Có lại ấy chính là tướng duyên khởi báo ứng. Nếu có đi th́ hết tướng báo ứng. Không có báo ứng, chẳng khởi, chẳng diệt, đến với vô tướng th́ mới hướng đến Thánh đạo. Thưa ngài Xá Lợi Phất! Có lại ấy là theo tục duyên ḥa hợp mà đạt đến đường lối. Nếu có đi th́ gọi đó là âm thanh. Ngôn giáo văn tự là đường tốt vậy. Giả sử loại trừ âm thanh, văn tự, nhân duyên, đường tắt th́ hướng đến Thánh đạo.

 Ngài Xá Lợi Phất hỏi ngài A Soa Mạt rằng :

 - Thưa Tộc tính tử! Tôi nay do sự giảng giải này biết ngài có biện tài nên muốn hỏi nhau. Sở dĩ vậy là v́ muốn được nghe và thâu thái những điều vốn chưa được nghe. Thưa Tộc tính tử! Giống như vị chúa trùm cửa ải nên được người đẩy cửa hỏi xin ra vào, qua lại. Giả sử có người mang nặng hàng hóa hoặc có người lại đi không. Muốn cầu được thuế ông ấy phải nạn vấn hạch hỏi : “Ngươi mang theo đồ ǵ th́ phải nộp thuế!” Thưa Tộc tính tử! Tôi cũng như vậy, thuộc hạng thấp hèn, là giống Thanh văn nương cậy vào âm thanh người khác mà được giải thoát. Chúng tôi hợp cùng duyên âm hưởng nên thường phải hỏi han để thọ lấy. Các bậc Chánh sĩ.v.v... đem của dùng ủng hộ tách ra nuôi dưỡng Đại thừa. Từ đó sinh ra Thanh văn, Duyên giác. Do đó cho nên, hay thay! Thưa Tộc tính tử! Ngài v́ chúng tôi phân biệt nói rơ chỗ ngài từ đó đến cách đây xa gần? Đức Như Lai và đất nước hiệu tự là ǵ?

 Ngài A Soa Mạt nói rằng :

 - Thưa ngài Xá Lợi Phất! Đức Như Lai ở trước mặt, ngài nên khải vấn, ngài sẽ được mở mang, những lưới nghi của chúng hội sẽ được giải quyết!

 Ngài Xá Lợi Phất trước hỏi đức Phật rằng :

 - Từ chỗ đến của Bồ tát A Soa Mạt cách đây xa gần? Hiệu của đức Phật ấy là ǵ? Đất nước loại nào? Vô ương số người vang danh cơi ấy đều phát ư đạo, mặc giáp đại đức?

 Đức Phật dạy rằng :

 - Xá Lợi Phất! Hăy lắng nghe và suy nghĩ cho tốt! Tên thế giới đó có nói lên công huân và hiệu của đức Như Lai nếu có người nghe th́ chớ hoài nghi mà đều phải chung tin tưởng, đức Như Lai Chí Chơn không ǵ ngăn ngại cũng không ấm cái, tất cả mẫn đạt không ǵ chẳng thông suốt, đều xin thọ giáo - Đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất - Phương Đông cách đây bằng một số cơi Phật nhiều như những bụi chứa trong mười hằng hà sa số các đức Phật. Qua khỏi ngần ấy cơi, có thế giới tên là A Ni Di Sa, ở đó có đức Phật hiệu là Tam Mạn Bạt Đà Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác, ngài hiện tại đang nói pháp (A Ni Di Sa : Bất Tuần, Tam Mạn Bạt Đà : Phổ Hiền). Thế giới Bất Tuần không có tên của Thanh văn, Duyên giác. Thánh chúng của đức Thế Tôn thuần là các Bồ tát ở đời xa xưa tạo hạnh đă hoàn bị : Bố thí, điều ư, an tường, thánh triết, cấm giới, bác văn, tịch không phóng dật, công huân chỉ túc, kiến lập nhàn tịnh, do sức nhẫn nhục ḷng chẳng ôm hại, tinh tấn kiên cố tích lũy công đức, thường sống khắc kỷ, khắp đều thiền tư (suy nghĩ) Thoát môn tam muội mà chánh thọ, lấy thần thông tuệ mà tự vui sướng, dùng ánh sáng vô cực trí quang minh để tùy lúc phân biệt, ban tuyên tất cả chương cú nghĩa lư, đă mang ḷng từ b́nh đẳng như hư không. Tấm ḷng ai của những vị ấy thương xót chúng sinh, biết chí tánh của họ mà khai hóa. Họ vui mừng th́ v́ họ mưa xuống pháp vị đạo cam lộ, trừ sạch tất cả sân hận oán kết. Họ hành hộ th́ ĺa khỏi hai thừa, dùng không, vô tướng lập nên pháp vô nguyện, cứu vớt hoạn nạn trần lao các ma, uế trược, nguy hại. Rơ biết căn bản chúng sinh mà hướng đến mười hai duyên khởi, quan sát bệnh tật của họ ứng bệnh cho thuốc, nắm chắc chế ngự ḷng ấy b́nh đẳng luôn luôn là một như đất nước lửa gió, không có yêu ghét, hàng phục trừ khử tất cả mọi tà dị học. Ngần ấy pháp chiến đấu lập vững tràng phan giống như bậc dũng tướng thống soái đại quân bẻ găy hàng phục quân địch, vào sâu sự giác ngộ chánh pháp của chư Phật, mười lực vô úy, ĺa hai phẩm hội, thuận theo nghiệp nhân duyên hữu vô, siêu việt hạnh các kiến trung gian, ném bỏ ngô ngă và nhân, thọ mạng, xứ sở có không, phản chân, hướng ngụy vốn là đăo kiến. Những kinh điển môn, ấn pháp của Như Lai pháp vương in vào đó. Biện tài diễn nói không ǵ ngăn ngại, ở vô ương số ức trăm ngàn kiếp, âm từ thông suốt không thể ngăn chận (tắc nghẻn) chẳng cho thông lưu. Dùng thần túc của Phật cảm hóa vô lượng Phật quốc, qua lại giáp ṿng, cuối rồi lại bắt đầu. Hiểu rơ tùy thời tiêu trừ tất cả sợ sệt, sân nhuế, kiêu mạn, tự đại, diễn nói âm thanh như tiếng rống sư tử, cũng như sấm rền. Quan sát hạnh thượng, trung, hạ của chúng sinh mà làm bạn bè bền vững, đặt họ đất diệt độ rốt ráo vĩnh viễn. Nổi dậy mây vô cực, cảm động rền sấm pháp, thông suốt chớp tuệ giải, mưa xuống nước cam lồ, tuyên dương đạo pháp trân (quí), chẳng đoạn tuyệt Tam Bảo, chí tánh thanh tịnh như ngọc Minh Nguyệt, thông đạt trong ngoài (lộ ra ngoài, gói ở trong). Chánh Giác chiếu sáng, tướng tốt thù thắng là do cấm giới mà tự trang nghiêm. Dùng trăm ngàn đức mà trang sức thân thể, dùng pháp chư Phật đến với A duy nhan nhất sanh bổ xứ, phụng tuân tu hành. Chúng sinh dốc ḷng tin nghe lời giáo hóa giải thoát th́ tùy theo chí tánh của họ mà khiến cho đều được cả. Giác ư, tổng tŕ là ṭa sư tử nghiêm tịnh đạo tràng. Minh thức siêu nhập vào bốn vô sở úy đều hiện lên sự hưng tạo sự nghiệp, thánh thể chánh giác của chư Phật, lấy bỏ tiến lùi ḷng ấy mạnh mẽ mà được tự tại, chuyển pháp luân báu Vô thượng.

 Lúc bấy giờ, chúng hội nghe đức công huân của các Bồ tát, vui mừng nhảy nhót chẳng thể tự kiềm chế, phát sinh ḷng sáng suốt. Họ lấy hoa sen xanh vàng đỏ trắng rất đẹp ở trên trời và các hoa ư để cúng dường đức Phật và tung lên trên Bồ tát A Soa Mạt rồi đồng cất tiếng khen ngợi uy đức rằng :

 - Chúng con được lợi lắm! V́ thu hoạch được phước khánh (mừng) mới có thể gặp gỡ vị Chánh sĩ này, được nh́n thấy cuộc hội ngộ nhiều thiện lợi. Chúng con cúi đầu qui mạng mà cúng dường ngài. Nếu có chúng sinh được nghe tên của các Bồ tát công huân này th́ đức chẳng thể lường và nhờ sự nghe ấy, đều sẽ hưng phát đại tâm Bồ đề.

 Đến đây, ba vạn sáu ngàn những người đến hội đó đều phát ư đạo Vô Thượng Chánh Chơn. Đức Phật nói với ngài Xá Lợi Phất rằng :

 - Cơi A Ni Di Sa không có địa ngục, ngă quỉ, súc sinh, mọi khổ, các ác, không phụng giới sắc (răn bảo) cũng không phạm cấm, chẳng nghe thấy nữ nhân. Sở dĩ v́ sao? V́ đều do giao lộ hoa sen hóa sinh, không có xan tham cũng không dâm dục, sân nhuế, ĺa khỏi ngu si sợ sệt... hết thẩy đều không có tên ba thứ độc này, huống là c̣n có ư? Nhân dân cơi ấy không có thượng, trung, hạ, đẹp, xấu sai biệt đều như nhau không khác, cũng không là ngăvà chẳng phải ngă sở, lại chẳng ăn uống. Sở dĩ v́ sao? V́ pháp hỉ (vui) là món ăn, hiểu nghĩa là nước uống, thường tự thản nhiên, tỏ rơ chẳng c̣n ư niệm khát, cũng không có tư tưởng đói, cũng chẳng phải ta, cũng không có người khác, cũng không hoạn nạn sợ ma chúng. Lại, cơi Phật ấy rất rộng lớn cùng cực, một mặt trời mặt trăng chiếu soi sáu mươi ức khu vực của bốn phương. Sở dĩ v́ sao? V́ là sự đạt đến của bổn nguyện Bồ tát. Do đó nên chung một mặt trời mặt trăng. Lại nữa, cơi Phật ấy không có g̣ đống, cao thấp, nghiêng ngă, khắp nơi đều bằng phẳng, đều là lưu ly xanh biếc, dùng mọi thứ báu đặt xen lẫn vào. Đất cơi ấy mềm mại như xơ bông vải trời, dùng mười tám việc trang nghiêm quốc giới. Cây cối cơi ấy đều bằng báu hàng ngũ san sát, thường sinh ra hoa quả mà mùa đông mùa hạ luôn luôn sum suê. Ở cơi ấy không có cát, sỏi, đá, mọi tỳ vết dơ bẩn, Hắc sơn, Tuyết sơn... Những núi cơi ấy đều do các báu hợp thành giống như núi Tu di. Ở cơi Phật đó, trên trời dưới đất như nhau không khác, xả bỏ nghiệp ba đời lấy pháp làm của cải. Cơi đó không có vua, chỉ có đức Như Lai Phổ Hiền Chí Chơn làm Pháp vương. Lại nữa, pháp của cơi ấy chẳng dùng văn từ bảo răn. Các vị Bồ tát muốn hỏi han, thính thọ kinh điển th́ đi đến chỗ đức Phật, quán tưởng ngài không chán, chẳng biết mệt mỏi. V́ sao vậy? V́ ngay khi ḷng của các vị ấy mừng rỡ th́ đă chứng được định ư Phật tâm, tức thời gần đến với pháp nhẫn Vô Sở Tùng Sinh. Do đó cho nên hiệu của cơi ấy là Bất Tuần vậy. Sao gọi là được định ư Phật tâm? Chẳng dùng sắc tướng, chẳng dùng cái đẹp, cũng lại chẳng dùng bổn hạnh đời trước mà đạt đến cái đức đó, cũng chẳng hy vọng làm thế, đạt đến thế. Sở dĩ v́ sao? V́ chẳng nghĩ đến đời quá khứ, đương lai, cũng lại chẳng nghĩ đến đời hiện tại hôm nay, cũng chẳng do từ năm ấm, sáu bực mà đạt đến đó vậy.

 Sao gọi là năm? Năm ấm ấy là nghĩ đến sáu căn. Sáu căn ấy là mắt, tai, mũi, miệng, thân, ư riêng biệt. Sáu lực ấy là biết sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Chẳng dùng tâm thức thấy nghe mà đạt đến mọi nghiệp này. Chẳng dùng xảo ngụy mà đạt đến sinh diệt. Không ngang bằng, không tà vạy, cũng chẳng tạo ư, không điều hy vọng, cũng chẳng phải do phải, cũng chẳng phải do chẳng phải mà đạt đến. Cũng chẳng từ một, hai, ba mà đạt đến. Chẳng nhân tâm, ư thức, cũng chẳng do hiểu mọi ư niệm trong ngoài, việc vọng tưởng thi phi (phải trái) mà đạt đến đó. Cũng không do sắc thọ (thống dương) tưởng, hành, thức mà đạt đến. Cũng chẳng dùng giới, định, tuệ ư, giải thoát, độ tri kiến, mười lực, bất hộ, bốn vô sở úy, pháp của chư Phật, chẳng thể dùng ư tưởng biết điều đó. Chẳng dùng thấy nghe mà đạt đến điều đó. Chẳng dùng tướng tưởng, cũng không ngă tưởng, chẳng dùng năm ấm, sáu bực, chỗ sinh diệt, cũng không sở trụ, cũng không chẳng trụ, không chỗ sắc thọ tưởng hành thức, cũng chẳng nhăn sắc, nhĩ thanh, tỵ hương, thiệc vị, thân xúc, tâm pháp mà đạt đến điều đó, cũng chẳng được chỗ. Sở dĩ v́ sao? V́ chẳng thể dùng mắt mà thấy mọi tướng, chẳng thể thấy chỗ tưởng. Chẳng thấy, chẳng khởi, chẳng diệt, chẳng cuối cùng ấy th́ tức là không có bắt đầu. Chỗ trụ ấy là nhân duyên, đă làm mới đạt đến đó, tiêu trừ qui diệt bẩn trần lao. Sở dĩ v́ sao? V́ dụng ái dục nên nói rằng phải diệt. Do cái cớ ấy nên đoạn với nhân duyên. Dụng ngô ngă nên do đó phải diệt. Tịnh ấy đều sáng chẳng tăng chẳng giảm, cũng lại chẳng nghĩ đó là an hay đó là khổ. Tác khởi sự tính toán th́ chẳng ĺa khỏi dục, cũng chẳng dùng ư nghĩ mà lấy làm phiền năo. Các tưởng vốn giải thoát nên hành đủ hết. Đă có thể đủ hết, đạt được như không có thân th́ sắc làm sao có thể được. Không có thống th́ từ cái ǵ có dương (bệnh), thường trụ như pháp. Nếu chẳng tưởng đạo th́ chẳng phải tục nghiệp. Giả sử không có điều nghe th́ từ cái ǵ mà có thức, không sở kiến th́ cũng không sở đắc. Không sở đắc th́ sao gọi là giải thoát, cũng lại chẳng được ư niệm tư duy tâm sở pháp, cũng chẳng mang theo và không sở sanh vậy. Chẳng nh́n thấy đến th́ chẳng thấy văng sanh. Vốn chẳng thể được giống như các pháp đều ngang bằng không khác. Ví như có người hướng lên chiêm ngưỡng hư không th́ sự nh́n thấy của mắt người ấy chẳng thể phân biệt đâu là không, đâu là chẳng phải hư không. Ư Phật như vậy, khi Bồ tát được định ư Phật tâm th́ biết các Phật pháp, mọi thứ tướng tốt đều đầy đủ, thành tựu đạo tuệ hoàn bị. Nhưng điều Như Lai tuyên dương, các vị Bồ tát đều có thể hiểu thông suốt, tức thời khải thọ, phúng tụng, thông lợi. Khắp mọi người có thể hiểu đầy đủ các pháp của đức Phật.

 Đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất rằng :

 - Điều ban tuyên ấy của đức Như Lai Phổ Hiền, đầu tiên không có hai lời. Sao gọi là hai? Một là chẳng giảng chấp trước, hai là chẳng nói đoạn dứt, tu hành b́nh đẳng không có thích hay không. Sao gọi là không (vô)? - Chưa từng có ư nghĩ theo người hỏi han thính thọ, cũng chẳng tự nghĩ là ḿnh có sự hiểu biết. Các vị Bồ tát ấy vừa thấy đức Phật xong liền đầy đủ sáu độ vô cực - Đức Phật dạy - Sao gọi là đầy đủ? Bỏ mọi sắc tưởng, không điều hy vọng th́ đó là đầy đủ Thí độ vô cực. Chẳng tưởng thân Phật, đạt đến “bản vô” th́ đă hoàn bị Giới độ vô cực. Sở dĩ v́ sao? V́ chẳng tự tưởng nên đă được thành tựu ba mươi hai tướng. Kể ra các pháp giả có danh hiệu, tướng không có tận, trụ là chẳng khởi. Vậy nên gọi là Nhẫn độ vô cực. Tất cả các pháp đều chẳng thể thấy, cũng không có cái để nghe. Sở dĩ v́ sao? V́ Bồ tát đại sĩ thấy thiện chẳng vui, thấy ác chẳng buồn, ḷng không thích hay không. Vậy nên gọi là Tấn độ vô cực. Ḷng chẳng tưởng niệm, chẳng thể tưởng mà lặng yên th́ đó gọi là Tịch độ vô cực. Hiểu tướng sắc rỗng không, chẳng do tướng này mà mang ḷng tự đại. Vậy nên gọi là Trí độ vô cực - Đức Phật dạy - Các vị Bồ tát ấy ở tại cơi đó nhân tiện đầy đủ sáu độ vô cực nên chứng được pháp nhẫn Vô Sở Tùng Sinh và quan sát khắp các đất nước Phật trong mười phương, một ít chúng học Bồ tát có thể theo kịp lời răn dạy các Bồ tát của đức Phổ Hiên ở đất nước Bất Tuần.

 Ngài Xá Lợi Phất nói với ngài Bồ tát A Soa Mạt rằng :

 - Khoái thay! Thưa ngài! Mọi công huân của các Bồ tát ở cơi Phật đó thật khó lường!

 Ngài A Soa Mạt liền hỏi ngài Xá Lợi Phất :

 - Hiền giả có muốn thấy đức Như Lai Phổ Hiền của đất nước Bất Tuần không?

 Ngài Xá Lợi Phất đáp :

 - Thưa, muốn thấy! Và chúng hội th́ đều sẽ được nhờ ơn phước khánh mà công đức càng tăng!

 Ngài A Soa Mạt liền ở trên ṭa chánh thọ tam muội mà hiện thần túc. Ngài vào tam muội hiệu danh là Biến Kiến Chư Phật Thổ (Thấy khắp các cơi Phật) khiến cho những người trong hội và ngài Xá Lợi Phất đều được tận mắt thấy nước Phật Bất Tuần và đức Như Lai Phổ Hiền. Mọi người không ai chẳng mừng rỡ v́ chưa từng có, đều cùng đứng dậy, đều v́ đức Phật đó cúi đầu làm lễ. Thánh chỉ của đức Phật sai ngài Xá Lợi Phất và chúng hội, ở trên vạt áo tự nhiên có hoa hương trời, các vị liền lấy, hướng về phía đông, tung lên trên đức Phật đó. Những hoa ấy đến đó, ở trên đức Phật tại đất nước ấy và các vị Bồ tát khắp cùng cơi Phật. Các vị Bồ tát đó tự hỏi đức ấy rằng : “Hôm nay những thứ hoa đặc thù vi diệu này là từ đâu đến mà rực rỡ như vậy (nhường ấy)?” Đức Như Lai Phổ Hiền bảo các vị Bồ tát rằng : “Điềm ứng này chính là A Soa Mạt nay đă đến cơi Nhẫn phụng dưỡng, hỏi han, thính thọ đức Thích Ca Văn Phật và Bồ tát mười phương đều đi đến hội ở đó. Sở dĩ vậy là v́ ở đó đang giảng nói đại thừa”. Các vị Bồ tát cơi đó lại hỏi đức Phật rằng : “Sự hiển biến nơi đây là điều ân hóa của thần uy đức Phật nào?” Đức Phật đó đáp rằng : “Của đức Phật Thích Ca Văn! Bồ tát của mười phương đều đến hội ở đó. Sở dĩ v́ sao? V́ nơi đó giảng nói Đại thừa!” Các vị Bồ tát cơi đó lại hỏi đức Phật đó rằng : “Nơi đây được nghe ǵ?” Đức Phật đó bảo rằng : “Đức Phật Thích Ca Văn diễn nói thông suốt, phân biệt, phẩm Đại hội duyên!” Các vị Bồ tát đó lại hỏi đức Phật ấy : “Thế giới Nhẫn ấy cách đây xa gần?” Đức Phật đáp : “Phương tây cách đây như vầy : Những hạt bụi đầy trong những đất nước Phật nhiều bằng mười lần cát sông mà giả sử cứ một hạt bụi đặt vào một cơi Phật như vậy đến hết. Rồi lấy mỗi một những hạt bụi ấy xếp theo thứ tự như các thế giới Phật ở phương tây cho đến số bụi đó hết. Quá khỏi ngần ấy cơi mới đến cơi Nhẫn, chỗ giáo hóa, sinh sống của đức Phật Thích Ca Văn”. Bồ tát cơi đó lại bạch đức Phật ấy rằng : “Chúng con nguyện xin muốn thấy đấng Năng Nhân Đại Thánh hóa đạo hưng thịnh!” Đức Phật Phổ Hiền diễn phát ánh sáng của thân ḿnh soi chiếu thông suốt mười phương. Các vị Bồ tát và chúng hội ở đó đều nh́n thấy cơi Ta Bà này. Những vị Bồ tát đó tức thời đều đứng dậy, tự qui mạng từ xa, v́ đức Phật Thích Ca Văn nhất tâm đảnh lễ. Chúng Bồ tát đó từ xa thấy cơi Nhẫn đầy tràn Bồ tát, không c̣n một chỗ trống khuyết th́ lấy làm lạ, kinh ngạc vui mừng mà hỏi đức Phật ấy. Đức Phật đó bảo rằng : “Các chúng Bồ tát của nước Phật mười phương nhiều chẳng thể kể xiết nghe nói nơi đây sẽ ban tuyên phẩm Đại hội duyên nên đi đến khải thọ”.

 Ngài Xá Lợi Phất hỏi Bồ tát A Soa Mạt rằng :

 - Ai cho ngài tự danh là A Soa Mạt? ( A Soa Mạt Hoa dịch là Vô Tận Ư).

 Ngài A Soa Mạt đáp ngài Xá Lợi Phất rằng :

 - Do các pháp nên gọi rằng Chẳng thể tận. Sở dĩ v́ sao? V́ tất cả các pháp cũng chẳng thể tận.

 Ngài Xá Lợi Phất nói rằng :

 - Nguyện xin ngài đem pháp chẳng thể tận mà giảng nói cho!

 Ngài A Soa Mạt nói rằng :

 - Vốn khi phát ư cũng chẳng thể tận. Sở dĩ v́ sao? V́ ở với khắp những dục, dâm, nộ, si, túy (say) mà không bị trói buộc. Sở dĩ v́ sao? V́ chẳng cùng với A la hán và Duyên giác thừa mà đồng trần (đồng chung với trần lao) nên từ khi phát tâm đến nay luôn kiên cố chí ấy, chẳng thể chuyển dời. Sở dĩ v́ sao? V́ chẳng bị sự mê hoặc của tà nghiệp, tất cả chúng ma chẳng thể hoại ư. Người có tâm này th́ các công đức ấy đều được thành tựu, sống với vô thường mà một ḿnh làm nguyên thủ nắm hết mọi người. Sở dĩ v́ sao? V́ có kể là thường th́ tức là nghiệp sinh tử. Sở dĩ ngài đặc biệt hiểu được đạo hữu thường nên gọi là ngài ra khỏi vô thường. Từ khi phát tâm trở lại đây, tâm ư thản nhiên không bị phược trước (ràng buộc chấp trước). Sở dĩ v́ sao? V́ chẳng ĺa khỏi nghiệp công đức của chư Phật, sự nghiệp tu hành không thể bị lỗi lầm. Sở dĩ vậy là v́ tất cả mọi ác đều hết sạch, ḷng ấy yên ổn măi măi, chẳng thể động nên tâm ấy không ai bằng. Sở dĩ vậy là v́ ít có ai đuổi kịp nên tâm như Kim Cương. Sở dĩ vậy là v́ biết hết nguyên cớ tất cả các pháp chẳng thể tận, nguyên cớ đạo tuệ các pháp trong ngoài, từ khi phát tâm trở lại cứng như kim cương. B́nh đẳng với chúng sinh nên tâm ấy chân chất ngay thẳng mà không dua nịnh nên hiệu là Chánh mà không thiên lệch. Từ khi phát tâm đến nay thường mang ḷng tươi sáng. Sở dĩ vậy là v́ vốn thanh tịnh, đă trừ khử mọi cấu bẩn, tiêu diệt những tối tăm. Tuệ ấy hiển sáng nơi sâu kín đều sáng lên. Từ khi phát tâm đến nay đă tắm rửa mọi dơ bẩn. Sở dĩ vậy là v́ niềm tin ấy kiên cố không bỏ được nên phát tâm rất lớn, không có bến bờ. Sở dĩ vậy là v́ ḷng như hư không, phát tâm sáng mênh mông. Sở dĩ vậy là v́ đều nhận độ chúng sinh nên phát tâm vô tận. Sở dĩ vậy là v́ tuệ ấy huyền diệu mênh mông không ǵ ngăn ngại ngay từ lúc phát tâm đầu tiên không có chỗ nào chẳng nhận. Sở dĩ vậy là v́ Đại từ vô cực cũng không tận nên tâm hạnh phát ấy không thể đoạn. Sở dĩ vậy là v́ công đức nguyện nên phát tâm rất yên ổn, rất đáng yêu kính. Sở dĩ vậy là v́ được sự mừng vui của các chúng sinh nên phát tâm đặc biệt tôn quí, siêu dị với mọi người . Sở dĩ vậy là v́ được sự phụng kính của tất cả ngoại học. Thanh văn, Duyên giác, sự phát tâm ấy không có thể biết ư. Sở dĩ vậy là v́ chẳng phải là sự đuổi theo kịp của những kẻ phàm tục, giống như người nông phu chẳng thể biết thông việc của bậc Thánh Vương, phát khởi đủ thứ loại ḷng. Sở dĩ vậy là v́ mỗi mỗi đều từ cái nghiệp vốn đă gieo trồng kia mà thu hoạch kết quả ấy. Tất cả các pháp thường tồn tại nên từ lúc ban đầu phát tâm, lấy đạo làm gốc. Sở dĩ vậy là v́ do sự đạt đến đó được yên ổn lớn nên từ khi phát tâm về sau mà tự trang nghiêm. Sở dĩ vậy là v́ thành tựu công huân, từ khi phát tâm đến nay, cùng chúng sinh đặc biệt thù thắng.Sở dĩ vậy là v́ đạt được Thánh tuệ nên từ khi phát tâm về sau là rất vi diệu. Sở dĩ vậy là v́ dùng bố thí rộng răi đến khắp chúng sinh, nên từ khi phát tâm về sau kiến lập được chí nguyện (đến nguyện, thỏa nguyện). Sở dĩ vậy là v́ đầy đủ giới cấm nên từ khi phát tâm về sau mà không ai sánh bằng. Sở dĩ vậy là v́ không có điều ǵ chẳng nhẫn nên từ khi phát tâm về sau không thể ức chế. Sở dĩ vậy là v́ dùng hạnh tinh tấn không giải đăi phế bỏ nên từ khi phát tâm về sau không ǵ làm cho ham thích. Sở dĩ vậy là v́ Tịch độ vô cực đạt đến định y nên từ khi phát tâm về sau không chỗ qui thú. Nhân hiểu rơ Trí độ vô cực nên từ khi phát tâm về sau vĩnh viễn không sở trụ. Sở dĩ vậy là v́ dùng vô cực Từ nên từ khi phát tâm về sau gốc rễ kiên cường. Sở dĩ vậy là v́ dùng hạnh bi ai nên từ khi phát tâm về sau thường mang ḷng vui vẻ. Sở dĩ vậy là v́ đối với các chúng sinh mang ḷng b́nh đẳng nên từ khi phát tâm về sau tuy gặp khổ vui chẳng lấy làm dao động. Sở dĩ vậy là v́ hộ tất cả nên từ khi phát tâm về sau v́ các đức Như Lai đă diện kiến mà nuôi dưỡng. Sở dĩ vậy là v́ áp dụng thuận theo lời dạy của chư Phật mười phương nên từ khi phát tâm về sau muốn độ mọi khổ nạn của tất cả năm đường. Sở dĩ vậy là v́ dẫn đường hóa độ hưng thịnh nên từ khi phát tâm về sau chẳng bỏ Tam Bảo, không điều ǵ phế bỏ trái quấy. Sở dĩ vậy là v́ thuận theo giới cấm của Phật mà thành tựu Thánh chúng.

 Bồ tát A Soa Mạt lại nói với ngài Xá Lợi Phất rằng :

 - Tâm Nhất Thiết Trí chắc có thể tận ư?

 Ngài Xá Lợi Phất đáp rằng :

 - Chẳng phải vậy! Giống như hư không chẳng thể cùng tận tâm Nhất thiết trí chẳng thể tận cực cùng cũng lại như vậy. Cấm giới của đức Như Lai cũng chẳng thể tận. Sở dĩ v́ sao? V́ Giới chính là căn nguyên nên chẳng thể tận. Định ư của đức Như Lai do không có tận th́ trí tuệ giải thoát, độ tri kiến không căn nguyên nên chẳng thể tận. Kể cả mười lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng chư Phật... những thứ ấy tức là căn, đây cũng là gốc của tâm nên chẳng thể tận. Nói tóm lại tất cả pháp của chư Phật là đứng đầu. Do tâm hạnh ấy nên chẳng thể tận, Tam Bảo chẳng đoạn tuyệt. Nhân cái tâm đó nên chẳng thể tận, giống như bốn đại của tất cả chúng sinh. Cái ǵ là bốn đại? Là đất nước lửa gió cũng chẳng thể tận. Kể ra dùng tất cả trí tuệ đó nên đều lại hiểu rơ chẳng thể nghĩ bàn tâm hạnh của chúng sinh. Bổn nguyện chẳng đoạn nên chẳng thể tận. Sở dĩ v́ sao? V́ tu hành phụng sự đạo nguyện nên chẳng thể tận. Tất cả đều không sở sinh, không ǵ chẳng hoảng hốt, tất cả căn nguyên của các pháp vô cùng nên chẳng thể tận.

KINH A SOA MẠT BỒ TÁT

Quyển thứ nhất - hết.

Quyển 1    Quyển 2    Quyển 3    Quyển 4    Quyển 5    Quyển 6    Quyển 7

KINH A SOA MẠT BỒ TÁT

Hán Dịch: Tam Tạng Pháp Sư Trúc Pháp Hộ, Nước Nguyệt Chi - Đời Tây Tấn

Việt Dịch: Tuệ Khai Cư Sĩ - Phan Rang

Chứng Nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh

Quyển thứ hai

Bồ tát A Soa Mạt nói với ngài Xá Lợi Phất rằng :

 - Phát tâm Bồ tát vĩnh viễn không cùng tận. Sở dĩ v́ sao ? V́ chẳng văn vẻ, cũng chẳng dua nịnh. Tâm ấy chất trực nên gọi là đặc thù. Chẳng làm lời thêu dệt mà dùng thanh tịnh nên b́nh chánh không tà vậy. Tâm ấy nhu nhuyến mà không thô ác, dốc ḷng tin chơn yếu chưa từng biến đổi. Tạo lập kiên cường mà không chuyển động, chánh trụ chẳng lay, không ai có thể ganh ghét mà nhiễu hại. Do những ǵ nên không thể nhiễu hại ? Do hạnh ấy sửa trị nghiệp không ǵ có thể đuổi kịp. Có sự kiến tạo th́ không ai có thể bài báng. Sở dĩ v́ sao không ai có thể chê bai ? V́ dám hưng tạo không căn nguyên. Sở dĩ không căn nguyên sử dụng trung chính nên lời nói chí thành nhất định không có khác. Có sự hưng khởi công đức th́ không hy vọng điều ǵ, chẳng cầu danh xưng, được mọi người khen, đều chung kính ngưỡng th́ không thể được kém cỏi (lỗi lầm). Sở dĩ không thể được sự kém cỏi ấy là v́ có sự tạo tác yên ổn lâu dài. Sở dĩ v́ sao tự đạt đến sự yên ổn vĩnh cữu ? V́ sự hưng khởi công đức không lười biếng mệt mỏi. Sở dĩ chẳng chán là v́ do thương xót tất cả chúng sinh vậy. Sở dĩ v́ sao thương nghĩ đến chúng sinh ? V́ sử dụng Vô cực từ. V́ người lười biếng mệt mỏi mà hưng khởi tinh tấn. Sở dĩ v́ sao ? V́ muốn dùng nuôi dưỡng chúng sinh. Sở dĩ v́ sao nuôi dưỡng chúng sinh ? V́ do phương tiện ấy mà thành tựu công đức và hiệu lực của việc tu hành chẳng hy vọng phước. Sở dĩ không cầu là v́ tâm ấy thanh tịnh nên đều nhờ ơn pháp. Người không sở cầu cũng có lực. Sao gọi là lực ? Đó là Phật lực. Dùng nghĩa đó hộ tất cả. Sở dĩ hộ là v́ muốn khiến cho quần lê đều được chỗ ấy. Sở dĩ muốn khiến cho đều được chỗ là v́ khiến cho không hận. Sở dĩ không hận là v́ tạo tác sự nghiệp rất yên ổn chắc chắn. Sở dĩ chắc chắn là do những điều đó không thể chế chỉ, không thể ngăn cản, áp đặt khiến cho dừng tịch nhiên giống như vàng tía mà không lấm bẩn. Sở dĩ ví dụ nó như màu vàng tía v́ không có bẩn. Sở dĩ không bẩn là do bản tịnh. Sở dĩ là tịnh v́ bản hạnh trừ khử dơ bẩn. Sở dĩ trừ khử dơ bẩn là v́ bên trong thanh tịnh. Sở dĩ tiêu trừ lầm lỗi mà lỗi lầm đă hết nên do đó thanh tịnh - Ngài A Soa Mạt nói với ngài Xá Lợi Phất - Tâm đă tịnh th́ tham dục chuyển tiêu. Không tham dục ấy chính là chẳng thể tận. Những ác tâm ấy chẳng thể lại loạn. Lại tâm ấy hộ tŕ sáng suốt đối với ác ư. Do đó cho nên gọi là chẳng thể tận. Tâm ấy sân nộ sở hữu mọi tham, miệt mài với dục, cống cao, tự đại th́ những điều chẳng thể đều hết sạch (?). V́ Bồ tát thường hộ tâm này, phải hiểu tâm này mà chẳng thể tận. Bỏ thế lực không xem và các cấu bẩn, phải đạt tâm ấy chẳng khiến cho giải đăi th́ biết tâm ấy là chẳng thể tận. Nếu người rối loạn th́ tùy lúc bảo hộ. Kẻ vô trí ấy th́ nuôi dưỡng khiến cho thành thục. Đối với tất cả chúng sinh có pháp công đức hay không pháp công đức đều muốn độ thoát đến với đại an th́ biết tấm ḷng ấy mà chẳng thể tận. Dạy răn tất cả chúng sinh.v.v..., những người ở chỗ ách nạn đều khiến cho hưng lập công đức vô cực th́ biết tấm ḷng này măi măi chẳng thể tận.

 Ngài Bồ tát A Soa Mạt nói với ngài Xá Lợi Phất rằng :

 - Sở tập của Bồ tát cũng chẳng thể tận. Sở dĩ v́ sao ? V́ sử dụng việc Bố thí nên chẳng thể tận. Những sự có thể ban cho th́ đó gọi là tập Thí độ vô cực. Đối với tất cả vật nhiều ít lấy đủ, chẳng dùng miệt mài th́ đó gọi là Giới độ Ba la mật. Tất cả sự nhiễu loạn đối với thân Bồ tát mà chẳng khởi lên ḷng sân dù chỉ như một sợi lông một cọng tóc th́ đó gọi là tập Nhẫn độ vô cực. Sự tích lũy công đức thường ở trước chúng mà chẳng ở sau chúng th́ đó gọi là tập Tấn độ vô cực. Tất cả sở học đều siêng dụng tâm th́ đó gọi là tập Tịch độ vô cực. Những điều nghe học đều muốn thông đạt th́ đó gọi là tập Trí độ vô cực. Bồ tát thường tu học với Đại từ. Sao gọi là Đại từ ? Nếu có người nguy nạn đến qui y ḿnh, muốn cầu cứu tế th́ thà mất thân mạng chẳng phụ lời yếu thệ. Đó gọi là tập Từ. Người hành ai ấy như được khen ngợi hoặc có thêm lợi ích chẳng lấy làm vui vẻ, giả sử có người bài báng chẳng lấy làm lo buồn th́ đó là Bồ tát tùy thời xót thương b́nh đẳng. Sở học của Bồ tát th́ do ba việc. Tịnh thân miệng ư, nhất định chẳng truyền bá điều ác, chưa từng nghĩ đến nghiệp tà ngu xuẩn. Bồ tát tuy tự học một ḿnh, không thầy mà cũng chẳng tự đại. Ư sở học ấy chẳng bỏ các thông mẫn tuệ của Phổ trí, nắm cả pháp của chư Phật và nghiệp của Bồ tát, ở tại sở cầu của con người chẳng đi ngược lại ḷng của họ, không có sự thiếu thốn, đạt đến tất cả pháp mà được tự tại. Bồ tát lại tập hối lỗi. Thân có tội ác chưa từng che giấu, dùng vô lượng phước khuyến trợ công đức. Bồ tát tu học, khen ngợi, khuyến thỉnh các đức Phật ban tuyên đạo nghĩa, siêng năng tuân phụng học tập pháp của bậc Chánh sĩ. Sở dĩ học pháp Chánh sĩ này là v́ muốn thành Chánh giác. Ḷng ấy kiên cố chẳng xả bỏ giáp đức Hoằng Thệ vô cực. Sở dĩ chẳng xả bỏ là v́ muốn hóa độ tất cả chúng sinh - Ngài Bồ tát A Soa Mạt nói với ngài Xá Lợi Phất - Bồ tát có bốn việc làm chẳng thể tận. Sao gọi là bốn ? Một là khai thị mọi tâm. Hai là pháp thí. Ba là răn dạy chúng sinh. Bốn là tích lũy công đức. Đó là bốn.

 Lại có bốn nữa. Một là tu tập tại nơi nhàn cư, núi non, chỗ riêng một ḿnh, có được bố thí ít nhiều lấy đủ mà thôi. Hai là đối với mọi công đức th́ không chán đủ. Ba là học rộng chẳng mệt mỏi. Bốn là sở nguyện, trí tuệ chẳng lấy làm nhọc nhằn. Đó là bốn.

 Lại có bốn nữa. Một là tính toan khuôn phép đo lường. Hai là tư duy gốc ngọn. Ba là trí suy ngẫm thông đạt. Bốn là việc suy nghĩ đủ khắp. Đó là bốn.

 Lại có bốn nữa. Một là ĺa khỏi mọi ác mà tu giải thoát vô thượng. Hai là giải thoát vô thượng ấy chính là Bồ tát giáo. Ba là mở các gốc ác. Bốn là nghĩ đến giải thoát vi diệu Vô thượng. Đó là bốn.

 Lại có bốn việc nữa. Một là hiểu được năm ấm. Hai là hiểu thấu bốn đại, đất nước lửa gió. Ba là tỏ rơ căn nguyên sáu suy. Bốn là sự nh́n thấy mười hai nhân duyên ấy không có biên tế (bờ cơi). Đó là bốn.

 Lại có bốn việc nữa. Một là lời nói sinh tử vô thường mà chẳng thể tận. Hai là lời dạy khổ đau. Ba là lời dạy bảo không ngô ngă. Bốn là nghiệp vô vi tịch mịch cũng không thể tận. Đó là bốn

 - Ngài A Soa Mạt nói với ngài Xá Lợi Phất - Nói tóm lại, những học tập của Bồ tát đều gần với Phật đạo. Do đó cho nên phân biệt đạo và tục đều chẳng thể tận.

 Ngài Bồ tát A Soa Mạt nói với ngài Xá Lợi Phất rằng :

 - Bồ tát tu hành tâm chẳng thể tận. Sở dĩ v́ sao ? V́ đối với mọi công đức mà chẳng giải đăi. Theo thứ tự chuyển dần lên mà thành tựu những chỗ ấy. Cái gọi chỗ ấy là thập địa của Bồ tát. Sự tu hành ấy giống như biển cả tu măi không chán. Sở dĩ vậy là v́ trong nhiều việc cứu độ tất cả chúng sinh th́ sự tu hành ấy là đứng đầu. Sở dĩ vậy là v́ vượt lên trên sự tu hành ấy th́ có thể nắm lấy tổng quát sự tu hành tôi thượng. Những người ở dưới khiến cho chuyên tu hành tất cả pháp, hoặc thọ tŕ mọi thiện căn. Sở dĩ v́ sao ? V́ do tối tôn vậy. Sở dĩ tu nhân độ th́ thọ quyết (kư), đều nhờ chuyên tinh sử dụng bất thoái chuyển, tự ḿnh đạt đến đầy đủ. Nhân sự chuyên tinh ấy mà sở nguyện liền thành. Đă thành Đại nguyện th́ sự tu hành ấy măi măi không sự cậy nhờ. Đó là Định ư. Nương sự tạo hạnh mềm dẻo tu hành mà chẳng khuyết lậu. Tu hành điều phục ư, chính đạo nghiệp tu hành ấy phải tự giữ ǵn. Sở dĩ v́ sao ? V́ do chẳng cùng với mọi ác tùng sự nữa. Chuyên tinh bố thí, Bồ tát chẳng để cho thân tâm có sự tham ái càng tăng lên. Chuyên tinh phụng giới cũng là rất khó. Sở dĩ vậy là v́ dạy người phạm giới khiến cho chẳng làm ác. Chuyên tinh nhẫn nhục cũng là rất khó. Sở dĩ và là v́ tuy ở địa vị tôn quí, của cải giàu có cực vui mà chẳng khinh kẻ nghèo hèn, gầy yếu, liệt nhược. Đó là Nhẫn nhục. Việc chuyên tu hành tinh tấn là khó và ngồi dưới gốc cây Phật. Nếu có người đến nói rằng, dậy tránh đi cho ta ngồi chỗ ấy, th́ trước chọn lấy Phật đạo, rồi nhường chỗ cho người ấy. Đó là tinh tấn. Chuyên tinh thiền tư sở dĩ khó là v́ không thể đuổi theo kịp. Việc tu chuyên tinh liền có thể thành tựu đầy đủ, không điều ǵ hy vọng. Đó gọi là Thiền tư. Chuyên tinh trí tuệ là khó. Sở dĩ v́ sao ? V́ tích lũy công đức chẳng lấy làm nhọc nhằn, phiền nhiễu. Đó là trí tuệ. Ra vào, bước đi an tường, ḥa nhă, uy nghi đầy đủ. Sở dĩ vậy là v́ người ấy công đức phước lộc mạnh không thể nguy hại. Tu vô sở úy hiểu rơ pháp sâu, câu kết lẽ huyền vi, đạt đế cao xa nên phụng tu ḷng tôn quí. Sở dĩ vậy là v́ ánh sáng ấy rất vi diệu, không ǵ chẳng đạt nên hành chẳng thể tận. Sở dĩ v́ sao ? V́ sự trụ ở kiên cố. Sao gọi là chuyên tinh ? - Ư ấy thản nhiên luôn nghĩ tất cả. Người không chỗ nương th́ khiến cho họ được nương. Nếu có người tối tăm th́ khiến họ nh́n thấy ánh sáng đạo. Người không chỗ về th́ đều nhân được nơi về của họ. Kẻ ấy không bạn lành th́ làm bạn lành của họ. Người dua nịnh th́ khiến họ tu chất phác. Thấy người kia thô ác th́ hiển thị nhẫn nhục, nhu nhuyễn, ḥa nhă. Sở dĩ v́ sao ? V́ dùng đức giáo hóa nên tại trong dối trá lọc lừa (quỉ quyệt) mà v́ họ lộ bày nghĩa chân chánh, ở trong trang sức mà chẳng thêu dệt lớn, tại nơi không đáp lại mà hành báo ân đức, tại chỗ mọi ác mà làm thiện, tại chỗ phế bỏ thoái lui mà tu phúc đức, tại chỗ khinh mạn thường hành cung kính, tại chỗ cống cao chẳng mang ḷng tự đại, tại chỗ cầu phương tiện không thể được lầm lỗi, chẳng nghĩ cái ác của người, chẳng tuyên dương khuyết lậu. Nếu tại nơi bất chánh th́ liền đi đến nuôi hộ khiến họ vào với chánh đế. Tất cả chúng sinh đi đến được thấy chánh đế th́ vui mừng, ḷng không sân nhuế. Nếu có can ngăn dẫn dụ thị hiện tiến lùi nên phải vậy hay chẳng vậy th́ ḷng không thêm bớt, thuần tín việc làm họa phước sẽ về với thân. Hoặc ở tại chỗ đồng trống, núi non th́ cũng theo đúng như pháp không khác, chẳng tham lợi hại, chẳng tiếc thân mạng. V́ tâm thanh tịnh ban đầu chẳng tăng giảm, thường thủ hộ miệng ḿnh chẳng dối truyền lời nói, chẳng cầu phụng kính. Sở dĩ v́ sao ? V́ luôn luôn biết tiết chế hạn lượng, chỉ túc mà thôi. Tâm ấy nhu ḥa, chẳng theo tệ ác mất lễ nghĩa th́ có công đức, qua khỏi sinh tử, dứt mọi khổ hoạn. Sở dĩ v́ sao ? Do đó cho nên tuệ ư Bồ tát vĩnh viễn chẳng thể tận, sinh tử qua lại cũng chẳng thể tận. Dùng quyền phương tiện, sáng tỏ tùy lúc dạy răn chúng sinh, mê muội đến cuối rồi lại bắt đầu. Chẳng thể tận là khiến cầu ánh sáng Phật đạo chẳng thể tận.

 Ngài Xá Lợi Phất hỏi ngài A Soa Mạt rằng :

 - Vả có cái chẳng thể tận khác ư ?

 Ngài A Soa Mạt đáp rằng :

 - Có !

 Hỏi rằng :

 - Cái đó là ǵ ?

 Ngài A Soa Mạt đáp rằng :

 - Bồ tát Bố thí lại chẳng thể tận. Sở dĩ v́ sao ? V́ lục độ vô cực chẳng thể tận nên Bồ tát bố thí đều không có giới hạn. Cái gọi là hạn là cái này phải, cái này chẳng phải, phải thí cho người này, chẳng thí cho người này... Bố thí mà chẳng cứu giúp đều khắp th́ chẳng nên làm bố thí.

 Ngài Xá Lợi Phất hỏi rằng :

 - Theo pháp Bồ tát phải bố thí ra sao ?

 Ngài A Soa Mạt đáp rằng :

 - Người đói th́ cho ăn ! Sở dĩ v́ sao ? Con người nương vào ăn mặc mới được c̣n mạng, có thể sống lại, ngồi, đứng, nói năng được yên ổn, thân thể khang ninh, khí lực cường thịnh. Kẻ khát cho họ uống nước th́ tiêu trừ cái khát. Sở dĩ v́ sao ? V́ nếu đời sau Bồ tát xoay vần trong sinh tử thường chẳng khao khát thiếu thốn. Có người cầu xe th́ liền theo ư họ mà cho. Do quả báo này mà chỗ sinh đời sau, đi đến sở tại bằng thần túc phi hành. Kẻ không áo ấy nhờ được ban cho áo nên cuộc sống đời sau chẳng đường đột mạo phạm mà thường ôm giữ tàm quí. Nếu ở chỗ tối tăm thí cho đèn lửa th́ được đạo nhăn thấy thông mười phương. Nếu ở trước Thế Tôn, sư phụ, tự xá, hai thân (cha mẹ) trưởng lăo mà tấu xướng kỹ nhạc để làm vui họ th́ cuộc sống đời sau được đạo nhĩ (tai đạo) nghe suốt, nghe không cùng cực. Nếu người không hương thơm mà thí cho hương thơm th́ cuộc sống đời sau đạt được giới hương, huệ hương, định hương, giải thoát hương, độ tri kiến hương, thân này được phủ hương đức huân. Nếu lại có người danh huân đủ loại hương liền cho sự ưa thích th́ thân thể đời sau hương thơm thanh khiết, không ai chẳng vui mừng. Nếu có mùi vị khác lạ ngon ngọt mà người đến xin liền cho theo ư của họ th́ cuộc sống đời sau thường được ăn uống món ngon. Hoặc miếng ăn chẳng ngọt mà vào miệng liền trở thành ngon là do sự gieo trồng đời trước nên được cái tướng này. Nếu người không có khăn tay mà nhân đó ban cho th́ cuộc sống đời sau thanh tịnh không bẩn, được sự ủng hộ của người. Với kẻ không có người hộ mà v́ họ nuôi hộ giống như nhà cửa. Sở dĩ ví như nhà cửa che chở con người là v́ tùy theo sự thiếu thốn của họ mà thí cho. Cuộc sống đời sau của người hành thí này đều thu hoạch xứng đáng, liền được chu cấp. Người bệnh cho thuốc thang th́ thân thể trong cuộc sống đời sau thường không bệnh, chẳng sinh, chẳng chết, không có mọi hoan nạn, luôn luôn được yên ổn, tất cả đầy đủ, không chỗ nào chẳng là chủ. Với người không kẻ sai khiến mà cấp cho nô tỳ th́ cuộc sống đời sau tự nhiên đầy đủ, vua chúa muôn cỗ xe, chế trên, ngự dưới, không có ǵ thiếu thốn. Với kẻ cầu chúng bảo mà có thể ban cho th́ cuộc sống đời sau đầy đủ hết, thành tựu ba mươi hai tướng của bậc đại nhân. Bố thí đủ thứ vật, ngần ấy chủng loại th́ cuộc sống đời sau được tám mươi thứ vẻ đẹp. Bố thí voi ngựa th́ đời sau được ư Đại thừa vô cực. Đem ruộng thí cho th́ nhân đó được đầy đủ Tịch độ vô cực. Đem vợ con thí cho, ban cho của yêu quí mà đời sau ḷng không khác th́ sẽ được Phật đạo. Sở dĩ v́ sao ? V́ Phật là đấng cực thượng tôn, không ai sánh bằng. Giả sử có người theo Bồ tát ấy cầu đầy kho lúa, Bồ tát có thể cho chưa từng tham lận (gian lận) th́ đời sau đạt được pháp tạng, đầy tràn đạo tuệ, không thiếu thốn ǵ. Giả sử Bồ tát được làm vua Chuyển Luân, chúa bốn thiên hạ, bảy báu tràn đầy. Nếu có người đến xin mà chẳng yêu tiếc, liền có thể đem cho hết th́ cuộc sống đời sau chứng được Nhất thiết trí, các thông Thánh tuệ, tế độ rộng răi tất cả. Đem kỹ nhạc vi diệu mà thí cho th́ đời sau được niềm vui Kinh điển. Do niềm vui pháp nên không ǵ chẳng vui vẻ. Nếu v́ người có thế lực địa vị có ḷng trung thành giúp đỡ hành pháp Bồ tát giống như bề tôi trung của bậc vương giả. Có người đến cầu sự giúp đỡ cai trị của ḿnh th́ liền có thể thí cho. Do đó cho nên đời sau đối với Phật pháp giáo, Bồ tát muốn ngồi đạo tràng ở dưới gốc cây Phật, hàng phục ma binh. Dùng tay thí cho người th́ đời sau đứng đầu tất cả đạo pháp. Người bố thí tai, mũi th́ thân đời sau đầy đủ, không một khuyết lậu. Người dùng mắt bố thí th́ đời sau chứng được Pháp nhăn, đứng đầu tất cả mắt đạo pháp. Người dùng đầu bố thí th́ chỗ sinh ra đời sau, được ba đời đặc biệt tôn trọng, độc bộ không bạn bè với những thông mẫn tuệ. Người bố thí da thịt th́ đời sau thành Phật đạo người đến nghe Kinh xả bỏ những bất thiện, đều thu hoạch Bồ tát chân chính. Người phá xương đem tủy bố thí th́ đời sau được Phật đạo, thân như kim cương, không thể lay động.

 Ngài A Soa Mạt nói rằng :

 - Bồ tát chẳng dùng sắc, mà có sự bố thí là do tu chánh. Nếu người đến cầu nhiều, người sau cầu ít th́ đều cho khắp, khiến cho đều được đủ. Hoặc khi thí cho chẳng khủng, chẳng bố, chẳng úy, chẳng cụ, không kham, hành khí chẳng ôm ḷng hối hận, chưa từng biến đổi. Bồ tát bố thí không khinh mạn, chuyên tâm mà cho. Bố thí không dua nịnh, chẳng đem vật ác, đồ không đúng yêu cầu để cho người. Bồ tát bố thí chưa từng quan sát người này có phúc lộc, người kia có tội ương, không có hồ nghi, chẳng phân biệt tốt xấu, chẳng giữa chừng đoạn dứt và sót lọt việc bố thí. Sao gọi là giữa chừng đoạn dứt và sót lọt sự bố thí ? Ở trong đại hội riêng cho một người, chẳng cho một người mà đều muốn tế độ khắp cùng. Sở dĩ v́ sao ? V́ việc bố thí của Bồ tát thường mang ḷng thuần tín, chẳng nghĩ đến mệt mỏi, giải đăi, không cho bố thí là hoạn nạn, phiền năo. Bồ tát bố thí chẳng kêu gọi người đến trước mà mắt tự thấy mặt mới thí cho. Bồ tát cũng chẳng suy nghĩ người này thiện, người này ác, chẳng nhất định chọn t́m được người thành đạo đến mới cho. Sau khi cho người chẳng nghĩ rằng người này đă được đạo, người này chẳng được đạo. Bồ tát thí cho mà thấy người phụng tŕ giới đến nhận vật ấy chẳng lấy làm vui mừng, thấy người không giới cũng không dị tâm (khác ḷng). Việc thí cho ấy, Bồ tát chẳng mong được đền đáp lại. Có được người để bố thí, Bồ tát cũng chẳng cầu danh xưng, khiến cho xa gần đều nghe, chẳng tự kể lễ, chẳng ghét, bài báng sự thí cho của Bồ tát, chẳng gây phiền năo, nhiễu loạn, bố thí chẳng mang ḷng hối hận, bố thí không sân nhuế, bố thí không vui mừng. Bồ tát bố thí chẳng nghĩ đời sau sẽ được phước ấy, chẳng khởi ḷng giận dữ mắng chửi bố thí ngu dại. Có người đến cầu xin Bồ tát chẳng khước từ người đó trước rồi mới thí cho, chẳng khinh dễ bố thí, chẳng nhờ người khác đem vật đến cho. Sở dĩ v́ sao ? V́ phải tự tay ḿnh châm chước. Bồ tát cũng chẳng nghĩ rằng, người ở trước mặt ta th́ được cho, kẻ chẳng ở trước mặt ta th́ ta chẳng thí cho. Bồ tát bố thí không ngăn ngại, bố thí hết ḷng ḿnh, chẳng bố thí làm cho nổi bật, tự tay trao cho, chẳng bố thí trầm ngâm, khi cho, khi chẳng cho. Bồ tát chẳng nghĩ rằng, công việc bố thí của ta mệt mỏi và cực nhọc. Bố thí cho người theo đến xin chẳng nhiều, chẳng ít, chẳng chọn lựa vật xấu đem cho, vật tốt để lại. Nếu có người đến cầu xin th́ Bồ tát theo đúng lời yêu cầu của họ chưa từng giảm bớt. Việc bố thí của Bồ tát là thương nghĩ chúng sinh rộng răi không có thiên lệch, muốn khiến cho người nhận thường được yên ổn. Hoặc thi khí cho th́ nghĩ người ấy là người ở trong đất nước của ḿnh. Sở dĩ v́ sao ? V́ tất cả đều là đất đạo (đạo địa) của Bồ tát vậy. Lại, người đă thí, ít chẳng khinh ḿnh, nhiều chẳng vui mừng, Bồ tát tuy bố thí nhiều người mà chẳng tự xét rằng, ta nay bố thí rộng răi đă cho đúng như pháp, không hy vọng. Bồ tát bố thí chẳng nghĩ đến phước này th́ sẽ có cuộc sống nhận được quả báo của công đức ấy. Sở dĩ v́ sao ? V́ bố thí th́ đối với tất cả chúng sinh được nhờ ơn mà người đă thí cũng chẳng nghĩ đến. Bồ tát nghĩ rằng, ở trên trời dưới trời, trong loài người ta riêng đạt đến thế lực tôn quí, việc thí cho ấy là khắp v́ chúng sinh. Ta chẳng dùng phước ấy mà mưu cầu địa vị Phạm Vương, Đế Thích, Tứ Thiên Vương. Ta cũng lại chẳng tham địa vị Chuyển Luân Thánh Vương, chẳng tập theo ḷng của hàng Thanh văn, Duyên giác. Bồ tát thí cho, ḷng chẳng nghĩ rằng, việc bố thí đầy đủ, cũng chẳng nghĩ thiếu. Đủ cùng chẳng đủ mà có người được thí th́ khiến cho tất cả mọi người chẳng ĺa khỏi các thông mẫn tuệ của Phật. Người đă thí cho thường cho ngay lúc ấy, không có ai chẳng được đáp ứng, chẳng đem binh khí, thuốc độc thí cho, đem yên ổn thí cho người, chẳng gia thêm nhiễu hại. Bồ tát bố thí theo pháp giáo của đức Phật, những cái có thể ban cho th́ biết tất cả đều rỗng không. Sở dĩ vậy là v́ nhân duyên có sự hưng phát. Do vậy cho nên mà chẳng thể tận. Người đă thí cho đều hiểu vô tướng, v́ các tưởng kiến lập nhân duyên ấy nên chẳng thể tận. Người đă bố thí đều đạt vô nguyện, v́ các nguyện tạo tác nhân duyên lành, do đó cho nên chẳng thể tận. Do ư đạo pháp mà có sự bố thí. Tâm ấy kiên cường đầy đủ, rất yên ổn, không ǵ phá hoại. Việc bố thí của Bồ tát nếu ở tại ba cơi không thể đạt được th́ việc có thể thí cho muốn khiến cho phước ấy chảy về tất cả nghiệp của Bồ tát. Chí ấy thường kiến lập tâm Nhất thiết trí. Do đó cho nên là chẳng thể tận. Người đă thí cho do thoát khỏi các tưởng, nắm hết mọi ma khiến cho chúng chẳng tự tại, ĺa khỏi các phiền hà nên chẳng thể tận. Bồ tát đă thí cho mọi sự siêu dị, sáng tỏ Nê Hoàn. Đă có thể bố thí th́ giải quyết mọi ḷng hồ nghi nên chẳng thể tận. Người đă thí cho là chánh trụ ở Phật đạo, chẳng mang tấm ḷng khác. Việc bố thí ngang bằng với nguyện nên chẳng thể tận. Việc bố thí của Bồ tát là ngồi dưới gốc cây Phật, được thành Chánh giác. Người đă thí cho và vô ương số chẳng thể xưng kể các loài chúng sinh đều nhờ ơn tế độ nên chẳng thể tận. Ngài đă thí cho chẳng thể tận, việc ấy rộng lớn. Người đă thí cho v́ được đạo xứ nên không thể lay động, không thể vượt qua, huống lại là người bố thí nên chẳng thể tận. Người đă thí cho th́ ḷng họ thản nhiên như Nhất thiết trí nên chẳng thể tận.

 Ngài Xá Lợi Phất nói rằng :

 - Hay thay ! Hay thay ! Thưa ngài A Soa Mạt ! Ngài đă khen sự bố thí và sự chẳng thể tận của Bồ tát. Khoái thay ! Đến vậy ! Tôi nguyện muốn thính thọ cấm giới chẳng thể tận !

 Ngài A Mạt Soa nói rằng :

 - Giới thanh tịnh của Bồ tát cũng chẳng thể tận, có sáu mươi bốn việc. Những ǵ là sáu mươi bốn ? Bồ tát hành động thương người, chẳng ôm ḷng độc hại thêm cho chúng sinh. Thân cũng chẳng giết hại, chẳng lấy vật của người, chẳng xâm phạm vợ người khác. Nếu thấy Bồ tát kịp hướng đến chúng sinh th́ thường hành chí thành, chưa từng nói hai lưỡi. Có người tranh tụng th́ Bồ tát thường ḥa giải họ, nhất định không mắng chửi, chẳng nói lời ác khẩu. Sở dĩ v́ sao ? V́ Bồ tát thường có xấu hổ, nói năng giữ miệng, chẳng nói dối sự việc. Đối với tất cả mọi người chẳng có ư niệm ganh ghét, chẳng hưng khởi ḷng sân nhuế hướng đến chúng sinh. Sở dĩ v́ sao ? V́ nhờ sự có thể nhẫn này mà đời sau được đoạn chính. Tâm ấy thường chân chính chẳng phụng sự học phái khác, luôn luôn mang ḷng vui thích tại nơi Phật đạo. Sở dĩ v́ sao ? V́ tâm ấy thanh tịnh không có trần cấu, yêu thích Phật pháp. Sở dĩ vậy là v́ lư giải pháp không có khác mà có thể vượt lên, hết ḷng tại đạo, dụng tâm nhân từ vậy. Nếu thấy Sa môn, phạm chí liền dùng năm vóc mà tự qui y lễ bái. Cái ǵ là năm ? - Hai tay, hai gối và đầu cổ cúi xuống dưới chân. Sở dĩ v́ sao ? V́ nhân được Phật đạo mà tất cả qui y, tâm thường nhu nhuyến, thấy người vi phạm điều sai trái, răn dè ḿnh chẳng v́ việc chẳng khiếm khuyết giới. Không có tâm Thanh văn, Duyên giác nên đối với các phạm giới mà không có ǵ để phạm. Sở dĩ v́ sao ? V́ đời sau con người chẳng muốn sinh ra ở tại gia đ́nh đánh cá, săn bắn ngu tối nên thường tu tinh tấn mà chẳng giải đăi. Sở dĩ v́ sao ? V́ chẳng tùng sự chung với lũ tà ác. Giới cấm đầy đủ chưa từng khuyết lậu, thân cận kẻ trí đức hiểu được thâm pháp, chẳng vi phạm, dốc ḷng tin cấm giới, phụng tŕ chân chính, thuận theo giới đúng như pháp tất cả chúng sinh đều khen ngợi. Sự hộ tŕ giới cấm ấy trong suốt chí chơn. Bản tâm khoái lạc nên hành tŕ giới, không thể truyền đạt lời nói sai quấy lỗi lầm ấy. Ḷng không tà vậy nên giới ấy đầy đủ, chẳng lại mê hoặc theo sáu suy. Giới hạnh đă phụng tŕ không điều ǵ chẳng tuyên dương, nghe hết những hiểu biết của các đức Phật Chánh Giác. Giới không có cái để cầu như điều ḿnh ưa thích, Giới là biết dừng đủ, không cái để tham lam. Giới ấy thuần khiết trong trẻo, chẳng xen tạp các ác, thân ư thản nhiên không điều ưa thích, thường ưa nhàn cư, chưa từng vui thích theo mọi náo loạn. Giới có thể hoàn bị đúng như lời dạy của đạo pháp, chẳng theo người khác thọ nhận. Cẩn thận cấm giới chẳng lấy quần áo đẹp mà làm đức trang sức, không thể đạt được lời thề đúng như bản nguyện. Cấm giới chẳng lấy ngon ngọt mà làm loạn ư được. Sở dĩ v́ sao ? V́ có đạo lực chế ngự mọi ác. Việc làm đúng như Giới th́ chư thiên, nhân dân không ai chẳng vui mừng. Hành giới từ tâm ủng hộ chúng sinh. Tu giới bi ai nhẫn nhịn mọi khổ. Tuân theo giới Hộ chẳng giải đăi. Dùng giới tâm b́nh đẳng (đẳng tâm giới) v́ tất cả chúng sinh, mặc cho thiện ác, không hai ḷng. Thường xem xét cấm giới chẳng làm tổn hao, chẳng nghe theo ḷng ấy mà v́ nó ruỗi dong. Giới chẳng nghĩ đến ác, chẳng truyền cái sai quấy của người mà ủng hộ tất cả. Nắm giữ cấm giới kiên cố chẳng nghe theo sự ham muốn của ư ấy. Thuận theo giới bố thí mà nuôi dưỡng tất cả chúng sinh. V́ giới nhẫn nhục mà chẳng dấy ḷng. Để tâm vào giới tinh tấn th́ chẳng hồi chuyển. Giới thiền tư th́ được an định. Phụng giới trí tuệ th́ rộng nghe chính nghĩa không chán đủ. Tu giới nghe rộng (học rộng) th́ giác ngộ pháp cốt yếu. Theo giới thầy lành th́ đạt các pháp. Bỏ giới thầy ác th́ ĺa khỏi mọi tà học, những con đường chẳng chân chính. Giới không cậy thân th́ biết những vạn vật đều vô thường. Giới chẳng tham mạng th́ nghiệp công đức ấy như vàng ṛng tía. Giới không hối hận th́ ư ấy thanh tịnh. Giới không hư sức (trang sức rỗng) th́ học thanh tịnh. Giới chẳng phiền hà th́ ư ấy tươi sáng không cấu bẩn. Giới chẳng đốt cháy th́ chẳng thiêu thân. Giới chẳng mê hoặc th́ chẳng theo dục. Giới chẳng nguy hại thiêu đốt th́ không sự nguy hại. Giới không xúc chạm th́ ḷng chẳng loạn. Giới phục tâm th́ ư không lầm. Giới thông tịch tịnh th́ chẳng bị sự dấy lên của nghiệp thế tục. Giới thuận chân chính th́ trí đúng như lời dạy. Giới đủ các nguyện là gốc thanh tịnh như giới của Như Lai. Sở dĩ v́ sao ? V́ tùy theo điều cần yếu căn bản. Như đức Phật định giới thường mang ḷng b́nh đẳng độ chúng sinh, theo giới Nhất thiết trí vào cửa đạo. Sở dĩ v́ sao ? V́ chẳng ôm hận. Đó là sáu mươi bốn việc của Bồ tát để thanh tịnh cấm giới mà chẳng thể tận.

 Ngài A Soa Mạt Bồ tát lại nói với ngài Xá Lợi Phất rằng :

 - Bồ tát lại có tịnh giới, chẳng tự tham thân, chẳng nghĩ tất cả, chẳng tưởng ngă nhân, chẳng kể thọ mạng, chẳng nghĩ sắc thọ tưởng hành thức, chẳng cậy bốn thứ đất nước gió lửa, mỗi thứ đều có giới bốn đại. Chẳng có nhăn sắc, nhĩ thanh, tỵ hương, thiệc vị, thân xúc, tâm pháp, không thân miệng tâm... giới ấy hướng về thanh tịnh, tướng này một ḷng mà chẳng mê man. Giới quan sát kỹ các pháp đă qua khỏi không, không tướng, chẳng nguyện, cũng không h́nh tượng, qua khỏi ba cơi, chẳng chấp trước, chẳng trói buộc. Giới ấy chẳng nghĩ vậy nên chẳng bị đă sinh ra. Sở dĩ v́ sao ? V́ không chỗ sinh. Sở dĩ vậy là v́ giới không việc làm ǵ chẳng làm mà vốn không tạo tác. Do đó cho nên giới không có giới hạn bộ phận, việc dừng giữa chừng cũng không chỗ dừng. Sự thanh tịnh của ư là nhận thức của giới cũng không chỗ trụ. Sở dĩ v́ sao ? V́ không tưởng niệm. Giới không có sự câu thúc. Sở dĩ vậy là v́ không có dục lực, cũng chẳng trụ ở sắc, cũng chẳng trụ vô sắc mà đều đồng trần (đồng chung với thế gian). Đó gọi là Giới. Ĺa khỏi cái nhân dâm nộ si, thoát khỏi ngu tối nên gọi là Giới. Chẳng chấp trước, chẳng đoạn tuyệt, xả bỏ mười hai duyên nên gọi là Giới. Chẳng nghĩ ngă sở trừ ngă chẳng ngă, chẳng trụ ở dục nên đó gọi là Giới. Không tác, chẳng cầu, chẳng trụ sắc tưởng, cũng chẳng ở tại tất cả danh sắc nên đó gọi là Giới. Chẳng theo nhân duyên, không phiền, không hà, vô ngă, phi ngă, chẳng cùng với nghi hoặc ḥa hợp, vậy nên gọi là Giới. Cũng chẳng tham phước, chẳng không công đức v́ vượt qua các ác, việc phi pháp. Sở dĩ v́ sao? - V́ ngu là phi pháp nên gọi là Giới, không có ưu năo, thân tâm ấy dừng (chỉ) nên gọi là Giới. Người phụng tŕ trọng giới th́ như bệnh được hết bệnh, chẳng đoạn tuyệt sách vở chân chánh, kinh điển của chư Phật. Thân Pháp thản nhiên nên chẳng đoạn đứt thân pháp. Sở dĩ v́ sao ? V́ không hai nghiệp : Một là chẳng chấp trước, hai là chẳng đoạn tuyệt. Chẳng đoạn cái nhân dùng để giải thoát của Thánh chúng, chẳng đoạn các học. Sở dĩ v́ sao ? V́ thuận theo cấm giới.

 Ngài A Soa Mạt Bồ tát nói với ngài Xá Lợi Phất rằng :

 - Cái nhân vốn thanh tịnh nên chẳng thể tận. Sao gọi là tục giới ? Đó gọi là chỗ sinh tử cũng có tận vậy. Sở dĩ v́ sao ? V́ tại nơi năm đường nên gọi là tận. Sở dĩ tận là v́ có qua lại nên chẳng trụ một chỗ. Ngoài giới của thần tiên ngũ thông, trí của thế tục cầu mạng tận thần túc sống lâu hơn. Sở dĩ v́ sao ? V́ giới cấm tận. Giới của người, mười thiện cũng có tận nữa. Sở dĩ v́ sao ? V́ trái bỏ giới. Giới của các thiên tử cơi dục cũng có tận. Sở dĩ v́ sao ? V́ công đức hết. Định giới của các thiên tử cơi Sắc cũng tận. Sở dĩ v́ sao ? V́ định ấy loạn. Tịch giới của các thiên tử cơi Vô Sắc cũng tận. Sở dĩ v́ sao ? V́ định ư mê man. Giới của bậc học, bậc vô học, bậc A la hán... những đạo tích ấy cũng tận. Sở dĩ v́ sao ? V́ nương cậy vào Nê hoàn. Giới của Duyên giác ấy cũng lại có tận. Sở dĩ tại sao ? V́ không Đại ai vậy.

 Ngài A Soa Mạt nói với ngài Xá Lợi Phất rằng :

 - Chỉ có riêng một ḿnh giới Bồ tát là không thể tận.

 Ngài Xá Lợi Phất hỏi :

 - V́ những ǵ mà giới Bồ tát chẳng thể tận ?

 Ngài A Soa Mạt đáp rằng :

 - Giới ấy tận th́ ấy đều chẳng phải giới. Sở dĩ giới Bồ tát chẳng thể tận là v́ tâm ấy chẳng xả Nhất thiết trí, là giới chính chân, v́ chẳng đoạn tuyệt chủng tử nên chẳng thể tận. Sao gọi là đạo quả quả thật không tận ? Cái gọi chủng tử là gọi tâm Bồ tát. Cái gọi quả thật là thập lực của đức Phật... Đến chẳng thể tận nên gọi là Giới của Bồ tát chẳng thể tận.

 Ngài A Soa Mạt nói với ngài Xá Lợi Phất rằng :

 - Nhẫn nhục của Bồ tát cũng chẳng thể tận. Chúng có ba mươi hai việc. Những ǵ là ba mươi hai việc vô tận ? Chẳng đắm trước dục th́ chẳng dấy khởi ư niệm này : Là thân của vợ con ta đều chẳng xâm phạm, chẳng khiến cho người khác xâm phạm. Vậy nên nhẫn nhục cũng chẳng thể tận. Chẳng nghĩ mọi ác, chẳng hận tất cả, chẳng sân giận chúng sinh, chẳng nghĩ đến cái ác của người, chẳng cùng người tranh tụng, chẳng quên trợ giúp người. Có sự hủy báng kích bác cũng chẳng che dấu đùa cợt, tự hộ thân hành, nuôi hộ mọi người, thận trọng tâm ḿnh chẳng buông theo, thường nghĩ đến đức lành, không có ư ái dục, đức trang nghiêm thân, tin làm thiện hay ác sẽ được báo ứng, miệng chẳng nói dối, tâm ấy thanh tịnh. Tâm Bồ tát mạnh mẽ chẳng bỏ tất cả, tự suy tính kỹ càng tà niệm trong ḷng mà hiểu biết chúng. Ḷng ḥa thuận nhu nhuyến nuôi hộ ḷng ấy khiến cho việc ác chẳng sinh. Bồ tát tu hạnh thanh tịnh sinh lên cơi Phạm thiên, rồi từ trên trời xuống trở lại nhân gian, đầy đủ tướng đức, tám mươi vẻ đẹp, đạt đến ḥa âm giống như Phạm thiên thóat dâm nộ si. Chẳng dùng dung nhan ác sân hận hướng về con người, việc làm công đức chưa từng quên mất, hàng phục ngoại học và mọi thuật tà khác, bỏ hết mọi bệnh, chẳng gặp ách nạn, thuận theo đầy đủ đạo pháp của chư Phật. Đó là ba mươi hai việc nhẫn nhục đều chẳng thể tận, chính là nhẫn nhục của Bồ tát. Sao gọi là nhẫn nhục ? - Như bị mắng chửi mà thân lặng lẽ chẳng ḥa theo họ. Như bị người đánh đập mà chẳng nghĩ đánh trả lại họ. Đó gọi là Nhẫn nhục. Sở dĩ v́ sao ? V́ chẳng thấy người đánh, chẳng nh́n thấy thân ḿnh và cây gậy vốn không. Như có người sân giận cũng chẳng ôm hận. Lời nói như huyễn hóa. Người kia khởi ư đến mà ta chẳng sinh ḷng đối nghịch th́ có thể hàng phục được ư. Nếu người nghĩ ác th́ ḷng như chẳng biết, tự nghĩ suy rằng, người ấy mang theo ác, ta chẳng nên bắt chước. Có người khen ngợi th́ chẳng cảm động vui mừng. Sở dĩ v́ sao ? V́ chẳng phát sinh ư niệm này th́ được ích lợi vậy. Hàng phục tâm nên nếu có suy hao, chẳng lấy làm lo buồn, ḿnh tự biết đủ. Thấy người khen chẳng lấy làm tốt đẹp. Nếu có người bài báng chẳng lấy làm xao động. Sở dĩ v́ sao ? V́ trí rộng lớn. Có người cung kính chẳng tự cống cao, sửa tính yên ổn. Người bày lễ bái chẳng lấy làm vui vẻ, cũng chẳng nói rằng, ông nên phải vậy. Nếu được địa vị thế lực chẳng lấy làm tự đại. Sở dĩ v́ sao ? V́ ḷng chẳng động vậy. V́ thương xót chúng sinh nên tuy ở tại cần khổ mà chẳng cho là hoạn nạn chán nản. Ở tại chỗ vui chẳng lấy làm vui mừng. Hiểu rơ việc thế tục đều là vô thường, chẳng v́ tám việc đời (tám nạn) mà thấy khuynh động. Sở dĩ v́ sao ? V́ sống trong đó mà chẳng bị sự quấây nhiễu của con người, nhất định chẳng đáp trả lại. Người không dám phạm th́ giả sử có người chia xẻ thân ḿnh thành từng đốt từng đốt mà đều có thể nhẫn được. Nhân muốn đầy đủ nghiệp của Bồ tát nên nếu có người hại thân th́ nhất định không có ư khác, rơ thân tứ đại hợp thành, tan diệt th́ có thể tham bao nhiêu cho đủ ? Sở dĩ v́ sao ? V́ nhờ nhẫn này nên sẽ được thân Phật. Nhẫn hết mọi năo hại chẳng thể kể là khó. Sở dĩ v́ sao ? V́ nhờ đó được đạt đến sự kiến lập yên ổn lớn đến đạo lực. Bồ tát nếu ở tại trong Phạm Chí học th́ hiện thân vào lửa không bị thương hại. Nếu muốn khiến cho người ấy biết ḷng thanh tịnh, hóa ư nghi hoặc khiến cho chí phản lại cái nhân chân thật th́ được lên trời. Phạm chí học ấy ưa thích đền thờ lửa th́ sự hiện vào của Bồ tát, không ǵ chẳng biến đổi, đạo đức siêu việt thù thắng không ai có thể theo kịp. Sở dĩ v́ sao ? V́ những Phạm vương, Đế thích, vua trời bốn phương đều cúi đầu trước Bồ tát và v́ ngài làm lễ. Nhẫn nhục của Bồ tát không có biên để (bờ, đáy). Do đó cho nên gọi là chẳng hết. Bị người mắng chửi mà nhẫn nhịn, chẳng lấy làm hận, cũng chẳng nghĩ là ai mắng chửi ta. Nhân sự tịch nhiên đó liền vào pháp nhẫn. Bồ tát chẳng suy nghĩ người đó mắng chửi mắt, tai, mũi, miệng, thân, ư của ta. C̣n nếu mắng chửi tâm ư ? Th́ mắng chửi ở đâu vậy ? Thông qua các suy liền đạt được pháp nhẫn chẳng nghĩ tất cả những ai đến mắng chửi th́ liền có thể được vào Nhẫn không người. Các nhẫn đó, th́ đều chẳng là nhẫn. Sở dĩ v́ sao ? V́ là giả có hiệu vậy. Chắc chắn kể ra nhẫn ấy giống như tiếng vang trong núi. Có hiểu được vấn đề này th́ vào được nhẫn vô thường. Chẳng nghĩ được ngă và được người khác, đạt đến nhẫn trung ḥa cũng chẳng tự nghĩ : Thân theo lời pháp giáo, người nào đó (mỗ) chẳng trụ ở pháp. Đó gọi là nhẫn. Ta, một ḿnh trụ ở đạo, c̣n người khác th́ chẳng kiến lập đạo, chẳng dấy khởi ư niệm ấy. Ta nghĩ không chẳng nghĩ thật, nghĩ không tư tưởng chẳng nghĩ có tưởng, nghĩ nhẫn không c̣n chẳng nghĩ nhẫn khác, nghĩ nhẫn không nguyện chẳng nghĩ nhẫn có nguyện, không sinh tử, chẳng có chung thỉ. Nhẫn là có thể, không chẳng có thể. Nhẫn là có đức, chẳng là không đức. Nghĩ nhẫn không sinh, chẳng nghĩ có sinh. Nhẫn qua khỏi đời chẳng cùng đời ḥa hợp. Nhẫn là vào đạo, chẳng là không đạo. Nghĩ nhẫn là giải thoát, chẳng là không thoát. Lư giải nhẫn là Nê hoàn chẳng là sinh tử. Nhẫn nhục của Bồ tát chẳng sinh ư niệm này. Sở dĩ v́ sao ? V́ chẳng b́nh đẳng vậy. Sao gọi là nhẫn b́nh đẳng của Bồ tát ? Lư giải vào rỗng không, không có ǵ đoạn dứt, không có ǵ chấp trước. Đó là nhẫn của Bồ tát. Cũng chẳng nghĩ sinh, chẳng nghĩ chẳng sinh, chẳng nghĩ hóa sinh. Nếu không hóa sinh th́ chẳng dấy niệm nói có cùng không. Hiểu rơ ư nghĩa này, đến chẳng thể tận. Do đó gọi là chẳng thể tận. Nhẫn đều không sở tác, chẳng nghĩ đương nhiên và cùng chẳng đương nhiên, không có hiện th́ không trói buộc, không cởi mở, cũng không cái sinh ra, không có tạo khởi. Đă không cái sinh ra th́ chẳng thể tận. Nhẫn ấy như vậy th́ chính là chứng được pháp nhẫn Vô sở tùng sinh. Như kể từ được pháp nhẫn Vô sở tùng sinh cho đến lúc Như Lai ngồi dưới gốc cây Phật th́ người nhẫn này ứng được thọ quyết (thọ kư) nói chẳng thể tận.

 Khi nói phẩm pháp Nhẫn này th́ người ở tại đại hội ấy đều khen rằng :

 - Hay thay ! Hay thay ! Quả thật như lời nói của ngài A Soa Mạt không có khác !

 Mười vạn trời đều dùng hoa trời, danh hương, tràng phan, bảo cái tung lên trên thân ngài A Soa Mạt và các vị Bồ tát để cúng dường. Kỹ nhạc của chư thiên tự nhiên kêu lên để cho các vị vui vẻ. Ḷng họ đều sáng suốt, mang ư nghĩ rộng lớn, tất cả đều nói lên rằng:

 - Nguyện khiến cho các chúng sinh đều được sáng. Như nhẫn của đức Như Lai mà họ nghe âm thanh này chẳng khủng, chẳng cụ, ḷng chẳng ở trong sự lo lắng th́ những hoa, danh hương, tràng phan, bảo cái sẽ tràn đầy khắp ba ngàn đại thiên cơi Phật.

KINH A SOA MẠT BỒ TÁT

Quyển thứ hai - hết.

Quyển 1    Quyển 2    Quyển 3    Quyển 4    Quyển 5    Quyển 6    Quyển 7

KINH A SOA MẠT BỒ TÁT

Hán Dịch: Tam Tạng Pháp Sư Trúc Pháp Hộ, Nước Nguyệt Chi - Đời Tây Tấn

Việt Dịch: Tuệ Khai Cư Sĩ - Phan Rang

Chứng Nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh

Quyển thứ ba

Đức Phật bảo ngài A Soa Mạt rằng :

 - Ông hôm nay có thể bao bọc tất cả chúng sinh ư ?

 Ngài A Soa Mạt thưa rằng :

 - Thừa thánh chỉ của đức Phật con đủ sức đảm nhiệm !

 Ngài Bồ tát A Soa Mạt vừa vào tam muội th́ tức thời tất cả các thân hữu sắc, hương, hoa, tràng phan, bảo cái bằng lụa ngũ sắc cúng dường đều vào trong rốn mà thân ngài như cũ chẳng tăng chẳng giảm. Có một vị Bồ tát hiệu là Đại Tịnh hỏi ngài A Soa Mạt rằng :

 - Ngài đă vào tam muội tên là ǵ vậy ? Sự hiển hiện biến hóa mới có thể nhận hết tất cả sắc thân, hương, hoa, phan, cái mà thân ngài chẳng tăng chẳng giảm.

 Ngài A Soa Mạt đáp rằng :

 - Định ấy hiệu là Phổ Thọ Sắc Thân.

 Ngài Đại Tịnh hỏi :

 - Tam muội đó chỉ thọ những cái này thôi hay lại có thọ những thứ khác nữa ư ?

 Ngài A Soa Mạt đáp :

 - Ba ngàn đại thiên đất nước đều vào hết trong thân mà chỗ sở tại chẳng c̣n nh́n thấy. Sở dĩ v́ sao ? V́ do uy thần nên không có ǵ tăng tổn cả !

 Các chúng hội, chư thiên, nhân dân, Bồ tát, Thanh văn... đều có ư nghĩ giống như kẻ khát lâu mong tưởng được uống vậy. Họ muốn thấy sự hiển hóa thần biến của Đại Sĩ. Đức Phật biết ḷng của mọi người nên nói với ngài A Soa Mạt v́ tất cả mọi người mà hiện tam muội đó. Ngài A Soa Mạt liền phụng thánh chỉ. Ngay tức thời các đức Phật, Bồ tát của mười phương đến hội và chúng tăng đều tự thấy thân ḿnh ngồi ở rốn của ngài A Soa Mạt. Rốn ngài A Soa Mạt hiện có đất nước tên là Phổ Trang Nghiêm. Các Bồ tát ăn mặc như mọi Bồ tát của nước Phổ Trang Nghiêm. Họ cũng lại đều hiện ở trong rốn ấy với sự hiển hiện khắp cùng trang nghiêm lồng lộng. Hiện uy biến như vậy rồi th́ chúng hội đều ngồi trở lại như cũ. Ngài Đại Tịnh Bồ tát báo cho ngài A Soa Mạt rằng :

 - Uy đức thánh ân tam muội siêu việt thù thắng rực rỡ đến vậy !

 Ngài A Soa Mạt nói rằng :

 - Lời nói đó chẳng đủ để diễn tả đâu ! Sở dĩ v́ sao ? V́ ba ngàn đại thiên trời đất núi g̣ thọ hết vào sắc thân là việc nhỏ nhoi vậy. Thọ nhận số cơi nhiều như cát sông mà chẳng lấy làm dồn nén huống ǵ là những thứ khác nữa vậy ?

 Khi nói phẩm Nhẫn Nhục, diễn ra thần túc th́ bảy mươi vạn vạn người thiện nhân ḥa phát ḷng đại đạo. Một vạn hai ngàn Bồ tát đều được pháp nhẫn Vô Sở Tùng Sinh.

 Ngài Xá Lợi Phất hỏi ngài A Soa Mạt rằng :

 - Tôi nguyện ưa nghe tinh tấn chẳng thể tận của Bồ tát nữa !

 Ngài A Soa Mạt nói rằng :

 - Bồ tát có tám Tinh Tấn Vô Tận. Những ǵ là tám ? Một là trang bị giáp đồng Hoằng Thệ Đại Đức. Đó là tinh tấn mà chẳng thể tận. Hai là tập hợp tinh tấn mà không ǵ thoái chuyển. Ba là siêng học, nuôi lớn tất cả công đức. Bốn là thường muốn nuôi dưỡng phổ cập chúng sinh. Năm là tạo lập vô số nguồn phước khánh. Sáu là ḷng v́ trăm họ cầu các độ vô cực. Bảy là hiểu rơ trí tuệ mà không cùng cực. Tám là muốn được đủ hết tất cả Phật pháp, v́ vậy mà không tận. Đó là tám tinh tấn mà chẳng thể tận - Ngài A Soa Mạt nói - Sở dĩ gọi là trang bị giáp đồng Hoằng Thệ là v́ chẳng do sinh tử mà lấy làm lao khổ. Sở dĩ v́ sao ? V́ chẳng tính kể số kiếp sẽ thành Phật đạo, cũng chẳng suy nghĩ đến ngần ấy kiếp tu hành nghiệp Bồ tát. Sở dĩ gọi là Hoằng Thệ là v́ chẳng giới hạn vô lượng kiếp dài xa. Bồ tát c̣n là gốc của tất cả. Thói tục lại bắt đầu tính, một ngày đến mười lăm ngày, hoặc ba mươi ngày hợp làm một tháng, mười hai tháng làm một năm... như vậy chuyển dần tiến đến mười vạn năm, hoặc trăm ngàn vạn năm phát ư cầu đạo. Qua hết số đó bằng ngần ấy năm mới thấy một đức Phật. Số năm sánh bằng cát những ḍng sông như vậy mới bắt đầu phát ư b́nh đẳng tất cả mọi người, từng người đều phát tâm, từng người đều bao dung. Những Bồ tát nhiều như cát sông cũng như vậy. Vô ương số chẳng thể kể tất cả người đều phát ư mà sự biết của ư chỉ theo kịp một việc, c̣n sự chưa biết của ư th́ chẳng thể xưng kể, giống như cúng dường Phật nhiều như cát sông... Nhiên hậu mới đủ Thí độ vô cực. Giới, Nhẫn, Tinh Tấn, Nhất tâm, Trí tuệ, ba mươi bảy phẩm trợ đạo cũng lại như vậy. Bồ tát nghe điều này mà tâm chẳng giải đăi, chẳng bỏ giáp đồng Hoằng Thệ Đại Đức, người nhiều như cát sông đều phát ư đạo. Tập hợp hết đức này mới có thể đầy đủ một tướng của bậc Đại Nhân. Tất cả như vậy đều dụng công như trước th́ mới hoàn bị hết các tướng của bậc Đại nhân. Đại nhân ấy là Bồ tát vậy. Bồ tát nghe những điều này chẳng lấy làm lao nhọc. Sở dĩ v́ sao ? V́ chưa từng chối bỏ giáp đồng Hoằng Thệ. Đó là Bồ tát mặc giáp đồng Hoằng Thệ mà chẳng thể tận vậy.

 Sao gọi là tăng trưởng Tinh Tấn mà chẳng thể tận ? Như có Bồ tát siêng muốn nghe pháp mà chẳng kể xa gần, chẳng kể nước lửa hung dữ. Sở dĩ v́ sao ? V́ không giải đăi, mỏi mệt. Bồ tát tăng trưởng tập hợp công đức chẳng chịu thoái lui, hợp hội khuyến trợ mọi công đức. V́ sao hợp hội ? V́ muốn để khai hóa chúng sinh, khiến cho họ được độ thoát, khiến cho họ được vào Nê hoàn mà vào Nê hoàn chẳng do sự giải đăi kiêu mạn. Muốn vào Nê hoàn th́ phải có ḷng kiên cố, không thể quay trở lại, thường cầu công đức, phước lộc chẳng biết chán nản mệt mỏi, luôn luôn trụ ở Đại ai (Đại bi) nên gọi hợp tập. Bồ tát thậm chí bước đi, ngồi dậy chẳng quên tâm đạo, như trong khoảnh khắc một niệm, nghĩ đến lời pháp giáo của Phật, hộ tŕ đến tất cả mà chẳng lấy làm phiền nhiễu nên gọi là hợp tập mà chẳng thể tận. Sao gọi là trưởng dưỡng tất cả tinh tấn mà chẳng thể tận ? Chí nguyện đă lập công đức thường c̣n ở các thông tuệ. Do vậy nên gọi là chẳng thể tận, giống như mọi con rồng đều mưa xuống trở lại biển cả mà chẳng thể phân biệt biết số giọt nhiều hay ít, cứ cho chúng là vô tận. Những người thông tuệ như vậy công đức cũng rất chẳng thể tận. Sao gọi là tạo lập vô số công đức ? Việc làm dụng tâm v́ tất cả nên thường mang ư b́nh đẳng, việc tạo lập công đức phúc lộc chẳng ĺa khỏi thông tuệ, việc tu phúc nguyện muốn khiến cho chúng sinh đều chung nhờ ân huệ... do vậy nên gọi là tạo lập vô số công đức. Sao gọi là ḷng cầu các Độ vô cực ? Chúng sinh bốn đại đều chẳng thể tận, chẳng thể tính th́ vào những số này. Một lời dạy bảo hết các loài chúng sinh của ba ngàn đại thiên thế giới. H́nh tượng so sánh như vậy chẳng thể chuyển tải nói lên, a tăng kỳ con người đều khai hóa họ vô hạn như vậy, rồi gấp trăm lần, gấp ngàn lần, gấp vạn lần, gấp ức lần, gấp trăm ức vạn lần chẳng thể kể ra thí dụ được th́ số người được giáo hóa độ thoát vẫn là c̣n ít vậy. Nghe thế này mà chẳng khủng, cũng chẳng úy cụ là ứng hợp với tinh tấn. Đó gọi là tạo lập vô số công đức mà chẳng thể tận. Sao gọi là hiểu rơ trí tuệ mà không cùng cực ? Công đức Bồ tát chẳng thể tận. Như vậy kể hết những chúng sinh của tất cả Phổ Trí vốn đă tạo tác công đức mới b́ kịp đạo tích (dấu đạo). Bậc văng lai, bậc Bất Hoàn, bậc Vô Trước Duyên giác đều tập hợp đức này lại mới thành được công đức một sợi lông của đức Phật. Sự hợp tập kể ra đó, từng sợi lông từng sợi lông đều thành mọi công đức lồng lộng của những lỗ chân lông trên thân thể th́ mới có thể thành tướng lưỡng mi gian của đức Phật. Như phước của tướng mi gian ấy gấp ngàn lần th́ mới thành tướng đảnh của đức Phật. Sở dĩ v́ sao ? V́ trên trời dưới đất không ai có thể đủ sức nh́n thấy đảnh của đức Phật. Do đó cho nên nói rằng, đức chẳng thể tận, tuệ không cùng cực. Lại nữa, sao gọi là tuệ không cùng cực ? Giả sử chúng sinh của ba ngàn đại thiên thế giới đều dốc ḷng tin Phật. Tin Phật như vậy mà niềm tin ấy gấp lên trăm lần th́ mới cùng đồng đẳng với người phụng tín. Giả sử người phụng tín đồng đẳng đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới th́ trí của những người ấy gấp thêm trăm lần cũng chẳng b́ kịp người bát đẳng (?). Như người bát đẳng đầy ba ngàn đại thiên thế giới, trí của những người ấy nhân lên trăm lần chẳng bằng đạo tích (dấu đạo). Nếu trong ba ngàn đại thiên thế giới tràn đầy người mà đều t́m nghiệp đạo tích như văng lai, bất hoàn và cùng vô trước th́ trí của những bậc ấy nhân lên một trăm lần chẳng bằng trí của một Duyên giác. Nếu trong ba ngàn đại thiên thế giới đầy Duyên giác c̣n chẳng bằng trí của một Phát Ư Bồ tát. Giả sử ba ngàn đại thiên thế giới mà trong đó đầy ắp những Bồ tát mới phát ư th́ trí của họ nhân lên một trăm lần, chẳng bằng A duy việt trí. Giả sử chúng sinh của ba ngàn đại thiên thế giới đều thành Bất thoái chuyển th́ trí của họ nhân lên một trăm lần c̣n chẳng bằng trí của một Bồ tát Nhất Sinh Bổ Xứ. Giả sử chúng sinh của ba ngàn đại thiên thế giới là Nhất sinh bổ xứ th́ trí của họ nhân lên một trăm lần chẳng bằng xứ xứ tuệ của một đức Như Lai hợp với các lực, vô sở úy nhập vào du yếu tuệ của Phật pháp. Sở dĩ v́ sao ? V́ tuệ Nhất thiết trí ấy đều vào Phật ư. Bồ tát nghe những điều này chẳng khủng, chẳng cụ, chẳng úy, chẳng nạn th́ đó gọi là tu tập vô cùng tuệ mà chẳng thể tận. V́ sao tu tập vô cùng tuệ mà chẳng thể tận ? V́ vào tâm của tất cả chúng sinh vậy. Giả sử tâm niệm của chúng sinh quá khứ mà sự phát ư đạo của họ không giới hạn. Một người giải tỏ hiểu thông hết tâm niệm của những chúng sinh quá khứ này, b́nh đẳng đối với chúng sinh giống như một người. H́nh tượng so sánh như vậy nhiều chẳng thể kể xiết. Bọn chúng sinh đều bị sự che chắn của dâm nộ si. Lại có một người vào trong dâm, nộ, si, hoặc, loạn mà bị mọi trần kiến làm rối loạn mê man. Bồ tát phát ư luôn luôn dùng đạo tuệ đều biết chúng sinh dâm nộ si loạn. Đó gọi là trí thánh hoằng tuệ minh. Nếu các chúng sinh đều phát ư nhân duyên thiện ác th́ nhân duyên đă khởi lên là phải diệt đi. Như vậy người tuệ tuy ở trong ấy mà ḷng chẳng lấy làm phiền nhiễu, đều có thể thông đạt giống như hư không. Hư không ấy th́ không đâu chẳng trống rỗng. Bậc Thánh tuệ th́ ḷng của họ hiểu sáng chúng sinh ba đời, không đâu chẳng thông đạt. Vậy nên gọi là Tuệ mà không cùng cực cũng chẳng thể tận. Sao gọi là tất cả Phật pháp cũng chẳng thể tận ? - Đủ hết tất cả sáu độ vô cực cầu các Phật pháp. Như có Bồ tát từ lúc bắt đầu phát ư đă tu phương tiện, nhiên hậu mới đạt đến ngồi dưới cây Phật. Công đức phát tâm chẳng thể kể xiết, đầy đủ khắp cả đều là thành tựu Phật pháp nên gọi là Bồ tát hợp tập các Phật pháp mà chẳng thể tận.

 Lại có Bồ tát hợp tập Tinh Tấn cũng chẳng thể tận. Sự lập đức của thân chẳng lấy làm khó. Miệng nói công đức phúc lộc cũng chẳng lấy làm mệt. Ư chỉ siêng tu hành. Tinh tấn ba việc thân miệng ư là đứng đầu. Sao gọi là ư tinh tấn? Ư ấy rộng lớn (thái nhiên). Sao gọi là rộng lớn ? Dụng ư cầu Phật đạo. Dụng ư cầu Phật đạo là thế nào ? Tâm ấy rộng lớn vắng lặng vô vi. Phát khởi điều này gọi là ǵ ? Phát khởi ư này th́ gọi là phát tâm đạo đó. Đây là Đại ai của Bồ tát vậy. Sao gọi là Bồ tát địa ? Tin ưa vô ngă th́ gọi là Nhẫn. Tại sao phải phát khởi điều này ? Phát khởi điều ấy th́ có thể tổng nhiếp hết tất cả chúng sinh. Sao gọi là xử ? Do được đầy đủ hết các pháp, chẳng lấy sinh tử làm cần lao vậy. Người phát khởi điều này chẳng chấp trước ba cơi. Người phát khởi điều này th́ sở hữu của thân không có ǵ yêu tiếc. Lại, xử ấy là cái có thể thí cho mà chẳng tuyên dương ḿnh đă có đức hạnh ấy. Cái gọi là xử là chẳng dùng cấm giới mà tự khen ngợi, ư c̣n tự đại. Lại, xử ấy là nhẫn nhịn mọi khổ năo, chẳng dùng cái nghiệp này mà ôm ḷng kiêu mạn. Cái gọi là xử ấy đă thu hoạch công đức ngày càng tăng thêm lồng lộng không lường. Cái gọi là xử ấy chính là chí độ thoát, chẳng ĺa bố thí, điều phục tâm, chế ngự ư. Cái gọi là xử ấy là học vấn không chán, đúng như pháp, tu tập dạy bảo. Cái gọi là xử ấy là theo đúng ư nghĩa đă nghe mà phụng hành chẳng đổi, không có ư khác. Cái gọi là xử là học tập tư duy pháp chẳng thể giảng, phương tiện quyền mưu chẳng lấy làm khó, tập ban tuyên pháp mà không hy vọng đáp đền, tập tành đọc tụng, nghĩ xét, hiểu rơ điều qui thú của ư nghĩa ấy, chẳng v́ lao nhọc, chán nản mà lười biếng phế bỏ, trăm họ học tu mà không mong tưởng đáp đền. Bốn việc đó chính là điều tu hành của Bồ tát. Sở dĩ v́ sao ? V́ Bồ tát ấy có thể phát khởi từ bi hỷ hộ này. Lại, xử ấy là sự chiêm nghiệm xem xét mà ư mang đại ai cùng khắp. Lại, xử ấy là vin vào cớ này mà đầy đủ năm thông, tu tập không sinh tử. Lại, xử ấy là được bốn ư chỉ, đạt đến thuận lư, chẳng đương đầu với suy mà chẳng nghĩ đến. Lại, xử ấy là biết bốn ư đoạn, chẳng phế bỏ công đức, cũng chẳng ức chế người không phước khánh. Sở dĩ v́ sao ? V́ tu hạnh trung gian. Lại, xử ấy là thần túc đă tu tập đúng như lời pháp giáo của đức Phật, không có điều hy vọng. Lại, xử ấy là học tập đức lành, các căn chẳng loạn, phi pháp nhiều vô hạn đều có thể phân biệt. Lại, xử ấy là mười thứ lực, không có ǵ có thể thắng tấm ḷng mang thánh trí. Lại, xử ấy là muốn cầu giác ngộ của Phật, những hạnh hưng tạo vào mọi pháp nghĩa mà chẳng tự đại, thành tựu bảy giác ư. Lại, xử ấy là cầu đạo đức riêng, chẳng nghĩ những người đến, ở và đi, cũng không điều tưởng nghĩ. Lại, xử ấy là hâm mộ t́m cầu cung kính tịch tịnh, chí ấy mà không rối loạn. Lại, xử ấy là muốn được chánh quán, sáng suốt xem xét các pháp cầu t́m sự tồn tại ấy. Lại, xử ấy là từng đă nghe rộng th́ có thể tu tập, thường đúng như pháp trụ, ham tu đức hạnh của thân. Lại, xử ấy là cầu đến pháp thân mà ném bỏ mọi thói tục, chấp trước vọng tưởng và tin đạt vô h́nh. Lại, xử ấy là gọi âm thanh đó thường muốn trang nghiêm, tùy thời phát ra thông suốt đến mười phương. Lại, xử ấy là ưa đúng như đạo hạnh, người thoát hay chẳng thoát đều khiến cho đến với yên vui vĩnh viễn. Lại, xử ấy là chẳng hợp với sai quấy, khuyến hóa bốn ma. Sao gọi là bốn ma ? Một là ma thân, hai là ma tội trần, ba là ma chết, bốn là ma trời. Lại, xử ấy là ĺa các ác, tu tập mọi gốc đức, các dơ bẩn lặng yên mà chẳng dấy loạn. Lại, xử ấy là thấy khắp đạo tuệ, xét mọi duyên khởi. Lại, xử ấy là thấy những sở nhập, sở tác thế tục, tiêu dứt nhân duyên phương tiện mà tế độ họ. Lại, xử ấy là đều nh́n thấy đạo pháp mà tùy lúc giáo hóa. Đó là tinh tấn mà chẳng thể tận. Nếu có người có thể đủ tất cả xử th́ nhất định không có các nạn, các sở tác đều hóa giải hết. Chẳng dùng vọng tưởng trụ ở tuệ sở hành, cũng chẳng chuyển động, tất cả hành động đều chẳng ĺa khỏi tuệ. Sao gọi là hành động Bồ tát chẳng ĺa khỏi tuệ ? Công đức đă làm đều nhân vào pháp đó, thường v́ tất cả hưng khởi Vô Cực Từ. Vô Cực Từ là chẳng tận thế tục, nhân vào tuệ của Phật đạo mà chẳng theo vô vi. Đó là Tinh Tấn vô tận của Bồ tát.

 Khi tuyên nói về Tinh Tấn chẳng thể tận th́ chín mươi sáu vạn vạn chư thiên, người đời đều phát ư đạo Vô thượng Chánh Chơn, ba vạn hai ngàn thiên tử đều được pháp nhẫn Vô Sở Tùng Sinh.

 Ngài Xá Lợi Phất lại hỏi ngài Bồ tát A Soa Mạt rằng :

 - Há lại có nghĩa Thí độ vô cực chẳng thể tận ư ?

 Ngài A Soa Mạt đáp rằng :

 - Do mười sáu việc mà chẳng thể tận ! Thanh văn, Duyên giác đă chẳng thể b́ kịp. Sao gọi là mười sáu ? Một là việc bố thí chẳng mang dị tâm mà đều đầy đủ pháp thí của Như Lai. Hai là đă bố thí th́ chẳng dấy khởi ư niệm này : Ta nhờ việc này nên sẽ được phước báo. Ba là đă bố thí th́ thương khắp tất cả, chẳng mang dị tâm. Bốn là đă bố thí th́ chẳng nghĩ mong được tam muội chánh thọ. Sở dĩ v́ sao ? V́ chẳng thích sinh lên cơi trời Tịnh Cư mà thường ưa nhân gian. Năm là đă bố thí th́ đều có thể biết được tâm hạnh của chúng sinh. Sáu là đă bố thí th́ ư ấy thanh tịnh nhu ḥa. Sở dĩ v́ sao ? V́ muốn khiến cho tâm ấy tùy theo sự tính toán của ḿnh, cũng khiến cho thân ấy theo ư nghĩ của tâm. Bảy là đă bố thí th́ theo đúng ư của người nhận. Sở dĩ v́ sao ? V́ đức ấy qua khỏi trời Sắc và Vô Sắc. Tám là đă bố thí th́ cho tịch mịch và điềm đạm. Sở dĩ vậy là v́ vượt lên trên các Thanh văn, Duyên giác. Chín là đă bố thí th́ ḷng chẳng hối hận. Sở dĩ v́ sao ? V́ muốn khiến cho thông suốt đến thành tựu. Mười là đă bố thí th́ uy thần lồng lộng không thể chế ngự đoạn tuyệt. Mười một là đem trí tuệ thí b́nh đẳng khắp chúng sinh, kiến lập, độ thoát tất cả. Mười hai là bố thí ấy là bố thí cho người tùy theo ư ưa thích mà ḷng ban cho cứu giúp luôn yên ổn chân chính. Sở dĩ v́ sao ? V́ có thể chế ngự được ư. Mười ba là sự thí cho ấy chẳng đoạn tuyệt Tam Bảo. Sở dĩ v́ sao ? V́ chẳng xả bỏ giống Như Lai Chí Chơn. Mười bốn là Bố thí thường sáng suốt, chẳng hoài băo do dự mà chẳng mê hoặc. Mười lăm là việc thí cho là thuận theo đúng như lời pháp giáo. Sở dĩ v́ sao ? V́ việc làm theo nghĩa. Mười sáu là việc thí cho không đâu chẳng biết, có sự hưng tạo th́ ưa theo gốc trí tuệ. Sở dĩ v́ sao ? V́ muốn cho trí ấy không có cùng cực rất to rộng vậy. Đó là mười sáu sự nghiệp Thí độ vô cực mà chẳng thể tận của Bồ tát.

 Sao gọi là tâm thiền Tịch tịnh vậy ? Sao gọi là thần thông Tuệ đầy đủ vậy ? Sao gọi việc thấy các sắc của tuệ là chẳng thông ? Nh́n thấy các sắc tận, ư ấy chẳng tùy theo cái thấy th́ đây gọi là Thông. Sở dĩ v́ sao ? V́ thấy thế mà chẳng giữa đường tu hành thủ chứng. Việc thính văn (nghe) ấy đều ở tại chẳng thông. Các âm thanh có nghe đều không đạt được th́ đây gọi là thông. Có thể biết hết tâm hạnh của chúng sinh th́ đó là chẳng thông. Ḷng trừ diệt trí này, chẳng đem hết ḷng mà tạo chứng vậy. Sở dĩ v́ sao ? V́ chẳng chọn lấy La hán th́ đây gọi là Thông. Có thể tự biết vốn nhân từ đâu đến th́ đó là chẳng Thông. Chắng đối với ba đời mà có ngăn ngại th́ đây gọi là Thông. Châu biến các đất nước th́ đó là chẳng Thông. Tuy châu biến các nước mà hiểu ra không sở hữu, không có tư tưởng về đất nước th́ đây gọi là Thông. Tin hướng về các pháp th́ đó là chẳng Thông. Thấy được gốc, ngọn của tất cả các pháp th́ đây gọi là Thông. Tất cả sở tác có ư vọng tưởng th́ đó là chẳng Thông. Hiểu rơ chúng sinh mà không hy vọng điều ǵ th́ đây gọi là Thông. Ưa muốn văng sinh hoặc qua các trời Đế Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên vương th́ đó là chẳng Thông. Bồ tát đều biết việc tu Thánh Tuệ của tất cả Thanh văn, Duyên giác, có thể nắm lấy chung hết th́ đây gọi là Thông, là nguyên thủ (đứng đầu) của mọi người. Đă gọi là nguyên thủ th́ ở tại bậc tối thượng của các pháp. Nhân đó gọi là Thông Tuệ công đức mà chẳng thể tận - Ngài A Soa Mạt Bồ tát lại nói với ngài Xá Lợi Phất - Nhân các ư loạn, Bồ tát lấy cớ tu tập tự điều phục tâm th́ đó là Thiền. Trí tuệ ấy xả bỏ hết mọi ác th́ đó gọi là Thiền Định. Lại, Bồ tát tu tập, trụ ở định ư th́ tâm không biến đổi. Sở dĩ v́ sao ? V́ rằng tu chánh trụ. Tu chánh trụ nên tập sáu độ vô cực. Các pháp chân chánh nên tập các pháp. V́ chân chánh nên học tập hạnh Bồ tát, ḷng b́nh đẳng với chúng sinh. Đă b́nh đẳng với chúng sinh rồi liền b́nh đẳng với các pháp. Đă b́nh đẳng các pháp th́ biết tâm Bồ tát. Đă biết tâm Bồ tát th́ có thể giải thông suốt chí tháo của chúng sinh. Biết tâm chúng sinh rồi th́ biết các pháp. Đó gọi là tập b́nh đẳng rộng lớn với tất cả loài chúng sinh, b́nh đẳng với các pháp mà không thân sơ. B́nh đẳng trụ ở các pháp th́ đó gọi là Định ư, là Chánh thọ vậy. Không, vô tướng, vô nguyện. Gọi là b́nh đẳng với sinh tử. B́nh đẳng sinh tử th́ liền b́nh đẳng các pháp. Người ấy đă b́nh đẳng, thản nhiên không thiên lệch. Tâm đă b́nh đẳng khắp th́ b́nh đẳng với tâm chúng sinh. B́nh đẳng với tâm chúng sinh rồi th́ mới gọi là b́nh đẳng nên gọi là Phổ Đẳng. Sở hành của tâm ấy b́nh đẳng như hư không, như đất nước lửa gió, không có yêu ghét. Tâm ấy b́nh đẳng th́ không lo không mừng. Thân ấy đă trụ ở cơi Phật Bất Tuần th́ định như tam muội, chẳng dùng dua nịnh như trụ ở bản tế mà chẳng tự đại, cũng chẳng hèn hạ. Đă chẳng si, chẳng ác, cũng chẳng nhiều lời, chỉ muốn hiểu rơ nguồn gốc của pháp, đúng lúc chẳng đúng lúc thường tùy nghi theo thời, chẳng theo dơ bẩn của tất cả thế tục, vượt qua tám việc thế gian : lợi, suy, hủy, dự (danh dự), khổ, vui, có danh xưng, mất danh xưng, bỏ các hữu vi, chẳng ưa rối rắm ồn ào... tùy theo những pháp đó th́ chẳng ĺa tam muội. Sở dĩ v́ sao ? V́ đều thấy sự tạo lập hạnh của thiên hạ tùy theo hành động ấy nối tiếp tại tam muội không thể biết được. Đó gọi là phương tiện thiện quyền của Bồ tát thâm nhập vào trí tuệ tịch độ vô cực. Nếu muốn tam muội nắm giữ chế ngự tâm ấy th́ nhờ Vô cực ai mà tùy theo nhân duyên. Sở dĩ v́ sao ? V́ do chúng sinh vậy. Ư nghĩa ấy gọi là phương tiện thiện quyền, nghiệp của tam muội tịch nhiên điềm đạm. Đây là Thánh tuệ. Theo đúng như sự kiến lập của tam muội mà y ngưỡng Phật tuệ th́ đó gọi là thiện quyền. Nếu đối với các pháp mà măi măi không có sự cầu xin th́ đó gọi là Trí tuệ. Tôn phụng nắm giữ định ư, lại dùng công đức giáo hóa ủng hộ các pháp th́ đó gọi là thiện quyền. Tâm ấy thản nhiên chẳng hoại pháp thân th́ đó gọi là trí tuệ. Dùng tam muội định trụ ở niệm vẻ đẹp các tướng của thân Phật th́ đó gọi là thiện quyền. Ơn rộng đến trăm họ, nghĩ về pháp thân của Phật th́ đó gọi là trí tuệ. Ở trong tam muội niệm âm thanh của chư Phật giống như âm thanh Phạm th́ đó gọi là thiện quyền. Nghĩ biết các pháp không có ngôn từ th́ đó gọi là trí tuệ. Trụ ở tam muội, ḷng như Kim cương th́ đó gọi là thiện quyền. Tuy được thiền định mà chẳng quên bầy lũ chúng sinh thế tục th́ đó gọi là trí tuệ. Nếu ở tam muội nghĩ đủ bổn nguyện, nuôi lớn tất cả th́ đó là nơi nơi tùy lúc thiện quyền. Lại, ở trong thiền tư giải thấu chúng sinh đều không ngô ngă th́ đó gọi là trí tuệ. Du hành trong tam muội mà chẳng xả các pháp th́ đó gọi là thiện quyền. Hiểu các pháp không gốc ngọn cũng không căn nguyên th́ đó gọi là trí tuệ. Tu ở tam muội mà nghĩ các cơi Phật đều là thanh tịnh th́ đó gọi là thiện quyền. Hiểu thông các cơi Phật đều không sở hữu th́ đó gọi là trí tuệ. Trụ tại tam muội tư duy có cây Phật tu trang nghiêm th́ đó gọi là thiện quyền. Thân ĺa khỏi mọi dục mà không uế trược th́ đó gọi là trí tuệ. Lại, ở tại tam muội nghĩ chuyển pháp luân th́ đó là thiện quyền. Tuân hành thiền định chuyển “không có cái chuyển” th́ đó gọi là trí tuệ. Trụ ở tam muội muốn thấy Bồ tát dùng tướng trang nghiêm th́ đó gọi là thiện quyền. Dùng pháp cứu tế mọi khổ mà không có phiền năo th́ đó là thiền của Như Lai. Như Lai thiền th́ liễu ngộ tất cả pháp, vĩnh viễn chẳng tham dục, chẳng tưởng trần lao, biết các t́nh lạc, trừ mọi pháp tưởng th́ gọi là Thiền tư. Đó là địa tuệ sở sinh của Bồ tát. Bậc Khai Sĩ đại sĩ do sự nhất tâm (định) cùng với pháp chẳng “đồng trần” nên mới gọi là Thiền chẳng thể tận. Chẳng để cho tất cả chúng ma được tiện nghi th́ v́ Chánh Giác tạo các pháp khí. Sở dĩ v́ sao ? V́ không ǵ chẳng dung chứa.

 Khi vị Chánh Sĩ nói Tịch đô vô cực chẳng thể tận này th́ bốn vạn Bồ tát được Nhật Minh tam muội. Sao gọi là Nhật Minh tam muội ? Định này giống như lúc mặt trời mọc, lửa đèn, ánh đuốc, ánh sáng tinh tú bị che tối không sáng được. Bồ tát đă chứng được tam muội này th́ tất cả các Thánh đều bị che phủ. Sở dĩ v́ sao ? V́ ánh sáng của tuệ ấy lồng lộng rộng lớn. Ánh sáng trí tuệ của Thanh văn, Duyên giác đều bị che trùm. Do vậy nên gọi là Nhật Minh tam muội. Bồ tát đă trụ ở Tịch độ vô cực đều có thể chứng thành các tam muội định. Những điều thô thiển đă nêu lên đều là sơ sài. Tóm lại, xin diễn nói tên các tam muội. Có tam muội tên là Chiếu Minh, có định tên là Nguyệt Quang, có định tên là Trang nghiêm, có định tên là Nghiêm Diệu, có định tên là Tu Nghiêm, có định tên là Vô Cục Huy Mănh Phục, có định tên là Kỳ Minh Tiêu Minh (tối) , có định tên là Như Chư Pháp Giáo, có định tên là Thành Quang Minh, có định tên là Vô Sở Ưu, có định tên là Lập Kiên Cố, có định tên là Đẳng Như Thái Sơn, có định tên là Pháp Minh, có định tên là Pháp Ngự, có định tên là Pháp Quân (vua) , có định tên là Pháp Tuệ Thuận Giáo, có định tên là Cảm Pháp Bảo, có định tên là Pháp Thành Tổng Tŕ Ngự, có định tên là Tri Nhân Ư Hạnh, có định tên là Tràng Anh Khí Chúng Phiền Hà, có định tên là Lực Chế Tứ Ma, có định tên là Đă Thành Mười Lực, có định tên là Đoạn Chư Quái Ngại, có định tên là Tạo Đăng Quang, có định tên là Trụ Bền Như Đất, có định tên là Như Tu Di, có định tên là Do (giống như) An Minh, có định tên là Trí Hạnh Quang Diệu (ánh sáng) , có định tên là Trí Bất Khả Kế Tùy Cụ Giáo, có định tên là Tâm Giáo Nhu Nhuyến, có định tên là Vô Sở Cầu Thoát, có định tên là Như Thủy Nhật Nguyệt Quang, có định tên là Giống Như Thân Phật, có định tên là Đẳng Chư Vô Ngă, có định tên là Điều Tượng Tùy Giáo, có định tên là Kiến Đắc Chư Phật, có định tên là Pháp Ư Vô Ngại, có định tên là Vô Thoái Bất Chuyển, có định tên là Chúng Độc Tiêu Tịnh Như Nguyệt, có định tên là Nhập Không Tịch, có định tên là Hiểu Chúng Tưởng, có định tên là Vô Nguyện, có định tên là Trụ Nhất Tâm, có định tên là Như Kim Cương, có định tên là Vô Cực Quang Mạc Năng Đương, có định tên là Tự Tại Tịnh, có định tên là Nội Chư Lao Phiền Tận, có định tên là Quảng Đại Như Không, có định tên là Nhập Nhất Thiết Nghiệp, có định tên là Tâm Tư Đắc Tuệ, có định tên là Tuệ Duyệt Nhân Vô Tận, có định tên là Thành Thánh Tuệ, có định tên là Tổng Vô Sở Vong, có định tên là Minh (tối) Phổ Kiến Minh (sáng) Giai Đa Lạc, có định tên là Từ Hạnh, có định tên là Tâm Bản Tịnh Đại Ai, có định tên là Nhập Chư Hộ, có định tên là Tâm Đẳng Nhập Vô Sở Ngại Thoát, có định tên là Pháp Pháp Trụ, có định tên là Trí Minh Đạt, có định tên là Giải Sướng, có định tên là Bất Khả Sổ, có định tên là Sung Băo Chúng, có định tên là Vô Bất Liễu, có định tên là Thoát Tuệ Tùy Hóa Chúng, có định tên là Kim Cương Liên Hoa, có định tên là Liễu Vô Thường, có định tên là Tôn Trí Tuệ, có định tên là Dũng Phục, có định tên là Chư Phật Niệm, có định tên là Tùy Giáo Minh Thoát, có định tên là Nghiêm Phật Thổ, có định tên là Khai Tịch (mở) Tịnh Chư Quốc, có định tên là Nhập Chúng Sinh Tâm Hỷ, có định tên là Chánh Chân Trực, có định tên là Dĩ Bồ Tát Đạo Lục Độ Vô Cực Nghiêm, có định tên là Giác Giải Kết, có định tên là Giác Ư Hoa, có định tên là Thí Thoát Nhược Thiên Dược, có định tên là Quang Vô Bất Châu, có định tên là Minh Vô Trụ Phật, có định tên là Thậm Thâm Diệu, có định tên là Tích Bảo Như Hải, có định tên là Như Sơn Phương Diện, có định tên là Thần Túc Thậm Quảng Vô Bất Tổng, có định tên là Kiến Vô Số Phật, có định tên là Tổng Chư Học, có định tên là Như Đàn Chỉ Khoảnh Vô Bất Tri, có định tên là Trí Bất Khả Hạn Kế Như Đại Hải.v.v... Hàng vạn vạn ức những định như vậy. Bồ tát nhờ trụ ở Tịch độ vô cực mà hoàn bị khắp những định ấy.

 Ngài A Soa Mạt Bồ tát lại nói với ngài Xá Lợi Phất rằng :

 - Sao gọi là Trí độ vô cực mà chẳng thể tận Theo đúng như chỉ thú tuệ nghe được mà kiến lập hạnh nên gọi là chẳng thể tận. Ứng như hạnh ấy th́ có tám mươi việc. Những ǵ là tám mươi ?

 Thuận điều nghe - T́m đúng như ư - Theo như lời dạy tu tập - Theo lệnh bạn lành - Chẳng tự đại - Việc làm chẳng quên - Thường cung kính - Theo nghiệp kinh điển - Đúng như lời mà theo - Luôn tu tập trí - Ḷng siêng thọ - Chẳng mất tiết tháo - Chẳng quên niệm - Ư chẳng loạn - Dấy ḷng báu - Hiển bày chí dược (thuốc) - Trừ các bệnh - Chính là ư khí (đồ chứa ư) - Ưa nhẫn nhục - Tư duy ưa chân thật (chân lư) - Vào tuệ ư - Học không chán - Bố thí không mưu cầu ǵ - Bố thí không thân sơ - Điều nghe suy nghĩ thấu đáo - Hoan hỷ khải thọ - Ḷng vui thân nhẹ - Ư ấy thanh tịnh nhu ḥa - Mà không phiền hà - Việc học theo đúng như gốc - Thường ưa nói pháp - Nghe muốn hướng về đạo - Pháp tự giữ ǵn - Ưa nghe chân chánh - Chẳng ở tại cái học khác.

 Chỉ thọ nhă trí độ vô cực - Theo đến với kinh Bồ tát Phương Đẳng - Chỉ mộ nghe kinh quyền phương tiện - Lại ưa nghe tập tứ đẳng tâm - Lại xem xét giải rơ không thần thông (?) - Theo đúng như ư ban đầu không nghĩ khác - Ḷng cốt chăm đến đế thiện phương tiện - Chỉ muốn nghe đến pháp Vô sinh. Không tham quán, chỉ ưa Từ, rơ mười hai duyên, thấu vô thường.

 Biết đến khổ - Suốt thông vô ngă - Muốn biết Tịch - Phân biệt không - Giải vô tướng - Thể vô nguyện - Hiểu sinh tử - Rơ công đức - Đạt chúng sinh - Biết không quên - Nghiêm âm ấy - Như thành quách - Điều nghe siêng nắm giữ - Ưa nghe cái quí báu của kinh - Ở tại cơi tục biết tục - Mở mang ở trong ư - Lấy làm bạn bè - Muốn nghe hàng phục (?) - Các sự nghiệp.

 Chí thường nghĩ may mắn - Vào khắp các pháp - Ưa đoạn dứt nghèo thiếu gọi là nghèo thiếu - Gọi là trí chẳng đủ - Niệm giải tuân thông - Hiểu giải Thánh tuệ - Mừng thọ Chánh đạo - Hiểu kẻ vô trí - Đều giáo hóa khiến cho biết - Rơ luôn gặp khổ - Cấp cho kẻ chẳng đủ - Biệt ly tất cả - Không nghiệp công đức - Hiểu sáng gốc ấy - Mọi ác chẳng làm - Thông suốt nghĩa của thân - Đạt lợi chúng sinh - Giải hạnh yên ổn - Ưa chẳng ôm hận - Muốn riêng chí tôn - Sự việc vô cực - Nghĩ các pháp Phật - Đă nhận được đạt đến.

 Đó gọi là đúng như tuệ đă nghe liền kiến lập hạnh.

 Ngài A Soa Mạt Bồ tát nói với ngài Xá Lợi Phất rằng :

 - Bồ tát có ba mươi hai việc tùy lúc sở nhập. Những ǵ là ba mươi hai ? Theo âm hưởng nhập (vào) (1) Muốn vào đến quán (2) Nhập tâm sở hạnh (3) Nhập thân cầu thoát (4) Mà tế độ chúng sinh (5) Nhậpï bất đoạn vô thường (6) Nhập vô sở trước (7) Nhập tùy nhân duyên để có thể làm việc (8) Chỗ vào không người (9) Vào đến vô thọ (sống lâu) (10) Vào đến vô mạng (11) Vào chỗ sở trụ của quá khứ, vị lai và hiện nay (12) Vào nghiệp công đức (13) Vào “không” chẳng giải đăi (14) Vào đến vô tướng (15) Mà vào vô nguyện chẳng phế bỏ cần tu, chẳng dùng “không” thủ chứng vô tướng vô nguyện, hộ tŕ rồi chẳng đọa (16) Muốn vào tam muội mà tu chánh thọ đều hướng về thành tựu tam muội chánh thọ. Do vậy nên chẳng sinh lên trời Vô Sắc. Sở dĩ v́ sao ? V́ ủng hộ sự đạt đến (17) Lại vào căn nguyên của các thông trí tuệ. Tuy vậy chẳng vào con đường Tận Diệt (18) Lại vào vô sinh cứu tế các chỗ sinh (19) Lại vào bản tế để tư duy nghĩa ấy (20) Muốn vào vô tế mà chẳng thủ chứng. Sở dĩ v́ sao ? V́ có sự nuôi hộ vậy. Cái gọi là không hộ tức là Thanh văn (21) Muốn vào chúng sinh lư giải không ngô ngă, chẳng bỏ Đại Ai (22) Vào tất cả nạn sinh tử đáng sợ (23) Đă có thể đi vào th́ tuy có sinh tử mà không bị sinh (24) Lại vào các trần lao mà mọi người đă chán (25) Vào với kẻ chán dục cũng chẳng đọa lạc. Sở dĩ v́ sao ? V́ chẳng ở trong đó thủ chứng (26) Lại vào với nhóm chẳng nghĩ đến dục, vào mà chẳng bỏ pháp (27) Vào với những người phạm pháp mà chẳng làm điều sai quấy (28) Vào quyền phương tiện. Sở dĩ v́ sao ? V́ do nhân ư chúng sinh rơi vào tham ái dục mà muốn khai hóa (29 - Nguyên bản của kinh này ở các tạng đều khuyết mất việc thứ 30). Đă vào giáo thọ th́ ứng bệnh mà cho thuốc (31) Việc hóa độ của Bồ tát đều được chỗ ấy (32). Đó là ba mươi hai việc mà sự dẫn đường đúng như sự việc. Sở dĩ v́ sao ? V́ chẳng mất tiết tháo vậy. Giống như muốn vào thành th́ theo cửa mà vào, muốn thông suốt mọi duyên th́ phải dùng mắt quan sát. Người hiểu thấu duyên nghiệp th́ chẳng tranh tụng. Muốn cho không tranh tụng th́ chớ như tự thủ (giữ). Muốn biết không nói là khoái tột cùng th́ chẳng bằng chớ nói. Sở dĩ v́ sao ? V́ chẳng ưa nói là tự hộ tŕ thân miệng. Chẳng muốn dừng lại th́ chớ ở tại đó. Chẳng muốn động th́ thận trọng chớ được chuyển. Không hy vọng th́ cũng không có ǵ tưởng nghĩ. Vậy nên gọi là b́nh đẳng. Muốn chẳng mê sắc th́ phải trụ vững vàng chân chính. Đă trụ vững vàng th́ ấy mới là đạt đến. Chẳng ưa khiến cho biến đổi, luôn tự cẩn thận. Nếu hâm mộ tịch tịnh, nuôi dưỡng ḿnh th́ chớ được xưng dương ḿnh. Chẳng muốn hạ thấp th́ chớ tự kiêu căng cao ngạo. Chẳng cao, chẳng thấp đầy đủ chánh pháp. Tổn hao chẳng mừng th́ không có thể trách phạt. Nên ưa yên ổn tiện nghi th́ việc làm không mất ! Không ǵ mất th́ không có nghi ngờ. Không có nghi th́ hiểu thấu vô bản nên tiện nghi không mất ǵ, b́nh đẳng với ba đời mà không sai khác. Ba đời b́nh đẳng th́ không có sự tăng, tổn. Chẳng trụ ở sắc, thọ (thống), tưởng, hành, thức cũng không đặc thù. Mắt thấy biết sắc th́ không sở trụ. Tai nghe biết tiếng, mũi ngửi biết hương, lưỡi nếm biết vị, thân chạm biết mềm, ư nhận biết pháp đều không sở trụ. Từ bản tịnh làm như pháp, làm như tuệ, làm như chân lư (thẩm đế), làm như không ngô ngă. Thấy các pháp làm vô ngă th́ gọi là Tuệ. Hiểu thấu các sở hữu đều không sở hữu, cũng đều vô bản th́ đó gọi là Tuệ. Chẳng đem thân thêu dệt mà mang ḷng tự đại th́ đó gọi là Tuệ. Biết đối với Bồ tát tu tập tuệ chánh chơn, thông đạt tất cả chúng sinh, v́ tất cả chúng sinh nên ḷng thường chẳng bỏ, chẳng ĺa các pháp. Đó mới gọi là Bồ tát tập tuệ.

KINH A SOA MẠT BỒ TÁT

Quyển thứ ba - hết.

Quyển 1    Quyển 2    Quyển 3    Quyển 4    Quyển 5    Quyển 6    Quyển 7

KINH A SOA MẠT BỒ TÁT

Hán Dịch: Tam Tạng Pháp Sư Trúc Pháp Hộ, Nước Nguyệt Chi - Đời Tây Tấn

Việt Dịch: Tuệ Khai Cư Sĩ - Phan Rang

Chứng Nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh

Quyển thứ tư

Ngài A Soa Mạt Bồ tát nói với ngài Xá Lợi Phất rằng :

 - Bồ tát tu tập trí vào với các pháp nên không sở trước. Đó gọi là Tuệ. Có mười sáu việc chẳng cùng tuệ ḥa hợp. Những ǵ là mười sáu ? - Do vô minh nên khởi âm dương. Tự sinh già chết đều chẳng cùng Tuệ đồng. Các sở tác th́ cũng chẳng đồng trần. Cũng lại chẳng cùng sáu mươi hai kiến mà xen lẫn vậy. Chẳng tự cống cao cũng chẳng tự hạ thấp ḿnh. Có lợi, không lợi, hoặc khen hoặc chê, hoặc nổi tiếng, hoặc mất tiếng, hoặc khổ, hoặc vui, qua khỏi tám việc của thế tục, cống cao tự đại, khiêm ty, cung thuận. Cơi tục có hai mươi mốt việc chẳng cùng hợp đồng. Trừ khử mọi phiền năo, chẳng bị ngu tối, tỉnh thức ngủ nghỉ, thoát những sợ sệt, chẳng cùng tội hợp và các tâm cấu bẩn, chẳng tiêu trừ năm ấm nên đến với sinh tử, ma thân, ma tội, ma chết, ma trời mà chung ḥa hợp vậy. Tất cả chúng sinh, ngă, nhân, thọ mạng, những điều hy vọng mà tạo tác nhân duyên. Những ư niệm có hy vọng thế tục, phải vậy, chẳng phải vậy, cùng những việc sai quấy đều là nghiệp trói buộc. Có sự tham mộ là cùng giới trái ngược vậy. Chẳng phụng cấm giới hay phụng cấm giới, nhẫn nhục hay sân nhuế, tinh tấn hay giải đăi, nhất tâm hay loạn ư, trí tuệ hay ngu tối, do độ vô cực mà cống cao hay khiêm tốn... đều ĺa khỏi những việc đó, trụ vững hay chẳng trụ th́ gọi là Phạm Chí vậy. Định ư kiên cường, công đức cương nhu, tiêu tất cả niệm, khiến không có c̣n, liền thuộc vô vi, đất nước tốt, xấu, chúng sinh cát hung, tất cả thiện ác, ngu tuệ, thức minh, sinh tử diệt độ, chắc chắn cùng chẳng chắn chắn ĺa tất cả niệm. Trí ấy th́ không có sự nh́n thấy. Không có thấy, không có tướng, chẳng tưởng Nê hoàn. Sao gọi là tuệ ? Xem xét tính toán tám pháp công đức, hiểu rơ tám pháp. Sao gọi là tám ? Hiểu được năm ấm, tỏ rơ bốn đại, hiểu thấu sáu suy, phân biệt bốn đế, thông đạt mười hai duyên, thông suốt ba đời, phân biệt nhận thức được tất cả La hán và Duyên giác đến Bồ tát, diễn các pháp. Sao gọi là hiểu năm ấm ? Những việc sinh diệt giống như huyễn hóa, như việc thấy trong mơ, như cây chuối, như ngựa hoang, như tiếng vang trong núi, như h́nh tượng trong gương, như bèo bọt trong nước. Quan sát đến các sắc, ngă, nhân, thọ mạng mà hiểu thấu sắc như thế này, thọ (thống) như bọt nước, tưởng như ngựa hoang, sinh tử như cây chuối, thức như huyễn hóa. Kể bọt nước, ngựa hoang, cây chuối, huyễn hóa là sở dĩ v́ sao ? Đây là vi diệu vậy. Sự vi diệu ấy là vô ngă, vô nhân, vô thọ mạng. Đó là hiểu năm ấm, ngă, nhân, thọ mạng giống như huyễn hóa vậy. Thức cũng như huyễn đó, đó là hiểu năm ấm. Năm ấm rơi vào thế tục. Tướng thế tục th́ thoáng hiện liền không có. Đó là tướng của cuộc đời. Tướng đời ấy là nghiệp vô thường, khổ, không, vô ngă. Hiểu biết tướng ấy như thế th́ gọi là hiểu năm ấm. Sao gọi là tỏ rơ bốn đại, đất nước gió lửa ? Pháp giới ấy th́ chẳng là cương cường. Nước là pháp giới th́ không có nước. Lửa cũng là pháp giới th́ chẳng do tự nóng. Gió là pháp giới th́ chẳng dùng lay động. Bốn đại ấy là sự nhận biết của mắt đối với pháp giới. Chẳng dùng mắt nh́n mà nh́n biết hết. Pháp giới ấy là chẳng dùng tai mà nghe tiếng. Mũi chẳng hướng đến hương, miệng chẳng nếm vị, thân chẳng tiếp xúc, ư chẳng chấp trước pháp nhưng đều hiểu thấu pháp giới, đều đă đầy đủ. Pháp giới chúng sinh như giảng trao. Pháp giới thán t́nh chí tánh b́nh đẳng, b́nh đẳng như xưng nói. Pháp giới Dục giới cũng b́nh đẳng như xưng nói. Pháp giới Sắc giới, Vô sắc giới đều b́nh đẳng như xưng nói. Cơi sinh tử, cơi Nê hoàn, cơi Pháp thân b́nh đẳng xưng nói như rỗng không. Pháp giới cũng như không. Sở dĩ v́ sao ? V́ có đức không có đức cũng b́nh đẳng như không mà không có cái khác, cũng chẳng thể lường, đều chẳng thể xưng tán. Nê hoàn ấy cũng lại như vậy chẳng thể giảng nói. Vào pháp giới này th́ đó gọi là Trí hiểu rơ bốn đại. Sao gọi là sáu suy ? Như giải nói rằng, mắt ấy cũng không mà không ngô ngă, cũng chẳng vô ngă, chính đó cũng đều không. Sở dĩ v́ sao ? V́ giải được ngă không th́ ở tại các suy mà chẳng bị suy. Đó gọi là hiểu thấu đến sáu suy. Tính chắc chắn sáu suy, chẳng chấp trước, chẳng đoạn tuyệt th́ đó là Bồ tát hiểu đến sáu suy. Mắt thấy sắc là cái nh́n của suy chẳng đọa. Sở dĩ v́ sao ? V́ chẳng giữa đường thủ chứng. Tai, mũi, miệng, thân, ư cũng đều như vậy. Đó gọi là Bồ tát hiểu đến sáu suy. Sao gọi là sáu suy ? Bồ tát ấy có thể phân biệt sáu suy. Phân biệt sáu suy rồi liền vào đến đạo. Chẳng phân biệt sáu suy th́ chẳng phải là đạo. Lại như Bồ tát xử dụng đại ai nên chẳng gần chẳng xa, v́ chúng sinh nên chẳng bỏ đại đạo, cũng chẳng ĺa bố thí. Đó gọi là Bồ tát hiểu thấu sáu suy. Sao gọi là phân biệt bốn đế ? Biết khổ, tập, tận, đạo, chẳng được ngũ ấm xứ th́ đó gọi là biết cái sinh ra khổ là tập. Sắc hiện ra liền diệt th́ gọi là Tận. Đắc đạo, không đắc đạo mà tâm b́nh đẳng trụ nên gọi là đạo. Bồ tát biết bốn đế mà chẳng thủ chứng. Sở dĩ v́ sao ? V́ hộ tŕ tất cả vậy. Đó gọi là phân biệt bốn đế. Lại có ba việc. Sao gọi là ba ? Tướng chân đế ấy xét hiểu Như bản (gốc chân như). Lời nói của thế tục ấy là giả có hiệu vậy. Liễu ngộ chân đế th́ tâm chẳng nghĩ có không. Xét hiểu gốc là tất cả các sắc đều là b́nh đẳng. Sở dĩ v́ sao ? V́ chẳng giữa đường thủ chứng, lấy tướng làm ứng th́ đó gọi là phân biệt bốn đế - Ngài A Soa Mạt Bồ tát nói - Đế ấy có một không có hai. Sở dĩ v́ sao ? V́ đức Như Lai Chí Chơn không có ǵ hy vọng, cũng chẳng tưởng cầu sắc cùng vô sắc. Không điều hy vọng vừa được ở trong ấy chính là phân biệt bốn đế. Lại có khổ của năm ấm chính là tướng của phiền năo. Ưa hiểu “không” th́ đó gọi là Khổ đế. Thông đạt năm ấm là từ duyên khởi th́ gọi là Tập đế. Việc thấy muôn vật đều có tưởng cầu, phân biệt rơ ràng ư ấy mà chẳng tham mộ, tuy chẳng cầu mà cũng lại chẳng quên. Đó gọi là b́nh đẳng biết nghĩa Tận diệt. Chẳng cùng sự việc quá khứ, vị lai và hiện tại hôm nay mà chung đồng trần, cũng chẳng trụ ở trong. Đó gọi là Tận đế. Muốn đạt đến đạo, liễu ngộ được Khổ, Tập, Tận chẳng trụ ở hai việc. Cái gọi là hai việc là do dự, lưới kết sử. Đó gọi là Tận đế. Quan sát chắc chắn đó, biết đó là khổ th́ đó là Bồ tát phân biệt được bốn đế. Tất cả sự thấy khổ vui, thiện ác mà ḷng nh́n thấy rơ hết gốc ngọn của thế gian. Đó gọi là biết khổ. Các duyên đều khổ th́ đó gọi là Tập. Hiểu thấu cái khổ của thế gian, chẳng lấy làm cầu mong. Tuy chẳng cầu mong mà chẳng rơi vào tận chứng. Sở dĩ v́ sao ? V́ chẳng giữa đường thủ chứng. Đó gọi là Bồ tát nhân biết mà cầu đạo. Giống như muốn qua ḍng nước mà chẳng t́m thuyền th́ chẳng thể vượt ngang qua. Suy nghĩ phương tiện ấy hoặc được tấm ván gỗ cưỡi lên trên ấy để có thể được qua. Sở dĩ v́ sao ? V́ chẳng ưa, chẳng độ, chẳng sầu tại khổ. Tạo tác hạnh đó th́ trụ đúng như lời dạy của bốn đế. Chẳng dùng sắc tranh tụng mà rơi vào thủ chứng th́ đó gọi là Bồ tát phân biệt được Đế vậy. Ư xem xét khổ của sinh mà khổ từ duyên sinh, cũng chẳng từ duyên th́ đó gọi là biết sinh. Tất cả sự sinh cũng không có sinh, không có khởi, cũng chẳng diệt tận, chẳng hưng khởi ư diệt th́ đó gọi là ư tịch mà khổ diệt vậy. Ưa biết cầu thắng mà điều phục tâm ư ấy, giải nhập vào Tịch Ư này. Đó gọi là biết đạo mà chẳng trụ ở trong ấy. Sở dĩ v́ sao ? V́ Tuệ không trụ vậy. Đó gọi là Bồ tát phân biệt biết bốn Đế.

 Sao gọi là đạt đến mười hai nhân duyên ? Gọi là nhân vô minh th́ liền đến với sinh tử. Theo như lời các pháp giáo th́ cái có sinh ấy rơ ràng chẳng thể thấy, cũng chẳng thể biết. Sở dĩ v́ sao ? V́ không có sinh nên cũng chẳng phải chẳng sinh. Do rơ được việc nhân duyên như vậy nên duyên cầu Nê Hoàn đế, thấu rơ sở hạnh của chúng sinh chẳng b́nh đẳng, có thượng, trung, hạ. Duyên tác tội phước nên tạo sự hành đạo. Duyên điều sẽ đạt đến th́ hưng khởi duyên Vô Sinh. Tu các nghiệp pháp th́ cùng với đạo ḥa hợp. Đó gọi là hiểu mười hai duyên. Giả sử không có duyên đó th́ tiêu trừ vậy. Sở dĩ gọi tiêu trừ là gọi Vô minh diệt. Vô minh diệt tức là lăo bịnh tử diệt. Lăo, bịnh, tử diệt rồi, điều này có thể đạt th́ hiểu được mười hai duyên. Các nhân sở hữu đều là sự thâu tóm của pháp các duyên sở hữu đều là sự hợp thành của pháp. Nhân duyên ấy hợp thành chẳng phải ta, chẳng phải đó, cũng lại chẳng phải ngă, nhân, thọ mạng, đều không sở nhập. Như vậy nhập (vào) là chẳng ở tại tất cả các sở hữu vậy. Ư ấy hiểu khắp mười hai duyên này. Bồ tát đều muốn đầy đủ các pháp. Đủ các pháp rồi th́ đều rơ vô thường mà chẳng rơi vào thủ chứng. Sở dĩ v́ sao ? V́ cứu hộ chúng sinh vậy. Đó gọi là Bồ tát hiểu thấu mười hai duyên. Sao gọi là sáng ba đời ? - Biết hết ư quá khứ có đức hay không đức, quán thân người khác b́nh đẳng không có khác. Sở dĩ v́ sao ? V́ thân có lầm lỗi, người khác có lỗi, đều đứng ra hối lỗi thay và tạo tác phước đức. Nhân phước lộc này, phát tâm cầu đạo. Đó là công đức quá khứ của Bồ tát. Ư tạo tác công đức ở đương lai ấy đều dùng phát tâm lập nguyện Bồ tát. Những điều phát tâm dùng để hộ ngăn, nắm giữ ḷng kiên cố chẳng thọ ư vẩn đục. Đó là phước đương lai. Hiện tại hôm nay, sự tạo tác cầu đức của ư là do chính mọi duyên. Đó là công đức bỏ hết các bẩn, chẳng theo lời dạy sai quấy, là chẳng ĺa khỏi đức. Sở dĩ v́ sao ? V́ gần với Phật đạo, chính là phước của hiện tại. Xem xét quá khứ, vị lai và hiện nay, tin ba đời rỗng không. Quan sát pháp ba đời th́ dùng trí tuệ khuyến trợ trăm họ. Với Phật quá khứ, vị lai và hiện nay th́ dùng phương tiện thiện quyền. Đó gọi là sáng ba đời các pháp quá khứ tận. Sở dĩ v́ sao ? V́ chẳng thể thấy. Chẳng dùng đức quá khứ mà biến đổi tâm ấy. Các pháp đương lai thấy không sở sinh, chẳng do sự nghi ngờ đó. Xem xét pháp hiện tại cũng không sở trụ th́ không xứ sở. Sở dĩ v́ sao ? V́ chẳng bỏ tâm đạo. Đó gọi là sáng đến ba đời khắp đạt trí tuệ. Quá khứ đă diệt, đương lai chưa đến, hiện tại không trụ, trí không phá hoại, Bồ tát hưng khởi đức đều muốn hợp đồng. Vậy nên gọi là sáng đến ba đời, dùng tuệ nghĩ đến công đức quá khứ. Sở dĩ v́ sao ? V́ sở tác hôm nay đều là phước đời trước, là nguyên nhân của sự phát tâm đương lai vậy. Nghiệp trí tuệ ấy đầy đủ sở nguyện. Việc tạo tác công đức hiện tại ấy chẳng lấy làm khó. Sở dĩ v́ sao ? V́ là nguyện của Bồ tát vậy. Đó gọi là sáng đến ba đời v́ những chúng sinh ở đời quá khứ biết hết sự tạo tác công đức. Sở dĩ v́ sao ? V́ hộ chúng sinh vậy. Sự dạy bảo thuở xưa đến nay tiếp tục chuyển hóa họ. Sự giáo huấn là muốn khiến cho những người ấy thấy thần túc biến hóa của các đức Phật đương lai mà đối với nghĩa đạo pháp liền có tăng thêm. Có tăng thêm rồi th́ cũng tăng thêm phước lợi cho các quần lê. Đức Phật đă ra đời thêm nhiều ích lợi mà lời thề nguyền ấy đều không ngăn ngại th́ đó gọi là sáng đến ba đời.

 Sao gọi là hiểu rơ La hán và Duyên giác thừa, các đức của Bồ tát ? Nếu không Phật th́ không có La hán. Phật ra đời th́ có pháp La hán. Pháp La hán là nhân nghe tiếng mà lư giải. Người được Thanh văn th́ liền hoàn bị giới cấm. Giới cấm đă hoàn bị th́ gọi là theo đúng như giới. Đă đúng như giới th́ đủ giới, định, tuệ, độ tri kiến phẩm. Đó gọi là hiểu rơ Thanh văn. Từ cái duyên đó được A la hán, biết có đức, không có đức mà liễu ngộ phi thường, được thoát sinh tử, ở tại ba cơi chán hết mọi dục, thông đạt phi (vô) thường, khổ. Sở dĩ v́ sao ? V́ các pháp vô thường, Nê hoàn kia tịch tịnh cũng không sở hữu, chẳng cầu sở sinh. Sở dĩ v́ sao ? V́ sợ sinh tử vậy. Người sợ sinh tử th́ chẳng tin nghiệp thế tục, coi thân như oán thù, bốn đại như rắn độc, sáu suy trống rỗng... chẳng nguyện sinh ra năm đường xoay vần, thọ nhận Nê hoàn hộ (tŕ). Người hành như vậy là hiểu rơ Thanh văn. Sao gọi là hiểu biết Duyên giác th́ các Bồ tát đều biết? Sao gọi là sự tạo lập đức của Duyên giác ? Là sự hưng tạo công lộc vượt lên trên La hán. Sở dĩ v́ sao ? V́ việc hành tinh tấn siêu việt hơn lên, bố thí, tŕ giới, Thanh văn chẳng theo kịp. Sở dĩ v́ sao ? V́ việc làm của Thanh văn, ḷng họ dồn chứa chẳng bao nhiêu, việc cúng dường Phật tuệ chẳng đủ nói. Đă vào Phật pháp th́ sở học của họ ưa nhỏ, chẳng ngu, chẳng tuệ. Sở dĩ v́ sao ? V́ nghe mọi âm thanh vui mà chán ghét chúng. Sở học của họ ít thôi, thường ưa ôm hận, nương theo đức lớn gắng hỏi mà ưa việc tôn quí, hưng khởi việc thí cho, nghĩ đến mười hai duyên. Do toan tính cầu được giải thoát thân ḿnh mà riêng tin giữ đạo theo duyên khởi hạnh mà kiến lập công đức. Đó gọi là hiểu biết Duyên giác.

 Sao gọi là giải thông suốt nghiệp Đại thừa mà vào hiểu rơ đức chẳng thể xưng kể ghi chép ? Thừa ấy rộng lớn mênh mông vô cùng cực, v́ lũ chúng sinh hành phương tiện thiện quyền. Đức ấy trang nghiêm chẳng lấy làm khó đều ban cho theo sự ưa thích của chúng sinh, dùng độ vô cực giáo hóa thành tựu Đại thừa, biết hết sở hạnh của tất cả ḷng người, muốn độ thoát họ vượt mọi duyên khởi, chẳng cho là Phật đạo khó được vậy. Lại đem ánh sáng soi đến chúng sinh. Tâm ấy đặc biệt tôn quí tuyệt vời không ai bằng, độ tất cả khổ, hiểu rơ các pháp, không có ấm cái, hàng phục mọi tà đều khiến cho thanh tịnh nhu ḥa, tổng nhiếp ba mươi bảy phẩm đạo pháp, uy đức đặc thù như dựng tràng phan, sống với mười hai duyên mà chẳng đắm trước, chẳng đoạn tuyệt. Những điều được thấy như lo buồn, thùy miên (ngủ mê), dâm dục, sân nhuế, điều hí, việc chẳng được... đều xa ĺa hết. Chân thật dùng Phật tuệ và những vẻ đẹp của tướng mà làm trang sức, dùng thừa mà trang nghiêm hạnh của thân, miệng, ư ḿnh. Sở dĩ v́ sao ? V́ không có tội lỗi. Đó gọi là công đức Đại thừa. Công đức của Đại thừa tức là độ thoát chúng sinh khắp trên trời dưới đất. Sao gọi là độ tất cả chúng sinh ? Các pháp đều hợp gọi là thoát chẳng thoát. Thoát chẳng thoát là công lộc của Bồ tát Đại sĩ tràn đầy nối tiếp. Đó gọi là thoát. Hiểu rơ sự hưng tạo công đức trong sinh tử là do thân, miệng và ḷng. Dùng sáng suốt để hiểu rơ miệng tạo tác công đức, thân kiến lập phúc lộc. Đó là ba việc hành động của thân, miệng, ḷng trong sinh tử. Bồ tát do duyên hiểu biết giải thoát liền nguyện xin Nhất thiết chủng trí và các thông mẫn tuệ. Đó gọi là minh đạt. Thoát rồi lại hiểu những cái chẳng thoát. Năm độ vô cực vào trí độ vô cực gọi là thoát th́ chẳng lấy làm khó. Giải thấu độ vô cực thường tổng nhiếp hết. Bồ tát thiện quyền đều nhờ ánh sáng soi đến tất cả. Sở dĩ v́ sao ? V́ do bốn việc gồm đến người khác, không ngă, không nhân, không thọ, không mạng, không nắm lấy, không xả bỏ. Vậy nên phân biệt, dùng nguyên cớ giải thoát tạo tác nguyện Bồ tát đểminh giải độ thoát. Đó gọi là ở trong sinh tử được tiến tới dần từng chút do không sở đoạn. Không sở đoạn th́ chẳng diệt, chẳng sinh. Chẳng diệt chẳng sinh th́ đó là không có ǵ phá hoại Bồ tát. Sở dĩ v́ sao ? V́ chẳng tùng sự cùng người ngưỡng mộ thế lực. Do đó cho nên gọi là phân biệt chưa giải thoát, không, vô tướng, vô nguyện. Dùng pháp này xem xét hiểu rơ các kiến tín của Bồ tát. Sở dĩ v́ sao ? V́ ở trong ba giải thoát có thể chẳng đọa lạc. Vậy nên nói rằng chưa giải thoát, gọi là chẳng thủ chứng. Ở tại ba cơi mà không bị đắm trước th́ đó gọi là thoát. Tuy ở tại ba cơi mà thi hành phương tiện rộng răi. Sở dĩ v́ sao ? V́ sử dụng minh trí nên chẳng rơi vào thủ chứng. Đó gọi là hiểu rơ đức giải thoát. Pháp công đức đă tạo đều do đầy đủ các thông mẫn tuệ mà đă đủ thông tuệ th́ chẳng ĺa khỏi phổ trí, là hiểu rơ các pháp - Ngài A Soa Mạt nói với ngài Xá Lợi Phất - Đó là tám pháp sự hợp cùng trí tuệ mà chẳng thể tận. Đó là pháp trí tuệ bao hàm sự hiểu biết phân minh để có thể phân biệt rơ ràng đúng như Phật pháp, không có thù dị. Sở dĩ v́ sao ? V́ đă trừ khử căn cớ thùy miên phi pháp th́ tức là nguyện lực liên đạt đến đạo pháp. Ánh sáng trí tuệ của tuệ tướng các kinh điển chiếu soi đến bản tế mà đă vào tuệ th́ các dục kiến đều đă hiểu rơ có thể đến Nê hoàn, tổng tŕ tuệ nên chẳng xả bỏ đạo pháp, đă tin trí tuệ th́ mọi cấu bẩn đều tiêu trừ. Đại trí ấy chính là nguyên thủ của các pháp vậy. Tự nhiên tuệ th́ không có sư chủ, giải thấu hết các dục mà không chấp trước. Sở dĩ v́ sao? V́ nhân đạt đến ánh sáng của Đạo, dùng tuệ đoạn căn nên chẳng thể tận. Mọi tưởng đều rỗng không mà sở dĩ tạo căn là do si tối nên muốn đạt đến Thánh minh th́ dùng thuốc tuệ mà giáo hóa kẻ giữ đạo đều được chánh trụ. Có người đến học th́ dùng tuệ dạy răn đeàu khiến cho họ được sở đắc, dùng ánh sáng trí tuệ soi rọi hết si tối đều khiến cho họ được sáng. Nếu người không mắt th́ khiến cho được pháp nhăn, được nh́n thấy thông suốt, ánh sáng tuệ vô dư đều vượt các sắc, tuệ chân đế không kết lưới nữa, dùng tuệ để dạy bảo. Nếu kẻ chẳng phục th́ đều khiến cho họ đều tự qui hàng. V́ những người tối tăm hiển hiện mắt trí tuệ, tuệ chẳng thể tận không đâu chẳng vào, không hành động ǵ chẳng chu toàn. Sở dĩ v́ sao ? V́ suốt thông mười hai nhân duyên, đă tuyên dương minh trí, hiểu rơ các phược trói buộc khiến cho không lầm lỗi, chẳng v́ sinh tử mà mê man - Ngài A Soa Mạt nói với ngài Xá Lợi Phất - Bồ tát Đại sĩ dùng tuệ nắm lấy chung hết, vào trong ḷng chúng sinh, tùy theo hành động của họ, thấy hết ư niệm trong ḷng, minh giải phân biệt mọi quần lê (chúng sinh). Người không công đức th́ Bồ tát tuệ dẫn đường đến lợi ích. Trí tuệ Bồ tát khắp cùng hết các thừa Thanh văn, Duyên giác, lên đến bậc Chính Giác. Đó là Tuệ xứ. Bồ tát học ấy gọi là Trí tuệ mà chẳng thể tận.

 Khi diễn giảng Trí độ vô cực thông suốt chẳng thể tận và tuyên nói. Đạo phẩm pháp th́ ba vạn hai ngàn Bồ tát đều được pháp nhẫn Vô Sở Tùng Sinh.

 Ngài A Soa Mạt Bồ tát lại nói với ngài Xá Lợi Phất rằng :

 - Bồ tát Từ Thị mà chẳng thể tận. Sở dĩ v́ sao ? V́ từ ấy rộng lớn không bờ cơi. Ḷng nhân (từ) như hư không chẳng thể hạn lường. Sở dĩ nó vô biên là v́ giống như bốn đại của chúng sinh như hư không, không đâu chẳng khắp cùng. Bồ tát dùng từ che chở khắp cũng như bốn đại, đất nước lửa gió, chẳng thể xưng nói hạn lường nên chẳng thể tận. Từ rộng lớn của Bồ tát cũng lại như vậy, chẳng thể cùng cực nên nói rằng “vô tế”. Giống như hư không vô biên, tất cả bốn đại đều chẳng thể lường, chúng sinh vô tận nên ḷng nhân từ chẳng thể giới hạn. Vậy nên ḷng đại từ của Bồ tát vô tận.

 Lúc bấy giờ, ngài Xá Lợi Phất hỏi ngài A Soa Mạt rằng :

 - Bốn đại chúng sinh tính chẳng thể tận th́ làm sao gọi được ?

 Ngài A Soa Mạt nói rằng :

 - Đất nước lửa gió, số ấy hơn cả dược thảo, rừng rậm.

 Ngài Xá Lợi Phất lại hỏi :

 - Ngài có thể v́ chúng sinh nên dẫn thí dụ ư ?

 Ngài A Soa Mạt đáp :

 - Có thể giả mượn thí dụ ! Chẳng thể lấy dân chúng làm số cực cùng !

 Ngài Xá Lợi Phất lại hỏi :

 - Thí dụ ra sao ?

 Ngài A Soa Mạt đáp :

 - Giống như Đông, Tây, Nam, Bắc, bống phương bàng, phương trên, phương dưới hợp làm thế giới mà mỗi thế giới có số cơi Phật mười phương nhiều như cát sông hợp làm biển lớn. Chọn lấy hết tất cả số người trụ ở bờ biển mà mỗi người dùng một sợi lông để lấy số nước biển. Lấy một giọt nước ví cho số người nhiều bằng cát một ḍng sông. Lấy hai giọt nước ví cho số người nhiều bằng cát hai ḍng sông. Cứ như vậy tính số giọt cho hết nước của biển lớn mà hạn lượng của chúng sinh chẳng thể tận cùng cực. Bốn đại của quần lê cũng chẳng có thể tính cũng lại như vậy. Đại từ của Bồ tát không đâu chẳng khắp cùng - Ngài A Soa Mạt Bồ tát nói với ngài Xá Lợi Phất - Nếu có thể hoằng từ th́ phước đức đáng mừng ấy chẳng thể tận cùng cực.

 Ngài Xá Lợi Phất nói rằng :

 - Thật chẳng thể tận !

 Ngài A Soa Mạt nói rằng :

 - Nếu có Bồ tát nghe số lượng chúng sinh chẳng thể cùng tận mà chẳng sợ chẳng kinh, chẳng ôm ḷng tủi thẹn th́ đó mới nên gọi là Từ chẳng thể tận - Ngài A Soa Mạt nói với ngài Xá Lợi Phất - Hoằng từ ấy chính là sự hộ tŕ của Bồ tát mà lại v́ nghiệp chúng sinh có công hiệu. Sở dĩ v́ sao ? V́ không có mất vậy. Mọi thô ác dữ dằn đều tiêu trừ vĩnh viễn, hàng phục mọi nộ hại và các ái dục. Kẻ ấy nếu có người thấy th́ không ai chẳng vui lộ ra mặt. Sở dĩ v́ sao ? V́ không có các tà vạy. Những sự sợ hăi đều tan tác hết. Đạo ấy đoan chính mà không thiên lệch tà vạy có thể giáo hóa dẫn đường cho những kẻ loạn tâm. Nếu kẻ ấy có nguy nan th́ Bồ tát đến nơi an ủi cứu giúp. Sở dĩ v́ sao ? V́ muốn độ thoát vậy. Các trói buộc của cơi hữu không ǵ chẳng giải tán được, những kẻ dua nịnh th́ tu hành đầy đủ chất phác, chỉ học yếu nghĩa của đạo, chẳng hâm mộ thế vinh, đều được sự phụng kính của Đế Thích, Phạm Vương, thường quan sát bằng trí tuệ nên không đâu chẳng nh́n thấy. Sở dĩ v́ sao ? V́ hộ chúng sinh vậy. Tu bốn đẳng tâm, chẳng mang ḷng khác bỏ hết trần lao, vào yếu nghĩa của Phật đạo, tổng tŕ tuệ nghiệp, dùng đức tự trang nghiêm, vượt qua mọi đức, ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp đều đầy đủ cả, không ǵ chẳng hoàn bị. Độ thoát khoái thay ! Khoái thay ! nê hoàn hiển hiện dẫn đường chúng sinh ! Chẳng ở tại nơi có tám tủi thẹn (?), chẳng ở đất nhàn cư, ưa lấy pháp tự làm vui, tổng nhiếp lấy mọi dục, chẳng tham vương thổ, ḷng b́nh đẳng với chúng sinh, sở hạnh không khác, làm thanh tịnh Phổ Tuệ này. Nếu có người phạm giới th́ đều nuôi hộ họ. Hiện sức nhẫn nhục không được tự dụng mà ôm ḷng kiêu mạn, buông lung, chẳng bỏ tinh tấn, thiền tư, nhất tâm, tam muội chánh thọ. Ḷng ấy chẳng loạn nhờ nghiệp trí tuệ, những điều thính thọ đầy đủ hoằng từ. Những điều đó từ thân phát ra chẳng nương nhờ, ngưỡng mong ở người, chẳng theo lời dạy của ma. Sở dĩ v́ sao ? V́ thu hoạch được sự yên ổn lớn. Nhờ trí tuệ hiểu được sự xấu hổ những phi pháp, bớt hẳn mọi bệnh, che hộ chúng sinh, thường tự an thân, cũng làm yên tất cả. Pháp của La hán th́ chỉ muốn tự hộ, chẳng hộ chúng sinh. Bồ tát sẽ dùng Đại Từ thêm thương tất cả.

 Ngài A Soa Mạt Bồ tát nói với ngài Xá Lợi Phất rằng :

 - Từ có ba việc. Những ǵ là ba ? Một là Từ thí tất cả, hiểu rơ pháp từ thí b́nh đẳng. Hai là Từ chánh chơn b́nh đẳng. Ba là thường dùng Phổ Từ gia hộ chúng sinh. Sở dĩ gọi là Đẳng bởi v́ khi phát tâm Bồ tát th́ Từ cùng Pháp b́nh đẳng gọi là nghiệp thành tựu. Hưng khởi Phổ từ b́nh đẳng, nhân đó thành tựu nhẫn nhục. Đó gọi là ba việc Từ chẳng thể tận.

 Ngài A Soa Mạt nói với ngài Xá Lợi Phất rằng :

 - Bồ tát Đại sĩ phụng Vô Cực Ai mà chẳng thể tận. Sao gọi là người ? Cái gọi là người th́ lấy hơi thở làm gốc. Gốc ấy gọi là mạng. Chí hạnh của Bồ tát lấy Ai làm gốc để thành tựu Đại thừa vậy. C̣n vua Chuyển luân lấy tử ma kim luân (ṿng bánh xe vàng tía) làm nguyên thỉ, nhiên hậu bảy món báu liền đến đầy đủ. Đại thừa Bồ tát cũng lại như vậy. Nhờ có Đại Ai mà pháp bảo của chư Phật phổ biến đầy đủ khắp cùng. Giống như ông trưởng giả ưa thứ nhạc vi diệu thanh ḥa. Tiếng nhạc ấy ai mỹ vào đến cốt tủy. Bồ tát Đại sĩ đạt đến hoằng ai, thương nghĩ chúng sinh quá hơn cốt nhục. Giống như ông trưởng giả có con một nên yêu vô cùng cực. Nghiệp Bồ tát lấy Đại ai làm gốc, nhiên hậu đầy đủ cả. Sở dĩ v́ sao ? V́ Bồ tát v́ tất cả giáo hóa Đại ai không dua nịnh. Hành động không dua nịnh th́ có hoằng ai (thương xót rộng lớn), liền chẳng tự đại, chuyên ư tự dụng, cũng chẳng phô trương rỗng... cho đến hành động chân chính. Trong ḷng rất thẳng mà không có khác. Đó là hoằng ai. Sở dĩ v́ sao ? V́ không có ḷng tà, đă đạt đến sự thương xót. Ḷng ấy thuần thành cũng không kiêu mạn mà tự buông thả, thuận theo tất cả, dỗ dành, sách tấn, khai hóa mà độ thoát họ. Thân không có ǵ hao tổn là nhờ thế lực. Chẳng tham thọ mạng th́ tự yêu ḿnh, mọi ác ĺa tan, che hộ chúng sinh. Ḷng ấy đă tịnh, chẳng bỏ nghèo thiếu, các ách nạn. Sở dĩ v́ sao ? V́ chẳng lấy làm nhọc nhằn. Ḷng ấy kiên cố tức là mẫn ai. Ḷng ấy chẳng thoái chuyển th́ vào Đại Đạo. Chân ư của Bồ tát có khả năng siêng nuôi dưỡng hộ tŕ th́ đó là Đại ai. Nếu được các đức Phật tác chứng giải minh th́ cũng được tự ḿnh chứng minh cúng dường. Lại nữa, đạt đến đại ai th́ ḷng ấy thanh tịnh, việc làm không khác. Sở dĩ v́ sao ? V́ cóthể bỏ sự yên ổn của ḿnh mà tạo yên ổn cho chúng sinh. Thấy kẻ nguy ách th́ thân muốn thay cho họ. Ḷng chẳng mang hận, gánh vác tất cả chẳng lấy làm nặng, ḷng bền tinh tấn. Đó gọi là Ai. Sở dĩ v́ sao ? V́ có thể nhẫn nhục vậy. Nếu có người gầy yếu th́ nuôi hộ, pḥ trợ họ. Nếu có người bệnh mà thân thể hôi thối th́ đối với họ ḷng chẳng nhờm tởm. Muốn bằng sự lao nhọc đến với mọi nguy nan, thỉnh mời người giảng pháp chẳng lấy làm mệt mỏi, đầy đủ đạo tâm, tùy theo sự vui mừng của từng người. Những kẻ mừng theo dị học cũng đều được khai giải. Bồ tát thường bảo giữ công đức để làm trang nghiêm thân, các căn đầy đủ mà chẳng rơi vào khổ nạn. Nhân thành thục ḷng mẫn ai, b́nh đẳng vô dư để yên ổn tất cả. Sở dĩ gọi là ai là v́ không người tranh tụng. Sở dĩ v́ sao ? V́ không tham nên mới có thể đầy đủ ai. Ḷng không hối hận, thường hộ cấm giới, ưa dẫn đường lợi cho hết tất cả chúng sinh. Thân như Kim cương, chẳng thể hủy thương. Đem thân ban cho không hề nuối tiếc, khuyên giúp người khác khiến cho họ hưng tạo công đức. Đó là mẫn ai. Tuy thân lập đức mà ôm ḷng mừng vui chẳng bằng khuyên người kiến lập phúc lộc, chẳng dụng tâm ở niềm vui thiền. Sở dĩ v́ sao ? V́ thường v́ tất cả. Đă ở tại trong dục suy nghĩ quan sát đạo tuệ chẳng lấy làm nhọc nhằn. Đó là mẫn ai. Việc tạo công đức chưa từng lười mệt. Làm vô úy thí, từ bỏ ḷng tham lận, muốn khiến cho chúng sinh đều thành sở nguyện. Người suy nghĩ khai đạt th́ liền khiến cho kiến lập Vô cực Đại Ai. Sở dĩ v́ sao ? V́ Bồ tát lấy giải khải, ủng hộ, khuyến lệ, khen ngợi, dẫn đường làm đầu vậy. Nếu có người phạm giới và bài báng th́ Bồ tát tịch định chẳng nghĩ đến những lời nói đó. Sở dĩ v́ sao ? V́ Bồ tát thường dùng Phật giới dạy bảo mười phương. Nếu có người làm ác th́ đem ḷng thương xót họ, đem nhẫn của Như Lai mà răn bảo, không ngước nh́n bè đảng thế lực và ngu tối. Sở dĩ v́ sao? V́ giáo hóa khiến cho người ấy vào bên trong Phật pháp. Bồ tát dạy khắp mọi người khiến cho họ học được ba mươi hai “ai” của đức Phật mà “ai” cũng chẳng thể tận.

 Ngài A Soa Mạt lại nói với ngài Xá Lợi Phất rằng :

 - Tất cả việc bố thí của Bồ tát Đại sĩ đều lấy “ai” làm gốc nên gọi là kiến lập Vô cực Đại Ai. Bồ tát cũng đều ứng dụng bố thí, tŕ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, nhất tâm, trí tuệ, sáu độ vô cực và cũng lại hoàn bị ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Sở dĩ v́ sao ? V́ Bồ tát, một ḿnh có thể bước đi, không ai có thể làm thầy. Việc tu hành yên ổn chắc chắn mà không lầm lỗi, dùng trí tuệ và t́nh thương thành tựu tất cả chúng sinh nên gọi là Ai của Bồ tát là chẳng thể tận. Sở dĩ v́ sao ? V́ suy nghĩ, xem xét pháp điển th́ tâm ấy vui vẻ, chẳng lấy làm nhọc nhằn, xả bỏ các âm nhạc, chẳng lấy làm ưa thích, ḷng khắp trụ ở pháp, lấy pháp tự làm vui, thân ư hàng phục. Sở dĩ gọi là phục là v́ thấy việc làm của người chẳng phù hợp nghĩa lư th́ dựng tóc gáy (sợ), ḷng buồn rơi nước mắt. Người ưa thích đạo Bồ tát th́ ḷng ấy kính ưa, nguyện lấy đủ các vẻ đẹp và ba mươi hai tướng của thân Như Lai làm trang nghiêm. Công huân đối với các pháp là thường muốn nghe kinh chưa từng no chán, luôn luôn nắm lấy kinh văn, thường muốn kiên tŕ. Do ứng với pháp th́ chẳng do thế vinh mà hoài băo ở trong ḷng, thường dùng niềm vui của pháp mà lấy làm tự vui sướng. Ḷng b́nh đẳng với tất cả, tùy theo sự vui mừng của họ mà khai hóa cho. Sở dĩ v́ sao ? V́ đều khiến cho họ được đúng như pháp giáo của đức Phật. Đó gọi là hành hỷ. Nắm giữ ư, hiểu biết rộng lớn mà chẳng trái pháp chí chơn của đức Như Lai, thông suốt uy linh. Kẻ yếu hèn ấy th́ ḷng chẳng mộ pháp. Những người tham ái th́ ḷng chẳng thanh tịnh. Tuy Bồ tát ở tại Tam Tạng mà chẳng ôm ḷng tự đại, có thể với người cẩn thận th́ thay họ mừng vui. Với kẻ phạm sai quấy ấy th́ thêm cho họ ḷng thương xót, hiển bày con đường đạo. Thân tâm đă vượt qua nỗi sợ hăi đường ác, kiên phụng giới pháp giống như điều cấm của Như Lai ngang bằng không sai khác. Nếu có người chửi mắng th́ ḷng chẳng nổi sân nhuế mà điều phục khiến cho ḷng nhẫn nhịn nhu ḥa... Tôn kính bậc trưởng lăo, khiêm tốn với hàng tuổi trẻ, nhan sắc thường ḥa, ḷng không thác loạn, ứng đối với người th́ tùy thuận, thăm hỏi trước người mà chưa từng dua nịnh. Đó gọi là hành hộ của Bồ tát mà chẳng thể tận.

 Ngài A Soa Mạt nói với ngài Xá Lợi Phất rằng :

 - Thần thông của Bồ tát cũng chẳng thể tận. Sao gọi là thần thông ? Một là thiên nhăn, hai là thiên nhĩ, ba là biết tâm niệm của người khác, bốn là biết việc thuở xưa, năm là bay đi, sáu là lậu tận. Sao gọi là thiên nhăn ? Kể ra sự thấy của mắt các trời, rồng, Kiền đạp ḥa và các quỉ thần, La hán, Duyên giác chẳng bằng sự nh́n thấy của mắt Bồ tát. Sự nh́n thấy ấy vượt qua những cái thấy kia, tất cả sự nh́n thấy thông suốt không thể b́ kịp. Sự nh́n thấy ấy là tôn quí, là trên hết, là rất thù diệu, lồng lộng không ǵ sánh bằng. Mắt Bồ tát th́ không chỗ nào mà chẳng nh́n thấu đạt các đường lối. Sự thấy của mắt ấy khắp cùng vô biên thế giới của mười phương. Những sắc tượng của cơi hữu thô tế, lớn nhỏ, xa gần, rộng hẹp... đều dùng thiên nhăn nh́n thấy hết, mỗi mỗi đều phân biệt rơ ràng. Nhờ thiên nhăn đó thấy được mười phương rồi, c̣n nh́n thấy trụ xứ sinh ra ở năm đường mà xem xét chỗ về sinh tử của quần lê, biết việc sẽ gặt hái kết quả của sự báo ứng ấy, nhận thức được căn nguyên ấy, cũng lại hiểu rơ các căn mạnh yếu. Những công huân thanh tịnh tươi sáng trong đất nước của các đức Phật Thế Tôn ở mười phương thế giới kia đều cũng nh́n thấy hết. Xem xét giới cấm thanh tịnh ấy, đem công huân này mà khuyến trợ cơi của ḿnh, thường trụ ở cấm giới, sở nguyện liền thành. Dùng thiên nhăn này quan sát chư Phật, các chúng Bồ tát bất thoái chuyển địa vừa thấy ư nghĩa ấy th́ các chánh sĩ liền học tập sở hạnh của các vị ấy. Chánh sĩ học tập uy nghi, lễ tiết, cử động tiến dừng, an tường ḥa nhă, đứng vào cửa pháp, tổng tŕ biện tài, trí tuệ thiện quyền, tùy lúc phương tiện dạy, học đầy đủ. Dùng mắt chân đế thấy khắp tất cả không ǵ ngăn ngại, xét thấy tất cả sắc đều là hy ngụy, không một thứ ǵ chơn chánh. Do mắt chí thành cũng thấy giải thoát cùng với trói buộc. Do mắt chí thành nên thấy những thứ đó vốn tịnh hiển chiếu tươi sáng, ở các cảnh giới đều không chấp trước. Do mắt chí thành nên chẳng lại khởi sinh lưới kết trần lao, thấy ngần ấy tối mà chẳng mang ḷng trầm ngâm. Do mắt chí thành nên chẳng trụ ở điên đảo, tất cả tệ ngại chẳng dè chừng đến pháp, sự nh́n thấy sáng suốt, dùng ánh sáng pháp mà soi sáng. Do mắt chí thành nên tuyên bố thánh tuệ, chẳng hâm mộ các hạnh nhân duyên tạo thành, chưa từng ôm hận, không kết sử, không mong chờ, chẳng nương cậy trần lao, tất cả phóng dật. Do mắt chí thành nên mổ phanh lao nhọc, kẻ chán hiền thánh th́ theo căn do mà khai hóa, tướng chẳng tội lỗi th́ đều khiến cho ánh sáng soi chiếu chúng sinh b́nh đẳng. Do mắt chí thành nên ḷng ấy thanh tịnh, trừ các gốc rễ măi măi, khiến cho không c̣n, ĺa khỏi tự đại, không có cấu bẩn, tâm tính thanh tịnh mà không chấp trước. Do mắt chí thành nên chứng kiến Phật nhăn, xả tâm tự tại mà chẳng ruỗi dong, trừ khử hư ngụy, chẳng để yên các tật mọi nhóm kết sử. Do mắt chí thành nên đạt biết nghĩa lư, tiến lùi nẻo về. Pháp ấy tịnh th́ tuệ Thánh chương cú tu hành không ngăn ngại, nắm giữ chế ngự chúng sinh, kiến lập Đại Ai, cắt bỏ loạn pháp, chắc chắn qua đến bờ kia, khiến không ngăn ngại, điều đă thấy thẩm xét chắc chắn, thân cận đạo tràng, không chỗ nương cậy, thấy người cầu xin chẳng mang ḷng sân hận, răn bảo kẻ hủy giới, hộ mọi kẻ hận tâm, nuôi dưỡng người giải đăi. Kẻ ấy loạn tâm th́ v́ họ hiện thiền định. Người kia tà trí th́ cho họ mắt tuệ. Nếu khách lạc đường th́ hiển bày chính lộ. Người chí tại Tiểu thừa chỉ dạy bằng đại pháp vi diệu của Phật đạo khiến cho họ vào Phổ trí thuận theo chánh giác, chẳng phế bỏ thần thông. Đó là thiên nhăn của Bồ tát, thần thông nh́n thấy suốt vô tận.

 Sao gọi là Thiên nhĩ vô tận thần thông ? Do thiên nhĩ này mà nghe khắp mười phương, chẳng thể nói lên giới hạn. Những âm thanh nói lên của trời, rồng, quỉ thần, Kiền đạp ḥa, A tu la, Ca lưu la, Khẩn đà la, Ma hầu lặc..., những ngôn ngữ của người cùng chẳng phải người, những ngôn từ của tất cả hiền thánh, các đức Phật, Thanh văn, Duyên giác, những âm thanh thông suốt các Bồ tát.v.v... nói chung là tất cả âm thanh của các loại h́nh tượng có trong thế giới của chư Phật, dùng Thiên nhĩ này đều được nghe hết mà nghe tỏ rơ không một chút ngăn ngại. Và nữa, Thiên nhĩ này c̣n nghe thấu âm thanh của địa ngục, ngă quỉ, súc sinh, ngay cả những âm thanh nhỏ xíu của loài côn trùng như muỗi, ruồi, ong phẩy cánh đều nghe được cả. Sự ưa thích thiện ác, phải quấy đều từ sự diễn nói của miệng chúng sinh, thiên nhĩ ấy cũng biết hết. Sự tuyên dương tội phước, báo ứng của miệng, như có miệng nói lên sự trói buộc của tham dâm, sân nhuế, ngu si, hoặc có miệng hoài kết loài thô ác, hoặc miệng tham lam giận dữ xuất hiện ngu xuẩn, hoặc miệng nói ra, nói thuần những lời thô tục tệ ác, hoặc miệng tham dục mà diễn nói sự kết nhiễm, hoặc mang ḷng kết nộ miệng diễn nói lời hung hiển, hoặc mang ḷng ngu tối miệng diễn nói lẩn thẩn si dại, hoặc có tâm tính thanh tịnh điều ḥa mà miệng nói lừa dối, hoặc miệng nói thiện mà tâm tánh mang ư hại, hoặc miệng nói nhu ḥa tâm tính yên ổn lời nói ra thanh tịnh, hoặc thân miệng ư chẳng tương ứng... tất cả thần thông Thiên nhĩ nghe hết, không ngăn ngại và đều hiểu rơ cả. Thiên nhĩ này nghe những điều nhân hiền và những điều chẳng hiền mà đối với hiền, chẳng hiền cũng không chấp trước. Tai nghe tiếng ác chẳng mang lo buồn mà thường hưng khởi ḷng bi ai xót thương rộng lớn. Nếu gặp tiếng ác th́ đạt đến vô cực từ, biết hết tất cả việc làm của chúng sinh quá khứ vị lai và hiện tại, thông đạt đúng như thẩm đế (xét biết chắc chắn). Do Thiên nhĩ này nên nghe được lời ban tuyên pháp của chư Phật mười phương và liền thọ tŕ, chẳng quên, theo đúng như những điều nghe của ḿnh, thường ưa đạo pháp, xem xét những pháp khí thích ứng mà dạy bảo, đều khiến cho họ được nghe chẳng chỉ một lần mà nghe pháp Như Lai để lần lữa khải thọ, không thể gây hại phế bỏ khiến cho ḷng thoái lui quên mất. Lại Bồ tát ấy vốn khi hành đạo đều theo chư Phật mở mang phụng thờ đạo giáo. Ngần ấy chúng hội mà mỗi mỗi Bồ tát đều phải nói pháp nên đều quan sát sự nghe của những tai chúng sinh rồi liền tự nhiên diễn nói lời pháp giáo cho từng người ấy. Như trong số quần lê đó, có người hiểu kinh nghĩa th́ họ nghe lời nói pháp, c̣n người chẳng hiểu nghĩa th́ họ chẳng chịu nghe. Giả sử pháp giới nhĩ căn thanh tịnh th́ Thiên nhĩ giới ấy là Thánh tuệ thanh tịnh. Giả sử Nhĩ giới tự nhiên tịnh th́ chúng sinh cũng tịnh. Nếu xem xét nhĩ giới tùy theo âm thanh, văn tự, lời nói bàn ấy th́ Bồ tát đều có thể nghe hết. Tất cả chúng sinh sống tại năm đường được Bồ tát truyền đi ngần ấy âm vang lời nói chẳng đồng, nhiều chẳng thể kể xiết để tùy theo âm thanh họ thông suốt mà vào nói pháp. Sự nghe của tai ấy đều từ chân đế, đều do đạo nhĩ của Như Lai khuyến trợ, chẳng ưa thừa khác. Đó là sự nghe vô tận thần thông của Thiên nhĩ Bồ tát.

KINH A SOA MẠT BỒ TÁT

Quyển thứ tư - hết.

Quyển 1    Quyển 2    Quyển 3    Quyển 4    Quyển 5    Quyển 6    Quyển 7

KINH A SOA MẠT BỒ TÁT

Hán Dịch: Tam Tạng Pháp Sư Trúc Pháp Hộ, Nước Nguyệt Chi - Đời Tây Tấn

Việt Dịch: Tuệ Khai Cư Sĩ - Phan Rang

Chứng Nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh

Quyển thứ năm

Ngài A Soa Mạt nói rằng :

 - Thưa ngài Xá Lợi Phất ! Thần thông biết tâm niệm người khác của Bồ tát cũng chẳng thể tận. Sao gọi là biết tâm ? Thông đạt ư niệm quá khứ, suy nghĩ đương lai, tư tưởng hiện tại của các quần lê. Lại, Bồ tát ấy biết tâm như huyễn th́ tùy lúc, nên khuyên bảo chúng sinh. Như nói về hành động báo ứng, con đường họa phước. Ḷng người này nhu ḥa được báo thiện đức. Hành động người này bậc trung được báo trung gian. Hành động người này hạ liệt (thấp hèn) được báo liệt nhược. Chí tánh người này, ḷng ưa bố thí. Người này thích tŕ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, nhất tâm, trí tuệ. Chí tánh người này yêu thích từ tâm, bi ai, hỉ, hộ. Chí tánh người này hâm mộ học Đại thừa. Chí tánh người này thích học thừa Thanh văn, Duyên giác. Thể tánh người này vốn gieo trồng chủng tử mỗi khác chẳng đồng. Gốc đức người này phải dùng thuốc này để mà trị liệu. Do tu phước mỏng nên sinh ở chỗ hạ tiện. Người này hành tịnh đức mà tâm tính chẳng sáng. Người này tâm sạch, hành động trong. Người này tâm tịnh, hành động liễu định... Những loại so sánh như vậy Bồ tát đều biết hết. Khi chúng sinh đời xa xưa, ư niệm trong ḷng của của họ khác nhau, việc tu hành của họ chẳng đồng, Bồ tát nhân hành động của họ mà v́ họ nói pháp th́ đó gọi là biết tâm niệm của người khác. Đức Phật biết hoài băo của mọi người đời đương lai. Người này đời đương lai nhờ phụng tŕ cấm giới được báo ứng như vầy, bố thí được báo ứng cũng lại như vậy, nhẫn nhục, tinh tấn, nhất tâm, trí tuệ báo ứng ấy cũng như vậy. Hành động theo nghiệp thế tục th́ được báo việc tục. Người mỗ (người nào đó) đời sau tu học Đại thừa th́ hành động phép tắc, uy nghi, lễ tiết... báo ứng như vậy. Chúng sinh đời đương lai, cử động tiến dừng, uy nghi, các nghiệp, tâm niệm... từng người đều khác. Về sau họ sẽ thọ báo, Bồ tát hiểu rơ hết kết quả của sự gieo trồng đó. Người nào chí tánh, hành động chẳng thuần thục sẽ tùy theo mọi hoạn nạn điên đảo. Nhân biết tâm hạnh ấy mà Bồ tát cởi mở, theo những pháp khí ấy mà v́ họ diễn nói pháp. Kẻ được tuyên nói pháp nhất định chẳng chao đảo lầm lẫn, ứng theo bệnh mà cho thuốc. Nếu khi diễn nói pháp, không điều ǵ để tâm, Bồ tát đều lại nh́n thấy thông đạt chúng sinh hiện tại, tâm niệm phải quấy thẩm xét chắc chắn rơ ràng. Bồ tát biết được người này (mỗ) mang ḷng tham dục, người này tính nhiều sân nhuế, người này hẹp ḥi si tối. Bồ tát biết người này không tham dục, người này không có ḷng sân nhuế, ngu đần. Nhân tâm tính trần lao buông lung mà Bồ tát hiểu được điều suy nghĩ của những chúng sinh này, duyên vào sự lao nhọc dơ bẩn ấy mà v́ họ nói pháp, đều khiến cho họ khai giải thông đạt. Bồ tát đi đến chúng hội, quan sát gốc tâm của họ, ứng theo bệnh mà cho thuốc, đều v́ họ mà tuyên dương thông suốt. Giả sử ḷng mọi người mang nỗi do dự, chí chẳng tự quyết, mê hoặc dong ruỗi, tuy có tiến lùi mà hoài băo nghi ngờ trầm uất, trí tuệ chẳng sáng, ḷng mê hoặc, hành động ác, sở niệm đi đến chẳng thể giải hết... th́ Bồ tát hiểu rơ tâm tính, đoạn trừ trần lao, lại khử trừ ngăn ngại, ĺa cấu bẩn, thanh tịnh, quang minh hiển sáng mà không thọ nhận, không việc tạo lập, xả bỏ tỳ vết (lồi lầm), dùng ánh sáng pháp soi sáng tâm hạnh của tất cả chúng sinh, tùy lúc họ nhập giáo mà v́ họ nói pháp khiến cho họ đều thông đạt khắp cả. Đó là nghiệp thứ ba của Bồ tát, biết tâm niệm của người khác vô tận thần thông.

 Ngài A Soa Mạt nói rằng :

 - Bồ tát nghĩ về xa xưa biết chẳng thể tận. Dám có thể nghĩ nhớ tỏ rơ đến gốc. Các loại quần lê đều thảy nhờ ơn thánh chỉ của đức Như Lai trụ vững ở pháp giới. Thuần thục là tính cách chân thật duy nhất mà chẳng thể động, tính chẳng bộc lộ, đủ hết thiền định, chẳng mang oán, mong, trụ như thẩm đế. Bồ tát biết đến năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, nhận thức được việc đời hàng ức năm nhiều chẳng thể kể, về trời đất thành bại, hợp tan, tiến lùi từ một kiếp đến mười kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp. Bồ tát tỏ rơ danh tự, ḍng họ, ngôn ngữ, ẩm thực. Việc thay đổi, khổ vui của vô số ức trăm ngàn ức ức kiếp. Bồ tát tự biết nguồn gốc, thấy được gốc gác của mọi người khác, từ cổ xưa đến nay đă riêng biệt gieo trồng đức, gốc thiện của chúng sinh, việc lập công của thân, khuyến trợ Phật đạo, soi ḷng chúng sinh, làm cho biết gốc thiện, khuyên phát ư đạo, khổ vui, an nguy của túc mạng đời trước... chốc đă qua hết, đều qui về vô thường, khổ, không, phi thân. Kẻ ngu mê hoặc bởi sắc tự cậy vào thế lực giàu có cống cao mà kiêu căng buông lung, mặc cho quyến thuộc hoang loạn tự đại cậy nhờ địa vị quyền quí, tham chức Đế Thích, Phạm Vương, hâm mộ Tứ Thiên Vương và Chuyển Luân Thánh Đế, ưa những thú hướng kết cục của năm nẻo luân hồi, thích đến chỗ ái dục tôn cao, mừng v́ thân ḿnh cầu tưởng yên ổn. Bồ tát nhờ vào dục đó được hóa độ người khác, thiết bày hâm mộ thế vị phải xem xét phi thường, khổ, không, phi thân, thông suốt gốc ngọn hành động của kiếp quá khứ, việc hiện tại ấy không có xứ sở, thà mất mạng thân chẳng phạm điều phi nghĩa, việc lập gốc công đức thuở xưa đều dùng khuyến trợ đầy đủ đại đạo, gốc đức hiện tại nắm giữ chế ngự chúng sinh, bỏ hạnh nghiệp tà, chẳng đoạn Tam Bảo, Phật, Pháp và Thánh chúng, phát khởi Nhất thiết trí. Đó là thần thông chẳng thể tận thứ tư, Bồ tát biết đời xa xưa mà tự chứng minh. Sao gọi là thần túc phi hành của Bồ tát ? Người mà thần thông đă đạt chẳng thể tận th́ tự quan sát ḷng ḿnh mà ưa thích tinh tấn nhiếp lấy pháp điển, tu hành nghiệp hạnh liền có thể thành tựu, luôn được do ḿnh, thường phụng hành chắc chắn, với bốn thần túc hiện ở trước mắt, các thần thông đều đạt không c̣n ǵ nữa. Bồ tát ấy dùng vô số phẩm vật để hiển hiện thần túc, uy biến không lường. Như dùng một thân hóa ra vô số thân, đem vô số thân trở về lại một thể, phi hành bay nhanh như khoảnh khắc một niệm, chẳng ngại tường vách, núi Thiết vi....đi qua thông suốt như chim bay trong hư không, ngồi ở hư không như ngồi trên mặt đất, dẫm lên nước mà như đi ở đất bằng, ra vào không ngăn cách như không cửa ngơ. Bồ tát dùng thần túc đó quan sát căn cơ của người mà khai hóa họ. Từ những chúng sinh ấy, Bồ tát nhân có thể dạy bảo mà hiển hiện thần túc. Bồ tát v́ họ hiện nhan sắc đoan chánh không ǵ sánh, hoặc nhân lỗ chân lông mà diễn ra ánh sáng lớn, hoặc lập uy thần tùy theo h́nh loại của họ mà khai hóa độ cho... ứng theo bệnh mà cho thuốc đều khiến cho họ được khỏi bệnh. Hoặc hiện h́nh dáng sắc mạo của Thanh văn, Duyên giác để kiến lập họ. Hoặc hiện thân Phật mà khai hóa họ. Hoặc hiện h́nh dáng sắc mạo của Phạm vương, Đế thích cũng như của bốn trấn Chuyển Luân Thánh Vương và đủ chủng loại h́nh tượng khác mà giáo hóa quần sinh. Hoặc hiện h́nh dáng sắc mạo loài súc sinh theo sự ưa thích của những người ấy mà đều v́ họ nói pháp và nhân đó mà nuôi dưỡng. Kẻ có thế lực kiên cường mang nhiều độc hại, lắm sân nhuế th́ nhân sự thích nghi của họ mà phát triển Từ tâm. Hoặc hiển thị đại lực, hoặc lực chinh phạt bốn cơi, hoặc lực câu tỏa một nửa hoặc lực câu tỏa đủ... Những lực ấy uy thế vô cực, chẳng thể hạn lường. Vua núi Tu di rất lớn, cao lồng lộng, rộng dài ba trăm ba mươi sáu vạn dặm nhập vào biển th́ số ấy cũng chẳng ngang bằng. Bồ tát dùng một ngón tay nâng đỡ chúng lên ném sang nước Phật phương khác như ném một trái cây mà sức của Bồ tát ấy chẳng hề hao tổn. Lại, ba ngàn đại thiên thế giới này rộng dài vô biên, xuống đến tận bờ cơi của đất, lên đến tầng trời ba mươi hai, cùng cực ở thượng phương. Nâng hết chúng đặt vào bàn tay phải. Với ngần ấy kiếp nâng đỡ chúng mà chẳng nhọc nhằn. Kiến lập lực thần túc, hiển bày thánh tuệ ấy, Bồ tát dùng uy đức Thánh Tuệ này đă đạt đến sở dục theo ư ḿnh. Bồ tát có thể nâng biển lớn ném vào vết chân trâu mà tại vết chân trâu cũng chẳng bị dồn nén, cũng chẳng lọt tràn ra. Bồ tát có thể biến vết chân trâu trở thành biển cả. Giả sử kiếp lửa cháy, trời đất sắp hoại diệt, Bồ tát kiến lập uy thần biến làm hồng thủy, theo thánh chỉ đạo hóa làm thành thủy tai. Rồi muốn khiến thủy tai thành hỏa tai th́ Bồ tát liền được như ư niệm. Nói tóm lại, ở tại chỗ hiển thị không một thứ ǵ ngăn che khiến cho sự biến hóa là hư huyễn, pháp thượng, trung, hạ theo đúng như sở dục của ư, không ǵ chẳng thành tựu, không người nào có lay động, dời đổi, làm hại phế bỏ được. Đế Thích, Phạm Vương, ma, trời và cùng phương khác mà việc làm đúng như pháp liền theo lời dạy của kinh. Ngoại trừ đạo uy thần vô tận của chư Phật, kỳ dư mọi người trên trời dưới thế gian không ai có thể tác oai di dời đức của Bồ tát. Bồ tát dùng uy lực này v́ những thứ dân hiển bày ngần ấy biến hóa, vui vẻ cộng tác, ban tuyên kinh đạo. Có thần túc đó ḷng Bồ tát kiên cường, chưa từng lùi lại, qua khỏi trần lao dơ bẩn của cảnh giới ma, đi vào cảnh giới Phật, chẳng người phiền nhiễu, ứng theo chỗ thiếu thốn ấy mà đều khiến cho được đủ đầy. Thuở xưa, đời trước Bồ tát đă tạo gốc đức, các ma và quyến thuộc chẳng thể hủy hoại. Đó là thần túc biến hóa của Bồ tát, thần thông thứ năm, mà chẳng thể tận.

 Ngài A Soa Mạt lại nói với ngài Xá Lợi Phất rằng :

 - Điều cốt yếu của Bồ tát Lậu Tận thần thông là chẳng trụ ở hữu vi, chẳng ở tại vô vi mà nhờ Đại Từ nên chẳng tạo sanh tử, nhờ Đại Bi nên chẳng trụ ở diệt độ. Muốn thành tựu đạo đức th́ chẳng chấp trước chung thỉ, muốn hiện thân Phật th́ chẳng trụ ở diệt độ. Luyến thương tất cả mà chẳng mê trần dục, hóa độ mười phương nên chẳng thủ diệt độ. Hành thí, giới, nhẫn, tinh tấn, nhất tâm, trí tuệ tùy lúc chẳng mê chảy thấm, hành phương tiện quyền biến chẳng mộ vô vi. Muốn đủ bổn nguyện chí tính thanh tịnh, chẳng trái đạo tuệ phương tiện khai hóa. Ở tại năm đường sinh tử mà thản nhiên sáng suốt, chẳng ưa vô vi, sáu thông b́nh chánh, chẳng ĺa năm đường, sáu độ, bốn đẳng tâm, bốn ân, bốn biện, ba mươi bảy phẩm, trị liệu sanh, bệnh, tử thành tựu cơi Phật ấy, nghiêm tịnh ba trường, chẳng ở hữu vô, sinh tử hữu vô, đều quan sát tự nhiên b́nh đẳng như hư không, không tiến không lùi. Đó là thần thông thứ sáu của Bồ tát mà chẳng thể tận.

 Ngài A Soa Mạt nói rằng :

 - Thưa ngài Xá Lợi Phất ! Bồ tát Đại Sĩ có bốn ân hạnh mà chẳng thể tận. Những ǵ là bốn ? - Một là Bố thí, hai là Nhân ái, ba là Lợi ích, bốn là cho B́nh đẳng. Bố thí ấy có hai điều, một là cho y phục, vàng bạc, trân báu, xe ngựa, người theo. Hai là pháp thí là bố thí rộng răi kinh điển không đâu chẳng lưu hành khắp. Nhân ái ấy cũng có hai điều, nếu có người cầu xin th́ tùy ư cho họ. Có kẻ muốn nghe Kinh th́ cũng v́ họ giảng nói pháp. Lợi ích ấy cũng có hai điều, tự thành tựu hạnh của ḿnh và đầy đủ nguyện của người khác. Cho b́nh đẳng ấy cũng có hai điều, như ư niệm của tự thân ḿnh suy nghĩ kiến lập công đức. Người đến cầu xin y thực, những sự thiếu thốn đều thí cho họ, lại c̣n thêm khuyên người khiến cho họ trụ ở đạo nghiệp. Lại, Sở dĩ gọi là thí là thấy người cầu xin th́ mừng rỡ cho họ, sắc mặt chẳng biến đổi mà càng thêm tươi vui. Nhân ái đó là thấy người đến cầu xin th́ thương xót như con đỏ. Lợi ích đó là khuyên những người đến cầu xin trụ trên đất b́nh đẳng thản nhiên. Cho b́nh đẳng đó là giả sử có người thân hành động, miệng nói, ḷng nghĩ đều khuyết lậu th́ giáo huấn khiến cho hộ ba việc tương xứng, khiến cho họ vào Đại thừa. Lại nữa, bỏ ḷng tham tật th́ gọi là bố thí, tinh tấn chẳng đoạn th́ gọi là Nhân ái, có sự lợi ích mà chí tánh thanh ḥa, sau chẳng ôm hận mới gọi là Lợi ích, khuyên vào Đại thừa chẳng rời vào tiểu ư th́ đó là cho b́nh đẳng. Lại nữa, từ tâm thuận cùng th́ gọi là bố thí, hưng phát vui mừng mang ḷng tha thứ luyến thương mới gọi là Nhân ái, hưng khởi đại bi ai, mặc giáp giới đức, v́ quần lê nên nhẫn chịu mọi khổ th́ gọi là lợi ích, nuôi dưỡng hộ tŕ các hạnh khiến cho chẳng tốn hao, khuyến Nhất thiết trí th́ đó gọi là cho b́nh đẳng. Lại nữa, nếu người cầu pháp cũng có thể ban cho, không điều ǵ tiếc lận th́ gọi là bố thí. Nhân ái ấy là có thí cho ǵ th́ kiêm luôn việc đem pháp giáo hóa khiến họ được thản nhiên. Lợi ích ấy là cùng v́ thân ḿnh, lại v́ người khác mà dấy thịnh đạo hóa. Cho b́nh đẳng ấy là v́ tất cả nên liền phát ư đạo, các tâm thông tuệ. Lại nữa, sở hữu trong ngoài đều có thể buông bỏ, chẳng mang vọng tưởng th́ gọi là bố thí. Tán dương tất cả tuệ công huân, chẳng trái thầy bạn mới gọi là nhân ái. Bỏ sự yên ổn của thân, sự tiện nghi của thân mà lo nghĩ cho người khác th́ gọi là ích lợi. Tập họp yếu hạnh hoặc trụ ở khổ năo, đă siêng tu tư duy tuệ thành tựu đạo, xem thấy điều đó như ở trong ḷng bàn tay, rồi đem cho người khác mà chẳng ôm ḷng áy náy th́ đó gọi là cho b́nh đẳng. Sao gọi là pháp thí ? Như đem pháp ḿnh nghe v́ người khác giảng nói. Nhân ái ấy là nếu có điều giảng nói mà chẳng tham y thực, nghiệp lợi dưỡng. Ích lợi đó là nếu dạy người đọc tụng Kinh điển th́ tùy lúc mà trao, chưa từng mệt nhọc. Sao gọi là cho b́nh đẳng ? Chưa từng ĺa xa ḷng Nhất thiết trí, thường theo lời pháp huấn mà chẳng lấy làm khổ hoạn. Sao gọi là bố thí ? Người yêu thích pháp th́ chẳng thiếu thốn y thực, b́nh bát, giày dép, giường chơng, ngọa cụ, thuốc men trị bệnh... Người được những thứ ấy thấy người khác thiếu thốn liền có thể cho họ. Rồi quan sát chí tánh của kẻ ấy mà liền v́ họ nói pháp để khiến cho họ được những thứ ấy. Cho b́nh đẳng ấy là có thể gia thêm bố thí cho người, làm tịnh ba đạo tràng, chẳng mong tưởng báo đáp, đem dùng khuyến trợ tâm Vô Thượng Chánh Chân Tối Đẳng Chánh Giác. Lại nữa, pháp thí ấy là ở trong các thí th́ nó là tối đệ nhất tôn. Tác khởi sự xem xét đó rồi mới hưng tác pháp thí. Nhân ái ấy là tấm ḷng ấy chất phác hiển bày nghĩa mẫn ai. Lợi ích ấy là nghĩ nghĩa lư đạo chẳng thọ nghiêm sức. Cho b́nh đẳng ấy là ban tuyên đạo tuệ của Phật pháp đầy đủ. Lại nữa, bố thí ấy là cụ túc hoàn bị các độ vô cực. Nhân ái ấy là thành tựu giới cấm, nhẫn nhục độ vô cực. Lợi ích ấy là tinh tấn độ vô cực, chẳng rơi vào điên đảo, nghĩ lui, thêm lỗi. Cho b́nh đẳng ấy là Thiền tư rộng lớn, trí độ vô cực. Lại nữa, Bố thí ấy là ứng với hạnh của Bồ tát mới phát tâm. Nhân ái ấy là phụng tu chính hạnh, thuận theo gốc Bồ tát. Ích lợi ấy là thành tựu pháp giáo của Bồ tát bất thoái chuyển. Cho b́nh đẳng ấy là gọi cơ nghiệp của Bồ tát nhất sinh bổ xứ. Lại nữa, Bố thí ấy là kiến lập căn bản của đạo. Nhân ái ấy là ví việc thành tựu đạo giáo với sự hoàn bị mầm, thân, cành, lá, ngọn của một cái cây. Ích lợi ấy là dụ với cứu cánh của đạo như hoa nở sum suê, hương thơm sực nức. Cho b́nh đẳng ấy là nghiệp đạo đức rốt ráo như hoa trái vào mùa. Đó gọi là bốn ơn của Bồ tát.

 Ngài A Soa Mạt nói rằng :

 - Thưa ngài Xá Lợi Phất ! Bồ tát Đại Sĩ có bốn biện tài cũng chẳng thể tận. Những ǵ là bốn ? Một là nghĩa biện, hai là pháp biện, ba là ứng biện, bốn là từ biện. Sao gọi là Nghĩa biện ? Hiểu đến nghĩa chân đế của các pháp, sáng tỏ sở đạt của ḿnh, hiểu tuệ báo ứng, điều biết ḥa nhă, chẳng tự sửa công, vào nhân duyên tuệ, chẳng hoại pháp giới, thông hết bản tịnh, vào đến vô bản, hiểu thấu bản vô, rơ trụ bản tế, vĩnh viễn không có bờ cơi, hiểu nghĩa giải không, phụng tu vô tướng, ở tại vô nguyện, hiểu không sở cầu, lập công sở hạnh, sáng tỏ các hạnh, vào cửa nhất tuệ, chẳng kể có người, chẳng thấy ngô ngă, không thọ không mạng, đạo trí là một, sống tuệ chánh chơn, biết đến quá khứ vô ương số kiếp, hiểu đến tương lai nghĩa không bờ cơi, biết ở hiện tại tất cả mọi hạnh, hiểu hết năm ấm giống như huyễn hóa, bốn đại như rắn độc, các nhập như hư không, hành bên trong Tịch diệt, không đi ở bên ngoài, hiểu các đất nước không có cảnh giới, tâm ư vô h́nh, sở hạnh ấy đến là không chỗ đến xem chí tính ấy sáng biết thẩm đế (xét thấy chắc chắn) khổ không xứ sở, với các sở tập mà không tạo tác, diệt tận ấy là tướng của tự nhiên, hiểu vào đường lối phân biệt thú hướng câu nghĩa các pháp, thông vào các căn, đạt suốt năm lực, kiến lập tịch nhiên, điều xem xét rơ, tất cả sở hữu như huyễn hóa, cây chuối, ngựa hoang, h́nh ảnh thấy trong mơ, tiếng vang trong núi, trăng trong nước đều hư không thật, bằng ngần ấy tướng mà rơ là một tướng, biết hội hợp th́ ắt phải biệt ly, nay mừng mừng th́ sau phải lo buồn, hiểu Thanh văn thừa nhờ âm thanh mà giải ngộ, biết Duyên giác thừa từ mười hai duyên mà tịch tịnh qui về một, thông suốt Đại thừa học là do tích lũy vô lượng tất cả gốc đức mới thành đại đạo. Đó gọi là biện nghĩa. Lại nữa, Nghĩa biện ấy là chỉ qui ngưỡng nghĩa. Tất cả các pháp đều về với nghĩa mà cũng không chỗ về. Sở dĩ v́ sao ? V́ sự qui thú của tất cả các pháp đều rỗng không hết. Đó gọi là nghĩa. Tất cả các pháp đều không có tướng, hiểu thấu không tướng ấy th́ đó gọi là nghĩa. Tất cả các pháp đều không có nguyện, cái không có nguyện ấy là nghĩa. Tất cả các pháp đều về với đạm bạc, cái đạm bạc ấy gọi là nghĩa. Tất cả các pháp đều không có nhân, không thọ, không mạng, chính cái không thọ không mạng ấy gọi là nghĩa. Nếu hiểu các pháp như đây phân biệt th́ đó gọi là Nghĩa biện. Bồ tát ấy giảng nói pháp không xứ sở mà phải nói có xứ sở. Sự giảng nói vị đó th́ chẳng thể tận, biện tài diễn nói không thể ngăn chận, lời ngôn giáo của các đức Phật Thế Tôn đều từ xa khuyến trợ sự tuyên dương thánh tuệ, chân đế không khác, không có tội huấn. Đó gọi là Nghĩa biện.

 Sao gọi là Pháp biện ? Nếu rơ các pháp tùy lúc mà vào thiện ác, họa phúc, hưng khởi phước đức, tội hấn, hữu lậu, vô lậu, tại thế, độ thế, khổ vui, nguy hại, trần lao, sân hận đều có phẩm loại, vào với sinh tử như ở Nê hoàn, phân biệt nghiệp phương tục pháp giới. Đó gọi là Pháp biện. Lại nữa, Pháp biện ấy là hiểu sự luyến mộ của ḷng tham dục. Người này háo sắc th́ biết phải dùng thuốc ǵ mà trị liệu. Người này dâm dật thịnh, người này tham dục mạnh hoặc có ít dục, người này có thể trừ dục, người này chẳng thể trừ, hoặc có dục từ xưa nên nay dục đến, hoặc đời đương lai tập (quen) tướng tham dục, hoặc ở đời hiện tại tập tướng tham dục. Hoặc có người bên trong mang tham dục mà bên ngoài không ân ái. Hoặc lại có người bên ngoài mang tham dục mà bên trong không ân ái. Hoặc lại có người trong ngoài đều có dục. Hoặc lại có người, nh́n thấy nhan sắc họ mà phát t́nh dục c̣n nghe tiếng chẳng động ḷng. Hoặc lại có người, nghe tiếng của họ mà hưng khởi tham dục, chẳng do sắc tác động. Hoặc lại có người nhân âm thanh, h́nh dáng mà hưng khởi sắc dục. Hoặc lại có người nhân hương thơm các mùi vị, chạm xúc và các pháp mà khởi tham dục. Hoặc lại có người không ư niệm sắc, thanh, hương, vị, xúc. Đó là hành động của chúng sinh tham dục. Phải làm thế để vào sự tập quen của cửa tham dục ấy, hoặc dục hai vạn một ngàn, hoặc hành động sân nhuế cũng hai vạn một ngàn, hoặc hành động ngu si cũng hai vạn một ngàn, hoặc hành động đẳng phân cũng hai vạn một ngàn. Nếu có thể hiểu rơ được những hành động này tám vạn bốn ngàn th́ liền có thể tùy lúc khai hóa chúng mà không có hao tổn. Chúng sinh ấy chẳng vào tuệ th́ Bồ tát dẫn dụ họ tiến về trước mà chẳng làm mất tiết tháo của họ. Bồ tát hiểu biết ứng pháp khí của ḿnh đặc thù hay hạ liệt để có sự ban tuyên pháp mà không có sự lấn hiếp, ép uổng. Đó là Pháp biện.

 Sao gọi là Ứng biện ? Nếu có thể vào khắp tất cả âm từ như âm thanh của chư thiên, âm thanh của người thế gian, âm thanh của những rồng, quỉ thần, càn đạp ḥa, A tu luân, Ca lưu la, Chân đà la, Ma hưu lặc, người cùng chẳng phải người... Bồ tát có thể nghe được hết âm vang lời nói của chúng sinh năm đường, rồi tùy theo âm hưởng ấy mà v́ lê thứ giảng nói kinh pháp. Đó gọi là Ứng biện. Như vậy tùy thuận để mà diễn pháp th́ tức là Ứng biện. Hiểu rơ Kinh điển, biết văn tự ấy, quan sát vào đến nghĩa lư. Với những phẩm loại như vậy, Bồ tát hiểu được một thứ ngôn ngữ, mười thứ ngôn ngữ, trăm thứ ngôn ngữ. Bồ tát rơ được ngôn ngữ của trai gái lớn nhỏ và trẻ con, cũng biết nghĩa thú của văn tự quá khứ, đương lai và hiện tại. Bồ tát cũng hiểu một chữ mà lại biết chỗ sở nhập của hai chữ, cũng biết độc một chữ mà không có bạn, cũng biết hai chữ mà không có bạn (?). Đó gọi là Ứng biện. Ứng với chân đế nói không khuyết lậu, tỏ rơ phân minh mà không lầm lỗi, lời nói ư tứ kín đáo mà nghĩa lư đủ hết, mọi người sở tại đều vui ḷng, không ai oán vọng. Ban tuyên thâm nghĩa, văn từ chơn chất, hợp bàn văn vẻ, tự xét ḷng ấy, theo lời Phật dạy, quan sát thú hướng của chí tánh chúng sinh mà v́ họ ứng nghĩa khiến cho ḷng cởi mở, vui mừng hớn hở, đều được sự mong muốn của họ. Đó gọi là Ứng biện.

 Sao gọi là Từ biện ? Lời nói đúng lúc, ngôn từ chẳng thác loạn, nói chẳng dừng giữa chừng, không ai có thể ngăn được, nghĩa đă nói ra không thể ngăn cản, chợt hỏi liền đáp ứng khéo léo nhanh như gió thổi, đáp chẳng chậm chạp, đáp đúng như điều đă hỏi, chẳng mất ứng tiết (những chi tiết đáp ứng), chẳng trái người hỏi, biện tài không tranh căi, lời nói biện tài ứng với pháp chân đế, đứng ở lực nhẫn nhục, điều tuyên nói thâm diệu diễn đạt ngần ấy nghĩa, biện tài theo thứ lớp, chẳng vượt thứ tự ư hiện đến. Bố thí, tŕ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, nhất tâm, trí tuệ th́ phân biệt tất cả chương cú nghĩa lư. Giảng nói ư chỉ, ư đoạn, thần túc, căn, lực, giác ư, phát tâm, thành đạo, quan sát tịch nhiên, hiểu thông suốt tất cả thiền tư, giải thoát môn, tam muội chánh thọ, vào đến thánh tuệ mổ xẻ phân tách ba thừa, làm vui ḷng tất cả chúng sinh, ngôn từ ḥa nhă, nói không lầm lỗi, cũng không lời thô ác. Gặp người chẳng hợp nghĩa th́ miệng chẳng bộc lộ, lưỡi chẳng mê man dạy lời nói ác mà lời nói ra nhu ḥa thanh tịnh, không bệnh hoạn, lời nói chậm răi rơ ràng, không lời nào chẳng thật. Tùy lúc sự, nghĩa đă truyền liền trở nên chính thức, chẳng bộc chẳng lộ, phương tiện tùy ư, không có lời khác, cũng không nói nhỏ lời nói che giấu lén lút, lời nói lộ bày, nói không chỗ che khuất, cất tiếng cực cao, ngôn từ ổn định, có điều ǵ nói ra th́ không được sai sót. Các chúng hiền thánh đă chung than thở, đă xưng dương th́ thông lưu đến nước khác. AÂm thanh vi diệu ấy cũng như âm thanh trời Phạm, người nghe đều thấu đạt. Ngôn từ của miệng chẳng trái với pháp giáo, Bồ tát đều thấy căn bản của tất cả chúng sinh nên ứng theo tâm niệm của họ mà v́ họ nói pháp. Những người nghe pháp ấy liền theo, b́nh đẳng đoạn tuyệt hoạn nạn khổ năo. Đó là Từ biện vô tận của Bồ tát.

 Ngài A Soa Mạt nói rằng :

 - Thưa ngài Xá Lợi Phất ! Biện tài của Bồ tát lại có bốn việc mà chẳng thể tận. Những ǵ là bốn ? Một là thủ nghĩa chẳng thủ thức (nhận biết). Hai là về với tuệ chẳng thủ lấy điều đă biết. Ba là về với yếu kinh mà chẳng mê hoặc . Bốn là tự về với pháp mà chẳng thủ lấy người. Sao gọi là nghĩa ? Sao gọi là thức ? Vào với thế pháp th́ đó gọi là thần thức trước, vào với pháp độ thế th́ mới gọi là nghĩa. Sở dĩ gọi là Thức là v́ bố thí, điều ư, minh trí, an tường. Sở dĩ gọi là Nghĩa là v́ biến hóa điều định, tịch mịch, đạm bạc về với Thánh tuệ. Sở dĩ gọi là Thức là v́ than thở sinh tử mà chẳng chán hoạn. Sở dĩ gọi là Nghĩa là v́ tuy ở tại sinh tử mà chẳng sống điên đảo, có thể vượt qua hết hoạn nạn chung thỉ. Sở dĩ gọi là Thức là v́ than thở công huân Nê hoàn. Sở dĩ gọi là Nghĩa là v́ tất cả các pháp vốn tịnh, diệt độ chẳng mang vọng tưởng. Sở dĩ gọi là Thức là v́ tùy theo thừa gốc của họ mà v́ họ phân biệt. Sở dĩ gọi là Nghĩa là v́ vào một pháp tuệ. Sở dĩ gọi là Thức là v́ tất cả sở hữu đều có thể bố thí không thứ ǵ yêu tiếc. Sở dĩ gọi là Nghĩa là v́ tịnh ba đạo tràng về với một Đại Đạo. Sở dĩ gọi là Thức là v́ hộ tŕ thân miệng ư, tu học hết cấm giới, khen ngợi công đức chỉ túc (dừng đủ). Sở dĩ gọi là Nghĩa là v́ hộ tŕ thân miệng ư, lư giải điều chẳng thể được đều không sở tác. Đó gọi là cấm giới có thể làm thanh tịnh. Sở dĩ gọi là Thức là v́ thấy những người cống cao, tự đại, kiêu mạn, buông lung, ôm sân, ngậm độc th́ v́ họ diễn nói đức nhẫn nhục an tường. Sở dĩ gọi là Nghĩa là v́ tu hành có thể tự đạt đến Pháp nhẫn Vô sở tùng sinh. Sở dĩ gọi là Thức là v́ ân cần tinh tấn phiền năo nghĩa của tất cả gốc đức. Sở dĩ gọi là Nghĩa là v́ không ứng ǵ chẳng ứng, không đôi, không chiếc, tu hành tinh tấn mà không chỗ trụ. Sở dĩ gọi là Thức là v́ giải thoát thiền tư thoát môn an tường, tam muội chánh thọ. Sở dĩ gọi là Nghĩa là v́ hiểu rơ diệt tận định ư chánh thọ. Sở dĩ gọi là Thức là v́ tất cả những điều nghe được liền có thể thọ tŕ nguồn đạo trí tuệ. Sở dĩ gọi là Nghĩa là v́ quan sát đến trí tuệ không có xứ sở cũng chẳng thể được. Sở dĩ gọi là Thức là v́ ban tuyên đến lời dạy ba mươi bảy phẩm đạo nghĩa ấy. Sở dĩ gọi là Nghĩa là v́ phụng hành tuân tu đạo pháp của chư Phật, nhân các báo ứng đạt đến đạo quả. Sở dĩ gọi là Thức là v́ là v́ mổ xẻ phân tách Khổ đế và cả Tập đế, Tận đế, Đạo đế. Sở dĩ gọi là Nghĩa là v́ đến với tịch diệt, chứng minh đạm bạc. Sở dĩ gọi là Thức là v́ nhân sự sinh ấy đều do từ vô minh đến lăo bệnh tử. Sở dĩ gọi là Nghĩa là v́ do diệt vô minh... và lăo bệnh tử, cũng không trừ măi. Sở dĩ gọi là Thức là v́ giảng nói sự quan sát gốc của tịch nhiên, căn nguyên chỗ về. Sở dĩ gọi là Nghĩa là v́ nhân tuệ minh ấy mà được giải thoát, đến trí vi diệu. Sở dĩ gọi là Thức là v́ hiểu dâm nộ si số phận b́nh đẳng vốn chẳng thể riêng biệt. Sở dĩ gọi là Nghĩa là v́ đă được vĩnh viễn tiêu trừ mọi ác, các tưởng, chẳng nghĩ mang hận. Sở dĩ gọi là Thức là v́ giải thoát nạn ngăn ngại của tất cả các pháp ấm cái. Sở dĩ gọi là Nghĩa là v́ đi vào cửa giải thoát tuệ không trệ ngại. Sở dĩ gọi là Thức là v́ khen ngợi công đức Tam Bảo vô lượng. Sở dĩ gọi là Nghĩa là v́ đă ĺa khỏi tham, chẳng cùng dục hợp, phụng tuyên công huân. Sở dĩ gọi là Thức là v́ nếu có Bồ tát từ lúc bắt đầu phát ư thường khen cái đẹp của bậc Khai sĩ và danh xưng tất cả cấm giới. Sở dĩ gọi là Nghĩa là v́ trong một khoảnh khắc tâm niệm đều có thể hiểu rơ và liền được thành tựu tất cả mẫn tuệ. Nói tóm lại là có thể tuyên giảng hết tám vạn bốn ngàn những phẩm pháp tạng th́ đó gọi là Thức. Đối với những văn tự, những điều nhận thức được mà hiểu thấu nghĩa không sở đắc, không xứ sở th́ gọi là Nghĩa.

 Sao gọi là Tuệ ? Sao gọi là Thức ? Trụ ở thức th́ có bốn việc. Một là Thức ở tại sắc, tâm ở trong ấy. Hai là tâm ở trong ấy mà mang vọng tưởng ở tại phược trước (trói buộc chấp trước). Ba là sống ở sinh tử thức ở tại xoay vần (giáp rồi quay trở lại). Bốn là Thức trước mê hoặc chẳng thể tự bứng khỏi. Đó gọi là bốn. Sao gọi là Tuệ ? Thức ấy chẳng trụ ở đất năm ấm, đoạn các ấm cái, sắc, thống, tưởng, hành, thức th́ đó gọi là Tuệ. Lại nữa, Sở dĩ gọi là Thức là v́ hiểu rơ bốn đại đất nước lửa gió. Giả sử thức hành chẳng trụ bốn thứ, thức chẳng dong ruỗi, chẳng hoại pháp giới th́ đó gọi là Tuệ. Lại nữa, Sở dĩ gọi là Thức là v́ nhăn sắc, nhĩ thanh, tỵ hương, thiệc vị, thân xúc, tâm pháp, nếu chấp trước sự nhận thức đó th́ gọi là Thức. Giả sử tiêu trừ hết ngoại cảnh, chẳng buông lung theo mà bằng sự dẫn đường của tuệ đến với tất cả pháp, không có ǵ hy vọng th́ đó gọi là Tuệ. Có sự ỷ trước th́ sinh ra Thức vậy. Cũng từ tưởng niệm, hy vọng, cầu nhiều mà sinh ra Thức vậy. Đó gọi là Thức. Nếu không có sự thọ nhận, cũng không hy vọng, ḷng chẳng hoài niệm, không sự ưa thích, chí chẳng mong báo đáp th́ đó gọi là Tuệ. Hành pháp hữu vi th́ trụ ở Thức. Tu hạnh vô vi th́ thức không sở trụ. Tôn phụng ánh sáng vô vi mới gọi là Tuệ. Nếu trụ ở dấy khởi phân biệt th́ gọi là Thức. Cũng chẳng khởi diệt, thức không sở trụ mới gọi là Tuệ.

 Sao gọi là Thủ kinh nghĩa ? Sao gọi là Thủ ? AÂn cần trăm họ cầu các Kinh điển th́ đó gọi là Thủ. Nếu ở Kinh điển đạt đến đạo quả th́ đó gọi là Thủ nghĩa. Nếu ở các Kinh điển thành tựu mọi hạnh th́ đó gọi là Thủ. Nếu có thể phân biệt gốc ngọn các Kinh th́ đó gọi là Thủ nghĩa. Nếu tại các Kinh vào tạo hạnh nghiệp th́ đó gọi là Thủ. Nếu ở các Kinh diệt hết tội phước, vĩnh viễn trừ trần lao th́ đó gọi là Thủ nghĩa. Nếu ở các Kinh gặt hái lấy yếu tuệ mà v́ người khác nói nghiệp trần lao th́ gọi là Thủ. Nếu ở các Kinh tỏ rơ phân biệt chương cú Thanh tịnh th́ đó gọi là Thủ nghĩa. Nếu ở các Kinh chán nạn sinh tử, lo buồn chẳng vui th́ đó gọi là Thủ. Nếu ở các Kinh quan sát sinh tử và cùng diệt độ mà chẳng cho là hai th́ đó gọi là Thủ nghĩa. Nếu ở các Kinh chỉ tuyên nói tạp cú, lời dạy hoa mỹ (nghiêm sức) th́ đó gọi là Thủ. Nếu ở các kinh yêu thích thâm nghĩa, uyên áo, cao xa, thản nhiên vô vi th́ đó gọi là Thủ nghĩa. Nếu ở các Kinh tưởng thức vô số tâm niệm chúng sinh th́ đó gọi là Thủ. Nếu ở các Kinh ư thức biết được tâm không chỗ sinh th́ đó gọi là Thủ nghĩa. Nếu ở chánh Kinh kể có ngô ngă, nhân và cùng thọ mạng, loài có sự sống mang ḷng được chẳng thể được tạo lập hy vọng, điều có thể nói đều không có chủ mà cưỡng lập gốc ngọn, chúa quân trưởng th́ đó gọi là Thủ. Nếu ở các Kinh hiểu thấu pháp không, vô tướng, vô nguyện, chẳng khởi, chẳng sanh đều không sở hạnh, chẳng kể ngô ngă và cùng thọ mạng giảng ba cửa giải thoát th́ đó gọi là Thủ nghĩa. Sao gọi là pháp ? Sao gọi là người ? Nếu đặt vấn đề con người từ đâu tu pháp th́ đó gọi là người. Nếu ở tại người chẳng bỏ các pháp mà trụ cảnh giới th́ gọi là thủ pháp. Lại nữa, Sở dĩ gọi là người là gọi tính hạnh của các phàm phu, phàm thứ th́ mới gọi là người. Nếu ở phàm phu phụng nghĩa chân nhân, tu hành dốc ḷng tin nắm giữ kinh điển, hợp với ngài Bát Đẳng, người Đại Tích (Tu Đà Hoàn), người Văng lai (Tư Đà Hàm), người Bất Hoàn (A Na Hàm), người Vô Trước (A La Hán), người Duyên giác, người Bồ tát. Lại có một người xuất hiện ở đời với nhiều thương xót, nhiều những yên ổn, lành thương ba cơi, chư thiên, người đời và ba đường ác không ai chẳng nhờ tế độ. Đó gọi là Như Lai. Như Lai Chánh Chân đem an lành khắp tất cả, hiển bày đường lối, giáo hóa lê thứ khiến cho họ vào với Đạo nghĩa. Giả sử có người nương cậy chấp cầu th́ không có hộ (?). Nhân muốn khai hóa những người mê hoặc này nên v́ họ nói là, phải về với pháp chớ thủ lấy người. Kể ra đối với pháp th́ không sự tạo tác, không có đồng dạng, không tác chẳng tác, trụ không chỗ trụ, cũng không căn bản, khắp hành b́nh đẳng ngang bằng chánh chân cũng ngang bằng tà nghiệp. Do tà ngang bằng chánh, do chánh ngang bằng tà nên tà chánh không hai, không điều hy vọng, đều không sở hạnh, ở tất cả pháp đạt đến tự nhiên. Tướng ấy rốt ráo giống như hư không th́ đó gọi là Pháp. Việc mở đường dẫn lối đạo pháp cũng chẳng suy nghĩ cho là ơn đức. Nếu vào đến nghĩa của cửa pháp này th́ xem thấy tất cả pháp đều là Đạo pháp, đều điều ngự các pháp mà chẳng lấy làm mệt nhọc. Đó là nghĩa bốn qui ư của Bồ tát mà chẳng thể tận.

KINH A SOA MẠT BỒ TÁT

Quyển thứ năm - hết.

Quyển 1    Quyển 2    Quyển 3    Quyển 4    Quyển 5    Quyển 6    Quyển 7

KINH A SOA MẠT BỒ TÁT

Hán Dịch: Tam Tạng Pháp Sư Trúc Pháp Hộ, Nước Nguyệt Chi - Đời Tây Tấn

Việt Dịch: Tuệ Khai Cư Sĩ - Phan Rang

Chứng Nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh

Quyển thứ sáu

Ngài A Soa Mạt nói rằng :

 - Thưa ngài Xá Lợi Phất ! Nghiệp công đức và nghiệp Thánh tuệ của Bồ tát cũng chẳng thể tận. Sao gọi là Đức nghiệp ? Nếu có thể bố thí ra sở hữu của bản thân, đức tŕ giới, nghiệp đạo tuệ. Thường hành Từ tâm, tư duy định ư, hành vô cực ai, phụng mọi gốc thiện, v́ thân ḿnh thí cũng v́ người khác. Tập hợp công đức, khuyến thí tất cả chúng sinh ba đời, phổ cập đến những bậc học và cùng chẳng học, các Duyên giác thừa. Cũng lại khuyến trợ những người mới phát ư học pháp Bồ tát, người đă chứng nhập hạnh, bậc Bất thoái chuyển, bậc Nhất sinh bổ xứ, các đức Phật quá khứ, đương lai và hiện tại. Khuyên khắp gốc đức, hành động phúc lộc tốt lành hết thẩy đều chúc nguyện chư Phật hiền thánh. Thầy giảng Kinh pháp nhờ công đức đó khiến cho được trường tồn, thọ mạng vô cực. Khuyên mọi gốc đức, tuy hợp phúc lộc mà họ chẳng phát ư th́ khuyên phát tâm đạo. Kẻ đă phát tâm th́ khiến cho độ vô cực. Nếu có kẻ nghèo thiếu th́ cứu lấy bằng của cải. Người ấy thân bệnh th́ cấp cho thuốc thang, tuy lúc cung dưỡng chẳng mang ḷng dua nịnh. Người ấy yếu hèn th́ khuyên lập nhẫn nhục. Người ấy che giấu tội th́ khiến cho họ chẳng giấu lỗi, thường mang ḷng xấu hổ lộ bày tội ương, phụng kính các đức Phật hiện tại và quá khứ, yêu kính qui mạng thầy ḥa thượng, thường hành pháp thí, giáo hóa vô sư chủ, siêng tu tinh tấn, cầu pháp chẳng giải đăi, thấy các pháp sư như nh́n thấy Phật, nghe pháp không chán, hoài băo trong tâm niệm. Cách xa mười bốn ngàn dặm mà có Kinh th́ nên tự đi đến, chẳng lấy làm nhọc nhằn. Tuy nói Kinh pháp, chẳng hâm mộ lợi dưỡng. Hiếu thuận với cha mẹ, ngày đêm cung dưỡng, chẳng rời bên cạnh, thường nghĩ lại ơn nhũ bộ, chẳng ôm ḷng hận, tích đức không chán, hành động của thân kính cẩn, h́nh thể không trang điểm diêm dúa, thường giữ ǵn lời của miệng, chẳng diễn lời nói thô ác, tự giữ ư ḿnh, ḷng chẳng mang độc hại. Kiến lập chùa Phật, giảng đường tinh xá thi thu hoạch công đức phước báo giống như trời Phạm. Sao gọi là Phước Phạm (phước đức của trời Phạm) ? - Khi đức Phật mới thành đạo, liền muốn Diệt độ th́ chư thiên nghiễm nhiên đều đến khuyến trợ : “Ngài vốn v́ tất cả, muốn độ mười phương, năm sông, ba nguồn chảy tràn chẳng dứt, nguyện giữ bổn thệ khai độ tất cả mê hoặc, mù tối, điên đảo, trên dưới sáu mươi hai kiến, ch́m đắm bế tắc tại chín mươi sáu đường. Nguyện xin đức Đại Thánh dùng ánh sáng tế độ cho !” Đức Phật nói rằng : “Hay thay ! Vua trời mang ḷng từ ! Đời ngũ trược rất khó khai hóa ! Ta sẽ phân ra ba thừa mà khai hóa, dẫn dụ, sách tấn rồi nhiên hậu mới có thể vào Đại Đạo Vô thượng”. Phước của trời Phạm này chẳng thể nói lên giới hạn, Kẻ hưng tạo Phật tự công đức cũng vậy, chứa vô lượng đức. Nhân công huân này mà đầy đủ những ba mươi hai tướng. Nhờ phụng hành ngần ấy những gốc thiện nên đầy đủ tám mươi vẻ đẹp. Tu hành thập thiện mà chẳng tự đại nên thân ấy trang nghiêm đoan chánh đẹp đẽ. Ném bỏ tất cả lời nói thô ác, nhờ đó miệng trang nghiêm, diễn nói biện tài.Thường có ḷng từ chẳng mang độc hại th́ ḷng trang nghiêm thanh tịnh như ngọc sáng. Cơi Phật trang nghiêm, thần thông biến hóa. Kinh điển trang nghiêm v́ người khác giảng nói. Chúng hội trang nghiêm khiến cho mọi người phụng sự đạo giáo. Trừ bỏ lưỡng thiệc, ác khẩu, sàm ngôn (nói gièm pha), ganh tị người. Hỏi han thính thọ kinh điển mà quan sát. Lấy ǵ khai hóa độ thoát khiến cho đến với Đại đạo ? Có điều ban tuyên th́ chưa từng vượt thứ lớp, cũng không ép uổng, sắc mặt vui ḥa, mọi người thấy không ai chẳng vui vẻ, cắt bỏ ấm cái, một ḷng nghe kinh, lấy ư niệm thông minh linh lợi làm trang nghiêm, cúi đầu qui mạng các đức Phật chánh giác, trang nghiêm đạo tràng, tuân theo mọi gốc đức lấy làm nguyên thủ. Làm thanh tịnh chỗ sinh sống, tương hộ tội phước, ái dục, trần lao, đạt được bàn tay báu đều có thể bố thí tất cả của báu quan trọng mà không hy vọng. Dùng của cải nhiều vô cực mà thí cho th́ đạt được kho báu rộng lớn vô tận. Mặt thường ḥa vui, chẳng lộ nét mặt lo buồn nên thân hữu, bè bạn đồng học, không ai chẳng vui mừng. Tâm b́nh đẳng đối với chúng sinh, nhờ đó đạt được b́nh thản như ḷng bàn tay, chẳng khinh người chưa học. Ưa đốt đèn lửa cống hiến lên chùa Phật, cha mẹ, thầy bạn th́ được ánh sáng thanh tịnh không đâu chẳng chiếu soi. Tích đức, phụng giới tu hành không thấm bẩn, đời đời sống tại chỗ thanh tịnh, chẳng nhiễm dơ bẩn của người khác, hoặc ở tại thai tạng thường không nhiễm cấu bẩn. Phụng hành thập thiện th́ sinh lên trời. Trở lại ở tại nhân gian chưa từng tưởng niệm tất cả lưới kết sử. Do vậy nên độc bộ mà không hư vọng, dạy bảo pháp vô sư nên đối với các pháp là bậc tôn hào cùng cực, chí tánh thanh tịnh, khắp đời mọi người nh́n thấy không chán. Chẳng tiếc thân mạng, chưa từng hư dối, không lấn lướt ép uổng, nhờ những nguyện xưa có thể thành tựu đầy đủ đạo pháp của các đức Phật. Do vậy cho nên đầy đủ mọi gốc đức. Thưa ngài Xá Lợi Phất ! Kiến lập gốc đức mỏng manh mà tùy lúc nuôi dưỡng th́ thu được phước không lường, lại quá hơn phước này chẳng thể nói lên hạn lượng. Tôi thô thiển nêu lên đôi điều cần yếu, chẳng phu diễn hết được. Sao gọi là tuệ nghiệp đă từ nhân do thọ thần thức ấy biết năm tuệ thông ? Sao gọi là nhân ? Sao gọi là do ? Người nhiều dục ấy th́ thường cầu Phật pháp, thân hữu minh tuệ thường cùng với họ hỏi han, thính thọ, phụng kính, chấp ngự Phật tuệ, chẳng cầu thừa Thanh văn, Duyên giác, ĺa khỏi tự đại, phụng như bậc Tôn Thánh, kính như bậc Chánh Giác, Chí tánh điều ḥa nh́n thấy các thân hữu, tuân theo tuệ nghĩa, chẳng chấp trước ngôn từ. Thấy các pháp sư tu hành đạo phẩm th́ chẳng ưa ngoại h́nh mà nghe lời nói pháp, siêng tu theo lời pháp giáo. Người hành pháp ấy chính là làm tuệ nghiệp.

 Sao gọi là pháp nghiệp ? Ít cầu, thiểu dục chẳng tại miệt mài, thiểu lời ít nói thường tự giác ngộ, tu hành tinh tấn. Có được nghe nghĩa th́ suy nghĩ xưng lường, đói rỗng đối với pháp th́ chưa từng lười biếng mệt mỏi. Ḷng ấy tươi sáng chẳng bị sự che chắn của năm cái, hối hận tội lỗi, tiêu hóa mọi tai ương. Ư ấy chất phác mà không dua nịnh, lấy hạnh làm cốt yếu, yêu pháp, ưa pháp, lấy pháp làm gốc, cử động làm pháp, luôn luôn cầu Kinh nghĩa như cứu đầu cháy tơ tóc và da. Siêng năng tu thân, tập làm theo trăm họ chưa từng ĺa xa, dong ruỗi theo đường thù thắng, ném bỏ loạn hội, một ḿnh ở riêng một chỗ, ưa thích nhàn cư. Tu tập nhân hiền, giới hạn điều tiết biết đủ, chưa từng thoái lui quay lại. Ưa thích pháp lạc, chẳng mộ thế vinh, cứu độ thế pháp, chí chẳng bỗng quên mất. Cử động tiến lùi thường ưa yếu nghĩa, cầu nghiệp nhu thuận, tích lũy điều bền vững cần yếu, mang hổ thẹn, tu niệm tuệ sáng suốt, điều khiển những kẻ vô trí trừ bỏ ngu si năm lưới mù tối, tuệ nhăn thanh tịnh. Sự giác liễu ấy rất là mênh mông, lấy ư Thánh tuệ vô vi soi chiếu xa xôi. Trí tuệ hiện tại, công huân đương lai chẳng tự dương danh mà khen ngợi công huân người khác, khéo tu nghiệp Thánh, chẳng ĺa tội phước, tịnh tu đạo tuệ. Lại nữa, tuệ nghiệp ấy có bốn việc thí mà đạt đến được. Một là thí giấy, tre, lụa. Hai là đem viết ban cho để viết Kinh bản. Ba là thí cho mực tốt và cả nghiên mài mực. Bốn là pháp sư đă diễn giảng ngần ấy pháp, nhân theo đó mở mang thọ nhận những điều có thể khó đạt đến của thế gian. Để cúng dường pháp sư, hoặc dùng kệ tụng thí cho người, hoặc có diệu pháp trao cho pháp sư mà chẳng mang ḷng dua nịnh, chí thành bố thí. Thí bốn việc này th́ được đạt đến tuệ nghiệp, chứng được năm việc là tín, giới, tuệ, giải thoát, độ tri kiến. Nuôi hộ bốn tuệ mà được tự tại. Sao gọi là bốn ? Một là nuôi hộ pháp sư lấy làm sư chủ. Hai là nuôi hộ ḍng giống chẳng khởi loạn tâm. Ba là nuôi hộ đất đai, làng ấp, ư người. Bốn là tự thủ hộ tâm khiến cho chẳng dong ruỗi. Đó là bốn việc. Lại có bốn việc gần gũi tuệ nghiệp khiến cho đức thành tựu. Sao gọi là bốn ? Một là đem kinh điển sâu xa dâng tiến pháp sư. Hai là ngày đêm ân cần gần gũi tuệ nghĩa. Ba là sự thiếu thốn y thực được cung cấp. Bốn là dần dần gần gũi đạo tràng mà chẳng thoái lui quay lại. Đó là bốn việc. Nhờ đó nên hành giả đạt đến năm lực tuệ. Sao gọi là năm ? Một là tín lực. Hai là giải thoát lực, tinh tấn chẳng phế bỏ, nghe rộng chẳng chán. Ba là ư lực, chẳng bỏ đạo tâm. Bốn là định lực, b́nh đẳng nh́n các pháp. Năm là trí lực, điều nghe được chẳng quên. Đó là năm lực. Nghiệp giới tuệ lực lại có bốn việc. Sao gọi là bốn ? Một là dùng pháp an đế (yên ổn chắc chắn) để phụng hành căn bản của cấm giới. Hai là suy nghĩ về kinh điển xem xét sự qui thú của nghĩa. Ba là dùng pháp để khuyến trợ đối với đạo chân chính. Bốn là cốt cầu lời dạy bảo quan trọng lấy pháp làm giới (cấm). Đó là bốn tuệ. Hành nghiệp Nhẫn lại có bốn việc. Sao gọi là bốn ? Một là tinh tấn cầu pháp. Nếu có kẻ gia ác mắng chửi thân ḿnh mà đều nhẫn hết. Hai là yêu thích pháp. Nếu gặp chiến đấu, tranh tụng, đói khát, nóng lạnh... đều có thể nhẫn nhịn được. Ba là phụng kính thiện sư, thuận theo mệnh lệnh của Ḥa Thượng. Bốn là trăm họ suy nghĩ pháp nhẫn là nghĩa Không, Vô tướng, Vô nguyện. Đó là bốn việc. Hành nghiệp tinh tấn lại có bốn việc. Một là siêng cầu nghe kinh chẳng lấy làm nhọc mệt. Hai là nghe rồi th́ chấp tŕ chưa từng quên sót. Ba là tinh tu nói pháp, chẳng lười biếng phế bỏ. Bốn là trăm họ phụng hành, lấy làm chánh nghiệp. Đó là bốn việc. Hành nghiệp thiền định lại có bốn việc. Một là căn tâm tịch tịnh mà không rối loạn ồn ào. Hai là thường một ư ấy, khổ vui không hai. Ba là một ḷng tinh chuyên cầu các thần thông. Bốn là vào đến Phật tuệ, tiêu trừ trí thế tục. Đó là bốn việc. Hành nghiệp trí tuệ lại có bốn việc. Một là chẳng trụ ở đoạn diệt. Hai là chẳng ở “hữu thường”. Ba là tâm ấy chẳng mê, hiểu rơ chẳng loạn gốc của duyên khởi. Bốn là tin không ngô ngă. Đó là bốn việc. Nghiệp thiện quyền tuệ nghiệp lại có bốn việc. Một là với kẻ ưa thế pháp th́ tùy theo thế tục mà giáo hóa. Hai là kẻ cho là có người th́ theo đó mà dắt dẫn lại. Ba là lại dùng kinh đạo và nhân theo đó dẫn dụ sách tiến. Bốn là người tu tuệ giải nhân theo ánh sáng mà độ. Đó là bốn việc. Nghiệp đạo tuệ lại có bốn việc. Một là tu lục độ vô cực mà được đến đạo. Hai là đă đạt qui tận (về hết), đi với chánh hóa. Ba là học ấy điều ḥa tâm, gọi là bảy giác ư. Bốn là thường tinh tấn tuân hành tất cả gốc trí tuệ. Đó là bốn việc. Nghiệp không chán Thánh lại có bốn việc. Một là nghe pháp không chán. Hai là ban tuyên kinh điển mà không lười biếng khó khăn. Ba là thách thức phiền năo th́ xem xét căn nguyên chẳng lấy làm nhọc nhằn. Bốn là sáng đạt tiết tháo cao, thông lợi không mệt mỏi. Đó là bốn việc vậy.

 Ngài A Soa Mạt lại nói rằng :

 - Bồ tát ấy có thể vào cùng khắp, nếu bố thí th́ phải chánh quán nghiệp tŕ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, nhất tâm, trí tuệ, từ bi hỷ hộ. Sở dĩ v́ sao ? V́ Bồ tát tuy chưa thành tựu tất cả nhưng lấy trí tuệ làm đầu ở đất đai Thánh nên đều về với đạo, trụ ở Chánh tuệ, giáo hóa kẻ không tuệ nghĩa khiến cho về Đại thừa, tất cả các ma chẳng được tiện nghi của chúng. Tất cả đều là sự kiến lập của chư Phật để đến Nhất thiết trí Vô Thượng Chánh Chơn. Đó là nghiệp Thánh tuệ của Bồ tát mà chẳng thể tận.

 Ngài A Soa Mạt nói rằng :

 - Thưa ngài Xá Lợi Phất ! Ư chỉ của Bồ tát cũng chẳng thể tận. Bồ tát đó tự quán thân ḿnh, quán thân người khác, quán bổn hạnh của thân thành tựu nghiệp tinh tấn, xem xét theo sự hợp thành báo ứng của thân để biết thân không có chủ, không thể tham giống như quan sát bên ngoài cỏ cây, hoa trái, rừng rậm, cỏ rơm... từ nhân duyên sinh, đều không chủ, không tên. Thân đó như vậy. Giống như cỏ cây, tường vách, sành đá, bóng trong nước... sự mê hoặc của năm ấm, bốn đại như vậy. Phải quán thân ḿnh rỗng không, không có ngô ngă, chẳng thường c̣n măi, không có bền chắc là vật dễ vỡ nát, là pháp phân ly. Do vậy cho nên chẳng được cho rằng thân chính là ngă sở (vật sở hữu của ta). V́ thân dễ tan vỡ, không bền chắc này nên phải cầu yếu nghĩa. Sao gọi là yếu nghĩa ? Thân Như Lai mới gọi là chân yếu. Ta phải siêng cầu thành tựu Thánh thể của Phật, pháp thân vô cực, giống như Kim cương chẳng thể phá hoại, siêu việt tất cả thân phàm tục của ba cơi. Giả sử thân thể này tỳ vết không lường, nhân đó phải trừ tất cả vẩn đục th́ phải đạt đến pháp thân không tuệ của Như Lai. Do sức siêng tu tập hợp mọi đức, chân thành tụ hội xem xét thân bốn đại. Ta đem thân này để v́ chúng sinh, chí cầu tu đạo. Giống như xem xét bên ngoài có bốn đại, đất nước lửa gió đă tạo thành ngần ấy h́nh tượng nào là cửa ngơ, giếng bếp, tạo lập nhà cửa, nghề nghiệp sinh sống để yên ổn mọi người. Thânbốn đại của ta cũng lại như vậy, nhờ ngần ấy việc mà nương cậy vào để dấy khởi ngần ấy tiện nghi, vô lượng của cải. Vậy mới được nghiệp an dưỡng thân. Quan sát thân đau khổ chẳng thể nói lên giới hạn, quan sát vô thường sinh tử qua lại mà chẳng nên lại tham thọ h́nh không cùng cực. Quan sát thân vô ngă mà loài chúng sinh chẳng hiểu thấu gốc ngọn th́ phải dạy bảo khiến cho họ chán nản hoạn nạn này. Quan sát thân tịch nhiên, đem đến một định khiến cho hành giả tu tịnh mặc. Phải quan sát thân Không, Vô tướng, Vô nguyện th́ liền với bản tế thanh tịnh đạm bạc. Bồ tát đó tự quán thân ḿnh, quán thân người khác không có sự ưa thích, chẳng cho là bền chắc, biết chẳng trường tồn. Xét bên trong thân hạnh chẳng lại nghe từ bên trong các hoạn nạn trần lao ái dục. Lại quán bên ngoài thân th́ chưa từng được cùng ngoại trần hợp chung. Thân không nhọc nhằn dơ bẩn, hành động thanh tịnh. Thân đă thanh tịnh nhiên hậu liền đạt đến h́nh dáng đẹp, thân thể trang nghiêm. Thân thể h́nh dáng đă thành tựu là quá hơn chư thiên và người thế gian, dung nhan lồng lộng không có ai sánh bằng. Đó là Bồ tát tự quan sát thân ḿnh, quan sát thân người khác kiến lập ư chỉ.

 Sao gọi là Bồ tát tự quan sát thống dương, quan sát thống dương người khác mà được ư chỉ ? Bồ tát phát ư quan sát như vầy. Điều có thể trải qua đều chính là khổ năo. Xem xét thống dương đó để cầu gặt hái Thánh tuệ, tuyển chọn minh trí, ưa thích tịch nhiên. Giả sử gặp vui th́ chẳng buộc ḿnh ở dục. Nếu tồn tại ở dục th́ dính dáng đến đau khổ. Thấy các chúng sinh đọa vào những đường ác, hoạn nạn nơi tam đồ th́ v́ họ dấy khởi Đại Ai, chẳng do lưới kết sử mà thấy trói buộc. Tuy thân đă gặp những thống dương chẳng khổ, chẳng vui th́ chẳng bị si tối, lưới kết sử mà thấy trói buộc. Tuy ở tại ư thống dương mà tịch định. Từ chỗ đến lại chẳng thống dương khổ, lạc th́ do Thánh tuệ hiển bày cho chúng sinh. Ném bỏ nghĩa vô ích của thống dương. Tiêu trừ thống dương của tất cả chúng sinh. Mặc áo giáp đồng đạm bạc, ḷng tự nghĩ rằng : “Những quần lê này đều về tại thống dương, chẳng tự hiểu rơ, trói buộc ở đất của mọi khổ thống dương thường ôm ḷng lo buồn. Nương cậy thống dương chẳng khổ chẳng vui mà v́ đó mê man. Do đó cho nên chẳng vào được trí tuệ c̣n nhiếp lấy Đại ai th́ vào đến trí tuệ, hiểu rơ ngưng nghỉ tất cả thống dương. Nhân Đại ai này mà khiến cho các chúng sinh miễn trừ mọi nạn, v́ họ tuyên nói Kinh điển. Sao gọi tên đó là Thống dương ? Trong ḷng mang phiền năo, hoặc lại thành niềm vui. Sao gọi là chọn lựa ? Đây không thống dương, không ngă, nhân, thọ mạng. Lại Bồ tát đó chẳng cậy vào thống dương, cũng không tham lam hộ tŕ. Việc thọ thống dương không ngược lại với hạnh, không đảo lộn thống dương, cũng không vọng tưởng thống dương các kiến, cũng không thống dương của mắt, tai, mũi, miệng, thân, tâm, cũng không thống dương sắc, thanh, hương, vị, xúc. Cái thuộc về mắt là từ nhân duyên khởi mà cho là khổ, vui, không khổ, không vui th́ đó gọi là thống dương. Nói tóm lại, trong ngoài cũng vậy, từ nhân duyên sanh cho đến thống dương, khổ vui, thiện ác, chẳng khổ, chẳng vui. Cứ một thống dương nhân theo một tâm thức. Hai thống dương th́ gọi là có trong ngoài. Ba thống dương th́ tùy theo lời dạy quá khứ, từ hành động đương lai nhân theo sự nhận thức hiện tại. Bốn thống dương th́ gọi là từ bốn thứ đất nước lửa gió. Năm thống dương th́ từ ư niệm năm ấm : sắc, thống dương, tư tưởng, sinh tử, thức. Sáu thống dương là từ sáu suy. Bảy thống dương là từ bảy thức. Tám thống dương là hoặc từ tám tà mà mê man. Chín thống dương th́ gọi là chín chỗ thần. Mười thống dương th́ gọi là mười nghiệp ác. Nói tóm lại tất cả thống dương đều do tham lạc. Nhân từ ư niệm dục mà đạt đến mọi thống dương. Vậy nên nói rằng chẳng thể tính thống dương nhiều không lường của con người. Bồ tát ở đó quan sát thống dương của ḿnh và quan sát thống dương của người khác, biết được sự khởi lên, phân biệt thống dương của mọi quần lê, rồi sẽ hiển bày tuệ nghiệp khiến cho các chúng sinh nhân tuệ thống dương mà nh́n thấy gốc đức, trừ khử các tội. Đó là Bồ tát quan sát thống dương của ḿnh quan sát thống dương của người khác mà tâm ư dừng vậy.

 Sao gọi là Bồ tát tự quan sát tâm ḿnh và quan sát tâm người khác mà ư ấy dừng ? Tâm Bồ tát ấy chưa từng bỗng chốc quên. Cử động bước đi thường tự nuôi hộ mà lại xem xét. Ḷng vừa dấy lên đă liền tiêu diệt ngay, không chỗ thường trụ, chẳng trụ tại bên trong, cũng chẳng ở bên ngoài, chẳng được cả hai nơi. Ta từ lúc mới bắt đầu phát tâm Bồ tát đến nay tâm đó tận diệt, ly biệt, tan nhỏ ra, đều không có chỗ. Tâm ấy không vô xứ mà chẳng thể ở đó. Tâm ở chỗ nào đó th́ tâm ấy đă gom mọi gốc đức, chính đó cũng diệt tận, ly biệt, tan nhỏ ra, không chỗ nào chẳng ở, chẳng thể phân biệt, đă có thể nhân đó khuyên phát ư đạo th́ cũng lại tự nhiên. Do đó nên nói rằng, tâm th́ chẳng biết tâm, tâm th́ chẳng thấy tâm, tâm tâm chẳng đợi nhau. Sao gọi tâm ấy mà phát ư đạo Vô Thượng Chánh Chơn, thành Tối Chánh Giác. Tâm đạo ấy th́ chẳng cùng thiện ḥa hợp. Tâm gốc thiện ấy chẳng cùng khuyến trợ, ư chung đều ḥa hợp. Tâm thanh tịnh ấy chẳng bỏ tâm đạo. Người ấy quan sát điều này chẳng sợ chẳng hăi, cũng chẳng ôm ḷng tủi thẹn. Lại nữa, ḷng nghĩ mười hai nhân duyên rất là thâm diệu chẳng mất báo ứng kết quả đă gieo trồng. Tâm cũng chẳng đắm trước với tất cả pháp. Giả sử nhân duyên từ báo ứng đạt đến th́ tất cả các pháp không có chân đế, cũng không vua chúa (?). Buông thả sở dục ấy mà tự mê hoặc. Ta phải tinh tấn nắm giữ sự nhất tâm ấy khiến cho chẳng hồi chuyển. Sao gọi là tâm pháp ? Sao gọi là mê hoặc ? Tâm như huyễn hóa không thể tịnh th́ đó là tâm pháp. Giả sử cởi bỏ hết việc mê hoặc, khuyến trợ đất nước Phật mà đó cũng mê hoặc th́ tâm như giấc mơ đêm, thức dậy chẳng biết ở đâu. Đó là tâm pháp. Nếu đối với cấm giới mà tu hành cẩn thận rồi nhiên hậu tư khuyên th́ đó là năm thần thông, đó là biến hóa. Tâm như ngựa hoang, gốc ngọn diệt hết, đó là tâm pháp. Giả sử do thuận theo tất cả nhẫn lực, an ḥa Chánh Giác trang nghiêm tâm ấy mà biến hóa, dùng để khuyến trợ th́ đó là biến hóa. Tâm như vầng trăng trong nước rốt ráo tự nhiên, tịch tịnh đạm bạc th́ đó là tâm pháp. Nếu tinh tấn khuyến phát đều đầy đủ vô số Phật pháp th́ đó là biến hóa. Tâm chẳng thể giữ, cũng chẳng thể thấy th́ đó là Tâm pháp. Nếu lại đủ hết thiền tư thoát môn, tam muội chánh thọ, nguyện Phật định ư th́ đó là biến hóa. Tâm là vô h́nh, không so sánh, không mệnh lệnh, cũng không sắc tượng th́ đó là Tâm pháp. Nếu có thể ban tuyên phân biệt trí tuệ, khuyến trợ Phật đạo, t́m về đời xa xưa th́ đó là biến hóa. Tâm không nhân duyên, nhất định chẳng khởi sinh th́ đó là Tâm pháp. Nếu có thể dẫn đường, ngự trị tất cả gốc đức th́ đó là biến hóa. Giả sử tâm không có đối, nhất định chẳng khởi th́ đó là Tâm pháp. Nếu nhân báo ứng của pháp mà tu theo đạo tâm th́ đó là biến hóa. Cảnh giới tâm ấy vĩnh viễn ĺa khỏi cấu bẩn, ban đầu không có ǵ sinh ra th́ đó gọi là Tâm pháp. Nếu dẫn đường ngự trị tâm được đạt đến sự báo ứng, đến với cơi Phật th́ đó gọi là biến hóa. Bồ tát tự quán sát tâm ḿnh, quan sát tâm người khác đắc thần thông, tâm đó đă nhất định, rồi t́m thấy tất cả tâm niệm chúng sinh, nhân đó nói tội phước đều tự nhiên. Bồ tát tự thấy tâm ấy, thấy tâm người khác rồi th́ dấy khởi Đại ai. Đă dấy khởi đại ai giáo hóa chúng sinh, chẳng lấy làm nhọc mệt. Tâm ấy chẳng diệt, cũng lại chẳng tận kiên trụ ở tâm ấy, chẳng cùng với sinh tử mà chung đồng trần, có thể tự chế ngự tâm ḿnh. Dùng tâm Thánh tuệ thông đạt này vào với pháp Bất Khởi vô sở sinh, chẳng rơi vào đất Thanh văn, Duyên giác, thường tự chế ngự tâm, kham nhận đầy đủ đạo pháp của chư Phật, trong khoảnh khắc một niệm dùng tâm trí tuệ chứng được đạo Vô thượng Chánh Chơn, làm Tối Chánh Giác. Đó là Bồ tát tự quan sát ḷng ḿnh, quan sát ḷng người khác được đến ư chỉ.

 Sao gọi là Bồ tát tự quan sát pháp của ḿnh, quan sát pháp của người khác được ư chỉ pháp ? Dùng mắt minh trí nh́n thấy khắp các pháp, chưa từng giữa chừng quên mất thành tựu Phật đạo. Tự quan sát pháp của ḿnh, quan sát pháp người khác th́ lúc đó Bồ tát thấy hết các pháp. Tưởng ấy đối với không khiến cho thoát khỏi nghĩa không, thoát khỏi vô tưởng nguyện, qua khỏi không sở sanh cũng không sở diệt mà ĺa khỏi các hạnh, b́nh đẳng thấy các pháp, bỏ cả duyên khởi, mười hai dẫn dắt nối liền, quan sát hạnh pháp giới. Bồ tát xem xét pháp chẳng tùy theo phi pháp, chẳng kể ngô ngă, cũng chẳng kể nhân, thọ mạng, xứ sở. Đó gọi là Pháp. Sao gọi là phi pháp ? Tự thấy ngô ngă, kể có nhân, thọ mạng, nh́n thấy đoạn diệt, kể có thường c̣n mà thấy sự có không, hợp tan. Tất cả các pháp đều cũng chính là Pháp, tất cả các pháp cũng lại chẳng phải pháp (phi pháp). Sở dĩ v́ sao ? V́ hiểu nghĩa không, vô tướng và vô nguyện. Tất cả pháp đó đều là ứng pháp, tự cho là ngô ngă, trói buộc tại các kiến. Tất cả pháp đó đều là phi pháp, người đó tự quán pháp, quán pháp người khác. Bồ tát tu hành như thế này th́ chẳng thấy các pháp. Phật pháp ở đâu ? Ai chẳng phải Phật pháp ? - Người ấy không đường lối, không có giải thoát, cũng không sinh tử th́ đều có thể mở đường dẫn lối tất cả các pháp, ở với chúng sinh, chứng được vô cái vô cực Đại ai, trị liệu các trần lao, ḷng ḿnh phát khởi niệm. Vô trần dục đó cũng không ǵ chẳng trần dục. Sở dĩ v́ sao ? V́ thú hướng đó là khai hóa độ thoát b́nh đẳng, chẳng nghi trần lao, chẳng sợ tham dục. Người hiểu rơ vậy th́ mới gọi là Phật. Trần dục tự nhiên, đạo cũng tự nhiên, kiến lập tâm như vậy, tuy có sở trụ cũng không xứ sở, chẳng trụ ở ư kiến lập mà gọi là trụ. Đó gọi là trụ lập ở pháp giới. Chẳng trụ pháp giới, chẳng trụ nhân giới th́ không chỗ trụ th́ gọi là hư không. Tất cả các pháp b́nh đẳng như hư không. Nếu có Bồ tát tự quán pháp của thân, quán pháp người khác th́ có thể dẫn đường ngự trị đạo pháp của chư Phật. Tất cả các pháp đều qui về pháp giải thoát. Nếu người hiểu rơ th́ mới có thể hiển phát. Tận cùng đến vô vi cũng không tận cùng. Đạo không sinh ở chỗ chẳng sinh. Quan sát chúng sinh chưa từng ĺa bỏ. Bản tế vô sinh hướng đến ư chỉ của pháp. Ư ở tại các pháp mà khiến cho trụ vững bền, chẳng chấp trước pháp của Thanh văn, Duyên giác và Phật. Sao gọi là trước ? Sao gọi là xứ đương ? Chỗ sở tại của tâm thường có thể trụ bền. Trụ ấy chẳng mê, chưa từng bỗng chốc quên mất. Quan sát biên tế về sau, nguyên do của pháp ấy, cũng quán pháp của người khác mà được ư chỉ. Ban tuyên vô lượng, phân biệt chương cú. Sở hạnh không bờ bến, b́nh đẳng, ngự trị Phật pháp, có thể làm vui ḷng của tất cả chúng sinh, hàng phục mọi ma, được tuệ tự tại th́ mới gọi là đạo nghĩa. Đó là Bồ tát tự thấy pháp của ḿnh, thấy pháp người khác được đạt đến ư chỉ. Sao gọi là bốn ư đoạn mà chẳng thể tận ? Các pháp ác của thân chưa dấy khởi th́ khiến cho chúng chẳng khởi sinh. Do sinh ra liền diệt đi mà tu tinh tấn, tự nhiếp lấy sở niệm của tâm ḿnh thuận theo nghĩa càng thêm tinh cần. Đó gọi là b́nh đẳng phụng tŕ hạnh tinh tấn, chẳng mất thuận tiết, tập tu b́nh quân (chia đều). Do có thể nhiếp lấy tâm, quan sát đến Chánh đế nên gọi điều này vậy. Sở dĩ v́ sao ? V́ sở niệm thuận nghĩa, pháp ác bất thiện chẳng lại đến nữa. Sao gọi là bất thiện ? Hủy giới, loạn định, mê hoặc trí tuệ. Sao gọi là hủy giới ? Muốn sinh lên trời th́ gọi là hủy giới. Chẳng theo lời pháp giáo, khuyết lậu giới phẩm ấy th́ gọi là hủy giới. Sao gọi loạn định ? Trái mất lễ nghi, tu hành chẳng chuyên tinh, ḷng ở tại ư niệm khác th́ chính là ư loạn định. Sao gọi là mê hoặc trí tuệ ? Đoạn các tà kiến, thấy ngần ấy thứ những việc điên đăo, ấm cái ngăn ngại pháp. Trí tuệ khuyết lậu ấy th́ gọi là bất thiện. Giả sử các ác như vậy, đời tượng pháp hưng khởi đến mà chẳng nghe th́ đó là một ư đoạn. Giả sử các pháp ác bất thiện hưng khởi tức th́ hiểu ngay, biết đó là phi pháp, báo ứng bất thiện, rơ đó là hao tổn, là làm bẩn, tên đó là nhà tối. Tu hành phụng tŕ thuận nghĩa, tiêu trừ dục bất tịnh th́ dùng từ tâm mà trừ sân nhuế, hiểu mười hai nhân duyên mà diệt ngu tối. Hết trần lao ấy th́ đó gọi là đoạn. Đồng với nhân duyên khởi, quan sát sự sinh ấy, chẳng được gốc ngọn mà không sở đoạn, tất cả các pháp từ tập hành đạt đến, đó là hai ư đoạn. Giả sử khiến cho thiện pháp chưa dấy khởi th́ khuyến trợ khiến cho hưng phát, hiển hiện khiến cho tinh tấn tự nhiếp lấy tâm ấy khen đức không lường. Sở dĩ v́ sao ? V́ thiện pháp không lường mà Bồ tát đại sĩ đă ứng tu hành phải ưa thích mọi gốc đức của tuệ căn. Tất cả đều do tinh tấn mà đạt đến các phước khánh. Hiển dương thần thông đạt đến căn nguyên của đức lộc, đó là ba ư đoạn. Điều có thể gọi là thiện pháp, nếu hưng phát mà khiến cho được trụ bền vững th́ chẳng sợ mất tiết tháo, chẳng bỗng chốc quên mất, thêm vui cho trăm họ, ngày đêm tinh tấn, tự nhiếp lấy tâm ấy để khuyến trợ đạo, ấy gọi là b́nh đẳng. Sở dĩ v́ sao ? V́ khuyến trợ đạo tâm th́ gốc đức chẳng mục nát. Sở dĩ v́ sao ? V́ tâm ấy thanh tịnh. Tuy ở ba cơi mà tâm ấy không chấp trước. Nếu có khuyến trợ đức mà nương cậy vào ba cơi th́ gọi là tan tác hết. Nếu có thể khuyên chí ưa thích Nhất thiết trí th́ các gốc thông tuệ nhất định chẳng tổn hao. Đó là bốn ư đoạn. Sao gọi là Bồ tát mà tu thần túc. Thần túc có bốn đă tự phát khởi ưa thích ân cần tinh tấn. Bồ tát đó lấy ǵ tập hưng khởi gốc thần túc ? Phải hành bốn đẳng tâm, từ bi hỷ hộ, thường phải tuân hành tu tập bốn điều không phóng dật. Tâm Bồ tát ấy rộng lớn mà chẳng tham thân. Do có thể ngự trị được tâm, phụng hành đệ nhất thiền. Cứ như vậy cho đến được bốn thiền định th́ thân tâm nhẹ nhàng thuận tiện. Thân tâm đă thuận tiện th́ gọi là nhập thần thông. Đă nhập thần thông th́ liền sinh ra thần túc. Siêng tu tinh tấn, ư chí đạo của trăm họ. Do siêng năng ưa thích nên liền thân cận với đạo nghĩa. Do tinh tấn nên có thể thành tựu pháp này. Do siêng tu nên đạt đến nghĩa này. Một ḷng quan sát dùng pháp phương tiện hiểu thấu thần thông nên gọi là thần túc. Thường yêu thích nên có thể có sự biến hóa. Do tinh tấn nên có thể khiến cho thành tựu. Do chuyên tinh nên có thể tỏ rơ rộng lớn. Người tự tu đức liền thành tựu đạo. Có kể đến thần túc Bồ tát đó th́ nhờ đó nên được thân cận. Có tâm tự tại th́ sở dục đạt đến không ai có thể trái phạm. Hành động chắc chắn đă đạt đến rốt ráo căn nguyên, mọi hạnh đầy đủ, ma chẳng thể chế ngự, b́nh đẳng như hư không, nh́n thấy suốt vô biên, nghe thấu vô tế, định ư không hạn, thần túc không đáy, thấy tất cả căn, tự nh́n thấy nguồn gốc của chúng. Đó là Bồ tát hành bốn thần túc mà chẳng thể tận.

 Sao gọi là Bồ tát tu đến năm căn mà chẳng thể tận ? Sao gọi là năm ? Một là tín căn, hai là tinh tấn căn, ba là ư căn, bốn là định căn, năm là tuệ căn. Sao gọi là tín căn ? Thường tin các pháp. Sao gọi là pháp ? Người chánh tín ấy tin sống trong sinh tử, tùy theo thần túc ấy để thành tựu hạnh đó, chẳng ưa thần túc khác mà hiểu được nghĩa của đệ nhất chân đế. Người đó thoát khỏi mười hai nhân duyên thâm diệu, không ngô ngă, nhân, không, vô tướng, vô nguyện, không tướng chấp trước, tin khắp các pháp, chẳng rơi vào các kiến, tin pháp của chư Phật, tin theo mười lực, bốn vô sở úy, chẳng mang hồ nghi cũng không do dự, tập hợp Phật pháp khiến cho không c̣n giới hạn. Đó gọi là tín căn. Sao gọi là tinh tấn căn ? Đă tin pháp th́ nhân tinh tấn này các căn sáng thêm, vượt qua ánh sáng mặt trời mặt trăng. Việc có thể dùng pháp tu tinh tấn căn th́ do đó nên chẳng mất ư căn. Ư ấy rộng lớn chẳng trụ ở bờ cơi th́ đó gọi là ư căn. Ư ấy vắng lặng chẳng trái ư căn, ư rộng như hư không. Do định ư căn, chuyên tinh chẳng loạn th́ đó gọi là Định căn. Định ư căn ấy thường trụ ở tịch tịnh mà giữ chuyên nhất th́ đó gọi tuệ căn quan sát hiểu rơ. Nếu đối với pháp này, sắc tượng như vậy mà phân biệt vô ngă th́ đó gọi là tuệ căn. Như vậy năm căn có thể đầy đủ th́ đủ các Phật pháp. Năm căn ấy có thể đủ th́ trụ ở thọ quyết (thọ kư) địa mà chẳng di động. Giống như tiên nhân ngũ thông của ngoại học tuy nh́n thấy trong thai mà chẳng thể phân biệt, dự báo căn nam hay nữ, các đức Phật Thế Tôn cũng lại như vậy, sở học của Bồ tát chưa thành tựu năm căn th́ chẳng trao quyết (thọ kư), năm căn đạt rồi nhiên hậu mới thọ quyết. Đó là năm căn của Bồ tát vô tận.

 Sao gọi là các lực ? Có năm lực mà chẳng thể tận. Những ǵ là năm ? - Một là tín lực, hai là tinh tấn lực, ba là ư lực, bốn là định lực, năm là tuệ lực. Sao gọi là tín lực ? Thường mang tâm thuần hậu ở tại tịch tịnh mà chẳng mê man, không có sắc tượng, trụ thấy Phật h́nh, cũng biết pháp khác, một ḷng tịch tịnh, tín lực hiện có chưa từng thoái chuyển. Đó gọi là tín lực. Sao gọi là tinh tấn lực ? Giả sử trăm họ tu hành tinh tấn, ở tại khắp nơi tu đức, tinh cần với kinh điển, ở chỗ sinh sống, ḷng họ kiên cường, việc tu gốc đức, trên trời, dưới thế gian, không ai có thể hủy hoại, cũng chẳng thể chế ngự khiến cho chẳng tăng thêm. Do đó cho nên gốc đức hưng thịnh đến không hạn lượng. Đó là lực tinh tấn. Sao gọi là ư lực ? Nghĩ về pháp hiện có mà ḷng chẳng lười biếng phế bỏ, mọi nạn ái dục không thể xâm phạm. Do ư lực này vượt qua mọi trần lao nên ư niệm của Bồ tát ấy, trên trời, dưới thế gian không ai có thể làm loạn được. Đó là ư lực. Sao gọi là định lực ? Nếu tại chúng hội sống trong náo loạn, với tịch tịnh của ḿnh, ban tuyên đạo lực, tiến dừng, bước đi mà người được thiền thứ nhất không thể ngăn che gây trở ngại. Việc tu gốc đức, chuyên tinh đạo hạnh cũng không thể hủy mà người được thiền thứ hai hân hoan vui vẻ. Bên trong thanh tịnh đạm bạc mà chẳng có trở ngại. Người được thiền thứ ba muốn hóa độ chúng sinh, nuôi hộ chánh pháp, không tự quan sát. Người chứng đến thiền thứ tư cũng không ngăn ngại. Dùng bốn thiền này để tu các phẩm loại thiền th́ người không thể vượt qua. Đă tu định ư th́ người không thể làm loạn. Định ư tự tại th́ đó gọi là định lực. Sao gọi là tuệ lực ? Nếu xử theo pháp thế tục và pháp độ thế th́ đều có thể hiểu rơ chỗ sinh sống không thể làm thầy, biết hết văn tự chương cú của thế tục, tạo lập nghiệp thần tiên dị thuật, năm kinh, sáu nghệ, sách khác về phương tục... tất cả Bồ tát chẳng cần học mà tự nhiên biết hết và pháp độ thế không chỗ nào chẳng thông. Bồ tát dùng tuệ Thánh minh này, ḷng có thể thông suốt trên trời, dưới thế gian, đi một ḿnh không bè bạn, tùy lúc mà ban tuyên. Đó gọi là tuệ lực mà chẳng thể tận.

KINH A SOA MẠT VÀ BỒ TÁT

Quyển thứ sáu - hết.

Quyển 1    Quyển 2    Quyển 3    Quyển 4    Quyển 5    Quyển 6    Quyển 7

KINH A SOA MẠT BỒ TÁT

Hán Dịch: Tam Tạng Pháp Sư Trúc Pháp Hộ, Nước Nguyệt Chi - Đời Tây Tấn

Việt Dịch: Tuệ Khai Cư Sĩ - Phan Rang

Chứng Nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh

Quyển thứ bảy

 Thế nào là giác ư? Sự tu tập của Bồ-tát có bảy Giác ư. Những ǵ là bảy?

1.Ư giác ư (niệm).

2.Trạch pháp giác ư.

3.Tinh tấn giác ư.

4.Hỷ giác ư.

5.Tín (kinh an) giác ư.

6.Định giác ư.

7.Hộ (xả) giác ư.

Sao gọi là Ư giác ư? Suy nghĩ về pháp để quan sát kinh, xét kỹ về kinh điển để tư duy đúng pháp, khen ngợi người chuyên chú để tự xét về tâm ư ḿnh, tướng của các pháp không thể nắm bắt được, nên hiểu rơ về điều này. Sao gọi là các pháp không có tướng? V́ tướng ấy là như nhiên, tất cả các pháp đều không. Có thể thấu rơ về giác niệm như thế. Đó gọi là Ư giác ư. Sao gọi là Trạch pháp giác ư? Nếu có thể phân biệt tám vạn bốn ngàn kho pháp của các kinh, lựa chọn các pháp thích ứng với nghĩa lư. Nếu không thích ứng với nghĩa lư th́ khiến quy về với nghĩa chánh, hoặc không nghĩa chánh, nghĩa gần, nghĩa xa, nghĩa thanh tịnh, nghĩa thâm sâu, hoặc Đệ nhất nghĩa đế, hiểu rơ ràng về diệu lực của pháp ḥa hợp, phân tán, chắc chắn, không chắc chắn đều có thể lựa chọn, biết được gốc ngọn của chúng. Đó gọi là Trạch pháp giác ư.

Sao gọi là Tinh tấn giác ư? Nếu dùng ư này để giảng thuyết chánh pháp th́ dốc thâu tóm niềm tin, quyết định, giữ ǵn trí tuệ bậc Thánh, dùng năng lực vi diệu để nhận thức một cách chính xác, đúng đắn không ǵ có thể gây trở ngại, siêng năng tu tập các phápb́nh đẳng ấy. Đó gọi là Tinh tấn giác ư.

Sao gọi là Hỷ giác ư? Ưa thích chánh pháp, dốc ḷng tin tưởng không xa ĺa, thường vui vẻ không khiếp sợ, thân, khẩu, ư luôn được an ổn, tư duy về đạo pháp, dứt hết các hoạn nạn thuộc ái dục. Đó gọi là Hỷ giác ư.

Sao gọi là Tín (kinh an) giác ư? Nếu đă có niềm tin th́ vĩnh viễn xa ĺa những ái dục, phiền năo của thân tâm, tâm an trụ vào thiền định. Đó gọi là Tín giác ư.

Sao gọi là Định giác ư? Nhờ thiền định nên thấu đạt các pháp, phân biệt nhận biết trí tuệ của bậc Thánh, tâm được thuần nhất, hiểu rơ các pháp, các căn lanh lợi, đoạn dứt các tà kiến điên đảo, trụ mà không trụ, nhờ định mà đạt đến nghĩa này, hiểu không có ngă, ngă sở v́ các pháp b́nh đẳng. Đó gọi là Định giác ư.

Sao gọi là Hộ (xả) giác ư? Như có thể tư duy phân biệt về pháp giới th́ tâm không giong ruổi, nương vào các pháp thế tục, tâm không giới hạn, không bị các pháp thế tục làm mê hoặc, không chấp trụ vào giả danh, không ǵ có thể lay động, không suy nghĩ, không nhớ, không vui, không buồn. Do đó, nên chứng được quả vị bậc Thánh, luôn thuận hợp với pháp nhẫn. Đó gọi là Hộ giác ư. Bảy giác ư này là không cùng tận.

Sao gọi là chánh kiến? Bậc Hiền thánh vượt khỏi thế gian, không c̣n chấp nơi ngă, ngă sở, không chấp vào nhân, thọ mạng, không bị vướng mắc vào sự nhận thức, không trụ vào hữu kiến, vô kiến, không trú vào gốc công đức, không rơi vào luật nghi của sáu mươi hai thứ tà kiến. Đó gọi là chánh kiến.

Sao gọi là chánh niệm (tư duy)? Chúng sinh bị niệm theo các phiền năo tham, sân, si che lấp. Người học hạnh Bồ-tát th́ không tưởng niệm như thế, chỉ niệm về các pháp như giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến đă được chỉ bày, thường nhất tâm nghĩ nhớ về nghĩa lư của đạo, tức tâm không sai lệch. Đó là chánh niệm.

Sao gọi là chánh ngữ? Lời nói không chấp nơi ḿnh, không chấp nơi người, nói năng ḥa nhă, không thô ác, dùng lời nói để giảng giải giáo pháp, hội nhập đạo của bậc Thánh. Chẳng bàn luậnvề thế gian, nói lời không lợi ích. Đó là chánh ngữ.

Sao gọi là chánh trị (mạng)? Trong sự tu tập th́ các nghĩa về tội phước, không nên theo pháp ấy mà chỉ tu theo nghĩa lư của chánh đạo b́nh đẳng. Đó gọi là chánh trị.

Sao gọi là chánh nghiệp? Những lời dạy của bậc Thánh đem lại nhiều an lạc, biết đủ, ít ham muốn, không tham lợi dưỡng, tâm không dua nịnh, không buông lung, tu tập đúng pháp, ǵn giữ oai nghi, thấy người khác được cúng dường th́ không ganh ghét nên suy nghĩ: Ta đă được an ổn, đầy đủ không nên gây tạo lỗi lầm, thực hành theo lời dạy của Phật. Đó gọi là chánh nghiệp.

Sao gọi là chánh tiện (tinh tấn)? Tu tập theo phương tiện nơi giáo pháp chân chánh, không từ nơi các ái dục, tham, sân, si để nhiễm đắm. Thường xa ĺa các thứ phiền năo ấy, vui thích đạo của bậc Thánh để đạt đến nghĩa lư Niết-bàn vô vi, luôn suy nghĩ về cảnh giới này. Đó là chánh tiện.

Sao gọi là chánh ư (niệm)? Ư ấy an trú chân chánh, không cảm thọ, chẳng dua nịnh, thấy được hoạn nạn của sinh tử, một ḷng tư duy về đạo lư vô vi, không quên mất con đường đi của bậc Thánh hiền. Đó là chánh ư (niệm).

Sao gọi là chánh định? Do thiền định nên tâm được b́nh đẳng, v́ thế các pháp đều b́nh đẳng. Các pháp ấy ở nơi chánh định để kiến tạo b́nh đẳng. Nếu có Bồ-tát an trú nơi định này mà tu tập dốc độ thoát hết thảy chúng sinh th́ luôn gắn liền với chánh tuệ. Đó là chánh định không cùng tận. Các Đức Phật thời quá khứ, vị lai và hiện tại đều đi trên con đường ấy. Nếu có Bồ-tát thuận theo lời dạy này mà tu tập, giảng thuyết th́ đó gọi là tám con đường không cùng tận.

Bồ-tát A-soa-mạt nói Hiền giả Xá-lợi-phất:

–Sự quán xét vắng lặng của Bồ-tát cũng không cùng tận. Thế nào là vắng lặng? Tâm của vị ấy an nhiên, tịch tĩnh, các căn chẳng loạn động, nhất tâm không vọng tưởng, khiến tâm tánh luôn an ổn, không vội vàng, không hấp tấp, thường suy nghĩ rơ ràng, xả bỏ những ư niệm trái nghịch, vui với Đệ nhất nghĩa đế, diệt trừ các sự ồn ào, ưathích chốn nhàn tĩnh. Thân ấy vắng lặng, tâm chưa từng vang động, luôn suy nghĩ về sự an định, không có các việc ác, không che giấu lỗi của ḿnh, không rơi vào tà kiến, biết dừng lại, tâm ư vắng lặng, oai nghi đầy đủ, không vượt qua phép tắc, biết thuận theo thời, hành động ứng hợp với nghĩa lư, cúng dường đúng chánh pháp, tập hợp được diệu lực nơi công đức mà không tự đại, không cậy vào danh tiếng đă có. Tâmvị ấy luôn tinh chuyên, ưa thích ở một ḿnh, nhất tâm thiền định, phát khởi tâm Từ, thực hành tâm Bi, tu tập hạnh Hoan hỷ, phụng hành pháp quán Xả bỏ. Từ Thiền thứ nhất đến pháp môn Định ư không thể nghĩ bàn. Đó là vắng lặng. Lại nữa, chỗ tạo tác nơi sự vắng lặng ấy là không thể suy lường. Nếu có thể thông suốt về chỗ tạo tác ấy th́ gọi là sự vắng lặng.

Sao gọi là quán? Trí tuệ phân biệt về đạo pháp để phụng tŕ tu tập. Quán không ngă, không nhân, không thọ, không mạng. Quán thân năm ấm, bốn đại, mười hai nhập giống như sự tích tụ không thật, phân biệt đầy đủ để quán xét nhận biết về mười hai duyên khởi thuận hợp không loạn động, ĺa bỏ các kiến chấp thấy rơ về quả báo, biết quả của nhân duyên là biết rơ về quả của công đức, chỗ tạo tác được nhận biết rơ ràng là nhập vào nẻo chánh chân. Đă có thể nhập vào trong ấy th́ phải xét kỹ về trí tuệ của bậc Thánh. Gọi là quán v́ ánh sáng nơi pháp b́nh đẳng, chỗ thấy các pháp ấy theo sự quán xét kỹ, đúng đắn, không thấy theo pháp khác, chỉ thấy ở ba cửa giải thoát này là Không, Vô tướng, Vô nguyện. Sở dĩ gọi quán là v́ không thấy có nơi chốn, nhà cửa, cũng lại không phải là không thấy, để khởi lên sự phân biệt, không bị chi phối theo vọng tưởng, điên đảo. Đó gọi là quán, vĩnh viễn không có đối tượng được thấy. Giả sử không có đối tượng được thấy, đó gọi là quán. Ở nơi các đối tượng được thấy mà không vướng chấp nơi chỗ thấy, đó gọi là quán. Người thấy như vậy, gọi là thấy chân đế, mới có thể thấu tỏ thuận theo lời dạy của Phật. Người thấy như vậy là Bồ-tát, không rơi vào hạnh tà, không trụ ở hạnh chánh. Đó là quán. Đây gọi là Bồ-tát hành chánh quán vắng lặng không cùng tận.

Bồ-tát A-soa-mạt nói:

–Này Hiền giả Xá-lợi-phất! Biện tài, Tổng tŕ của Bồ-tát khôngcùng tận. Sao gọi là tích lũy công đức của Tổng tŕ? Tư duy về nghiệp lớn, giữ ǵn, đọc tụng tám vạn bốn ngàn các phẩm của pháp tạng, suy nghĩ, ghi nhớ, không xả bỏ sự tinh tấn, đó gọi là Tổng tŕ (Đà-la-ni). Lại nữa, tổng th́ có thể nhận lănh các pháp nơi Đức Phật đă thuyết giảng. Lời nói, văn tự của các chúng Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát đă giảng thuyết cho chúng sinh với mọi thứ nghĩa lư đều có thể nhận biết, ghi nhớ, đó là Tổng tŕ. Giả sử vào kiếp thiêu, trời đất gặp nạn lửa lớn, tất cả đều diệt tận, Bồ-tát tuy gặp nạn này nhưng trong tâm vẫn nhớ nghĩ về pháp Tổng tŕ, chưa từng quên mất, cũng không mê loạn. Nhờ tuệ nhăn của bậc Thánh nên thấy các pháp như xem xét ḷng bàn tay. Đó là Tổng tŕ không cùng tận.

Sao gọi là biện tài không cùng tận? Nghĩa là sự biện luận, chỗ nói ra luôn thuận hợp. Như khi giảng thuyết th́ không ai có thể chế ngự bắt bẻ, nên thấu đạt biện tài không hề gián đoạn, âm từ vô hạn, đối đáp hợp căn cơ, thông suốt như nước không chút chướng ngại. Nhờ từ đời trước đă tạo hạnh thanh tịnh, nên đạt quả báo là biện tài này, được chư Phật hộ tŕ, chư Thiên bảo vệ. Bồ-tát đă giảng thuyết th́ hoàn toàn chân thật, lời nói không ǵ có thể ngăn ngại, luôn hướng đến đạo giải thoát, biện tài như vậy đều được trọn vẹn, thường hết mực khiêm tốn, thích hợp căn cơ của mọi chúng sinh để thuyết pháp cho họ. Có người nghe được những điều này, đều lănh hội đầy đủ, không c̣n nghi ngờ. Có người đến hỏi, ta nên giảng giải đúng như vậy. Nơi các chúng hội đều xem xét kỹ về căn cơ của con người, để phát tâm thuyết giảng. Từ xưa đến nay Bồ-tát sinh vào nhân gian, tâm tánh luôn chân chánh, giảng nói kinh điển trong một kiếp chưa từng dừng nghỉ. Chỗ giảng giải ấy không hề bị chướng ngại. Đó là biện tài không cùng tận của Bồ-tát.

Bồ-tát A-soa-mạt nói:

–Lại có Bồ-tát thuyết giảng tất cả các pháp đều quy về vô thường, vạn vật chẳng phải là ta có, trí tuệ để nêu giảng ấy là không cùng tận. Tất cả các pháp đều là khổ, là vô ngă. Bồ-tát giảng nói về điều này cũng không cùng tận.

Thế nào là vô thường? Quán xét nơi gốc ngọn của sự vật đều trở về vô thường, không thể phán đoán. Sự vô thường ấy là không thểkhiến cho thường c̣n. Từ xưa đến nay không ǵ là c̣n măi. Đó là nghĩa vô thường.

   Thế nào là nghĩa khổ? Tuy có niềm vui nhưng rồi cũng mất, ước nguyện không tồn tại dài lâu, luận bàn về các khổ, đều hướng về không, vô. Không, vô ấy cũng là hư giả, không thật. Nghĩa hư giả và khổ là như nhau không sai khác.

    Thế nào là vô ngă? Đối với ngă là không có ngă, vĩnh viễn không có gốc ngọn, thân ấy cũng là rỗng lặng, tịch tĩnh, không quan hệ. Có người cho hư không ấy và nghĩa không đều là không có thân. Thế nào là nghĩa tịch tĩnh? Đối với vắng lặng mà không vắng lặng, mới gọi là tịch tĩnh. Người được giải thoát, đối với sự an nhiên mà không chấp vào an nhiên mới gọi là tịch tĩnh. Người được gọi giải thoát là tu tập ở chỗ vắng lặng, trừ diệt tất cả tưởng, trừ các tưởng rồi th́ đấy là sự vắng lặng của Niết-bàn giải thoát. Đây gọi là nghĩa hoàn toàn vắng lặng. Đó là Bồ-tát thực hành pháp bốn Đế không cùng tận.

Nẻo hành của Bồ-tát thường tu một đạo, không theo hành khác. Sao gọi là đạo Nhất thừa? Bồ-tát tự ḿnh tu tập, với những nỗ lực tự thân để thành tựu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Mặc áo giáp đức lớn, tự thân thâu tóm uy lực của tinh tấn vượt bờ, riêng tự ḿnh tu học, không theo lời dạy của người khác. Vị đó vượt qua mọi uy lực của thế tục, một ḿnh bước đi, mặc áo giáp đức lớn hết mực kiên cố, dùng việc này để mở bày hóa độ tất cả chúng sinh. Đó gọi là giáo hóa. Giáo pháp đem nêu giảng là giáo pháp của các bậc Hiền thánh được truyền trao cho Bồ-tát. Sự giảng dạy ấy cũng gọi là giáo hóa. Bố thí chẳng phải là bạn của ta. Ta là bạn của bố thí. Tŕ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ chẳng phải là bạn ta. Ta là bạn của trí tuệ, cũng lại không chấp trụ vào sáu pháp Độ vô cực. Ta tùy thuận phụng hành sáu pháp Độ vô cực, hành bốn Ân (bốn Nhiếp pháp) không phát khởi ư niệm ta, tôi, nên kiến lập, thâu giữ bốn Ân. Nói tóm lại, gốc của công đức thiện không thể xây dựng trên ngă. Ta nên xây dựng, thâu tóm các gốc công đức. Trong thời tượng pháp, như vậy, không có bạn tu, nên tự sống một ḿnh, an trú trong đạo tràng kim cang, dùng diệu lực của tự thân để hàng phục các ma. Chỉtrong một khoảnh khắc phát tâm liền thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đó là đạo Nhất thừa không cùng tận của Bồ-tát.

Bồ-tát A-soa-mạt nói:

–Này Hiền giả Xá-lợi-phất! Phương tiện quyền xảo của Bồ-tát cũng không cùng tận. Thế nào là phương tiện quyền xảo? Chư Phật, Thế Tôn luôn thích ứng với hoàn cảnh, căn cơ, từ chỗ được gặp đạo pháp, có đối tượng được giáo hóa, liền dùng phương tiện quyền xảo để phát huy tâm đạo. Phương tiện quyền xảo ấy là nhân nơi hư không mà phát sinh, nên không có giới hạn, tùy theo tâm tánh, khiến đạt được sở trường. Phương tiện quyền xảo ấy tức có thể tu tập đầy đủ sáu pháp Độ vô cực. Nơi chốn sinh ra, nhờ vào phương tiện quyền xảo để thực hành giới, bố thí, nhẫn nhục, hộ tŕ thân, khẩu, ư, chứng đắc Phật đạo, không hề phế bỏ tinh tấn. Người không có phương tiện quyền xảo th́ trái với tinh tấn. Phương tiện quyền xảo ở nơi nhất tâm th́ chuyển tiến đến trí tuệ của bậc Thánh, nếu không như vậy th́ tâm tán loạn. Phương tiện quyền xảo nơi trí tuệ th́ không hề ĺa bỏ khổ nạn nơi sinh tử, luân hồi. Phương tiện quyền xảo ở tâm Từ là làm nhiều việc cứu giúp, nuôi dưỡng, trừ bỏ những điều bất nhân. Phương tiện quyền xảo nơi Bi là không nhàm chán sinh tử, mở bày, hóa độ muôn loài. Phương tiện quyền xảo nơi Hỷ là không ham thích những ưa muốn. Phương tiện quyền xảo nơi Hộ (xả) là tu tập các công đức mà không mong nắm giữ trở lại. Phương tiện quyền xảo nơi Thiên nhăn là đạt được mười nhăn của Phật, thấy suốt khắp mười phương, không biên giới. Phương tiện quyền xảo nơi Thiên nhĩ là được mười nhĩ của Phật, nghe âm thanh của cả mười phương, tâm nhớ nghĩ đến h́nh tượng. Phương tiện quyền xảo nơi sự nhận biết là thấy được căn cơ của chúng sinh hiểu rơ về gốc ngọn. Phương tiện quyền xảo nơi phương tiện là nhớ nghĩ về các sự việc đời quá khứ, thấy được nghĩa lư của ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai. Phương tiện quyền xảo ở thần thông là đối với nơi chốn đi đến không có giới hạn, để giáo hóa khắp chúng sinh trong mười phương. Phương tiện quyền xảo nơi phương tiện nhận biết tâm tánh của chúng sinh, tức tùy theo đó mà khéo léo dẫn dắt, giúp đỡhọ. Phương tiện quyền xảo ở sự tu hành là hiểu biết về chỗ khởi đầu, kết thúc nơi hành tướng của con người. Phương tiện quyền xảo nơi hóa độ là vượt qua cơi này, đạt đến bờ kia. Phương tiện quyền xảo nơi nhập thế là giáo hóa chúng sinh bị cuốn theo ái dục, khiến họ không c̣n mọi cấu uế. Phương tiện quyền xảo nơi việc bỏ gánh nặng xuống là từ bỏ hết những tai ương của năm ấm. Phương tiện quyền xảo nơi giới hạn hành hóa là sự thuyết giảng không thể nêu bày hết, dùng các thứ hữu hạn mà giảng nói về vô hạn. Phương tiện quyền xảo nơi sự khuyến hóa là giáo hóa những kẻ căn cơ yếu kém, dẫn dắt người biết chỗ tiến lùi, khiến họ phát tâm rộng lớn không cùng tận. Dùng phương tiện quyền xảo để nhận biết về hoàn cảnh, thời tiết, căn cơ, mọi lúc, khi tăng, khi giảm, tới, lui, không phải thời, đúng thời. Nhờ phương tiện quyền xảo mà thấu rơ con đường chánh. Đối với chúng sinh đi vào nẻo tà trụ nơi đường tà th́ dốc giáo hóa, dẫn dắt họ trở về với chánh đạo. Dùng phương tiện quyền xảo, có thể khiến những tâm nhỏ hẹp biến thành tâm rộng lớn nếu đă lớn mạnh th́ có thể khiến thành vô hạn. Dùng phương tiện quyền xảo để khuyến khích những người hay tranh căi nên ḥa hợp, làm bạn với nhau. Dùng phương tiện quyền xảo, đối với các hạng căn trí thấp, theo Tiểu thừa th́ khiến họ trụ nơi giáo pháp vi diệu. Nhờ phương tiện quyền xảo mà đạt đến Niết-bàn, trở lại trong sinh tử để độ hết chúng sinh. Nhờ phương tiện quyền xảo để cởi bỏ bao thứ lưới trói buộc, che lấp. Nhờ phương tiện quyền xảo, nên có thể trừ diệt mọi kết sử, tâm chí được nhẫn nhục. Dùng phương tiện quyền xảo nên thường ở chỗ vắng lặng mà không rơi vào nẻo diệt tận. Nhờ phương tiện quyền xảo nên có thể hiểu rơ về tất cả sự tu tập, nên oai nghi, hành động luôn thích hợp. Nhờ phương tiện quyền xảo, quán thấy tất cả chúng sinh không hủy hoại giới pháp, thường thuận theo giới cấm. Nhờ phương tiện quyền xảo nên thâu giữ được tất cả mà không tranh chấp. Nhờ phương tiện quyền xảo mà phát triển đạo pháp rộng khắp mười phương. Nhờ phương tiện quyền xảo nên một ḿnh đi vào ba cơi mà không bị hoạn nạn. Nhờ phương tiện quyền xảo nên đạt được pháp môn giải thoát, đạt đến nẻo “Không chốn hành”. Dùng phương tiện quyền xảo nên không bỏ hạnh của bậcThánh, tuy ở trong thế gian nhưng không bị khách trần lôi cuốn. Nhờ phương tiện quyền xảo, nên cùng với đạo hội nhập, hợp với giáo pháp. Dùng phương tiện quyền xảo là xả bỏ vô vi, có thể đi vào sinh tử để cứu độ mọi hoạn nạn. Nhờ phương tiện quyền xảo, nên đối với cảnh giới ma, chiếu soi rơ về nguồn gốc của ái dục, phiền năo. Dùng phương tiện quyền xảo để xét rơ về chúng sinh, không có chúng sinh, cũng không phải là không có. Đó gọi là chỗ hành theo phương tiện quyền xảo của Bồ-tát, nhập vào chốn không cùng tận.

Bồ-tát A-soa-mạt nói:

–Này Hiền giả Xá-lợi-phất! Nẻo hành của Bồ-tát là tám mươi phẩm không cùng tận. Chư Phật Thế Tôn đều từ tám mươi pháp không cùng tận này mà sinh ra.

Khi Bồ-tát A-soa-mạt giảng nói về pháp môn không cùng tận này th́ có bảy vạn tám ngàn người,từ xưa đến nay chưa từng phát tâm Bồ-đề, liền phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.  Năm vạn hai ngàn Bồ-tát tức thời chứng được pháp Nhẫn vô sinh. Tất cả chư vị nơi chúng hội đều dùng vô số các loại hoa, hương, các lọng hoa báu, dâng lên cúng dường Đức Phật và Bồ-tát A-soa-mạt, tất cả đều cung kính phụng hành kinh điển thiết yếu này. Chư Thiên ở giữa hư không liền tấu nhạc trời, phát ra âm thanh tán thán Đức Phật:

–Đức Thế Tôn, từ vô số kiếp đă tích lũy công đức, tự thành Chánh giác, độ khắp muôn loài. Nay Bồ-tát A-soa-mạt đă khen ngợi Kinh điển, diễn giảng, nêu rơ về nghĩa lư không cùng tận. Nếu có người nghe được kinh điển thiết yếu không cùng tận này mà tâm không nghi ngờ, lại tin tưởng, giữ ǵn đọc tụng, v́ người khác giảng nói, dốc ḷng tin nơi sự giảng dạy của Phật th́ sẽ đạt được công đức không cùng tận như vậy.

Bấy giờ, Đức Phật lấy y của ḿnh trao cho Bồ-tát A-soa-mạt và khen ngợi:

–Lành thay, lành thay! Ông đă khéo giảng nói kinh này, Như Lai rất vui mừng, chư Phật hiện có trong mười phương nhiều như cátsông Hằng cũng đồng khen ngợi.

Bồ-tát A-soa-mạt nhận lănh tấm y của Đức Phật trao, đội trên đầu, bạch Phật:

–Tấm y này của Đức Phật con xin hết sức quư trọng, ngày đêm giữ ǵn. V́ đó là y phục của vô lượng chư Phật, Thế Tôn mà hàng trời, người đều ủng hộ.

Ngay lúc ấy, khắp mười phương đều có cờ lọng, phướn báu tự nhiên xuất hiện, che phủ phía trên Bồ-tát A-soa-mạt. Trong các vật báu ấy tự nhiên phát ra âm thanh diễn nói như vầy:

–Lành thay, lành thay! Bồ-tát A-soa-mạt có khả năng giảng thuyết về pháp môn vô tận này, mười phương chư Phật đều cùng khen ngợi.

Bấy giờ, Hiền giả Xá-lợi-phất bạch Phật:

–Hôm nay những vật báu: y phục, dù lọng, cờ phướn kia, từ đâu đến mà phát ra âm thanh như thế?

Đức Phật bảo Hiền giả Xá-lợi-phất:

–Những chúng sinh trước đây được giáo hóa trong chúng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Các vị ấy, ở khắp mười phương đều thành Chánh giác. Hôm nay, Như Lai bảo họ đến đây để cúng dường, báo đáp ân đức nơi vị Bồ-tát đă tuyên giảng phẩm Hồng nghiệp đại hội nhằm để cúng dường kinh điển nên đă hiện ra các thứ h́nh tướng che phủ ở trên.

Khi ấy, chúng hội thấy sự biến hóa ấy, lại nghe Phật nói như vậy, lại càng tăng thêm sự cung kính đối với Bồ-tát A-soa-mạt. Họ hết sức vui mừng, suy nghĩ: Chúng ta được lợi lớn là nhờ phước đức sâu dày từ đời trước mới được gặp Bồ-tát A-soa-mạt, đảnh lễ, thưa hỏi và nghe pháp này với phước đức không cùng tận. Giả sử có người được nghe danh hiệu của Bồ-tát A-soa-mạt th́ phước đức đă không thể hạn lượng huống chi c̣n được thấy mặt, quy y, nghe giảngkinh pháp, được chư Phật đại Thánh khen ngợi, khuyến khích th́ đâu phải là việc tầm thường!

Đức Phật bảo Hiền giả Xá-lợi-phất:

–Nếu có thiện nam, thiện nữ, tu học theo thừa Bồ-tát, khi thấy chư Phật Thế Tôn trụ ở đời một kiếp th́ cùng nhau cúng dường vật hiện có, phụng hành giới cấm không hề hủy phạm. Giả sử gặp sự thống khổ của con người càng nhiều, họ đều chịu đựng, luôn luôn tinh tấn thực hành, như cứu lửa cháy đầu, thiền định nhất tâm không hề tán loạn, thường dùng trí tuệ quan sát, không để quên mất, cung kính phụng hành theo chư Phật như thế là trọn kiếp. Lại có thiện nam, thiện nữ nghe kinh điển này, dốc ḷng tin hiểu, thọ tŕ, đọc tụng, siêng năng tu tập, rơ biết chỗ tiến lùi tại tâm. Đức Phật khen ngợi sáu pháp Độ vô cực này đều là những con đường hoàn toàn mau chóng để đạt đến đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. V́ sao? V́ nếu có Bồ-tát đọc tụng Kinh điển này tự tâm khởi ư niệm: “Ta học kinh này, dốc v́ người khác giảng nói”. Đó gọi là có thể hoàn thành đầy đủ pháp bố thí vượt bờ. V́ sao? V́ người thọ tŕ kinh này, xét trong các phương thức bố thí th́ bố thí pháp là trên hết, gần với Phật đạo. Nếu thực hành đầy đủ pháp Tŕ giới độ vô cực th́ người hành tŕ không bị trái phạm, các hạnh nghiệp luôn trọn vẹn. Đó gọi là Tŕ giới độ vô cực. V́ sao? V́ khi Bồ-tát giảng nói kinh này với đầy đủ giới cấm th́ tất cả chúng sinh cũng không thể không xưng tán, nên công đức tích tập cũng không thể nói hết. Giả sử Bồ-tát nhẫn chịu tất cả những sự quấy nhiễu, phá hoại mà tâm vẫn không dấy khởi, cũng chẳng bằng đọc tụng kinh điển này, lại v́ người khác giảng nói, lấy đó làm trí tuệ thực hành để có được đầy đủ Nhẫn nhục độ vô cực. Thân, miệng, ư thường hành tinh tấn, mong muốn độ thoát chúng sinh chưa từng chán bỏ. Đó gọi là Tinh tấn độ vô cực. Luôn chuyên chú, siêng năng, ở nơi kinh này tư duy không loạn động, đạt được thiền định nhất tâm, đó là Thiền định độ vô cực. Đối với kinh điển này, dùng trí tuệ quan sát về hiện tại, với nghĩa lư đúng sai để biết phương hướng hành tŕ. Đó là Trí tuệ độ vô cực.

   Này Hiền giả Xá-lợi-phất! Nếu có người chuyên cần tu học kinh này, chỉ từ các việc làm nhỏ nhặt mà có được đầy đủ sáu pháp tu vượt bờ của Bồ-tát. V́ vậy, cần phải quán xét điều ấy. Hoặc có Bồ-tát thọ tŕ kinh điển, đọc tụng, biên chép trên tre, lụa, đóng thànhquyển, nhờ đó mà tóm thâu tất cả các pháp, hoặc cung kính giữ ǵn kinh điển của chư Phật, giả sử thân tứ đại bị tan hoại th́ cũng không làm lay chuyển tâm Bồ-đề. V́ sao? V́ kinh này được gọi là Pháp ấn của Bồ-tát mong cầu được ấn chứng. Nếu có người phụng tŕ ấn này th́ có thể xem là người đă dốc phụng tŕ, thực hành tất cả pháp của chư Phật.

Khi ấy, Bốn Thiên vương cùng với quyến thuộc đều bỏ hết binh khí, chắp tay bạch Phật:

–Bốn Thiên vương chúng con là đệ tử của Phật, nhờ chứng được quả Dự lưu nên có thể đảm nhận sự việc cúng dường, bảo vệ cho các hàng thiện nam, thiện nữ, những người thọ tŕ, đọc tụng, phụng hành kinh này như giữ ǵn chư Phật. V́ sao? V́ tất cả các thừa đều từ kinh này sinh ra.

Khi ấy, trời Đế Thích đến trước Phật, thưa:

–Luôn theo Đức Như Lai để thưa hỏi, thọ nhận kinh điển, số ấy có đến trăm ngàn người, nhưng họ chưa từng được nghe ư nghĩa của kinh này để thông đạt về diệu lư, không c̣n nghi ngờ. Con đă từng cùng với chư Thiên cơi trời Đao-lợi luôn luôn được lănh hội chánh pháp nhưng chưa từng gặp kinh này. Thế nên nếu có người ở nơi các xóm làng, huyện, quận, thành phố khắp cả nước, giảng thuyết kinh ấy th́ nên đến đó để lănh hội, thưa hỏi, ủng hộ Pháp sư. Do vậy, người nêu giảng kinh sức lực sẽ tăng thêm, tinh tấn, vững chí, không khiếp sợ, biện tài luôn thông suốt, một ḿnh không sợ hăi. Thiện nam này do tâm không hề khiếp sợ, nên một ḿnh giữa chúng hội hay ở chốn vắng vẻ, giảng thuyết rộng khắp về kinh này.

Đức Phật bảo:

–Lành thay, lành thay! Này Câu Dực! Nếu ông phát tâm dũng mănh nhằm ủng hộ Pháp sư, tạo sự vui thích, khiến vị ấy dốc sức tinh tấn, vượt mọi khó khăn.

Đức Phật lại bảo Câu Dực:

–Nếu ông hộ tŕ Pháp sư tức là giữ ǵn kinh này. Do hộ tŕ kinh này nên có thể cứu giúp đối với tất cả chúng sinh.

Khi ấy, Thiên vương Phạm Nhẫn đến trước chỗ Phật, thưa:

–Con sẽ xả bỏ những hoạn lạc ở cơi Phạm thiên, tâm luôn thực hành thiền định tư duy, đến chỗ Pháp sư để nghe giảng kinh pháp, hộ tŕ Pháp sư, hiện bốn điềm lành làm cho vị Pháp sư ấy nhận biết. Những ǵ là bốn?

1.Khiến cho chúng hội thấy được ánh sáng vi diệu.

2.Được ngửi thấy mùi thơm của chư Thiên.

3.Những lời thuyết giảng của Pháp sư luôn lưu loát, không trở ngại.

4.Câu chương, nghĩa lư, thứ tự không chống trái nhau.

Đó là bốn việc.

Khi thuyết giảng kinh này, tâm không vọng tưởng, dùng trí tuệ để biện luận, tất cả chúng hội đều chú ư lắng nghe, không loạn động, tâm ư nhớ nghĩ về pháp, một ḷng lắng nghe kinh. Do bốn việc ấy mà được trí tuệ, nên chư Thiên và quyến thuộc đều có mặt ở chúng hội đó.

Khi ấy, ma Ba-tuần đến trước Phật thưa:

–Do kinh này làm cho tôi trở nên yếu kém, không c̣n  một chút thế lực. Nếu có Bồ-tát lănh hội kinh ấy th́ chắc chắn sẽ thọ tŕ, vào trong cơi nào đều được thấy kinh như thấy Phật. Bạch Thế Tôn! Hôm nay, tôi thấy rơ uy thần nơi diệu lực của Bồ-tát A-soa-mạt nên đă dứt bỏ mọi thứ cao ngạo, tự đại. V́ sao? V́ nhờ kinh này mà dấy khởi sự ủng hộ, bảo vệ Pháp sư. Từ nay, tôi tự giữ ǵn, không dám trái phạm giáo pháp. Những nơi được lưu truyền và thực hành kinh ấy, tôi đều ủng hộ, không c̣n quấy phá nữa.

Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Hiền giả A-nan:

–Hiền giả nên dốc sức thọ tŕ, đọc tụng và v́ người khác thuyết giảng kinh này, khiến cho chánh pháp tồn tại lâu dài.

Hiền giả A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con xin dốc tâm thọ tŕ, đọc tụng kinh ấy, nhưng không có khả năng làm cho kinh được lưu truyền khắp nơi như các vị Bồ-tát khác.

Đức Phật bảo Hiền giả A-nan:

–Hiền giả cứ yên tâm! Từ đây, sẽ có người truyền bá kinh này.Hôm nay, trong chúng hội có các Bồ-tát lo giữ việc hộ tŕ chánh pháp, sẽ làm cho đạo pháp được lưu truyền rộng khắp.

Bấy giờ, trong chúng hội có sáu mươi ức các vị Bồ-tát, từ chỗ ngồi đứng dậy, muốn hộ tŕ chánh pháp, liền đến trước Phật, thưa:

–Bạch Thế Tôn! Chúng con xin cùng nhau thọ nhận phẩm Đại hội pháp của kinh này, tùy thời lưu truyền khắp mười phương và chúng sinh nơi cơi Ta-bà đều được nhờ vào ân đức ấy. Bồ-tát Di-lặc, bậc Nhất sinh bổ xứ giữ việc bảo vệ kinh điển sẽ giảng thuyết rộng răi những điều cốt yếu của kinh ấy. Sau khi Phật diệt độ, nếu có Bồ-tát ở trong thời kỳ mạt pháp, gồm đủ năm thứ ô trược, mà được nghe, thọ tŕ, đọc tụng kinh này th́ nên biết đó là do có sự biến lập của Bồ-tát Di-lặc.

Khi ấy, Đức Phật khen ngợi các vị Bồ-tát:

–Lành thay, lành thay! Các ông ở trước Như Lai mà tự nêu bày, nhằm hộ tŕ chánh pháp tức là ủng hộ chánh pháp của hằng hà sa số chư Phật trong mười phương.

Bấy giờ, Bồ-tát A-soa-mạt đến trước Đức Phật, bạch:

–Nguyện xin bậc đại Thánh tha thứ, v́ con sức kém, trí mỏng, nên sự giảng thuyết về câu nghĩa của kinh điển không đầy đủ. Cúi xin Thế Tôn bỏ qua những lỗi lầm, để con có thể sánh cùng với các Bồ-tát, phụng hành pháp vô tận.

Đức Phật bảo Bồ-tát A-soa-mạt:

–Ông thuyết giảng pháp theo thứ tự, câu nghĩa không “chỗ” nào trái với đạo lư, hết thảy đều thông suốt, không ngăn ngại. Nếu có Bồ-tát nào không bị phiền năo ngăn che th́ sự thuyết giảng về đạo lư không hề thiếu sót, luôn phân biệt, xét rơ về nghĩa lư của kinh như đă nêu. Huống chi, hiện tại Bồ-tát đă thông suốt kinh điển này, tiêu biểu là thông đạt về các pháp Độ vô cực sao lại nói là không sánh kịp. Nay, Bồ-tát A-soa-mạt đă đạt được bốn thứ phân biệt, trí tuệ, biện tài, thấu suốt, tự tại, đối với pháp Đại thừa, khỏi phải nương tựa, một ḿnh an nhiên, giảng thuyết chắc chắn các điều nghi ngờ, đạt đến bờ giải thoát. Nếu có Bồ-tát an trú nơi quả vị này thân, miệng, ư hoàn toàn thanh tịnh, dùng Nhất thiết trí ở hàng đầu,thấu rơ tất cả, hành động nơi ba nghiệp đều hoàn bị, vô số trăm ngàn ức chư Phật trong mười phương đều khen ngợi sự giảng thuyết giáo pháp của ông. Hôm nay, Như Lai biểu dương sự giảng thuyết thông đạt, không thiếu sót ấy và chư Phật khắp mười phương cũng như vậy.

Bấy giờ, Hiền giả A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Kinh này tên gọi là ǵ? Làm sao phụng hành?

Đức Phật bảo Hiền giả A-nan:

–Kinh này gọi là Sự Giảng Thuyết Về Văn Từ Nghĩa Lư Không Cùng Tận Của Bồ-tát A-soa-mạt. Gọi tắt là phẩm A-soa-mạt. Này Hiền giả A-nan! Nếu có người thọ tŕ kinh này th́ tâm ư người ấy trở nên sáng suốt, nhận thức về nghĩa lư rơ ràng, công đức chân chánh tăng lên trăm ngàn lần, lại v́ người khác thuyết giảng tức là đă tạo lập được Phật sự.

Phật thuyết giảng kinh ấy rồi, Bồ-tát A-soa-mạt, Hiền giả A-nan, các chúng Trời, Rồng, Quỷ thần đều hoan hỷ, đảnh lễ rồi lui ra.

KINH A SOA MẠT BỒ TÁT

Quyển thứ bảy - hết.

 

^

-

TRANG CHỦ*--KINH ĐIỂN*--ĐẠI TẠNG KINH*--THẦN CHÚ*--HÌNH ẢNH*--中文*--ENGLISH

Uploaded / Updated on 2020-10-29

 

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0