* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ | KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ |HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

 

Số 2019a

CHƠN TÂM TRỰC THUYẾT

Thích Bồ Đề Đạt Ma chế

Thích Đắc Pháp Việt dịch

 

1. Chánh tín Chơn Tâm
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tín là nguồn của Đạo, là mẹ của các công đức hay nuôi lớn tất cả căn lành”. Trong Duy Thức cũng nói: “Tín như hạt châu thủy thanh, hay làm cho nước dơ được sạch”. Cho nên, muôn điều thiện phát sanh là chữ tín dẫn đầu. V́ thế kinh Phật trước hết lập “như thị ngă văn” là cốt để sanh ḷng tin vậy.

Hỏi: Chữ tín của Giáo môn (Kinh) và chữ tín của Tổ môn (Thiền) có ǵ sai khác?
Đáp: Có nhiều loại sai khác nhau: Giáo môn khiến người, trời tin ở nhơn quả. Như có người thích phước lạc, tin thập thiện là diệu nhơn, cơi người cơi trời là lạc quả. Có người thích không tịch, tin nhơn duyên sanh diệt làm chánh nhơn, khổ tập diệt đạo làm thánh quả. Có người thích Phật quả, tin ba kiếp sáu độ làm đại nhơn, bồ đề niết bàn làm chánh quả.
Tổ môn chánh tín chẳng đồng như trên. Tổ môn chẳng tin tất cả pháp hữu vi nhơn quả. Chỉ tin ở tự ḿnh xưa nay là Phật, tự tánh thiên chơn người người đều đầy đủ. Diệu thể của niết bàn mỗi mỗi đều viên thành, chẳng nhờ cầu nơi người khác, từ xưa đến nay nó tự đầy đủ. Tam Tổ nói: “Tṛn bằng thái hư, không thiếu không dư. Sở dĩ chẳng như, bởi do thủ xả”. Ngài Chí Công nói: “Trong thân có tướng là thân không tướng, trên đường vô minh là đường vô sanh”. Ngài Vĩnh Gia nói: “Thật tánh của vô minh là Phật tánh, thân huyễn hóa không thật tức pháp thân”. Cho nên, chúng sanh xưa nay là Phật.
Đă sanh chánh tín cần phải thêm hiểu biết nữa mới được. Ngài Vĩnh Minh nói: “Tin mà chẳng hiểu biết th́ thêm lớn vô minh. Hiểu biết mà chẳng tin th́ thêm lớn tà kiến”. Cho nên, tin hiểu gồm hai th́ mau vào Đạo.

Hỏi: Mới phát ḷng tin chưa được vào Đạo, có lợi ích chăng?
Đáp: Trong luận Khởi Tín nói: “Nếu nghe pháp này mà chẳng sanh khiếp nhược, th́ nên biết, người này nhất định sẽ nối hạt giống Phật, và được chư Phật thọ kư cho. Thí như có người giáo hóa chúng sanh đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới, khiến họ hành thập thiện, chẳng bằng có người đối với pháp này khoảng một niệm chánh tư duy th́ công đức cũng hơn người trước không thể thí dụ được”. Trong Kinh Bát Nhă nói: “Cho đến người chỉ sanh một niệm tịnh tín, Như Lai trọn thấy biết các chúng sanh này được vô lượng phước đức như vậy”. Cho nên muốn đi ngàn dặm, bước đầu cần phải chánh, bước đầu nếu sai ngàn dặm đều sai. Vào nước vô vi, niềm tin ban đầu đă mất, muôn thiện đều lui. Cho nên Tổ Sư nói: “Mảy may nếu sai, trời đất ngăn cách”. Đấy là lư này vậy.

2. Tên khác của Chơn Tâm
Hỏi: Đă sanh chánh tín, nhưng chưa biết thế nào gọi là chơn tâm?
Đáp: Ĺa vọng gọi là chơn. Linh giám gọi là tâm. Trong Kinh Lăng Nghiêm đă nói rơ tâm này.

Hỏi: Chỉ gọi chơn tâm thôi, hay có tên riêng khác nữa chăng?
Đáp: Phật dạy, Tổ dạy lập danh không đồng nhau. Phật dạy trong Bồ Tát Giới gọi là Tâm Địa, v́ hay phát sanh muôn việc thiện. Kinh Bát Nhă gọi là Bồ Đề, v́ lấy giác làm thể. Kinh Hoa Nghiêm gọi là Pháp Giới, v́ giao triệt và dung nhiếp. Kinh Kim Cang gọi là Như Lai, v́ không từ đâu đến. Kinh Bát Nhă gọi là Niết Bàn, v́ là chỗ qui hướng của chư Thánh. Kinh Kim Quang Minh gọi là Như Như, v́ chơn thường bất biến. Kinh Tịnh Danh gọi là Pháp Thân, v́ là chỗ nương của báo thân và hóa thân. Luận Khởi Tín gọi là Chơn Như, v́ chẳng sanh chẳng diệt. Kinh Niết Bàn gọi là Phật Tánh v́ là bản thể của ba thân. Kinh Viên Giác gọi là Tổng Tŕ, v́ mọi công đức từ đó mà lưu xuất, Kinh Thắng Man gọi là Như Lai Tạng, v́ ẩn phú và hàm nhiếp. Kinh Liễu Nghĩa gọi là Viên Giác, v́ hay chiếu phá mờ tối.
Do đây nên Ngài Vĩnh Minh Thiền Sư trong Duy Tâm Quyết nói: “Một pháp có ngàn tên, tùy theo duyên mà lập hiệu”. Tất cả c̣n đầy đủ trong các Kinh, không thể kể ra hết được.

***
Hỏi: Phật dạy đă biết, Tổ dạy như thế nào?
Đáp: Cửa Tổ Sư dứt tuyệt danh ngôn, danh c̣n chẳng lập, sao lại có nhiều tên? Chỉ v́ ứng theo cơ duyên nên tên cũng lắm. Có lúc gọi là Tự Kỷ, v́ là bản tánh của chúng sanh. Có lúc gọi là Chánh Nhăn, v́ hay soi tướng của muôn loài. Có lúc gọi là Diệu Tâm, v́ hư linh và tịch chiếu. Có lúc gọi là Chủ Nhơn Ông, v́ xưa nay từng gánh vác. Có lúc gọi là Đờn không dây, v́ hiện nay ra điệu vận. Có lúc gọi là Vô tận đăng, v́ hay chiếu phá mê t́nh. Có khi gọi là Cây không rễ, v́ gốc rễ bền chắc. Có khi gọi là Suy mao kiếm, v́ hay chặt đứt căn trần. Có lúc gọi là Nước vô vi, v́ sóng êm bể lặng. Có lúc gọi là Mâu ni châu, v́ hay giúp đỡ người nghèo khó. Có lúc gọi là Vô nhu tỏa, v́ cửa sáu t́nh đóng. Cho đến nào là trâu đất, ngựa gỗ, tâm nguyên, tâm ấn, tâm cảnh, tâm nguyệt, tâm châu,v.v... nhiều tên khác nhau không thể ghi ra cho hết. Nếu đạt được chơn tâm th́ các tên đều hiểu cả. Bằng mê muội chơn tâm th́ c̣n bị trệ nơi các tên. Cho nên đối với chơn tâm cần yếu nên xét kỹ.

3. Diệu thể của Chơn tâm
Hỏi: Chơn tâm đă biết, c̣n thể nó như thế nào?
Đáp: Trong Kinh Phóng Quang Bát Nhă nói: “Bát Nhă không có tướng có và tướng sanh diệt”. Luận Khởi tín nói: “Tự thể của chơn như, tất cả phàm phu, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát và chư Phật đều không thêm bớt, cũng chẳng phải trước sanh sau diệt mà rốt ráo thườngc̣n. Từ xưa tới nay tánh nó tự đầy đủ tất cả công đức”.
Căn cứ theo các Kinh Luận th́ bản thể chơn tâm siêu xuất nhơn quả, thông suốt cổ kim, chẳng lập phàm thánh và không có các đối đăi. Như hư không biến khắp tất cả. Diệu thể ngưng tịch, dứt hết các hí luận, chẳng sanh chẳng diệt, phi hữu phi vô, chẳng động chẳng lay, trạm nhiên thường trụ. Gọi là Chủ Nhơn Ông ngày xưa, là người ở mé kia của Phật Oai Âm, là Tự Kỷ của trước Không Kiếp. Một giống thường hằng không một mảy may t́ vết, tất cả sơn hà đại địa, cỏ cây rừng bụi, vạn tượng sum la, các pháp nhiễm tịnh, đều từ trong ấy mà ra.
Cho nên KinhViên Giác nói: “Này các Thiện nam, Vô Thượng Pháp Vương có một pháp môn đại đà la ni gọi là Viên Giác, từ đó lưu xuất tất cả thanh tịnh Chơn Như, Bồ Đề, Niết Bàn và Ba La Mật, dạy dỗ cho các Bồ Tát”.
Ngài Khuê Phong nói: “Tâm ấy rỗng rang mà thuần diệu, rực rỡ mà mầu sáng, chẳng đến chẳng đi, thông suốt cả ba mé, chẳng phải trong ngoài, suốt khắp mười phương. Chẳng sanh chẳng diệt, bốn núi nào có thể hại. Ĺa tánh ĺa tướng, nào bị năm sắc làm mờ”.
Ngài Vĩnh Minh trong Duy Tâm Quyết nói: “Xét về tâm này là cái diệu trong lẽ mầu mà hội khắp, là vua của muôn pháp. Ba thừa năm tánh đều thầm về, hay là mẹ của ngh́n bậc Thánh. Độc tôn độc quí không ǵ sánh bằng. Thật là nguồn của đại đạo, là chơn pháp yếu vậy. Tin tâm này, nên ba đời Bồ Tát đồng học là học tâm này. Ba đời Bồ Tát đồng chứng là chứng tâm này. Một đại tạng giáo giải rơ là hiển tâm này. Tất cả chúng sanh mê vọng là mê tâm này. Tất cả hành nhơn phát ngộ là ngộ tâm này. Chư Tổ truyền nhau là truyền tâm này. Chư tăng trong thiên hạ đều tham học là tham học tâm này. Đạt tâm này th́ mỗi mỗi đều phải, vật vật đều toàn bày. Mê tâm này th́ nơi nơi đều điên đảo, niệm niệm đều si cuồng”.
Thể này là cái Phật tánh sẵn có của tất cả chúng sanh, là căn nguồn phát sanh của tất cả thế giới. Cho nên Đức Thế Tôn ở ngọn Thứu Phong lặng
thinh, Ngài Thiện Hiện dưới ngọn núi quên lời, Ngài Đạt Ma nơi Thiếu Thất ngó vách, ông cư sĩ thành Tỳ Da ngậm miệng. Tất cả đều phát minh cái diệu thể của tâm này. Cho nên, người mới vào cửa Tổ, cần yếu trước tiên phải hiểu tâm thể này vậy.

4. Diệu dụng của Chơn tâm.
Hỏi: Diệu thể của chơn tâm đă biết. Diệu dụng của chơn tâm thế nào?
Đáp: Người xưa nói: “Gió động cây tâm lay, mây sanh tánh dấy bụi. Nếu sáng, rơ việc hôm nay. Nếu mê, mất người xưa nay”. Đấy là diệu thể khởi ra tác dụng vậy. Diệu thể của chơn tâm xưa nay chẳng động, yên tịnh chơn thường. Trên chơn thể diệu dụng hiện tiền, chẳng ngại mọi trường hợp đều được diệu. Cho nên trong bài tụng của Tổ Sư nói: “ Tâm tùy muôn cảnh chuyển, chỗ chuyển thật sâu xa, theo ḍng nhận được tánh, không mừng cũng không lo”.
Cho nên trong tất cả thời, động dụng thi vi, đi đông đi tây, ăn cơm mặc áo v.v. đều là diệu dụng hiện tiền. Trái lại kẻ phàm phu mê lầm, khi mặc áo chỉ biết mặc áo, khi ăn cơm chỉ biết ăn cơm, tất cả sự nghiệp chỉ tùy tướng mà chuyển. Bởi dùng hằng ngày mà chẳng biết, ở trước mắt mà chẳng hay. Nếu người đuợc tánh th́ động dụng thi vi chẳng từng mê. Cho nên Tổ Sư nói: “Trong thai gọi là thân, ở đời gọi là người, ở mắt th́ thấy, ở tai th́ nghe, ở mũi th́ ngữi mùi, ở miệng th́ đàm luận, ở tay th́ nắm bắt, ở chân th́ chạy nhảy. Khi biến hiện th́ cùng khắp pháp giới, thu nhiếp lại th́ chỉ trong hạt bụi. Người biết cho đó là Phật tánh, người chẳng biết gọi là tinh hồn”.
Thế nên Đạo Ngô múa hốt, Thạch Củng dương cung, Bí Ma đập nạn, Câu Chi dơ ngón tay, Hân Châu đánh đất, Vân Nham sư tử. Đấy là phát minh ra những đại dụng lớn vậy. Nếu việc hằng ngày chẳng mê th́ tự nhiên tung hoành tự tại.

5. Thể đụng của Chơn tâm một hay khác?
Hỏi: Thể đụng của chơn tâm chưa biết là một hay khác?
Đáp: Đúng về mặt tướng th́ chẳng phải một. Đứng về mặt tánh th́ chẳng phải khác. Cho nên thể dụng của tâm nầy chẳng phải một chẳng phải khác. Tại sao thế? Thử v́ ông bàn đó:
Diệu thể th́ bất động, dứt mọi đối dăi và ĺa tất cả tướng. Người chưa đạt tánh khế chứng không thể lường được lư nầy.
Diệu dụng th́ duyên ứng khắp muôn loài, vọng lập ra tướng hư, giống như có h́nh trạng. Nhằm vào hữu tướng, vô tướng này nên chẳng phải một.
Lại, dụng từ thể phát ra, dụng không ĺa thể. Thể hay phát dụng, thể chẳng ĺa dụng. Nhằm vào cái lư bất tương ly này, nên chẳng phải khác. Như nước lấy tánh ướt làm thể, thể th́ không động. Sóng lấy động làm tướng, v́ nhơn gió mà dấy khởi. Tánh nước, tướng sóng, động với chẳng động, nên chẳng phải một.
Nhưng ngoài nước không có sóng, ngoài sóng không có nước. Tánh ướt là một nên chẳng phải khác. Xét trên thể dụng một hay khác có thể biết vậy.

6. Chơn tâm trong mê.
Hỏi: Thể dụng của chơn tâm mọi người đều có đủ. V́ sao nơi thánh phàm chẳng đồng?
Đáp: Nơi thánh phàm chơn tâm vốn đồng, v́ phàm phu vọng tâm nhận vật, nên mất tự tánh thanh tịnh, do đây bị ngăn cách. Thế nên chơn tâm không được hiện tiền. Ví như bóng cây trong tối, ḍng nước chảy ngầm dưới đất; có nhưng không biết.
Trong Kinh nói: “Nầy thiện nam tử! Như viên thanh tịnh bảo châu chiếu ra năm sắc, tùy chỗ mà hiện. Kẻ ngu si thấy ma ni châu kia thật có năm sắc. Thiện nam tử! Tánh viên giác hiện ở thân tâm, tùy loại mà có ứng hiện. Kẻ ngu si kia nói tánh tịnh viên giác thật có thân tâm như thế. Tự tánh cũng lại như vậy”.
Trong Triệu Luận nói: “Bên trong của càn khôn, khoảng giữa của vũ trụ, trong ấy có một vật báu ngầm dấu trong h́nh sơn”. Đấy là chơn tâm tại triền vậy.
Lại Từ Ân nói: “Pháp thân sẵn có của chư Phật đều đồng. Phàm phu bị vọng che, nên có mà chẳng biết. Phiền năo cột ở trong nên gọi Như Lai tàng”.
Bùi Hưu nói: “Suốt ngày viên giác mà chưa từng viên giác, ấy là phàm phu vậy”.
Cho nên, chơn tâm tuy ở trần lao mà không bị trần lao làm nhiễm. Như bạch ngọc ném vào bùn, màu sắc nó không đổi.

7. Chơn tâm và sự dứt vọng.
Hỏi: Chơn tâm nơi vọng là phàm phu. Vậy làm thế nào thoát vọng để thành Thánh?
Đáp: Người xưa nói: “Vọng tâm không chỗ nơi tức là bồ đề, niết bàn và sanh tử vốn b́nh đẳng”.
Kinh nói: “Chúng sanh kia thân huyễn diệt, nên tâm huyễn cũng diệt. Tâm huyễn diệt, nên huyễn trần cũng diệt. Huyễn trần diệt, nên huyễn diệt cũng diệt. Huyễn diệt, diệt rồi, nên cái phi huyễn chẳng hề diệt. Ví như lau gương, bụi nhơ hết th́ ánh sáng hiện”.
Ngài Vĩnh Gia nói: “Tâm là căn, pháp là trần. Cả hai như vết nhơ trên gương, vết nhơ hết, ánh sáng mới hiện. Tâm pháp đều quên, tánh ấy tức chơn”.
Đây là ra khỏi vọng th́ thành chơn.

***


Hỏi: Trang Sanh nói: “Tâm ấy nóng th́ cháy lửa, lạnh th́ đặc nước, mau th́ khoảng cúi ngước, lại hay vỗ về ngoài bốn bể, chỗ ở của nó sâu mà tinh. Khi nó động th́ huyền mà thiên. Đấy là chỉ cho tâm của con người vậy”.
Trang Sanh nói cái tâm của kẻ phàm phu không thể trị phục như thế. Chưa biết nhà Thiền dùng phương pháp ǵ để điều phục vọng tâm?
Đáp: Lấy pháp vô tâm để trị vọng tâm.

Hỏi: Người vô tâm chẳng khác cây cỏ. Xin lập bày phương tiện về thuyết vô tâm.
Đáp: Nay nói vô tâm ấy, chẳng phải thể của nó vô tâm mà gọi là vô tâm. Chỉ trong tâm không vật nên gọi là vô tâm. Thí như nói: b́nh không, là do trong b́nh không có vật ǵ, nên gọi là b́nh không. Chớ chẳng phải thể của b́nh là không nên gọi là b́nh không.
Cho nên Tổ Sư nói: “Người chỉ nơi tâm vô sự, ở nơi sự vô tâm, th́ tự nhiên rỗng mà mầu, tịnh mà diệu”. Đấy là yếu chỉ của tâm vậy.
Căn cứ đây mà xét th́ không vọng tâm, chớ không phải không có chơn tâm diệu dụng. Từ xưa đến nay chư Tổ đă nói đến thực hành công phu vô tâm, chủng loại không đồng nhau. Nay đại khái tóm nêu ra mười loại:

1-Giác Sát: Nghĩa là khi hành công phu, b́nh thường phải dứt niệm và đề pḥng niệm khởi. Một niệm vừa sanh liền dùng giác mà phá nó. Vọng niệm phá rồi, biết niệm sau chẳng sanh, cái giác trí này cũng không dùng tới nữa. Lúc ấy, vọng giác đều mất, nên gọi là vô tâm.

2-Hưu Kiệt: Nghĩa là khi hành công phu chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, tâm vừa khởi liền thôi, gặp duyên liền dứt. Người xưa nói: “Một mảnh lụa trắng đi! Lạnh như đất đi! Ḷ hương trong miếu cổ đi! Thẳng đến chỗ dứt ĺa không c̣n một mảy may phân biệt, như ngây như dại, mới có chút phần tương ưng”. Đây là công phu hưu kiệt vọng tâm vậy.

3-Dẫn tâm tồn cảnh (tâm mất cảnh c̣n): Nghĩa là khi hành công phu, nên dứt hết tất cả vọng niệm. Chẳng đoái đến ngoại cảnh chỉ tự dứt tâm ḿnh thôi. Vọng tâm đă dứt lo ǵ có cảnh. Đây là pháp môn mà người xưa gọi là “Đoạt nhơn bất đoạt cảnh”. Cho nên ngạn ngữ có câu: “Nơi đây đầy hoa thơm cỏ lạ mà người xưa không có”. Bàng Công nói: “Chỉ tự ḿnh vô tâm với muôn vật, lo ǵ muôn vật thường khuấy phá”. Đây là công phu dứt vọng “hết tâm c̣n cảnh”.

4-Dẫn cảnh tồn tâm (cảnh hết c̣n tâm): Nghĩa là khi hành công phu, đem tất cả cảnh trong, cảnh ngoài đều quán là không-tịch, chỉ c̣n lại một tâm độc lập một ḿnh. Cho nên người xưa nói: “Chẳng cùng muôn pháp làm bạn, cũng chẳng cùng các trần đối đăi” (Bất dữ vạn pháp vi lữ, bất dữ chư trần tác đối). Tâm nếu chấp cảnh tức là vọng, nay đă không cảnh th́ vọng nào có được? Đấy là chơn tâm độc chiếu chẳng chướng ngại nơi đạo. Tức người xưa gọi là pháp môn “Đoạt cảnh bất đoạt nhơn”. Cho nên có câu: “Vườn trên hoa đă rụng, xe ngựa vẫn c̣n đây”. Lại cũng có câu: “Ba ngàn kiếm khách nay đâu tá, chỉ kế Trang Châu định thái b́nh”. Đây là công phu dứt vọng “hết cảnh c̣n tâm”.

5-Dẫn tâm dẫn cảnh (tâm hết cảnh hết): Nghĩa là khi hành công phu, trước quán ngoại cảnh đều không-tịch, kế đó diệt nội tâm. Khi nội tâm ngoại cảnh đều lặng th́ vọng từ đâu mà có được. Cho nên Quán Khê nói: “Mười phương không vách đổ, bốn phía cũng không cửa, sạch trọi trơn, bày trơ trơ”. (Thập phương vô bích lạc, tứ diện diệc vô môn, tịnh khỏa khỏa, xích sái sái). Tức pháp môn mà người xưa gọi: “Nhơn cảnh lưỡng câu đoạt”. Cho nên có câu: “Mây tan nước trôi chảy, lặng lẽ trời đất không”. Lại có câu: “Người trâu đều chẳng thấy, chính là lúc vầng trăng trong”. Đây là công phu dứt vọng “tâm dứt cảnh dứt”.

6-Tồn tâm tồn cảnh (c̣n tâm c̣n cảnh):
Nghĩa là khi hành công phu, để tâm trụ trong vị trí của tâm, cảnh trụ vị trí của cảnh (tâm trụ tâm vị, cảnh trụ cảnh vị). Có khi tâm và cảnh đối nhau, th́ tâm chẳng thủ cảnh, cảnh chẳng đến tâm, mỗi mỗi chẳng đến nhau, tự nhiên vọng niệm chẳng sanh, nơi đạo chẳng ngại. Cho nên Kinh nói: “Pháp ấy trụ nơi bản vị của nó. Tướng của thế gian thường trụ”. (Thị pháp trụ pháp vị, Thế gian tướng thường trụ). Tức là pháp môn “Nhơn cảnh câu bất đoạt” của Tổ Sư. Cho nên có câu: “Một mảnh trăng rộng chiếu, bao nhiêu người lên lầu”. Lại cũng có câu: “Hoa núi ngàn muôn đóa, khách lăng du chẳng biết về”. Đây là công phu diệt vọng “c̣n tâm c̣n cảnh”.

7-Nội ngoại toàn thể: Nghĩa là khi hành công phu, quán thấy sơn hà đại địa, trời trăng sao, nội thân ngoại thân, tất cả các pháp đều đồng một thể chơn tâm trạm nhiên hư minh, không tư sai khác. Đại thiên sa giới gồm thành một mảnh, lại ở chỗ nào khởi vọng tâm? Cho nên Triệu Pháp Sư nói: “Trời đất cùng ta đồng nguồn, muôn vật cùng ta đồng thể”. Đây là công phu diệt vọng “nội ngoại toàn thể”.

8-Nội ngoại toàn dụng: Nghĩa là khi hành công phu, đem tất cả thân tâm trong ngoài, các pháp trong thế giới, và tất cả động dụng thi vi, trọn thấy là diệu dụng của chơn tâm. Tất cả tâm niệm vừa sanh là diệu dụng hiện tiền, vọng tâm chỗ nào mà an trí. Cho nên vĩnh Gia nói : “Thật tánh của vô minh là Phật tánh, thân không huyễn hóa tức pháp thân” (vô minh thật tánh tức phật tánh, huyễn hóa không thân tức pháp thân). Trong Chí Công Thập Nhị Thời Ca nói: “Thường buổi sớm, máy cuồng ẩn chứa Đạo Nhơn thân, ngồi nằm chẳng biết nguyên là đạo, chỉ thế luống mà chịu đắng cay”. Đây là công phu dứt vọng “nội ngoại toàn dụng”.

9-Tức thể tức dụng: Nghĩa là khi hành công phu, tuy thầm hợp với chơn thể, chỉ một vị không-tịch, nhưng mà nơi trong ẩn một cái linh minh, nên thể tức dụng. Trong cái linh minh ẩn cái không-tịch, nên dụng tức thể. Cho nên Vĩnh Gia nói: “Tỉnh tỉnh lặng lặng phải, tỉnh tỉnh vọng tưởng quấy. Lặng lặng tỉnh tỉnh phải, vô kư lặng lặng sai”. (Tỉnh tỉnh tịch tịch thị, tỉnh tỉnh vọng tưởng phi. Tịch tịch tỉnh tỉnh thị, tịch tịch vô kư phi). Đă trong cái lặng lẽ không dung vô kư, trong cái tỉnh táo không dung loạn tưởng, th́ vọng tâm làm sao sanh được? Đây là công phu diệt vọng “tức thể tức dụng”.

10-Thấu xuất thể dụng: Nghĩa là khi hành công phu, chẳng phân trong ngoài, chẳng phân biệt đông tây, nam bắc. Đem bốn phương tám mặt, chỉ làm một môn “đại giải thoát viên đà đà địa”. Thể dụng chẳng phân, không một mảy may rỉ lậu. Suốt thân gồm thành một mảnh, vọng kia chỗ nào khởi được? Người xưa nói: “Suốt thân không đường nứt, trên dưới đều tṛn trịa”. Đây là công phu diệt vọng “thấu xuất thể dụng”.
Các phương pháp công phu trên chẳng nên dùng cả, mà chỉ dùng một môn cho được thành tựu, th́ cái vọng tâm kia tự nhiên tiêu diệt, chơn tâm hiện tiền. Tùy căn cơ đă huân tập từ trước, xem thích hợp với pháp nào, nên tập pháp đó.
Công phu ở đây là không công mà công, chẳng để tâm dụng sức. Cái pháp môn thôi dứt vọng tâm nầy rất tối trọng yếu. Pháp môn diệt vọng c̣n nhiều, sợ văn rườm nên chỉ lược thôi.

8. Chơn tâm với bốn oai nghi.
Hỏi: Trên đă nói cách dứt vọng, nhưng chưa biết chỉ ngồi tập hay thông cả bốn oai nghi?
Đáp: Các kinh luận phần nhiều nói ngồi tập, v́ ngồi dễ thành công hơn, nhưng cũng thông cả bốn oai nghi, tập lần lần rồi từ từ được thuần thục. Luận Khởi Tín nói: “Người tu CHỈ, nên ở chỗ tịnh ngồi ngay thẳng giữ ư chơn chánh. Chẳng nương tựa vào hơi thở, chẳng nương vào h́nh sắc, chẳng nương vào không, chẳng nương vào đất nước gió lửa. Cho đến chẳng nương vào thấy nghe hay biết. Tất cả các tưởng tùy niệm đều trừ, cũng nên dẹp luôn cái tưởng trừ, v́ tất cả pháp xưa nay vốn vô tưởng, niệm niệm chẳng sanh, niệm niệm chẳng diệt. Cũng chẳng đuợc tùy tâm niệm cảnh giới bên ngoài. Sau rốt lấy tâm trừ tâm, tâm nếu chạy rong liền kéo về trụ nơi chánh niệm. Chánh niệm là chỉ có tâm chớ không có cảnh giới bên ngoài. Lại tâm này cũng không có tự tướng, niệm niệm không thật có. Nếu từ ngồi, đứng, đi lại, tới lui, tất cả động tác thi vi, trong tất cả thời thường nhớ phương tiện tùy thuộc mà quán sát, tập lâu ngày được thuần thục th́ tâm ấy được an trụ. Do tâm an trụ nên lần lần bén nhạy. Thuận theo đó mà được nhập vào “chơn như tam muội”. Dẹp sạch phiền nảo, ḷng tin tăng trưởng, mau thành quả bất thối. Chỉ trừ hạng người nghi hoặc chẳng tin, bài báng, tội nặng, nghiệp chướng, ngă mạn, giải đăi. Những hạng người nầy chẳng đặng vào”.
Theo đây mà xét th́ thông cả bốn oai nghi.
Kinh Viên Giác nói: “Trước nương theo hạnh Xa-ma-tha (Chỉ) của Như Lai, kiên tŕ cấm giới, yên ở trong đồ chúng, yên ngồi trong tịnh thất”. Đấy là mới tập.
Vĩnh Gia nói: “Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền. Nói nín động tịnh thể an nhiên”. Đây là thông cả bốn oai nghi.
Tóm lại, dùng sức ngồi c̣n chẳng thể dứt được tâm, huống là đi đứng v.v... há hay vào đạo ư? Nếu là người dụng tâm thuần thục, th́ ngàn thánh đi đến c̣n chẳng đứng dậy, muôn loài ma kéo lại c̣n chẳng thèm nh́n. Huống là trong đi đứng... chẳng hay hành công phu sao? Như người oán thù kẻ khác, nhẫn đến đi đứng, ngồi nằm, ăn uống... trong tất cả thời c̣n không thể quên được. Sự thương, mến kẻ khác cũng lại như thế. Vả lại, việc yêu ghét là việc hữu tâm, c̣n ở trong hữu tâm hiện tiền được. Nay hành việc công phu là việc vô tâm, lại nghi ǵ ở trong bốn oai nghi chẳng thường hiện tiền ư? Chỉ sợ chẳng tin chẳng làm, nếu làm nếu tin, th́ trong các oai nghi đạo ắt hiện tiền.

9. Chỗ ở của chơn tâm.
Hỏi: Dứt vọng tâm th́ chơn tâm hiện. Nói thế th́ thể dụng của chơn tâm nay ở chỗ nào?
Đáp: Diệu thể của chơn tâm khắp cả chỗ. Vĩnh Gia nói: “Chẳng rời hiện tại thường lặng lẽ. C̣n t́m tức biết anh chưa thấy”. Kinh nói: “Tánh như hư không thường chẳng động, trong Như Lai Tạng chẳng khởi, chẳng diệt”. Đại Pháp Nhăn nói: “Nơi nơi đường bồ đề, chốn chốn rừng công đức”. Đấy là chỗ ở của thể.
Diệu dụng của chơn tâm tùy cảm tùy hiện, như vang theo tiếng. Pháp Đăng nói: “Xưa nay theo chẳng rời, rơ ràng nơi trước mặt. Cụm mây sanh hang tối. Cô hạt đáp trời xa”.
Trong Hoa Nghiêm Sớ của Ngụy Phủ Nguyên nói: “Phật pháp ở chỗ việc hằng ngày, chỗ đi đứng ngồi nằm, chỗ ăn cơm uống trà, chỗ nói năng hỏi đáp. Các hành động ấy mà khởi tâm động niệrn th́ không phải”.
Cho nên, thể th́ biến khắp mọi nơi, trọn hay khởi dụng. Chỉ v́ nhân duyên có, không chẳng nhứt định, cho nên diệu dụng cũng chẳng định, chớ chẳng phải không diệu dụng. Người tu tâm muốn vào biển vô vi độ các sanh tử, chớ mê lầm chỗ ở của thể dụng chơn tâm.

10. Chơn tâm và việc sanh tử.
Hỏi: Thường nghe người kiến tánh ra khỏi sanh tử, nhưng tù xưa chư Tổ là người kiến tánh sao đều có sanh tử? Nay hiện thấy người tu trong đời đều có chết sống. Thế sao nói rằng ra khỏi sanh tử?
Đáp:
Sanh tử vốn không, do vọng nên thấy có. Như người đau mắt thấy trong hư không có hoa đốm.Người không đau nói trong hư không chẳng có hoa. Người đau mắt không tin. Nếu mắt hết đau th́ cái thấy hoa trong hư không cũng tự hết. Lúc ấy mới tin rằng hoa vốn không. Lúc hoa chưa diệt, hoa kia cũng không. Chỉ người bịnh vọng chấp là hoa, chớ chẳng phải thể nó thật có.
Như người vọng nhận sanh tử là có thật. Nếu người không sanh tứ bảo rằng “vốn không sanh tử”. Một mai người ấy vọng dứt, sanh tử tự trừ, mới biết việc sanh tử xưa nay vốn là không. Ngay lúc sanh tử chưa dứt cũng chẳng phải thật có. Do vọng nên nhận có sanh tử thôi.
Kinh nói : “Thiện nam tử, tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay điên đảo nhiều lớp. Như người mê bốn hướng, đổi chỗ. Vọng nhận tứ đại làm tướng của tự thân, sáu trần duyên bóng làm tướng của tự tâm. Ví như người đau mắt thấy hoa giữa hư không. Cho đến các hoa đốm ấy diệt trong hư không. Không thể nói quyết rằng có chỗ diệt. V́ sao? V́ không chỗ sanh vậy. Tất cả chúng sanh nơi vô sanh vọng thấy có sanh diệt. Cho nên gọi là luân chuyển sanh tử”.
Cứ theo Kinh này tin biết rằng đạt ngộ chơn tâm vốn không sanh tử. Nay biết không sanh tử mà không thể thoát sanh tử, v́ công phu không đến vậy. Cho nên trong Kinh nói: “Am bà nữ hỏi Văn Thù rằng: Rơ biết sanh là pháp chẳng sanh, v́ sao lại bị sanh tử trôi đi? – Văn Thù đáp: V́ sức kia chưa đầy đủ”.
Sau này Tiến Sơn chủ hỏi Tu Sơn chủ rằng: “Rơ biết sanh là pháp chẳng sanh, v́ sao lại bị sanh tủ trôi đi? Tu đáp: Măng trọn thành tre. Như nay khiến làm phên được”. Thế nên “Biết” không sanh tử, chẳng như “Thể” không sanh tử. Thể không sanh tử chẳng như “Khế” không sanh tử. Khế không sanh tử chẳng như “Dụng” không sanh tử. Người nay c̣n chẳng biết không sanh tử, huống là thể không sanh tử, khế không sanh tử, dụng không sanh tử? Người nhận sanh tử, không tin pháp không sanh tử cũng vậy.

11. Chơn tâm và chánh trợ.
Hỏi: Như truớc đă nói dứt vọng th́ chơn tâm hiện tiền. Khi vọng chưa dứt, th́ chỉ hành công phu vô tâm để hết vọng. Lại c̣n có pháp nào khác có thể đối trị các vọng không?
Đáp: Có chánh tu và trợ tu sai khác nhau. Lấy vô tâm dứt vọng làm chánh, lấy các hành động lành làm trợ. Thí như gương sáng bị bụi che lấp, lấy sức tay lau chùi, nhưng cũng cần thêm thuốc để chùi th́ ánh sáng mới dễ hiện. Bụi nhỏ là phiền năo. Sức tay là vô tâm. Thuốc là các việc lành. Ánh sáng của gương là chơn tâm.
Trong Luận Khởi Tín nói: “Lại nữa, có người do ḷng tin thành tựu mà phát tâm, lại phát tâm ǵ? Luợc có ba loại: một, trực tâm là pháp chánh niệm chơn như; hai, thâm tâm là gồm các lành; ba, đại bi tâm là muốn nhổ tất cả khổ năo cho chúng sanh”.

Hỏi: Trên đă nói pháp giới một tướng, Phật thể không hai, cớ sao chỉ một niệm chơn như, mà lại nhờ cầu học các việc lành nữa?
Đáp:
Ví như có hạt ma ni báu lớn, sáng trong mà có lẫn quặng nhơ. Như người tuy biết nó có tánh quí mà chẳng dùng phương tiện để mài giũa, trọn không thể trong sáng được V́ nhơ vô lượng khắp tất cả pháp, nên tu tất cả hạnh lành. Cũng như vậy, pháp chơn như thể tánh nó không-lặng mà có vô lượng phiền năo nhiễm nhơ. Nếu người tuy niệm chơn như mà chẳng dùng các phương tiện để huân tập, cũng không được tịnh. V́ nhơ vô lượng khắp tất cả pháp, nên tu tất cả thiện hạnh để đối trị. Nếu người tu, hành tất cả pháp lành, th́ tự nhiên qui thuận pháp chơn như”.
Theo đây mà xét, lấy thôi hết vọng tâm làm chánh, tu các pháp lành làm trợ. Nếu khi tu thiện nên cùng với vô tâm khế hợp nhau, chẳng chấp trước nhơn quả. Nếu chấp trước nhơn quả bèn rơi vào phàm phu, trong phước báo nhơn thiên, khó chứng chơn như, chẳng thoát sanh tử. Nếu cùng vô tâm tương ưng ấy là chứng chơn như. Đây là thuật khéo làm phương tiện thoát sanh tử, lại gồm phước đức xộng răi.
Trong Kinh Kim Cang Bát Nhă nói: “Tu Bồ Đề, Bồ Tát không trụ tướng bố thí, th́ phước đức vị ấy không thể nghĩ lường được”.
Nay thấy người đời có tham thiền học đạo. Vừa biết được cái bổn lai Phật tánh, bèn tự thị nơi thiên chơn chẳng tập làm các việc lành. Như vậy, đâu chỉ chẳng đạt chơn tâm, mà trở lại thành giải đăi, đường ác c̣n chẳng khỏi, huống là thoát sanh tử? Cái chấp này rất lầm to.

12. Công đức của chơn tâm.
Hỏi: Hữu tâm tu nhơn công đức chẳng c̣n nghi. Vô tâm tu nhơn công đức từ đâu đến?
Đáp: Hữu tâm tu nhơn được quả hữu vi. Vô tâm tu nhơn được công đức hiển tánh. Các công đức này xưa nay tự đầy đủ, do vọng che cho nên không hiện, nay vọng đă trừ công đức hiện tiền. Cho nên Vĩnh Gia nói: “ Ba thân bốn trí tṛn trong thể. Tám giải sáu thông ấn đất tâm”. Thế là trong thể tự nó đầy đủ tánh công đức. Trong cổ tụng có câu: “Nếu tịnh tọa một tư thôi, hơn tạo hằng sa tháp bảy báu. Tháp báu trọn lại hóa vi trần, một niệm tịnh tâm thành chánh giác”. Cho nên vô tâm công đúc lớn hơn hữu tâm.
Ḥa Thượng Thủy Lạo ở Hồng Châu đến thăm Mă Tổ. Hỏi: Ư chỉ Tổ Sư từ Ấn sang như thế nào? Bị Mă Tổ tống cho một đạp té nhào. Bỗng nhiên phát ngộ. Đứng dậy vỗ tay cười lớn nói rằng: lạ thay! Trăm ngàn tam muội, vô lượng diệu nghĩa chỉ trên đầu một mảy lông. Liền một lúc hiểu được căn nguyên, bèn làm lễ rồi lui. Cứ theo đây th́ công đức không từ ngoài đến, mà nó vốn tự đầy đủ.

Tứ Tổ bảo Lại Dung(1) Thiền Sư rằng: “Phàm trăm ngàn pháp môn chỉ đồng về trong gang tấc, công đức như hà sa gồm lại nơi nguồn tâm. Tất cả môn giới định huệ thần thông biến hóa, trọn tự đủ chẳng ĺa tâm ông”. Cứ theo lời Tổ Sư, vô tâm công đức rất nhiều. Chỉ có người thích công đức nơi sự tướng, nên công đức vô tâm họ không tự tin.

Chú thích:
(1) Lại Dung: Ngài hiệu là Pháp Dung, nhưng do say mê tọa thiền, có ai đến cũng không buồn chào hỏi, nên người đời gọi là Lại Dung; chữ Lại là lười biếng.

13. Kinh nghiệm chơn tâm.
Hỏi: Chơn tâm hiện tiền, thế nào biết chơn tâm được thành thục vô ngại?
Đáp: Người học Đạo khi đă được chơn tâm hiện tiền, nhưng tập khí chưa trừ, nếu gặp cảnh quen thuộc có lúc thất niệm. Như chăn trâu, tuy điều phục nó, dẫn dắt nó đến chỗ như ư rồi, mà c̣n chẳng dám buông giàm và roi. Đợi đến tâm nó điều phục, bước đi ổn thỏa, dù chạy vào lúa mạ cũng không hại đến lúa mạ, lúc ấy mới dám buông tay. Đến lúc nầy chú mục đồng không c̣n dùng giàm và roi nữa. Tự nhiên con trâu không hại đến lúa mạ.

Như đạo nhân sau khi nhận được chơn tâm, trước lại phải dụng công bảo dưỡng, đến khi có lực dụng lớn, mới có thể lợi sanh. Nếu muốn kinh nghiệm chơn tâm nầy, th́ trước đem những cảnh mà b́nh thường ḿnh yêu thích, luôn tưởng ở trước mặt. Nếu nương theo cảnh đó khởi tâm yêu ghét, th́ tâm đạo chưa thuần thục. Nếu chẳng khởi tâm yêu ghét th́ tâm đạo đă thuần thục. Tuy nhiên được thuần thục như vậy, mà c̣n chưa phải tự nhiên chẳng khởi yêu ghét. Lại phải kinh nghiệm một lần nữa. Như khi gặp cảnh yêu ghét, lúc ấy khởi tâm yêu ghét và khiến thủ cảnh yêu ghét ấy. Nếu tâm chẳng khởi là tâm vô ngại. Như trâu trắng nằm sờ sờ chẳng tổn hại lúa mạ.
Xưa có vị mắng Phật mạ Tổ, ấy là cùng tâm nầy tương ưng. Nay thấy có người mới vào Tông môn nầy, chưa biết đạo gần hay xa, liền học mắng Phật mạ Tổ. Thật tính ra quá sớm vậy.

14. Chơn tâm vô tri.
Hỏi: Chơn tâm cùng vọng tâm khi đối cảnh làm sao phân biệt chơn vọng?

Đáp: Vọng tâm đối cảnh có biết, nhưng mà biết nơi cảnh thuận nghịch rồi khởi tâm tham sân. Lại ở trong đó chứa cảnh rồi khởi tâm si. Nơi cảnh khởi ba độc tham sân si, đủ rơ là vọng tâm. Tổ Sư nói: “ Nghịch thuận tranh nhau là tâm bệnh”. Cho nên, đối với cảnh, phải hay chẳng phải đều là vọng tâm cả.

C̣n chơn tâm, không biết mà biết thường hằng, tṛn chiếu nên khác với cây cỏ. Chẳng sanh yêu ghét nên khác với vọng tâm. Tức đối cảnh rỗng sáng, chẳng yêu chẳng ghét, chẳng biết mà biết ấy là chơn tâm.

Trong Triệu Luận nói: “ Thánh tâm ấy vi diệu vô tướng, nên chẳng có. Dụng nó th́ đầy sự cần dùng nên chẳng thể là không. Cho đến, chẳng có, nên biết mà không biết; chẳng không, nên không biết mà biết. V́ thế nên không biết tức biết. Không nói khác với tâm của thánh nhơn vậy”.
Lại vọng tâm nơi hữu trước hữu, nơi vô trước vô, thường ở hai bên chẳng biết trung đạo. Vĩnh Gia nói: “Bỏ vọng tâm giữ chơn lư. Tâm lấy bỏ thành xảo ngụy. Người học chẳng rơ dụng tu hành. Lâu thành nhận giặc lấy làm con”. Nếu là chơn tâm th́ dù ở trong hữu vô, mà không rơi vào hữu vô, thường ở trung đạo.

Tổ Sư nói: “Chẳng đuổi hữu duyên, chớ trụ không nhẫn, một giống thường hằng bỗng nhiên tự hết”.

Triệu Luận nói: “ Thánh nhân làm việc có mà chẳng có. Ở trong không mà chẳng không. Tuy không thủ hữu vô mà chẳng xả hữu vô. Ḥa ḿnh trong trần lao, dạo khắp ngũ thú, lặng lẽ mà đi rơ ràng mà đến, nhạt nhẽo không làm mà không ǵ chẳng làm (Điềm đạm vô vi nhi vô bất vi)”.
Đây là nói bậc thánh nhơn duỗi tay v́ người, đi khắp ngũ thú để tiếp dẫn giáo hóa chúng sanh. Tuy tới lui mà không ở trong tướng tới lui. Vọng tâm chẳng phải thế. Cho nên chơn tâm vọng tâm không đồng. Lại chơn tâm là tâm b́nh thường, vọng tâm là tâm bất b́nh thường.

***

Hỏi: Sao gọi là tâm b́nh thường?
Đáp: Mọi người đều có đủ một điểm linh minh, trạm nhiên như hư không, biến khắp mọi nơi. Đối với việc thế tục tạm gọi là lư tánh. Đối với vọng thức quyền gọi là chơn tâm. Không một mảy may phân biệt, gặp duyên chẳng lầm. Không một niệm lấy, bỏ, chạm vật đều khắp, chẳng theo cảnh dời đổi. “Giả sử theo ḍng được diệu. Chẳng ĺa hiện tại lặng yên. C̣n t́m tức biết anh chưa thấy”. Đấy tức là chơn tâm vậy.


***


Hỏi: Sao gọi là tâm bất b́nh thường?
Đáp: Cảnh có Thánh phàm, nhiễm tịnh, đoạn thường, lư sự, sanh diệt, khứ lai, hảo xú, thiện ác, nhơn quả... Nếu nhỏ nhặt mà kể ắt có ngàn sai muôn khác. Nay nêu ra mười đôi đều gọi là cảnh bất b́nh thường. Tâm theo cảnh bất b́nh thường này mà sinh, theo cảnh bất b́nh thường nầy mà diệt. Tâm cảnh bất b́nh thường đối với b́nh thường chơn tâm ở trước, nên gọi là bất b́nh thường vọng tâm. Chơn tâm vốn đủ, chẳng theo cảnh bất b́nh thường mà khởi các sự sai biệt. Cho nên gọi là b́nh thường chơn tâm.

***


Hỏi: Chơn tâm b́nh thường không có các nhơn khác, thế sao Phật nói nhơn quả thiện ác báo ứng?

Đáp: Vọng tâm chạy theo các cảnh, nhưng chẳng rơ các cảnh, nên khởi các tâm. Phật nói các pháp nhơn quả để trị các vọng tâm, nên cần lập nhơn quả. Nếu chơn tâm này chẳng đuổi theo các cảnh, do đó chẳng khởi các tâm, Phật tức cũng chẳng nói các pháp, th́ đâu có nhơn quả?


***

Hỏi: Chơn tâm b́nh thường chẳng sanh ư?
Đáp: Chơn tâm có lúc khởi dụng, nhưng chẳng phải theo cảnh mà sanh, chỉ là diệu dụng du hí, chẳng lầm nhơn quả.

15. Chỗ trụ của chơn tâm.

Hỏi: Người chưa đạt chơn tâm, do mê chơn tâm nên làm nhơn thiện ác. Do làm thiện nhơn nên sanh trong thiện đạo. Do làm ác nhơn nên vào trong ác đạo, theo nghiệp thọ sanh, lư này chẳng nghi. Nếu người đạt chơn tâm, vọng t́nh cạn hết, khế chứng chơn tâm không nhơn thiện ác. Vậy điểm linh của thân sau gá nương vào chỗ nào?
Đáp: Chớ bảo có chỗ gá nương là hơn không chỗ gá nương. Lại cũng chớ cho không chỗ gá nương, đồng với phiêu linh lăng tử ở thế gian, giống như loài quỉ, vô chủ cô hồn. Đặc biệt nêu câu hỏi này là mong có sự gá nương chớ ǵ?

– Đúng thế.

– Người đạt tánh th́ chẳng đúng, tất cả chúng sanh do mê giác tánh nên vọng t́nh ái nhiễm kết nghiệp làm nhơn, sanh trong lục thú thọ quả báo thiện ác. Giả như thiện nghiệp là nhơn chỉ được có thiện quả. Trừ chỗ phù hợp với nghiệp mà sanh, ngoài ra chẳng được thọ dụng. Các cơi đều như thế. Đă từ nghiệp kia nên chỗ phù hợp sanh cho là vui, chỗ chẳng phù hợp sanh cho là khổ. Bởi chỗ phù hợp sanh là chỗ tự ḿnh gá nương, chỗ chẳng phù hợp là chỗ người khác gá nương. Cho nên có vọng t́nh th́ có vọng nhơn, có vọng nhơn th́ có vọng quả có vọng quả th́ có gá nương. Có gá nương th́ phân ra kia đây. Phân ra kia đây th́ có thích hay không thích.

Nay đạt chơn tâm khế hợp với giác tánh không sanh diệt, khởi ra diệu dụng không sanh diệt. Diệu thể chơn thường vốn không sanh diệt, diệu dụng tùy duyên như có sanh diệt. Nhưng từ thể sanh ra dụng nên dụng ấy tức là thể. Có ǵ là sanh diệt? Người đạt đạo tức là chứng chơn thể, nên sự sanh diệt kia có can hệ ǵ? Như nước lấy tánh ướt làm thể, sóng ṃi làm dụng. Tánh ướt nguyên không sanh diệt, nên sóng ṃi trong tánh ướt nào sanh diệt ư? Nhưng sóng ĺa tánh ướt cũng không riêng có, nên sóng cũng không sanh diệt. Người xưa nói: “Khắp cơi nước là mắt của Sa môn, khắp cả nước là già lam”. Khắp mọi nơi là chỗ an thân lập mệnh của người ngộ lư. Người đạt chơn tâm th́ tử sanh lục đạo một chốc liền tiêu tan. Sơn hà đại địa đều là chơn tâm. Chẳng thể ĺa chơn tâm nầy riêng có chỗ gá nương. Đă không ba cơi làm vọng nhơn, ắt không có sáu thú làm vọng quả. Vọng quả đă không nói ǵ gá nương? Không gá nương ắt không bỉ thử, đă không bỉ thử th́ có ǵ là thích hay không thích?

Mười phương thế giới chỉ một chơn tâm, toàn thân thọ dụng không riêng gá nương. Lại đối với môn thị hiện th́ tùy ư qua lại mà không chướng ngại. Trong Truyền Đăng có chép rằng: “Thượng Thơ Ôn Tháo hỏi Ngài Khuê Phong: Người ngộ lư một phen tuổi thọ hết, gá nương chỗ nào? Khuê Phong đáp: Tất cả chúng sanh đều có đầy đủ cái linh minh giác tánh, cùng với chư Phật không khác. Nếu hay ngộ tánh nầy tức là pháp thân, vốn tự vô sanh có ǵ nương gá? Cái linh minh chẳng muội, rơ ràng thường biết, không chỗ đến cũng không chỗ đi. Chỉ lấy không-tịch làm tự thể, chớ nhận sắc thân. Lấy linh tri làm tự tâm, chớ nhận vọng niệm. Vọng niệm nếu dấy lên đều không theo nó, đến lúc mạng chung, khi ấy, nghiệp tự nhiên không thể cột. Tuy có thân trung ấm mà chỗ đến tự do. Cơi người cơi trời tùy ư gởi nương. Đây tức là chơn tâm truớc và chỗ đến của thân sau ấy vậy”.

Ba cơi nhiệt năo như trong nhà lửa, chúng sanh an nhẫn đắm ḿnh trong đó để chịu khổ dài. Muốn khỏi luân hồi không đâu bằng cầu Phật. Nếu muồn cầu Phật th́ Phật tức là tâm. Tâm nào t́m chi cho xa, đâu có ĺa thân này. Sắc thân là giả, có sanh có diệt. Chơn tâm như hư không, chẳng đoạn chẳng biến. Cho nên nói: “Hài cốt vỡ tan trở về lửa gió, một vật trường linh che trùm trời đất”.

Than ôi! Người hôm nay mê lâu thế? Chẳng biết tự tâm ḿnh là chơn Phật, chẳng biết tự tánh ḿnh là chơn pháp. Muồn cầu pháp mà cầu các thánh ở tha phương. Muồn cầu Phật mà chẳng quán tự tâm. Nếu nói ngoài tâm có Phật, ngoài tánh có pháp, chấp cứng t́nh nầy, muồn cầu Phật đạo, dù trải qua số kiếp như vi trần, đốt thân chặt tay đập xương ra tủy, chích máu viết kinh, ngồi măi chẳng nằm, ngày ăn một bửa, cho đến đọc hết một đại tạng kinh, tu muôn ngàn khổ hạnh, chẳng khác nào nấu cát làm cơm, chỉ luống tự nhọc.

Ông chỉ hiểu tự tâm ḿnh, th́ hằng sa pháp môn, vô lượng diệu nghĩa chẳng cầu mà được. Đức Thế Tôn nói: “ Ta xem khắp tất cả chúng sanh đều có đủ đức tướng trí huệ của Như Lai”. Lại nói: “ Tất cả chúng sanh mỗi mỗi đều huyễn hóa mà hay sanh ra cái diệu tâm viên giác của Như Lai”. Thế nên ĺa tâm này không Phật có thể thành. Quá khứ chư Phật chỉ là người sáng tâm mà thôi. Hiện tại các bậc Thánh hiền cũng là người tu tâm mà thôi. Vị lai người tu học nên y pháp như thế mà tu. Mong mỗi người tu cần yếu chớ t́m cầu bên ngoài. “Tâm tánh không nhiễm vốn tự viên thành, chỉ ĺa vọng duyên tức như như Phật”.

 

CHƠN TÂM TRỰC THUYẾT

   back_to_top.png   

[ TRANG CHỦ | KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ |HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0