佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

 TRANG CHỦ*--KINH ĐIỂN*--ĐẠI TẠNG KINH*--THẦN CHÚ*--HÌNH ẢNH*--中文*--ENGLISH

VT0267

KINH PHÁP LUÂN KHÔNG THOÁI CHUYỂN

Hán dịch: Không rõ tên người dịch, Đại sư Tăng Hựu đời Lương sao lục.

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

MỤC LỤC

QUYỂN 1

PHẩm 1: MỞ ĐẦU

Phẩm 2: TÍN HÀNH (Phần 1)

QUYỂN 2

Phẩm 2: TÍN HÀNH (Phần 2)

Phẩm 3: THANH VĂN, BÍCH-CHI-PHẬT

QUYỂN 3

Phẩm 4: NÊU RÕ HÀNH TƯỚNG HAI THỪA

Phẩm 5: DỨT TRỪ MỌI TƯỞNG

Phẩm 6: HÀNG PHỤC CÁC MA

QUYỂN 4

Phẩm 7: THỌ KÝ

Phẩm 8: NHẬN RÕ

Phẩm 9: AN DƯỠNG QUỐC.

 

 

QUYỂN 1    QUYỂN 2    QUYỂN 3    QUYỂN 4

KINH PHÁP LUÂN KHÔNG THOÁI CHUYỂN

Hán dịch: Không rõ tên người dịch, Đại sư Tăng Hựu đời Lương sao lục.

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 1

 

Phẩm 1: TỰA

Tôi nghe như vầy:

Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo Tăng một ngàn hai trăm năm mươi vị, chúng Bồ-tát Ma-ha-tát th́ có đến số vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ.

Lúc bấy giờ, vào khoảng quá nửa đêm, Đức Thế Tôn nhập chánh định Quảng Đại Quang Minh Chiếu, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử nhập chánh định Đại quang minh, Bồ-tát Di-lặc cũng nhập chánh định Biến cự. Lúc này, Đức Thế Tôn xuất định, cùng Tôn giả Xá-lợi-phất ra khỏi phòng đi tới chỗ trú của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi. Chợt Tôn giả Xá-lợi-phất nh́n thấy hai bên trái và phải của phòng Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi cũng như phòng của Phật thảy đều hiện ra những ao nước đầy, trong ao có vô số lớp lớp những đóa hoa sen trải kín trên mặt nước. Mỗi đóa hoa sen trong ao đều phát ra ánh sáng chiếu khắp khu Kỳ hoàn và nước Xá-vệ, cho đến cả tam thiên đại thiên thế giới thảy đều được chiếu sáng. Lại nghe có tiếng pháp âm lớn vang khắp tất cả các thế giới trong mười phương, nghe rõ có tiếng của các vị Bồ-tát đang thưa hỏi, nêu câu hỏi, luận bàn. Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất đã bước vào phòng, thấy Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đang ngồi nhập định, bèn đứng trước mặt rồi búng mạnh ngón tay để phát ra tiếng.

Lúc này Đức Thế Tôn cùng Tôn giả Xá-lợi-phất đều thấy Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử dùng thần thông biến hóa nên đều thấy thân ḿnh đang ở trên mặt nước biển lớn. Tôn giả Xá-lợi-phất khi ấy muốn ra khỏi phòng của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nhưng không thể được, muốn phóng vụt lên hư không mà cũng chẳng được, không tự biết ḿnh từ đâu đến, huống ǵ là việc vận dụng thần thông bay đi. Thế rồi, Tôn giả liền ngồi kiết già nhập định, đột nhiên nh́n thấy Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đang ngồi ngay thẳng trước mặt ḿnh, biết đấy là do năng lực thần thông của Bồ-tát thể hiện, nên không rời khỏi chỗ ngồi.

Tôn giả Xá-lợi-phất thấy Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi. Qua số cõi Phật như cát sông Hằng có một thế giới tên là A-bệ-bạt-trí nghị luận âm thanh, Đức Phật ở thế giới đó hiệu là Thiện Trụ Quang Hoa Khai Phu, hiện đang ngự trên tòa báu, có vô lượng ngàn ức Bồ-tát vây quanh. Tôn giả thấy các lỗ chân lông trên thân của Đức Phật ấy đều mọc ra hoa sen, mỗi đóa hoa sen đó đều phát ra ánh sáng chiếu khắp tam thiên đại thiên thế giới. Mỗi hoa có ngàn cánh, cọng bằng ngọc lưu ly xanh, tua bằng ngọc mã não, đài bằng các thứ báu, trên mỗi đài đều có các vị Bồ-tát đang ngồi kiết già. Các vị Bồ-tát ấy đều trụ trong pháp không thoái chuyển, sẽ thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đối với các pháp môn Tổng tŕ đều thành tựu Đại nhẫn, tự trang nghiêm bằng ba mươi hai tướng, thân sắc màu vàng ròng nhiệm mầu bậc nhất.

Lúc bấy giờ từ nơi rốn Đức Phật Thiện Trụ Quang Hoa Khai Phu mọc ra một đóa hoa sen lớn, rất nhiều mầu sắc, thân cũng bằng ngọc lưu ly xanh, cánh hoa bằng kim cang, tua bằng lưu ly nhân đà, đài bằng Long kiên chiên-đàn vương, nước ở thế gian không thể làm ô nhiễm. Tôn giả Xá-lợi-phất nh́n thấy đài hoa ấy còn bỏ trống nên Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đã lên ngồi nơi đó và cùng với đài hoa sen vụt biến lên cao vút. Rồi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đi nhiễu quanh Phật ba vòng, chắp tay, nhất tâm đảnh lễ dưới chân Phật, sau đó trở lại đài hoa sen ngồi kiết già, chánh niệm hướng về Phật.

Lúc này, Như Lai Thiện Trụ Quang Hoa Khai Phu hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

–Nhân giả từ nơi nào đến đây?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con từ thế giới Ta-bà đến cõi này. Trong cõi Phật này có hai vị Bồ-tát là Thiện Âm và Thiện Thanh; hai vị Đại Bồ-tát này đều đã an trụ nơi pháp không thoái chuyển quyết định sẽ chứng được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, hai vị cùng từ nơi đài hoa bước ra, sửa lại y phục ngay ngắn, rồi đầu gối bên phải quỳ sát đất, nhất tâm chắp tay cùng bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Thế giới Ta-bà ấy cách cõi này bao xa?

Phật Thiện Trụ Quang Hoa Khai Phu đáp:

–Thế giới Ta-bà đó cách đây với số thế giới nhiều như số cát sông Hằng, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi từ cõi ấy đến đây.

Hai vị Bồ-tát cùng hỏi Phật:

–Đức Phật ở thế giới Ta-bà đó hiệu là ǵ? Chúng con muốn được biết.

Đức Phật đáp:

–Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thích-ca Mâu-ni, là Bậc Như Lai Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, hiện đang còn trụ thế giới.

Hai vị Bồ-tát lại hỏi:

–Đức Thích-ca Mâu-ni hiện giờ đang nói pháp ǵ?

Phật nói:

–Hiện đang nói pháp ba thừa.

Lại hỏi:

–Thế nào gọi là ba thừa?

Phật dạy:

–Đó là giảng về Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Phật thừa. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni thường giảng về pháp ba thừa như vậy.

Hai vị Bồ-tát lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Các Đức Phật nói pháp v́ sao không giống nhau?

Đức Phật đáp:

–Tất cả các Đức Phật nói pháp đều giống nhau.

Lại hỏi:

–Thế nào là giống nhau?

Đức Phật dạy:

–Đó là Chuyển pháp luân không thoái chuyển, tất cả các Đức Phật đều nói giống nhau.

Hai vị Bồ-tát lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Như vậy th́ v́ sao Đức Phật Thích-ca Mâu-ni lại nói về pháp ba thừa?

Đức Phật dạy:

–V́ tâm của chúng sinh ở thế giới Ta-bà ấy phần nhiều thấp kém, nếu chỉ nói về Nhất thừa th́ không thể lãnh hội ngay được. Do đó, Phật Thích-ca Mâu-ni đã khéo dùng phương tiện khéo léo phân biệt nói ba thừa, giúp cho chúng sinh ra khỏi thế giới năm trược, dẫn dắt họ lần lượt hội nhập Nhất thừa.

Hai vị Bồ-tát bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ở thế giới Ta-bà ấy nói pháp chắc là hết sức khó khăn?

Đức Phật đáp:

–Đúng vậy! Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nói pháp thật rất khó khăn.

Hai Bồ-tát bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Hôm nay chúng con được lợi ích tốt đẹp nên không sinh vào cõi nước có chúng sinh thấp kém xấu ác như thế.

Phật đáp:

–Các vị chớ nói lời ấy, hãy mau bỏ ý nghĩ ấy.

Hai vị Bồ-tát nói:

–Bạch Thế Tôn! Do đâu mà Thế Tôn dạy chúng con không nên nói những lời ấy. Ở thế giới năm trược như vậy, mà nói pháp này rất là khó khăn, do đó mà chúng con hôm nay chẳng sinh tâm vui mừng, ưa thích.

Đức Phật dạy:

–Ở thế giới này, trong hai mươi ức na-do-tha kiếp tu tập các căn lành, sự việc ấy không khó khăn bằng ở thế giới Ta-bà chỉ trong thời gian một bữa ăn mà tu tập các căn lành. Nhưng Đức Thích-ca Mâu-ni đã luôn thích ứng với các pháp tu Bát-nhã ba-la-mật để dẫn dắt chúng sinh quy y Tam bảo thọ tŕ năm giới, khiến họ xa ĺa tâm Thanh văn, Duyên giác, khiến họ phát đạo tâm Vô thượng Bồ-đề là những việc hết sức khó khăn. Đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai đã tu tập như thế trải qua những hai mươi ức na-do-tha kiếp, huống chi còn khuyến khích mọi người xuất gia, khen ngợi công đức xuất gia, nói pháp rộng rãi, giúp họ ra khỏi ba cõi, giáo hóa như vậy để được lợi ích cho chính ḿnh, tu tập pháp lành, nhập vào các thiền định. V́ sao? V́ chúng sinh ở thế giới Ta-bà đó luôn bị các thứ phiền não làm cho mê mờ, điên đảo.

Hai vị Bồ-tát lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! V́ sao mà ở thế giới ấy, các chúng sinh lại bị nhiều thứ phiền não trói buộc khiến cho mê mờ điên đảo như vậy?

Phật dạy:

–Nếu ta nói cho các vị nghe về các thứ phiền não của chúng sinh ở thế giới Ta-bà như tham dục, sân hận, ngu si, vô số các pháp bất thiện, xấu ác th́ dù hết suốt đời ta cũng không thể nói cho hết được. Chỉ có Phật mới biết rõ về nghiệp báo thiện ác ở thế giới đó.

Bấy giờ, hai vị Bồ-tát Thiện Âm và Thiện Thanh đều khen ngợi:

–Thật là Đấng Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni thật là Bậc Sư Tử trong họ Thích, thật là vị Đại Tiên trong dòng họ Thích! 

Hai vị Bồ-tát khen ngợi ba lần như thế, tức th́ các vị Thế Tôn ở đấy thảy đều khen ngợi:

–Lành thay! Bậc Đạo Sư thuyết pháp độ sinh, đã khéo biết rõ tâm niệm của muôn loài. V́ vậy mà ta đã nêu rõ về các pháp bất thiện, tham dục, sân si, tà kiến cùng vô lượng những điều xấu ác, khéo léo giảng nói dẫn dắt đưa họ về nẻo thiện, hướng về con đường tu tập của hàng Thanh văn, Duyên giác, đều quy về Phật thừa, thành tựu trí tuệ Phật, thanh tịnh bậc nhất. Lại giúp cho chúng sinh phát tâm Bồ-đề, thuận theo sự giải thoát, nhập vào trí tuệ Phật, v́ giúp cho chúng sinh có đầy đủ căn lành, tâm không bị cấu nhiễm.

Các vị Bồ-tát ấy đều lấy những đóa hoa sen được cấu tạo bằng bảy thứ báu với nhiều màu sắc, mỗi hoa có trăm ngàn muôn ức cánh, như kho báu kim cang, tua bằng ngọc lưu ly xanh cõi trời, đài bằng Chiên-đàn long kiên, thân bằng các thứ châu báu, không hề bị dính các thứ nước ở thế gian, mắt đều nhận thấy rõ, hoa này nhiệm mầu bay lên hư không và tự xoay theo các hướng, khỏi phải nắm giữ, giống như h́nh ảnh huyễn từ nghiệp báo sinh ra, cũng từ các chánh định giải thoát sinh ra.

Các vị Bồ-tát lấy hoa trong hư không rồi từ xa hướng về thế giới Ta-bà tung rải cúng dường Đức Thích-ca Mâu-ni. Lại cầm các tràng hoa, lọng hoa, đều làm bằng các chất báu, rồi nào mây báu, lọng báu cùng các lọng lụa quý giá để cúng dường Đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai. Sau đó, các vị Bồ-tát gieo năm vóc sát đất, hướng về Phật đảnh lễ, cùng đọc:

–Nam-mô Thích-ca Mâu-ni Phật.

Các vị Bồ-tát Ma-ha-tát ở thế giới Ta-bà này, đã tự trang nghiêm bằng các pháp Đại thừa, luôn tinh tấn không hề biếng trễ, tu tập các công đức, có khả năng giữ ǵn tất cả Chánh pháp của các Đức Phật quá khứ, hiện tại cùng vị lai, v́ muốn cứu giúp các chúng sinh khổ não nên chiếu sáng rộng lớn và trụ trong Nhất thừa. Chúng con muốn đến ra mắt Đức Phật Thích-ca Mâu-ni cùng chúng Đại Bồ-tát ở thế giới Ta-bà, những Bậc đã dùng sự Đại trang nghiêm để trang nghiêm thân ḿnh, v́ tiếp nối hạt giống Phật không để dứt mất.

Đức Phật Thiện Trụ Quang Hoa Khai Phu Như Lai nghe các vị Bồ-tát nói lời ấy, liền quán sát tâm các vị ấy, lại nói cho các vị ấy nghe về công đức của các Đức Phật, chỉ dạy cho được lợi ích vui mừng, bèn bảo các vị Bồ-tát:

–Các ông nên theo học sự hành đạo của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Đối với tất cả chúng sinh phát tâm đại Từ bi, phát tâm làm lợi ích an vui cho họ. Đối với các pháp sâu nhiệm không sinh tâm sợ hãi hoặc chê bai, trái lại luôn giữ tâm niệm vô tướng, đầy đủ căn lành, không cầu quả báo. Các vị Đại Bồ-tát như thế đều sẽ đến cõi nước của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, do năng lực của bản nguyện nên đều sinh về thế giới ấy để giữ ǵn chánh pháp, thuận theo sự chỉ dạy của các Đức Phật để làm chỗ dựa cho việc tu học của ḿnh. Các ông nên đến thế giới đó để ra mắt Phật.

Hai vị Bồ-tát Thiện Âm và Thiện Thanh cùng bạch Phật:

–Chúng con sẽ nương theo năng lực thần thông của Phật và năng lực của các Đức Phật thời quá khứ, vị lai mà đến được thế giới Ta-bà ấy.

Đức Phật Thiện Trụ Quang Hoa Khai Phu nói với hai vị Bồ-tát:

–Bây giờ, các ông hãy cùng đi với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đến thế giới đó. Rồi Phật nói với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

–Ông hãy hướng dẫn hai vị Bồ-tát này cùng đến thế giới Ta-bà.

Hai vị Bồ-tát Thiện Âm và Thiện Thanh nói với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

–Chúng tôi muốn ra mắt Đức Phật Thích-ca Mâu-ni cùng các vị Bồ-tát và tất cả đại chúng ở thế giới ấy, xin được nương theo thần lực của Bồ-tát để được ra mắt Đức Phật ấy.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

–Này các thiện nam! Các vị trước hết phải nên lễ bái Đức Phật ấy, nên luôn luôn gần gũi cung kính cúng dường vô số các Đức Phật đều v́ lợi ích cho tất cả chúng sinh trong các thế giới ở mười phương, cũng v́ muốn tăng trưởng tánh chất giác ngộ nơi ḿmh tức là thành tựu trí tuệ của Phật.

Hai vị Bồ-tát được nghe lời chỉ dạy của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi liền cùng thưa:

–Chúng tôi cũng sẽ hết lòng cúng dường các Đức Phật, Như Lai, gần gũi lễ bái tôn trọng khen ngợi, sẽ học hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, v́ muốn đem lại lợi ích cho tất cả chúng sinh.

Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đảnh lễ Đức Phật Thiện Trụ Quang Hoa Khai Phu, đi nhiễu quanh Phật ba vòng, cung kính tôn trọng rồi cùng với các vị Bồ-tát và Tôn giả Xá-lợi-phất đến gần Phật để nghe nói pháp, được Phật chỉ dạy quán kỹ Như Lai. Các vị đều tung hoa cúng dường, lại dùng các thứ hương bột, hương xoa; các thứ cờ phướn dù lọng làm bằng lụa là thanh tịnh bậc nhất, tất cả đều được sự hộ tŕ thần lực của chư Phật quá khứ, khiến cho niệm tuệ được vững chắc, hướng đến cúng dường khắp ba ngôi tôn quý là Phật, Pháp, Tăng, nhằm giúp cho tất cả chúng sinh được giải thoát.

Chỉ trong khoảnh khắc như sự co duỗi cánh tay của vị Đại lực sĩ, th́ Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi cùng các vị đã đi về phương Đông, trải qua các cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, ở mỗi cõi Phật ấy, Bồ-tát thảy đều khuyến thỉnh các Đức Phật giảng nói rộng về chuyển pháp luân thanh tịnh không thoái chuyển. Nơi các cõi Phật này không có người nữ, cũng không có danh từ hai thừa Thanh văn, Duyên giác, cũng giống như ở thế giới của Phật Thiện Trụ Quang Hoa Khai Phu không khác. Trong các thế giới ấy được trang nghiêm bằng các vị Đại Bồ-tát. Nơi lỗ chân lông và rốn của các vị Đại Bồ-tát ấy đều hiện ra những đóa hoa sen, trong mỗi hoa sen đều có các vị Bồ-tát an tọa, trên mỗi đài hoa ấy đều có Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi là do thần thông của Bồ-tát biến hóa để cúng dường các Đức Phật.

Đến các phương Nam, Tây, Bắc, bốn hướng và hai phương trên, dưới, cho tới các thế giới trong mười phương, đều có Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói chuyển pháp luân không thoái chuyển, đều có hai vị Bồ-tát từ trong đài hoa sen bước ra hỏi Phật: “V́ sao Đức Phật ở thế giới Ta-bà lại giảng nói về giáo pháp ba thừa?” Các vị Bồ-tát đó đều muốn được đi cùng với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đến thế giới Ta-bà để ra mắt Đức Phật Thích-ca Mâu-ni.

Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử, trong các thế giới ở mười phương đều khuyến khích các vị Bồ-tát ở đó cùng đi với ḿnh đến thế giới Ta-bà, khi tới cõi Diêm-phù-đề, th́ trời sắp sáng.

Bấy giờ, Tôn giả A-nan đã thức giấc, dù trời chưa sáng nhưng nh́n qua lỗ trống của chiếc then cửa thấy ánh sáng hắt vào phòng ḿnh, liền rời khỏi chỗ nằm bước ra ngoài, chợt thấy ánh sáng chiếu khắp tinh xá Kỳ hoàn và cả khu vực toàn là nước trong xanh óng ánh đầy khắp, giống như tấm gương lớn sáng loáng không chút bụi bặm, mà cũng không thấy bóng dáng cây cối và tinh xá đâu cả. Trông thấy cảnh tượng ấy, Tôn giả liền nghĩ: “V́ nhân duyên ǵ mà bỗng nhiên có các hiện tượng này? Cứ theo các điềm lạ hiện ra như thế th́ chắc hôm nay Đức Thế Tôn sẽ nói pháp Đại thừa.”

Nghĩ rồi Tôn giả lội vào nước nhưng chân không bị ngập trong nước, nước cũng không bám vào chân, nên tâm ý vui mừng, liền đi thẳng đến phòng Đức Phật, chợt thấy có tới mười ngàn đóa hoa sen đang bay vòng quanh phòng Phật, lại nghe có tiếng nhạc vang khắp, các đóa hoa ấy đều phát ra ánh sáng chiếu khắp tinh xá Kỳ hoàn cùng nước Xá-vệ trong cõi Diêm-phù-đề và cả tam thiên đại thiên thế giới cũng đều được chiếu sáng như ban ngày. Tôn giả A-nan lòng tràn ngập nỗi vui mừng, gối bên phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính nhất tâm hướng về phía Phật. Lúc này tướng sáng đã xuất hiện, mặt trời sắp mọc, thấy rõ mười ngàn hoa sen đang bay vòng quanh phòng Phật, trong đó có một hoa sen đặc biệt đẹp nhất hiện ra nơi khu vực tinh xá Kỳ hoàn. Tôn giả A-nan liền nghĩ: “Hôm nay, Đức Thế Tôn chắc chắn sẽ nói pháp, ta phải lo sửa soạn chỗ ngồi để đợi Như Lai. V́ thấy có những hiện tượng này là Ngài sẽ nói pháp.”

Rồi Tôn giả lo sắp đặt tòa Sư tử cho Đức Phật ngồi, chỉ trong chốc lát là Phật đã ngồi yên. Lúc đó, mặt đất rung chuyển sáu cách, cho đến hằng hà sa thế giới trong mười phương cũng rung chuyển sáu cách như vậy. Khắp tam thiên đại thiên thế giới hoa trời rải khắp như hoa Câu-vật-đầu, Phân-đà-lợi, Ưu-bát-la... cùng các thứ cây đầy hoa trái tự nhiên mọc lên.

Lúc ấy, các vị Tỳ-kheo đều muốn ra khỏi phòng để đến đạo tràng, nhưng trông thấy cả khu vực toàn là nước nên sợ hãi không dám đi. Các vị thấy cả khu Kỳ hoàn, cây cối cùng Tăng phòng, giảng đường, vườn hoa như ch́m trong làn nước đầy ắp, trong lành chẳng chút cấu bẩn, lại chỉ thấy ánh sáng rực rỡ chiếu sáng khắp nơi. Các vị Tỳ-kheo ấy đều nói:

–Hôm nay có những điềm lành này, chắc chắn là Đức Thế Tôn sẽ nói pháp Đại thừa.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn xuất định ngồi khoan thai. Tức th́, tất cả các Đức Phật trong các thế giới ở mười phương đều phát ra ánh sáng rực rỡ cùng nhiều mành lưới báu, có trăm ngàn muôn ức vô số màu sắc, mắt đều trông thấy nhưng không thể nắm bắt. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi cùng hằng hà sa số các vị Bồ-tát của các cõi Phật trong mười phương, v́ muốn đem lại lợi ích cho vô lượng chúng sinh, nên đối với các Đức Phật Như Lai Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác đều lễ bái cung kính cúng dường, tôn trọng khen ngợi, cùng với các vị Đại Bồ-tát như thế, thần thông biến hóa không thể nghĩ bàn, muốn giúp cho chúng sinh tin theo Phật pháp, giáo hóa làm lợi ích, tùy theo sự thích ứng mà đều được nghe thấy, dùng phương tiện giảng nói giúp họ lãnh hội, thông tỏ.

Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi biết Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã an tọa. Tất cả mặt đất đều rung chuyển sáu cách và các vị Bồ-tát từ dưới đất vụt hiện lên, từ một a-tăng-kỳ, trăm a-tăng-kỳ, cho tới trăm ngàn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ vị đều đến nhóm họp trong hội. Tất cả các Bồ-tát đều đi nhiễu quanh Đức Phật đến hàng trăm ngàn vòng.

Lại cầm vô số hoa sen rất nhiều màu sắc, mỗi hoa có vô lượng cánh nhiều không thể tính kể, tất cả được tung rải trên chỗ Phật để cúng dường, nhằm giúp cho chúng sinh nhất tâm chuyên niệm, phát sinh trí tuệ thù thắng, số hoa sen được tung rải cúng dường ấy phủ khắp tam thiên đại thiên thế giới.

Lại có các loại hương Long kiên, Chiên-đàn, các thứ hương tạp làm bằng Chiên-đàn, do thần thông phương tiện biến hóa là kết quả của sự tu tập các pháp Ba-la-mật là Tŕ giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ mà có, đều là loại hương Vô tướng trợ đạo, được oai thần của các Đức Phật trong mười phương che chở để cúng dường Đức Phật Thích-ca Mâu-ni.

Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, v́ muốn cúng dường các Đức Như Lai, nên cùng với các Bồ-tát trang sức tháp báu, những cờ phướn, dù lọng bằng lụa là quý đẹp, dùng nhiều loại võng báu giăng mắc khắp phía trên. Bồ-tát cũng dùng ngọc Ma-ni tạo dựng các phòng ốc, cửa ngõ, b́nh phong, cửa sổ, cửa lớn, tất cả đều đẹp đẽ trang nghiêm. Rồi nào ao hồ, suối khe, kênh ngòi, sông lớn với đủ các loại hoa như hoa Ưu-bát-la, Câu-vật-đầu, Phân-đà-lợi, các thứ hoa sen báu phủ khắp mặt nước, nước ấy có tám thứ công đức, lại thêm vô số các loài chim lạ cùng bay đến tụ tập hót vang. Các cây báu cõi trời tùy theo ý muốn mà hiện ra, để cứu giúp chúng sinh khiến được giải thoát, v́ tu trí Phật, phát ra tâm Bồ-đề, tất cả đều do thần thông không thể nghĩ bàn của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi biến hóa ra, nương theo uy thần của các Đức Phật và năng lực của thệ nguyện, cũng là nguyện lực bản hạnh của Phật Thích-ca Mâu-ni. Bồ-tát Văn-thù biến hóa như vậy là muốn cho sự giáo hóa dẫn dắt chúng sinh được thành tựu trọn vẹn, khiến tâm họ không thể nghĩ bàn, mà sự nhận thức cũng không thể nghĩ bàn nên đã tạo ra vẻ trang nghiêm hết mực cho cảnh giới Phật.

Lúc này, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi cùng với các vị Đại Bồ-tát đã tạo đầy đủ vẻ trang nghiêm cho đạo tràng nói pháp của Phật. Khi các vị Bồ-tát sắp sửa an tọa, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi chỉ trong một sátna, trước hết là hiện rõ thân tướng của ḿnh, rồi th́ các hoa sen vô tướng từ các lỗ chân lông trên thân hiện ra, mỗi lỗ chân lông là một hoa sen với vô số trăm ngàn màu sắc xen nhau, có vô số cánh không thể nghĩ bàn màn lưới ánh sáng bằng kho báu Kim cang, tua bằng ngọc lưu ly xanh, đài bằng Long kiên chiên-đàn, các vị Bồ-tát đều ngồi kiết già trên các hoa sen ấy.

Bấy giờ, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, từ nơi rốn trên thân tướng phát ra ánh sáng chiếu khắp sáu đường tăm tối, hàng ngàn ức thứ ánh sáng như màu sắc hoa A-đề-mục-đa-già cùng với vô số luồng ánh sáng mềm mại như hoa sen trong lành thơm ngát, lan tỏa khắp mười phương không hề bị trở ngại… từ trong đài hoa sen hiện ra những ngôi lầu gác đẹp đẽ, được các Đức Phật che chở, cùng hòa nhập với pháp giới bao la, như màu sắc của cảnh giới vắng lặng an vui giải thoát là Không, Vô tướng, Vô nguyện, vô tác, vô vi, vô sinh, vô diệt, đồng với ba đời, tất cả đều hội nhập vào cõi không, vượt quá sự thấy biết của mắt thường. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, thân tướng khôi ngô xinh đẹp, an tọa trên tòa lầu gác đẹp đẽ ấy, tâm không dao động, nghĩ nhớ cảnh giới Phật, tự chứng ngộ pháp Không được chánh định Kim cang, khéo tu học theo pháp của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, nhất định sẽ đạt pháp Tam-muội vô duyên, đi sâu vào trí tuệ Phật.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi cùng với các vị Đại Bồ-tát đã thực hiện viên mãn các Phật sự trong các thế giới ở mười phương, tâm ưa thích chánh pháp, thường siêng năng tu tập, cũng gieo trồng căn lành đã lâu đối với các Đức Phật đời quá khứ, đều được Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi che chở chí tâm dốc sức hành đạo giác ngộ, không thoái chuyển, giống như sư tử mạnh mẽ ngự trên tòa vô úy.

Phật bảo A-nan:

–Ông nên báo cho các Tỳ-kheo trong tinh xá Kỳ hoàn cùng các vị Tỳ-kheo-ni đang tu học nơi các tinh xá trong thành Xá-vệ biết rằng hôm nay Đức Như Lai, Thế Tôn sẽ nói pháp, đồng thời cũng báo cho các vị Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di trong kinh thành ấy là những người kính tin, ưa thích Tam bảo, căn lành thuần thục, được biết để đều nhóm họp nghe pháp.

Tôn giả A-nan vâng lời Phật dạy, đi tới các phòng Tăng và những chỗ kinh hành để báo rằng Đức Phật sắp nói pháp.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo đã nhóm họp, lại có các Tỳ-kheo đang ở trong phòng, đều nói là đã thấy các hiện tượng lạ báo trước việc Đức Thế Tôn sẽ nói pháp nhưng không thể đến nhóm họp được. Tôn giả A-nan nói:

–V́ sao các vị không đến được?

Các Tỳ-kheo ấy đáp là hôm nay trông thấy cả tinh xá Kỳ hoàn toàn là nước đầy khắp chẳng còn thấy cây cối đâu cả, chỉ thấy ánh sáng rực rỡ chiếu sáng khắp nơi, v́ thế nên không dám ra đi. Tôn giả A-nan liền trở lại chỗ Phật bạch:

–Bạch Thế Tôn! Có các Tỳ-kheo không thể đến nhóm họp được. V́ họ trông thấy cả tinh xá Kỳ hoàn như ngập ch́m trong nước, nước rất trong xanh không chút cấu bẩn, lại còn chẳng thấy tinh xá và cây cối đâu cả, nên các vị ấy không đến được.

Phật bảo A-nan:

–Các vị Tỳ-kheo ấy, đối với nơi không có nước mà tưởng là có nước, đối với không có h́nh sắc mà tưởng là có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức th́ lại tưởng là có thọ, tưởng, hành, thức. Chưa đạt quả vị Thanh văn, Duyên giác mà tưởng là đã đạt được các quả vị ấy. Này A-nan! Hãy trở lại nói cho các vị Tỳ-kheo ấy biết để họ còn kịp đến nghe pháp.

Bấy giờ, Tôn giả A-nan vâng theo lời Phật dạy, đi khắp thành Xá-vệ báo cho tất cả các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di biết là hôm nay Đức Thế Tôn sẽ nói pháp, vậy các vị hãy mau đến tinh xá Kỳ hoàn để nghe pháp.

Phật bảo Mục-liên:

–Tôn giả hãy đi báo cho các vị Đại Bồ-tát trong tam thiên đại thiên thế giới, những người luôn phát tâm tu tập các pháp trang nghiêm và các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, những vị hướng về pháp Đại thừa, tám bộ chúng Trời, Rồng, Dạ-xoa, A-tula, Càn-thát-bà, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân... cũng đều nhóm họp để được nghe Phật nói pháp, những ai chưa được nghe th́ hôm nay sẽ được nghe. Nên biết rằng bốn chúng đệ tử và tám bộ chúng sẽ đến nghe pháp ấy vốn đã gieo trồng căn lành từ trước nơi vô lượng các Đức Phật thời quá khứ, luôn phát tâm hướng về các pháp Đại thừa, cầu tu Đại thừa để đạt đến Tối thắng thừa, cũng gọi là thừa thanh tịnh bậc nhất. Riêng các vị Đại Bồ-tát th́ luôn dùng các pháp Đại trang nghiêm để tự trang nghiêm cho quá tŕnh tu theo thừa này. Tóm lại Tôn giả hãy thông báo cùng khắp để các vị ấy biết mà đến nhóm họp.

Tôn giả Mục-liên bạch Phật:

–Con xin vâng lời Thế Tôn!

Thế là chỉ trong khoảnh khắc, Tôn giả Mục-liên đã đi khắp tam thiên đại thiên thế giới, đến các đạo tràng lớn nhỏ, nhờ thần lực Phật và năng lực bản nguyện nên công việc thông báo đã hoàn tất nhanh chóng. Tôn giả Mục-liên trở lại chỗ Phật, bạch Phật rằng là ḿnh đã làm viên mãn công việc được giao.

Bấy giờ, tất cả bốn chúng đều nhóm họp. Chiếm một khoảng rộng lớn mỗi bề hàng ngàn do-tuần, bao quát cả một không gian cao đến năm ngàn do-tuần, tất cả trời, người lòng tràn ngập niềm ưa thích mong được nghe Pháp. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Bốn chúng đã nhóm họp đông đủ.

Lúc này, các vị trời hiện ra đầy khắp hư không, thảy đều chắp tay bạch Phật:

–Hiện giờ cả đại chúng đều kinh sợ trước uy đức của Như Lai nên không dám tự tiện an tọa, kính mong Thế Tôn cho phép họ ngồi.

Bấy giờ, Đức Như Lai liền hiện ra điềm lành, chỉ trong khoảnh khắc, từ dưới đất vụt hiện lên một hoa sen lớn bằng vàng Diêm-phù-đề có trăm ngàn muôn ức cánh, màu sắc ánh sáng tỏa chiếu rực rỡ như một vầng lửa khổng lồ. Đóa hoa sen ấy có tua bằng ngọc lưu ly xanh, đài làm bằng ngọc trai, thân bằng bảy thứ báu. Tất cả đại chúng đều tự biết phải ngồi phía trước Đức Như Lai. Các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, cùng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thác-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Mahầu-la-già, Nhân phi nhân… đều hướng về Đức Phật, chiêm ngưỡng Đức Như Lai.

Đối với các vị Đại Bồ-tát th́ Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi là bậc Thượng thủ, các vị Đại Bồ-tát này đều có ba mươi hai tướng làm tăng thêm vẻ trang nghiêm nơi thân ḿnh, màu sắc như vàng ròng, đều là bậc mạnh mẽ tinh tấn, uy đức rõ ràng.

Bấy giờ, các vị Bồ-tát cùng Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đều từ nơi các đài hoa sen bước ra, chắp tay hướng về Đức Phật, khuyến thỉnh Đức Thế Tôn và nhất tâm nghĩ nhớ Phật. Rồi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Bốn chúng đã nhóm họp, tất cả đều ngồi yên lặng, tất cả các vị trời hiện ra đầy khắp hư không. Cúi mong Đức Thế Tôn giảng nói rõ về pháp Bất thoái chuyển pháp luân thanh tịnh. Bốn chúng đệ tử hiện có ở đây là các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, cùng vô lượng trăm ngàn vị trời, các vị tín hành, pháp hành, cùng với tám bậc, có Tu-đà-hoàn tưởng, Tư-đà-hàm tưởng, A-nan-hàm tưởng, A-la-hán tưởng, Thanh văn tưởng, Duyên giác tưởng, Phật tưởng, mỗi người đều có ý tưởng. Mong Phật giảng nói để khuyến khích tâm họ là do nhân duyên ǵ mà nói về tín hành, pháp hành, cho đến tám bậc, Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, do đâu mà nêu lên như vậy?

Đức Thế Tôn yên lặng không đáp.

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Vào lúc quá nửa đêm, trời gần sáng, con đứng dậy ra khỏi phòng và đi đến phòng của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, đến trước cửa phòng sắp sửa bước vào th́ chợt thấy nơi phòng của Như Lai có đến mười ngàn đóa hoa sen vụt hiện ra bay vòng quanh, lại nghe có tiếng trống trời tự nhiên vang lên cùng với âm thanh ca vịnh, thấy khắp khu rừng Kỳ hoàn, thành Xá-vệ và cả tam thiên đại thiên thế giới thảy đều được chiếu sáng. Do nhân duyên ǵ mà hiện ra điềm lành ấy?

Tôn giả Xá-lợi-phất vừa hỏi dứt lời th́ Đức Phật liền nói:

–Do hôm nay ta sẽ nói pháp nên mới trước hiện ra điềm lành ấy.

Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi hỏi Đức Như Lai sẽ nói pháp ǵ mà trước hiện điềm lành như vậy.

Tôn giả A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Vào khoảng cuối đêm, lúc trời gần sáng, con thấy ánh sáng từ bên ngoài chiếu vào phòng ḿnh qua khe cửa, con liền đứng dậy đi ra khỏi phòng trông thấy cả khu rừng Kỳ hoàn toàn là một vùng nước trong xanh chẳng có chút cáu bẩn, nhưng cây cối cùng tinh xá, Tăng phòng đều chẳng thấy đâu cả, chỉ thấy có ánh sáng chiếu rực rỡ. Vậy do nhân duyên ǵ mà hiện trước điềm lành như thế?

Thế Tôn bảo A-nan:

–Đó là v́ hôm nay Như Lai sẽ nói về pháp luân thanh tịnh, cũng là điềm lành khuyến thỉnh do thần lực của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đã hiện ra. Bây giờ, Đức Thế Tôn v́ Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nên nói bài kệ:

Thừa này thanh tịnh

Thành được trí Phật

Văn-thù diệu biện

Thưa hỏi nghĩa ấy

Nhất thừa dứt nhiễm

Được thượng trí Phật

Văn-thù hiểu rõ

Nên hỏi như thế.

Thừa không phân biệt

Ĺa sự đùa bỡn,

Văn-thù hiểu rõ

Nên hỏi như thế.

Vốn không có lại

Cũng không có đi

Giống như Niết-bàn

Lời Văn-thù hỏi

Thực không được quả

Cũng không có nói

Chỉ dùng phương tiện

Dẫn dắt chúng sinh.

Xa ĺa âm thanh

Âm thanh một tướng

Văn-thù hiểu rõ

Nên hỏi như thế.

T́m cầu âm thanh

Không âm để t́m

Thanh vốn là không

Lời Văn-thù hỏi

Thanh ấy như gió

Không chỗ nương tựa

Thanh tức giải thoát

Lời Văn-thù hỏi

A-nan lắng nghe

Lời Văn-thù hỏi

Phương tiện giác ngộ

Đều không thật có

Phật và giác ngộ

Có tiếng không thật

Cũng chẳng chốn nơi

Các pháp đều thế

Bồ-đề không sắc

Nhân duyên không sinh

Không có đến đi

Là các Phật nói

Vô vi vô tướng

Như không, chẳng thấy

Bồ-đề không nói

Lời Văn-thù hỏi

Phật khứ, lai, hiện

Tất cả đều thế

Trí không nơi chốn

Không nghe, không thấy

Tánh, tướng như thị

Hiển bày pháp giới

Chỉ là giả danh

Mở bày chân thật

Tu thí thanh tịnh

Giữ giới không lỗi

Nhẫn nhục bền chí

Chí cầu Bồ-đề

Tinh tấn không trễ

Tu thiền nhiếp tâm

Trí tuệ thanh tịnh

Để cầu Bồ-đề

Phật dùng phương tiện

Độ các thần thông

Chúng sinh không nương

V́ nói Bồ-đề

Phân rõ ba thừa

Bốn quả khác nhau

Dùng trí như thật

Tùy nên cứu đời

Hiện cõi năm trược

V́ người thấp kém

Đối đạo Nhất thừa

Kinh nghi không tin

Nên nói bốn quả

Mở bày La-hán

Từ cửa Thanh văn

Vào cửa Phật giáo

Nói số vô số

Nhân duyên khác nhau

Nhận rõ bốn Đế

Chứng các pháp tướng

Thanh văn, La-hán

Duyên giác, Bích-chi

Cùng được vô sinh

Đó là Bồ-tát

Hành Không, Vô tướng

Vô nguyện Tam-muội 

Vào cửa giải thoát

An trụ Niết-bàn

Đời khứ, lai, nay

Tâm không đắm nhiễm

Mở rộng mười phương

Vô sinh, vô vi

Pháp sâu như vậy

A-nan, Văn-thù

Phương tiện thưa hỏi

Sức tuệ vô tướng

Theo nẻo Nhất thừa

Biết pháp vô tướng

Cho nên hỏi Phật

Nay nói các quả

Ba đời b́nh đẳng

Biết không, vô tướng

Các tiếng vắng lặng

Không Bồ-đề Phật

Vô số hằng sa

Thế giới các Phật

Đến cầu Bồ-đề

Văn-thù triệu tập

Nghe các Phật ấy

Việc Bồ-tát làm

Muốn nói ba thừa

Đến cõi Ta-bà

Văn-thù thưa hỏi

Nhằm giải nghi hoặc

Phân biệt thừa, quả

Xin nói Bồ-đề

Dùng thần lực Phật

Cùng sức thệ nguyện

Nên nói ba thừa

Độ chúng sinh khổ

Khiến siêng tu tập

Văn-thù biện thuyết

Nói để cứu đời

Việc Bồ-tát làm

Ức ngàn vị trời

Cúng dường cứu đời

Kẻ tưởng các quả

An ủi nghi ngờ

Tỳ-kheo như vậy

Và Tỳ-kheo-ni

Thanh tín nam nữ

Ý tưởng tốt đẹp

Lời Văn-thù hỏi

Nhằm giải nghi hoặc

Các Bồ-tát ấy

V́ pháp nên đến.

Phẩm 2: TÍN HÀNH (Phần 1)

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ ấy xong, Tôn giả A-nan liền bạch Phật:

–Hôm nay Như Lai v́ Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi mà Chuyển pháp luân không thoái chuyển?

Phật dạy:

–Đúng thế!

A-nan lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Hôm nay Như Lai Chuyển pháp luân không thoái chuyển phải không?

Đức Phật dạy:

–Đúng vậy, này A-nan! Như Lai thật sự Chuyển pháp luân không thoái chuyển.

Tôn giả lại bạch Phật:

–Như Lai dùng phương tiện thế nào để nói về Tín hành, Pháp hành, tám bậc như thị? Cũng như nói về các quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Thanh văn, Bích-chi-phật. Đối với bốn chúng đệ tử đang nghe pháp, Như Lai đều nêu rõ các pháp Bồ-tát chăng? V́ sao Như Lai lại nói: V́ hạng chúng sinh thấp kém nên mới xuất hiện ở cõi đời năm trược, hạng chúng sinh ấy khó lãnh hội pháp Đại thừa.

Như Lai là Bậc Tự Tại, thành tựu phương tiện, nhận thấy chúng sinh hạng có tâm nguyện lớn th́ ít, mà hạng tâm niệm thấp kém th́ nhiều. Do vậy, v́ Thế Tôn biết rõ căn tánh của chúng sinh để mở bày Phật pháp, dùng phương tiện cứu độ, dùng vô lượng các pháp lành để giáo hóa chúng sinh, khiến họ diệt trừ các khổ, được biết sinh tử, ĺa các phiền não, khiến trụ nơi Chánh đạo, chứng Niết-bàn vô vi, cho tới đạt được Nhất thiết chủng trí.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Tôn giả A-nan:

–Bậc Đại Bồ-tát! V́ vô lượng, vô biên chúng sinh giúp họ phát sinh tin tưởng, hiểu biết các kiến giải về Phật pháp và pháp mà vô số các Đức Phật đã chứng biết. Các pháp ấy là không sắc, cho đến không thọ, tưởng, hành, thức, không tham nhiễm, không mê đắm, nên được gọi là tín hành.

Lại nữa, này A-nan! Bậc Đại Bồ-tát tin tưởng trí tuệ Phật tâm sinh vui mừng. Thế nào là trí tuệ? Trí tuệ là đều không thấy có thật pháp, v́ không thấy có thật pháp nên gọi là tín hành.

Lại nữa, này A-nan! Các vị Đại Bồ-tát không đắm nhiễm năm dục lạc, không ĺa bỏ lòng tin, nên gọi là Bồ-tát tín hành. Bậc Đại Bồ-tát lại nghĩ rằng: Bố thí pháp không thể nghĩ bàn cho các chúng sinh vẫn giữ tướng như thế, tin tưởng pháp th́ không thể nghĩ bàn như thế, đó gọi là Bồ-tát tín hành. Các vị Bồ-tát Ma-ha-tát luôn tạo được sự hoan hỷ, có thể xả bỏ cả thân ḿnh mà vẫn chưa cho là đủ, đối với mọi hoàn cảnh và nơi chốn đều không hề sinh ganh ghét giận dữ, các việc làm bố thí đều hồi hướng, hồi hướng mà cũng không có ý tưởng để cầu được Bồ-đề, v́ không hoại diệt công đức hồi hướng ấy nên gọi là Bồ-tát tín hành.

Lại nữa, này A-nan! Các vị Đại Bồ-tát luôn giữ lòng tin thanh tịnh, chánh niệm hướng về Phật, tâm không cấu uế và cũng tin là không hề bị cấu nhiễm, xem các pháp đều b́nh đẳng, không có chúng sinh, thọ mạng, ta, người, không có uẩn, giới, nhập, cũng tự ḿnh không mê đắm thọ mạng, nơi chốn, đó gọi là Tín hành giải thoát.

Các vị Đại Bồ-tát giáo hóa chúng sinh khiến họ kính tin Phật pháp, để điều phục tâm hồi hướng về Bồ-đề, cũng không chấp vào tướng của tâm. Nhận thức rõ về sáu giới, năm uẩn, mười hai nhập đều b́nh đẳng, đều đồng với pháp giới. V́ không phân biệt nên biết pháp giới không có tướng khác, đó là tin tất cả hành là vô thường, tất cả các hành là khổ, tất cả hành là không, tất cả hành là vô ngã. Đối với pháp ấy được năng lực trí tuệ. Tin bố thí, tin vào giới luật của Phật, không rơi vào cõi chỗ đùa bỡn, được năng lực Thiền định, tin vào cõi vắng lặng, đó gọi là Bồ-tát tín hành.

Các vị Đại Bồ-tát tuy giáo hóa chúng sinh thường tin vào sự vắng lặng nhưng không bám víu vào tướng chúng sinh, xem các chúng sinh đồng với giải thoát, khéo biết tất cả chúng sinh là vô tướng, đều đồng với pháp giới, chẳng thể nhận thức, cũng không phải chẳng nhận thức. V́ sao? V́ pháp giới tức là cõi tâm của tất cả chúng sinh, nên gọi là Đại Bồ-tát tín hành.

Lại nữa, này A-nan! Đại Bồ-tát xem tất cả chúng sinh là không thật có, không trụ, không diệt, tánh tướng vốn không. V́ vậy, chẳng hề thấy tất cả chúng sinh, cũng không thấy có nơi nương tựa, xem tất cả chúng sinh đồng giới cảnh giới Niết-bàn. V́ sao? V́ tất cả chúng sinh đều nhập vào “không giới”. Bồ-tát có khả năng khiến cho vô lượng chúng sinh như thế đều kính tin và hiểu rõ nên gọi là Đại Bồ-tát tín hành.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nói lại ý nghĩa vừa nêu nên nói bài kệ:

Chúng sinh kính tin

Thấy vô số Phật

Không đắm sắc tướng

Đó là Tín hành.

Tin tất cả pháp

Mở bày không tướng

Thành tựu giải thoát

Đó là Tín hành.

Thường tin chánh pháp

Ưa thích cầu Phật

Lúc nào sẽ đạt

Trí không nghĩ bàn

Xét rõ năm dục

Thật không đáng tin,

Được năng lực tin

Đó là Tín hành.

Niềm tin như thế

Rất là tốt đẹp

Phải tu pháp thí

Cúng dường Đại Tiên.

Thí không nghĩ bàn

Nên được tín biện

Không tâm thấp kém

Đó là Tín hành.

Xả bỏ tất cả

Thân ḿnh yêu mến

Nhưng không tưởng xả

Đó là Tín hành.

Bố thí tất cả

Chẳng hề ganh ghét

Ĺa tưởng Bồ-đề

Đó là Tín hành.

Tín tâm thanh tịnh

Dứt tất cả nhơ

Cũng không tuổi thọ

Đó là Tín hành.

Tuy tu hạnh thí

Chẳng cầu quả báo

Được sức tin sâu

Đó là Tín hành.

Xả bỏ sáu nhập

Chẳng nghĩ quả báo

Khéo hiểu sáu giới

Đó là Tín hành.

Tự điều phục ḿnh

Và điều phục người

Khiến tin Phật pháp

Đó là Tín hành.

Được niềm tin rồi

Hồi hướng Bồ-đề

Dứt những tướng tâm

Đó là Tín hành.

Biết rõ sáu giới

Đều đồng pháp giới

Tuy nói pháp giới

Chẳng đạt tướng giới.

Các hành vô thường

Khổ, không, vô ngã

Cũng không mê đắm

Đó là Tín hành.

Kính tin giới Thánh

Dứt mọi đùa bỡn

Thành tựu thiền định

Đó là Tín hành.

Tin các chúng sinh

Cùng tướng vắng lặng

Biết vô tướng rồi

Đó là Tín hành.

Chẳng đắm chúng sinh

Cùng nhập pháp giới

Cõi chúng sinh này

Không thể nghĩ bàn

Dùng tín sinh tín

Đó gọi là tín

Bồ-tát vô úy

Đó là Tín hành.

Chúng sinh quyết định

Dứt hết các tưởng

Thể tánh như không

Không chỗ, không chứng

Chúng sinh, Niết-bàn

Cả hai đều không

Nương đó tín sinh

Đó là Tín hành.

Bồ-tát không sợ

Tin các chúng sinh

Không bám tên chữ

Từ tin mà sinh

Tin được như vậy

Thường nhớ chẳng mất

A-nan nhớ ghi

Phân biệt chỉ rõ.

Các pháp như thế

Vô lượng, vô số

Phật đã chứng ngộ

Bồ-tát hiển bày.

Lại nữa, này A-nan! Như Lai Đa-đà A-già-độ đầy đủ tín lực mới có thể giảng nói ý nghĩa sâu mầu như thế. Cho nên gọi là Đại Bồ-tát Tín hành.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn thấy chúng sinh tín lực đã được vững chắc, nên lại nói bài tụng:

Tất cả người nghe

Tâm đều vui mừng

Các Phật tử này

Nói về công đức,

Bồ-tát hiện rõ

Chẳng thể nghĩa bàn

Bồ-đề các Phật

Người chẳng tín tin

Chẳng nhiễm giả danh

Cũng không tâm sở

Chẳng đắm mười phương

Gọi Tín tối thắng.

Bồ-tát bày nói

Thường tu pháp tin

Chẳng chấp vào không

Nêu bày vắng lặng

Cứu đời nên nói

Giải thoát như vậy

Sắc tướng cũng thế

Như thuyết tu hành.

Bồ-tát bày nói

Người trí kính tin

Phật chẳng thể bàn

Vô lượng nhớ nghĩ

Điều Bồ-tát tin

Hư không vô biên

Trí Phật vô lượng

Hiệu là Trượng phu.

Chí cầu không đắm

Chẳng v́ tham dục

Tạo tác chẳng lành

Mà bỏ pháp vui

Đó gọi Bồ-tát

Thực hành pháp thí

Tín của Bồ-tát

Thiện Thệ ấn chứng.

Pháp thí chẳng nghĩ bàn

Tín bố thí uống ăn

Ma-ni, vàng, voi, ngựa

Tất cả xe, nô tỳ

Vợ con các nam nữ

Xả thí luôn cõi nước

Tay, chân, các bộ phận

Đầu mắt và não tủy

Mắt tai và mũi miệng

Thắng tín của Bồ-tát

Xả thân không đắm nhiễm

Hành thí cũng không nghĩ

Ta vốn tu Pháp thí

Mong đạt trí tuệ Phật

Xả thân không đắm nhiễm

Tất cả thí vui mừng

Luôn gần gũi bạn lành

Xả bỏ thân mỏng manh

Đối với các chúng sinh

Tín tâm thường thanh tịnh

Nghe pháp, tin các Phật

Đó gọi là Bồ-tát

Biết mắt, tai, mũi, miệng

Các căn đều vô thường

Mỏng manh như bọt nổi

Tín sâu nên bỏ thân

V́ chúng sinh không nương

Lập ra bốn Nhiếp pháp

Tâm Từ với tất cả

Tin Phật vô lượng trí

Thấy chúng sinh làm ác

Nên phát tâm vô thượng.

Kính tín sâu Bồ-đề

Không chấp các tướng tâm

Chúng sinh chẳng cầu đạo

Ngu mê trong ba cõi

Nếu tất cả chân thật

Vô giới nói tướng giới

Thấy chúng sinh trôi lăn

Ngu si đắm các cảnh

Bồ-tát tin vô ngã

Các hành đều vô thường

Thấy những kẻ phá giới

Tin giới chẳng nghĩ bàn

Giới tịnh lập thiền định

Bồ-tát nương nhiếp tâm

Nếu thấy kẻ biếng nhác

Cầu Phật sức tinh tấn

Các chánh định điều phục

Trí thâu tóm chánh pháp

Ngu si đắm tuổi thọ

Xem ấm vốn là không

Tánh chúng sinh vắng lặng

Tướng các pháp cũng vậy

Tin ấm không đi đến

Nghiệp thiện, ác chẳng dứt

Do nghiệp tịnh, bất tịnh

Chẳng xa ĺa sinh tử

Chúng sinh, đồng pháp giới

Pháp giới tức sinh tử

Đó gọi chẳng nghĩ bàn.

Tin Bồ-tát không sợ

Thắng tín chẳng nghĩ bàn

Tinh tấn tu pháp trí

Không v́ kẻ thiếu trí

Nên v́ tịnh tín nói

Cùng tin các chúng sinh

Thường trụ không thật có

Đối không, chẳng mê đắm

Tất cả pháp chẳng trụ

Chúng sinh không cũng không

Đồng như cõi Niết-bàn

Nói pháp thường vô tướng

Khiến chúng sinh tin, hiểu

Tất cả pháp tánh không

Quán chúng sinh b́nh đẳng

Thắng trí trong ba cõi

Được tín, tŕ như thế

Cũng gọi tín trên hết

Ưa thích pháp không sợ

Người trí trong Phật pháp

Tự tin, khuyên người tin

Xoay vần dạy như thế

Nuôi lớn các công đức

Tâm tịnh không đắm nhiễm

Ruộng phước thêm lợi ích

Vui mừng điều phục Thí

Tịnh giới và Nhẫn nhục

Tinh tấn, Thiền định thảy

Dùng Trí tuệ dẫn đường

Phương tiện bày tịnh trí

Khiến chúng được an vui.

Khi chết ĺa nẻo ác

Trí Bồ-tát trên hết

Thần thông độ muôn loài

Thế giới rung sáu cách

Ánh sáng đều chiếu khắp

Trí mầu của Bồ-tát

Vô tướng, sư tử rống

Khắp Đông, Tây, Nam, Bắc

Bốn góc và dưới, trên

Đều nói ra Pháp âm

Thề không nghi ngờ Phật

Dạy người cũng không nghi

Do nhân duyên như thế

Hiển bày vô lượng tướng

Người trụ trong trí ấy

Chỉ Phật chứng biết được.

KINH PHÁP LUÂN KHÔNG THOÁI CHUYỂN

QUYỂN 1    QUYỂN 2    QUYỂN 3    QUYỂN 4

KINH PHÁP LUÂN KHÔNG THOÁI CHUYỂN

Hán dịch: Không rõ tên người dịch, Đại sư Tăng Hựu đời Lương sao lục.

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 2

Phẩm 2: TÍN HÀNH (Phần 2)

Này A-nan! Đó là Như Lai Chánh Đẳng Chánh Giác đã v́ các vị Bồ-tát mà dùng phương tiện như thế để giảng nói về Tín hành.

A-nan thưa:

–V́ sao Như Lai lại v́ các Bồ-tát mà nói về pháp hành?

Phật bảo A-nan:

–Nay ông nên biết! Các vị Đại Bồ-tát không trụ trong Phật pháp nhưng có khả năng hiển bày không ĺa pháp giới, rốt ráo không nghĩ bàn giới; thọ tŕ các pháp tâm không thấp hèn, tuy giảng nói các pháp nhưng đối với tướng các pháp không hề chấp đắm, vô niệm vô trụ; thâu tóm các pháp, đúng với thật tướng thật tánh của chúng, không chấp các pháp, không ĺa bỏ phi pháp, không ưa thích các pháp mà cũng chẳng phải không ưa thích các pháp.

Các Đại Bồ-tát tuy được như vậy nhưng đã ĺa tướng các pháp, nhờ khéo điều phục, nên tâm thường an vui, khéo nói các pháp không hề bị nhiễu loạn, đối với tướng các pháp không ĺa bỏ thân mà cũng không trụ thân, mé trước của thân này đồng với pháp giới, như hư không chẳng đi chẳng đến, đồng với mé chân, như như tướng. Đó là chỗ Phật nói về việc Bồ-tát đã chứng đạt các pháp thanh tịnh, dứt tất cả cấu nhiễm, quán tất cả pháp không, không thể nh́n thấy, chẳng thể nắm bắt. V́ sao? V́ các pháp là không, đã ĺa bỏ, không mê đắm cho nên không thấy các pháp. Không thể nắm bắt, không có tranh chấp. Hiển bày pháp giới vô ngôn, vô thuyết. Thể tánh vốn không, chỗ tâm vọng động đều vắng lặng. Tâm này không thật có cũng chẳng thể nghĩ bàn, chỉ lộ rõ tánh chất vắng lặng, không duyên theo cảnh giới, giữ ǵn các pháp, không hề nương tựa. V́ sao? V́ tất cả các pháp đều vô thể vô tướng. Pháp Bồ-tát này là nhất tướng, vô tướng, không thể khen ngợi, không sợ nói pháp. Nếu nói pháp tướng, danh tự, tất cả chương cú cho người nghe th́ bản thân ḿnh đã tự chứng, đầy đủ pháp ấy gọi là chủng tánh Đại Bồ-tát. Đạt được thể tánh ấy rồi th́ đối với các pháp không còn có đến, có đi, không còn nắm bắt hay ĺa bỏ, giữ ǵn tất cả pháp nhưng bất động, bất hoại, v́ bất hoại nên gọi là pháp hành, v́ thành tựu pháp nên luôn thấy tất cả các pháp là vô tướng, v́ được pháp lợi nên cũng gọi là pháp hành.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:

Pháp không thoái chuyển

Các Phật cũng vậy

Nếu giữ ǵn được

Đó là Pháp hành.

Nêu rõ Phật pháp

Không h́nh, không tướng

Rất sâu, không nhiễm

Đó là Pháp hành.

Chẳng ĺa các cõi

Không thể nghĩ bàn

Hội nhập pháp giới

Đó là Pháp hành.

Giữ ǵn các pháp

Như Phật hiển bày

Tâm không vết nhơ

Đó là Pháp hành.

Pháp không thoái chuyển

Tên là Vô tướng

Dứt mọi bám vướng

Không còn mê đắm

Đó gọi Pháp hành.

Không chấp, không trụ

Thọ tŕ pháp trí

Người tŕ như thế

Đó là Pháp hành.

Tâm thường yêu thích

Cầu pháp không chán

Xa ĺa biếng nhác

Đó gọi Pháp hành.

Nghe pháp thọ tŕ

Vô lậu, chẳng nương

Khéo trụ an vui

Đó gọi Pháp hành.

Nếu người nói pháp

Chẳng nghĩ, chẳng đắm

Thọ tŕ vô tướng

Đó gọi Pháp hành.

Thân khéo an trụ

Trụ nơi không chốn

Là thân, chẳng thân

Là biết thân tướng.

Không mé trước sau

Đồng với Pháp tánh

Không đến, không đi

Là biết thân tướng.

Cũng như các Phật

Thị hiện Bồ-tát

Được pháp ấy rồi

Đó là Pháp hành.

Tánh, tướng cõi không

Tất cả không đắm

Giữ ǵn như vậy

Đó gọi Pháp hành.

Lại đối các pháp

Không, vô sở kiến

Nếu vô sở kiến

Th́ không chướng ngại.

Hiển bày vô tướng

Dứt các hý luận

Không lời, không nói

Cũng không thật có

Ĺa các tướng tâm

Nên không thật có

Nếu tâm vô đắc

Th́ chẳng nghĩ bàn

Không đến, không đi

Không chẳng hiển bày.

Không duyên, không nói

Gọi chẳng nghĩ bàn.

Nếu tŕ pháp này

Không thể nương tựa

Là không thật có

Gọi là giữ pháp.

Pháp như thế ấy

Do Bồ-tát nói

Không hợp, không tan

Hiển bày vô tác.

Gọi là Hành xứ.

Là nơi chủng tánh

Được lợi như thế

Gọi là Hành xứ.

Theo chủng tánh ấy

Không thể chê trách

Được cõi như thế

Đó gọi giữ pháp.

Thấy pháp không giảm

Tuy đi không đi

Đến mà chẳng đến

Chẳng thấy có pháp.

Hoặc đến, hoặc đi

Các pháp cũng vậy

Giữ pháp như thế

Cũng không dao động.

Chẳng thêm, chẳng bớt

Là pháp vô tác

Nếu không thêm, bớt

Đó gọi giữ pháp.

Tướng pháp như như

Không duyên, không nói

Người được pháp này

Gọi là giữ pháp.

V́ vậy, A-nan!

Bồ-tát hiển bày

Được lợi pháp sâu

Đó là giữ pháp.

V́ vậy, A-nan!

Hiển bày giữ pháp

V́ kẻ chẳng tin

Mà nói pháp ấy.

Phân biệt như thế

Nói cho Bồ-tát

Đều dùng phương tiện

Mở bày Phật pháp.

Như thế đấy, A-nan! Như Lai Chánh Giác v́ các vị Đại Bồ-tát mà dùng phương tiện để nêu rõ việc giữ pháp.

Phật bảo A-nan:

–Do đâu mà Như Lai v́ các Đại Bồ-tát nói về tám pháp Chánh đạo? Là v́ các vị Đại Bồ-tát đã ĺa bỏ tám con đường tà để hướng đến tám con đường giải thoát, vượt khỏi đời sống phàm phu, tu tập tám Chánh đạo nhưng không thấy nơi chốn ḿnh đạt tới, xa ĺa hai bên thường đoạn, an trụ trong Trung đạo, vượt thế giới phàm tục, an trụ trong Bồ-đề, cũng không trụ trong tướng Bồ-đề, ĺa bỏ các tà kiến, tu tập chánh kiến, không bám vào thân tướng, cũng không trụ trong tướng Bồ-đề. Thân Phật là vô vi, ĺa những khái niệm tính toán, tu theo tướng Phật tức là đạt được diệu lý Nhất tướng vô tướng đối với chúng sinh, ra khỏi ấm giới sinh tử của chúng sinh, an trụ trong ngôi nhà vô vi rốt ráo không, thấy tất cả pháp là vô sinh vô trụ. V́ sao? V́ thể tánh và tướng trạng của các pháp đều là vô trụ.

Đại Bồ-tát xa ĺa thế gian và xuất thế gian, an trụ trong chốn vắng lặng, không nhiễm thế gian, cũng không mê đắm con đường xuất thế gian. Đối với pháp, phi pháp, hữu vi, vô vi đều xa ĺa, xả bỏ hai bên thường và đoạn, trụ trong tướng b́nh đẳng, biết tâm sở quá khứ, vị lai, hiện tại, không có tướng khác, cũng không được tướng của tâm Bồ-đề. V́ sao? V́ tất cả tâm đều b́nh đẳng. Thân tướng cũng thế. V́ thế mà không hề bị các thứ lửa dữ, đao tên làm tổn hại thân mạng. V́ sao? V́ đã ĺa tất cả phiền não độc hại, thường được sinh vào các cõi thanh tịnh, xa các đường ác, tuy sống trong các đường mà vẫn chứng đạo Bồ-đề, thường sống trong an ổn, cũng không nương tựa. V́ ý nghĩa như thế nên tất cả các thứ đao binh không thể hại được. V́ sao? V́ thấy Bồ-đề vắng lặng là không, vô trụ xứ, v́ vô trụ xứ nên tất cả tên độc đều không hại được. Đó gọi là không bị trói buộc.

Bậc Đại Bồ-tát đi trên cỗ xe nhanh nhất mà không chấp vào cỗ xe ấy, đó gọi là không bị trói buộc. V́ sao? V́ không thật có, do đó mà đao tên không hại được thân. Rõ các pháp là không, chẳng thật có cho nên tất cả thứ độc hại đều không thể xâm hại. V́ sao? V́ hành tâm Từ rộng khắp che phủ tất cả. Thực hành tâm Từ Bồ-đề thấy các chúng sinh là không thật có; thực hành tâm Từ theo lý không thấy các pháp vắng lặng; thực hành tâm Từ không nóng bức xa ĺa các phiền não; thực hành tâm Từ bi như vậy có công năng làm cho đao binh đều không hại thân được.

Đại Bồ-tát xem ba cõi Dục, Sắc và Vô sắc đều b́nh đẳng, biết tất cả các cõi, tất cả pháp tánh đồng với Bồ-đề, b́nh đẳng không có khác nhau. Các vị Đại Bồ-tát tâm không suy nghĩ như thế, cũng không đùa bỡn, vắng lặng thanh tịnh. Bậc Đại Bồ-tát biết tất cả pháp như âm vang tiếng gọi, ĺa tất cả tướng, đồng với pháp giới, không nơi hướng tới mà cũng không chốn quay về, khéo hiểu các thứ âm thanh lời nói, không nêu bày, không nói năng, ĺa tướng âm thanh, chẳng tự đề cao ḿnh, ĺa bỏ ngã tưởng, vượt qua tất cả lời nói, âm thanh mà cũng không chấp vào tướng vượt qua ấy. Cho nên biết tất cả các pháp đều vắng lặng, tất cả pháp tướng cũng không thật có, tâm không có chốn để quay về v́ đã vượt qua các pháp. Đối với mọi ngôn ngữ, âm thanh cũng không bị đắm nhiễm.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:

Ĺa tám đường tà

Tu tám nẻo chánh

Chín thứ, tám giải

Đó là tám bậc.

Vượt khỏi phàm phu

Chẳng trụ Bồ-đề

Bậc Hùng trong pháp

Đó là tám bậc.

Vượt khỏi phàm phu

Không trụ Bồ-đề

Ĺa tướng Bồ-đề

Đó là tám bậc.

Bỏ các tà kiến

Tu hành chánh kiến

Đạt được đạo rồi

Đó là tám bậc.

Vượt các thân tướng

Chẳng trụ Bồ-đề

Ĺa chứng thân Phật

Đó là tám bậc.

Ĺa tưởng chúng sinh

Thường tu tưởng Phật

Bỏ tưởng thiền định

Đó là tám bậc.

Ĺa hạng chúng sinh

Vào thành Niết-bàn

Không chấp các pháp

Đó là tám bậc.

Ra khỏi thế gian

Mở bày đạo Thánh

Về cõi tịch diệt

Đó là tám bậc.

Ĺa các thế gian

Nêu tướng Phật pháp

Tâm không sở chứng

Không có bờ hữu

Đó là tám bậc.

Cũng không cõi vô

Xa ĺa hữu vô

Đó là tám bậc.

Vắng lặng vô vi

Bỏ cả đoạn thường

Vào sâu b́nh đẳng

Đó là tám bậc.

Tâm rời quá khứ

Luôn cả vị lai

Hiện tại cũng thế

Đó là tám bậc.

Nói có sơ tâm

Cầu nẻo Bồ-đề

Tướng tâm vốn không

Ǵ gọi Bồ-đề?

Không đến, không đi

Cũng không Bồ-đề

Độc, lửa, đao, tên

Không thể hại được,

Dứt hẳn các đường

Ĺa hẳn nương tựa

Không đến, không đi

Nên không hại được,

Không hướng Bồ-đề

Bày nói âm thanh

Tự chứng như thật

Chẳng do người dạy,

Không được đường ấy

Và chẳng phải đường

Tiếng niệm, niệm dứt

Đại thừa mau bày,

Thường nói an ổn

Pháp không bậc nhất

Nên mau chứng được

Đó là không buộc.

Mau nương pháp này

Bồ-tát giảng nói

Tâm không ĺa bỏ

Đó là không buộc.

Đao, binh, nẻo ác

Không bức hại được

Thân không sợ ǵ

Độc chẳng hại được.

Bồ-tát hành Từ

Cùng khắp tất cả

Ĺa bỏ tranh chấp

Đó là không buộc.

Không chấp thân tướng

Khéo nhận rõ thân

Đến đạo giác ngộ

Từ bỏ nẻo ác,

Dứt bỏ ngu si

Thần thông tự tại

Được Bồ-đề sáng

Đó là tám bậc.

Biết cõi Dục, Sắc

Và cõi Vô sắc

Ba cõi đồng tướng

Đó là tám bậc.

Các cõi b́nh đẳng

Ĺa não, Bồ-đề

Vọng tưởng không trí

Chẳng nhiễm ô được,

Ĺa tất cả tướng

Không có chê bai

Nếu có nói năng

Đều hướng pháp giới

Nói không chỗ hướng

Đồng với pháp giới

Tâm trụ pháp Nhẫn

Đó là tám bậc.

Nếu muốn tu hành

Trụ pháp vắng lặng

Chẳng tự đề cao

Chỉ nói cho người,

Vượt tướng âm thanh

Khỏi tướng âm thanh

Chẳng đắm âm thanh

Đó là tám bậc.

Nhờ thanh giải thoát

Biết pháp vô tướng

Cũng không ở đâu

Không hướng, không rời.

A-nan nên biết!

Tám bậc như thế

Đã nêu bày đủ

Ở trong các thuyết

Là bậc thứ nhất.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo A-nan:

–Nay ông nên biết! Như Lai Đẳng Chánh Giác v́ các Đại Bồ-tát nên dùng phương tiện để nói bày về tám bậc như vậy.

Tôn giả A-nan thưa:

–Do đâu mà Như Lai Thế Tôn giảng nói về quả Tu-đà-hoàn cho các vị Đại Bồ-tát nghe như thế.

Đức Phật dạy:

–Tu-đà-hoàn nghĩ là được vào dòng Thánh, gọi là Phật pháp chẳng thể nghĩ bàn. Nếu các vị Đại Bồ-tát có thể tu tập như vậy, không thấy đạo cùng nơi chốn ḿnh tu tập đạo ấy, vượt qua tất cả h́nh tướng, thông tỏ Phật pháp là phi sắc, phi sinh, đối với tất cả pháp không mê đắm, tất cả pháp không nơi chốn, tất cả pháp không nhân duyên, tất cả pháp vô trụ, tất cả pháp không thật có, tất cả pháp không thành tựu.

Nếu bậc Đại Bồ-tát đến được đạo ấy th́ tinh tấn vững chắc, thế lực vững chắc, trí tuệ vững chắc, không sinh biếng nhác, an trụ vắng lặng, nương đạo Như Lai, cứu giúp chúng sinh, không ǵ hơn được. 

Bậc Đại Bồ-tát không chấp đạo ấy, cũng không trụ đạo ấy, tu đạo như thế mong đạt được tất cả các pháp, nhưng không thấy có chỗ ḿnh đạt được, không ch́m đắm cũng không dao động: không có ý tưởng về trụ, không có ý tưởng về đạo, không có ý tưởng về thế gian, không có ý tưởng về Phật, xem tất cả đều b́nh đẳng, không hề có những sự ngăn che, trí tuệ quán chiếu các cảnh giới không trở ngại. 

Bậc Đại Bồ-tát đối với tất cả các pháp và các tà kiến đều an trụ trong tướng b́nh đẳng, khai mở tri kiến Phật, bày các pháp môn sâu rộng, phân biệt thân kiến, vượt khỏi vọng tưởng chấp ngã, đó gọi là Tu-đà-hoàn.

Đại Bồ-tát không chấp vào Phật đạo, rốt ráo vô ngại: ưa thích mong cầu Phật đạo nhưng không đắm giới luật, thế gian cũng không chấp vào giới luật của Phật, chẳng phải giới chấp là giới, không chấp tướng giới. Ba hoặc đã dứt, không vướng vào ba cõi, học hỏi theo lời Phật dạy, tu hành Thánh đạo, ĺa tất cả tưởng, không chấp các duyên, không các chướng ngại, nhập vào Phật đạo, tâm được vắng lặng, không mê đắm sự sống, về ta, người… các căn thanh tịnh, xa ĺa phiền não.

Bậc Đại Bồ-tát tu đạo Bồ-đề thực hành bố thí, xả bỏ tất cả, giúp chúng sinh khổ, vượt qua bốn dòng, đạt đến Niết-bàn, dứt hết các tưởng, hiển bày Vô tướng. Nếu thấy bốn chúng tâm không sinh sợ sệt, chí cầu vắng lặng, an trụ nơi đạo Bồ-đề thanh tịnh, đã ĺa sợ hãi, th́ không sợ sinh tử. V́ sao? V́ Đại Bồ-tát hiện chứng được vắng lặng, ĺa các phiền não cấu uế, khéo đứng vững trong Phật đạo, biết đường đến đi, cũng không còn đến đi, khéo nhận rõ những vọng tưởng của chúng sinh, tâm không đùa bỡn, rốt ráo Phật đạo. Đó gọi là tướng Tu-đà-hoàn của Đại Bồ-tát.

Phẩm 3: THANH VĂN, BÍCH-CHI-PHẬT

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:

Nói về bốn đường

Phật khó nghĩ bàn

Nếu có người trụ

Bồ-đề không lui,

Giống như hư không

Không chốn nương tựa

Không trụ không duyên

Ĺa các chấp đắm.

Đó gọi là đạo

Ý được vững chắc

Đi đúng nẻo ấy

Cứu đời hơn hết.

Không chấp kia đây

Chẳng ở giữa dòng

Chẳng đắm Phật đạo

Là Tu-đà-hoàn,

Tất cả thế gian

Cùng pháp Phật khác

Rốt ráo bờ kia

Là Tu-đà-hoàn.

Dứt những ngăn che

Nêu bày Phật đạo

Dứt tất cả tướng

Gọi Tu-đà-hoàn.

Chẳng đề cao ḿnh

Làm thạnh Phật pháp

Mở bày tri kiến

Vào trí tuệ Phật.

Trước khởi tưởng ngã

Các ác điên đảo

Biết như thế rồi

Không đắm Phật đạo.

Vốn nghi ngờ Phật

Là được, không được

Rốt ráo không đắm

Chẳng chấp tưởng đạo.

Chẳng khởi chấp giới

Khéo trụ giới Phật

Thường tu Chánh cần

Chẳng chấp tưởng giới.

Dứt bỏ ba kết

Không đắm ba cõi

Thực hành Phật đạo

Biết tưởng chúng sinh.

Tuy tu Bồ-đề

Nhưng không chấp tưởng

Tâm hành vắng lặng

Phật đạo thanh tịnh.

Vui vẻ bố thí

Xa ĺa ưu sầu

Trụ trong chánh mạng

Tâm không đùa bỡn

Xả bỏ tất cả

Giúp chúng sinh khổ

Đạt thí Vô thượng

Gọi Tu-đà-hoàn.

Dứt bao nhiêu kiếp

Không tướng, không chấp

Ĺa xa sợ hãi

Nỗi sợ thế gian.

Pháp và phi pháp

Tất cả đều xả

Chẳng đắm các ấm

Bậc sáng ở đời.

Ở trong bốn chúng

Không hề sợ sệt

Hiển bày vắng lặng

Tịnh tu Phật pháp.

Không tưởng chúng sinh

Cũng chẳng thật tưởng

Đó gọi không nhiễm

Nhận rõ lo sợ

Ĺa tất cả sợ

Cũng không sợ chết

An trụ vắng lặng

Ĺa cấu, an ổn.

Đã qua nẻo ác

Do đó chẳng sợ

Khéo nói các đạo

Vô lậu, vô tướng.

Pháp của Bồ-tát

Bày Tu-đà-hoàn

V́ hạng thấp kém

Nên nói lời ấy.

Dùng phương tiện khéo

Hiển bày Phật pháp

V́ người buông lung

Nên bày pháp này

Thế Tôn cứu đời

T́m nhiều cách nói

Mà nêu Phật đạo.

A-nan nên biết!

Là Tu-đà-hoàn

V́ kẻ trí nhỏ

Nói việc như vậy.

Chẳng hiểu phương tiện

Ngu si hẹp hòi

Chẳng thấu pháp sâu

Mà sinh tranh luận.

Dùng trăm ngàn pháp

Bày Tu-đà-hoàn

Bậc Tu-đà-hoàn

Bày pháp Bồ-đề.

Như thế đấy A-nan! Như Lai Đẳng Chánh Giác v́ các vị Đại Bồ-tát đã dùng phương tiện khéo để nói về Tu-đà-hoàn.

Tôn giả A-nan thưa:

–Do đâu mà Như Lai Đẳng Chánh Giác v́ các vị Đại Bồ-tát nói về Tư-đà-hàm? Đức Phật nói:

–A-nan nên biết! Bậc Đại Bồ-tát thuận theo trí tuệ, trí tuệ Phật không thể nghĩ bàn, tu tập vô lượng nhân lành, nhưng không chấp vào tướng các nhân ấy, cũng như trí Bồ-đề, có khả năng dứt bỏ tất cả vọng hoặc để cầu trí tuệ Phật, khen ngợi chánh định Kim cang vượt trên tất cả các thiền định, dứt bỏ tất cả kết sử phiền não mê lầm ngăn che để hội nhập tri kiến của Phật, đạt được đầy đủ các pháp chánh quán b́nh đẳng mà tất cả Phật đã chỉ dạy, dùng vô lượng nhân để cầu Vô sở đắc, như pháp Phật đã chứng đắc; bất động đối với chúng sinh, cũng bất động đối với thế giới chúng sinh mà chấp vào pháp giới. Vô lượng chúng sinh trải qua nhiều kiếp thường chịu thiếu kém, không có khả năng thành tựu đạo Bồ-đề, dắt dẫn các chúng sinh đến chỗ không còn thoái chuyển. 

Đại Bồ-tát chí cầu thành Phật, Căn, Lực, Giác, Đạo, Thiền định, Giải thoát gọi là Vô sắc định, nghĩ: “Nay ta sẽ đem các pháp như thế mở bày cho chúng sinh, khiến họ được thông tỏ và cầu Phật đạo, muốn ngồi đạo tràng, mong đạt trí tuệ như thật, mắt Phật thông đạt, là loại mắt không thể nghĩ bàn.”

Đại Bồ-tát v́ muốn làm lợi ích cho tất cả chúng sinh nên mong cầu mắt Phật, trí tuệ như vậy là cao tột hơn hết, thấu tỏ tướng sâu xa của các pháp, đối với trí tuệ của ḿnh không hề phân biệt. Đại Bồ-tát giúp chúng sinh đứng vững trong Phật pháp, giúp họ hiểu rõ tất cả pháp không dừng trụ, v́ muốn đạt được pháp ấy nên đến nhóm họp để nghe Phật nói pháp. Đó gọi là Tư-đà-hàm.

Những người đến nhóm họp thấy thế giới chúng sinh và cảnh giới không thể nghĩ bàn một cách thông suốt không trở ngại nên không chấp vào cảnh giới, cũng không đắc, không đến. Nhưng làm sao để chúng sinh thành tựu mà không thấy chúng thành tựu sinh? Đối với tất cả pháp và thế giới chúng sinh chẳng thấy, cũng chẳng phải chẳng thấy, nhờ vậy mà thấu rõ về chúng sinh, thông đạt pháp giới, rõ biết pháp giới, đồng với Bồ-đề hiểu rõ pháp giới và thế giới chúng sinh giới, vô lượng Phật đạo, không đắc không phân biệt, đồng với đạo trí, gần với Vô đẳng trí, ĺa tất cả cấu nhiễm được thanh tịnh, đắc Vô sở đắc chứng Vô sở chứng, đó là trí tuệ chân thật. Đại Bồ-tát mong cầu trí tuệ như thế gọi là Tư-đà-hàm.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:

Người thuận theo trí này

Gọi là không nghĩ bàn

V́ cầu trí tuệ Phật

Nên gọi Tư-đà-hàm.

Vô lượng nhân duyên nói

Thành tựu đạo Bồ-đề

Nhờ tu hành pháp này

Ta thường qua lại t́m.

Tướng chánh định bất động

Dứt bỏ kiết phiền não

Nên chuyên tâm tu tập

Thành tựu không thoái chuyển.

Cũng biết pháp, phi pháp

Tướng thông đạt vô ngại

Trụ mé thật các pháp

Tu hạnh Tư-đà-hàm

Thuận theo lời Phật dạy

Như nghe pháp tu hành

V́ đạt được pháp ấy

Ta thường qua lại t́m

Pháp giới chưa từng có

Các chúng sinh chẳng động

Đó là Tư-đà-hàm

Không có việc đến, đi

Chúng sinh không trí tuệ

Ngu si chịu khổ não

V́ muốn đưa đến đạo

Mà cầu trí tuệ Phật

Các Căn, Lực, Giác, Đạo

Thiền định và Giải thoát

Siêng tu pháp Chánh định

Mà cầu trí tuệ Phật

Rốt ráo đạo Bồ-đề

Việc làm của các Phật

Đó là Tư-đà-hàm.

Khởi hạnh thường mong cầu

Đạt được pháp như thế

Mắt Phật khó nghĩ bàn

Đó là Tư-đà-hàm.

Thường cầu được mắt Phật

Nên cầu được như Phật

Làm chỗ giúp, nương tựa

Điều ta nay mong cầu

Chính là Nhất thiết trí

Chỗ biết của trí ấy

Tướng các pháp chân thật

Tâm thường không đắm nhiễm

Thường cầu pháp như vậy

Lợi lạc các chúng sinh

Nhất thiết trí trên hết

Đó gọi Tư-đà-hàm.

Chỗ mong cầu qua lại

Quán kỹ về pháp giới

Chúng sinh không nghĩ bàn

Đó gọi Tư-đà-hàm.

V́ cầu cõi chúng sinh

Biết cõi chúng sinh rồi

Không mê đắm chúng sinh

Đó gọi Tư-đà-hàm.

Mà đạt Vô sở đắc

Nên chúng sinh chẳng đạt

Tất cả pháp vô tướng

Tạo được nhận thức ấy

Biết rõ được như thế

Dẫn dắt các chúng sinh

Tuy quán tất cả pháp

Chẳng thấy tướng quán sát

Giữ tâm không loạn động

Mà cầu các pháp Phật

Trí thanh tịnh như thế

Xa ĺa tất cả cấu

Không được tướng trí ấy

Đó gọi là cầu đạo

Mở bày các chúng sinh

Điều Bồ-tát không chê

Đó gọi trí rốt ráo

Mong được trí nên đến.

A-nan phải nên biết

V́ nói Tư-đà-hàm

Các chúng sinh trí kém

Vọng chấp tướng phải quấy.

A-nan ông nên biết

V́ nói Tư-đà-hàm

Giúp chúng sinh tinh tấn

Khiến họ hiểu như vậy.

Luôn khéo tu học rộng

Quyết định pháp sâu xa

Tỏ ngộ nghĩa chân thật

Chóng thành đạo Bồ-đề.

Này A-nan! Đó gọi là Như Lai Đẳng Chánh Giác v́ Đại Bồ-tát nên dùng phương tiện nói về Tư-đà-hàm.

Tôn giả A-nan thưa:

–V́ sao gọi là Như Lai Đẳng Chánh Giác v́ các Đại Bồ-tát nói về A-na-hàm?

Phật bảo A-nan:

–Các vị Đại Bồ-tát đều ra khỏi tất cả tướng thế gian, rốt ráo hạnh Phật, tâm không hành xứ, tuy biết có đến đi, nhưng thường không chấp vào tướng đến đi, biết tất cả pháp không nương tựa, không an trụ. V́ sao? V́ chẳng thấy các pháp có đi không đi. Đại Bồ-tát vượt khỏi phàm phu, dứt ý tưởng phàm phu, không đắm mê Phật tưởng, đạt được pháp vô trụ. V́ sao? V́ rốt ráo tất cả pháp giới vắng lặng, cũng không thấy sự khác nhau giữa Phật và phàm phu. Xa ĺa đường ác, dứt bỏ tham dục, không đắm các vị, xa ĺa bốn thứ thực. 

Đại Bồ-tát luôn chú tâm đến việc mở bày tri kiến Phật cho chúng sinh, không chấp tất cả sáu mươi hai thứ kiến chấp, không đắm vô tướng, tất cả ĺa hữu, vô, đối với các thứ ngăn che đều xem là tướng của Niết-bàn, không lưu chuyển cũng chẳng không lưu chuyển, dứt bỏ những cấu uế của các đường ác, hàng phục các ma, xa ĺa ngu si, nhổ sạch ba mũi tên vô minh, và những hạt giống vô minh, giết giặc vô minh, quán chiếu dứt bỏ tham lam giận dữ, dứt bỏ các kết sử, mở bày cho chúng sinh trong ba cõi.

Đại Bồ-tát nhổ mũi tên ái dục, dứt bỏ các kiêu mạn, hiểu rõ tướng các ấm, đạt đến rốt ráo là cõi giác ngộ trong sáng, thường ưa thích Phật thừa, là thừa không thể nghĩ bàn, đạt đến thật tướng của tất cả các pháp. Nếu các vị Đại Bồ-tát ra khỏi được vũng bùn sinh tử như thế, ĺa tất cả trói buộc tham đắm, được kho báu bản nguyện, cũng được kho báu của các Đức Phật quá khứ, vị lai, đều nằm trong tất cả kho báu, cũng là chỗ xây dựng của các Phật quá khứ. Tâm luôn b́nh đẳng, không phân biệt cao thấp. Đạt được thừa như vậy, đối với các chúng sinh là Bậc Tối tôn Tối thắng bậc nhất không ǵ hơn được. 

Đại Bồ-tát luôn nhằm đạt đến Phật thừa rốt ráo, đối với tất cả các pháp đều đạt đến diệu lý vô tướng. Đại Bồ-tát đối với các pháp dứt trừ được lưới nghi, chứng quả Bất hoàn. 

Lại nữa, này A-nan! Đại Bồ-tát thường dùng bốn thệ nguyện lớn để che chở, giúp đỡ tất cả chúng sinh, dẫn dắt họ đến chánh pháp và đứng vững trong chánh pháp, tất cả đều đến được Phật thừa, sống trong đạo Bồ-đề. Làm thế nào ở an trụ trong Bồ-đề? Cái gọi là tướng chúng sinh, th́ giác ngộ như thật, an trụ trong thế giới chúng sinh. V́ sao? V́ Đại Bồ-tát đã khéo biết, Không giới là cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, ĺa các vọng tưởng về chúng sinh. V́ sao? V́ cảnh giới Hiền thánh tức là cảnh giới chúng sinh, cảnh giới không thể nghĩ bàn tức là không tướng, cũng không có chúng sinh, ĺa các kết sử, giống như hư không, không h́nh không tướng, không thật có, không nhiễm không đắm, biết tất cả chúng sinh đều b́nh đẳng, chẳng hiện chẳng mất, giác ngộ rốt ráo, ĺa tướng chúng sinh, cũng như hư không, không có nơi chốn giác ngộ. V́ sao? V́ không có pháp nào có thể đạt được. Vô đắc như vậy chính là tướng tất cả pháp và tướng chúng sinh, điều tâm giác tỏ ngộ tức là chẳng phải tỏ ngộ. V́ sao? V́ không có pháp nào thật có. Vô đắc như thế tức là Vô chứng, cho nên gọi là A-na-hàm. Tất cả chúng sinh, tất cả pháp, Phật, Pháp, Tăng… đều hiện ra các tướng như vậy, gọi là A-na-hàm. Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói kệ:

Chẳng hề trở lại

Dứt pháp phàm phu

Bỏ hành thế gian

 Gọi A-na-hàm.

Biết không đến, đi

Không trụ, không nương

Không có nơi chốn

Nên gọi Bất lai

Ĺa bỏ phàm phu

Được Phật cứu giúp

Không còn trở lại

Gọi A-na-hàm.

Pháp không có đến

Cũng chẳng có đi

Chẳng đến chẳng đi

Gọi A-na-hàm.

Dứt các tham dục

Không đắm bốn thực

Chẳng rời đạo tràng

Gọi A-na-hàm.

Dứt bỏ tất cả

Sáu mươi hai kiến

Mà không chốn đi

Gọi A-na-hàm.

Ĺa tất cả cõi

Tướng vô thường tâm

Tỏ ngộ như thật

Nên gọi Bất lai

Niết-bàn vắng lặng

Dứt các phiền não

Ĺa tướng đến, đi

Đó là Bất lai.                                     

Dứt các đường ác

Bỏ tất cả cấu

Chứng đắc Niết-bàn

Đó là Bất lai.

Hàng phục kẻ thù

Cùng các ma quân

Vượt các giả danh

Đó là Bất lai.

Nhổ tên vô minh

Dứt tất cả ái

Dứt mọi hỷ, dục

Đó là Bất lai.

Ĺa các kết sử

Mở bày tướng ấm

Được trí quyết định

Là A-na-hàm.

Nhổ gai ưu não

Xô núi kiêu mạn

Khéo hiểu năm ấm

Gọi A-na-hàm.

Rốt ráo chiếu sáng

Trang nghiêm Phật thừa

Ra khỏi bùn dục

Gọi A-na-hàm.

Đều biết kho kín

Trên các kho kín

Chỗ Phật đặt để

Gọi là Bất lai.

An trụ Tối thắng

Phật thừa Vô thượng

Dứt bỏ các kết

Gọi A-na-hàm.

Dùng bốn nguyện rộng

Tạo dựng Bồ-đề

Trụ Bồ-đề rồi

Nên gọi Bất lai.

Biết các cõi không

Rất khó nghĩ bàn

Dứt bỏ các tưởng

Nên gọi Bất lai.

Đối với chúng sinh

Và tướng pháp giới

Đều không thật có

Nên gọi Bất lai.

Tâm không chấp đắm

Chẳng chạy theo tướng

An trụ Bồ-đề

Gọi A-na-hàm.

Cõi chúng sinh không

Chẳng thể nghĩ bàn

Biết pháp như vậy

Nên gọi Bất lai.

Như thế A-nan

Hiển bày Na-hàm

Các tướng vô ngại

An lập Phật pháp.

–A-nan nên biết! Như Lai Đẳng Chánh Giác đã v́ các Đại Bồ-tát dùng phương tiện thích hợp để nói về A-na-hàm.

Phật bảo A-nan:

–Ta nay lại nói Đại Bồ-tát là A-la-hán. Là v́ Bồ-tát đã dứt bỏ tất cả các hành, tu tập theo những điều Phật đã thực hành, ĺa các pháp hữu vi, có khả năng thành thục tất cả chúng sinh, cũng dứt bỏ tất cả khổ não cho chúng sinh nên gọi là A-la-hán. 

Không vướng vào tướng chúng sinh, cũng không vướng vào tướng khổ não, đó gọi là A-la-hán. 

Dứt các chấp đắm, an trụ vô tướng, biết các pháp không, ĺa tất cả tướng, đều không thật có, trừ sạch tất cả vọng tưởng điên đảo si mê lầm lạc của chúng sinh, hiểu rõ các pháp là không, không thể nghĩ bàn, đó là A-la-hán được Bồ-đề không thể nghĩ bàn, nhờ thành tựu pháp như thế nên gọi là A-la-hán. 

Như pháp mà các Đức Phật quá khứ nên nói th́ tất cả các Đức Phật hiện tại, vị lai cũng nên nói như vậy. Dứt những đùa bỡn, đầy đủ thanh tịnh, giảng nói pháp Bồ-đề chân thật, đó là A-la-hán. 

Khiến cho chúng sinh được an trụ trong đạo Bồ-đề, không hề chấp đắm gọi là A-la-hán. 

Nên thực hành các Ba-la-mật, Từ đạt đến tâm đại Từ của Phật, cứu độ đầy đủ đối với chúng sinh, đó là tâm Từ vô tướng, cũng khiến cho tất cả chúng sinh được an lập nơi tâm Từ ấy, tu tập theo tâm Từ ấy không có sự phân biệt, chẳng chấp chúng sinh và tướng của tâm Từ, đó là A-la-hán. 

Nói pháp cho tất cả chúng sinh nghe, nhưng đối với các pháp đều không có chỗ chấp đắm. Nếu được như vậy th́ gọi là A-la-hán. 

Nhận rõ, hiển bày căn lực, giác đạo, đối với các chúng sinh không nhiễm không đắm, gọi là A-la-hán. 

Khéo biết tâm hành của tất cả chúng sinh, khiến họ phát tâm Bồ-đề, nếu được như vậy gọi là A-la-hán. 

Giảng nói tất cả các hành pháp hữu vi mà không chấp đắm gọi là A-la-hán. 

Cũng nói hạnh không chấp, hạnh không đắm cho tất cả chúng sinh khác nghe, làm được như vậy gọi là A-la-hán. 

Đến được các cõi Phật mà tâm không có tướng đến được các cõi Phật, dùng trí vô tướng nh́n các pháp như Phật gọi là A-la-hán. 

Nếu thành tựu đầy đủ các công đức của cõi Phật như thế cũng gọi là ruộng phước thanh tịnh b́nh đẳng không cấu nhiễm, chẳng thể nghĩ bàn. Đó chính là ruộng phước không hạnh, là ruộng phước không còn thoái chuyển, là ruộng phước thanh tịnh bậc nhất không còn tướng người nữ, là ruộng phước ĺa hết các kết sử tham dục, là ruộng phước như các Đức Phật chứng tri dứt hết các thứ chướng ngại che phủ, là ruộng phước hàng phục các ma phiền não, là ruộng phước chế ngự tà kiến của ngoại đạo. Đó là ruộng phước của tất cả, ruộng phước trang nghiêm, ruộng phước ĺa tất cả sợ hãi, ruộng phước không có tranh chấp, ruộng phước vắng lặng, ruộng phước thần thông, ruộng phước tối thắng, ruộng phước không có hang hốc, ruộng phước vô tận, ruộng phước đầy đủ những việc mà Bồ-tát thực hành, ruộng phước được sự tự tại trên hết của Phật, ruộng phước được Phật che chở, ruộng phước biến hóa, ruộng phước dùng ấn pháp này để ấn vào tâm chúng sinh giúp họ được an vui, nói năng khéo léo, ruộng phước gồm tất cả những châu báu trang nghiêm cõi Phật, quyết định Niết-bàn vắng lặng. Đối với tất cả ruộng phước mà thành tựu ruộng phước như thế, biết được tất cả các pháp là bất sinh bất diệt, gọi là A-la-hán. 

Dứt các đắm nhiễm, thấy người đến tức giận mà tâm không buồn bực, đó là A-la-hán. Đối với tất cả các pháp không chấp tướng của nó, đó là A-la-hán. 

Dùng tâm Bi dứt trừ những tri thức đầy phiền não để tu hành trí tuệ trên hết, chứng đắc nhanh chóng, gọi là A-la-hán. Dùng oai nghi này để xây dựng Bồ-đề, nhờ thế lực của Bồ-đề nên gọi là A-la-hán; Bồ-đề như vậy cũng gọi là chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể nghĩ bàn ấy cũng gọi là Bất động. Bất động như thế có công năng khiến cho vô số ức loài chúng sinh được an lập trong Bồ-đề, không hề chấp đắm, đều trụ trong b́nh đẳng, đồng với tướng hoại, tường không thật có, biết tất cả pháp đều trở về giác ngộ, trụ nơi vô trụ, đó là A-la-hán. 

Đã nhận thức như thế, th́ có khả năng nói pháp như thế cho chúng sinh nghe mà không đắm nhiễm; tuy có nói năng nhưng không có tướng nói; độ các chúng sinh nhưng không có ý tưởng chấp vào các chúng sinh; thân bất động đối với hai bên đoạn, thường chẳng dứt phiền não và ĺa kiêu mạn; đối với tất cả pháp vô sinh, vắng lặng, vô hành, không hoại tướng sắc, không hoại tướng thọ, tưởng, hành, thức và các pháp tướng của phàm phu. Tâm được bất động để cầu giải thoát; an trụ Phật pháp, cũng chẳng phải an trụ vào quả tướng giải thoát của Tu-đà-hoàn, quả tướng giải thoát của Tu-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán. Vọng kiến tất cả sinh khởi các điên đảo, chấp vào trí tuệ giải thoát của Phật; vọng kiến chấp vào tâm Bồ-đề giải thoát; vọng kiến tu Bồ-đề th́ giải thoát; vọng kiến tu giới Bồ-đề giải thoát; vọng kiến não hại nhẫn nhục giải thoát, vọng kiến biếng nhác tinh tấn giải thoát; vọng kiến loạn tưởng thiền định giải thoát; vọng kiến ngu si trí tuệ giải thoát; vọng kiến Thanh văn phàm phu giải thoát, vọng kiến cha mẹ, vợ con, gái trai, quyến thuộc. Tất cả các giải thoát như thế, vọng kiến tham đắm các dục, vô lượng khổ não, sinh ra thân ái, sinh ra đắm nhiễm. Pháp kết sử này là nơi não hại, đối với pháp này sinh ra hai thứ tướng: Một là dứt bỏ vọng tưởng, độ thoát chúng sinh, đó là A-la-hán; hai là dứt bỏ vọng tưởng tham cầu lợi dưỡng và ý tưởng xuất gia, tại gia. 

Đối với các pháp thấp hèn hay tối thắng đều b́nh đẳng, nhưng cũng không thấy pháp phàm phu này, đó là Phật pháp. Nhằm dứt bỏ vọng tưởng điên đảo như vậy nên nói pháp giải thoát, nếu muốn trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, giáo hóa chúng sinh thành tựu như thế, th́ đó gọi là Niết-bàn. 

Chúng sinh như thế chẳng thể gọi là Niết-bàn, chúng sinh như thế sinh vào ba cõi; chúng sinh như thế không sinh vào ba cõi. Chúng sinh như thế là thực hành đạo giác ngộ; chúng sinh như thế không thực hành đạo giác ngộ. Chúng sinh như thế là hủy phá giới cấm; chúng sinh như thế vâng giữ giới cấm; chúng sinh như thế gọi là có trí tuệ; chúng sinh như thế gọi là không có trí tuệ. Nếu có chúng sinh khởi lên hai tâm và sinh vọng tưởng, v́ dứt bỏ vọng tưởng cho chúng sinh như thế nên; chẳng phải ruộng phước cũng chẳng phải không phải ruộng phước. Chúng sinh như thế siêng năng tinh tấn; chúng sinh như thế là chẳng siêng năng tinh tấn. Là pháp của kẻ ngu si, là pháp của người hiểu biết, là pháp của người nữ, là pháp của người nam, là pháp của bậc Thánh, là chẳng phải pháp của bậc Thánh. Sinh khởi hai ý tưởng như vậy. Nên phải dứt bỏ hai thứ tâm vọng tưởng như thế. Bồ-tát an trụ trong Bồ-đề không lui sụt. Được thọ ký Bồ-đề cũng chẳng phải được thọ ký Bồ-đề. Được gần tòa Bồ-đề cũng chẳng phải được gần tòa Bồ-đề. Chính do hai tâm như vậy mà dấy khởi lên vọng tưởng hư dối. Bồ-tát như vậy là đạt đến Bồ-đề. Bồ-tát như vậy là chẳng đạt Bồ-đề giải thoát chân thật. Tóm lại, chấp đắm vào tất cả pháp đều là vọng tưởng. V́ thế A-nan nên biết! A-la-hán đã dứt bỏ tất cả vọng tưởng về chúng sinh, để đạt đến giải thoát nên có thể nói về pháp Vô tưởng như thế. Đó là Đại Bồ-tát A-la-hán.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:

Trừ tất cả hành

Ĺa hành sinh tử

Ra khỏi thế gian

Gọi A-la-hán.

Dứt hết phiền não

Độ thoát tất cả

Các chúng sinh khổ

Gọi A-la-hán.

Chúng sinh chẳng đạt

Và các kết sử

Đối pháp không lợi

Gọi A-la-hán.

Dứt bỏ vọng tưởng

Trụ không vọng tưởng

Rõ các pháp Không

Là A-la-hán.

Rõ không hơn hết

Đạt được vô tướng

Dứt tất cả tướng

Là A-la-hán.

Diệt các chúng sinh

Tất cả tướng ác

Trừ tất cả tướng

Là A-la-hán.

Trừ các bờ mé

Đạt pháp vô tưởng

Tự ḿnh chứng biết

Là A-la-hán.

V́ được Bồ-đề

Khó thể nghĩ bàn

Phát tinh tấn mạnh

Là A-la-hán.

Nếu nói các pháp

Không báng, không nhơ

An trụ Bồ-đề

Là A-la-hán.

Ruộng phước thanh tịnh

Khiến người được vui

Chúng sinh chẳng được

Là A-la-hán.

Nếu nói các pháp

Tất cả không chấp

Vô pháp, chẳng pháp

Là A-la-hán.

Căn, Lực, Giác, Đạo

V́ chúng hiển bày

Đắc quả bậc nhất

Là A-la-hán.

Khéo rõ chúng sinh

Bồ-đề thanh tịnh

Giảng nói tướng ấy

Là A-la-hán.

Lời thế gian nói

Tất cả các hành

Đối hành không chấp

Là A-la-hán.

Thế Tôn mạnh mẽ

Ruộng phước khó lường

Tùy trú xứ Phật

Giảng nói người nghe,

Nếu muốn thấy Phật

Không thấy, chẳng thấy

Như Phật thấy điều

Là A-la-hán.

Ruộng phước thích hợp

Ruộng phước Thánh hiền

Tinh tấn tột bậc

Là A-la-hán.

Xa ĺa dục nhiễm

Đối giận chẳng giận

Cũng nói Bồ-đề

Là A-la-hán.

Rõ tất cả pháp

Vắng lặng vô tướng

Do đó giác ngộ

Là A-la-hán.

Tất cả chẳng động

Các cõi chúng sinh

Khiến vô số ức

An trụ Bồ-đề.

Chúng sinh Bồ-đề

Đều trụ vô tướng

Rõ kia b́nh đẳng

Là A-la-hán.

Đắc Vô đẳng đẳng

Đồng tất cả pháp

Biết rõ vô tướng

Bồ-đề b́nh đẳng

Hiểu được như vậy

Gọi là La-hán.

Tỏ pháp như thật

Thanh tịnh không nhơ

Nói pháp chúng nghe

Nhưng không pháp nói

Độ vô lượng chúng

Cũng không dao động.

Chúng sinh chẳng được

Hai bên đoạn, thường

Mà chúng đều thấy

Độ thoát khổ não

Rốt ráo các pháp

Không sinh, không diệt

Mà dùng phương tiện

Độ thoát muôn loài

Chẳng hủy hoại sắc

Thọ, tưởng, hành, thức

Cũng giống như thế

Tức là giải thoát.

Đối với phàm phu

Cũng không tướng động

Kiến lập Phật pháp

An trụ giải thoát.

Khiến các chúng sinh

Nhớ nghĩ quả báo

Tướng giải thoát Phật

Nói pháp người nghe

Chấp lấy Bồ-đề

Tu hành Bố thí

Tŕ giới, Nhẫn nhục

Để bỏ vọng tưởng

Biếng nhác, buông lung

Giữ sự Tinh tấn

Trừ tướng giải thoát

Lời La-hán nói

Sinh tưởng Thiền định

Người ngu vô trí

Giúp họ giải thoát

Nói pháp La-hán

Pháp vô tướng ấy

Ngăn che hư vọng

Nói pháp như vậy

Là A-la-hán.

Chúng sinh hư vọng

Chấp tưởng Thanh văn

Không tướng, giải thoát

La-hán nói pháp,

Cha mẹ vợ con

Ngu si chấp đắm

Chẳng phải Bồ-đề

Tham đắm sinh tử,

Anh em chị em

Vọng sinh thân ái

Vắng lặng giải thoát

Là A-la-hán.

Tạo các hành nghiệp

Tham đắm thân ái

Thấy liền luyến ái

Vốn là thân ḿnh.

Lại đắm nhiễm nhau

Thân ái lẫn nhau

Chẳng biết ĺa bỏ

Khiến ma lộng hành.

Không ĺa thế gian

Làm ác cùng cực

Lỗi lầm như vậy

Lời La-hán nói.

Đối các kết sử

Thảy đều giác ngộ

Cả hai hư vọng

Lời La-hán nói.

Lợi ích nhiều người

Không hề đùa bỡn

Giải thoát như vậy

Lời La-hán nói.

Tại gia xuất gia

Thường sinh vọng tưởng

Phàm, ngu chấp đắm

La-hán giải thoát.

Thấy rõ trói buộc

Nêu rộng chánh pháp

Phàm, ngu vọng tưởng

La-hán giải thoát.

Ĺa bỏ phàm phu

Không lợi Phật pháp

Bỏ lợi, không lợi

Là A-la-hán.

Thấy có cao thấp

Từng ấy các loài

Chúng sinh chấp đắm

La-hán giải thoát.

Đầy đủ tướng chấp

Tu tập rất nhiều

Chấp tướng như vậy

Khéo léo giải thoát

Được ruộng phước Phật

Rốt ráo chân thật

Vọng chấp là ruộng

La-hán giải thoát.

Không diệt, chẳng diệt

Cũng vật, chẳng vật

Tuy tu Bồ-đề

Chẳng được giác ngộ.

Giữ giới, phá giới

Có trí, không trí

Chúng sinh ngu si

Dấy lên hai tưởng

Nhiều người chấp đắm

Có rất nhiều loài

Giải thoát tưởng ấy

Lời La-hán nói

Khởi tưởng ruộng phước

Chẳng tưởng ruộng phước

Phàm ngu không trí

Sinh các thứ tưởng

Đối với người nữ

Và đối người nam

Pháp Thánh, chẳng Thánh

Sinh hai thứ tâm

Chúng sinh như vậy

Phàm, ngu không trí

Chấp đắm hai tưởng

La-hán giải thoát

Pháp lui, không lui

Có ký, không ký

Gần tòa Bồ-đề

Chẳng chấp Bồ-đề

Được Bồ-đề rồi

Rốt ráo vắng lặng

Ĺa hẳn sinh tử

Chấp tưởng Niết-bàn

Dứt buộc chúng sinh

Diệt tất cả tướng

Cho nên La-hán

Gọi là giải thoát.

Bồ-tát pháp nhĩ

Hiện là La-hán

Không khởi pháp nhẫn

Tức trí La-hán.

La-hán như vậy

Bồ-tát khen ngợi

Tâm thường trụ nơi

Bồ-đề trên hết.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo A-nan:

–Nay ông nên biết! Đó là Như Lai Đẳng Chánh Giác v́ các vị Đại Bồ-tát dùng phương tiện nói về A-la-hán.

Tôn giả A-nan thưa:

–V́ sao Như Lai Đẳng Chánh Giác lại v́ các Đại Bồ-tát nói về Thanh văn?

Đức Phật dạy:

–Này A-nan! Bồ-tát có khả năng làm cho vô lượng a-tăng-kỳ chúng sinh, dùng pháp âm của Phật khiến tất cả đều được nghe, do đó gọi là Thanh văn. 

Cũng khiến cho họ được nghe âm thanh chẳng thể nghĩ bàn ấy, nghe những âm thanh không thể nghĩ bàn rồi th́ đối với đạo Bồ-đề dứt mọi đùa bỡn, chỉ dùng âm thanh thanh tịnh để họ được nghe, cũng gọi là Thanh văn. 

Lại khiến cho họ được nghe về niềm an vui của Niết-bàn chư không phải là những niềm an vui khác. Nghe được những âm thanh như vậy cũng gọi là Thanh văn. 

Cũng khiến cho họ được nghe các đạo phẩm như Căn, Lực, Giác, Đạo, Thiền định giải thoát, các pháp Tam-muội, Niệm xứ, Chánh cần, chứng đắc Vô dư. Các pháp này đều khiến cho vô số chúng sinh đều được nghe, cũng gọi là Thanh văn. 

Lại thân này là khổ, không, vô ngã, nhưng tướng các ấm đều không thật có. Kẻ phàm phu ngu si phân biệt thân ấy vọng khởi chấp đắm nghe những âm thanh như vậy cũng gọi là Thanh văn. 

Lại do nhãn giới là hư ngụy không thật, cho đến mắt Phật đều đồng với nhãn giới chẳng thể nghĩ bàn, có công năng giúp cho chúng sinh thấy biết như thật. Đối với tất cả pháp không có tướng thành tựu, gọi là thành tựu nhãn, tướng các pháp như vậy khiến chúng sinh nghe nên gọi là Thanh văn. 

Như âm vang của tiếng gọi, khiến chúng sinh nghe nên gọi là Thanh văn. 

Không ứng hợp với âm thanh mà vọng chấp đắm, v́ không có tướng âm thanh, cũng không thật có, âm thanh như vậy nên gọi là Thanh văn. 

Không ứng hợp với hương mà chấp lấy tướng hương, tướng của hương cũng không thật có; ví như có người nằm mộng ngửi được mùi hương, nhưng thật ra không có mùi hương, ở trong cái không có hương mà vọng khởi tưởng là có hương, chỉ là điên đảo tự sinh ra phân biệt, chấp lấy tướng hương, kẻ phàm phu tin nhận, nghe tiếng như thế gọi là Thanh văn. 

Lưỡi tiếp xúc với tướng không giống như cục thịt không thể nhận biết được vị, cũng như chùm bọt nước không thể làm ví dụ. V́ vượt khỏi ví dụ nên chẳng phải vị, chẳng phải thấy, mọi phân biệt về tướng của vị thật sự không thật có. Cảnh giới của vị như vậy và cảnh giới không thể nghĩ bàn là b́nh đẳng không hai. Ĺa tâm, vô niệm cũng không nhớ nghĩ, thật không có tướng của tâm. Nghe âm thanh như vậy gọi là Thanh văn. 

Pháp đã biết, lại khiến cho người khác nghe gọi là Thanh văn.

Nếu nghe về thân, thấu rõ tướng thân, thể tánh vốn không, chẳng phải sinh chẳng phải không sinh, đó gọi là Bồ-đề. Khiến cho vô lượng chúng sinh được nghe âm thanh ấy gọi là Thanh văn. 

Thể tánh của tâm là không, không thật có, đều như huyễn hóa, chẳng sinh chẳng diệt, có thể khiến cho tất cả chúng sinh đều được nghe nên gọi là Thanh văn... Phật bảo A-nan:

–Pháp thí của Thanh văn chẳng thể nghĩ bàn, chứng được đạo này gọi là chẳng thể nghĩ bàn, v́ Pháp thí chẳng thể nghĩ bàn này có công năng sinh ra Bồ-đề. V́ sao? V́ hạt giống tương tự sinh nên không quả là quả, Tài thí không đạt được, từ nghe mà tin, hiểu nên gọi là Thanh văn. Tài thí nhỏ ít, Pháp thí mới là quan trọng. Pháp thí như vậy không hề ganh ghét kẻ khác, cũng không tướng thí, không đắm vào sự bố thí ấy. Ví như huyễn hóa không phân biệt, không sinh nguyện cầu, không chấp ý tưởng bố thí v́ không nguyện cầu. A-nan nên biết! Pháp thí như vậy thành tựu Bồ-đề, từ nghe được tin hiểu nên gọi là Thanh văn. Dứt tất cả tướng, ĺa các kết sử, vượt qua tất cả tăng thượng của Thanh văn, phát ra âm thanh lớn để giảng nói Phật pháp. V́ sao? V́ đầy đủ âm thanh vượt qua tất cả các âm thanh, ra khỏi âm thanh này rồi, khiến nghe được Phật pháp. Biết tướng các âm thanh chẳng phải một, chẳng phải khác, chánh tín thành tựu, nói pháp không hai cũng chẳng phải không hai. Nghe được pháp ấy gọi là Thanh văn.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói bài kệ:

Vô lượng chúng sinh nghe

Phật pháp chẳng nghĩ bàn

Bồ-tát giảng rộng khắp

Đó gọi là Thanh văn.

Nghe rồi tin Bồ-đề

Không nhơ, không đùa bỡn

Khiến tất cả đều nghe

Đó gọi là Thanh văn.

Nghe Niết-bàn an vui

Là an vui bậc nhất

Đều khiến nghe vắng lặng

Đó gọi là Thanh văn.

Các Lực là Giác đạo

Bốn Niệm xứ, các Căn

Mau đạt tới rốt ráo

Đó gọi là Thanh văn.

Nghe thân này khổ, không

Không vững chắc, chân thật

Bị tham, sân, si lấp

Cho nên chấp lấy thân,

Cũng nghe nơi nhãn nhập

Chẳng thật mà thấy thật

Chúng sinh nhiều ngu si

Phàm phu mù chẳng trí

Nếu đạt được mắt Phật

Chánh kiến chẳng nghĩ bàn

Nếu được mắt như thế

Không còn các ngu si

Các pháp không thành tựu

Tất cả chúng sinh nghe

Do nhân duyên như thế

Cũng gọi là Thanh văn,

Tất cả tướng các pháp

Đều giống như tiếng vang

Nơi ấy không người nghe

Cũng không có người nói

Giúp vô số người nghe

Đó gọi là Thanh văn.

Trong ấy không nghe ǵ

Không có người đắm nhiễm

Ví như người nằm mộng

Tuy ngửi nhiều mùi hương

Nhưng đều không thật có

Biết thể hương như vậy

Ĺa bỏ tất cả cấu

Cũng không người ngửi hương

Bồ-tát th́ giải thoát

Chúng sinh nhiều điên đảo

Nghe lưỡi như cục thịt

Chẳng thể biết được vị

Nếu cục thịt biết vị

Cũng nên biết b́nh đẳng

Phân biệt tướng như thế

Tham vị là ác nhất

Cõi này khó nghĩ bàn

Đó gọi là biết vị,

Quyết định biết vị rồi

Bồ-tát không đắm nhiễm

Khiến chúng sinh quyết định

Đó gọi là Thanh văn.

Quán thân, nhận rõ tướng

Bản tánh không, vô chủ

Nếu biết được chân thật

Không sinh, không năng sinh

Tướng Bồ-đề như vậy

Không sinh, không năng sinh

Khiến mọi chúng sinh tỏ

Đó gọi là Thanh văn.

Ý cũng biết như thế

Thể tánh không thật có

V́ không có thể tánh

Nên khiến tất cả nghe

Như Phật pháp vô sinh

Vô diệt, cũng không hai

Không tướng, không chỗ thấy

Đó gọi là Thanh văn.

Đều khiến nghe thí ấy

Pháp thí chẳng nghĩ bàn

Tu hành đến đạo tràng

Thành tựu được Bồ-đề.

Ví như gieo hạt giống

Được quả như hạt giống

Tu thí chẳng nghĩ bàn

Chứng đắc đạo cũng vậy.

Bố thí các tài vật

Pháp thí là hơn hết

Xả tâm, không tham ganh

Đó gọi đạo Bồ-đề.

Tâm thường không chấp đắm

Tuy thí, không nương tựa

Nếu thí được như vậy

Mau chứng đạo Bồ-đề.

Xa ĺa tất cả tướng

Dứt hết các kết sử

Không còn các đắm nhiễm

Đó gọi là Thanh văn.

Âm thanh ấy nhiệm mầu

Hơn các âm thanh khác

Thanh đó giúp nghe xa

Phật pháp chẳng nghĩ bàn,

Khiến mọi người đều rõ

Các thanh không nương tựa

Chẳng một cũng chẳng khác

Đó gọi là Thanh văn.

Muốn cho tất cả nghe

Lời các Phật giảng nói

Tùy pháp âm được nghe

Đều phát tâm Bồ-đề,

Nghe trong các ruộng phước

Ruộng phước Phật trên hết

Tùy theo chỗ Phật ở

Gần gũi Đấng cứu đời,

Khiến ba ngàn cõi nghe

An trụ trong hư không

Chúng sinh cũng như thế

Đều đồng tướng Niết-bàn,

Giảng nói thân bốn đại

Phân biệt là chúng sinh

Giống như tướng hư không

Đều chẳng thể nghĩ bàn.

Tướng như thị các cõi

Cũng không thể biết được

Trong ấy chẳng sinh tử

Không phiền não, Niết-bàn,

Các pháp không chân thật

Chúng sinh cũng như vậy

Đó là cõi tịch diệt

Làm sao thấy kẻ sinh

V́ vô lượng chúng sinh

Ngày đêm thường nghe biết

Chẳng đắm danh lợi ḿnh

Chỉ v́ chúng sinh nói

Nên biết là Thanh văn.

Muốn khiến tất cả nghe

Thật không pháp Thanh văn

Chỉ hiện làm Thanh văn

Phật chỉ giả danh nói

Trên hết trong các pháp

Cho nên biết chúng sinh

Tất cả đều tướng như

Đó gọi là Thanh văn.

Vô lậu dứt trói buộc

Giải thoát tất cả kết

Mà nói chúng sinh nghe

Hiển bày ĺa trói buộc

Thanh tịnh không đùa bỡn

Thấy rồi nói người nghe

Phật pháp đều cũng thế

Không lâu sẽ được thấy

Đúng như pháp Phật nói

Vị Bồ-tát tu hành

Đối pháp không đắm nhiễm

Đó gọi là Thanh văn.

Không trói buộc, thanh tịnh

Cũng khiến tất cả nghe

Tu hành như đã nghe.

A-nan ông nên biết,

Ta dùng phương tiện nói

Biết Thanh văn như vậy

Bồ-tát không nương tựa.

A-nan nên biết! Đó gọi là Như Lai Đẳng Chánh Giác v́ các Đại Bồ-tát phương tiện nói về Thanh văn.

A-nan thưa:

–Thế nào là Như Lai Đẳng Chánh Giác lại v́ các Đại Bồ-tát nói về Bích-chi-phật?

Đức Phật dạy:

–Này A-nan! Bồ-tát hiện thấy tất cả pháp!

Thế nào là hiện thấy? Đó là rõ các pháp là không tranh chấp, đều là giả danh, không hủy hoại tánh của các pháp mà thấy được pháp, chứng được pháp, nên gọi là Bích-chi-phật. Phật là chẳng thể nghĩ bàn. Đối với tất cả pháp và các chúng sinh đồng với tướng Niết-bàn b́nh đẳng không sai khác. Vô h́nh, vô tướng, thanh tịnh vắng lặng. Cảnh giới chân thật, cảnh giới chúng sinh, cảnh giới Niết-bàn, giống như h́nh bóng huyễn hóa, không giới hạn, không thật có. Đối với các cảnh giới này cũng không có tướng của cảnh giới. Không thể dùng lời, không thể diễn tả, không có nơi chốn nương tựa, cũng không thể diễn tả. V́ sao? V́ như ngã không, không sinh, không diệt, biết cảnh giới chúng sinh th́ biết cảnh giới các pháp, cảnh giới sinh tử, tức là cảnh giới Phật. Biết các cảnh giới như vậy nên gọi là Bích-chi-phật. Bồ-tát hiện biết đối với sắc, sắc ấy tức là sắc ấm, sắc ấm đã dứt th́ chỉ còn có lời nói, không có ngã, ngã sở. V́ sao? V́ như nói về sắc ấm chỉ có lời nói. Nên là không, không sinh, không diệt, lời nói không có tướng của lời nói, v́ sao dùng lời nói? Nói về sắc ấm ấy cũng hiện thấy thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và thức ấm. Ví như nói về thức ấm, th́ biết chỉ giả danh là thức ấm, chỉ có lời nói, lời nói đều không, không sinh không diệt, chẳng phải thật chẳng phải hư. Lời nói còn không, huống ǵ là tướng ấm, năm ấm như vậy đều từ giả danh mà lập nên, đó gọi là Bích-chi-phật. V́ sao? V́ nhờ vào tên gọi mà nói về là sắc, sắc chỉ là giả danh, không nhân, chẳng phải nhân, nhưng gọi tên là nhân, ấm ấy là do nhân duyên hợp nên không thể nói tướng của nó. Tất cả các pháp đều không nương, không duyên, biết rõ như vậy gọi là Bích-chi-phật.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói kệ:

Hiện thấy tất cả pháp

Đều biết không đối kháng

Chẳng sinh cũng chẳng hoại

Không có tướng trược loạn

Hiện thấy tất cả pháp

Bản tánh đều vắng lặng

Thể tướng là như vậy

Th́ không có quyết định.

Hiện thấy chỗ rốt ráo

Tất cả pháp cũng thế

Đó gọi là Chánh trí

Duyên giác chẳng nghĩ bàn.

Niết-bàn và chúng sinh

Đời trước không thật có

Cõi này chẳng có sinh

Phật cũng khó nghĩ bàn.

Như chúng sinh Niết-bàn

Không sinh, không xuất xứ

Như pháp không tướng sinh

Đó gọi là Niết-bàn.

Chúng sinh và Niết-bàn,

Đều như bóng đáy nước

Có h́nh, không chúng sinh

Đó gọi là Niết-bàn.

Chúng sinh và Niết-bàn,

Đều là giả danh nói

Không sinh, cũng không diệt

Chỉ có tên gọi giả.

Tướng lời nói như thế.

Rõ không có chúng sinh

Nghĩa này phải nên biết

Chúng sinh tức Niết-bàn.

Tất cả lời nói không,

Tâm không, pháp cũng không

Dùng lời nói, chẳng lời

Quyết định không người biết.

Phi ngôn, cõi không nương

Lời nói cũng vô trụ

Tướng lời nói như vậy

Chúng sinh chẳng nghĩ bàn.

Chúng sinh và Niết-bàn

Cõi thật, cõi chẳng thật

Xa ĺa, được an ổn

Về hẳn nhà vắng lặng.

Tất cả cõi chúng sinh

Như h́nh bóng, tiếng vang

Không nhân cũng không duyên

Cõi thật chẳng nghĩ bàn,

Tất cả gốc các pháp

Chỉ dùng giả danh nói

Là chốn không thật có

Tướng tên gọi không thật

Cõi thật không nói năng

Cũng không người biết được

V́ không, không cõi thật,

Chúng sinh chẳng nghĩ bàn.

Cõi thật chẳng nói năng

Lời nói không thành được

Tướng chân thật như như

Chúng sinh không bờ mé

Tướng lời nói tự không

Chẳng dùng lời mà biết

Như điều ông thường nói

Chúng sinh không thể nghĩ

Tướng cõi thật như thế

Chẳng nghĩ bàn biết được

Đó gọi Chánh giác nói

Bích-chi khó nghĩ bàn

Hiện thấy đối sắc ấm

Chỉ có tên gọi giả

Tánh, tướng ấm như thế

Thường xa ĺa lời nói

Không có tướng chân thật

Đó gọi là xuất thế.

Biết các ấm như vậy

Bản tánh không trụ xứ

Sắc ấy không thật có

Giả danh gọi là ấm.

Chỉ có tên gọi suông

Chẳng sinh cũng chẳng diệt

Lời nói và các pháp

Không có chỗ quyết định

Nếu không có lời nói

Đó là nói sắc ấm.

Hiện thấy đối thọ ấm

Tưởng, hành cũng như vậy

Cho đến cả thức ấm

Chỉ có lời nói giả

Thấy ấm chẳng thể nói

Xa ĺa tất cả tướng

Bản tánh không thật có

Chẳng sinh cũng chẳng trụ

Chân thật như đã nói

Xa ĺa tất cả pháp

Biết các tướng như thế

Thể tánh không chỗ ở

Chỉ dùng giả danh nói

Nói ấm thảy cũng không

Biết lời nói không rồi

Không sinh cũng không diệt

Lời nói và các pháp

Không có chỗ quyết định

Nếu không có lời nói

Đó gọi là thức ấm.

Ấm này ĺa lời nói

Hạn lượng không thật có

Tướng không sinh, không diệt

Cũng không chỗ nương tựa

Giải thoát các phiền não

Chẳng phải nghiệp, quả báo

Chẳng giác, cũng chẳng che

Chẳng lời, chẳng Niết-bàn

Tướng ấy không quyết định

Cũng không có trí tuệ

Trong ngoài không thật có

Không biếng nhác, tinh tấn

Không đùa bỡn, nghi ngờ

Cũng chẳng có thành tựu

Chẳng kinh, chẳng sợ hãi

Không có tất cả sắc

Cũng chẳng thấy cả không

Vô tướng cũng như thế

Không có một tướng khác

Chẳng buộc cũng chẳng mở

Tất cả các tiếng nói

Thanh ấy không chỗ vào

Đó gọi là Luật-đà.

Lời không diễn tả được

Rốt ráo nơi hiện thấy

Mà nói pháp vô tận

Được chánh định ấy rồi

Chẳng đắm mê lời nói

Trí này như hiện thấy

Đều nói A-luật-đà

Luật-đà đồng các pháp

Im lặng mà giảng nói

Bấy giờ, hiện thấy đến

Chẳng từ nhân duyên khác

Đó gọi là Chánh giác

Duyên giác chẳng nghĩ bàn.

KINH PHÁP LUÂN KHÔNG THOÁI CHUYỂN

QUYỂN 1    QUYỂN 2    QUYỂN 3    QUYỂN 4

KINH PHÁP LUÂN KHÔNG THOÁI CHUYỂN

Hán dịch: Không rõ tên người dịch, Đại sư Tăng Hựu đời Lương sao lục.

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 3

Phẩm 4: NÊU RÕ HÀNH TƯỚNG HAI THỪA

Này A-nan! Các Đại Bồ-tát như thế hiện đã thật sự nhận rõ về minh, vô minh; về hành, vô hành; nhận rõ về thức và tướng của thức; về danh sắc và tướng của danh sắc; về sáu nhập và tướng của sáu nhập; về xúc và tướng của xúc; về thọ và tướng của thọ; về ái và tướng của ái; về thủ và tướng của thủ; về hữu và tướng của hữu; về sinh và tướng của sinh; về già chết và tướng của già chết, tu tập hiện thấy gọi là Bích-chi-phật.

Bấy giờ Đức Thế Tôn đọc bài kệ:

Hiện thấy vô minh

Nên không chỗ biết

Cũng không thành tựu

Như bóng trong nước

Sáng cũng chẳng động

Chẳng đắm mê pháp

Nếu không đắm pháp

Đó gọi tướng sáng.

Vô minh như không

Tướng tất cả pháp

Đều đến hiện thấy

Đó gọi Duyên giác.

Nếu nói các hành

Chẳng trong, chẳng ngoài

Cũng chẳng từ Phật

Mà sinh khởi hành

Hành ấy giả danh

Nhất định chẳng có

Chẳng sinh, chẳng diệt

Giống như hư không.

Đều đến hiện thấy

Bồ-tát không sợ

Đó gọi Chánh giác

Duyên giác khó lường.

Biết tất cả pháp

Đều như huyễn hóa

Biết như huyễn rồi

Đó gọi hiện thấy.

Chẳng bằng thật biết

Hành xứ thức này

Là tướng phân biệt

Biết thức là không.

Biết trí chẳng trí

Tất cả không đắm

Nếu biết các pháp

Thức như huyễn tưởng.

Nhân duyên danh sắc

Đều tướng hữu vi

Thể không quyết định

Cũng không thành tựu.

Xa ĺa sáu nhập

Nói tướng sáu nhập

Âm thanh lời nói

Thể tánh đều không

Xúc không nhân duyên

Từ sáu nhập sinh

Nhận rõ xúc ấy

Như huyễn, đều không.

Xúc đó vô thể,

Từ vọng tưởng sinh

Xúc không chân thật

Cũng không chỗ ở

Hiện thấy xúc ấy

Biết không tướng xúc

Đều nên chán ĺa

Gọi Bích-chi-phật.

Nếu chứng được thọ

Không bền như bọt

Tánh, tướng đều không

Rốt ráo chẳng thật.

Dứt bỏ ái kết

Được pháp dứt ái

Dứt hết các dục Đó

gọi Duyên giác.

Nhận rõ chấp đắm

Không, chẳng thật có

Như ngọn lửa cháy

Không có thành tựu.

Không có khởi tưởng

Sinh tưởng cũng thế

Biết thể tánh sinh

Vắng lặng, chẳng có

Ĺa được già suy

Cũng không sợ chết

Không thành tựu ǵ

Không thọ thân sau.

Thấu đạt pháp này

Chẳng nơi nương tựa

Dùng tiếng Duyên giác

Thật tu Bồ-tát.

Này A-nan! Nay ông nên biết, Như Lai Đẳng Chánh Giác v́ các vị Đại Bồ-tát phương tiện nói về Bích-chi-phật.

Lúc bấy giờ, Tôn giả A-nan liền đứng dậy, sửa lại y phục, chắp tay hướng về Đức Phật, nói kệ:

Niết-bàn, chẳng Niết-bàn

Cứu độ khắp thế gian

Ví như buộc trong không

Dùng không mà tự mở.

Nếu nói được như thế

Cũng gọi có nói được

Thế Tôn phương tiện khéo

Mà nói pháp dứt chấp.

Tôn giả A-nan nói kệ xong liền bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Tất cả chúng sinh ở thế gian bị ngu si che lấp nên tự khinh ḿnh, không hiểu được ý của Như Lai chỉ dùng giả danh để nói về các pháp như: Tín hành, Pháp hành, tám bậc,… cùng các quả tu như Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Thanh văn, Duyên giác.

Bấy giờ, Phật bảo A-nan:

–Đối với các Đức Phật quá khứ ông không quên giả danh mà trồng các căn lành, v́ khéo hiểu giả danh, nên không bị sự ngu tối cướp đoạt. V́ sao? V́ các pháp giả danh, như huyễn, như bóng dưới nước, như ngọn lửa nóng, như tiếng vang, giả danh như vậy!

Này A-nan! Nay ông nên biết, không để cho các pháp ác xâm hại đến ḿnh. Phải đầy đủ sự trang nghiêm để tự trang nghiêm ḿnh, biết được các pháp là giả danh, do nhân duyên giả hợp, thường luôn ghi nhớ, đầy đủ tinh tấn, nhưng không chấp sự tinh tấn ấy, đừng để quên mất: Đạt được trí tuệ tối thắng nhưng không chấp vào tướng trí tuệ ấy.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:

Các chúng sinh ngu si

Biếng nhác, trí tuệ kém

Th́ không biết giả danh

Phải siêng năng tinh tấn.

Hiểu rõ về giả danh

Biết như thật các ấm

Cứu độ các thế gian

Giúp đạt trí chân thật.

Biết giả danh, không rồi

Tức giác ngộ Bồ-đề

Cũng không được Bồ-đề

Đó gọi là Bồ-đề.

Giả danh là tướng không

Không, chẳng thể biết không

Không chỉ có âm thanh

Ĺa tất cả tranh luận

Hiển bày nghĩa như thế

Đối với không chẳng chấp

Cũng không chỗ để chứng

V́ sao có người được?

Đó gọi là Không Không.

Như vậy, A-nan nên biết! Pháp không rất sâu vô lượng, không sinh buông lung, cũng không để cho mất. Đó gọi là nói đầy đủ về hành địa của Bích-chi-phật. Bấy giờ, trong chúng hội có năm trăm ức đồng, thành vị Tỳ-kheo đều được Tín hành, liền đứng dậy đến trước Đức Thế Tôn nói kệ:

Dứt nghi được chánh trí

Bậc Vô Thượng cứu đời

Thế Tôn nói giả danh

Tín hành trụ Bồ-đề.

Trong chúng lại có năm trăm ức vị Tỳ-kheo đã đạt Pháp hành, nghe xong bài kệ ấy liền đứng dậy, sửa lại y phục, cùng nói kệ:

Chúng con dứt nghi, lầm

Nẻo giác ngộ sáng tỏ

Như Lai nói giả pháp

Pháp hành trụ Bồ-đề.

Trong chúng lại có mười ức vị Tỳ-kheo đã đạt tám bậc, nghe xong bài kệ ấy liền đứng dậy đến trước Phật, đồng nói kệ:

Con trước dứt nghi hối

Tu tám bậc đã lâu

Như Lai nói giả danh

Tám bậc trụ Bồ-đề.

Trong chúng lại có mười ức vị Tu-đà-hoàn nghe xong bài kệ ấy liền đứng dậy đến trước Phật, cùng nói kệ:

Con nay nhờ ánh sáng

Bậc Thánh chúa cứu đời

Biết pháp do Phật nói

Mở bày về giả danh.

Trong chúng lại có hai trăm lẻ năm vạn vị Tỳ-kheo đã chứng quả Tư-đà-hàm nghe xong bài kệ ấy liền đứng dậy đến trước Phật đều nói kệ:

Con trước vốn chấp đắm

Mà được Tư-đà-hàm

Nay dứt các vọng tưởng

Vắng lặng không đùa bỡn.

Trong chúng lại có mười ức vị A-na-hàm nghe xong bài kệ ấy liền đứng dậy đến trước Phật đều nói kệ:

Bậc Vô Thượng cứu đời

Nay con dứt nói suông

Đã nhổ sạch tưởng quả

Đạo giác ngộ chiếu sáng.

Trong chúng lại có ba mươi lăm ức vị Tỳ-kheo đều trụ trong bốn Thiền đắc quả A-la-hán, nghe xong bài kệ ấy liền đứng dậy đến trước Phật cùng nói kệ:

Nay con đã ĺa cấu

Tự chứng đắc Vô dư

Các thừa nhập Nhất thừa

Như huyễn, không quyết định.

Trong chúng lại có hai muôn vị Tỳ-kheo, nghe xong bài kệ ấy liền đứng dậy đến trước Phật cùng nói kệ:

Con vốn thích nói suông

Thế Tôn nói giả danh

Tự gọi là Thanh văn

Trụ nơi pháp giả danh.

Trong chúng lại có năm ngàn vị Tỳ-kheo trụ trong Bích-chiphật thừa nghe bài kệ ấy rồi liền đứng dậy, đến trước Phật, đều nói kệ:

Nay con được hiện thấy

V́ Duyên giác Bồ-đề

Như Lai nói giả danh

Duyên giác không nghĩ bàn.

Trong chúng lại có năm muôn vị Tỳ-kheo-ni, chấp tưởng về các quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, nghe xong bài kệ ấy liền đứng dậy đến trước Phật, cùng nói kệ:

Nguyện cho tướng người nữ

Đều nhập pháp b́nh đẳng

Thế Tôn nói không khác

Giác ngộ là Tối thượng.

Trong chúng lại có tám trăm ức muôn vị Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di đều có ý tưởng về các quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, nghe xong bài kệ ấy liền đứng dậy đến trước Phật đồng nói kệ:

Con nay tâm không cấm

Tịnh như ngọc lưu ly

Nay mới gọi xuất gia

An trụ trong Phật pháp.

Bấy giờ, trong hư không có đến sáu mươi ức na-do-tha các vị trời tung rải hoa Mạn-đà-la cõi trời lên chỗ Phật để cúng dường rồi đến trước Phật, nói kệ:

Con trước chấp tưởng thừa

Tham đắm các quả vị

Nay các quả đều bỏ

Mới giác đạo Bồ-đề.

Phẩm 5: DỨT TRỪ CÁC TƯỞNG

Lúc bấy giờ, trong chúng lại có vô lượng trăm ngàn vị A-la-hán, đứng đầu là các Tôn giả Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, Tu-bồ-đề, A-na-luật, A-nâu-lâu-đà, Kiếp-tân-na, Kiều-phạm-ba-đề... đứng dậy, sửa lại y phục, đến trước Đức Thế Tôn, cúi ḿnh cung kính bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Chúng con hôm nay xin phát nguyện chân thật ĺa tất cả vọng tưởng, phá dẹp chúng ma, gồm đủ cả năm tội nghịch và năm thứ dục lạc, đầy đủ tà kiến, ĺa bỏ chánh kiến, đoạn mạng vô lượng chúng sinh. Hôm nay chúng con sẽ làm cho chúng đều thành Bồ-đề, nhập vào Niết-bàn vô dư.

Lúc này, Đức Thế Tôn im lặng, vô lượng trăm ngàn vị trong hội nghe các Tôn giả nói như thế, đều sinh tâm nghi ngờ: “V́ sao các bậc Trưởng lão ấy lại nói như vậy? Hiện giờ chúng ta đều mờ mịt không thể hiểu nổi. Các vị đó đều là bậc A-la-hán mà còn nói như thế, huống chi là hạng phàm phu.” Tất cả đều ngồi một chỗ không dao động, không thể đứng dậy được, nếu có người đứng th́ cũng chẳng thể ngồi, đều nói rằng v́ sao các Tôn giả lại nói như thế?

Bấy giờ, Tôn giả A-nan liền v́ đại chúng trăm ngàn muôn ức chúng sinh, do năng lực thần thông của Phật nên tự biết tâm ḿnh và biết tâm người khác liền hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

–Hiện tại, trăm ngàn ức vị trong đại chúng như thế nghe các vị A-la-hán nói những lời vừa rồi, đều sinh tâm nghi ngờ. Kính mong Bồ-tát hãy phân biệt nói rõ nguyên do cho tôi được nghe.

Lúc này, Đức Như Lai vẫn im lặng. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói với Tôn giả A-nan:

–Đây là Bồ-tát ở địa vị không thoái chuyển, v́ thấy nhân duyên của các Đại đức mà nói như vậy:

Tôn giả A-nan nói:

–Kính thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Địa vị không thoái chuyển là Bồ-tát chăng?

–Đúng vậy, địa vị không thoái chuyển là các Đại đức Bồ-tát.

Tôn giả A-nan hỏi:

–V́ sao các Tôn giả lại nói những lời như thế?

Bấy giờ Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bảo Tôn giả A-nan:

–Vô minh là mẹ, từ hành sinh ái, rốt ráo diệt hết, trừ hết oán hại. Vọng tưởng điên đảo là cha, xa ĺa điên đảo, dứt bỏ ái dục, chứng A-la-hán, vững chắc không mất. Dứt sạch những ý tưởng của phàm phu, và ý tưởng của Tăng. Tưởng ấy đã diệt th́ tu tập được tất cả các pháp tưởng bất hoại, cho đến không chấp vào ý tưởng về Như Lai, tu tập vô sinh, rốt ráo ĺa hẳn.

Này Tôn giả A-nan! Các Đại đức ấy nói: “Hôm nay chúng con làm thế nào có đầy đủ năm tội nghịch. V́ sao? V́ không còn ý tưởng về đến, đi cho nên gọi là đầy đủ năm tội nghịch.”

Lại nữa, này A-nan! Năm dục là ǵ? V́ các vị Tỳ-kheo này biết rõ năm dục như mộng, như huyễn, như chùm bọt trên mặt nước, như âm vang của tiếng gọi. Trí tuệ như vậy đầy đủ. Thế nào là trí tuệ đầy đủ? V́ các pháp vốn không thêm không bớt. Thế nào là năm dục? V́ năm dục cũng không thêm không bớt. V́ sao? V́ năm món dục lạc như thế, rốt ráo là vô thể vô tướng, biết như thật rồi tức tướng của năm dục, chứng được trí tuệ. Cho nên gọi là đầy đủ năm món dục lạc. V́ ý nghĩa đó mà các vị Đại đức nói như vậy, nay con đầy đủ năm dục.

Này Tôn giả A-nan! Thế nào là đầy đủ tà kiến, ĺa bỏ chánh kiến? Đối với tất cả các pháp đều chấp thủ vướng mắc th́ đó là tà kiến. Tà kiến ấy chính là những ý tưởng hư vọng. Tất cả các pháp đều không nương dựa, cũng không phải là không nương dựa. Ví như hư không chẳng có chốn trở về, cũng không chỗ nương dựa. V́ sao? V́ tất cả các pháp không có thật để chứng đắc, nên nhận thức như vậy, tất cả pháp đều b́nh đẳng. Dứt trừ các ý tưởng ấy th́ đó là chánh kiến. V́ sao? V́ các ý tưởng ấy đều là những ý tưởng ác. Do ý nghĩa đó mà các Đại đức Tỳ-kheo không vướng vào các tưởng ấy cũng không vướng vào các tưởng ác. V́ sao? V́ dứt sạch hết tất cả tưởng. Đó chính là sự giác ngộ của Phật. Đạt được giác ngộ như vậy nhưng cũng không thấy một chút pháp có thể chứng được. A-nan! v́ nhân duyên ấy mà các vị Đại đức Tỳ-kheo đã nói rằng xa ĺa chánh kiến, đầy đủ tà kiến.

Này A-nan! V́ sao các vị Tỳ-kheo ấy lại nói: “Hôm nay chúng con thật đoạn mạng hàng trăm ngàn chúng sinh”. Lúc các vị trưởng lão nói ra lời ấy, có hàng trăm ngàn muôn ức các vị trời nghe nói như vậy đều liền chứng được pháp giải thoát, như mộng, như huyễn, như bóng đáy nước, như âm vang của tiếng gọi. Hiểu được như thế rồi liền cắt đứt được những ý tưởng về thọ mạng của chúng sinh, của trượng phu, và của những hạng người khác, cũng tức là được giải thoát, không có gieo trồng căn lành Bồ-đề, tất cả các pháp đều không phát khởi, không tạo tác, không tu tập. Nghe nói giả danh th́ liền tin tưởng sâu xa không chút nghi ngờ. Các vị Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di... đều đoạn trừ các tưởng về thọ mạng của chúng sinh, của trượng phu, và những hạng người khác. Dứt được tưởng ấy rồi th́ không còn trở lại thọ nhận bao kiếp sinh tử nữa. V́ sao? V́ đã dứt được các tưởng về thọ mạng của chúng sinh, trượng phu, người, quỷ đói... v́ còn ý tưởng ấy nên phải thường chịu sinh tử, nếu ĺa được tưởng ấy th́ liền rốt ráo tự chứng vô sinh. Do nhân duyên đó mà các Đại đức đã dùng phương tiện như thế khéo nói về giả danh, là đoạn mạng vô lượng chúng sinh. Cho nên nói rằng đầy đủ chứng được sự giác ngộ của Phật: Hôm nay chúng con ở nơi Niết-bàn Vô dư, mà Bát-niết-bàn, được tướng tốt của Phật, từ đấy mà giáo hóa vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng sinh, diệt các kết sử như Phật đã chứng đắc. V́ sao? V́ đã giúp cho các chúng sinh đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, được pháp Nhẫn vô sinh rồi th́ giúp đạt được giác ngộ, nhưng cũng không xả bỏ phiền não, chẳng gần gũi Phật pháp, từ ý sinh phiền não, dứt hết không còn. Do nhân duyên ấy mà các vị Đại đức đều nói là nay con đạt được giác ngộ.

Này Tôn giả A-nan! Cho nên hôm nay gọi là vô sinh. V́ sao? V́ như các thiện nam, thiện nữ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, hiểu rõ các pháp, phát tâm Bồ-đề rồi cũng không thật có, ĺa tướng giác ngộ và tướng tất cả pháp ở Niết-bàn Vô dư mà nhập Niết-bàn.

Này Tôn giả A-nan! Các vị nam, nữ trong dòng họ của Đức Như Lai nương Bồ-tát thừa, không v́ thấy mặt trời mà cho là ban ngày. Kẻ phàm phu ngu si nếu khi thấy mặt trời th́ liền cho là ban ngày, cho nên chẳng phải người hiểu biết. V́ sao? Này A-nan! V́ nếu ban ngày là có thể chẳng phải hư vọng, th́ có thể chứa nhóm, v́ là hư vọng. Do vậy, cũng không có quá khứ, vị lai. Đối với ban đêm cũng như thế. Nếu ban ngày mà tưởng ban ngày, ban đêm tưởng ban đêm th́ là cái thấy của phàm phu vọng tưởng.

Này A-nan! Đó là Bồ-tát thừa, tu tập Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác Thiện tri thức, không nên ban ngày mà sinh ý tưởng là ban ngày, ban đêm sinh ý lên tưởng ban đêm. V́ sao? V́ họ đã xa ĺa bỏ tất cả các tưởng, an trụ trọng đạo giác ngộ của Đức Như Lai.

Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi liền nói kệ:

Vô minh chính là mẹ

Từ hành mà dấy khởi

Nếu dứt được gốc rễ

Đó gọi là trừ hại.

Ưa thích tưởng điên đảo

Đó được gọi là cha

Nếu biết được như thật

Rốt ráo không thật có,

Biết đó đều hư vọng

Th́ dứt được gốc rễ

Không duyên cũng không trụ

Đó gọi là trừ hại.

Nếu nói các La-hán

Phàm phu chẳng nghĩ bàn

Tướng như thật bất hoại

Diệt ấy gọi rốt ráo.

Ta vốn đắm tưởng tăng

Nay biết như thật rồi

Các pháp đều không mất

Cũng khiến tất cả nghe,

Trước chấp lấy Như Lai

Đó gọi là hư vọng.

Biết kia, không tưởng khác

B́nh đẳng, đều là không

Nhổ dứt những cội rễ

Đó gọi trí Vô sinh.

Nếu nói được như thế

Hiển bày sức Thiền định

Nếu nói đủ các dục

Năm tên gọi như vậy,

Xa ĺa tưởng như thế

Giống như giấc mộng huyễn

Không thêm cũng không bớt

Đó gọi là năm dục.

Trước nhằm để cứu đời

Nên nói lời như thế

Biết dục bản tánh không

Giống như tướng mộng hóa

Rốt ráo không có sinh

Đầy đủ trí như thật

Như các lỗi tà kiến

Hư vọng khởi phân biệt

Dùng trí rốt ráo này

Tất cả đều đầy đủ.

Hư vọng không chấp đắm.

Xa ĺa tướng hòa hợp

Khéo biết như vậy rồi

Không tướng, không thật có

Cùng biết tất cả lỗi

Tà kiến và chánh kiến

Đạt đến pháp chân thật

Tướng tà, chánh đều diệt

Tưởng chúng sinh sinh tử

Ngu si vọng phân biệt

Nếu không có chúng sinh

Th́ không có sinh tử

Chúng sinh nhiều phương tiện

Ĺa bỏ tưởng về mạng

Xa ĺa tưởng ấy rồi

Biết tưởng mạng ác nhất

Nếu ĺa tưởng chúng sinh

Phân biệt thọ mạng thảy

Đoạn mạng nhiều chúng sinh

Là lời vị ấy nói

Ĺa bỏ ý tưởng chết

Kẻ ngu si phân biệt

Rốt ráo được vô sinh

Đó gọi là pháp thật.

Dứt bỏ các kết sử

Th́ chứng đắc vô tướng

Giác ngộ không h́nh sắc

Không diệt cũng không quả

Ma oán không ngăn được

Tự giác nơi Bồ-đề

Các pháp dứt hý kuận

Tánh vô sinh vắng lặng.

Bồ-tát Văn-thù nói kệ xong th́ có vô lượng trăm ngàn chúng sinh như thế dứt được các mối nghi ngờ hối hận, nhờ đó tâm sinh vui mừng, được pháp sáng tỏ, mỗi người đều cởi y phục quý giá trên người ḿnh để dâng lên cúng dường Bồ-tát và cùng thưa:

–Bồ-tát đã giúp cho chúng tôi đều được pháp này, nên nói lời ấy cũng giúp cho chúng sinh tâm chứng được các pháp, đều được thật tướng như Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đã giải thích.

Bấy giờ, Tôn giả A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! V́ sao trăm ngàn muôn ức chúng sinh như thế đều sinh tâm nghi ngờ hối hận? V́ sao Như Lai không tự ḿnh nói rõ để họ dứt bỏ được mối nghi ngờ hối hận ấy?

Phật bảo A-nan:

–Trăm ngàn muôn ức chúng sinh như thế đều từ nơi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi mà phát tâm Bồ-đề, nhờ Bồ-tát mà được điều phục.

Tôn giả A-nan lại hỏi:

–Họ đều được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chăng?

Đức Phật dạy:

–Đúng vậy, này Tôn giả A-nan! tất cả chúng sinh đều không lui sụt đối với Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. V́ sao? V́ họ đều được Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi làm bậc Thiện tri thức.

Tôn giả A-nan nói:

–Các Tỳ-kheo ấy đã đạt được Tín hành, Pháp hành, Tu-đàhoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Thanh văn, Bích-chi-phật, đã dứt hết các tưởng, th́ đều không lui sụt đối với đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chăng?

Đức Phật nói:

–Có người khó tin đối với đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, có những kẻ trí tuệ ít ỏi căn trí thấp kém, có những kẻ biếng trễ, lười nhác thiếu tinh tấn, ham thích ăn uống, gần gũi năm thứ dục lạc, thích những chốn ồn ào đông đúc, tâm không muốn xa ĺa, quên mất chánh niệm, trở thành kẻ không trí tuệ, tâm không chánh định, thường sợ hãi, tán loạn. Có những kẻ tăng thượng mạn, có những kẻ chấp đắm tăng thượng mạn họ tham đắm đối với thân ḿnh, thích sống lâu, không quán sát vô thường, thường tham lam, ganh ghét, ngu si, vô trí, phá hủy giới cấm, sinh tâm muốn não hại người. Đối với Phật pháp th́ thường khởi tâm nghi ngờ, hay nghe theo hạng vô trí, gần gũi bạn xấu, xa ĺa ban hành, cũng không cung kính bạn lành, không chịu học theo Trí tuệ ba-la-mật, không tu tập các pháp Tổng tŕ là pháp đứng đầu các kinh, luôn dấy khởi vọng kiến, chấp thủ vọng kiến, gặp thầy tà ham thích y bát. Đối với các bậc Hòa thượng, A-xà-lê, tâm không cung kính, cũng chẳng thích gần gũi. Về các giờ giấc tu tập vào lúc đầu hôm, nửa đêm hoặc gần sáng, tâm thường sinh biếng nhác. Thường nói lời hai lưỡi khó tin, ưa thích nói dối, ác khẩu, tham ganh, gần gũi những người tà kiến, học theo tà kiến, rồi th́ thường tu tà quán không thích học giới. Tâm không biết xấu hổ, không biết sợ sệt, gần gũi hạng ngu si, thích làm theo ngoại đạo, không tin ba cửa giải thoát là Không, Vô tướng, Vô nguyện, vô sinh vô diệt. Đối với tất cả pháp không sinh tín tâm...

Này A-nan! Những người như thế khó có thể tỏ ngộ.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn vẫn im lặng.

Tôn giả A-nan nương năng lực thần thông của Phật, hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

–V́ sao Đức Như Lai im lặng như thế?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

–Vào thời kỳ mạt pháp, ở những đời vị lai có nhiều chúng sinh tâm địa như vậy, họ không tin chánh pháp, cũng không thể hiểu rõ chánh pháp. Do vậy mà Đức Thế Tôn im lặng.

Tôn giả A-nan nói:

–Lại có chúng sinh tin tưởng chánh pháp không?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

–Cũng có chúng sinh ít có lòng tin. Này A-nan! Ít người biết được chánh pháp là quý giá, còn phần đông th́ không biết. Này A-nan! Ít có chúng sinh có khả năng tin hiểu. Nói pháp như thế khắp các thành ấp xóm làng, có nhiều chúng sinh đều ĺa bỏ chẳng tin. V́ sao? V́ những chúng sinh đó do nhân duyên đời trước vốn gây ra tội chướng bài báng đạo pháp.

A-nan nói:

–Kính mong Bồ-tát v́ những chúng sinh đó khiến cho họ được tin hiểu chánh pháp.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói:

–Tôn giả nên hỏi Đức Phật, Đức Phật sẽ v́ Tôn giả mà phân biệt giải thích.

Khi ấy, Tôn giả A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn giải thích cho con hiểu, các vị nam nữ trong dòng họ của Như Lai tuy sự hiểu biết và tin tưởng còn ít, nhưng nếu được nghe Phật giảng dạy sẽ rất vui mừng.

Lúc này, Đức Thế Tôn liền nh́n khắp bốn phía rồi hiện tướng lưỡi dài che phủ cả tam thiên đại thiên thế giới. Từ lưỡi ấy phát ra ánh sáng rực rỡ chiếu khắp các thế giới Phật nhiều như số cát sông Hằng. Phương Nam, Tây, Bắc, bốn góc và hai phương trên, dưới đều như thế, mỗi phương đều có thế giới Phật nhiều như số cát sông Hằng.

Lúc ấy, bốn chúng nhờ năng lực thần thông của Phật nên cũng trông thấy các Đức Phật nhiều như số cát sông Hằng ở phương Đông, đồng nói pháp này. Cũng đều xa nghe không thêm không bớt. Như vậy lần lượt các thế giới trong mười phương cũng lại như thế, đại chúng đều trông thấy và được nghe các Đức Phật ở các cõi đó nói pháp giống như ở phương Đông. Được thấy và nghe xong, đại chúng đều nhất tâm khuyến thỉnh Đức Phật:

–Bạch Thế Tôn! Kính mong Thế Tôn rủ lòng Từ bi thương xót, phân biệt giảng nói lại cho chúng con hiểu. Chúng con nhờ thần lực Phật được thấy vô lượng, vô biên không thể tính kể các Đức Phật giảng nói chánh pháp. Chánh pháp ấy không thêm không bớt, không thể nghĩ bàn. Kính mong Thế Tôn hãy giảng nói về pháp ấy!

Lúc này, Đức Thế Tôn liền thu lưỡi về rồi bảo Tôn giả A-nan:

–Lẽ nào có những kẻ nói dối mà có thể có được tướng lưỡi như vậy chăng?

Tôn giả A-nan thưa:

–Bạch Thế Tôn, không! Nếu có người nói lời chân thật, mềm mỏng, có nhiều sự hiểu biết, lời nói khéo điều hòa, nhu thuận, làm lợi ích, Từ, Bi, Hỷ, Xả như vậy…, cho đến bậc Nhất thiết trí mới có được tướng lưỡi như vậy. Cúi mong Đức Thế Tôn, v́ các vị nam, nữ trong dòng họ của Đức Như Lai có ít lòng tin mà phân biệt giải thích, cũng v́ thương xót đối với những ai chưa hiểu mà giảng nói, sẽ khiến cho hạng người ấy sinh tâm hối hận.

Bấy giờ, Phật bảo A-nan:

–Bốn chúng đã nhóm họp, ngồi ngay ngắn cùng với tám bộ là Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân... các vị đến ngồi nghe pháp, tâm đều không thoái chuyển trên đường tiến đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Các vị sẽ ở nơi cõi này mà giảng nói chánh pháp, không thêm không bớt, giống như pháp ta hiện đang nói.

Bấy giờ, bốn chúng và Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, Atu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân... đều sinh tâm vui mừng nên cùng nhau cởi những tấm y quý giá trên người ḿnh dâng lên Đức Phật. Có người tung rải hoa, có người tung rải tràng hoa, có người dùng các thứ chuỗi vàng, bạc, lưu ly, pha lê, mã não, có người dùng các thứ chuỗi Tỳ-lô chiên-đàn, có người dùng các loại hoa như Mạn-đà-la, Ma-ha mạn-đà-la, Mạnthù-sa, Ma-ha mạn-thù-sa, có người dùng các thứ hoa do ḿnh làm ra, tất cả đều tung rải lên chỗ Phật. Có người dùng các thứ hoa Ưubát-la cõi trời, hoa Câu-vật-đầu, hoa Phân-đà-lợi... để tung rải lên chỗ Đức Phật. Trong hư không, nhạc trời tự nhiên hòa tấu vang lừng. Các vị Long vương th́ tung rưới ngọc quý. Các phụ nữ th́ dùng những xâu chuỗi ngọc cùng các thứ y phục quý giá dâng lên cúng dường Phật. Xong, tất cả các tín nữ ấy đều sửa lại y phục ngay ngắn, quỳ gối bên phải chạm sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật, cùng nhau bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai không hai.

Lúc bấy giờ Phật bảo A-nan:

–Đúng thế, đúng như lời họ vừa nói! Đức Như Lai không hai, đã dứt sạch ngu si. Như Lai, Thế Tôn không hề có tiếc lẫn, không còn mảy may lỗi lầm, v́ đã ĺa mọi tội lỗi, ĺa bỏ mọi thứ dục lạc và tất cả phiền não, được thanh tịnh không cấu nhiễm. Mọi thứ kiêu mạn tham lam, ganh ghét đều trừ sạch không còn đầy đủ trí tuệ, giác ngộ chánh pháp, đạt đến bờ giải thoát. Như bậc Đại phạm được tự tại hoàn toàn oai nghi đầy đủ, các hạnh rốt ráo, được bốn thứ đầy đủ, Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân, không còn chấp đắm vào các pháp hữu vi, vô vi, không nhiễm sinh tử, theo Phật, Thế Tôn được giải thoát chân chánh, được đầy đủ tri thức, không hề thiếu sót hay mất mát, đầy đủ sự gần gũi.

Tôn giả A-nan thưa:

–Thế nào gọi là Như Lai được đầy đủ tri thức không thiếu sót, mất mát? Thế nào gọi là đầy đủ nghe Phật, đầy đủ thấy Phật, đầy đủ gần gũi?

Phật bảo A-nan:

–Ông không rõ ư?

Tôn giả A-nan thưa:

–Con thật sự không rõ.

Phật dạy:

–Bây giờ ông hãy lắng nghe, ta sẽ giải thích cho ông hiểu.

Tôn giả A-nan thưa:

–Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn giải thích cho con hiểu.

Đức Phật dạy:

–Này A-nan! Giờ đây ông nghe ta là Phật Thích-ca Mâu-ni, đã nghe, sẽ nghe như vậy… th́ đều được không thoái chuyển trên đường tiến đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. V́ sao? V́ tất cả pháp thân nếu được giảng nói th́ người thấy nghe đều được lợi ích.

Này A-nan! Nếu cúng dường Như Lai một cành hoa và sau khi ta nhập Niết-bàn, v́ xá-lợi Phật mà xây tháp cúng dường th́ cũng được không thoái chuyển trên đường tiến đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Tôn giả A-nan thưa:

–Cho đến loài súc sinh, nếu được nghe danh hiệu Phật, th́ cũng được thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác ư?

Đức Phật dạy:

–Này A-nan! Nếu có người chỉ được nghe âm thanh Phật Thích-ca Mâu-ni rồi xưng niệm danh hiệu ấy th́ đều là hạt giống của Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nếu các thiện nam, thiện nữ được nghe danh hiệu Phật Thích-ca Mâu-ni th́ cũng đạt được những điều như đã nói, hoàn toàn là chân thật không hư dối.

Này A-nan! Ví như cây Ni-câu-đà, tàng cây tỏa rộng có thể che phủ cho một, hai, ba, bốn người, cho tới năm mươi, một trăm, một ngàn hoặc nhiều hơn nữa đi đến dừng nghỉ? Dưới bóng cây ấy, vậy th́ theo ý ông, cây Ni-câu-đà con ấy lúc mới đem trồng là lớn hay nhỏ?

Tôn giả A-nan thưa:

–Bạch Thế Tôn, rất nhỏ!

Phật bảo A-nan:

–Cây Ni-câu-đà ấy nhờ mưa, nước, phân bón, đất đai, sức người cùng các trợ duyên khác qua năm tháng dần dần cao lớn.

Tôn giả A-nan thưa:

–Đúng vậy, bạch Thế Tôn!

Phật bảo A-nan:

–Cây Ni-câu-đà vốn rất nhỏ, nhờ đất, nước, thời gian cùng bao nhân duyên khác dần dà cao lớn. Như thế, này A-nan! Cũng như vậy, người được nghe danh hiệu Phật Thích-ca Mâu-ni th́ hạt giống căn lành đó không bao giờ bị mất đi, không còn thoái chuyển trên đường tiến đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cũng giống như thế. V́ sao? V́ hạt giống vô tướng không trụ ở tất cả nơi, cho nên không bị hư thối. Do không bị hư thối nên hạt giống ấy cũng không thể bị hủy hoại, cũng không giữ được h́nh tướng của nó. Cho nên đối với tất cả pháp đều không bị mất đi.

Tôn giả A-nan thưa:

–Bạch Thế Tôn! Đó là năng lực bản nguyện của Đức Như Lai hay là tất cả pháp của các Đức Phật cũng đều như thế?

Phật liền đáp:

–Do năng lực bản nguyện. Nếu có chúng sinh nào nghe danh hiệu ta th́ đều không bị thoái chuyển trên đường tiếng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Pháp của tất cả các Đức Phật cũng đều như vậy. V́ sao? V́ pháp của tất cả Phật đều b́nh đẳng.

Tôn giả A-nan thưa:

–Pháp của tất cả Phật b́nh đẳng có lợi ích ǵ?

Đức Phật dạy:

–Đó là có thể khiến cho chúng sinh tuy không nghe chánh pháp nhưng nhờ năng lực phát nguyện nên cũng khiến được cùng nghe pháp và đạt được lợi ích.

Bấy giờ, A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Như Lai thành tựu pháp chưa từng có, có khả năng đem lại lợi ích lớn lao cho các vị Đại Bồ-tát không?

Phật dạy:

–Đúng thế, này A-nan! Nay ta làm lợi ích lớn lao cho chúng sinh. Nếu người nào nghe pháp th́ đều được sống trong ruộng phước lợi ích. Trong thời quá khứ ta đã cúng dường các Đức Phật, không hề tiếc rẻ thân mạng, tất cả đều xả bỏ, ĺa mọi tham lam ganh ghét, siêng tu tinh tấn, các căn thanh tịnh, đối với tất cả các pháp không chấp không đắm, không hề nương tựa. Cho nên, này A-nan! Ta đã đạt được giác ngộ, có khả năng đem lại lợi ích lớn lao cho tất cả chúng sinh.

Phẩm 6: HÀNG PHỤC CÁC MA

Bấy giờ, Tôn giả A-nan bạch Phật:

–Thế Tôn giảng nói Pháp luân không thoái chuyển này làm cho ác ma không thể đến quấy nhiễu phá phách, v́ sao vậy?

Đức Phật nói:

–Đó là do năng lực thần thông của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi khiến cho Ma vương Ba-tuần không thể nghe được.

Lúc này, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi liền phát lời thệ chân thật, khiến cho ác ma nghe được âm thanh trong hư không Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đang chuyển Pháp luân không thoái chuyển.

Bấy giờ, ma vương Ba-tuần cảm thấy rợn người, tâm sinh kinh hãi, liền nói:

–Thấy thế giới này đều chẳng còn là thế giới.

Thế rồi buồn bã khóc lóc biến thành một lão già, như người trăm tuổi, tóc bạc, mặt nhăn nheo, thân thể tiều tụy lụ khụ. Lúc này, Ma vương liền nhóm họp bốn thứ ma binh và các thứ ma ở cõi trời, đều đến chỗ Đức Phật, cũng như khi Đức Như Lai mới thành đạo, chúng sửa soạn các thứ binh khí hăm hở kéo đi, nhưng mỗi người thấy thân ḿnh đều là những người già suy, như người trăm tuổi thân thể lom khom. Chúng cầm khí trượng đi đến trước Phật.

Bấy giờ, bốn thứ binh và các vị trời trong hư không đều nghe Đức Phật Thích-ca Mâu-ni chuyển Pháp luân không thoái chuyển, khiến chúng không thể tiến tới được, liền đứng qua một bên, lòng kinh hãi nghi ngờ, thảy đều không còn theo sự sai khiến của Ma vương nữa.

Khi ấy, Ma vương một ḿnh, đi đến chỗ Phật, không còn bè bạn, bạch Đức Phật:

–Bạch Thế Tôn! Hiện giờ tôi đã già suy quá đỗi, mong được Thế Tôn thương xót giúp cho kẻ tay chân. Những cõi nước trước kia vốn là của tôi th́ nay đều chẳng còn là của tôi. Như Lai là Đấng Đại Bi luôn thương xót tất cả chúng sinh, lẽ nào không giúp cho tôi một người để làm tay chân hay sao?

Đức Phật bảo Ma vương Ba-tuần:

–Ta xem chúng sinh trong các cõi rất nhiều, ví như cát sông Hằng không thể lường tính được. Giá như ngày ngày đều có các Đức Phật xuất hiện và độ vô số chúng sinh đạt đến giải thoát th́ dù trải qua một kiếp hay hơn một kiếp cũng không thể khiến cho số lượng chúng sinh ấy giảm bớt.

Ma vương bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Chúng sinh các loài tuy nhiều vô lượng, nhưng tôi hiện không có được một người để có kẻ hầu hạ giúp đỡ, nếu có bị vấp té th́ lấy ai giúp đỡ? Nên kính mong Đức Như Lai từ bi thương xót an ủi vỗ về khiến tôi được vui vẻ trở về cõi trời cùng các quyến thuộc.

Đức Phật bảo:

–Chúng sinh điên đảo chẳng tin chánh pháp đều là quyến thuộc của ngươi, đó chính là tay chân của ngươi, là bạn bè của ngươi!

Ma vương Ba-tuần nghe nói như vậy rất vui mừng, nói:

–Bây giờ tôi sẽ khiến cho tất cả chúng sinh không phát khởi lòng tin mà lại luôn sinh nghi ngờ. Đã rơi vào nghi ngờ th́ đều là vây cánh của tôi cả.

Nghĩ vậy, Ma vương liền bạch Phật:

–Kính mong Thế Tôn an ủi, chỉ dạy một lần nữa khiến tôi được vui mừng. Như Phật đã dạy là: Nếu như có chúng sinh nào được nghe và xưng niệm danh hiệu Phật th́ đều được không lui sụt trên đường tiến đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vây kính mong Như Lai nên yên lặng đừng nói về Pháp không thoái chuyển ấy. Nếu có chúng sinh nào được nghe danh hiệu Phật th́ các chúng sinh đó sẽ siêng năng tinh tấn tu đạo Bồ-đề. Kính mong Thế Tôn an ủi, chỉ dạy như thế!

Bấy giờ, Đức Phật bảo ma vương Ba-tuần:

–Ngươi chớ nên buồn khổ, nên vui mừng mà trở về cõi trời. Nay ta sẽ khiến cho không một chúng sinh nào phát tâm Bồ-đề. cũng khiến cho không một chúng sinh nào nhận thức hiểu biết về thế giới chúng sinh, cho đến không một chúng sinh về năm ấm là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nhận thức hiểu biết về thân kiến, nghi, giới, thủ... Cũng không có chúng sinh nào có ý tưởng nhận thức về quá khứ, hiện tại, vị lai. Cũng không một chúng sinh nào đối với các tội như sát sinh, trộm cắp, dâm dật, nói dối, nói lời hai lưỡi, nói lời ác độc, nói lời thêu dệt, tham dục, giận tức, tà kiến mà nhận thức t́m hiểu để trừ bỏ. Cho đến không thấy chúng sinh nào đối với các thứ tà vạy sai lầm mà có thể nhận thức để xa lánh. Ta cũng không thấy chúng sinh tu tập sáu pháp là Bố thí, Tŕ giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí tuệ. Không thấy chúng sinh sẽ dứt hết mọi ý tưởng về chúng sinh, thọ mạng, cha mẹ, anh em, vợ con, nam nữ, ngày đêm, một tháng, nửa tháng, vài năm, một kiếp... Các ý tưởng về Bố thí, Tŕ giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ, về lực Vô úy, năm Căn, bảy Giác ý, tám Chánh đạo, các ý tưởng về Phật, Pháp, Tăng, về Bồ-đề, vô ngại, tất cả các pháp bất động. Nói chung là không có một chúng sinh nào đối với các ý tưởng ấy mà có thể nhận thức t́m hiểu để học hỏi tu tập.

Này ma vương Ba-tuần! Ngươi chớ sinh lo buồn, hãy vui mừng mà trở về.

Lúc này, ma vương Ba-tuần nghe Phật nói thế tức th́ không còn lo buồn, lòng đầy vui mừng, ngay lúc ấy liền trở lại thành một chàng trai, liền tung rải hoa trời lên chỗ Phật, đi nhiễu quanh Phật ba vòng, lại đến trước Phật nói kệ:

Giờ tâm tôi vui mừng

Bậc Chánh Giác cứu đời

Lời Phật nói không khác

Chân thật chẳng luống dối.

Ma vương Ba-tuần nói bài kệ ấy xong, vui mừng ra đi, trở về cung trời, vui chơi năm thứ dục lạc, không còn dấy khởi tâm quấy phá, nhiễu loạn nữa.

Ma vương vừa đi không bao lâu, tức th́ mặt đất rung chuyển sáu cách. A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nay v́ sao mặt đất này rung chuyển sáu cách như vậy. Đâu phải là năng lực của ma?

Đức Phật nói:

–Đó là do năng lực thần thông của ta đã đuổi trừ được ma khiến cho mặt đất này rung chuyển sáu cách như thế. Lúc này, có đến sáu mươi bốn trăm ngàn chúng sinh được pháp Nhẫn vô sinh, do đó mà mặt đất rung chuyển đủ sáu cách như thế.

A-nan bạch Phật:

–Có chúng sinh nào khởi tâm nghi ngờ không?

Phật bảo:

–Có tới mười ức người sinh tâm nghi ngờ, họ cho rằng, hôm nay chúng ta ở đây không có nghe lầm chăng? Thế rồi tâm ý đều rối loạn mê mờ, không còn biết bốn phương, không biết ḿnh từ đâu đến... đó là do si mê, tăm tối nên không thấy nhau.

A-nan bạch Phật:

–Cúi mong Thế Tôn hãy mau thương xót, giúp cho các chúng sinh ấy tâm ý được trở lại sáng suốt thông tỏ, ĺa bỏ mọi nghi hoặc.

Đức Phật dạy:

–Pháp tướng giả danh do Như Lai nói. Nếu không biết được th́ đều đọa vào địa ngục.

A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! V́ sao Như Lai khiến cho Ma vương tâm hết lo buồn, vui mừng mà ra đi. Như Lai lại nói là không có một ai an trụ nơi đạo Bồ-đề, cũng không có một chúng sinh nào có thể nhận thức hiểu biết về thế giới chúng sinh, đối với năm ấm, về thân kiến, về sáu mươi hai thứ kiến chấp thường đoạn hữu vô, về quá khứ, hiện tại, vị lai các thứ tướng, cũng không có một chúng sinh nào đối với tội lỗi như sát sinh, trộm cắp, dâm dật, nói dối, nói lời ác độc, nói lời hai chiều, nói lời thêu dệt, tham lam, sân hận, si mê, tà kiến... mà biết nhận thức t́m hiểu để dứt trừ. V́ sao Như Lai lại an ủi chỉ dẫn ma vương Ba-tuần như thế mà cho rằng: không có chúng sinh tu tập hạnh Bố thí, Tŕ giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ. Cũng không có chúng sinh có ý tưởng về thọ mạng, về cha mẹ, vợ con, anh em, nam nữ, ngày đêm, một tháng, nửa tháng, nhiều năm, thời tiết, nhiều kiếp... V́ sao Như Lai nói như thế là an ủi Ma vương Ba-tuần khiến chúng hết lo buồn, vui mừng mà ra đi. Lại cũng không có chúng sinh nào nhận thức để t́m hiểu, tu tập về tâm Bồ-đề, về các Căn, Lực, Vô úy, Giác ý, Đạo, Phật, Pháp, Tăng...

Kính mong Thế Tôn v́ chúng đệ tử hiện có nơi chúng hội này mà nêu rõ soi sáng, khiến cho tất cả chúng sinh ở đời vị lai cũng được hưởng công ân soi sáng chỉ dạy ấy. Đã được thông tỏ th́ đối với pháp này sẽ được lần lượt tiếp nối, phát huy không để cho bị gián đoạn, mai một. Nếu có chúng sinh nào phát tâm quyết chí tin tưởng lãnh hội thọ tŕ pháp này th́ sẽ v́ người ấy mà nói rõ nguyên do v́ sao Như Lai nói như thế.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền v́ vô số trăm ngàn chúng sinh nhằm dứt trừ mối nghi ngờ cho họ, nên nói lại bài kệ:

Bồ-đề không chỗ trụ

Cũng không người an trụ

Do bởi nhân duyên đó

Nói Bồ-đề vô trụ.

Bồ-đề và chúng sinh

Chẳng một, cũng chẳng khác

Do bởi nhân duyên đó

Nói Bồ-đề vô trụ.

Chúng sinh vốn chẳng động

Cõi ấy cũng như thế

Pháp ấy không thành tựu

Rốt ráo không thật có,

Thể tướng chúng sinh không

Cõi ấy khó nghĩ bàn

Không người có thể hiểu

Trí tuệ nhận thức khắp.

Chỉ Nhất thiết trí hiểu

Như các ấm đã nói

Chúng sinh không tướng động

Ấm tức là chúng sinh

Tướng không hai, không trụ,

Thể của ấm là không

Tánh, tướng là bất động

Nếu không tướng giữ được

Th́ làm sao có động?

Cho nên biết các ấm

Cũng không có tướng động

Dứt bặt mọi lời nói

Vô tướng cũng vô thể.

Thân chính là tướng ấm

Ấm chính là hành xứ

Không hành xứ mà hành,

Nói ấm gọi là không.

Cõi không như đã nói

Chẳng sinh cũng chẳng khởi

Như thế đồng với ấm

Gọi là chẳng thể động.

Thân thấy tướng vô thế

Cũng không pháp thật có

Không thật, nên vô động 

Nay ta nói như thế.

Chẳng chấp tướng chúng sinh

Rốt ráo không chỗ trụ

Cũng không có tướng tâm

Thân, chỗ, không thật có.

Như nói các kiến chấp

Hiển bày sáu mươi hai

Các chúng sinh như thế

Cũng như bóng đáy nước.

Kiến chấp bóng đáy nước

Sáu hai cũng như thế

Vô ngã, không thật có

Tánh ấy chẳng thể động.

Quá khứ và vị lai

Hiện tại cũng như thế

Vô tướng, không thật có

Đều như lửa, bóng nước

Đó gọi là vô ngã

Không có tướng chúng sinh

Chúng sinh chẳng thể động

Cũng không có người động

Ví như kẻ sát sinh

Ở đồng rộng sinh tử

Cũng trụ nơi vắng lặng

Đó gọi là bất động.

Nếu khiến chúng sinh động

Chúng sinh không thật có

Thật chẳng có chúng sinh

Cho nên nói bất động.

Bồ-đề không đứt đoạn

Cũng không có người độ

Cho nên phải siêng tu

Không được đối người động

Pháp thí chẳng nghĩ bàn

Độ chúng sinh quá khứ

Phải nên siêng tu tập

Đó gọi không thể động.

Độ thoát mọi tà dục

Cũng không dấy tưởng tà

Phải nên siêng tu tập

Đó gọi không thể động.

Các chúng sinh nói dối

V́ khiến được giải thoát

Sẽ phát tâm tinh tấn

Như tướng chẳng động kia.

Ác khẩu và hai lưỡi

Thêu dệt cũng như thế

Tướng b́nh đẳng như vậy

Như ánh lửa không thật.

Các pháp đều như thế

Cũng không chỗ nương dựa

Như âm vang tiếng gọi

Khéo biết tướng vắng lặng

Các vô minh quá khứ

Đắm ngã nên sinh ái

Nếu chứng được vô ngã

Đó gọi là bất động.

Nếu rõ phiền não hại

Thể tánh vốn vô tướng

Vô tướng tức Bồ-đề

Đó gọi là bất động.

Hiểu rõ các tà kiến

Trí chân chánh tu đạt

Tu hành các chánh trí

Ĺa rừng rậm tà kiến

Đó gọi là bất động.

Nếu tâm không còn dục

Hiện nhận bảo nữ dâng

Cho đến các đồng nữ

Kẻ trí thường xa ĺa.

Dùng tướng tà giữ giới

Nhưng không bỏ chánh pháp

Người trí không tâm ý

Chỉ mong cầu đạo Thánh.

Đó là tu pháp nhẫn

Hiển bày các ngoại đạo

Vô tâm mà hành nhẫn

Cũng không gần Niết-bàn.

Ngoại đạo tự bày khác

Năm nhiệt là tinh tấn

Chẳng phải điều trí tu

Khổ hạnh chẳng Bồ-đề

Định mà ngoại đạo nói

Chấp tướng làm chỗ hành

Không được Phật khen ngợi

Không khiến kẻ khác học.

Bồ-đề không sợ hãi

Che chở các chúng sinh

Do nhân duyên ấy nói

Chấp tướng không hề động.

Chẳng thuộc loại chấp đắm

Sinh ra tâm Bồ-đề

Bồ-đề không chấp tướng

Do đó chẳng thể động.

Cha mẹ anh em thảy

Chị em và vợ con

Ví như vật huyễn hóa

Do đó chẳng thể động.

Tất cả chấp pháp tướng.

Thảy đều không thật có

Nếu trụ không thật có

Do đó chẳng thể động.

Nếu có tưởng ngày đêm

Một tháng và nửa tháng

Tất cả tưởng như thế

Như lửa, bóng đáy nước

Bố thí và Tŕ giới

Tu Nhẫn nhục, Tinh tấn

Đều khởi lên chấp đắm

Tưởng ấy gọi là động.

Bồ-đề thế lực mạnh

Tu Thiền định, Trí tuệ

Nếu có tưởng Vô úy

Tất cả tưởng chẳng tưởng

Giác ý và chánh đạo

Vốn có tưởng Bồ-đề

Ngu si sinh khởi lên

Người hiểu biết xa ĺa

Phật và tưởng các pháp

Cho đến có tưởng tăng

Các thứ tưởng như thế

Đều gọi là tưởng động.

Bồ-đề là vô tưởng

Chủng trí tức Bồ-đề

Xa ĺa tưởng như vậy

Bồ-đề khó nghĩ bàn.

Cho nên nói như thế

Kẻ cầu như bóng nước

Nếu động tưởng ấy rồi

Th́ chẳng xa Bồ-đề

Bồ-đề và chúng sinh

Tất cả pháp như như

Nên ta nói như thế

Không biết tâm ma ác.

Đức Phật lần lượt nói kệ đuổi trừ bọn ma xong, th́ có mười ức chúng sinh dứt bỏ nghi ngờ, đạt được sự thông tỏ đối với các pháp, được pháp Nhẫn vô sinh, thế rồi tất cả các vị ấy đều đến trước Phật nói kệ:

Phật đạo khó nghĩ bàn

Là Tối thắng bậc nhất

Nên hiệu là Thế Tôn

Dứt nghi, được an định.

Tất cả đều sáng tỏ

An trụ trong Phật đạo

Ánh sáng khắp mười phương

Thấy vô số ức Phật.

Thấy Phật, được nghe pháp

Tướng tốt, thân trang nghiêm

Trừ nhơ, được trí tịnh

Bậc Năng Độ cứu đời

Trong trăm ngàn ruộng phước

Ruộng phước Phật tốt nhất

Tùy nơi Phật an trụ

Bậc Cứu đời Vô thượng.

Lúc ấy, có mười ức chúng sinh nghe kệ ấy, rồi đều dâng y phục quý giá lên cúng dường Đức Phật và cúng dường Pháp, đều nói:

–Xin khiến cho tất cả chúng sinh đều được nghe pháp này, đều cùng đến nhóm họp.

Bấy giờ, Tôn giả A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Thế Tôn đã chuyển Pháp luân đuổi ma, các vị nam nữ trong dòng họ của Đức Như Lai đã được nghe, đều được giải thoát, tin nhận không nghi ngờ, thế th́ được bao nhiêu phước đức?

Đức Phật dạy:

–Này Tôn giả A-nan! Nếu như có các vị nam nữ trong dòng họ của Như Lai vào lúc mặt trời mới mọc gần gũi cúng dường cung kính tôn trọng khen ngợi một trăm vị Phật, vào giữa trưa gần gũi cúng dường một trăm vị Phật, cho đến buổi chiều cúng dường một trăm vị Phật, vào lúc đầu hôm cúng dường một trăm vị Phật, lúc nửa đêm cúng dường một trăm vị Phật, lúc gần sáng cúng dường một trăm vị Phật, dùng các thứ nhạc cụ hay, y phục quý giá cúng dường Phật trong hai vạn năm, sáu thời trong một ngày tôn trọng khen ngợi, đi đứng ngồi nằm tu hành cúng dường, vẫn như lúc đầu không hề tạm nghỉ.

Này A-nan! Vậy ý của ông nghĩ sao? Phước đức ấy có nhiều hay không?

Tôn giả A-nan thưa:

–Bạch Thế Tôn! Phước đức ấy rất nhiều, không thể dùng thí dụ mà biết được số lượng.

Đức Phật nói:

–Này A-nan! Nếu các vị nam nữ trong dòng họ của Như Lai, được nghe về đoạn kinh đuổi trừ ma này, lần lượt nghe về ý nghĩa của nó, lại tin hiểu không sinh nghi ngờ th́ công đức của những người ấy còn hơn trường hợp cúng dường kể trên rất nhiều.

KINH PHÁP LUÂN KHÔNG THOÁI CHUYỂN

QUYỂN 1    QUYỂN 2    QUYỂN 3    QUYỂN 4

KINH PHÁP LUÂN KHÔNG THOÁI CHUYỂN

Hán dịch: Không rõ tên người dịch, Đại sư Tăng Hựu đời Lương sao lục.

Việt Dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 4

Phẩm 7: THỌ KÝ

Phật bảo:

–Này các thiện nam! Lại có ba vị Đại Bồ-tát từ phương Đông đến an trụ trong đạo Đại thừa, cầm đóa hoa Mạn-đà-la có trăm ngàn muôn cánh tỏa sáng như mặt trời vừa mới mọc.

Tôn giả A-nan cùng tất cả các vị trong chúng hội đều trông thấy và cho là đều chưa từng có. Lúc này, Tôn giả A-nan liền bạch Phật:

–Bạch Phật Thế Tôn! Ba vị trong dòng họ của Đức Như Lai từ chốn nào đến?

Đức Phật đáp:

–Về phương Đông, trải qua hằng hà sa số thế giới, có thế giới tên là Tu-di liên hoa, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vân Thượng Công Đức Như Lai, hiện đang trụ thế. Trong đó, ba vị thiện nam, vừa mới nghe pháp, từ cõi ấy đến đây. Bấy giờ, ba vị Bồ-tát đứng trước Đức Thế Tôn, tung rải hoa Mạn-đà-la lên chỗ Phật để cúng dường, sau đó cùng bạch Phật:

–Chúng con đối với pháp này rất sinh tâm tin tưởng, lãnh hội sâu xa, không có nghi ngờ. V́ sao? V́ Đức Như Lai Thế Tôn đã nhờ pháp này mà không còn nghi ngại, cho nên hôm nay chúng con cũng không còn sự nghi ngại.

Lúc này, vị Bồ-tát thứ nhất trong ba vị Bồ-tát bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu có người gọi Thế Tôn là Như Lai th́ con chính là Như Lai. V́ đối với pháp này đều không còn nghi ngờ.

Vị Bồ-tát thứ hai lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu có người xưng gọi Thế Tôn là Thế Tôn, th́ con chính là Thế Tôn, cũng đối với pháp này đều không còn nghi ngờ.

Vị Bồ-tát thứ ba bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu có người xưng gọi Thế Tôn là A-la-ha Tam-miệu Tam-phật-đà th́ con cũng là A-la-ha Tam-miệu Tamphật-đà, v́ cũng đối với pháp này không còn nghi ngờ.

Bấy giờ, trong đại chúng có vô lượng trăm ngàn ức người, tất cả đều kinh ngạc, tâm chẳng vui thích, cùng bàn tán với nhau: Chúng ta từ trước đến nay chưa hề nghe nói ở một thế giới mà có tới hai vị Phật. V́ sao hôm nay ba vị Đại sĩ ấy mỗi vị đều tự xưng là Phật, đều ở trước Thế Tôn mà nói như thế? Chỉ có Phật, Như Lai là Bậc Tôn quý trong trời, Người đối với tất cả các pháp đều được tự tại, thông suốt ba đời không chút trở ngại. Do đâu mà ba vị Bồ-tát hôm nay đều nói như vậy?

Lúc này, Tôn giả A-nan liền bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Ba vị Bồ-tát ấy tên là ǵ mà có thể ở trước Phật vừa bày tỏ những lời như tiếng rống của Sư tử?

Đức Phật đáp:

–Ba vị Bồ-tát đó, vị thứ nhất tên là Nhạo Dục Như Lai Thanh Chánh Trụ, vị thứ hai tên là Nhạo Dục Thế Tôn Thanh Chánh Trụ, vị thứ ba tên là Nhạo Dục Phật Thanh Chánh Trụ. Này A-nan! Do nhân duyên như thế nên ba vị Đại sĩ ấy mới nói những như vậy.

Tôn giả A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Như vậy là có đến hàng trăm ngàn muôn ức vị trong chúng hội, tâm đều kinh ngạc do nghe ba vị Bồ-tát ấy nói những lời vừa rồi. Lại có người nghe, tâm không kinh ngạc hay nghi ngờ mà lại tăng thêm sự thanh tịnh tốt đẹp. Ví như có người trẻ tuổi luôn trang sức dung mạo ḿnh, h́nh thể tươi đẹp thanh tịnh, tinh khiết, lại tắm gội, dùng hương thơm, dầu thơm xoa thân, lại dùng nhựa hương chiên-đàn đỏ rảy lên người nữa. Như vậy là người trẻ tuổi ấy càng thêm thơm tho trong sạch bội phần. Cho nên, nếu người nghe được pháp này, tin tưởng thọ tŕ không nghi ngờ th́ cũng ví như người ấy vậy.

Tôn giả A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! V́ sao các vị Bồ-tát lại nói như thế?

Phật dạy:

–Ba vị Bồ-tát này đã khéo hiểu về giả danh, cho nên nói lời ấy.

Tôn giả A-nan nói:

–Đúng thế, đúng thế! Ba vị Bồ-tát đó đã khéo nói về giả danh. Cúi mong Thế Tôn giải thích lại cho con nghe, cũng khiến cho đại chúng tâm ý được thêm sáng tỏ.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền v́ hàng trăm ngàn muôn ức chúng sinh, nhằm giúp họ cởi bỏ mối nghi ngờ hối hận, gieo trồng căn lành nên liền nói kệ:

Nếu thấy được quá khứ

Vị lai cũng như thế

Biết các pháp như thật

Đó gọi là Như Lai.

Hiện tại cũng như vậy

Quá khứ, vị lai đồng

Chẳng một, cũng chẳng khác

Tướng rốt ráo vắng lặng.

Thệ như Phật quá khứ

Hành thí chẳng nghĩ bàn

Thí ấy cũng như thế

Do vậy nói giả danh.

Ví như Phật quá khứ

Trụ Bồ-đề vô ngại

Trụ ấy cũng như thế

Đó gọi là Như Lai.

Tất cả pháp không trụ

Bồ-đề cũng vắng lặng

Không có tướng Bồ-đề

Đó gọi là Như Lai.

Nếu nói giới quá khứ

Vị lai cũng như vậy

Hiện tại đều đồng nhau

Đó gọi là Như Lai.

Đời quá khứ hành nhẫn

Bồ-tát chặt tay chân

Nhẫn ấy cũng như thế

Đó gọi là trụ nhẫn.

Nếu phát khởi tinh tấn

Vun trồng gốc giác ngộ

Được tinh tấn ấy rồi

Đó gọi là Như Lai.

Tất cả pháp b́nh đẳng

Được chứng như thật kia

Cũng chẳng chấp tướng ngã

Đó gọi là Như Lai.

Không chấp đối các pháp

Tất cả đều b́nh đẳng

Biết b́nh đẳng ấy rồi

Vô tướng, không thật có,

Các chánh định như vậy

Không chấp tướng các pháp

An trụ trong thiền định

Đó gọi là Như Lai.

Tánh, tướng tất cả pháp

Và các pháp đã nói

Biết tánh, tướng ấy rồi

Như thật, không thật có,

Phải biết các pháp không

Trí tuệ chẳng ruộng phước

Biết đó chẳng phải trí

Đạt đến trí giải thoát.

Như đến bờ giác kia

Trí tuệ không nghĩ bàn

Nhưng không được trí này

Đến bờ kia vắng lặng

Tướng như, trí chẳng đạt

Không có bờ này, kia

Trí chẳng đạt như vậy

Đó gọi là Như Lai.

Bồ-đề chẳng như được

Phàm ngu chẳng thể nghĩ

Tất cả pháp vô đắc

Đó gọi là Như Lai.

Nếu đạt được vô ngại

Mà tới chốn Đại trí

Tất cả pháp không lợi

Chứng giác ngộ vô ngại,

Như đạo vốn tu tập

Bậc Cứu đời tế độ

Được đạo không nương kia

Biết rõ được thể, tướng

Tu tập như vậy rồi

Đạt được đạo Tối thắng

Điều phục đạo này rồi

Biết tất cả đều không,

Biết rõ đầu, giữa, sau

Đều đồng với các pháp

Pháp ấy là b́nh đẳng

Nên gọi là Như Lai.

Nếu đạo như Bồ-đề

Đó gọi trụ Bồ-đề

Giống như tướng hư không

Đó gọi là Như Lai.

Nói pháp như thế rồi

Như tướng đều b́nh đẳng

Nếu việc ấy vô ngại

Đó là trụ Bồ-đề.

A-nan biết giả danh

Lời nói là Như Lai

Lời nói cũng như thế

Hành xứ của người trí,

Bồ-tát không sợ hãi

Trí sáng chẳng lui sụt

Tất cả các hành xứ

Thảy nêu rõ như vậy,

A-nan biết thứ lớp

Những điều Như Lai nói

V́ các vị Bồ-tát

Khiến đạt được vô ngại.

Bấy giờ, Tôn giả A-nan liền nói kệ:

V́ bởi nhân duyên ǵ

Biết được tướng các pháp

Bồ-tát này vô ngại

Cũng gọi là Thế Tôn?

Đức Thế Tôn đáp:

Trong trăm ngàn muôn ức

Vô lượng vô số kiếp

Mới thành tựu Bồ-đề

Phật đạo khó nghĩ bàn

Thành tựu Bồ-đề rồi

V́ chúng sinh trụ thế

Chốn chốn thật không sinh

Đó gọi là Thế Tôn.

Đã vượt nẻo luân hồi

Chẳng còn bị sinh tử

V́ cứu độ chúng sinh

Đó gọi là Thế Tôn.

Không còn luân hồi nữa

Cũng không còn sinh tử

Làm sao nhổ gốc khổ

Hiệu thế Vô Thượng Tôn

Không nhớ nghĩ các pháp

Cũng không còn nguy khốn

Không có tướng chúng sinh

Vượt qua các khổ não,

Không trôi lăn sinh tử

Cũng không trụ sinh tử

Khiến chúng trụ như thị

Đó gọi là Thế Tôn.

Được các pháp không sợ

Đối Phật cũng như thế

Mênh mông không bờ mé

Nói pháp rất nhiều thứ.

Các pháp rốt ráo không

Thể tánh của Phật pháp

Thành tựu như thế rồi

Nhưng không thấy các pháp.

Nếu tinh chuyên tu hành

Thể tánh pháp là không

Tâm không còn sợ hãi

Đó là biết pháp không.

Biết các pháp như thật

Tất cả đều vọng tưởng

Hiển bày không sợ hãi

Pháp tướng thật như thế.

Đã vượt chốn sợ hãi

Cũng ĺa nơi an ổn

Không sợ cũng không hãi

Vượt qua các đường ác.

Cứu giúp bao chúng sinh

Ĺa nỗi sợ sinh tử

Chẳng còn bị sinh tử

Cứu độ được chúng sinh.

Đặt để chúng sinh trên

Bờ Niết-bàn vắng lặng

Cũng không tướng chúng sinh

Đó gọi là Thế Tôn.

Các pháp như hư không

Hiện rõ nơi muôn loài

Nơi ấy cũng không sợ

Đó gọi là Thế Tôn.

Tất cả pháp b́nh đẳng

Hiển hiện ra nhiều loại

Bồ-đề dứt phân biệt

Không có tướng Bồ-đề,

Chúng sinh tu như thế

Được thành tựu giác ngộ

Tu hành đúng lời dạy

Dứt các tưởng lo sợ,

Tưởng phân biệt Bồ-đề

Giống như tưởng chúng sinh

Vượt qua tất cả tưởng

Đó gọi là Thế Tôn.

Dứt bỏ tất cả tưởng

Bồ-tát th́ không cấu

Không có tướng tên gọi

Đó gọi là Thế Tôn.

Biết rõ tất cả pháp

Đồng với ĺa diệt hết

Quá khứ chẳng thật có

Đó gọi là Thế Tôn.

V́ chẳng trọng tên gọi

Nên gọi chẳng cầu danh

Người ĺa chấp tên gọi

Nói pháp rộng họ nghe,

Bồ-đề ĺa tên gọi

Như chỗ ở của kia

Chúng sinh trọng tên gọi

Nên xa ĺa Bồ-đề.

Tên gọi như tiếng vang

Phân biệt th́ nhiều loại

Tiếng cũng không phân biệt

Nương không có tên gọi,

Chẳng đắm tất cả tiếng

Tên cũng không chỗ nương

Bồ-đề không đùa bỡn

Đó gọi là Thế Tôn.

Các pháp như thế ấy

Do Thế Tôn giảng nói

Bồ-tát chẳng đạt được

Đó gọi là Thế Tôn.

Nếu hiểu việc tu đạo

Không, có người biết được

An trụ trong Bồ-đề

Dứt ngại, gọi vô lậu.

A-nan! Giả danh này

Chỉ dùng ngôn ngữ nói

V́ thế ta nay xưng

Danh hiệu là Thế Tôn.

Tôn giả A-nan lại nói kệ:

V́ bởi nhân duyên ǵ

Bồ-tát nói như thế

Lại v́ nhân duyên ǵ

Được tôn xưng là Phật?

Đức Phật đáp:

A-nan đệ tử Phật

Tất cả pháp không ngại

Giác ngộ pháp vô ngại

Được tôn xưng là Phật.

Phật biết lỗi, phiền não

Làm cho không tự tại

Đã ĺa các kết sử

Được tôn xưng là Phật.

Nhờ không được thành Phật

Cũng không có tướng thân

Trong đó không chân thật

Làm sao thân thật được?

Chẳng bền, tưởng bền chắc

Phàm phu chấp là thân

Giác ngộ như thật rồi

Được tôn xưng là Phật.

Biết ngu si không trí

Thể tánh không thật có

Trí tuệ sáng đạt được

Được tôn xưng là Phật.

Vốn tưởng có quá khứ

Giác rồi không còn tưởng

Biết tưởng và vô tưởng

Không để tưởng tự tại.

Hiểu rõ đối sắc ấm

Vốn tự trụ vô sinh

Phàm phu vọng phân biệt

Chẳng sắc, chẳng thành tựu.

Biết rõ không cội gốc

Xưa nay không có tánh

V́ thế không lãnh thọ

Tất cả pháp không nương.

Tưởng như lúc lửa bùng

Nhân duyên không thật có

Do đó dứt bỏ tưởng

Tất cả pháp cũng thế.

Không có thân hành này

Tướng thân không bền chắc

Nếu biết thân hành không

Th́ sẽ không đắm thân

Thân này và tướng hành

Thảy đều như cây chuối

Biết chân thật như thế

Nên tôn xưng là Phật.

Cầu tướng chân thật thức

Chẳng nằm ở trong thân

Cũng lại chẳng ở ngoài

Làm sao có chỗ sinh?

Nếu thức ấy không sinh

Th́ các pháp cũng vậy

Đều không có nơi chốn

Hữu vi không thật có.

Biết thức như thế rồi

Rốt ráo không thật có

Thể tánh giống như huyễn

Cũng không có kẻ sinh

Nếu chẳng thể thấy thức

Chúng sinh cũng như thế

Thật chẳng có chúng sinh

Làm sao biết được thức?

Thức này không có thật

Các pháp rốt ráo không

Pháp cùng với chúng sinh

Tất cả không thành tựu.

Tất cả pháp vô tướng

Đã tỏ rõ như vậy

Vắng lặng không đùa bỡn

Nên tôn xưng là Phật.

Chứng biết đối Phật pháp

Chỗ chánh giác an trụ

Tất cả pháp đều không

Nên tôn xưng là Phật.

Như Lai là giác ngộ

Chỗ Chánh Giác an trụ

Phật và tướng Bồ-đề

Rốt ráo không thật có

Nếu sinh khởi tâm xứ

Cũng như trụ Bồ-đề

Tâm đồng với Bồ-đề

Phật giống như huyễn hóa.

A-nan! Giả danh này

Chỉ dùng ngôn ngữ nói

Được xưng gọi là Phật

Ta là Đấng cứu đời.

Tương tợ sinh như vậy

Đồng Phật âm thanh nói

Nếu được Pháp âm này

An trụ trong Bồ-đề.

Không đắm mê Bồ-đề

Nên hiểu biết như vậy

Chẳng nên sinh tâm nghi

Tất cả pháp không cầu.

Đối các pháp dứt nghi

Trên hết trong chúng sinh

Pháp tương tự như vậy

Nên biết tướng chân thật.

Đức Phật đã nói về ba danh hiệu Như Lai, Thế Tôn, Phật như thế, bấy giờ có trăm ngàn ức chúng sinh bạch Phật:

–Bạch Đức Thế Tôn! Chúng con thật sự nhờ ánh sáng của Phật soi sáng nên đã dứt bỏ được các nghi ngờ.

Các vị Đại Bồ-tát ấy đã nêu lên và Đức Thế Tôn đã nhân đó nói về các thứ giả danh, đã nói rõ về các danh hiệu Như Lai, Thế Tôn và Phật. Giờ đây chúng con đã biết như thế, đã hiểu như thế rồi, đối với tất cả các pháp đã được nhẫn lực. Đức Như Lai, Thế Tôn đã làm lợi ích lớn lao, giống như cha mẹ. Nhờ năng lực thần thông của Phật và tay trí tuệ của Phật đã kéo chúng con ra khỏi lầm lạc không còn bị nhiễu loạn nữa. Cũng như Đức Thế Tôn đối với tất cả đều bất động.

Bạch Thế Tôn! Ví như hư không, không ai có thể làm cho lay động. Cũng như vậy bạch Thế Tôn! Chúng con đối với tất cả các pháp tâm cũng bất động. V́ sao? V́ tất cả các pháp đều đồng với hư không, như Phật đã giác ngộ không có tướng động.

Lúc này, trăm ngàn ức đại chúng đi nhiễu quanh Phật ba vòng, rồi ngồi sang một bên cách chỗ Phật không xa.

Khi Phật nói phẩm Như Lai Thế Tôn Phật Danh này, Bồ-tát Thường Chiếu Tịnh Căn liền đứng dậy, sửa sang lại y phục bày vai áo bên phải, đầu gối phải quỳ sát đất, tung rải các thứ hoa lên chỗ Phật, đều nói kệ khen ngợi Phật:

Chúng sinh tham đắm quả

Đều khiến được giải thoát

Ĺa tưởng quả trọn nên

Thành tự ĺa tưởng quả

Nên con lễ Bậc Trí

Giảng nói các thứ quả

Khiến biết tướng b́nh đẳng

Chánh giác chứng b́nh đẳng

Quy mạng lễ Tối Thượng.

Chúng sinh thường tham đắm

Hành xứ các thứ quả

V́ Phật là giải thoát

Nên con lễ Bậc Trí

Hiển bày ra các pháp

An trụ chốn b́nh đẳng

Biết được b́nh đẳng rồi

Kính lễ Đấng Mâu-ni

Chúng sinh nhiều trói buộc

Rất nhiều các quả báo

Phật đều khiến giải thoát

Quy mạng lễ Vô Thượng

Thành tựu đạo vắng lặng

Không trụ các quả vị

Khéo biết tướng giả danh

Đảnh lễ Bậc Thế Trí.

Đại Bồ-tát Chiếu Minh Tịnh Căn nói kệ xong liền đi nhiễu quanh Phật ba vòng rồi đến cách chỗ Phật không xa để chiêm ngưỡng dung nhan, mắt không tạm rời.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Liên Hoa Thắng Tạng đứng dậy, sửa lại y phục bày vai bên phải, gối phải chấm đất, tung rải các thứ hoa cúng dường Phật. Lại khen ngợi Phật bằng bài kệ:

Chúng sinh thường chấp tưởng

Đều khiến dứt trừ hết

Ĺa sợ, được vui mừng

Kính lễ Đấng Mâu-ni.

Vắng lặng ĺa ba cõi

Không sợ mà nói pháp

Bậc mạnh mẽ trong đời

Kính lễ Đấng Mâu-ni.

Biết pháp vốn vắng lặng

Thế ấy không thật có

Nhiệm mầu trong các pháp

Kính lễ Đấng Mâu-ni.

Đã ĺa hẳn ba cõi

Dứt bỏ các kết sử

Ĺa sợ, được không sợ

Kính lễ Đấng Mâu-ni.

Không sợ cũng không hãi

Trên hết trong các thí

Vượt hơn tất cả thí

Kính lễ Đấng Mâu-ni.

Ĺa sợ được không sợ

Nhổ sạch tên ưu độc

Nêu các pháp giải thoát?

Kính lễ Đấng Mâu-ni.

Đại Bồ-tát Liên Hoa Công Đức Tạng nói kệ khen ngợi Đức Phật như thế xong, liền bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu có chúng sinh nào vào đời Mạt pháp được nghe kinh này, tâm không kinh sợ th́ con sẽ đảnh lễ họ.

Bấy giờ, Bồ-tát Ly Cấu Ý ở trước Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Thường nên rải các hoa

Điều người trí tu hành

Được nghe kinh này rồi

Sẽ khiến được giải thoát.

Đại Bồ-tát Quảng Tư Duy ở trước Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Pháp Phật rất sâu rộng

Hiển nói kinh như thể

Sẽ có ít chúng sinh

Tin nhận chẳng nghi ngờ

Tham đắm đối ngã kiến

Chấp ý tưởng về thân

Không tin nhâïn kinh này

Đó là kẻ không trí.

Đại Bồ-tát Liên Hoa Nhãn ở trước Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Thật v́ các chúng sinh

Mở bày mắt dẫn đường

Đối kinh pháp như thế

Chỉ người lành không nghi.

Đại Bồ-tát Bất Tư Nghị Giải Thoát ở trước Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Bậc tôn quý trong đời

Chúng sinh khó nghĩ bàn

Nói các kinh như vậy

Nghe dứt các nghi hối.

Đại Bồ-tát Thường Ức Niệm ở trước Đức Thế Tôn nói kệ:

Nếu người không nhớ nghĩ

Nhiều kiếp trong sinh tử

Không đắm mê các pháp

Tu hành th́ không nghi.

Đại Bồ-tát Bảo Y Giải Thoát ở trước Đức Thế Tôn nói kệ:

Y phục nhiều cả ức

Sạch sẽ và mềm mại

Mới, dày, xin phủ kín

Tu hành th́ dứt nghi.

Đại Bồ-tát Thí Thực ở trước Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Bày biện thức uống ăn

Đầy đủ các món ngon

Hằng ngày phải thường thí

Tu hành không có nghi.

Bồ-tát Bi Hành ở trước Đức Thế Tôn lại nói kệ:

V́ thương các chúng sinh

Nên thường thường kêu khóc

Kinh này thật sâu mầu

Chán ác không tu học.

Nếu từ địa ngục đến

Ắt ưa ở địa ngục

Tuy dường tu công đức

Khoảnh khắc liền sinh nghi

Gần gũi các bạn xấu

Chẳng tin pháp sâu xa

Lưới ngu si tự che

Sinh nghi ngờ như vậy.

Có những kẻ phá giới

Tâm ác thấy tội ấy

Nghe kinh chẳng tin nhận

Phỉ báng các hành này

Biếng nhác, không tinh tấn

Chẳng trụ trong Bồ-đề

Vô trí, tâm thấp hèn

Không hiểu hạnh như thế.

Chúng sinh thường ưa đắm

Ta thấy tâm tự tại

Luôn quanh quẩn ba cõi

Không thể tu hành được

Ngu si khởi tâm ác

Vô trí, đắm các dục

Thích ở chốn ồn náo

Làm điều phỉ báng ấy.

Kẻ ngu si trí kém

Tham lam, thích ăn uống

Chẳng tu pháp thanh tịnh

Nên làm việc phỉ báng

Chúng sinh nhiều tham đắm

Thiên chấp, lấy vọng tưởng

Chẳng biết là giả danh

Chỉ cứu đời độ được.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Năng Viễn Ly Giải Thoát ở trước Đức Thế Tôn nói kệ:

Xa ĺa các chúng sinh

Như bỏ vật nhơ uế

Hư giả như tiền bùn

Giải thoát đắm tướng quả.

Ví như thây chết hoại

Ác ấy rất đáng chán

Nếu bài báng hạnh ấy

Nên mau mau xa ĺa.

Như giặc cướp xóm làng

Ở nơi đường trống trải

Người nghe đều tránh xa

Mong chẳng gặp ác ấy.

Nếu thấy kẻ hủy hoại

Chán ác như giặc hại

Lại bài báng kinh này

Chớ thấy ác như thế.

Bấy giờ Tôn giả A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Các vị Đại Bồ-tát như thế rất là ít có. Tâm ý hiểu rõ, đó là do định lực của ḿnh hay là do thần lực của Phật?

Đức Phật nói:

–Đều là nhờ thần lực Phật mới nói được như vậy, cũng là uy lực công đức của kinh này nên mới được vô ngại. V́ sao? V́ các vị trong dòng họ của Như Lai đó đã từng trải qua sáu mươi hai ức Đức Phật, được nghe chính miệng các Đức Phật nói về pháp này không thêm không bớt, cũng như được nghe ta nói không khác. Do đó, nhớ nghĩ tất cả các năng lực thiền định và năng lực thần thông của các Đức Phật đời quá khứ.

Tôn giả A-nan thưa:

–Bạch Thế Tôn! Đúng thế, đúng thế! Tin tưởng lời Phật dạy, các vị Bồ-tát ấy hiện có thể chứng biết.

Phẩm 8: NHẬN RÕ

Bấy giờ, Tôn giả A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Các vị nam nữ trong dòng họ của Như Lai, nếu được nghe pháp này, lần lượt tin tưởng hiểu rõ không dấy khởi nghi ngờ, vậy th́ các vị ấy sẽ đạt được phước đức như thế nào?

Đức Phật dạy:

–Các nam nữ trong dòng họ của Như Lai an trụ trên đường tiến đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nếu như có người cúng dường Phật bảy thứ báu đầy khắp trong cõi Diêm-phù-đề th́ công đức của người ấy chẳng bằng được nghe kinh này thứ lớp câu nghĩa tin tưởng hiểu rõ không nghi ngờ th́ phước đức rất nhiều. Giả sử cúng dường hết toàn bộ bảy thứ báu trong cõi Diêm-phù-đề, cũng như toàn bộ các thứ châu báu trong các thế giới nhiều như số cát sông Hằng lên Đức Phật, nhưng nếu lại có các thiện nam, thiện nữ được nghe kinh này, thứ lớp câu nghĩa, tin tưởng hiểu rõ không nghi ngờ, tâm cũng không hối hận công đức của các vị ấy hơn hẳn trường hợp kia.

Khi ấy, Đức Thế Tôn liền nói kệ:

Giả sử khắp tam thiên

Các châu báu đầy dẫy

Cúng dường Đức Như Lai

Cứu độ các thế gian.

Nếu Phật nói kinh này

Mà có người lắng nghe

Trí tuệ được giải thoát

Phước ấy hơn người kia.

Ví như cát sông Hằng

Ở nơi các thế giới

Bảy báu đều đầy khắp

Thảy cúng dường Như Lai.

Đối với lời Phật nói

Tín nhận kinh điển này

Đó là trí giải thoát

Phước ấy cũng hơn kia.

Lúc này, Tôn giả A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu có các vị nam, nữ trong dòng họ của Như Lai tin nhận hiểu rõ kinh này, thọ tŕ đọc tụng, lại giảng nói cho người khác nghe th́ các vị ấy được bao nhiêu phước đức?

Đức Phật nói:

–Các nam nữ trong dòng họ của Như Lai ấy, trụ trong đạo Vô thượng, trong trăm kiếp tu hạnh bố thí, cúng dường Như Lai, cũng trải qua trăm kiếp tu các pháp Ba-la-mật là Tŕ giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ, lại trải qua trăm kiếp được năm thứ thần thông, tu tập đạt được mọi thứ trí thức ở thế gian, đầy đủ giới thân, nhưng nếu các vị đó xa ĺa kinh này th́ cũng không được gọi là tôn trọng cúng dường các Đức Như Lai. Nếu có các thiện nam, thiện nữ tin nhận hiểu rõ kinh này, thọ tŕ đọc tụng, lại giảng nói cho người khác nghe th́ những vị ấy sẽ được phước đức nhiều hơn trường hợp trên.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói kệ:

Giả sử trong trăm kiếp

Hết thảy các thức ngon

Cúng dường Bậc Cứu đời

Không gọi tôn trọng cúng.

Nếu người muốn cúng dường

Phải thọ tŕ kinh này

Xả bỏ tưởng phước báo

Tu tập cúng dường pháp,

Người cúng dường như thế

Mới gọi chân cúng dường.

Lấy pháp làm cúng dường

Pháp thân của Như Lai

Giả sử trong trăm kiếp

Dâng y phục cúng dường

Đấng Thế Tôn cứu đời

Thí nhiều các y phục

Không gọi là cúng dường.

Có người tŕ kinh này

Đó gọi chân cúng dường

Là Bậc nhất, trên hết

Giả sử trong trăm kiếp

Thường rải các hoa trời

Dâng cúng các Thế Tôn

Chưa gọi là cúng dường.

Nếu cúng dường Bậc nhất

Bậc Cứu đời độ thế

Nên thọ tŕ kinh này

Nên dứt tướng quả báo.

Nếu xây tháp bảy báu

V́ cứu đời mà lập

Tất cả như Tu-di

Không gọi cúng dường Phật.

Đây là cúng lớn nhất

Hơn hẳn cúng dường khác

Người tŕ được kinh này

Chẳng chấp tướng thân ta

Giả sử trong trăm kiếp

Tu giữ các giới cấm

Mà chẳng tŕ kinh này

Chưa gọi là hơn hết.

Nghe kinh và giữ giới

Xem giới là hơn hết

Cũng đối việc tŕ kinh.

Không nghĩ ḿnh tŕ kinh.

Không gọi là phạm giới

Cũng không gọi phá giới

Tu học được kinh này

Như lời ta giảng dạy.

Nếu tu được kinh này

Cũng khéo tu Bồ-đề

Tuy cùng tu Bồ-đề

Mà thật không điều học.

Giữ giới được như vậy

Điều kinh này hiển bày

Đối giới được đầy đủ

Đó gọi là giữ giới.

Giả sử trong trăm kiếp

Có người tu Nhẫn nhục

Đánh mắng không đánh lại

Tất cả đều nhẫn được.

Cho đến chặt tay chân

Mà không khởi ý khác

Cũng chẳng sinh oán hờn

Tất cả đều không nghĩ

Thực hành được nhẫn này

Đầy đủ trong trăm kiếp

Tuy tu nhẫn như vậy

Tâm không cho là hơn

Đó là nhẫn bậc nhất

Cũng gọi là khéo tu

Nếu được nghe kinh này

Tin hiểu mà thọ tŕ

Đó là nhẫn trên hết

Bậc nhất không ǵ hơn

Nếu đối với kinh này

Nghe rồi mà tin hiểu

Mong đạt được vô ngại

Trí tuệ Phật Vô thượng

Nên thọ tŕ kinh này

Th́ sẽ mau đạt được

Giả sử trong trăm kiếp

Tinh tấn thường không ngồi

Giờ kinh hành đã qua

Dứt bỏ sự ngủ nghỉ

Người trí tu kinh này

Nên giảng nói người nghe

Th́ được không sợ hãi

Đó gọi tinh tấn nhất.

Giả sử trong trăm kiếp

Chứng được năm thần thông

Nếu chẳng nghe kinh này

Không gọi thần thông nhất.

Nếu tŕ được kinh này

Gọi là thần thông nhất

Hơn những thần thông khác

Biết nghĩa mà không đắm

Giả sử trong trăm kiếp

Thường làm người trí sáng

Đầy đủ trí thế gian

Biết rõ việc thế gian.

Nếu chẳng học kinh này

Chưa xứng là người trí

Nếu tŕ được kinh này

Gọi là người sức mạnh.

Nếu biết được như thế

Đó gọi là người trí

Thọ tŕ kinh điển này

Nghe th́ tin, hiểu được.

Hiển bày trong kinh này

Hành xứ của người trí

Nếu tŕ được kinh này

Phải siêng năng tinh tấn.

Khi ấy, Tôn giả A-nan lại nói kệ:

Đi đủ trăm do-tuần

Hoặc cả ngàn do-tuần

Sẽ đến chỗ người trí

Nơi có kinh pháp này

Thường nên đến chỗ ấy

Để nghe được kinh này

Nghe rồi mà tin hiểu

Tâm họ thường thuận theo

Ví lửa khắp thế giới

Trăm ngàn ức do-tuần

Nếu chỗ có kinh này

Người trí mau đến nghe

Nếu cầu thiền định Phật

Hơn hẳn các thiền định

Nên nói kinh như thế

Dứt bỏ các phiền não

Nếu có người muốn bỏ

Ưa đắm đối thế gian

V́ hiển bày kinh này

Như lời Phật đã nói.

Nếu muốn thấy các Phật

A-súc là trên hết

Trong các thứ thọ tŕ

Kinh này là Bậc nhất.

Muốn được mọi niềm vui

Tu các hạnh Bồ-tát

Phải nên nói kinh này

Mau đến chỗ an vui.

Muốn thấy Bậc Chánh Giác

An dưỡng khó nghĩ bàn

Nên giảng nói kinh này

Như lời Phật giảng nói.

Lúc bấy giờ, Phật bảo A-nan:

–Lành thay, lành thay! Khi nói kinh này, các nam, nữ trong dòng họ của ta nếu được nghe rồi, tâm không tán loạn, đọc tụng kinh này, xa ĺa tất cả những chỗ gần gũi, tất sẽ dứt bỏ tất cả các thứ ràng buộc chấp đắm. Nếu muốn thấy Phật liền được thấy, khi sắp qua đời sẽ được tận mặt thấy trăm ngàn Đức Phật. V́ sao? V́ các vị ấy luôn được tất cả các Đức Phật che chở giữ ǵn, nói được kinh này lại còn thọ tŕ đọc tụng, kính tin, hiểu rõ, cũng giảng nói giải thích cho người khác nghe.

Phẩm 9: AN DƯỠNG QUỐC

Lúc bấy giờ, trong bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di có một vị đồng nữ tên là Sư Tử cùng năm trăm đồng nữ khác bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu có người nữ đọc tụng kinh này, lại giải thích, giảng nói cho người khác nghe th́ người nữ ấy được phước ǵ?

Phật bảo đồng nữ Sư Tử:

–Nếu có người nữ, an trụ trên đường tiến đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thọ tŕ đọc kinh điển như vậy, lại giảng nói cho người khác nghe, th́ nên biết rằng những người ấy đang mang thân nữ sau cùng, không còn thân nữ nữa. V́ sao? V́ những người ấy chẳng những thọ tŕ, đọc tụng kinh này, mà còn giảng nói cho người khác nghe, tâm không tán loạn, tất cả phiền não đều được dứt bỏ, nếu có người nữ muốn sinh phiền não th́ cũng không sinh được.

Đồng nữ Sư Tử bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! V́ sao tướng người nữ này có thể sinh ra phiền não?

Phật dạy:

–Này đồng nữ Sư Tử! Nếu có người nữ thấy cô gái khác xinh đẹp, trang sức bằng những xâu chuỗi quý giá làm bằng ngọc Ma-ni và các thứ châu báu khác, thấy như vậy th́ rất thích thú, phát khởi tâm tham đắm chứ không biết quan sát, ví như chiếc b́nh vẽ cảnh trí bên ngoài đẹp đẽ, nhưng bên trong đều là một khối chứa đầy những thứ bất tịnh phân dãi nhơ nhớp, kẻ phàm phu ngu si hôi thối cũng giống như thế. Bị chất bất tịnh xông ướp, phẩn tiểu đầy dẫy, không biết quán sát. Các tướng như thế lại sinh ưa đắm mà khởi tâm nhuốm bẩn v́ nhân duyên ấy nên thường phải làm thân nữ.

Phật bảo đồng nữ Sư Tử:

–Tất cả người nữ thường sinh tâm ganh ghét, lừa gạt, nói dối, ý nghĩ và lời nói trái nhau, hoặc đối diện trò chuyện th́ thường xin xỏ, đến chỗ Tỳ-kheo không phải v́ pháp, sinh tâm giận tức và tâm thích ngủ nghỉ, hoặc đến những nơi ồn ào náo nhiệt, gần gũi chuyện thế tục. Đối với kinh này hay làm những việc không lợi ích, không chịu nghe nhận, không giảng nói, không đọc tụng, ngày đêm thường khởi các tâm phiền não, xa ĺa giải thoát. V́ có những thứ tâm như vậy mà phải mang lấy thân nữ, khó ĺa bỏ được.

Này đồng nữ Sư Tử! Tất cả người nữ đều phải nên quán sát như thế rằng, ta phải làm thế nào để dứt bỏ các phiền não, không cho chúng sinh khởi trở lại. Người nữ như thế không có việc lợi ích, phải nghe kinh này, thọ tŕ đọc tụng, lại giảng nói cho người khác nghe. V́ sao? V́ nếu được nghe kinh này, lần lượt lãnh hội th́ chắc chắn sẽ dứt bỏ được tất cả phiền não.

Đồng nữ Sư Tử bạch Phật:

–Nếu có người nữ, đọc tụng kinh này, lại giải thích cho người khác nghe, nếu muốn xả bỏ thân nữ th́ có thể được chăng?

Đức Phật đáp:

–Này đồng nữ Sư Tử! Nếu có người thọ tŕ, đọc tụng kinh này, th́ đó là người mang thân nữ sau cùng, sẽ không còn trở lại làm thân nữ nữa, trừ trường hợp phương tiện thần thông biến hóa thị hiện thân nữ.

Này đồng nữ Sư Tử! Ví như có người đốt một đống lửa lớn rồi tự nhảy vào đó, đã nhảy vào lửa rồiù mà còn bảo chớ để lửa đốt cháy thân tôi, cũng đừng khiến cho thân tôi bị nám đen, này đồng nữ, theo ý đồng nữ th́ thế nào? Người ấy tuy nói như vậy mà có được như lời ḿnh nói hay không?

Đồng nữ thưa:

–Bạch Thế Tôn! không thể được. V́ sao? V́ tánh chất của đống lửa ấy là đốt cháy các vật cũng như hủy diệt thân sắc.

Đức Phật dạy:

–Này đồng nữ Sư Tử! Kinh này cũng giống như thế, có công năng đốt cháy tất cả các thứ củi phiền não hiện hành. Nếu muốn xả bỏ thân tướng người nữ th́ phải dứt trừ tham dục, thành tựu Phật pháp, muốn thấy vô lượng vô số a-tăng-kỳ các Đức Phật, được biện tài vô ngại, muốn phát khởi tâm Từ bi đối với tất cả chúng sinh... th́ cũng phải thọ tŕ, đọc tụng, biên chép kinh này.

Bấy giờ, đồng nữ Sư Tử và năm trăm đồng nữ bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Chúng con từ thời Phật Định Quang đã được nghe kinh này và thọ tŕ đọc tụng. Hôm nay chúng con lại v́ vô số chúng sinh mà nêu bày lại.

Lúc này, Tôn giả A-nan liền bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nay đồng nữ Sư Tử ấy và năm trăm vị đồng nữ kia v́ sao chưa chuyển thân nữ?

Phật bảo A-nan:

–Nay Tôn giả cho rằng đồng nữ Sư Tử và năm trăm đồng nữ kia thật là nữ chăng?

–Bạch Thế Tôn, đúng vậy!

Phật bảo A-nan:

–Chớ nói như thế. V́ sao? V́ đồng nữ Sư Tử này và năm trăm đồng nữ kia đều là thị hiện làm thân người nữ, chứ chẳng phải thật là thân nữ chỉ v́ đối với chúng sinh đời vị lai mà thị hiện biến hóa, v́ thương xót tất cả các người nữ mà hiện làm người nữ, giúp cho họ điều kiện để chán ghét ĺa bỏ thân nữ, v́ nếu làm thân người nam th́ khó có thể tiếp xúc đi đến tất cả các nơi chốn.

Này Tôn giả A-nan! Đồng nữ Sư Tử này và những đồng nữ kia chẳng phải là nam, cũng chẳng phải là nữ. V́ sao? V́ tất cả các pháp đều là chẳng phải nam chẳng phải nữ, vượt ngoài tất cả pháp tướng không thật có, đó mới thật sự là thông đạt. Các vị đồng nữ ấy đều thuận theo các pháp thế gian nên làm thân người nữ để hóa độ những người nữ khác tu học theo.

Khi ấy có năm trăm vị Tỳ-kheo-ni, đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật và bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Chúng con xin nguyện từ nay về sau sẽ thọ tŕ, đọc tụng, sao chép kinh này, giảng nói cho người khác nghe. V́ sao? V́ chúng con làm thân nữ này không có lợi ích ǵ, phải mau nhàm chán, ĺa bỏ. Chúng con xin nguyện kể từ hôm nay, đối với những người chưa hiểu kinh này th́ sẽ khiến cho họ được hiểu, những người chưa nghe th́ sẽ khiến cho họ được nghe, vào đầu hôm, nửa đêm hay gần sáng, ngoài việc ngủ nghỉ phải chuyên tâm suy nghĩ, quán tưởng.

Đức Phật dạy:

–Lành thay, lành thay! Các Tỳ-kheo-ni, các vị đã phát tâm đại trang nghiêm để tự trang nghiêm, phát tâm tinh tấn mạnh mẽ bậc nhất, thảy đều nhàm ĺa, muốn xả bỏ thân nữ, v́ muốn lợi ích đối với tất cả Phật pháp mà thọ tŕ, đọc tụng, sao chép kinh này, giảng nói cho người khác nghe. Các vị đều mang thân nữ này là thân nữ sau cùng.

Các vị Tỳ-kheo-ni nghe Phật nói như vậy, hớn hở vui mừng, liền cởi thượng y dâng lên cúng dường Phật và cùng nói kệ:

Chúng con mong an ủi

Mong được thân người nam

Như Lai không hai lời

Lời trên hết trong đời.

Bấy giờ, trong bốn bộ chúng có năm trăm vị phu nhân của các Trưởng giả, đứng dậy, sửa sang lại y phục, gối bên phải sát đất, quỳ thẳng chắp tay bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Kể từ hôm nay chúng con cũng thọ tŕ, đọc tụng, biên chép kinh này, giải thích cho người khác hiểu. Chúng con chỉ v́ mang thân nữ nên luôn bị người khác ràng buộc, chẳng được tự tại. Lại như phải mười tháng mang thai, làm sao tránh khỏi nỗi khổ cực. Cho dù được sinh trong chốn vương giả nhưng vẫn bị trăm mối hệ lụy, hoặc bị ràng buộc bởi cha mẹ, con cái… Kể từ hôm nay trở đi, sẽ dốc tinh tấn siêng năng tu tập, cho đến khi qua đời vẫn thọ tŕ chánh pháp.

Đức Thế Tôn liền khen ngợi năm trăm vị phu nhân của các Trưởng giả:

–Lành thay! Như lời các vị đã nói, từ hôm nay các vị sẽ được bỏ hẳn thân nữ, không còn phải chịu sự chi phối của người khác, cũng không còn chịu nỗi khổ của mười tháng mang thai, sẽ ĺa bỏ dâm dục và các bào thai, đời đời thường sinh về cõi Phật thanh tịnh.

Tôn giả A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Các vị phu nhân này ĺa bỏ được thân gái và sinh về cõi thanh tịnh nào?

Đức Phật nói:

–Các vị phu nhân này sẽ được sinh về thế giới Bảo tạng liên hoa quang.

Tôn giả A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Đức Phật ở thế giới ấy tôn hiệu là ǵ?

Đức Phật đáp:

–Ở thế giới ấy có Đức Phật hiệu là Nhất Thiết Bảo Như Ý Vương Quang Minh Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, hiện đang nói pháp bằng mọi cách để giáo hóa chúng sinh ở đấy. Như vậy các vị nữ trong dòng họ của Như Lai ấy đều được sinh về cõi Phật ấy, để được nghe kinh này.

Bấy giờ, các vị phu nhân nghe Phật dạy, trong tâm vui mừng hớn hở, liền cởi những xâu chuỗi anh lạc giá trị bằng trăm ngàn lượng vàng dâng lên cúng dường Phật, cúng dường xong cùng nói kệ:

Chúng con được ân sâu

Ĺa bỏ thân nữ này

Như Lai không hai lời

Nói ra đều chân thật.

Thân nữ xấu xa nhất

Nên mong sớm ĺa bỏ

Kẻ phàm ngu mê lầm

Chẳng rõ tướng chân thật.

Thai sinh thân nữ khổ

Nguyện chẳng làm nữ nữa

Ĺa được thai nữ rồi

Giác ngộ là Vô thượng.

Bấy giờ, các vị phu nhân của các Trưởng giả cùng kính chiêm ngưỡng Như Lai mắt không tạm rời. Thích Đề-hoàn Nhân tung rải hoa trời Mạn-đà-la lên chỗ Phật để cúng dường và bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng sẽ thọ tŕ kinh này.

Đức Phật nói:

–Này Kiều-thi-ca! Nếu khi ông chiến đấu với A-tu-la th́ thường được chiến thắng, không bị thất bại.

Bấy giờ Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử, và trăm ngàn ức chúng sinh đều phát khởi nhân duyên căn lành, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Lúc Như Lai chưa phát tâm Bồ-đề, th́ con đã quay bánh xe pháp không thoái chuyển này.

Đức Phật nói:

–Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Vô lượng ức các vị Bồ-tát trong muời phương thảy đều phát ra ánh sáng rực rỡ giống như vầng mặt trời, mặt đất rung chuyển sáu cách, các vị trời tung rải, vô số các loại hoa ngập tới gối.

Tôn giả A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên ǵ mà mặt đất rung chuyển sáu cách, các vị trời rải hoa xuống như mưa như vậy?

Đức Phật nói:

–Đó là do vô lượng trăm ngàn ức vị trời nghe lời dạy của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, tâm sinh vui mừng, nên tung rải hoa ấy và cùng nói: “Chúng tôi đều sẽ thọ tŕ, sao chép đọc tụng kinh này, cũng nguyện sẽ được như Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi giảng nói kinh pháp như thế, được nghe kinh rồi, tâm sinh vui mừng, mặt đất tất cả đều rung chuyển, các vị trời rải hoa như mưa.

Tôn giả A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Kinh này có công năng thành tựu những công đức lớn lao, kinh này rất sâu xa, ít có nhất. Nếu có chúng sinh nào được nghe kinh này, dù chỉ một lần th́ nên biết công đức người ấy không phải nhỏ.

Đức Phật dạy:

–Đúng thế! A-nan nên biết, các vị nam, nữ trong dòng họ của Như Lai đều đã cúng dường các Đức Phật đời quá khứ, v́ vậy mà hôm nay trong chúng hội này được nghe kinh này, sinh tâm kính tin, hiểu rõ, cho đến thọ tŕ, đọc tụng, giải thích. Nên biết rằng chỗ nào có kinh này th́ nơi đó chính là ngôi tháp của tất cả trời, người, lợi ích vô lượng, phước đức chẳng luống mất. Nếu nơi nào cất giữ kinh điển này và thọ tŕ cho đến sao chép th́ đều nên cúng dường tưởng như cúng dường Thế Tôn. Người được nghe kinh này, khi chết đi không bị rơi vào đường ác, người ấy hàng phục được các loài ma, dựng lên ngọn cờ chánh pháp, thường đốt ngọn đuốc chánh pháp, soi sáng những nơi tối tăm, thổi được ốc pháp, đến tận cội Bồ-đề, gióng lên tiếng trống pháp, khai mở các cửa pháp, tuôn xuống trận mưa pháp lớn, giúp cho những người cầu pháp đều được đầy đủ pháp vị. Kinh này hiển bày pháp giới, mở hết các kho báu tiềm ẩn của các Đức Phật thời quá khứ, thấu rõ tất cả các pháp, dứt bỏ các tưởng về năm uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, xa ĺa các tưởng về sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, ĺa các tưởng về tất cả pháp cho đến tưởng về Phật. Nếu người được nghe kinh này kính tin, hiểu rõ, thọ tŕ, đọc tụng th́ người ấy là đệ tử Phật chân chánh, đều từ pháp sinh ra.

Này A-nan! Nếu có vị thiện nam nào muốn ăn được pháp vị, ngồi dưới cội Bồ-đề trong đạo tràng như ta không khác th́ phải thọ tŕ, đọc tụng kinh này, giảng nói cho người khác nghe, cho đến tay cầm quyển kinh, cung kính cúng dường.

A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Vào thời kỳ mạt pháp, sẽ có người có khả năng thọ tŕ đọc tụng, tay cầm kinh này, cung kính cúng dường không?

Phật dạy:

–Nếu hiện giờ nghe kinh mà kính tin và hiểu rõ, th́ đời tương lai cũng dốc lòng thọ tŕ đọc tụng, giảng nói cho người khác nghe, tay cầm kinh này, lễ bái cúng dường. Nếu có Sa-môn, Bà-la-môn, Trời, Người, A-tu-la, hiện giờ nghe kinh này mà ở đời vị lai lại chẳng được nghe. Điều ấy không thể có được. V́ sao? V́ nhờ năng lực nhân duyên nghe pháp hiện tại, nên ở đời vị lai cũng được nghe pháp, sẽ kính tin, hiểu rõ. Ví như có vị trưởng giả sinh nhiều người con, gia đ́nh giàu có hết mực, của cải châu báu vô kể, nào vàng bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não, ngọc trai... đủ thứ ngọc quý giá, còn có cả voi ngựa, xe cộ, tôi trai tớ gái... tất cả những tài sản ấy đều được sắp đặt cất giấu có nơi có chỗ, rồi ông ta đi dạo chơi qua những nơi chốn khác, khi trở về quê cũ ḿnh th́ có thể t́m lại được những của cải quý giá ấy không?

–Bạch Thế Tôn! T́m lại được. V́ sao? V́ những của cải quý giá ấy ông ta đã biết rõ nơi cất giấu chúng.

Đức Phật nói:

–Này A-nan! Pháp bảo cũng như vậy, hiện nay được nghe th́ đó chính là pháp của ḿnh, đời sau lại được nghe. Nay ta dùng mắt Phật thấy đời hiện tại, những người đã thọ tŕ đọc tụng kinh này, th́ đời sau cũng sẽ được như vậy không khác. Nếu ở đời vị lai có các chúng sinh thọ tŕ kinh này, nếu dùng mắt Phật xem xét th́ thấy cũng như hiện nay không khác. Nếu có kẻ phỉ báng kinh điển này, ta dùng mắt Phật thấy rõ những người ấy cũng như hiện nay.

A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu người không tin, không hiểu, lại phỉ báng kinh này th́ sẽ đến nơi nào?

Đức Phật bảo:

–Hãy thôi, A-nan! Ông đừng nên hỏi như thế!

A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn hãy nói rõ về điều ấy, để giúp chúng sinh ở đời vị lai, nếu có kẻ không tin kinh này nghe thấy quả báo như vậy sẽ khiến họ sợ hãi mà phát tâm kính tin, thấu hiểu.

Phật dạy:

–Nếu có kẻ phỉ báng không tin kinh này th́ phải chịu quả báo rất đau khổ, tội ấy đồng như năm tội nghịch. Nếu có người dùng dao bén giết hại chúng sinh đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới, th́ theo ý của Tôn giả, tội báo của người ấy phải bị đọa lạc vào đường nào?

Tôn giả A-nan thưa:

–Nghiệp báo của người ấy sẽ bị đọa vào đường ác.

Phật dạy:

–Này A-nan! Nay ông nên biết. Nếu sau khi hằng hà sa Đức Phật nhập Niết-bàn, v́ cúng dường xá-lợi các Đức Phật mà xây dựng các tháp miếu tôn thờ, lại có kẻ phát khởi tâm ác thiêu đốt hủy hoại các tháp miếu ấy, th́ theo ý của Tôn giả, người đó phải chịu lấy tội báo như thế nào?

Tôn giả A-nan thưa:

–Hạng người như vậy sẽ chịu quả báo rất đau khổ không thể nói hết, cũng không thể nghe hết, nếu phỉ báng kinh này, mà nói về tội lỗi của việc phỉ báng ấy và tội báo phải chịu th́ cũng như thế, không thể nói hết hay nghe hết được. V́ sao? V́ người ấy đã hủy hoại tất cả Pháp nhãn của các Đức Phật đời quá khứ, hiện tại, vị lai.

Đức Phật dạy:

–Nếu thấy có người thọ tŕ, đọc tụng kinh này mà sinh tâm phỉ báng, khinh cười, chê bai, xúi người không tin, khiến cho họ không được đọc tụng, đúng như pháp thọ tŕ, th́ nên biết tội ác của người ấy rất nặng nề, còn hơn trường hợp trước.

A-nan bạch Phật:

–Nếu chúng sinh trong khắp tam thiên đại thiên thế giới, đều tu tập đầy đủ mười điều lành, an trụ trong đạo Bồ-đề. Nếu có người hủy hoại đôi mắt của những người ấy, th́ tội ác của kẻ ấy như thế nào?

Đức Phật nói:

–Trong vô số a-tăng-kỳ kiếp, người ấy hễ làm thân người th́ thường bị mù, ở trong địa ngục chịu khổ không ngừng, thường bị móc mắt.

Phật dạy:

–Nếu có người đối với kinh này tâm hủy báng, không kính tin th́ ta nói tội của người ấy cũng giống như trường hợp trên.

A-nan thưa:

–Nếu có vị Bồ-tát, trụ đạo giác ngộ, kính tin, thấu hiểu kinh này, thọ tŕ không nghi ngờ, th́ vị ấy sẽ sinh về cõi nào?

Phật dạy:

–Đó gọi là tùy thuận cúng dường các Đức Phật không hề sai khác.

A-nan bạch Phật:

–Nếu lại có người chẳng tin kinh này, tự ḿnh phỉ báng lại xúi người khác phỉ báng theo những kẻ như thế sẽ thọ thân như thế nào, chịu quả báo đau khổ như thế nào?

Đức Phật dạy:

–Hãy thôi, A-nan! Ông chớ nên hỏi điều ấy.

A-nan bạch Phật:

–Kính mong Thế Tôn hãy giải thích, giúp cho bốn chúng đệ tử ở đây, nếu có vị nào nghi ngờ chẳng tin, th́ sau khi nghe Phật chỉ dạy như vậy th́ sẽ tự hối cải về những lỗi lầm của ḿnh mà sinh tâm kính tin trở lại.

Phật bảo:

–Nếu có kẻ chẳng tin kinh này mà còn phỉ báng, th́ sẽ chịu quả báo có thân h́nh cao đến mười ngàn do-tuần, phải chịu thân h́nh cao lớn như vậy và chịu vô lượng sự đau khổ.

A-nan bạch Phật:

–Kẻ đó còn chịu quả báo về lưỡi như thế nào?

Đức Phật nói:

–Tội báo của người đó, lưỡi dài rộng mỗi bề một ngàn do-tuần, lại bị năm trăm ức chiếc lưỡi cày bằng sắt nung đỏ rực cày xới trên lưỡi người ấy, lại còn có năm trăm ức viên sắt nóng lên tuôn xuống như mưa trên lưỡi người đó. V́ sao? V́ người đó không biết ngăn ngừa nghiệp ác, tội lỗi phỉ báng nên phải chịu khổ như thế.

Lúc bấy giờ, bốn chúng nghe Phật nói như vậy, khắp ḿnh đều nổi ốc, buồn bã khóc lóc, ngã lăn ra đất, rồi cùng một lời bày tỏ với Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu như những vị nam, nữ trong dòng họ của Như Lai mà phỉ báng kinh này sẽ phải chịu tội báo như thế. V́ vậy mà chúng con hôm nay xin thay họ sám hối, khiến cho các tội lỗi được tiêu trừ, chẳng phải chịu lấy quả báo xấu xa cực ác như thế. Hôm nay, trước Thế Tôn và trước vô lượng các Đức Phật trong mười phương, chúng con là những kẻ ngu si mê tối, không tự biết tội lỗi của ḿnh, chỉ có mắt Phật th́ mới thật thấy thật chứng, chúng con thảy đều xin sám hối, từ nay về sau không dám gây tạo những tội ấy nữa. Ví như đứa trẻ chưa hiểu biết ǵ, không thể hiểu rõ, phân biệt căn lành. Hôm nay chúng con chí thành thống trách về tội lỗi của ḿnh, kính mong Thế Tôn rủ lòng thương xót nhận cho chúng con sám hối.

Phật dạy:

–Lành thay, lành thay!

Bấy giờ bốn chúng đệ tử cùng thưa:

–Hôm nay chúng con thành tâm tự quy y, tất cả các tội lỗi đều sám hối, không dám che giấu.

Đức Phật nói:

–Các vị đã chí tâm sám hối như vậy, tất cả các pháp lành đều được tăng trưởng.

A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Hiện nay trong chúng hội này, có người sinh tâm nghi ngờ th́ tội ác nghiệp chướng cũng như thế không?

Đức Phật nói:

–Nếu trong chúng hội này có người sinh tâm nghi ngờ liền sám hối th́ tất cả những tội khác và chịu quả báo cũng giảm nhẹ.

A-nan thưa:

–Thế nào là chịu tội giảm nhẹ?

Đức Phật nói:

–Lúc người ấy sắp chết, trong các lỗ chân lông trên thân ḿnh đều chịu khổ, giống như đang ở trong địa ngục không khác. V́ sao? V́ người ấy kính tin lời dạy của Như Lai và kính tin vô lượng a-tăng-kỳ các Đức Phật, cũng như đã tự sám hối.

Này A-nan! Các vị nam, nữ trong dòng họ của Như Lai không rời bỏ tất cả mắt Phật đời quá khứ, hiện tại, vị lai, nếu những người ấy muốn thấy vô lượng a-tăng-kỳ các Đức Phật và thấy vô lượng đóa hoa sen có cánh bằng kim cang với ánh sáng chiếu khắp nơi, tốt đẹp nhiệm mầu.

Bấy giờ, Thích Đề-hoàn Nhân hiện thân thành một vị trưởng giả, rải các thứ hoa khắp bốn chúng trong chúng hội, rồi nói:

–Sẽ dùng các thứ hoa này để cúng dường Phật, cho đến cúng dường kinh này.

Tức th́ bốn chúng đệ tử liền tung rải những thứ hoa đó lên chỗ Phật, tạo thành một lọng hoa, cùng bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên ǵ mà hiện ra điềm lành này? Hiện giờ ở trước Thế Tôn, có đóa hoa sen ấy, cũng như ở trước các Đức Phật nhiều như số cát sông Hằng cũng đều có hoa sen như vậy?

Đức Phật dạy:

–Nhờ công đức uy lực do giảng nói kinh này mà có điềm lành ấy. Nên biết các điềm lành ấy đều được năng lực thần thông giữ ǵn.

A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Năng lực uy thần của Phật có thể giữ ǵn được pháp này không?

Đức Phật dạy:

–Này A-nan! Chính là thần lực của ta giữ ǵn pháp ấy, cho đến hằng hà sa Đức Phật cũng đều giữ ǵn.

A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Kinh này sẽ được gọi là kinh ǵ và thọ tŕ bằng cách nào?

Đức Phật dạy:

–Kinh này tên là Vô Trước Quả Vô Hữu Chủng Chủng Chư Tạp Ác Báo, nên thọ tŕ như thế. Đối với các pháp Tín hành, Pháp hành, tám bậc, Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Thanh văn, Bích-chi-phật hiểu đó là giả danh, không chân thật, cứ theo ý nghĩa đó mà thọ tŕ. Gọi là Ĺa Bỏ Các Thứ Ma, nên thọ tŕ như thế. Kinh này cũng gọi là Xả Ma, nên thọ tŕ như thế. Cũng gọi là Lục Ba-la-mật, nên thọ tŕ như thế. V́ sao? Này A-nan! Nếu có người kính tin, thấu hiểu thọ tŕ, đọc tụng, biên chép kinh này, giảng nói cho người khác nghe, nên biết thiện nam, thiện nữ ấy đã đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật.

Tôn giả A-nan bạch Phật:

–Làm cách nào thọ tŕ, đọc tụng, biên chép kinh này, giảng nói cho người khác nghe th́ liền được đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật?

Đức Phật dạy:

–Nếu các thiện nam, thiện nữ đã kính tin, thấu hiểu kinh này th́ liền đầy đủ Đàn ba-la-mật. Đối với pháp này, tâm không phạm giới, đó gọi là Thi ba-la-mật. Nếu đọc tụng kinh này, tâm nhẫn không lui sụt tức là đầy đủ Sằn-đề ba-la-mật. Đối với kinh này, tâm không lui sụt, đó gọi là đầy đủ Tỳ-lê-da ba-la-mật. Kính tin, ưa thích kinh này, tâm không tán loạn, đó gọi là đầy đủ Thiền ba-la-mật. Hiểu rõ diệu lý kinh này, dứt các vọng tưởng phân biệt, đó gọi là đầy đủ Bát-nhã ba-la-mật. Cho nên kinh này tương ứng với sáu pháp Ba-la-mật. Cũng gọi là Nhất Thiết Chư Phật Sở Thuyết Bất Thoái Pháp Luân Quảng Bác Nghiêm Tịnh.

A-nan bạch Phật:

–Tên gọi kinh này, được nghe đã là khó rồi huống chi là được thấy kinh và vào đầu hôm, nửa đêm, gần sáng lại thọ tŕ đầy đủ.

Đức Phật dạy:

–Đúng vậy, đúng vậy! Đúng như lời ông vừa nói.

A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Người được nghe kinh này sẽ vượt khỏi bao nhiêu kiếp sinh tử?

Phật dạy:

–Nếu người được nghe tên kinh Bất Thoái Pháp Luân Quảng Bác Nghiêm Tịnh Phương Đẳng này, th́ người ấy sẽ thoát ngàn kiếp sinh tử.

A-nan bạch Phật:

–Nếu có người nghe tên kinh này, kính tin, hiểu rõ và phát tâm Bồ-đề th́ công đức người ấy sẽ được trụ ở giai vị nào?

Phật nói:

–Nếu có người nghe tên kinh này th́ được thọ ký thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, được địa vị không thoái chuyển.

Bấy giờ, ở trước bốn chúng đều có các tòa hoa sen với nhiều màu sắc, mỗi hoa có trăm ngàn muôn ức cánh hoa. Bốn chúng đệ tử vui mừng hớn hở, liền dâng rải những hoa ấy lên để cúng dường Đức Phật và cùng bạch:

–Bạch Thế Tôn! Chúng con đều sẽ v́ mọi người mà giảng nói rộng khắp kinh này, giải thích hiển bày khiến cho kinh không bị dứt mất.

Bấy giờ Đức Thế Tôn vui vẻ mỉm cười. Tức th́ vang lên nhạc trời, gió thơm thổi tới xông tỏa múi hương ngạt ngào. Trong hư không, rất nhiều vị trời cũng trổi vô số các thứ nhạc trời, lại tuôn xuống như mưa các thứ hương trời bột mịn màng, các thứ hương chiên-đàn, trầm thủy, giao lương, mạt vàng Diêm-phù-đàn và các loại mạt bạc, lưới báu ma-ni phủ khắp phía trên và năm thứ hoa năm màu: hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa, hoa Ma-ha mạn-thù-sa, hoa Ca-ca-la, hoa Ma-ha ca-ca-la, và tất cả các thứ hoa Ưu-bát-la, Câu-vật-đầu, Phân-đà-lợi. Rồi nào hương anh lạc, hương xoa, hương bột... tất cả vật cúng dường của các vị trời đều đầy khắp cả hư không. Trên mặt đất th́ có vô số chúng dân cũng sửa sang y phục, hoa cúng dường. Lại có các chúng sinh khác đều cởi vô số những vòng ngọc, xuyến vàng, chuỗi ngọc, mũ mão quý giá dâng lên Đức Thế Tôn. Lại có các chúng sinh khác rải vàng bạc lên chỗ Phật để cúng dường. Lại có các chúng sinh khác vui mừng hớn hở cùng nhau hô to: “Lành thay, lành thay!” Và các voi ngựa cũng kêu lên những tiếng êm tai.

Trên không trung muôn ngàn những loài chim chóc hót vang, để cúng dường Phật. Chúng sinh ở địa ngục được tạm vui do ngừng h́nh phạt. Các loài súc sinh th́ tỏ ra thân ái, tưởng như cha mẹ, tất cả chúng sinh ở cõi vua Diêm-la cũng tạm được vui. Chúng sinh ở cõi ngạ quỷ thảy đều dứt hết mọi đói khát khổ não. Tám bộ chúng Trời, Rồng, Dạ-xoa,… cũng đều cảm thấy vui sướng, phát khởi lòng thương yêu lẫn nhau, xem nhau như cha con.

Bấy giờ, Tôn giả A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! V́ nhân duyên ǵ hôm nay Đức Như Lai mỉm cười?

Phật bảo A-nan:

–Hiện nay, bốn chúng đệ tử Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, cùng tám bộ chúng là Trời, Rồng, Dạ-xoa… nếu trong đời này, đời sau được nghe kinh này, th́ đều được không thoái chuyển trên đường tiến đến đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, có khả năng nói rộng kinh này cho người khác nghe, không hề tổn giảm, cũng như ta hôm nay phân biệt, giảng nói,… không có sai khác.

Này A-nan! Những người nghe kinh này rồi, sinh tâm kính tin, hiểu rõ tức là gieo trồng hạt giống Phật, huống chi là thọ tŕ, đọc tụng, tu lành. Nên biết người này sẽ bỏ tất cả mọi trí thức thông thường và chẳng bao lâu sẽ đạt đến Nhất thiết trí, Tự nhiên trí. Do đó kinh này còn có tên là Bất Thoái Chuyển Pháp Luân Chi Ấn, kinh này có công năng đem lại những lợi ích lớn lao cho các vị Bồ-tát, cũng như tạo nhân duyên phát tâm đạo Vô thượng cho tất cả chúng sinh. Đã phát tâm rồi th́ sẽ thành tựu đầy đủ kinh này.

Này A-nan! Như Lai chỉ bày cho các chúng sinh Nhất thiết trí. Nếu như có người nào, tuy ĺa trí tuệ Phật, nhưng nghe kinh này th́ được Tự nhiên trí và Phật trí, cũng được Phật thọ ký. Do vậy, kinh này còn có tên là Bất Thoái Chuyển Pháp Luân Quảng Bác Nghiêm Tịnh cũng gọi là Thành Tựu Cụ Túc Thiện Căn Trang Nghiêm Phương Tiện Vi Tác Lợi Ích Hành Đại Thừa Giả, A-nan nên ghi nhớ.

Bấy giờ, khi Đức Như Lai nói rộng kinh này th́ có vô số các vị Bồ-tát đều được thành tựu pháp Nhẫn vô sinh; cùng với vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ ức số chúng sinh đều được an trụ không lui sụt trên đường tiến đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Đức Thế Tôn nói kinh này xong, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, Xá-lợi-phất, A-nan... cùng với bốn chúng đệ tử Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di và tám bộ chúng là Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thátbà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân đều rất vui mừng, cung kính thực hành, lễ Phật rồi lui ra.

KINH PHÁP LUÂN KHÔNG THOÁI CHUYỂN

[^]

 

-

TRANG CHỦ*--KINH ĐIỂN*--ĐẠI TẠNG KINH*--THẦN CHÚ*--HÌNH ẢNH*--中文*--ENGLISH

Uploaded / Updated on 2020-02-02

 

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0