* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ | KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

Số 2014

Vĩnh Gia Chứng Đạo Ca Thiển Thích

Sa Môn Huyền Giác soạn

ḤaThượng Tuyên Hóa

Thuyết Giảng tại Kim Luân Thánh Tự

Los Angeles, California,Mỹ Quốc, tháng 2 năm 1985

-o0o-

Lời Tựa

Bài Chứng Đạo Ca này giải bầy hết mọi điều tâm đắc của Đại sư Vĩnh-Gia, kết quả một đời tu hành của ngài. Quí vị chẳng nên chỉ nghe lướt qua, mà phải đọc cho thuộc, kẻo uổng mất giá trị của nó. Đây là lời khuyên của Thượng Nhân Tuyên Hóa, nhân kỳ thuyết giảng "Vĩnh-Gia Chứng Đạo Ca," năm 1985 tại Kim Luân Thánh Tự, Los Angeles, Mỹ Quốc. Với tâm bi thiết tha, và cũng như Đại sư Vĩnh-Gia, Thượng nhân đă chẳng nề hà, dùng lời phương tiện trỏ thẳng cho chúng ta cái tướng chân thật của viên "Ngọc Ma-ni, ngươi chẳng biết."

Lần đầu giảng bài ca này tại đất Mỹ là năm 1965, Thượng nhân đă dùng văn ngôn để chú giải, và tập chú thích tựa đề là "Vĩnh-Gia Đại-sư Chứng Đạo Ca Thuyên Thích." Nay, nhằm mục đích quảng bá, giúp các bạn trẻ chưa quen với lối văn cổ, có thể lănh hội được ư nghĩa của bài ca nói trên, chúng tôi mang các băng ghi âm khóa giảng của Thượng nhân năm 1985 để ấn hành thành tập văn bạch thoại này. Trước khi giảng vào nội dung ca từ, và để ứng hợp với tinh thần của Chứng Đạo Ca, Thượng nhân đă làm mười bốn câu tụng kệ (nói rơ ở đoạn sau), trong đó có hai câu như sau:

Duy nguyện Tam Bảo thùy gia hộ

Khải ngă chánh giác chuyển pháp luân

Có nghĩa là "nguyện xin Tam Bảo gia hộ, giúp đệ tử được chân chánh giác ngộ đặng chuyển bánh xe pháp." Cho nên chúng ta thấy, từng chữ Thượng-nhân giảng, đều phát ra tự đáy ḷng. Người trỏ thẳng, không nề nà, căn bệnh của chúng ta, khích lệ chúng ta y theo bài ca mà tu hành. Người dạy chúng ta như sau: "Nếu quí vị đọc bài ca, thuộc ḷng một cách trôi chảy, tự nhiên sẽ thông đạt, thấu hiểu đạo lư của nó."

Thấu hiểu đạo lư ǵ vậy? Chính là đạo lư liễu tri sanh tử bất tương quan, nghĩa là mới hay sống chết chẳng tương can. Khi gặp một hoàn cảnh khó khăn, lấy một đoạn của "Chứng Đạo Ca" ra đọc, tâm của chúng ta sẽ trở lại b́nh thản, vậy là cảnh ngộ dù khó khăn cũng có thể vượt qua. Thí dụ gặp chuyện oan ức, hoặc có ai nói xấu, chúng ta chỉ cần nhớ câu "mặc ai báng, mặc ai dèm, châm lửa đốt trời nhọc xác thêm"; như có ai mắng ta, th́ đă có câu "ngẫm lời ác, ấy công đức, đấy mới chính là thầy ta thực."

Giả tỷ chúng ta sợ sau khi chết sẽ bị luân hồi trong lục đạo, chúng ta sẽ phải tin theo lời của Đại sư Vĩnh-Gia trong câu: "Chứng thực tướng, không nhân pháp, sát-na rũ sạch a-tỳ nghiệp... Trong mộng lao xao bầy sáu nẻo, tỉnh ra bằng bặt chẳng ba ngàn."

Khi đă hiểu thấu thời chúng ta phải gắng tu tập, như Đại sư đă nói: "Không cầu chân, không dứt vọng... Tâm là căn, pháp là trần... Tâm pháp cùng quên tánh rơ chân."

Đối với vị nào chỉ biết nghiên cứu kinh giáo, mà không dụng công tu tâm dưỡng tánh, nghĩa là không biết y theo giáo lư mà phụng hành tu tập, Vĩnh-Gia Đại sư đă có lời chỉ bảo: "Phân biệt danh tướng măi không thôi... Châu báu của người có ích ǵ?"

Trong bài Chứng Đạo Ca, mỗi câu là một tiếng chuông cảnh tỉnh người học Phật pháp. Nếu có người lại nghĩ rằng bài ca này dành cho những người tu sĩ xuất gia mới đúng, c̣n như người thường th́ khỏi bàn tới, như vậy chúng ta nên đọc câu sau đây: "Thầy ta được thấy Nhiên-Đăng Phật, bao kiếp từng làm tiên nhẫn nhục," để hiểu rằng muốn thành Phật phải tu nhân tích lũy công đức. Đại sư Vĩnh-Gia cũng nói: "Ta sớm từng qua bao kiếp tu, nào dám sai ngoa lời dối mị."

Đại sư quả quyết với chúng ta rằng những điều nói ra trong "Chứng Đạo Ca" là để dẫn chúng ta "Chứng thực tướng, không nhân pháp," đưa thẳng chúng ta vào pháp môn nhất thừa, tới chỗ ngộ đạo. Đại sư nói: "Bằng đem lời vạy dối chúng sanh, tội rút lưỡi nguyện mang cùng kiếp." Một tâm lượng Bồ-tát, tự lợi lợi tha như vậy không lẽ chúng ta không thấy ḷng rung động sao? Vậy c̣n chờ ǵ mà chúng ta không nghiên cứu, không đọc tụng?

Quốc Tế Dịch Kinh Học Viện

Đêm trước ngày lễ "Tắm Phật," năm 1991

VĨNH-GIA ĐẠI SƯ

CHỨNG ĐẠO CA THIỂN THÍCH

ḤaThượng Tuyên Hóa

Thuyết Giảng tại Kim Luân Thánh Tự

Tôi đến Los Angeles là muốn xem quí vị nghe kinh như thế nào? Quí vị học Phật pháp có tiến bộ và hiểu được ǵ không? Mặt khác, tôi cũng muốn coi thử hơn mười năm về trước tôi giảng kinh ra sao. Quí vị không nên có ḷng chấp trước, bảo rằng Ḥa thượng trụ tŕ về đây mà cũng không thuyết pháp cho chúng ta nghe; kỳ thực hằng ngày, tôi vẫn thuyết pháp cho quí vị đó! Ở đây mỗi ngày đều có tiếng của máy ghi âm, qua các băng ghi âm để lại từ trước; lúc đó tôi c̣n trẻ, tinh thần tương đối sung măn, giảng kinh c̣n hay hơn bây giờ nhiều. Nếu quả quí vị muốn nghe tôi giảng kinh, th́ bất cứ thời khắc nào cũng có thể nghe được, chẳng cần phải đợi lúc tôi về đây mới có thể nghe kinh. Hồi đó, giọng tôi nói, ư nghĩa tôi giảng ra, so với ngày nay đều hay hơn. Chẳng qua, đây cũng do ḷng tham của các vị, cứ muốn tôi giảng nữa. Hiện nay tôi gắng sức thu xếp để nghỉ ngơi, cho nên quí vị phải tự ḿnh lo lấy, tự ḿnh liệu cách để hoằng dương Phật pháp.

Bài Chứng Đạo Ca là do một vị tổ sư người Trung Hoa, tên là Huyền-Giác trước tác. Sư quê quán ở Vĩnh-Gia, một địa danh của Trung Quốc thuộc Ôn Châu (tỉnh Triết-Giang), huyện Vĩnh-Gia. Ôn-châu cũng như Phúc-châu, Ninh-ba, Quảng-đông, mỗi nơi đều có tiếng nói địa phương riêng, người ở vùng khác nghe rất khó hiểu. Cái đó là do tiếng nói ở Trung Quốc không thống nhất, giọng nói cũng như tiếng nói có sự khác biệt tùy theo từng vùng. Khi lên bốn tuổi, Sư đă được cha mẹ gởi vào chùa cho xuất gia, và sau này trở thành một người học rộng vô cùng. Số là, mới bốn tuổi đă xuất gia, nên nhà chùa phải kiếm người chuyên môn, đặc biệt dạy riêng cho Sư. V́ vậy mà căn bản học vấn của Sư rất vững vàng. Học đă rộng, lại dụng công tu tập nên Sư đă được khai ngộ. Ngộ rồi, Sư không giữ pháp riêng cho lợi ích của chính ḿnh, nên đă viết thành bài ca chứng đạo khai thị mọi người, muốn cho tất cả được hiểu thấu và nhận thức đúng chánh pháp để tu hành.

Hồi đó, Sư nghe nói lối truyền tâm ấn (Nhĩ đề diện mệnh, khẩu thọ tâm hội, tức là "đối diện rỉ tai, lời trao tâm lănh") của phái Tào-khê, tức Lục-tổ ở Chùa Nam Hoa, được truyền thừa y bát từ Phật Thích Ca, Sư bèn không quản ngàn dặm đường xa, tới kiếm Lục-tổ để cầu ấn chứng.

Sư tới Chùa Nam Hoa th́ gặp Lục-tổ đương thuyết pháp. Sư đắp y, tay cầm tích trượng tiến lên pháp ṭa, đi nhiễu bên phải ba ṿng, rồi đứng trước Lục-tổ, không cúi đầu đảnh lễ mà quát lên một tiếng lớn. Tổ hỏi:

–Người xuất gia gọi là Sa-môn phải có phép tắc, phải đủ ba trăm oai nghi, ba ngàn tế hạnh. Tại sao ông tới đây mà lại có thái độ thô lỗ như vậy, một chút lễ phép cũng không có?

Sư đáp:

–Sanh tử là việc lớn, vô thường quá mau.

Sư muốn nói rằng việc dụng công tu tập quá cấp bách, làm ǵ c̣n thời gian để làm lễ nữa? Làm ǵ c̣n thời gian để lo những điều tiểu tiết? Để nghiên cứu cái ǵ là ba trăm oai nghi, ba ngàn tế hạnh? Chẳng c̣n chuyện ǵ to lớn bằng chuyện sanh tử, quỷ vô thường đến bất chợt lúc nào không hay, vậy tôi c̣n thời gian nào để hành lễ nữa?

Tổ bèn nói:

–Sao chẳng thể giải cái không sanh và liễu ngộ cái không mau chóng?

Ư Tổ muốn nói rằng sao không nghiên cứu pháp vô sanh? Sao không minh bạch đạo lư của cái không mau? Sư thưa lại:

–Thể giải (tự tánh) tức là không sanh, liễu ngộ (tự tánh) rồi th́ vốn không có mau chóng.

Ư Tổ nói rằng đừng nói tới nghiên cứu, bởi nghiên cứu không kiếm ra sanh tử, khi minh bạch rồi th́ không có cái ǵ gọi là mau chậm, cũng không có cái vô thường.

Tổ bảo:

–Nếu ông đă nói rằng thể giải tức vô sanh, ngộ rồi th́ vốn không có mau, vậy ai là kẻ phân biệt? Ư nói rằng ai là người có ư nghĩ phân biệt đó?

–Phân biệt cũng chẳng phải ư. Nghĩa là không có tâm niệm tại chỗ phân biệt.

Lúc đó, Lục-tổ bèn ấn chứng cho Đại sư Vĩnh-Gia:

–Đúng thế! Đúng thế!

Sư thấy Tổ đă ấn chứng cho ḿnh, bèn dùng đầy đủ oai nghi lễ tạ Tổ, sau đó Sư xin cáo từ.

Tổ thấy Sư tới nơi chỉ nói mấy câu rồi ra đi, mới hỏi rằng:

–Sao lại ra đi quá mau như vậy?

Sư thưa:

–Vốn tự không động, há có mau ư? Sư muốn nói bổn lai không đến, không đi, th́ có ǵ là mau chậm.

–Ông thiệt đă chứng được ư vô sanh.

–Vô sanh có ư sao?

–Không ư, cái ǵ phân biệt được?

–Phân biệt cũng không phải ư.

–Ông có thể liễu, nhưng không nên đi.

Lúc đó Sư biết rơ Lục-tổ quả đă ấn chứng cho ḿnh, nên Sư ở lại chùa Nam-hoa một đêm. Người đương thời gọi Sư là "Nhất-túc-giác" ngộ một đêm. Đó là công án về chuyện Đại sư Vĩnh-Gia gặp Lục-tổ và được Tổ ấn chứng.

Đời sau có kẻ khoe tài học vấn đưa ra giả thuyết rằng bài Chứng Đạo Ca là do Đại sư Hà-Trạch (Thần-Hội) trước tác. Chúng ta thấy cả hai vị Đại sư, Vĩnh-Gia và Hà-Trạch đều là những bậc cổ đức, và chính các vị đó chẳng ai tự gán cho ḿnh là tác giả của bài nọ hay bài kia. Xưa nay chẳng hề có điều ǵ tranh căi về chuyện này, nay có người lại đặt thêm chuyện, ḥng dối gạt người khác, đem cái của người này khoác vào cho người kia, làm thành một sự rối rắm. Thật ra, bài Chứng Đạo Ca là tác phẩm của Đại sư Vĩnh-Gia. Có điều, cổ nhân trước tác xong chẳng phải nhất thiết ghi lại tên ḿnh, nên mới có người đời sau, bới lông t́m vết, cố ư sanh chuyện mà bảo là Đại sư Hà-Trạch đă trước tác.

Học vấn và đạo đức của Đại sư Vĩnh-Gia th́, vào thời đó ít có ai được như vậy. Trí huệ và biện tài của Ngài cũng ít người sánh kịp, do đó bài Chứng Đạo Ca do Sư trước tác thật là vô cùng đặc sắc vừa đơn giản, vừa sáng sủa, khiến cho người đời nay đọc lên cảm thấy tâm bồ đề dào dạt, và trí huệ cũng bừng sáng.

Tôi đến nước Mỹ, lần đầu giảng Kinh Kim Cang. Tôi không để lại bút kư hay ghi lại những lời chú giải. Lúc đó, đại chúng đều là người Trung-hoa, nên mọi người nghe giảng xong là đủ rồi. Tới khi giảng đến Tâm Kinh, cứ mỗi tuần lễ tôi giảng một câu, hai câu, hay ba câu, làm thành một đoạn. Tại mỗi đoạn tôi làm tám câu tụng kệ để giảng. Từ đó làm thành tập "Bát-nhă ba-la-mật-đa Tâm Kinh Phi Đài Tụng Giải." Khi ấy, mỗi tuần lễ tôi giảng một lần, v́ b́nh thời mọi người đều bận, không thể tới nghe được.

Trước tôi ở trong căn hầm, không có cửa sổ, chỉ có cửa ra vào, không khí th́ ẩm thấp, thiếu ánh sáng mặt trời, ban đêm không nh́n thấy trăng sao. Tại chỗ ấy tôi giảng kinh Kim Cang. Về sau, khi dọn tới đường Waverly th́ tôi giảng Tâm Kinh, và tiếp theo đó tôi giảng Vĩnh-Gia Đại sư Chứng Đạo Ca (năm 1965). Tôi dùng thể văn ngôn (cổ văn) viết ra để giải thích, sau đó tôi giảng. Về sau, người ta in thành tập "Vĩnh-Gia Đại sư Chứng Đạo Ca Thuyên Thích."

Quí vị như muốn biết những ǵ tôi đă giảng pháp năm xưa th́ có thể đọc "Bát-nhă ba-la-mật-đa Tâm Kinh Phi Đài Tụng Giải" hoặc có thể nghiên cứu "Vĩnh-Gia Đại sư Chứng Đạo Ca Thuyên Thích."

Nói về bài Chứng Đạo Ca, khi tôi bắt tay vào nghiên cứu Phật pháp, tôi rất thích bài này. Tôi đọc đi đọc lại, đọc tới thuộc ḷng. Cũng do sở thích đó, mà đây lần thứ ba, sau ngày tới đất Mỹ, tôi dùng bài ca để bố thí pháp, giảng giải cho mọi người nghe. Rất cần thiết cho bao nhiêu sinh viên, thanh niên tại đất Los Angeles này nghiên cứu về Chứng Đạo Ca.

Lần này, có người hỏi tôi có giảng kinh không? Những cuộn băng ghi âm khóa giảng ngày trước, không hiểu so với ngày nay tôi giảng kinh ra sao. Hồi xưa tinh thần c̣n sung măn, thân thể không có đau yếu nhiều, giảng pháp có nghị lực, ư tưởng lại có nhiều phần sáng tạo nữa, nên lời pháp giảng ra không có chút ǵ là ủy mỵ, khiến người nghe phải chán nản buồn ngủ. Nay v́ lẽ ǵ quí vị c̣n muốn tôi giảng kinh nữa? Có các băng ghi âm thay thế, giúp cho tôi yên ổn nghỉ ngơi, nhưng một số đệ tử không chịu buông tha, cứ thôi thúc tôi giảng. Hôm nay, ngồi trên pháp ṭa, một linh cơ chợt tới, tôi nghĩ rằng giảng Vĩnh-Gia Chứng Đạo Ca cũng là tốt. Mọi người nghe xong đều biết xướng tụng bài ca, để người ta được nghe mà sớm khai ngộ.

Đại sư: Thế nào là đại sư? Đại, là do ư nghĩa giáo hóa chúng sanh, rộng khắp ba giới. Sư, tức là thầy của trời, người; lại c̣n nghĩa người nào lấy pháp làm thầy, hết mọi pháp đều tuân theo, coi pháp như một vị sư trưởng; hoặc lấy pháp để bố thí cho hết thảy chúng sanh. Đó là những ư nghĩa của chữ Sư. Đây là một thứ mẫu mực, khuôn phép, tiêu chuẩ một cái ǵ để mọi người bắt chước, như vậy gọi là Sư.

Vị Đại sư này, mới bốn tuổi đă xuất gia, rồi sau đó từng giờ, từng khắc dụng công tu hành, t́m thầy học đạo, cho nên trong bài ca có ghi như sau:

Du giang hải, thiệp sơn xuyên

Tầm sư phỏng đạo vị tu thiền

Tự ṭng nhận đắc Tào-khê lộ

Liễu tri sanh tử bất tương quan.

Dịch nghĩa:

Chơi biển cả, dạo rừng thiêng

T́m thầy học lấy đạo tham thiền

Từ ngày rơ nẻo Tào Khê ấy

Mới hay sống chết chẳng tương can.

"Du giang hải" nghĩa là đi các nơi t́m hỏi thiện tri thức; "thiệp sơn xuyên," tức leo trèo lặn lội khắp các núi cao sông lớn, t́m thầy kiếm bạn để học đạo - thỉnh giáo các thiện tri thức, những người sáng suốt để họ chỉ vẽ cho ḿnh, cho nên nói: "tầm sư phỏng đạo vi tham thiền," một ḷng hướng tới việc giải quyết vấn đề sanh tử, và chuyên học pháp môn tham thiền. "Tự ṭng nhận đắc Tào-khê lộ" là có ư nói từ ngày Sư hiểu thấu mục tiêu tối hậu của phái Tào-khê là truyền tâm ấn, Sư liền "liễu tri sanh tử bất tương quan," tức hiểu minh bạch vấn đề sanh tử và chẳng c̣n ǵ thắc mắc nữa.

Chứng: Chứng nghĩa là chứng đắc, và cũng có nghĩa là có sự chứng minh, chứng minh rằng đạo có thể chứng, có thể tu, có thể hành. Chứng cũng là ấn chứng, ư nói là chứng cớ (bằng chứng). Nói về ấn chứng, th́ người tu đạo khi đă được khai ngộ, họ không thể tự ḿnh ấn chứng cho ḿnh, mà phải t́m sự ấn chứng nơi các cao tăng hay thiện tri thức lớn, để các vị này chứng minh cho. Họ không thể tự xưng ḿnh đă khai ngộ, đă chứng quả; nếu họ làm vậy, th́ tức là chưa chứng quả mà đă nói là chứng quả (vị chứng ngôn chứng, vị đắc ngôn đắc). Chưa có trí huệ chân chánh, mà tự cho là có, tức trong Phật giáo nói là phạm vào đại vọng ngữ, một tội bị rút lưỡi đọa địa ngục. Cũng v́ lư do đó, người tu hành không thể tự ḿnh xưng làm Tổ sư, mà phải có thiện tri thức đủ minh nhăn hay một Tổ sư đến ấn chứng, lúc bấy giờ mới có thể được tôn lên làm Tổ sư.

Đạo: Ông Hàn-Dũ rất hữu lư khi ông nói "do cái ấy mà đến gọi là đạo" (do thị nhi chí yên, thị vị đạo), từ chỗ này đi đến một chỗ khác là một đạo lộ (con đường). Nhưng cái ông nói đó là đạo lộ của người đi c̣n chúng ta th́ nói về đạo lộ của người tu hành. Tu theo đạo lộ này th́ thời tu ở bên trong, chẳng phải ở bên ngoài, cho nên nói: "Phải thánh ở bên trong mới làm vương ở bên ngoài," cốt cách phải thông minh, đốc trí, có trí huệ của thánh nhân, th́ ra ngoài mới có thể giáo hóa chúng sanh được.

Ở Trung-hoa có Thương-Hiệt là người đặt ra chữ. Thương-Hiệt là một Bồ-tát tái sanh. Làm sao ông lại biết đặt chữ? Bởi ông có thiên nhăn thông, cho nên khi ông đặt ra chữ, một số lớn dùng lối tượng h́nh. Tượng h́nh nghĩa là chữ giống như h́nh. Lấy thí dụ chữ Đạo (?) chẳng hạn ở trên có hai chấm, một nét chấm tượng trưng cho âm, một nét chấm cho dương. Nếu hai nét này là một nét phết (?) và một nét mác ( ?) th́ sẽ tạo thành chữ nhân (?); nếu cũng hai nét phết và mác rời nhau th́ đó là chữ bát (? ); nếu nét phết ngắn hơn một chút, c̣n nét mác dài thêm một chút th́ biến thành chữ nhập (? ). Như vậy là chỉ hai chấm trên đầu chữ "đạo" mà có bao nhiêu sự biến hóa! Nay hai chấm trên đầu chữ "đạo" tượng trưng cho âm dương, cũng tượng trưng cho chữ "nhân," chữ "nhân" tách ra làm một âm một dương, ở dưới hai chấm lại có một vạch ngang là chữ "nhất" (?). Cái ǵ làm thành chữ "nhất" vậy? Tự nhiên mà có chữ "nhất" sao? Chữ "nhất (?) là do số không mà sanh ra. Số không bị cắt rồi đem kéo thẳng ra th́ có chữ "nhất." Ta cũng có thể nói hai chấm trên đầu chữ "đạo" là do số không bị cắt thành hai khúc, biến thành một âm, một dương. Chữ "nhất" bao gồm cả âm dương, do số không biến thành, sau đó lại thêm chữ "tự" (?), ư nói tu đạo là phải do tự ḿnh. Phối hợp lại với hai chấm và nét ngang ở trên, ta sẽ có chữ "thủ?t;(?), thủ?7913;c là cái ǵ lớn nhất trong đời sống. "Thủ?t; là chỉ cái đầu, và cũng như cái đầu vậy, việc trọng yếu nhất là liễu sanh thoát tử ở ngay nơi ḿnh, chớ không phải hướng ngoại t́m cầu mà được, cho nên chính ḿnh phải tự tu tập; bên cạnh chữ "thủ" lại thêm chữ "tẩu"( ?) mới thành đủ nét của chữ "đạo." Đạo là phải tu hành, tu là phải hành – phải thực hành, cho nên mới có chữ "tẩu" ở bên cạnh. Đó là đại khái về ư nghĩa của chữ "Đạo".

Hai chấm trên đầu chữ "đạo" biểu hiện âm dương, cũng biểu hiện hai mắt của con người, hai tai, hoặc hai lỗ mũi, đại lược tượng trưng như vậy. Mắt, tai, mũi, bất luận bộ phận nào, đều nằm trên cơ thể, cho nên không thể t́m kiếm cái ở bên ngoài để dụng công, mà công phu là phải thực hiện ở bên trong. Bởi vậy đạo tức ở ngoài là đạo hữu h́nh, bên trong là đạo vô h́nh; đạo hữu h́nh là đạo của sanh tử, đạo vô h́nh là đạo của liễu sanh thoát tử. Đại sư Vĩnh-Gia làm bài Chứng Đạo Ca là nói về đạo dứt sanh tử, đó là đạo mà trong tự tánh mỗi cá nhân phải noi theo mà tu.

Ca: Ca là xướng ca. Trong bài Chứng Đạo Ca, Sư không dùng thể thơ, văn xuôi, hay thể phú, thể từ, mà dùng thể ca, để người ta có thể xướng hát. Hát để làm ǵ? Để có thể rèn nặn tâm tính, trí huệ nẩy sanh, từ cái nọ lan sang cái kia, có thể nhân lời ca giọng hát mà ngộ đạo, đó là ư của Sư khi trước tác.

Bổn lai của thiền tông là nói tướng mà ĺa ngôn từ, chẳng có ǵ để nói; ĺa tâm duyên tướng, tâm tưởng chẳng tới được; ĺa các tướng văn tự, chẳng có văn tự để tả. Nếu đă như vậy th́ cớ sao Đại sư Vĩnh-Gia từ chỗ chẳng có chuyện ǵ bày đặt chuyện, viết thành bài ca chứng đạo? Vậy chẳng phải là thừa thăi hay sao? Không phải đâu! Sư biết rơ thiền tông là ĺa lời mà nói tướng, ĺa tâm duyên tướng, ĺa tướng văn tự, quét sạch mọi pháp, ĺa hết mọi tướng, một pháp chẳng lập, nhưng sư vẫn phải dùng lời ca ngôn ngữ để biểu dương đạo lư, đặng tiếp dẫn những người chưa hiểu, khiến họ thấy hứng khởi trong câu ca, cũng như ta thường nói đưa ra cái xấu th́ có cái tốt, vị đắng mà thuốc lành. Bởi vậy không cần nói mà sư nói, không cần viết ra mà lại viết thành bài ca, ư của Sư là chỉ cốt thúc đẩy mọi người phát khởi bồ đề tâm.

Nguyên trong việc tu hành là không có ǵ để nói năng cả, nhưng sao lại có ca ở đây? Mà đă không có ca lại bảo giải thích ca, thuyên thích lời ca là nghĩa làm sao? Há chẳng phải là quá bày đặt hay sao? Có điều tôi thấy Đại sư Vĩnh-Gia chẳng ngại phiền hà, ráng t́m cách tiếp dẫn chúng sanh, nên tôi cũng muốn noi theo mà chẳng tự lượng sức ḿnh, chẳng kể cái vốn học hỏi quê mùa và ít ỏi của ḿnh, rườm rà đem ra một chút kiến thức nông cạn để chú thích bài ca lấy tên là "Vĩnh-Gia Đại sư Chứng Đạo Ca Thiển Thích."

Bài này đem ca lên khiến mọi người cảm thấy như được khai ngộ, đọc th́ thuận miệng, dễ thuộc. Lần đầu tiên tôi bắt được bài này, trong ḷng vui mừng vô tả, bỏ ngủ mà không mệt, bỏ ăn mà không đói, cho đến áo quần cũng chẳng cần tới nữa, cứ như vậy ngày ngày ca nó, tụng nó, cho tới thuộc ḷng nó lúc nào không hay. Có điều tôi không hiểu sau khi nghe tôi giảng bài này, có vị nào cảm thấy ḿnh cũng cao hứng giống như tôi chăng? Lần tôi giảng Chứng Đạo Ca ở San Francisco, tôi không thấy ai đặc biệt chú ư tới nó như vậy, chẳng có ai quan thiết tới nó đến nỗi quên ăn, quên ngủ. Mới hay rằng, căn tánh mỗi người chẳng giống nhau, có người thích bộ kinh này, có người ưa bộ kinh khác, người th́ bảo kinh này hay, kẻ th́ nói kinh kia không hay. Thật ra đó là những quan niệm sai lầm. Trong các kinh Phật nói ra, chẳng thể nói kinh này hay, kinh kia không hay. Pháp nào Phật nói ra cũng đều là hàng đầu, cũng đều là "vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ" cả.

Nếu như chúng ta đem cái tâm cầu pháp thế gian để cầu Phật pháp, bất tất phải đem hết cái tâm đó ra, chỉ cần có một nửa sự thành tâm đó là đủ lắm rồi! Quí vị thấy người thế gian cầu danh cầu lợi, ngày ngày tính toán làm sao để có danh, có lợi, thâu được cả hai, làm sao cho ḿnh được nổi bật, cho mọi người tin tưởng. Tài, sắc, danh, thực, thùy (tài, sắc, danh, ăn, ngủ), các pháp thế gian, ai cũng hết ḷng cầu mong. Nếu chúng ta cũng cầu pháp xuất thế gian với một tâm vui sướng cùng cực như vậy, lúc nào cũng canh cánh bên ḷng, th́ có lo chi chẳng thành đạo nghiệp? Chẳng thành Phật? Chỉ v́, mọi người đối với ngũ dục, tài, sắc, danh, thực, thùy, th́ đều tích cực, nhưng đối với chuyện tu hành, lại không có được sự khẩn thiết đó, không có ḷng kiền thành như vậy. Tuy cũng lễ Phật, tụng kinh, nghe kinh, nhưng nói chung không có ḷng sốt sắng, như họ đă dành cho các vấn đề ngũ dục, tài, sắc, danh, thực, thùy của pháp thế gian, cho nên tôi mới nói rằng một phân nửa của tâm cầu pháp thế gian để cầu Phật pháp cũng là hay lắm rồi! Quí vị nghĩ lại mà coi, trong số mọi người ngày nay đi làm, chỉ có quí vị làm ở Vạn Phật là không kể công, họ làm trong tinh thần hy sinh để phục vụ Phật pháp. Thử hỏi, người đời có ai đi làm trong tinh thần đó? Nếu như cầu pháp xuất thế mà có được một nửa tinh thần như vậy, th́ lợi lạc biết chừng nào! Tôi cứ thấy tâm trạng đó của người thế gian mà trong ḷng không ngăn được sự cảm thán!

Thiển Thích: Nghĩa là làm cho hiển lộ, làm cho ư nghĩa được sáng tỏ, khiến mọi người dễ hiểu. Chẳng phải những ǵ có tính cách cao siêu, thâm áo. Có thể gọi đây chỉ là những lời lẽ của một kẻ có kiến thức hẹp ḥi - như nh́n bầu trời xuyên qua một cái ống, hay lấy vỏ ṣ để đong biển cả - để mong giảng giải "Chứng Đạo Ca."

"Chứng Đạo Ca" nói lên phương pháp tu hành. Nếu chúng ta hiểu thấu phương pháp đó, quen thuộc với nó, th́ cũng có thể chứng đạo. Theo cách phân loại của tông Thiên-thai th́ bài ca này thuộc loại "nhân pháp lập đề," dùng người và pháp đặt tên v́ Vĩnh-Gia là tác giả, là nhân, chứng đạo ca là pháp, lấy pháp mà chứng đạo.

Đại sư Vĩnh-Gia, bốn tuổi xuất gia, học đủ ba tạng kinh, luật, luận, đối với Thiên-thai giáo th́ nghiên cứu sâu rộng. Sư thuộc họ Đái. Có thể nói Sư chưa hề bị nhiễm thế duyên, chưa từng va chạm trong xă hội, nên cốt cách tinh thuần, vô nhiễm, cho nên trong bài ca Sư trước tác, lời lời chân thực, từng chữ bày ra như châu ngọc, không giống như cách lải nhải chú thích của người ta. Bởi Sư không bị nhiễm, nên lời ca của Sư mới thuần khiết và thanh tịnh như vậy.

"Chứng Đạo Ca" vừa sáng sủa lại thâm áo, văn từ cũng không thấy có chỗ nào là khó hiểu, vậy mà ư nghĩa thật là vô cùng ảo diệu, biểu lộ Phật pháp thật đầy đủ. Trước khi giảng "Chứng Đạo Ca" ngày 7 tháng 12 năm 1965, tôi có làm mười bốn câu tụng kệ, phát nguyện dốc một ḷng chí thành khẩn thiết để giải thích lời ca của bài này:

Tuyên-Hóa thanh tịnh thân, khẩu, ư

Quy mạng đảnh lễ Phật, Pháp, Tăng

Năi chí thập phương tam thế Phật

Quá khứ hiện tại vị lai trung

Chư tôn Bồ-tát ma-ha-tát

Tây phương Đông độ lịch đại Tổ

Cổ văng kim lai Hiền Thánh đăng

Duy nguyện Tam Bảo thùy gia hộ

Khải ngă chánh giác chuyển pháp luân

Kiến văn tinh tấn chứng bất thoái

Đảo giá từ hàng cứu đồng luân

Nhất thiết chúng sanh giai diệt độ

Hoàn ngă bổn lai Pháp tánh thân

Cận kiến Uy-âm cổ từ thân.

Tuyên Hóa thanh tịnh thân khẩu ư: Nghiệp của chúng ta đều do thân khẩu ư tạo ra. Thân không thanh tịnh, dễ tạo nghiệp, khẩu và ư không thanh tịnh, dễ tạo nghiệp. Thân nghiệp dễ phạm là giết hại, trộm cắp, và tà dâm (sát, đạo, dâm). Ư nghiệp th́ có tham, sân, si, như b́nh thường chúng ta nghĩ tới chuyện thị phi, nghe chuyện thị phi, làm chuyện thị phi, đó đều thuộc tham, sân, si. Bởi vậy, chỗ có thị phi, tuyệt đối chớ có gần, chuyện tà vạy, tuyệt đối chớ có hỏi, nếu ta hỏi liền bị nghiệp chẳng thanh tịnh lôi cuốn, bởi có câu: "khẩu khai thần khí tán, thiệt động thị phi sanh," nghĩa là mở miệng th́ thần khí hao tán, lưỡi động th́ thị phi sanh.

Trời đất phú cho ta thân thể, tánh linh, là muốn chúng ta xử dụng một cách chánh đáng, chớ không bảo chúng ta lạm dụng để làm những chuyện phi pháp. Người học Phật là phải hồi quang phản chiếu, ngày ngày xét ḿnh xem ḿnh đă cư xử ra sao, có làm cái ǵ để tranh dành danh lợi, có tranh đua cho nổi bật, có tranh quyền đoạt lợi hay không? Nếu quả có điều đó th́ thật không xứng đáng là tín đồ Phật giáo; tín đồ Phật giáo là phải khiêm cung, chẳng tranh, chẳng tham, chẳng cầu, chẳng tự tư, chẳng tự lợi, không nói dối, và nếu theo đúng được sáu tông chỉ lớn này, lúc đó mới có thể gọi là tín đồ chân chánh, ư nghiệp mới gọi là thanh tịnh.

Khẩu th́ có bốn nghiệp: nói thêu dệt, nói không thật, nói lời ác, nói lưỡi hai chiều.

Nói lời thêu dệt th́ đại khái như kể những chuyện trai gái dâm ô, khiến mọi người tưởng đến những chuyện xấu; hoặc giả nhằm kể những điều tổn hại danh dự của Phật giáo, khiến người khác có ấn tượng xấu về Phật giáo, chẳng hạn như nói theo kiểu này: "Quí vị thấy đó! Hắn tu học mấy năm rồi mà thái độ c̣n hung hăng như vậy, học Phật cái ǵ!" Chúng ta ngày ngày tu học Phật pháp, nếu chẳng chịu một phen dụng công phu, chính là có lỗi với Phật pháp, nên phải tự ḿnh trách cứ chính ḿnh, phải trị cho được cái tâm cống cao ngă mạn của ḿnh, cũng như ḷng ghen ghét đố kỵ, các loại chứng tật đó. Trong Phật giáo, đây là những chướng ngại rất lớn, giam hăm người tu không vượt được ra ngoài tam giới. Bởi vậy ba nghiệp thân, khẩu, ư là trọng yếu vô cùng.

Nói không thật, hay vọng ngữ, là điều mọi người dễ phạm phải. Nhiều khi nói không đúng sự thật, nói lời dối ngụy mà vô t́nh không hay biết.

Nói lời ác, là dùng lời thô lỗ mắng người khác, chọn những câu thật tục tĩu khó nghe, hay những lời độc địa, như vậy gọi là ác khẩu.

Nói lưỡi hai chiều, cũng như kẻ mang hai bộ mặt, trước mặt ông A th́ nói xấu ông B, trước mặt ông B th́ nói xấu ông A, gây mâu thuẫn giữa hai người, làm cho họ xích mích với nhau như nước với lửa, trong khi ấy ḿnh th́ đứng ở ngoài bàng quan xem hai bên ḱnh địch nhau, nghêu c̣ tranh chấp cho ngư ông thủ lợi.

Bởi vậy, trước khi đi vào phần giảng kinh, tôi cố gắng thanh tịnh mọi tập khí, khiến cho thân được thanh tịnh, khẩu được thanh tịnh, ư được thanh tịnh. Đó là ư của câu: "Tuyên-hóa thanh tịnh thân khẩu ư."

Quy mạng đảnh lễ Phật, Pháp, Tăng: Tôi xin nhất tâm quy mạng Tam Bảo, Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo.

Năi chí thập phương Tam thế Phật, Quá khứ hiện tại vị lai trung: Tức là, chiều rộng trải ra cùng hết mười phương thế giới; chiều sâu, th́ suốt dọc ba đời, quá khứ, hiện tại, vị lai, ba đời Phật, tôi thảy đều quy kính.

Chư Tôn Bồ-tát ma-ha-tát:Các vị đại Bồ-tát trong hết thảy các Bồ-tát, tôi đều hướng tới để quy mạng đảnh lễ.

Tây phương đông độ lịch đại Tổ: Đây là kế thế các đời Tổ sư ở Tây-trúc và ở Đông-độ.

Cổ văng kim lai Hiền Thánh đăng: Các vị Thánh Hiền từ xưa đến nay, giống như những ngọn đuốc sáng chiếu rọi.

Duy nguyện Tam Bảo thùy gia hộ: Trước khi chú giải "Chứng Đạo Ca," tôi xin hết ḷng chí thành nguyện cầu Tam Bảo, vô tận Pháp, Tăng, thường trú trong ba đời, khắp tận hư không, cùng khắp pháp giới, gia hộ cho tôi được đầy đủ trí huệ đặng có thể giảng giải "Chứng Đạo Ca."

Khải ngă chánh giác chuyển pháp luân: Khai mở cho tôi có được chánh tri, chánh giác, đặng tôi thấu tỏ đạo lư của "Chứng Đạo Ca."

Kiến văn tinh tấn chứng bất thoái:Khiến cho người nào thấy "Chứng Đạo Ca," được nghe "Chứng Đạo Ca," hoặc thấy "Vĩnh-Gia Đại sư Chứng Đạo Ca Thiển Thích," liền được dũng mănh tinh tấn, y pháp mà tu hành, chứng được niệm bất thoái, vị bất thoái, hạnh bất thoái, ba điều bất thoái.

Đảo giá từ hàng cứu đồng luân:Quay ngược cỗ thuyền từ bi trở về cơi Sa-bà để cứu chúng sanh hữu t́nh khỏi cảnh khổ nạn.

Nhất thiết chúng sanh giai diệt độ:Khiến hết thảy chúng sanh đều được diệt độ; ĺa khổ, được hạnh phúc, chứng được Niết-bàn diệu tâm.

Hoàn ngă bổn lai Pháp tánh thân: Trở về gốc nguồn, khôi phục lại gốc Pháp thân Phật của ḿnh.

Cận kiến Uy-âm cổ từ thân:Khiến chúng ta, tất cả mọi người được triều bái đức Phật cổ sơ nhất là Phật Uy-âm Vương, người cha từ bi cổ sơ nhất của hết thảy chúng sanh.

  

Quân bất kiến,

Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân

Bất trừ vọng tưởng bất cầu chân

Vô minh thực tánh tức Phật tánh

Ảo hóa không thân tức Pháp thân.

Dịch:

Anh thấy chăng:

Dứt học vô vi, ấy đạo nhân,

Không trừ vọng tưởng, chẳng cầu chân?

Tánh thực vô minh tức Phật tánh,

Thân không ảo hóa tức Pháp thân.

Quân bất kiến: Ở đây dùng chữ quân để chỉ người đối thoại, một lối xưng hô lịch sự, cũng giống như "tiên sinh," Trương tiên sinh, Lư tiên sinh. Bất kiến là có ư hỏi quí vị có thấy hay không? Đây là một lời ướm hỏi. Thấy hay không thấy chuyện ǵ đây?

Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân: Tuyệt học có thể giảng là vô học, nghĩa là chứng được quả vị vô học. Sơ quả, nhị quả, tam quả, ba quả vị thánh này đều là những quả vị hữu học, tức c̣n phải tu học. Quả vị thứ tư là quả A-la-hán, mới là quả vị vô học.

Tuyệt học có chữ tuyệt nghĩa là đoạn tuyệt, dứt bỏ con đường học tập. V́ sao dứt bỏ? V́ đă chứng được trí huệ vô vi, chẳng làm mà chẳng có ǵ là không làm. Trông bên ngoài th́ vị đó không có chuyện ǵ làm cả, nhưng thực ra ở bên trong vị đó đương chuyển bánh xe pháp, giáo hóa chúng sanh. Chẳng qua vị này không chấp trước vào h́nh tướng, không muốn lưu vết tích khiến người hay biết, không muốn người đời ca tụng. Nhàn đạo nhân v́ trông bề ngoài là thanh nhàn, vô sự, tự tại như người chẳng vướng bận việc ǵ. Nhàn là nhàn nhă; vị đó nhàn thật, nhưng là bậc đạt đạo (đạo nhân). Đạo, vị đó đă đạt đạo, chẳng phải đang tu đạo. Vậy vị đó đắc đạo ǵ? Chính là pháp môn tâm ấn của chư Phật, pháp môn mà "đại nhi vô ngoại, tiểu nhi vô nội," lớn đến độ chẳng ǵ lớn hơn, nhỏ chẳng ǵ nhỏ bằng. V́ vậy, vị này mới tự tại. Nhàn đạo nhân hàm ư vừa tự tại, vừa vui sướng, gồm đủ hai nghĩa b́nh an và tịch tĩnh. Nh́n vị đó ta thấy dường như vô sự, chẳng vội vàng áy náy, cũng chẳng ưu tư phiền năo. Lúc nào cũng khoan thai, ung dung, phiêu nhiên tự tại, thật là:

Đạo thông thiên địa hữu h́nh ngoại

Tứ nhập phong vân biến thái trung.

Dịch là:

Đạo thông trời đất hiện ra mặt,

Trí nhập mây gió, tỏa hành vi.

Đạo thông thiên địa hữu h́nh ngoại, chính là nghĩa của "lớn đến độ chẳng ǵ ngoài nó"- vừa nói ở trên – tứ nhập phong vân biến thái trung, chính là "nhỏ đến độ không ǵ nhỏ hơn." Cảnh giới này chẳng phải là chỗ mà chúng ta, những kẻ phàm phu tục tử có thể thấu đặng. Đó là cảnh giới của nhàn đạo nhân. Ư nghĩa này cũng có thể nói lên như sau:

Vạn vật tĩnh quán giai tự đắc

Tứ thời giai hứng dữ nhân đồng.

Vạn vật tĩnh quán giai tự đắc nghĩa là vạn vật biểu hiện, có cái tinh, có cái thô, vị đó nh́n thấy rơ ràng, một cách tự nhiên, chẳng ǵ không thấu suốt mà chẳng cần suy nghĩ mới hiểu. Tứ thời giai hứng dữ nhân đồng, nghĩa là trong suốt bốn mùa, xuân, hạ, thu đông, vị đó ḥa điệu với mọi người, chẳng chút khác biệt; do đó vị đó là nhàn đạo nhân.

Bất trừ vọng tưởng bất cầu chân: Bởi v́ một khi vị ấy đă đắc đạo, th́ đâu c̣n vọng tưởng để tiêu trừ, cũng sao có chân để chứng đắc. Vọng hết, chân hiện, do đó khỏi phải trừ diệt vọng tưởng, chớ không phải c̣n vọng tưởng mà không chịu trừ khử. Chẳng có chân để cầu chứng đắc, bởi đă chứng đắc tới chỗ cực điểm rồi, nên chẳng c̣n phải mong cầu cái chân.

Vô minh thực tánh tức Phật tánh: Trước khi chứng đạo th́ vị đó cũng như mọi người trong chúng ta, cũng vô minh, đầy phiền năo, nhưng nay th́ vị đó đă hiển lộ Phật tánh, đă trở về cội nguồn, bỏ mê về giác, dứt tuyệt vấn đề căn bản sanh tử. Do đó thực tánh vô minh đă chuyển thành Phật tánh.

Ảo hóa không thân tức pháp thân: Trước th́ thân thể này là hư huyễn, nay th́ chứng đắc lư thể của Pháp thân.

Pháp thân giác liễu vô nhất vật,

Bổn nguyên tự tánh thiên chân Phật.

Ngũ uẩn phù vân không khứ lai,

Tam độc thủy bào hư xuất một.

Dịch:

Pháp thân giác rồi không một vật

Bổn nguồn tự tánh thiên chân Phật.

Năm ấm ảo hư: mây lại qua,

Ba độc huyễn hoặc: bọt c̣n mất.

Pháp thân giác liễu vô nhất vật: Pháp thân là ǵ? Đó là thực tướng, song vô h́nh, vô tướng. Giác nghĩa là sáng tỏ. Vô nhất vật, v́ là vị đó chẳng chấp trước ǵ cả. Chẳng có cảnh giới nào làm vị đó mê muội, nên nói một vật cũng chẳng có.

Bổn nguyên tự tánh thiên chân Phật: Vị này đă chứng được cảnh giới nào? Đă đạt được tŕnh độ nào? Chính là đạt được cái căn bổn, cái nguồn gốc, tức là Phật tánh. V́ vậy, bổn nguyên tự tánh chính là Phật tánh sẵn có trong ta. Thiên chân Phật là chỉ Phật bản hữu sẵn có. Do đó, vị ấy mới là nhàn đạo nhân dứt học và vô vi.

Ngũ uẩn phù vân không khứ lai: Ngũ uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, c̣n gọi là ngũ cái, hay ngũ ấm. Tại sao gọi là ngũ uẩn? Uẩn nghĩa là tích chứa lại. Tại sao gọi là ngũ cái? Bởi v́ nó che khuất tự tánh không để cho tự tánh hiển lộ sáng sủa (chữ cái nghĩa là che lấp). Tại sao gọi là ngũ ấm? Bởi nó thuộc âm, có tính cách ẩn sâu, dấu kín. Sắc là chỉ tất cả những ǵ có h́nh; thọ, tức là thọ lănh; tưởng, nghĩa là suy tưởng; hành, có nghĩa là niệm niệm nối tiếp không ngưng nghỉ, niệm niệm lưu hành; thức; nghĩa là phân biệt, nhận thức rơ. Năm uẩn, sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cái nào cũng che lấp tự tánh của chúng ta, và ánh sáng tự tánh bị che, do đó trí huệ của chúng ta cũng bị lu mờ. Năm loại uẩn đó thật là lợi hại vô cùng, cho nên trong tám loại khổ th́ có một khổ thuộc về ngũ ấm (ngũ ấm xí thịnh khổ). Người ta ví nó như ngọn lửa, thiêu đốt con người, đốt chết cả tự tánh. Tuy nhiên, thể tánh của nó là hư huyễn, cho nên nói "ngũ ấm phù vân không khứ lai," tức như mây nổi, bay qua bay lại trên không trung, chẳng có thể chất thực hữu.

Thí dụ về năm màu xanh, vàng, đỏ, trắng, đen chẳng hạn. Chúng chỉ là màu sắc mà không có thực thể, chúng phải dựa vào vật chất để hiện ra từng màu, c̣n chính chúng chẳng có ǵ là thực. Nói cho rơ hơn, sắc - trong ngũ uẩn - tự thể là những vi trần, tức là những hạt bụi nhỏ kết hợp lại mà thành. Biết bao nhiêu bụi nhỏ đó tụ tập lại mới có thể hiện ra thành h́nh tướng để chúng ta trông thấy! Nếu những hạt bụi mà đứng riêng rẽ, chúng ta nhận ra chúng chẳng phải là điều dễ dàng. Năm màu cùng tụ tập lại, ta thấy được rơ ràng là xanh, vàng, đỏ, trắng, đen; nhưng nếu riêng biệt từng màu một, ta sẽ không thấy rơ; chỉ một màu vàng, to cỡ bằng hạt bụi, ta không nhận ra, các màu khác như đỏ, trắng, đen, đứng riêng biệt th́ cũng như vậy. Ngược lại nếu chúng tụ hội với nhau, chúng sẽ hiển hiện rơ; ngũ uẩn cũng đồng một ư nghĩa như vậy.

Thọ, nghĩa là lănh thọ; bởi có sắc nên mới có sự lănh thọ; có lănh thọ, nên mới có tưởng; tưởng, th́ mang ư nghĩa nhanh chóng, ví như con ngựa chạy lung tung, vọng tưởng th́ đi cùng khắp thiên địa; hành có nghĩa là hành động, là di chuyển; thức, chính là sự phân biệt. Cả năm uẩn này đều chẳng có thực thể, bên trong chẳng có ǵ là chân thực. Cho nên ngũ uẩn có thể ví như đám mây nổi trôi trên bầu trời, như màn sương, phút chốc tụ lại, phút chốc tan đi, tụ lại thành h́nh, tan đi th́ mất dạng, tụ lại thời có, tan đi thời không, ở trong hư không tự do qua lại, muốn nắm bắt lấy cũng không bắt được.

Tam độc thủy bào hư xuất một: Tam độc là tham, sân, si. Ba thứ này gọi là độc, v́ chúng đầu độc chúng ta, khiến cho huệ mạng pháp thân bị hôn mê bất tỉnh.

Tham, là ḷng tham, ḷng tham vô đáy, rất khó hàng phục, nhất là tham tài, tham sắc, tham danh, tham ăn, tham ngủ. Hăy nghĩ lại coi, nếu quí vị không tham tài, th́ lại tham sắc; quí vị chẳng tham sắc th́ lại tham danh; nếu tài, sắc, danh chẳng tham, th́ lại vướng phải tánh tham ăn, thích ăn cho ngon; ăn chẳng ham nhưng bỏ ngủ th́ chẳng được. Kẻ ham ngủ th́ khi ngủ chẳng c̣n ham thứ ǵ khác. Giả thử tặng cho y cả triệu đồng, bảo y tỉnh dậy, y vẫn không tin. Cớ sao vậy? Y đương trong cơn mê ngủ! Chẳng phải sự thật, nên y lại ngủ nữa. Bất luận chuyện ǵ xảy ra cũng không lay nổi người ngủ say. Người tu Phật không nên ngủ nhiều. Thí dụ như bảo tới đạo tràng để lễ Phật, th́ lại nói rằng tôi ngủ chưa đủ giấc; bảo lên khóa tụng buổi sáng, th́ lại nói mắt tôi không mở được, làm sao có thể tụng kinh? Vậy là ham ngủ, bỏ ngủ không nổi, đó chính là tham.

Sân, do ḷng tham ngũ dục không toại nguyện mà sanh ra, hoặc bị người khác tranh của ḿnh mà sanh tâm tức giận.

Si, như người có tâm sân hận, không có ǵ là không dám làm, nên hành động một cách ngu si. Bởi lư do đó nên tham, sân, si gọi là ba độc.

Ba yếu tố này đă đầu độc huệ mạng pháp thân khiến chúng ta không được giác ngộ. Tuy nhiên dầu ba độc lợi hại như vậy, chúng cũng chỉ là những bọt nổi trên mặt nước, tự sanh ra rồi tự diệt, nếu chúng ta không để cho chúng lôi cuốn theo, chúng cũng không có cách ǵ để hại ta được. Chúng chỉ là bọt nước, hiện ra thành h́nh không có thực chất, cũng giống như mây mù che lấp, bởi vậy mới nói ba độc giống như bọt nước hư huyễn, khi c̣n khi mất, sanh ra rồi diệt.

Chứng thật tướng, vô nhân pháp,

Sát-na diệt khước a-tỳ nghiệp.

Nhược tương vọng ngữ cuống chúng sanh,

Tự chiêu bạt thiệt trần sa kiếp.

Dịch:

Chứng thực tướng, không nhân pháp,

Sát-na rũ sạch a-tỳ nghiệp.

Nếu đem lời vọng dối chúng sanh,

Kiếp như cát bụi nguyền lưỡi rút.

Chứng thực tướng, vô nhân pháp: Khi chứng được thực tướng lư thể th́ không c̣n nhân, không c̣n pháp, ư niệm về nhân và pháp đều mất; sự chấp trước về pháp phá tan, chấp về người cũng không c̣n. Chấp về người đă không có, th́ các ư niệm về phải trái của người với ta cũng không c̣n nữa, lúc đó sẽ không c̣n nói theo kiểu này: "Tôi hiểu pháp, ông không hiểu"; những ư tưởng ngạo mạn coi thường mọi người đều không c̣n nữa, do đó mới nói "vô nhân pháp."

Sát-na diệt tận a-tỳ nghiệp: Nên nhớ chữ "nghiệp" cùng một vần với chữ "pháp" (ở câu trên). Sát-na chỉ một khoảng thời gian rất ngắn. Chỉ trong một sát-na là diệt hết cái nghiệp của địa ngục vô gián. A-tỳ là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa là địa ngục vô gián - một loại địa ngục không có không gian, một người nằm lên giường ngục cũng chật, bao nhiêu nằm lên cũng chật; c̣n thời gian th́ không gián đoạn, triền miên chịu khổ. Có năm loại địa ngục vô gián, được ghi rơ trong kinh Địa Tạng, mọi người có thể tra cứu. Nói một cách khác, trong khoảng một thời gian hết sức ngắn ngủi mọi nghiệp tội của địa ngục vô gián đều được tiêu trừ. Sợ nói như vậy mọi người có thể không tin, cho là bịa đặt nên Đại sư Vĩnh-Gia mới phát lời thề như sau:

Nhược tương vọng ngữ cuống chúng sanh: Nếu tôi đem những lời dối ngụy để gạt chúng sanh, th́:

Tự chiêu bạt thiệt trần sa kiếp: "Tôi xin nguyện gặp quả báo, vào địa ngục rút lưỡi để chịu tội, trải qua các đại kiếp nhiều như số cát trên sông Hằng. Lời tôi nói đây là chân, là thiệt, chẳng phải lời dối gạt chúng sanh, cho nên các vị đừng có nghi ngờ.

Đại sư Vĩnh-Gia biết rằng chúng ta đa nghi thiếu ḷng tin nên mới dùng những lời lẽ khẩn thiết, phát ra những lời thệ nguyện nặng sâu để dặn ḍ, tăng trưởng ḷng tin của chúng ta. Quí vị thử nghĩ coi chư Tổ sư từ trước tới nay thường hết ḷng quan tâm chúng ta, cũng như tất cả mọi chúng sanh, một ḷng mong mỏi mọi người sớm quay về bờ giác. Tấm ḷng ân cần gắn bó như thế, xin mọi người chớ phụ ḷng, chớ mải miết ra đi quên bẵng về nhà. Hiện nay chúng ta đương trôi nổi trong chốn Sa-bà, chẳng phải là quê hương thực của ḿnh. Do đó ta nên mau mau trở về quê cũ, làm bạn lữ với chư Phật và Bồ-tát. Hết thảy mười phương chư Phật, Bồ-tát cùng các vị lịch đại Tổ sư hiẹ nay đương chờ đợi chúng ta, chẳng khác ǵ cha mẹ trông ngóng con cái về nhà.

Ngài Vĩnh-Gia bảo chúng ta đừng hoài nghi, nhưng sao trong ḷng chúng ta cứ thấy ngờ vực!

Làm sao "chứng thực tướng, vô nhân pháp" mà có thể diệt hết cả tội nghiệp từ vô lượng kiếp, nhiều như số cát bụi? Làm sao tiêu trừ được hết tội nghiệp của địa ngục a-tỳ? Quá dễ vậy sao? Có lư nào lại như thế? Chẳng thể tin nổi!

Chứng được thực tướng lư thể giống như người vừa tắm gội xong nên những lớp dơ bẩn trong người được gội rửa hết. Lớp dơ bẩn coi như nghiệp tội của địa ngục a-tỳ, nay đă được gội rửa th́ đâu c̣n nữa. Đó là ư nghĩa mà Đại sư Thần-tú nói trong bài kệ:

Thân thị bồ-đề thụ

Tâm như minh kính đài

Thời thời cần phất thức

Vật xử nhạ trần ai.

Nghĩa là:

Thân là cây bồ-đề,

Tâm là đài gương sáng,

Ngày ngày chuyên cần lau,

Chớ để vướng bụi dơ.

Ư rằng chúng ta phải chùi rửa th́ mới sạch sẽ. Nhưng chưa phải là lời người đă triệt ngộ.

Lục tổ nói kệ rằng:

Bồ-đề bổn vô thụ,

Minh kính diệc phi đài,

Bổn lai vô nhất vật,

Hà xứ nhạ trần ai?

Nghĩa là:

Bồ-đề chẳng phải cây,

Gương sáng chẳng phải đài,

Xưa nay chẳng là vật,

Bụi bặm bám vào đâu?

"Bồ-đề bổn vô thụ." Bồ-đề chẳng phải cây nghĩa rằng Tổ chẳng cần cây nữa v́ ngài đă chứng bồ-đề rồi. "Minh kính diệc phi đài," gương sáng cũng chẳng phải đài, tức là Tổ không cần gương sáng để chiếu soi. "Bổn lai vô nhất vật," xưa nay chẳng là vật, tức là Tổ đă đến được chỗ chẳng khởi ư niệm, toàn thể chân tâm hiện bày. "Hà xứ nhạ trần ai?," bụi bặm bám vào đâu? Th́ c̣n có chỗ nào để bụi bám vào? Bụi bặm tức là nghiệp khiến đọa địa ngục a-tỳ. Tuy nghiệp tội a-tỳ là không. Tuy nhiên, chúng ta phải tu mới chứng được, chớ không phải chỉ nghe thoảng, nói suông, là thành. Nhất định phải ngày ngày luôn thực sự tu tập, hoặc tu thiền, hoặc học giáo lư, học giới luật, hoặc chuyên tu một pháp môn nào đó. Nếu không tu, vĩnh viễn chẳng thể chứng đạo. Trên đời này không sao có chuyện ngồi mát mà hưởng bát vàng, vậy tôi mong rằng quí vị chớ có nghĩ này nghĩ khác, bỏ dở đường tu, mới nửa đường đă vạch ra ranh giới cho là tới đích, để dừng bước lại, như thế muôn đời chẳng sao lên đặng "núi báu."

Đốn giác liễu, Như Lai thiền,

Lục độ vạn hạnh thể trung viên.

Mộng lư minh minh hữu lục thú,

Giác hậu không không vô đại thiên.

Dịch:

Thoắt giác rồi, Như Lai thiền,

Sáu độ muôn hạnh thể tṛn nguyên.

Trong mộng lao xao bầy sáu nẻo,

Tỉnh ra bằng bặt chẳng ba ngàn.

Đốn giác liễu: "Chữ đốn" có người giảng là "lập khắc." Nếu dựa theo ư văn th́ phải giảng là "tức khắc." Hai từ này có ǵ khác nhau?

"Lập khắc" có nghĩa của vô tiền vô hậu, không có liên hệ với trước, cũng không có tiếp nối với sau. Lập khắc tức là giác ngộ mà không có liên hệ với quá khứ, cũng không liên quan tới tương lai, đó là hiện tại. "Tức" có nghĩa là lúc này. Vậy "lúc này" không cùng một nghĩa với "lập khắc," v́ "lúc này" tiếp nối với lúc trước, và cũng tiếp nối với lúc sau. "Lập khắc" mang ư nghĩa đoạn tuyệt, c̣n "tức khắc" th́ không có nghĩa đoạn tuyệt.

Một số người giảng "đốn giáo" là khai ngộ rất mau chóng, đó là nghĩa của lập khắc. Nhưng nếu xét lại ư nghĩa các chữ, th́ "đốn" là tới được chỗ này, cũng do từ trước, một lúc nào đó đă cất bước đi, rồi từng bước, từng bước đi tới, chớ đâu phải chẳng chịu cất bước mà có thể tới nơi để khai ngộ. Thật là "sai một ly, đi một dặm," một số người giảng pháp cho là lập khắc khai ngộ, có khác ǵ nói trước đó không tu, sau đó cũng chẳng cần tu. "Đốn," chính là nghĩa trước đó đă từng tu hành, và khi tới được chỗ khai ngộ rồi, vẫn tiếp tục tu nữa. Lư là đốn ngộ, c̣n về sự th́ phải tiệm tu. Tại làm sao có thể nói như vậy? Bởi v́ chúng ta nên hiểu rằng chuyện ǵ cũng phải hợp lư, v́ trên đời chẳng có ǵ là không hợp lư cả. Lấy ví dụ, trông thấy một cây cao lớn kia, ta có biết nó mọc ra từ lúc nào chăng? Nó đă mọc ra từ mấy trăm năm rồi, chẳng phải mới mọc trong ngày hôm nay, nên thân nó mới lớn như vậy! Cây đă như vậy, chúng ta cũng chẳng khác ǵ. Khi tới tuổi trưởng thành, tới tuổi đội mũ (thời xưa ở Trung-hoa, con trai 20 tuổi gọi là tuổi "nhược quán," có thể đội mũ), tức là cũng phải từ nhỏ, từ một tuổi rồi lớn khôn lên, chớ không phải sanh ra đời mà có ngay được tuổi 20. Từ đó suy ra, đốn ngộ cũng phải từ tiệm tu mà chứng ngộ, chớ không thể chẳng tu mà lập tức đốn ngộ. Thản hoặc nếu trong đời hiện tại chưa tu mà ngộ, đó chẳng qua kiếp trước đă từng tu tập, đến kiếp này đúng lúc cơ duyên hội đủ, mà bừng lên khai ngộ. Bởi vậy tôi mới nói rằng đốn ngộ là do tiệm tu mà có được. Sau khi ngộ rồi lại tiếp tục tiệm tu, cho nên không thể cho rằng không có liên hệ ǵ với quá khứ và tương lai.

Đốn giác liễu: Giác là giác ngộ, tức thấu suốt, cũng tức là đă khai ngộ, và khai ngộ chính là thấu suốt đạo lư. Một khi đă thấu suốt đạo lư, th́ c̣n phải dụng công tu hành; nếu không, sự thấu suốt cũng thành vô dụng. Thí dụ ta biết cách chế tạo máy điện năo (computer), ta có vật liệu, lại hiểu biết cách ráp các bộ phận, ta lắp máy vào th́ sẽ xử dụng được máy. Nếu ta chỉ biết phương pháp mà không chế tạo, th́ cũng vô dụng; hiểu biết phương pháp, sau đó cụ thể chế tạo th́ mới thành được máy điện năo. Cũng theo nghĩa này, khi đă khai ngộ rồi, ta c̣n phải tiếp tục nỗ lực tu hành, đúng như lời cổ nhân nói: "Đại sự chưa xong, như đưa đám ma mẹ"- đại sự đây chỉ việc khai ngộ - "đại sự đă xong, càng như đám ma mẹ." Câu đó có nghĩa là khi đại sự xong rồi, sự khẩn trương cũng giống như lúc cha mẹ chết, phải cẩn mật tu hành. Cho nên được khai ngộ rồi cũng vậy, phải thực sự dụng công tu hành th́ mới chứng ngộ, thần năo mới xuất hiện cũng giống như máy điện năo vừa nói ở trên.

Như Lai thiền: Như Lai là một trong mười danh hiệu của Phật. Chín danh hiệu kia là ǵ? Là Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên Nhân sư, Phật, Thế Tôn. Nguyên lai, mỗi vị Phật có tới tám vạn, bốn ngàn danh hiệu. Quá nhiều tên như vậy nên mọi người không thể nhớ hết, do đó về sau người ta rút xuống c̣n một vạn tên. Sau lại đổi thành một ngàn, lại đổi nữa thành một trăm. Vậy mà người ta vẫn không thể nhớ hết một trăm danh hiệu của mỗi vị Phật - máy điện năo cũng chưa chắc đă nhớ nổi! Cho nên bây giờ chỉ c̣n lại mười danh hiệu là Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên Nhân sư, Phật, Thế Tôn. Vị Phật nào cũng đủ mười danh hiệu đó, bởi v́, các đức Phật đều giống nhau, đều b́nh đẳng như nhau, cho nên có câu nói: "Thập phương tam thế Phật, cùng chung một pháp thân," cùng đủ cả mười danh hiệu.

Như là lư như như, nói về lư; Lai là nói về sự; đây là biểu thị lư sự vô ngại. "Như," là thừa đạo như thực; "lai" là đến, đến được chỗ chánh giác. Cho nên, Phật vốn không có nơi đến, cũng không có chỗ đi, bởi v́ pháp thân Phật là trùm khắp tất cả, chẳng đến chẳng đi. Thiền là tiếng Phạn, bởi v́ chữ thiền-na, dịch nghĩa qua tiếng Trung-hoa là tĩnh lự. Tĩnh là thanh tĩnh, lự là tư duy. Giảm bớt các suy tư nghĩ ngợi, không cho chúng động, v́ động đều là vọng niệm, bất độngmới là chân niệm, bởi vậy cần phải tĩnh lự, thâu mọi sự suy tư lắng tĩnh lại, không c̣n vọng niệm, đó gọi là tĩnh lự, và c̣n gọi là tư duy tu. Tĩnh lự làm cho các vọng tưởng không c̣n, th́ thế nào có tư duy được? Cái tư duy này là như có như không, chẳng phải nhất thiết có, mà cũng chẳng phải không có, vậy cái đó là như thế nào? Cái đó là tham, trong phép tham thiền. Tham là tham thoại đầu, chẳng phải tham thoại vĩ. Thoại đầu là chỉ cái chỗ mà ngôn ngữ chưa phát ra. Tham là tham cái đầu của câu nói, cái chưa nói, và như tham "cái đó" th́ c̣n có ǵ để tư lự nữa chăng? Không c̣n! Chỉ có cái tham mà thôi.

Tham cũng giống như người ta khoan lỗ bằng mũi khoan, giống như người ta đào giếng. Lấy mũi khoan, khoan xuống đất cứng, thành lỗ sâu. Đất bằng th́ làm ǵ có lỗ! Lỗ đó là do khoan. Mũi khoan là dụ cho tham thiền. Có điều lấy vật hữu h́nh để ví dụ cái vô h́nh. Mũi khoan cứng, khoan xuống, mà chẳng xuống cũng phải khoan, khoan cho tới khi nào mũi khoan thấu qua mới được, đó là lúc "phá được bổn tham." Tham cái ǵ? Tham cái tu tư duy, nên gọi là tham thiền. Trong Như Lai thiền không có vọng niệm, tạp niệm, mà chỉ toàn là chánh niệm. Cứ như vậy mà tham, mà khoan, cho tới khi nào mũi khoan thấu suốt, th́ gọi là khai ngộ, c̣n gọi là phá bổn tham. Công phu của đốn giác chính là Như Lai thiền.

Lục độ vạn hạnh thể trung viên: Lục độ gồm có bố thí, tŕ giới, nhẫn nại, tinh tấn, thiền định, bát nhă (trí huệ). Bố thí th́ độ được nết keo kiệt, tŕ giới độ làm việc quấy, nhẫn nhục độ ḷng tức giận, tinh tấn độ sự lười biếng, thiền định độ tán loạn, bát-nhă độ ngu si. Bố thí là để trị ḷng tham, tính keo kiệt. Chúng ta tu học Phật pháp nên hiểu rơ thế nào là bố thí. Bố thí không phải là kêu gọi người khác bố thí cho ḿnh, mà chính ta phải luôn luôn bố thí cho người. Chẳng phải bảo người khác "quí vị bố thí đi! Bố thí đi!" Quí vị bố thí cho tôi mà tôi chẳng bố thí cho quí vị, chẳng phải vậy. Cho nên làm việc bố thí là chẳng phải nhất định người ta hóa duyên cho ḿnh, th́ ḿnh mới bố thí cho người ta. Ta thấy ai cùng khổ th́ ta giúp đỡ, đó là tài thí; ai không hiểu Phật pháp, mà ham tu học như người đói ham ăn, th́ ta nói Phật pháp cho họ nghe khiến họ được hiểu rơ, đó là pháp thí; hoặc thấy ai đương sợ hăi, không biết nương tựa vào đâu, ta bèn giúp đỡ, giải trừ cho họ mọi điều sợ hăi, đó là vô úy thí.

Điều nên biết là bố thí độ ḷng keo kiệt. Phàm cái ǵ của ta, chúng ta đều không muốn bỏ ra cho người khác, chỉ muốn người khác cho ḿnh mà thôi, đó là tánh keo kiệt. Nếu không chịu làm việc bố thí, th́ tánh keo kiệt không bao giờ phá bỏ được, mà lại trở thành keo kiệt thêm. Phải xả bỏ cái của ḿnh ra, phá bỏ tánh keo kiệt độ cho nó, th́ con quỷ keo kiệt mới xấu hổ mà bỏ chạy.

Tŕ giới độ làm việc quấy. Tŕ giới là biết giữ quy củ, đúng theo quy củ, chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành (chẳng làm điều ác, làm mọi điều thiện). Bố thí là làm việc cho người, thuộc về ư nghĩa chúng thiện phụng hành. Tŕ giới th́ thuộc về nghĩa chư ác mạc tác. Nếu quí vị làm bố thí rồi sau đó đi giết người, đốt nhà, ăn cướp, th́ cũng là vô dụng. Nếu quí vị nói rằng tôi lấy của nhà giàu cho nhà nghèo, cướp của người có tiền để giúp người cùng khổ, là điều không thể làm được! Phải nhớ "chư ác mạc tác," không làm một điều ác nào, làm hết thảy việc thiện, chấm dứt điều ác, đề pḥng điều sai, cải sửa những việc lỗi lầm, những điều nào đúng th́ phát triển thêm, lúc nào cũng giữ chánh niệm, đó là đại lược ư nghĩa của tŕ giới. Tŕ giới là biết giữ quy củ, theo đúng luật pháp, trong gia đ́nh không có chuyện căi nhau, ngoài quốc gia xă hội th́ giữ phép nước, trên thế giới không làm phương hại đến chuyện của người. Như vậy là tŕ giới.

Nhẫn nại độ tức giận. Tức giận thuộc hỏa, nhẫn nại thuộc thủy. Tánh chất của thủy là nhu ḥa, tánh chất của hỏa là táo tợn. Chúng ta lên cơn tức giận, ngọn lửa vô minh vút lên cả ba ngàn trượng, tầng trời sơ thiền cũng chịu không nổi, cho nên ta phải tu hạnh nhẫn nại. Nói về nhẫn nại th́ những điều nào nhẫn được không kể làm ǵ. Những điều nào chịu không nổi mà ta cũng cố nhẫn cho được, cái đó mới kể là nhẫn; chịu không nổi mà cũng ráng chịu, đấy mới thực sự tu hạnh nhẫn nhục. Chúng ta phải bắt chước ngài Di-lặc. Trông ngài, thân th́ mập, bụng phệ, mà trong ḷng chẳng chứa một chuyện ǵ, đúng là "bổn lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai?" Cho nên Ngài lúc nào cũng tươi cười, hoan hỷ, Ngài tượng trưng cho công phu tu nhẫn nhục. Tu nhẫn nhục phải học Ngài Di-lặc. Chẳng phải giả dạng tươi cười, v́ cười như vậy là gian, chẳng phải cười thực. Trong ḷng có điều tức giận mà lại giảo hoạt làm ra bộ mặt khác để che dấu! Che dấu như vậy, đối với tín đồ Phật giáo là điều không nên. Bất luận vào lúc nào, trong trường hợp nào, bộ mặt của ta cũng phải chân thực chớ không thể giả dạng che dấu, đó mới là bộ mặt thực của tín đồ Phật giáo. Nếu che dấu bộ mặt thực của ḿnh để lừa người khác, kết quả chính ḿnh sẽ gặp điều không hay.

Ngoài xă hội thường thấy những chuyện như vậy. Lừa dối lẫn nhau, quí vị không thực ḷng nói với tôi, tôi cũng không thực ḷng nói với quí vị. Trong Phật giáo ta nên ngay thẳng thực thà, nói một là một, hai là hai; cái ǵ đúng th́ bảo là đúng, cái ǵ không đúng th́ bảo không đúng, chớ không thể biết rơ không đúng mà cứ cố biện bạch, đem cái lầm lỗi đẩy về phía người khác, như vậy là sai rồi. Quí vị không ngay thẳng, không chân thành, Bồ-tát sẽ không hoan hỷ, do đó chúng ta là người học Phật nhất định phải mang hết tấm ḷng thực thà, thành tâm, từng giờ, từng khắc, cư xử sao cho chân thực, một chút xíu hư dối cũng không có. Đành rằng tu nhẫn nhục là biểu thị một thái độ hoan hỷ, nhưng nếu trong ḷng đương sục sôi giậdữ, như muốn đánh giết người ta mà bề ngoài th́ giả dạng tươi cười, làm ra vẻ hiền lành dễ thương, cũng là sai rồi. Đấy chẳng phải là nhẫn nhục, đó là giảo hạt, gian trá.

Tinh tấn độ sự lười biếng. Tinh tấn chẳng phải là nói ra rằng tôi tu hành đây, tôi tinh tấn đây, tôi đọc kinh, niệm Phật, lễ Phật, hay đăng tin trên báo chí tu như thế này, thế kia, chẳng phải như vậy. Tinh tấn là nói chính bản thân ḿnh phải tinh tấn, thân tinh tấn, tâm tinh tấn, luôn luôn siêng năng, không lười biếng, từng giờ, từng khắc, không dối ḷng, một niềm cung kính như khi đứng trước trời, Phật, đứng trước tôn sư, không dối ḿnh, đó mới là tinh tấn. Lúc nào cũng canh cánh bên ḷng một niềm tu học Phật pháp, nghĩ sao làm vậy, chớ không phải vừa lễ Phật xong miệng đă chửi mắng, tay đă cầm dao giết người, đó chẳng phải là tinh tấn, tu như vậy chỉ là giả bộ mà thôi.

Thiền định độ tâm tán loạn. Tại sao chúng ta phải tu thiền định? Bởi chúng ta bị tán loạn quá nhiều, làm cho tinh thần bị tiêu hao, lăng phí biết bao khí lực. Mắt của chúng ta th́ nh́n, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân th́ xúc chạm, ư th́ duyên với các pháp, tất cả giác quan đều quay ra ngoài, khiến cho tinh thần phân tán ra ngoài thành tán loạn. Vậy ta phải làm sao? Phải tu thiền định. Thiền định chính là ngồi lại một nơi, mang tâm ư ch́m lắng xuống, t́nh trạng giống như mang một bát nước đục, để tại một chỗ nhất định, chẳng đụng chạm tới, để bùn đục lắng dần xuống đáy bát, nước thành trong, trông thấy tận đáy. Nước trong suốt dụ cho trí huệ được hiển bày; khi nước c̣n đục là dụ cho t́nh trạng ngu si, bị vô minh làm vẩn đục, che mờ tất cả. Do đó chúng ta tu thiền định khiến cho trí huệ tăng trưởng dần; nếu có được định, tức trí huệ phát sanh; trí huệ phát sanh là có bát-nhă; bát-nhă chính là trí huệ, giúp chúng ta không hành động ngu si.

Tại sao người ta cứ làm những chuyện phi pháp? Bởi lư do quá ngu si, không biết con đường chánh đáng. Không ngu si, chính là có trí huệ.

Nói đơn giản về lục độ là như vậy, c̣n muốn nói cho đủ th́ nói đến hết kiếp tương lai cũng không hết.

Bây giờ giảng về vạn hạnh. Các hạnh tu thật là nhiều, vô lượng vô biên, giảng không thể hết. Vạn hạnh nói về sự thực hành pháp môn. Đây là những pháp môn thiện, không phải pháp môn ác. Số lượng các pháp môn thiện rất nhiều, kể không hết, nói tổng quát có thể gom lại trong câu "vật dĩ thiện tiểu nhi bất vi, vật dĩ ác tiểu nhi vi chi" - chẳng v́ điều thiện nhỏ mà bỏ qua không làm, chẳng v́ điều ác nhỏ mà làm - tức là hết thảy mọi điều thiện nên làm, hết thảy điều ác phải tránh, giống như là tŕ giới, chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành." Chúng thiện là các điều thiện, không nói rơ số mục là bao nhiêu, là rất nhiều, nên gọi là vạn hạnh.

Thể trung viên: Gọi là lục độ vạn hạnh, chẳng phải đi kiếm ở đâu bên ngoài, mà là thực hiện ở bên trong từ tự tánh mà ra, mà dụng công phu.

Lấy thí dụ về bố thí. Mắt của chúng ta nh́n mọi vật, không nên nh́n một cách tham lam mà không chán, như vậy là bố thí rồi, là đă cứu độ cho "giặc con mắt" rồi.

Về mũi th́ ta không nên tham luyến mùi hương. Như quí vị nói quí vị giữ giới không trộm cắp, nhưng mũi của quí vị th́ rất dễ phạm tội này. Như khi thấy có mùi thơm, quí vị chẳng hỏi ai mà đă hít hà. Thấy có dầu thơm, chẳng kịp hỏi người ta một tiếng: "quí vị có dầu thơm, cho tôi ngửi một cái được không?" Đă vội vàng đưa lên mũi ngửi, đó là giặc mũi, đă ngửi lén. Như vậy tức là quí vị không giữ giới, quí vị đă phạm giới trộm cắp.

Tai th́ ưa nghe âm nhạc, thích những âm thanh hay, âm thanh hay th́ ḷng vui sướng, thanh âm không hay th́ sanh bực tức. Nghe người ta mắng ḿnh một câu ḷng đă nổi sân hận, quên cả công phu nhẫn nhục, vậy là chưa độ được giặc tai.

Tinh tấn độ lười biếng. Như khi ăn uống th́ dùng tới lưỡi, c̣n khi giảng pháp th́ lại muốn lươinghỉ ngơi; ăn uống th́ tinh tấn, nói chuyện thị phi th́ tinh tấn, c̣n chuyện đứng đắn th́ không thích nói, đó gọi là lười biếng, hay là tà tinh tấn, chẳng phải chánh tinh tấn. Nếu quả là chánh tinh tấn th́ đă độ cho giặc lưỡirồi.

Thân chúng ta, chính là phải an tĩnh, không nên vọng động, nhưng quí vị lại làm cho nó chạy lung tung, chạy tới chạy lui. Công phu thiền định chân chánh là thâu hồi cái lăng xăng của thân thể và mang lại sự an tĩnh cho thân này.

C̣n về ư, nếu như có trí huệ, chúng ta sẽ không ngu si, v́ trí huệ độ được ngu si.

Bởi các lư do trên, ta có thể nói rằng pháp lục độ là để độ cho sáu tên giặc của chúng ta, sáu giặc mắt, tai, mũi lưỡi, thân, ư. Sáu giặc đă tuân phục th́ ta không c̣n vọng tưởng nữa, mà không vọng tưởng tức là tất cả lục độ vạn hạnh thảy đều viên măn, cho nên mới nói câu "thể trung viên." Nếu quả thực chúng ta không c̣n vọng tưởng, không nghĩ thiện, không nghĩ ác, thế chẳng phải là "sáu độ vạn hạnh thể tṛn nguyên" hay sao?

Mộng lư minh minh hữu lục thú: Mộng chính là một loại vọng tưởng hư ảo tạo nên. Cũng có loại mộng thực như trường hợp quỷ thần báo mộng chẳng hạn, cho nên mộng có thể là giả, mà cũng có thể là thực. Tuy nhiên, dầu giả hay thực, hay là do linh cảm báo trước, ta cũng không lấy ǵ làm căn cứ, muốn nắm lấy, nắm chẳng được, muốn thấy chẳng thấy ǵ, bắt không lại, đuổi chẳng đi. Có loại, ban ngày thấy cái ǵ, ban đêm nằm mơ thấy cái đó; có thể do sự nghĩ ngợi mà sanh ra; cũng có loại chẳng hề nghĩ ǵ tới, chẳng hề gặp qua, đột nhiên xuất hiện trong giấc mơ, lại c̣n linh nghiệm nữa, biến thành chuyện thực, và loại này là loại mộng thực. Tuy thực như vậy, mà ta vẫn không kiểm soát được nó, giữ không được, bỏ không được, muốn bắt lấy mà không xong, muốn đuổi nó mà không nổi. Có những loại linh cảm báo cho biết trước cả năm, hoặc một tháng, hoặc một tuần lễ, nằm mơ thấy cảnh tượng như thế nào, gặp gỡ những ai, làm những chuyện ǵ, sau đó đều xảy ra đúng in như vậy. Đây là loại mộng do linh cảm, v́ phần đông những loại dự cảm này là do ta đă tạo từ kiếp trước, nhân v́ kiếp xưa ta đă tu hành, được các vị thiện thần hộ pháp trợ giúp, cho ta linh cảm, nên có những sự việc ta biết được. Đại khái như bây giờ quí vị là cư sĩ tại gia, mà nằm mơ thấy ḿnh là người xuất gia, trong giấc mơ thấy ḿnh mặc áo tràng, đắp y, nghiễm nhiên là một thiện tri thức. Tại sao không xuất gia lại mơ thấy ḿnh xuất gia? Có thể kiếp trước quí vị đă xuất gia, đến kiếp này quên đi, nhưng thiện thần hộ pháp âm thầm chỉ bày cho quí vị, bảo cho quí vị rơ: Kiếp xưa quí vị vốn là người xuất gia, khiến cho quí vị có thể tiếp tục tu đạo, phát tâm bồ-đề.

Chúng ta hiểu mộng là hư ảo. Vậy trước khi nằm mộng th́ chúng ta là người thức tỉnh chăng? Sự thật tôi xin nói với quí vị rằng như hiện nay chúng ta sống trên cơi đời này, nếu chưa khai ngộ, chúng ta vẫn là những kẻ sống trong mộng. Có điều, nếu có người bảo chúng ta như vậy, chúng ta chẳng tin, chúng ta nói: "Tôi đâu có nằm mơ? Này! Xe hơi của tôi, đó là loại nổi tiếng, ngồi lên rất thoải mái; máy bay của tôi bay cao như vậy, tại làm sao bảo tôi đương nằm mộng? Nhà của tôi đẹp; gia đ́nh của tôi sống đầy đủ, muốn cái ǵ có cái đó, sao lại bảo là trong mộng được?" Quí vị không cho là quí vị nằm mơ ư? Nếu quả là thức tỉnh th́ tại sao quí vị không nhớ được kiếp trước của quí vị? Quí vị bảo: "Có kiếp trước ư?" Nếu quí vị không tin có kiếp trước th́ quí vị có tin có ngày hôm qua chăng? Quí vị nói: "Tôi tin!" Những chuyện trong ngày hôm qua, quí vị có nhớ không? Ngày hôm qua quí vị đă làm những công chuyện ǵ? Quí vị nói: "Tôi nhớ."

–Quí vị có nhớ hết không?

–Không chắc đă nhớ hết, có những chuyện quên đi.

–Chuyện trong tháng trước th́ sao, quí vị có nhớ không?

–Không chắc.

–Chuyện trong năm trước, quí vị có nhớ hết không?

–Cũng không chắc.

–Trong kiếp này, chuyện mấy năm trước quí vị đă quên rồi, huống chi những chuyện về kiếp xưa! Nếu thế quí vị chẳng sống trong mơ th́ quí vị sống ở đâu?

Bởi vậy mới nói:

Mộng lư minh minh hữu lục thú. Trong cơn mộng, bầy ra thật là minh bạch, nào cơi trời, cơi người, cơi a-tu-la, rất rơ ràng; lại đủ cả địa ngục, quỷ đói, súc sanh, ba đường ác, đúng là sáu nẻo (lục thú).

Trong cơn mộng th́ biết rơ có lục thú, nhưng khi đă khai ngộ rồi th́:

Giác hậu không không vô đại thiên. Quí vị nên hiểu minh bạch, chớ có bảo rằng thân này, rồi sáu nẻo luân hồi cho đến cả tam thiên đại thiên thế giới, tất cả là không. Trong bài ca có câu:

Liễu tức nghiệp chướng bổn lai không,

Vị liễu ưng tu hoàn túc trái.

(Xong việc - ngộ đạo - th́ nghiệp chướng là không, chưa xong th́ c̣n phải trả nợ cũ).

Khi quí vị đă giác ngộ, tam thiên đại thiên thế giới chẳng c̣n nữa, huống chi là tấm thân này, để cho quí vị chấp trước? Để cho quí vị không chịu cái này, không chịu cái kia? Người ta nói quí vị một câu, quí vị đă nổi sùng, đánh quí vị một cái quí vị nhịn không nổi! Tại sao quí vị không bỏ qua được? Tại sao quí vị chịu không nổi? Bởi quí vị chưa giác ngộ. Nếu quả đă giác ngộ th́:

Hành diệc thiền, tọa diệc thiền,

Ngữ mặc động tĩnh thể an nhiên.

Túng ngộ phong đao thường thản thản.

Giả nhiêu độc dược giả nhàn nhàn.

Dịch:

Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền,

Nói im động tĩnh thể an nhiên.

Phỏng gặp gươm đao thường nhẹ hững

Ví nhằm thuốc độc vẫn bồng tênh.

Như vậy đó! Có cái ǵ mà quí vị không bỏ qua được? Có ǵ mà chịu không nổi. Cho nên có câu: "Như điểu hành không không vô tích, như đao trảm thủy thủy vô ngân" -nghĩa là chim bay trên không, trên không chẳng ghi vết tích, như dao chém nước, mặt nước không để lại đường cắt, việc qua rồi là hết. Khi quí vị đă giác ngộ, mọi sự đều không, không tướng nhân, không tướng ngă, không tướng chúng sanh, không tướng thọ giả; tâm quá khứ không có, tâm hiện tại không có, tâm vị lai không có; ba tâm đều bất khả đắc, bốn tướng đều không, vậy th́ quí vị c̣n ǵ để chấp trước? Cả thế giới ba ngàn đều không c̣n th́ c̣n ǵ để quí vị chấp nữa?

Vô tội phước, vô tổn ích,

Tịch diệt tánh trung mạc vấn mịch.

Tỷ lai trần kính vị tằng ma,

Kim nhật phân minh tu phẫu tích.

Dịch:

Không tội phước, không thêm bớt,

Tánh ḿnh vắng lặng đừng hỏi bắt.

Bấy lâu gương bụi chửa từng lau,

Nầy lúc rơ phân cần dứt khoát.

Vô tội phước, vô tổn ích: Bổn lai tự tánh của chúng ta vốn tṛn đầy, sáng suốt, lớn (đến độ) không có ǵ ở ngoài, nhỏ (đến độ) không có ǵ lọt vào trong, sung măn mà rỗng rang, trùm khắp thế giới, không có ǵ để gọi là tội, cũng không có ǵ để gọi là phước, không có tăng, không có giảm. Bởi vậy mới nói "vô tội phước vô tổn ích." Cái đó là ǵ? Đó là tự tánh của chính mỗi cá nhân. Tự tánh là tánh tịch diệt, cho nên nói:

Tịch diệt tánh trung mạc vấn mịch: Trong chỗ này, quí vị chẳng phải chạy lung tung t́m kiếm cái này cái kia, như có đầu mà đội thêm đầu, cưỡi trên lưng lừa mà kiếm lừa trong ḷng nẩy sanh các sự chấp trước. Chỗ ấy không phải là chỗ để quí vị vọng tưởng.

Tỷ lai trần kính vị tằng ma: Tỷ dụ như tấm kính bị bụi phủ đầy, chưa ai lau.

Kim nhật phân minh tu phẫu tích: Bây giờ quí vị đă biết, biết một cách phân minh, rơ ràng. Khi hiểu biết phân minh rồi th́ quí vị phải làm, quí vị phải bỏ công lau chùi, lau hết lớp bụi cho thật sạch sẽ. Bụi đă hết rồi, mặt gương vốn sáng liền hiện rơ, đó gọi là phẫu tích.

Thùy vô niệm, thùy vô sanh?

Nhược thực vô sanh vô bất sanh.

Hoán thủ cơ quan mộc nhân vấn,

Cầu Phật thi công tảo văn thành?

Dịch:

Ai không niệm, ai không sanh?

Ví thực không sanh, không chẳng sanh

Gọi người gỗ hỏi nguồn cơn ấy,

Cầu Phật ra công sớm sẽ thành.

Thùy vô niệm, thùy vô sanh?: Người nào không có niệm tưởng đây? Ai không có niệm, người đó chính là vô tâm đạo nhân. Tại sao lại có chết? Bởi v́ có sống nên có chết. Ai không niệm? Ai không sanh? Ai là người không có niệm tưởng? Ai là người không có sanh?

Bây giờ, quí vị thử không cho sanh một niệm nào, quí vị làm được chăng?

Nhược thực vô sanh vô bất sanh: Nếu quả thực là không sanh, quí vị sẽ không có một vọng tưởng, không có một tạp niệm, và nếu không có tạp niệm, toàn thể sẽ hiện bày. Nếu thực quí vị không có vọng tưởng (vô sanh), và chẳng có không sanh (vô bất sanh, th́ trong cái chân "không" tự nhiên sẽ hiện ra cái "có" nhiệm mầu (diệu hữu), và trong cái có nhiệm mầu (diệu hữu) cũng có cái chân không.

Hoán thủ cơ quan mộc nhân vấn: Hoán thủ cơ quan có nghĩa là người gỗ hỏi mở máy như thế nào? Cũng là nói cách nào để chúng ta có thể đoạn trừ vô minh, làm cho pháp tánh hiển bày, làm sao cho phiền năo được hàng phục. Cơ quan đây là nói tin tức. Nếu quí vị muốn hỏi thăm về điều này (tin tức này) th́ giống như người gỗ hỏi. Người gỗ không có tâm, không có t́nh.

Cầu Phật thi công tảo văn thành: Nếu quả quí vị đă tới được chỗ không niệm, không sanh, không chẳng sanh, quả thực tới chỗ không sanh, th́ tương lai tất thành Phật. "Tảo văn thành" là sớm tối sẽ thành, nhất định sẽ thành Phật. Khi nào chúng ta đạt được chỗ không niệm, không sanh, chúng ta sẽ không c̣n xa Phật là bao nhiêu, đó là chỗ không có ǵ là không sanh ra, và cái sanh ra đây chính là Diệu hữu, nghĩa là cái có nhiệm mầu. Có điều chúng ta hăy c̣n chấp trước, chưa hiểu thấu lẽ không. Ở trên có nói: "Giác hậu không không vô đại thiên," ở dưới lại nói cái không của "chư pháp không tướng." Nếu quả quí vị đă minh bạch lẽ không, th́ thực không c̣n cái ǵ là đúng hay không đúng, là tốt hay không tốt, là trái hay là phải, dụng công không phải là ở ngoài h́nh thức, mà đi vào cốt lơi cái gốc (triệt phá đệ nguyên), xa ĺa mọi tướng.

Phóng tứ đại, mạc bả tróc,

Tịch diệt tánh trung tùy ẩm trác.

Chư hành vô thường nhất thiết không,

Tức thị Như Lai đại viên giác.

Dịch:

Buông bốn đại, đừng nắm bắt,

Tánh ḿnh vắng lặng tùy ẩm trác.

Muôn vật vô thường thảy thảy không

Đấy chính Như Lai thật viên giác.

Phóng tứ đại: Tứ đại là đất, nước gió, lửa. Đất th́ rải cùng khắp pháp giới, nước cũng rải khắp pháp giới, lửa rải khắp pháp giới, và gió rải khắp pháp giới. Đất, nước, gió, lửa, đều là vật hữu h́nh, c̣n gió là vô h́nh. Thân thể của chúng ta là do bốn đại giả hợp mà thành, nếu chúng ĺa nhau th́ chẳng c̣n thân thể nữa. Thân thể của chúng ta có thịt, gân, xương, cái ǵ cứng thuộc về yếu tố đất; nước mũi, nước dăi, nước mắt, thuộc về yếu tố nước; hơi ấm, độ nóng trong người, thuộc yếu tố lửa; hơi thở ra vào thuộc yếu tố gió. Bốn đại ḥa hợp với nhau tạo nên thân thể này; khi chúng ĺa nhau ra, th́ yếu tố nào trở về với yếu tố ấy, chất đất trở về với đất, chất nước trở về với nước, chất lửa về với lửa, chất gió về với gió, mỗi thứ trở về bổn vị của nó, cho nên nói bốn đại là giả hợp.

Do sự ḥa hợp của bốn đại mà có thân thể này, th́ nó với ta có quan hệ ǵ đâu? Nếu hiểu cho minh bạch rằng nó với ta chẳng liên quan, th́ ta c̣n chấp trước vào cái thân nữa chăng? Vậy th́ c̣n lư do ǵ phải chấp trước vào nó, để buông xả không nổi.

Mạc bả tróc: Nghĩa là buông bỏ; buông là nới lỏng bàn tay không giữ lại nữa, không chấp nữa, buông thả ra chẳng chấp vào bốn đại, đất, nước, gió, lửa.

Tịch diệt tánh trung tùy ẩm trác: Tánh tịch diệt chính là Phật tánh, một tên khác của Phật tánh. "Tùy ẩm trác" nghĩa là ăn, nhưng nói về loài chim, chim ăn th́ gọi là trác, c̣n người ăn th́ không dùng chữ đó. Ở đây "tùy ẩm trác" là một cách tự nhiên, không ép uổng.

Chư hành vô thường nhất thiết không: Hết thảy chư hành đều là vô thường, và nếu đă vô thường th́ có thể coi các hành là không, cho nên nói "nhất thiết không."

Tức thị Như Lai đại viên giác: Có bổn ghi là "tức thị chư Phật đại viên giác." Hai chữ Phật và Như Lai có nghĩa tương tự, không khác nhau mấy, duy khi đọc lên th́ chữ Như Lai có vẻ thuận miệng hơn, dùng để ca xướng th́ hợp.

Nhất thiết không chính là bổn tánh viên giác của chư Phật mười phương.

Quyết định thuyết biểu Chân thặng

Hữu nhân bất khẳng nhiệm t́nh trưng.

Trực triệt căn nguyên Phật sở ấn,

Trích diệp tầm chi ngă bất năng.

Dịch:

Dám nói quyết rơ Chân thừa,

C̣n ai chẳng khứng cứ nghiên tầm.

Thẳng tận đầu nguồn phăng dấu Phật,

Chọn lá t́m cành ta chẳng đang.

Quyết định thuyết: Nghĩa là không nói hầm hồ, nói vu vơ, mà nói một cách dứt khoát cái đạo lư này. Tại sao phải nói ra đạo lư này? Chính là:

Biểu Chân thặng: Chân thặng này là Phật thừa (chữ "thặng"quen đọc là thừa), đó là thừa duy nhất, chỉ có một Đại thừa, mà không có Tiểu thừa, Nhị thừa. Đây là thừa thành Phật. Có bổn ghi là "biểu chân tăng." Chân tăng là thế nào? Quí vị biết giữ giới luật, quí vị là chân tăng; quí vị không giữ giới luật, quí vị chẳng phải là chân tăng. Giết hại, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, các giới cấm này quí vị chẳng phạm, th́ quí vị là chân tăng. C̣n như phạm vào các giới giết hại trộm cướp, tà dâm, nói dối, uống ruợu, th́ dầu quí vị mang áo của người xuất gia, quí vị cũng chẳng phải là chân tăng.

Hữu nhân bất khẳng nhiệm t́nh trưng: Giả tỷ có ai không đồng ư với đạo lư tôi vừa nói, th́ xin cứ biện bạch mang lư luận ra tŕnh bày. Chữ "trưng" nghĩa là biện luận, thảo luận, cứu xét. Quí vị có cách ǵ, phương thức ǵ, lư lẽ ǵ xin mang ra bàn căi, nghiên cứu.

Trực triệt căn nguyên Phật sở ấn: Nghĩa là tôi xin tiếp đưa tới chỗ gốc nguồn của pháp một cách rốt ráo, mà chư Phật mười phương đă ấn chứng.

Trích diệp tầm chi ngă bất năng: Nếu quí vị bỏ gốc theo ngọn, nhằm chỗ lá chỗ cành con để dụng công, mà quên mất cái gốc, th́ đó là điều tôi chẳng thể làm. Tôi chẳng làm những chuyện như vậy mà tôi phải t́m cái chân thực, tôi giảng cái chân thực, tôi nói cái chân thực, tôi làm cái chân thực. Quí vị muốn tôi bỏ gốc theo ngọn, bỏ cái gần, cầu cái xa, bỏ cái lớn cầu cái nhỏ, th́ tôi không thể nào làm được.

Ma ni châu, nhân bất thức,

Như Lai tàng lư thân thâu đắc.

Lục ban thần dụng, không bất không,

Nhất lỏa viên quang sắc phi sắc.

Dịch:

Ngọc ma-ni, ngươi có biết,

Như Lai kho ấy thâu trọn hết.

Sáu ban thần dụng không chẳng không,

Một điểm viên quang sắc chẳng sắc.

Ma-ni châu: Là ngọc như-ư.

Nhân bất thức: Tuy nhiên, mọi người không nhận ra hạt ngọc này. Hạt ngọc ở trước mắt mà nhiều người không hay, có khi đă ở trong tay rồi mà để lọt mất.

Như Lai tàng lư thân thâu đắc: Hạt ngọc như ư phải từ ở Như Lai tạng mà ra, từ chỗ đó mà lấy ra mới được.

Lục ban thần dụng không bất không: Ngọc như ư có sáu phép mầu, tức là sáu loại thần thông. Nếu quí vị có được hạt ngọc như ư th́ quí vị sẽ có thiên nhĩ thông, thiên nhăn thông, tha tâm thông, túc mạng thông, thần túc thông, lậu tận thông, đủ cả lục thông. Vậy hạt ngọc đó rốt ráo là ǵ? Đó là cái ở ngay trước mắt chúng ta, cái chân tâm của chúng ta vậy. Đó cũng là cái trí huệ đầy đủ của chúng ta, là đại viên kính trí, diệu quan sát trí, thành sở tác trí, b́nh đẳng tánh trí, tất cả đều là công dụng của hạt ngọc như ư, và ở đây gọi là sáu ban thần dụng.

"Không bất không" là ǵ? Quí vị bảo hạt ngọc đó là không ư? Nó chẳng phải không. Quí vị bảo nó là có ư? Nó chẳng có. Chân không có đủ cả diệu hữu, diệu hữu có đủ chân không; chân không là chẳng làm trở ngại diệu hữu, diệu hữu chẳng trở ngại chân không, nghĩa là viên dung vô ngại, biến hóa vô cùng.

Nhất lỏa viên quang sắc phi sắc: Ở trên nói hạt ngọc là đại viên kính trí, đó là nghĩa ǵ? Bởi v́ nó là "nhất lỏa viên quang sắc phi sắc," một hạt tṛn sáng, sắc mà chẳng phải sắc. Quí vị bảo nó là sắc ư? Nó chẳng phải sắc. Nhưng nếu bảo là không sắc, th́ nó là không ư? Nó chẳng phải không, bởi vậy mới nói "Sáu ban thần dụng không chẳng không, một điểm viên quang sắc chẳng sắc."

Tịnh ngũ căn, đắc ngũ lực

Duy chứng năi tri nan khả trắc.

Kính lư khán h́nh kiến bất nan,

Thủy trung tróc nguyệt tranh niêm đắc.

Dịch:

Tịnh năm mắt, được năm lực,

Có chứng mới hay không lượng được

Trong gương ngắm ảnh dễ thấy h́nh,

Đáy nước ṃ trăng khôn nắm nguyệt.

Tịnh ngũ căn, đắc ngũ lực: Có bổn ghi là "tịnh ngũ nhăn." Ngũ căn là tín, tinh tấn, niệm, định, huệ; ngũ nhăn là Phật nhăn, pháp nhăn, huệ nhăn, thiên nhăn, nhục nhăn. Tịnh nghĩa là thanh tịnh, không có sự ô nhiễm. Nếu tín căn được tịnh th́ không có sự hoài nghi, chỉ thuần một ḷng tin; căn tinh tấn mà tịnh th́ chỉ có tiến chớ không thoái; niệm căn tịnh th́ niệm niệm không có vọng; định căn tịnh th́ không bị tán loạn; huệ căn tịnh th́ không ngu si. Tịnh có thể ví như một chất liệu bồi dưỡng làm cho các căn nói trên được tăng trưởng, sung vượng, thêm sức lực, cho nên tịnh năm căn sẽ có được ngũ lực, tức là tín lực, tinh tấn lực, niệm lực, định lực, huệ lực.

Vậy là năm căn đă tịnh, ngũ lực sẽ đạt được, điều này ai là người biết được? Ai uống nước, th́ tự người đó biết nước nóng hay lạnh. C̣n như chạy cùng khắp các nơi, tuyên bố này nọ rằng "tôi đă tịnh ngũ căn, có được ngũ lực," th́ đó chỉ là giả trá. Nếu là sự thật th́ đâu cần khoe trương. "Hữu xạ tự lai hương" là nghĩa như vậy. Người tu đạo phải tự ḿnh hiểu rơ ḿnh, không t́m kiếm ở bên ngoài, cũng không cần ai biết đến. C̣n bề ngoài huênh hoang, lộ liễu, đi đâu cũng khoe ḿnh, th́ đó chỉ là loại thùng rỗng.

Duy chứng năi tri nan khả trắc: Nghĩa là người ngoài cuộc không nhận ra, ai chứng được cảnh giới này th́ trong ḷng tự biết không thể bảo người khác biết cho, và ngay cả chính ḿnh cũng không nói cho ḿnh hay, như vậy chẳng tốt hay sao? Ta càng giảm bớt vọng niệm! "Nan khả trắc" nghĩa là khó đoán biết, khó mà ḍ được, bởi v́ nó là vô minh tướng.

Kính lư khán h́nh kiến bất nan: Ngắm h́nh của ḿnh trong gương th́ đâu có khó khăn ǵ!

Thủy trung tróc nguyệt tranh niêm đắc: Nhưng ṃ trăng ở đáy nước th́ làm sao ṃ được? Đại ư nói rằng chúng ta thấy người nào đă chứng đắc th́ ngũ nhăn và ngũ lực khác với người thường, nhưng đó cũng chỉ là thấy một cách đại khái, chưa phải là nhận biết thực sự, mà chúng ta suy đoán cũng không được, chẳng khác ǵ ta ṃ trăng ở đáy nước. "Tranh niêm đắc" nghĩa là chẳng có cách nào ṃ được mặt trăng, v́ dưới nước chỉ có bóng của mặt trăng mà thôi.

Thường độc hành, thường độc bộ,

Đạt giả đồng tu Niết-bàn lộ.

Điệu cổ thần thanh phong tự cao,

Mạo tụy cốt cương nhân bất cố.

Dịch:

Thường một ḿnh, thường tản bộ,

Đạt giả lại qua Niết-bàn lộ.

Điệu xưa thần nhẹ dáng thanh thanh,

Xương cứng thân gầy ai chiếu cố.

Chỗ này nói về người tu đạo. Người tu đạo là phải thường xuyên sống riêng, không giao thiệp với ai, tránh các duyên, sống một ḿnh, như vậy mới tốt. Tuy nhiên, sống như thế th́ phải ở trên núi, không thể ở các nơi đô hội, v́ đời sống xă hội phức tạp khiến người tu dễ bị lung lạc, khó cho việc tu hành. Như một ḿnh đi lên núi, trú ở một nơi không ai đi tới, mới đúng là chân chánh tu hành. Ăn những thứ rất khó ăn, mặc những đồ xấu, nằm không cần chỗ êm ái, không ham hưởng thụ, như vậy mới là cách sống của người chân tu. Cho nên quí vị nhớ cho điều này, người tu hành chân chánh, không muốn gần mọi người, không muốn liên lạc với ai, cố giảm bớt các duyên nên mới kiếm những nơi thâm sơn cùng cốc, chỗ mọi người không tới được, để làm nơi tu hành. Bởi vậy bài ca nói:

Thường độc hành: Thường một ḿnh đi kinh hành. Kinh hành đi đâu? Đi lại ở nơi đó. Nhưng kinh hành là đi rất chạ từng bước, từng bước, từng bước một, đúng như ư nghĩa:

Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền,

Nói im động tĩnh thảy an nhiên.

Phỏng gặp gươm đao thường nhẹ hững,

Ví nhằm thuốc độc vẫn bồng tênh.

Thường độc bộ: Thường thường ngồi tĩnh tọa một ḿnh, không sợ lẻ loi, không sợ vắng lặng, cũng không sợ thiếu người tṛ chuyện.

Đạt giả đồng du Niết-bàn lộ: Cùng những ai đă thông đạt (những ai trí huệ đă mở, người đă khai ngộ) đi trên con đường Niết-bàn.

Điệu cổ thần thanh phong tự cao: Đây là nói dáng điệu thanh cao, không thô bỉ, không giống như những kẻ có hành vi bon chen. "Điệu cổ thần thanh" tức là chỉ thái độ hào sảng, khác với kiểu cách a dua, xu nịnh. "Phong tự cao" là tác phong thanh cao.

Mạo tụy cốt cương nhân bất cổ: Tuy thân h́nh gầy ốm nhưng cứng cỏi, cương nghị. Tinh thần th́ vững chắc, không ǵ lay chuyển, luôn luôn giữ nét tôn nghiêm, chẳng ai dám xâm phạm, đến thần thánh cũng không thể khinh mạn. Đó chính là oai đức của người chân tu, như câu nói: "Hữu uy khả úy, hữu đức khả kính."

Cùng thích tử, khẩu xưng bần,

Thực thị thân bần đạo bất bần.

Bần tắc thân thường phi lũ hạt,

Đạo tắc tâm tàng vô giá trân.

Dịch:

Hèn con Phật miệng xưng nghèo,

Rơ thực thân nghèo đạo chẳng nghèo.

Nghèo ắt thân thường manh áo chắp,

Đạo ắt tâm hằng châu báu đeo.

Cùng thích tử? Tức là người xuất gia nghèo. Thích tử là người xuất gia, là đệ tử của Phật Thích Ca.

Khẩu xưng bần: Thường thường tự xưng ḿnh là bần tăng, chớ không phải phú tăng.

Thực thị thân bần đạo bất bần: Tuy trông bề ngoài thân h́nh có vẻ nghèo khổ, nhưng bên trong th́ đạo không nghèo, bởi v́ có đạo đức, đạo đức rất giàu.

Bần tắc thân thường phi lũ hạt: Trên thân th́ khoác áo vá, vậy là nghèo. Chữ "hạt" nghĩa là màu sắc bị phai. Áo quần bạc màu th́ chẳng ai thích mặc.

Đạo tắc tâm tàng vô giá trân: Tuy nhiên, nói về đạo th́ bên trong chứa chất một thứ trân quư vô giá, đó là hạt ngọc như ư. Viên ngọc này là của quư vô tận, dùng không bao giờ hết, biến hóa vô cùng, mầu nhiệm không thể nghĩ bàn.

Vô giá trân, dụng vô tận,

Lợi vật ứng cơ chung bất lận.

Tam thân tứ trí thể trung viên,

Bát giải lục thông tâm địa ấn.

Dịch:

Châu báu đeo dùng chẳng hết,

Tùy duyên rải khắp thèm keo kiết.

Ba thân bốn trí thể tṛn nguyên,

Tám giải sáu thông tâm ấn hiệp.

Vô giá trân: Của báu này là vô giá. Châu báu này chẳng phải là loại có h́nh tướng như châu báu ở thế gian, chẳng phải là loại đá mấy chục carat, hoặc đáng mấy trăm lạng vàng ṛng, hay bao nhiêu cân lạng bạc, bấy nhiêu lưu ly, pha-lê, xà-cừ, xích-châu, mă-năo các loại bảy báu. Của báu vô giá này chính là trí huệ cố hữu của chúng ta, có tên là viên ngọc như ư.

Dụng vô tận: Của báu này lấy ra th́ vô tận, dùng không bao giờ hết, khỏi cần t́m kiếm nó ở đâu, tự chúng ta đă sẵn có nó một cách trọn vẹn.

Lợi vật ứng cơ chung bất lận: "Lợi vật" là lợi ích hết thảy mọi chúng sanh. Ứng cơ là tùy cơ mà giáo hóa, tùy người mà nói pháp, tùy bệnh mà cho thuốc, tất cả đều đúng chỗ. "Chung bất lận" là không giống như kiểu cách bỏn xẻn, chặt chịa, của loại người biển lận.

Tam thân tứ trí thể trung viên: Nếu được của báu vô giá th́ sẽ có ba thân: Pháp thân, tức là Tỳ-lô-giá-na Phật, trùm khắp pháp giới; báo thân, tức là Lô-xá-na Phật, quang minh thanh tịnh; hóa thân, tức là ngàn vạn ức hóa thân Phật Thích-ca Mâu-ni. Trong tự tánh của chúng ta cũng có đủ ba thân này, giống như của Phật, không sai khác.

Tứ trí cũng vậy, nếu được của báu vô giá th́ chúng ta cũng có tứ trí như Phật. Thứ nhất là đại viên kính trí, tức là thức thứ tám hay A-lại-da, khi các chủng tử trong thức này đă hoàn toàn thanh tịnh, không c̣n bị nhiễm ô, trí huệ hiện ra sáng chói như một tấm kính lớn tṛn, chiếu khắp mọi vật, thấu suốt mọi pháp, hữu vi cũng như vô vi, không hề bị trở ngại. Thứ đến là diệu quan sát trí. Chúng ta ai cũng có trí quan sát, nhưng nó không mầu nhiệm, chỉ biết được những vật có h́nh tướng, c̣n những vật vô h́nh vô tướng, hay những sự việc trong quá khứ hay vị lai th́ không thể biết được. Có được loại trí huệ này th́ bất luận muốn biết chuyện đă qua, chuyện xảy ra trong hiện tại hay trong tương lai, chỉ cần quan sát là biết liền. Thứ ba là b́nh đẳng trí. Thể nghiệm được loại trí huệ này là khi tự ḿnh cảm thấy ta và vạn sự vạn vật chỉ là một thể, lúc đó không c̣n ư niệm đối đăi giữa ta và những ǵ không phải của ta, tất cả hữu t́nh và vô t́nh, đồng viên chủng trí, tại thánh chẳng tăng, tại phàm chẳng giảm, không thiếu không dư, hoàn toàn b́nh đẳng. Thứ tư là thành sở tác trí. Trí huệ này khiến cho năm thức thuộc mắt, tai, mũi, lưỡi, thân có công năng hóa độ rộng lớn, lợi ích cho các chúng sanh.

Bát giải lục thông tâm địa ấn: Của báu vô giá gồm đủ tam thân tứ trí, bát giải thoát, ngũ nhăn, lục thông. "Tâm địa ấn" nghĩa là của báu vô giá chính là pháp môn tâm địa của chúng ta, một cái ấn quư trong tâm, và trong ấn này chứa chất công năng của tam thân, tứ trí, bát giải và lục thông.

Quí vị phải ghi nhớ rằng của báu vô giá là vật sở hữu của mỗi người chúng ta, chúng ta phải giữ ǵn chớ để thất thoát. Thất thoát ra sao? Quí vị tham tiền tài, của báu vô giá đó sẽ mất; quí vị tham sắc, nó cũng sẽ mất; tham danh, tham ăn, tham ngủ, tức là quí vị đă lăng phí của báu vô giá của quí vị. C̣n như quí vị muốn giữ nó, th́ quí vị phải nghiêm chỉnh, nh́n nhận rơ ràng, từng bước từng bước ráng tu tập. Chớ ham đi cho mau, ham đi lối tắt, ham vượt bậc, mà phải y chiếu các pháp môn Phật dạy mà tu tập, không thể tự dối ḿnh để ngày sau lừa dối thế gian. Quí vị nên biết rằng, dối người tức là dối ḿnh, mà dối ḿnh tức là dối người khác, cho nên chúng ta chớ để trong ḷng những điều quanh co, phàm là tu hành hay làm bất cứ chuyện ǵ cũng luôn luôn thành thực, như vậy th́ nhất định sẽ có tam thân, tứ trí, bát giải, lục thông.

Thượng sĩ nhất quyết nhất thiết liễu,

Trung hạ đa văn đa bất tín.

Đản tự hoài trung giải cấu y,

Thùy năng hướng ngoại khoa tinh tấn.

Dịch:

Bậc cao một quyết là xong hẳn

Kẻ thấp càng nghe lại lắm ngờ.

Hay vứt trong ḷng manh áo bẩn,

Sá ǵ tinh tấn hướng ngoài khoe.

Thượng sĩ nhất quyết nhất thiết liễu: Thượng sĩ là những bậc thuộc loại thượng đẳng, loại thượng căn, có trí huệ sắc bén, kiếp trước đă dầy công tu tŕ, nên rất thông minh. Đây là trí thông minh chân thực, không phải thứ thông minh của thế gian. Thông minh của thế gian là sự lanh lợi biện bác. Những loại người này hết sức thông minh, nhưng cũng v́ thông minh mà gây lầm lỗi, và chính sự thông minh đă giúp họ làm những việc hồ đồ. Những người đó không gọi là thượng sĩ. Thượng sĩ chính là vô-thượng sĩ, chính là các vị Bồ-tát theo nguyện lực mà trở lại thế gian, do đó họ là những bậc "nhất văn thiên ngộ; một lần nghe ngàn lần khai ngộ; đạo lư chỉ nghe qua là tức khắc lănh hội, hết thảy đều minh bạch, do đó mới nói "thượng sĩ nhất quyết." Họ không giống như loại người nhu nhược quả đoán, bởi lề lối của họ là quyết đoán, hiểu đạo lư tới tận cùng, cho nên đối với hết thảy mọi sự họ đều thấu đáo, có thể ví như mặt gương trong soi các vật thể, có vật liền soi, không vật th́ vắng lặng.

Trung hạ đa văn đa bất tín: Có bổn ghi là "đa nghi" thay v́ "đa văn." Thật ra ư nghĩa không khác nhau, tức là, đọc thật nhiều sách, mà ḷng vẫn hoài nghi, v́ không nhận thức ư nghĩa cho rơ ràng nên không khởi được tín tâm, cho nên nói "đa văn đa bất tín," nghe nhiều mà chẳng tin ǵ hết. Thí dụ như nghe kinh chẳng hạn, có người thường không được nghe kinh, đến khi ngẫu nhiên được nghe, liền thấy đạo lư sáng tỏ mồn một; nhưng nếu ngày ngày nghe kinh, quen tai chẳng thấy ǵ đặc biệt, nên không chịu dụng tâm chú ư lắng nghe, có khi vừa nghe đă ngủ gục, bởi vậy cần phải để hết tinh thần để chú ư nghe kinh. "Đa văn đa bất tín" cũng có nghĩa là nghe nhiều lần mà không tin; ngẫu th́ nghe một lần, mà ấn tượng lại sâu đậm.

Đản tự hoài trung giải cấu y: Việc tu hành cũng giống như giặt bộ quần áo dơ bẩn đang khoác trên ḿnh.

Thùy năng hướng ngoại khoa tinh tấn: Tu không phải như người đi ra ngoài rao bán hàng hóa, để quảng cáo việc tu hành của ḿnh, nào tự khoe ḿnh đă khai ngộ, nào tôi đă từng bế quan (đóng cửu tĩnh tu), công phu của tôi như thế này, tôi đă lạy kinh này, đă tŕ chú kia..., đâu đâu cũng chỉ nói về ḿnh, như vậy tức là "hướng ngoại khoa tinh tấn." Tu đạo có thể ví như ḿnh giặt quần áo của chính ḿnh, mang quần áo dơ bẩn ra giặt cho sạch, có vậy thôi, hà cớ ǵ ta giặt quần áo của ta mà lại khoe với mọi người rằng: "Bộ quần áo này tôi giặt thật là sạch!" Chẳng có ai lại khoe giỏi, khoe hay kiểu đó, người ta nghe xong nhất định sẽ cho là quí vị phát cuồng, phát dại, nếu không, sao lại ăn nói điên khùng như vậy? Tu hành mà khoe khoang trước mọi người th́ cũng giống như thế. Hoặc giả, chúng ta làm được chút xíu công đức, rồi loan truyền ra ngoài, cũng là "hướng ngoại khoa tinh tấn." Tu đạo thực sự là "thời thời cần phất thức, mạc sử nhạ trần ai," tức là ngày ngày ta phải mang gương của chính ḿnh ra lau chùi cho sạch sẽ. Tấm gương của ta là ǵ? Đó chính là Phật tánh sẵn có của chúng ta, giống như một tấm gương lớn tṛn, và cũng là nguồn sáng, trí huệ của chính chúng ta vậy.

Ṭng tha báng, nhiệm tha phi,

Bả hỏa thiêu thiên đồ tự bị.

Ngă văn cáp tự ẩm cam lồ,

Tiêu dung đốn nhập bất tư nghị.

Dịch:

Mặc ai biếm, mặc ai dèm,

Châm lửa đốt trời nhọc xác thêm.

Ta nghe như uống cam lồ vậy,

Tan hết vào trong chẳng nghĩ bàn.

Ṭng tha báng, nhiệm tha phi: "Ṭng" là tùy theo; "tha" là người khác; "báng" là hủy báng, nói xấu; "nhiệm" là phó mặc; "phi" là dèm pha một cách không chánh đáng, cũng cùng nghĩa với hủy báng. Câu này nghĩa là mặc người ta hủy báng, mặc người ta muốn phê b́nh ra sao cũng được, mọi người cứ tùy tiện nói xấu ta, hay bảo ta sai, ta cũng mặc họ.

Bả hỏa thiêu thiên đồ tự bị: Mang mồi lửa đốt trời, đốt cách nào cũng không thấu trời, chỉ tự chuốc lấy sự mỏi mệt, ḿnh th́ hứng lấy tro bụi, có khi mang họa lửa vào thân. Đó là ư của hai câu "ṭng tha báng, nhiệm tha phi, bảo hỏa thiêu thiên đồ tự bị."

Bỗng nhiên, vô duyên vô cớ, có người đến gây sự với ta, nói xấu ta đổ tội lên đầu ta; rơ ràng là ta chẳng làm điều ǵ mà người ta nhất định bảo chính ta đă gây ra; ta luôn luôn giữ đúng quy củ; đại khái họ mang những chuyện không đâu, chẳng liên hệ ǵ với ta để nói xấu ta; phải chi, điều họ nói là đúng, th́ không nói làm ǵ, đó chẳng phải là nói xấu mà là công đạo; đàng này, họ nói một cách vô lư, chẳng cho ta có dịp để giải thích mà cứ một mực hủy báng ta như vậy, lúc đó chúng ta nên mặc kệ họ, mặc họ nói xấu, mặc họ dèm pha, họ muốn nói ǵ th́ họ nói. Vô duyên vô cớ hủy báng như thế cũng giống như người cầm mồi lửa đốt trời, cuối cùng chỉ kẻ đó chuốc lấy sự mỏi tay, tự ḿnh làm khổ ḿnh.

Ngă văn cáp tự ẩm cam lồ: Khi nghe những người chỉ trích rằng ta không đúng, nói xấu ta, vô duyên vô cớ vu oan cho ta, đại khái những điều tiếng như thế, ta nghe xong cảm thấy như được uống nước cam lồ, hay uống những vị ngọt ngào như đường, như mật.

Tiêu dung đốn nhập bất tư nghị: "Đốn nhập bất tư nghị," là lập tức có ngay một sức mạnh giải thoát chẳng thể nghĩ bàn, một công phu làm cho tâm không động. Chuyện vừa ư nghịch ư, cũng lănh thọ dễ dàng, hay hay dở chẳng động tâm, bất cứ là hủy báng hay khen ngợi, trong ḷng vẫn b́nh thường chẳng nao núng. Đó chính là "tự ẩm cam lồ," chính là "tiêu dung đốn nhập bất tư nghị."

Quán ác ngôn, thị công đức,

Thử tắc thành ngô thiện tri thức.

Bất nhân san báng khởi oán thân,

Hà biểu vô sanh từ nhẫn lực.

Dịch:

Xét lời ác ấy công đức,

Đó mới chính là thầy ta thực.

Chớ v́ báng bổ khởi oán, thân,

Sao tỏ vô sanh, nêu nhẫn lực.

Quán ác ngôn: Quán, là quán sát, là nh́n nghe, cũng cùng nghĩa như chữ thính là nghe, nhưng tại sao ở đây không dùng chữ "thính" - thính ác ngôn? Mà lại nói là quán ác ngôn? Quán là hồi quang phản chiếu, quay ngược lại mà quán tự tánh. Câu "phản cầu chư kỷ," cũng cùng nghĩa như công phu hồi quang phản chiếu.

Gặp người nói với ta bằng ác ngôn, ta nên hồi quang phản chiếu, lấy diệu quan sát trí để quán sát. Quán sát như vậy chính là diệu quán, là cách phân tích. Khi chứng được thánh quả th́ sẽ có bốn trí. Khi chưa chứng, th́ bốn trí đó có chăng? Cũng có, nhưng có sơ sơ, chưa đến chỗ rốt ráo. Ai cũng đều có một chút diệu quan sát trí, cũng biết quán, cũng có quán lực, và khi quán rồi th́ sát, sát cái ǵ? Quán cái ǵ? Tức là quán sát ác ngôn.

Có bốn thứ ác, thuộc về lời nói: Nói thêu dệt, nói dối, ác khẩu, nói lưỡi hai chiều. Ác ngôn chính là ác khẩu, tức là buông ra những lời vô lễ, không hợp lư, vô cớ gây sự.

Thị công đức: Chúng ta nên nghĩ rằng những lời đó chính là các chất béo, các sinh tố, các chất bổ dưỡng, rất tốt cho cơ thể chúng ta. Chúng ta đương thiếu chất sinh tố, nay có người mắng ta, chính là họ cho ta sinh tố; ta vốn chẳng có công đức ǵ, nay được nghe người chửi mắng ta, tức là người cho ta công đức; phước báo ta không có, nay có người mắng ta, đó là phước báo. Thí dụ như quí vị tin Phật tức là quí vị đă có chút công đức rồi, nhưng quí vị cũng c̣n phải qua sự thử thách mới biết được, cho nên có câu nói:

Nhất thiết thị khảo nghiệm,

Khán nhĩ chẩm ma biện

Địch diện nhược bất thức,

Tu tái ṭng đầu lai.

Câu trên nghĩa là hết thảy đều là sự thử thách, coi quí vị xử sự ra sao. Gặp thử thách mà quí vị xử sự không đúng, th́ quí vị phải tập lại từ đầu.

Nếu quả quí vị nghĩ được như vậy tức là theo được câu "quán ác ngôn thị công đức."

Thử tắc thành ngô thiện tri thức: Người nào dùng lời ác nói với ta, ta cho rằng đó là điều hay cho ta, như vậy là họ đă giúp ta, họ chính là vị thiện tri thức của ta vậy. Ta tu đạo mà chẳng thành tựu, có người giúp ta thành tựu; ta làm công đức mà không thành tựu, có người giúp ta thành tựu công đức; ta cầu mà không măn nguyện, có người tác thành cho ta, giúp ta măn nguyện.

Bất nhân san báng khởi oán thân: Chẳng v́ người nói xấu và chê cười ta mà ta sanh ḷng oán hận. Đối với những lời dèm pha, nói xấu, ta chẳng hề có chút ǵ gọi là tức giận, gọi là buồn bực, gọi là oán ghét, mà ngược lại ta c̣n đem ḷng biết ơn. Ta giữ ḷng b́nh đẳng, không oán không thân, bởi v́ ta đủ sức từ bi nhẫn nhục, không tham, sân, si, ba thứ độc này, ta nghe người mắng ta, ta không oán, không ghét, cũng không sanh tâm hoan hỷ, đó chính là tâm b́nh đẳng, giống như nghe mà chẳng nghe.

Hà biểu vô sanh từ nhẫn lực: Nếu như chẳng đạt tới tŕnh độ này, th́ làm sao biểu hiện nổi vô sanh pháp nhẫn, cũng như ḷng từ bi nhẫn nại?

Do đó chúng ta phải làm thế nào để khi gặp cảnh nghịch mà coi như cảnh thuận; để t́m thấy cái hay trong cái dở; để đối với kẻ thù địch mà có thái độ ḥa giải, không đối đầu, không mang trong ḷng ư nghĩ cừu hận. Nếu hiểu được đạo lư đó mới gọi là hiểu

Phật pháp một cách chân chánh.

Tông diệc thông, thuyết diệc thông

Định huệ viên minh bất trệ không.

Phi đản ngă kim độc đạt liễu,

Hằng sa chư Phật thể giai đồng.

Dịch:

Tông cũng thông thuyết cũng thông,

Định huệ sáng tṛn chẳng trệ không.

Nào phải ḿnh ta riêng đạt đấy,

Hằng sa chư Phật thể chung đồng.

Tông diệc thông, thuyết diệc thông: Nói về "Tông" th́ nguyên tại Trung-hoa có năm tông phái Phật giáo lớn: Thiền, Giáo, Luật, Tịnh, Mật. Chữ "tông" ở đây là nói về tông Thiền bởi Đại sư chú trọng về tông này. "Thông" nghĩa là thông suốt, "thuyết" là thuyết giảng, đây chỉ về "Giáo tông."

Định huệ viên minh bất trệ không: Do giới luật mà có định huệ. Phải tŕ giới mới có định, có định mới có huệ. "Viên" nghĩa là viên dung, không bị chướng ngại; "minh" là sáng, là soi sáng khắp nơi. "Trẹuot;là tŕ trệ; "không" là hư không, cũng có nghĩa là chân không.

Phi đản ngă kim độc đạt liễu: Không phải chỉ có một ḿnh ta là thông suốt được các pháp đó.

Hằng sa chư Phật thể giai đồng: Chư Phật, nhiều như số cát sông Hằng, đều cùng một bản thể.

Cớ sao nói "tông" là Thiền tông, và "thuyết"là "Giáo tông"? Đại sư Vĩnh-Gia là hàng pháp tượng của thiền tông cho nên bất cứ một lời nào của ngài cũng thuộc phạm vi Thiền tông. "Tông diệc thông" tức là đối với Thiền tông, ngài đă thông hiểu, thông suốt, không c̣n một chướng ngại nào. "Thuyết diệc thông" tức là đối với giảng kinh, thuyết pháp, ngài cũng thông suốt, không chướng ngại.

Trong Thiền tông, có người phê b́nh Giáo tông là không đúng, cũng có người thuộc Giáo tông chỉ trích Thiền tông. Đúng như lời Hàn Dũ nói: "Nhập giả chủ chi, xuất giả nô chi; nhập giả phụ chi, xuất giả vu chi." Tại sao lại có sự trạng "nhập chủ xuất nô, nhập phụ xuất vu" như vậy? Nguyên do v́ người ta chẳng "thông," thiền không thông, giáo cũng không thông, chưa tới chỗ viên dung vô ngại, hóa cho nên thấy ḿnh là đúng c̣n người th́ sai. Căn bệnh này sanh ra lối nhận thức "nhập chủ xuất nô," v́ ưa thích tông của ḿnh nên cho nó là đúng, không thích tông kia bèn cho nó là sai. V́ cố chấp thiên kiến nên chỉ trích sai lầm, dẫn tới sự phê b́nh cả Phật pháp, một pháp diệu mầu vô thượng. Bởi vậy mới có câu:

Tác tại tâm, ương tại thân,

Bất tu oán tố cánh vưu nhân.

Dục đắc bất chiêu vô gián nghiệp

Mạc báng Như Lai chánh pháp luân.

Dịch:

Tại tâm làm, tại thân chịu,

Đừng có kêu oan chớ trách người.

Muốn khỏi nghiệp vương muôn kiếp lụy,

Vành xe chánh pháp chớ chê cười.

Bởi chứng chưa đạt tới tŕnh độ viên thông vô ngại, tông chưa thông, giáo cũng chưa thông, nên mới cố chấp vào thiên kiến của ḿnh, và buông lời chỉ trích giáo lư mà Phật đă để lại. Những loại người này, thật là đáng thương, họ đă báng Phật, báng Pháp, báng Tăng, để phải đọa vào địa ngục. Tới lúc đọa, mà vẫn không hay biết! Quí vị thấy như vậy có phải là đáng thương không?

Tông cũng thông, giáo cũng thông! Tại sao nói như vậy? Bởi v́ định huệ đều viên minh. Định đầy đủ, huệ đầy đủ. Như thế nào mới có định huệ viên minh? Chính là do tŕ giới. Bởi vậy người tu hành, nếu không tŕ giới cũng giống như thức ăn ngon mà trộn lẫn phân của súc vật, chẳng ai ham, thậm chí c̣n bịt mũi xa lánh; không tŕ giới lại cũng có thể ví như lấy cát để nấu thành cơm ăn vậy. Cho nên người tu đạo tất phải chú trọng vấn đề tŕ giới kẻo đi tới chỗ lừa người lừa ḿnh, dối người dối ḿnh. Dối ḿnh th́ không thể định huệ viên minh, dối người th́ làm cho mọi người mất ḷng tin.

Từ đó, định huệ viên minh chẳng trệ không. Trệ không, tức là ngừng nghỉ ở chỗ không, dừng bước lại không tiến nữa. Vậy th́ có thoái chăng? Cũng không thoái. Đó là trạng thái bồi hồi dừng chân ở giữa đường. Gọi là trệ không chính là tới một chỗ như một điểm không, rồi không tiến nữa, dừng lại nơi chỗ không đó.

Về hai câu: "Phi đản ngă kim.....," Đại sư Vĩnh-Gia nói rằng chẳng phải chỉ một ḿnh Ngài thể hội được đạo lư này, mà Hằng hà sa số chư Phật cũng từ cơ sở này mà chứng quả, chứng được pháp thân Phật.

Căn cứ mấy câu này trong bài ca, tuy không có lời nào đề cập tới việc tŕ giới, nhưng thực sự giới luật đă nằm trong hai chữ "định huệ." Nếu quí vị không thực sự tŕ giới, quí vị sẽ không thể có định lực, mà không có định lực tức không có huệ lực. Bởi vậy, trong Phật pháp không nên trộn lẫn lộn các thứ hỗn tạp, như vậy có khác ǵ mắt bị mờ v́ cát bụi, chúng ta nhất định phải cung hành một cách thực tiễn, chớ không phải chỉ nói thiền ở cửa miệng.

Sư-tử hống, vô úy thuyết,

Bách thú văn chi giai năo liệt.

Hương tượng bôn ba thất khước uy,

Thiên long tịch thính sanh hân duyệt.

Dịch:

Sư tử hống thuyết vô úy,

Trăm thú nghe qua xé óc tủy.

Hương tượng chạy dài hết liệt uy,

Thiên long lặng ngóng ḷng hoan hỷ.

Sư-tử hống, vô úy thuyết: Sư tử là vua trong loài thú. Phật thuyết pháp ví như tiếng rống của sư-tử, không hề kiêng sợ bất cứ cái ǵ. Một khi thuyết pháp th́:

Bách thú văn chi giao năo liệt: Các giống chim muông, thú vật nghe tiếng rống đều hăi sợ đến nát óc tủy.

Hương tượng bôn ba thất khước uy: Voi là loài to lớn nhất trong loài thú, bệ vệ oai phong, vậy mà khi nghe tiếng rống của sư-tử cũng hồn phi phách tán, sợ hăi kinh hoàng, chẳng c̣n oai phong ǵ nữa.

Thiên long tịch thính sanh hân duyệt: Chỉ có tám bộ thiên long lặng lẽ nghe sư-tử rống mà khởi tâm hoan hỷ.

Đại ư chỗ này muốn nói rằng, pháp Phật như tiếng rống của sư-tử. C̣n muông thú th́ ví như cái ǵ vậy? Muông thú chính là nói về số bàng môn tả đạo, tà thuyết dị đoan, các loại tà giáo đó. Cũng như loài muông thú, khi nghe tiếng rống của sư-tử th́ mất mật kinh hồn, đến nỗi té văi đại tiểu tiện ra, luưnh quưnh không biết xử sự ra sao, số thiên ma ngoại đạo khi nghe tới chánh pháp th́ trong ḷng hốt hoảng bất an. Hương tượng có thể ví như lănh tụ của ngoại đạo, và trong trường hợp này cũng mất hết thần thông, mất cả trí huệ, mất cả uy tín đối với các đồ chúng, cho nên nói "hương tượng chạy dài hết liệt uy." Đối với thiên long bát bộ, các vị thiện thần hộ pháp, cho đến mười phương chư Phật và Bồ-tát th́ lại hết sức hoan hỷ, hăng hái, tán thán. Cho nên, chúng ta là những người tin Phật, không nên lui tới, tham gia cùng số ngoại đạo. Những lời tà thuyết dị đoan, đều là những thứ mê hoặc, khuyên dụ người ta sanh tâm tranh đua, tham lam, mong cầu cho quyền lợi ích kỷ, suốt ngày chỉ toàn là những chuyện dối mị, thị phi.

Du giang hải, thiệp sơn xuyên,

Tầm sư phỏng đạo vị tham thiền.

Tự ṭng nhận đắc Tào-khê lộ,

Liễu tri sanh tử bất tương quan.

Dịch:

Chơi biển cả dạo rừng thiêng,

T́m thầy hỏi lấy đạo tham thiền.

Từ ngày rơ nẻo Tào-khê ấy,

Mới hay sống chết chẳng tương can.

Du giang hải, thiệp sơn xuyên: Đây là nói ngày xưa các vị đại đức cao tăng, thường đi hành cước để hỏi đạo. Họ chẳng quản ngại, núi cao sông lớn, đường xa diệu vợi, nhất tâm đi cầu thầy hỏi bạn, đi khắp mọi nơi tham vấn các thiện tri thức. Nơi ở các vị này th́ chẳng ai muốn tới, v́ đó là những chỗ thâm sơn cùng cốc, hoặc những hang động trong núi. Họ là những người không bỏ gốc t́m ngọn, bỏ gần mà cầu xa, họ không cầu ǵ ở thế gian, không có ǵ c̣n ham muốn trong cuộc sống xă hội, không có điều ǵ tranh đua với nhân thế. Họ ưa ở nơi hoang dă, lên cao nh́n xa, lấy bóng cây rậm rạp để qua ngày, lấy nước suối trong để tắm rửa. Sống nơi rừng sâu, hốc núi, họ không thấy có chướng ngại, chẳng có ǵ trói buộc, không người không ta, không phải không trái, chỉ c̣n dốc một ḷng tu đạo. Bởi vậy, quí vị thấy, nếu muốn gặp các thiện tri thức đó th́ ắt phải khổ cực lặn lội đường xa, cho nên có câu trong bài ca: "Du giang hải thiệp sơn xuyên."

Tầm sư phỏng đạo vị tham thiền: Đây là nói Đại sư t́m hỏi đạo nơi các vị thiện tri thức, các minh sư, các bạn đạo, nên đi khắp nơi hành cước. Hành cước chẳng phải là đáp máy bay, ngồi xe lửa, xe ca, xe hơi, cũng không phải cưỡi xe đạp, mà là đi bộ. Có người nói đi như vậy là ngốc! Ngốc nhưng Đại sư là người khai ngộ. C̣n mọi người th́ thông minh? Thông minh nhưng tới nay vẫn c̣n trong ṿng si mê. Cho nên, v́ tham thiền mà ngài t́m thầy học đạo. Pháp môn tham thiền đ̣i hỏi một sự dụng công. Đào giếng, chẳng phải cứ đào lên là có nước ngay. Cũng như vậy, chẳng phải một bước là tới ngay được Tây phương cực lạc, chẳng phải tu hành một phút là thành Phật ngay. Phải tham. Tham là phải chuyên tâm nghiên cứu, không nghĩ vẩn vơ, phải chuyên nhất, tỷ như gà ấp trứng, ngày ngày ấp ủ, giữ sao cho trứng được ấm áp, đến ngày đến giờ th́ trứng sẽ nở con. Tham thiền là như vậy đó! Cũng như rồng nuôi ngọc, một niệm không rời, không một khắc nào ngưng nghỉ; như mèo ŕnh chuột, chờ chuột xuất hiệ chuột không ra th́ thôi, nếu ló đầu là bị mèo vồ, chạy không kịp. Tham thiền mà được kiên nhẫn như vậy, tự nhiên sẽ có ngày khai ngộ. Cho nên có câu "cửu tọa hữu thiền," tức là ngồi lâu th́ tự nhiên sẽ có tĩnh lự. Chữ "thiền" nguyên là tiếng Phạn, dịch là tĩnh lự, tức là các sự suy tư nghĩ ngợi ngưng lại, khiến cho tâm biến thành tĩnh lặng.

Tự ṭng nhận đắc Tào-khê lộ: Nghĩa là từ ngày theo pháp môn của Tào-khê.

Liễu tri sanh tử bất tương quan: Liền hiểu thấu hết thảy mọi pháp là chẳng sanh chẳng diệt, chuyện sanh tử chẳng đặt thành vấn đề ǵ nữa.

Làm sao để liễu thoát sanh tử? Phải đạt tới chỗ vô lậu.

Làm sao để chứng được vô lậu? Phải đoạn dục, trừ bỏ ái, th́ sanh tử hết, và chứng được pháp vô lậu.

Pháp vô lậu nói trong kinh Phật chính là cách thức làm sao để chữa bệnh, trừ bỏ niệm ô nhiễm, để c̣n lại niệm thanh tịnh.

Nhất niệm bất sanh toàn thể hiện

Lục căn hốt động bị vân giá.

Dịch:

Một niệm chẳng sanh toàn thể hiện

Sáu căn chợt động, tức mây che.

Quí vị nên dốc ḷng t́m hiểu kỹ ư nghĩa này, theo đúng đạo th́ tiến, chẳng phải đạo th́ thoái.

Bài "Chứng Đạo Ca" này đúc kết những điều tâm đắc trong một đời tu hành của Đại sư Vĩnh-Gia, đă giải bày hết nỗi ḷng của ngài cho mọi người hay biết, có thể nói là chứa đựng một niềm thiết tha, không c̣n có ǵ dấu diếm. Chúng ta nghe xong bài ca, nên học cho thuộc ḷng, đọc thuộc một cách lưu loát, rồi mỗi ngày đọc tụng vài lần, đó chính là một "cảnh sách" vô h́nh, một vị thiện tri thức vô h́nh vậy. Quí vị chẳng nên đọc lướt qua, mà phải đọc cho thuộc một cách trôi chảy, kẻo uổng một buổi nghe "Chứng Đạo Ca." Quí vị đă thuộc ca từ, tự nhiên tâm thần lănh hội, thấm nhuần quán thông, tức thấu suốt mọi ư nghĩa đạo lư trong đó. Nếu chẳng thuộc, tất nhiên chẳng thể lănh hội một cách đúng đắn. Bởi vậy quí vị chẳng nên để cho buổi nghe kinh trôi qua vô ích mà phải dụng tâm t́m hiểu kỹ càng những điều đă được nghe giảng.

Hành diệc thiền, tọa diệc thiền,

Ngữ mặc động tĩnh thể an nhiên.

Túng ngộ phong đao thường thản thản,

Giả nhiêu độc dược dă nhàn nhàn.

Ngă sư đắc kiến Nhiên-đăng Phật.

Đa kiếp tằng vi nhẫn nhục tiên.

Dịch:

Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền,

Nói im động tĩnh thảy an nhiên.

Phỏng gặp gươm đao thường nhẹ hững,

Ví nhằm thuốc độc vẫn bồng tênh.

Thầy ta được thấy Nhiên-đăng Phật,

Bao kiếp từng làm tiên nhẫn nhục.

Mấy câu ở đoạn trên: "Tông diệc thông, thuyết diệthông. Định huệ viên minh bất trệ không. Phi đản ngă kim độc đạt liễu. Hằng sa chư Phật thể giai đồng," tác giả nói về thiền tông th́ thông đạt, mà giảng kinh thuyết pháp cũng thông đạt vô ngại. Tông và Giáo hai thứ không chướng ngại với nhau, và cùng dung thông với nhau.

Ở đoạn này: "Hành diệc thiền, tọa diệc thiền. Ngữ mặc động tĩnh thể an nhiên. Túng ngộ phong đao thường thản thản. Giả nhiêu độc dược dă nhàn nhàn," là ư nói người dụng công tu tập, th́ ở nơi nào, lúc nào cũng là dụng công cả; đi, đứng, nằm, ngồi, trường hợp nào cũng đều tham thiền.

Hành diệc thiền, tọa diệc thiền: Nói "thiền," là chỉ nói một nửa của tiếng Phạn thiền-na, dịch nghĩa ra là tu về tư-duy, cũng dịch là tĩnh lự. Thế nào là tư-duy? Chính là sự hồi quang phản chiếu, quay về cầu nơi ḿnh mà không đi ra ngoài t́m kiếm, lấy sự tư duy để tu. Thế nào gọi là tĩnh lự? Tư lự là vọng tưởng, mà vọng tưởng th́ khó ngưng nghỉ, khó làm cho bất động. Khi vọng tưởng bất động gọi là tĩnh. Tĩnh lự là trạng thái như như bất động, liễu liễu thường minh, nghĩa là tuy bất động mà rất sáng suốt, hay tuy sáng suốt mà lại bất động. Chữ động là nghĩa của giao động.

Trạng thái tĩnh lự nó như thế nào? Ví dụ như trong nước có bùn đục, nếu không để cho nước yên lặng, bùn sẽ không lắng xuống, khiến cho nước vẩn đục, nh́n qua thấy nước không trong sáng. Cũng như vậy, tĩnh lự là khi mọi phiền năo đều ở trong trạng thái tĩnh lặng.

C̣n tham thiền th́ không phải khi ngồi mới là tham. Đó là quan niệm "chết" về thiền. Phải quan niệm thiền một cách sống động. Phải quan niệm thiền như con rồng, con hổ sống, tức là rất sinh động. Tuy nhiên, sinh động như vậy, mà bản thể của nó lại bất động. Đó chính là tu về tư-duy, là tĩnh lự, là tham thiền. Muốn tham thiền, quí vị phải ngưng lại mọi vọng tưởng, để cho trí huệ chân chánh xuất hiện, rồi, đi cũng thiền, đứng cũng thiền, ngồi cũng thiền, nằm cũng thiền, lúc nào cũng không ngưng dụng công, lúc nào cũng trong trạng thái tu hành. Quí vị phải nhiếp tâm lại, dùng công phu đó cho tới khi thuần thục, đến chỗ, trong không có tâm, ngoài chẳng có h́nh, đàng xa chẳng có một vật, vạn sự vạn vật đều gom lại làm một, đó chính là:

Nhất bổn tán vi vạn thù

Vạn thù nhưng quy nhất bổn.

hay:

Nhất vi vô lượng,

Vô lượng vi nhất.

Tức là một chẳng ngại nhiều, nhiều chẳng ngại một, và phải đi tới một cảnh giới như vậy.

Tại sao nói ở trong không có tâm? Ở ngoài chẳng có h́nh? Đàng xa chẳng có vật chất ǵ? Chẳng phải những thứ đó là không có, chẳng qua là quí vị đă làm cho tâm phân biệt của quí vị ngưng lại; khi tâm phân biệt đ́nh chỉ th́ gốc trí huệ sẽ hiển hiện.

Tại sao tâm thức phân biệt của chúng ta không nghỉ? Mỗi ngày, từ sáng đến tối, vọng tưởng cứ đến liên miên, giống như sống trên mặt biển vậy? Bởi v́ ta không dừng chúng lại, chúng ta nghĩ cái này, cái kia, nghĩ Đông nghĩ Tây; nếu như không có vọng tưởng th́ chính là "chế tâm nhất xứ, vô sự bất biện," chế phục cái tâm lại một nơi, tất cả mọi sự đều xong. Nói rằng: "Sở tác dĩ biện, bất thọ hậu hữu," việc làm đă xong, sau không c̣n thọ sanh nữa, đó là cái hay của tham thiền, chẳng c̣n phải chịu ṿng sanh tử, cho nên đi cũng thiền mà ngồi cũng thiền.

Ngữ mặc động tĩnh thể an nhiên: Ngữ là nói, mặc là không nói; động là hành động; tĩnh là không hành động. Thể an nhiên, là bản thể an nhiên bất động, bất luận lúc nói hay lúc không nói, lúc hành động hay lúc an tĩnh. Bản thể này là ǵ? Là Phật tánh của chúng ta. Phật tánh của chúng ta th́ không dơ không sạch, không sanh không diệt, chẳng đi chẳng đến, chẳng tăng chẳng giảm, cho nên nói bản thể an nhiên.

Tới được cảnh giới này rồi thời:

Túng ngộ phong đao thường thản thản: Giả sử có bị dao kề thân ḿnh, kiếm chém vào ḿnh, ḿnh vẫn tự tại, không thấy khổ đau. Tại sao vậy? Bị khổ chẳng qua là v́ chấp trước. Nếu chúng ta phá được chấp trước, th́ đau khổ ǵ cũng không c̣n, khoái lạc ǵ cũng như không. Quí vị khoái lạc ư? Quí vị ham sự khoái lạc chính là quí vị chấp trước; quí vị sợ đau khổ? Đó cũng là chấp trước; quí vị buồn rầu? Đó cũng là chấp trước; quí vị phiền năo? Đó cũng chấp trước. Nếu quí vị không c̣n chấp trước, th́ dầu có dao kiếm kề thân ḿnh, quí vị cũng vẫn thản nhiên tự tại, hoan hoan hỷ hỷ, không c̣n tí ǵ là khổ sở gian nan.

Giả nhiêu độc dược dă nhàn nhàn: Nếu uống phải thuốc độc, cũng coi như không, chẳng có ǵ là ghê gớm, lại có khả năng coi thuốc độc như cam-lồ, bất luận thuốc độc ǵ cũng vậy mà thôi. Sao có thể được như vậy? V́ không chấp trước. Chấp ngă và chấp pháp đă phá được, thuốc độc bèn hết tác dụng. Ví như sơ tổ Bồ-đề Đạt-ma khi tới Trung-hoa, bị mọi người coi rẻ, bàng môn tả đạo coi rẻ, cho người t́m cách đầu độc Tổ, trước sau tất cả sáu lần, nhưng thủy chung vẫn không thấy kết quả ǵ. Đó chính là"giả nhiêu độc dược thị nhàn nhàn," thuốc dầu độc cũng chỉ là tṛ chơi chẳng có vấn đề ǵ, đây chính là một thí dụ để làm bằng chứng.

Ngă sư đắc kiến Nhiên-đăng Phật: Ngă sư, Đại sư Vĩnh-Gia xưng như vậy. Ngă sư là ai? Đó là Phật Thích-ca Mâu-ni là Sư Phụ của hết thảy mọi Phật-tử, cho nên mới nói một cách chân thiết là thầy tôi. "Đắc kiến Nhiên-đăng Phật," là ư nói đức Phật Thích-ca trong kiếp quá khứ đă gặp Phật Nhiên-đăng, và được Phật Nhiên-đăng thọ kư cho.

Hồi đó, trong thời kỳ tu nhân, Phật Thích-ca tu hạnh đầu đà. Có một hôm, nhân trên đường có một khúc bị ngập nước, khó đi, lại vừa lúc thấy có một vị tỳ-kheo già đi tới. Đức Phật Thích-ca bèn tự nguyện lấy thân ḿnh làm việc bố thí, Ngài nằm dài xuống, bắc ngang qua chỗ ngập nước, rồi mời vị tỳ-kheo già bước lên thân ḿnh. Thân của Ngài cũng chưa đủ dài để có thể che hết chỗ nước, Ngài phải xơa tóc ra phủ lên chỗ bùn nước sót lại, rồi mời vị tỳ-kheo già bước lên đầu tóc ḿnh mà đi qua. Vị tỳ-kheo đó là vị cổ Phật Nhiên-đăng. Phật Nhiên-đăng thấy Ngài lấy thân thể ra để bố thí cúng dường cho ḿnh, nằm xuống lót đường rồi lại rải tóc đắp vào vũng bùn để cho ḿnh bước lên, một tấm ḷng thành như vậy thật là hy hữu, do đó sau khi quán sát nhân duyên của Phật Thích-ca, liền thọ kư cho Ngài, và nói như sau: "Đời sau ông sẽ thành Phật, hiệu là Thích-ca Mâu-ni."

Thích-ca Mâu-ni là tiếng Phạn, dịch nghĩa thành Năng-nhân Tịch-mặc. Năng nhân nghĩa là đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả; Tịch-mặc là đầy đủ bốn đức, thường, lạc, ngă, tịnh; tịch mà thường chiếu, chiếu mà thường tịch. Từ, bi, hỷ, xả khiến cho chúng sanh, tùy cơ mà thấm được mưa pháp.

Đa kiếp tằng vi nhẫn nhục tiên: Đức Phật Thích-ca tu phước đức trong ba kỳ, trồng tướng tốt trong trăm kiếp. Ba kỳ là ba đại kiếp a-tăng-kỳ.

Như thế nào là kiếp? Tính theo tuổi thọ của người thế gian, cứ một thời tăng và một thời giảm th́ gọi là tiểu kiếp. Tăng là kể bắt đầu từ lúc tuổi thọ chỉ có mười tuổi, rồi cứ mỗi trăm năm tuổi thọ tăng lên một tuổi, thân cũng cao lên một thốn (1 inch). Lúc mười tuổi, thân người cao tối đa là một thước, mỗi trăm năm tăng một thốn (1 inch), tuổi thọ tăng một năm. Như vậy tăng cho tới khi nào tuổi thọ là tám vạn bốn ngàn tuổi th́ dừng lại và sau đó là giảm xuống. Mỗi trăm năm thân người giảm đi một thốn (1 inch), tuổi thọ giảm một năm, giảm cho tới khi tuổi thọ chỉ c̣n là mười tuổi. Chu kỳ này gồm một tăng và một giảm, gọi là một tiểu kiếp. Hai mươi tiểu kiếp thành một trung kiếp, bốn trung kiếp thành một đại kiếp. Thế giới trải qua bốn thời kỳ thành, trụ, hoại, không, trong hai mươi tiểu kiếp.

Đức Phật Thích-ca tu hết ba đại kiếp a-tăng-kỳ. A-tăng kỳ cũng là tiếng Phạn, một con số lớn đối với Ấn-độ, gọi là vô lượng số. Ba vô lượng số lớn gọi là ba đại kiếp a-tăng kỳ.

Trong khoảng thời gian dài xa lắc đó, Đức Phật vẫn không hề sao lăng tâm bồ-đề, dầu trong giây phút, luôn luôn hăng hái tinh tấn. Ngài phát tâm bồ-đề rộng lớn, phút giây chẳng rời, nhằm tu phước (tức làm các việc thiện) trải qua suốt thời gian ba đại a-tăng-kỳ kiếp, và Ngài tu huệ, đọc tụng các kinh điển Đại thừa. Như vậy, phước đủ, huệ đủ, mới gọi Đức Phật là lưỡng túc tôn. Trong khoảng thời gian dài tu phước huệ này, cố nhiên Ngài đă trải qua nhiều cảnh ngang trái, do đó nhất định phải tu hạnh nhẫn nhục.

Tu hạnh nhẫn nhục chính là gieo trồng các tướng tốt. Bởi có nhẫn nhục nên tướng Phật rất trang nghiêm. Người nào có tính hạnh xấu, tướng mạo cũng xấu. Người này tướng mạo đoan chính, tâm địa hiền lành, chính v́ gieo trồng tướng tốt; c̣n người kia, tướng mạo xấu xí, âm thanh yếu ớt, ngôn ngữ không rơ ràng, chính v́ không gieo trồng tướng tốt. Chính là, một cái thiện hết thảy đều thiện, một ác hết thảy đều ác; một vẻ đẹp mọi vẻ đều đẹp, một vẻ xấu, mọi vẻ đều xấu. Bởi vậy, chúng ta phải tránh hết sức điều cáu giận, phải học hạnh nhẫn nhục. Biết nhẫn nhục, tướng mạo sẽ thành đoan chính, viên măn, khiến mọi người sanh ḷng yêu kính, muốn cùng ta gần gũi, chớ không phải né tránh chúng ta như tránh lựu đạn, tránh gươm súng.

Đức Phật Thích-ca lúc xưa làm tiên nhẫn nhục. Một hôm, tại chỗ Ngài tu, có vua Ca-lợi đi săn, mang theo một số cung nga và thể nữ vào sâu trong rừng. Số người này thấy có một người râu dài, đầu tóc cũng dài, h́nh dáng kỳ quái, lấy làm sợ hăi vô cùng, nhưng động ḷng hiếu kỳ tới gần coi ra sao. Một người gan dạ trong bọn hỏi:

–Này! Người làm ǵ ở đây?

–Tôi ở đây tu.

–Người tu đạo ǵ?

–Tu đạo nhẫn nhục. Bất cứ gặp hoàn cảnh nào, tôi cũng nhẫn nại chịu đựng.

Số cung nga, thể nữ, phi tần, từ trước tới giờ chưa hề gặp ai có vẻ quái dị như vậy, nên xúm lại vây quanh. Không thấy người này ăn thịt ai, không thấy y hành hung ai, lại ăn nói giống như mọi người, nên tất cả quây quần lại, kẻ hỏi điều này, người hỏi điều kia. Tiên nhẫn nhục, v́ tu hạnh nhẫn nhục, nên rất tự nhiên, chẳng tỏ ư ngại ngùng ǵ, vui ḷng trả lời các câu hỏi.

Vào lúc đó, vua Ca-lợi từ chỗ săn, quay trở lại, trông thấy các cung nữ, phi tần của ḿnh xúm xít chung quanh một người có râu tóc dài như vậy, không hiểu họ đương làm chuyện ǵ, bèn lại gần xem thấy các cung nữ cùng người đó nắm tay nhau y như bạn thân thiết, trong ḷng ghen tức mới hỏi:

–Ê! Ngươi ở chỗ này làm ǵ?

–Tôi ở đây tu đạo, tu nhẫn nhục.

Vua Ca-lợi bèn hỏi tiếp:

–Tu nhẫn nhục ǵ? Người chỉ quyến rũ các cung nữ của ta, chớ nhẫn nhục ǵ? Ngươi thực tu nhẫn nhục ư?

–Tôi thực là tu hạnh nhẫn nhục.

–Người tu nhẫn nhục? Vậy th́ tốt! Ta thử thí nghiệm công phu nhẫn nhục của ngươi ra sao!

Nói rồi, vua Ca-lợi liền rút kiếm chặt đứt cánh tay của tiên nhẫn nhục và nói:

–Bây giờ ngươi có nhẫn nhục hay không?

–Có nhẫn nhục.

Vua Ca-lợi chặt nốt cánh tay kia của tiên nhẫn nhục, nói rằng:

–Ta bảo ngươi đương mê hoặc bọn cung nữ mà c̣n giả bộ, ngươi muốn dối ta sao?

Bây giờ th́ ngươi c̣n có thể nhẫn nhục được không?

–C̣n.

Vua Ca-lợi bèn chặt luôn cả hai chân của tiên:

–Bây giờ th́ ngươi c̣n nhẫn nhục nữa không?

–Tôi vẫn nhẫn nhục.

–Ngươi chỉ nói láo, không nói thực. Ngươi thấy ta có kiếm, sợ ta chém đầu của ngươi để ngươi phải khổ sở nên ngươi không dám nói thật là ngươi không nhẫn nhục được, ngươi phải dối ta. Ngươi cứ bảo là có thể nhẫn nhục, vậy rốt cuộc ngươi lấy ǵ để chứng minh rằng ngươi không nói dối?

Tiên đáp:

–Nếu như tôi không thể nhẫn nhục th́ tứ chi của tôi sẽ không thể chắp lại được; nếu đúng là tôi có nhẫn nhục, trong ḷng tôi không sanh oán hận, th́ tứ chi của tôi sẽ khôi phục lại như cũ.

Nói xong câu này, quả nhiên tay chân của tiên được chắp lại đầy đủ. Vua Ca-lợi vẫn chưa tin, nói:

–Ngươi đúng là loài yêu quái. Tay chân đă bị chặt đứt rồi nối lại như cũ, đúng là tà thuật, tà pháp. Ai tin được ngươi?

Lời nói trên của vua Ca-lợi làm cho tám bộ hộ pháp thiên long phẫn nộ, nghe xong họ tính đánh chết vua Ca-lợi. Vào lúc ấy, tiên nhẫn nhục cầu khẩn họ hăy lưu t́nh, đừng hại vua Ca-lợi, tiên nói: "Ngày sau, khi tôi thành Phật, tôi muốn trước hết độ cho người này."

Khi Phật Thích-ca thành đạo, người đầu tiên là Kiều-trần-như được Ngài độ tại vườn Nai. Tôn giả Kiều-trần-như chính là vua Ca-lợi năm xưa. Cho nên, phàm người ta phát nguyện điều ǵ, chung cuộc điều phát nguyện vẫn được thành tựu.

Làm tiên nhẫn nhục chẳng phải là dễ, và cũng có người nói: "Phật cũng nổi nóng!" Cho nên, nhẫn nhục một cách thường xuyên không phải là chuyện dễ dàng. Nhẫn một lần, có thể được; nhẫn lần thứ nh́, c̣n tạm được; lần thứ ba, nhẫn không được, tâm ắt nổi nóng.

Bây giờ, xin kể thêm một câu chuyện nữa về nhẫn nhục của một người tu đạo. Vị này cũng tu hạnh nhẫn nhục, nhưng về sau tới lúc không nhẫn được nữa, gây thành chuyện giết hại cả toàn dân trong một nước, c̣n lợi hại bội phần hơn những kẻ chuyên giết mướn.

Số là, một hôm, trên đường du hóa, đức Phật Thích-ca cùng các đệ tử đi tới một nơi, quang cảnh rất hoang dại, tiêu điều, đi cả ngàn dặm đường mà không gặp một ai, các đệ tử mới hỏi Phật: "Tại địa phương này, đất th́ ph́ nhiêu, lại rộng lớn mênh mông, cớ sao không có một người nào ở như vậy?" Phật bảo:

"Trước đây, ở nơi này có một vị tu hạnh nhẫn nhục. Hồi đó có một vị tể tướng bị vua băi chức, trở về làm dân. Ông tể tướng đă từng nghe qua về vị tu hạnh nhẫn nhục này, lại biết ông rất đạo đức, và có linh cảm. Ông tể tướng bèn đi kiếm vị tu đạo để thỉnh giáo, ông nói:

–Vua không cho tôi làm tể tướng nữa, ông có cách ǵ có thể khiến cho vua hồi tâm, chuyển ư, đặng giúp tôi được không?

–Có thể được. Tôi chỉ cho ông một phương pháp này, ông cứ theo đó mà làm th́ có thể trở về lại chức tể tướng như cũ. Ông làm như thế này: "Ông lấy một nhúm đất rồi nhổ nước vào, cho nó thật dơ dáy, xong rẩy vào người của tôi, làm như thế ông sẽ được trở về nguyên chức.

Quả nhiên, ba ngày sau khi làm đúng như vậy, ông vua liền tuyên chiếu kêu gọi ông tể tướng trở về và cho lại chức cũ. Ông tể tướng rất nhớ ơn vị tu hành này. Hồi đó vị chánh cung của vua bị đầy vào lănh cung. Bà suy nghĩ về vụ ông tể tướng được phục hồi chức, cho rằng chắc hẳn ông tể tướng phải có phương pháp ǵ hữu hiệu. Bà hỏi:

–Hồi trước ông đă bị vua băi chức, sau đó được phục hồi ngay nguyên chức, như vậy là nghĩa làm sao?

–Nguyên do là tôi có đi hỏi một vị tu hạnh nhẫn nhục. Ông ta bảo tôi lấy một chút nước trộn với đất rồi rẩy lên người ông, như vậy những chuyện không hay của tôi sẽ trút hết lên con người của ông, do đó đức vua mới cho kêu tôi lại.

–Vậy tể tướng giúp tôi đi hỏi dùm, coi tôi phải làm cách ǵ cho đức vua hồi tâm chuyển ư.

Ông tể tướng tới hỏi th́ được trả lời như sau:

–Thân phận của bà ấy cao quư hơn ông, bà ấy phải dùng tới một bát nước rồi trộn bùn đất vào, sau đó rẩy lên người tôi, như vậy đức vua sẽ cho triệu bà ấy trở về chánh cung.

Quả là linh nghiệm, sau khi thực hành đúng lời dặn, vua liền triệu bà ấy cho làm chánh cung như cũ.

Chính vào lúc đó, nước láng giềng cho quân xâm lấn, chiến tranh phát khởi, và quân lính của vua nước này không thể ngăn chận nổi, lần nào giao tranh cũng bị thua, cứ phải rút lui dần dần. Trong một thoáng, vua bừng nghĩ ra: "Trước đây ta không muốn dùng ông tể tướng này, nhưng sau không hiểu sao ta lại triệ hồi y? Lại c̣n bà hoàng hậu nữa, ta vốn không ưa, sau này ta lại đổi ư, vậy là cớ ǵ? Ta thử hỏi hai người này, coi họ có pháp thuật ǵ đây." Sự thể được tŕnh lại cho vua như sau: "Trong xứ của chúng ta có một vị tu hạnh nhẫn nhục. Vị này gặp sự việc ǵ cũng nhẫn chịu được, lại có thể chuyển hết lên thân ḿnh những điều xui xẻo của người khác, khiến cho họ được may mắn, cho nên chúng tôi đều gặp may cả, được vua thương cho trở về chức cũ."

Vua bèn phán:

–Nay nước của chúng ta gặp vận không may, ông đi kiếm vị tiên nhẫn nhục đó, coi vị này có biện pháp nào làm cho nước chúng ta thắng lợi trong cuộc chiến này chăng?

Sau khi tể tướng thương lượng, vị tu đạo ngẫm nghĩ một lát rồi nói:

–Tôi thường chẳng muốn xen vào chuyện của người khác, nhưng v́ trú ngụ ở nơi này tu hành, tôi cũng có bổn phận báo ơn vua, vậy cũng hay! Ông hăy lấy một thùng nước, trộn bùn đất, rồi nói với vua tưới lên người của tôi, như vậy th́ quân nước ta sẽ thắng trận.

Vua y kế thi hành, quả nhiên sau đó, ở tiền tuyến quân sĩ thắng hết trận này đến trận khác. Trong buổi khải hoàn, mừng thắng lợi, vua nói:

–Nước nhà gặp vận xấu, may nhờ cầu quốc bảo hỗ trợ - tức vị tiên tu nhẫn nhục mà chúng ta đă chuyển bại thành thắng chúng ta phải báo ơn này.

Do chuyện báo ơn mà mọi người đều hay biết nguyên ủy. Rồi quí vị thử nghĩ coi! Từ đó những ai thấy ḿnh không may mắn, vận khí xấu, đều chạy tới nhờ vị đó chuyển vận giùm, người này rẩy nước, kẻ kia ném đất, trút cả lên thân h́nh của vị tu hành, đến nỗi khắp ḿnh mẩy của ông thành một đống bùn đất, nhớp nhúa vô cùng. Tất cả dân chúng trong nước hầu như đều góp phần làm tội t́nh ông - người th́ muốn chuyển vận, người mong phát tài, kẻ cầu trúng số đua ngựa, hồi đó chưa có đua ngựa, có thể là đua chó. Ai cũng muốn điều tốt đẹp cả, khiến cho người tu hành hết chịu được nhẫn, phải kêu lên: ‘Ê! Các người thật là đáng chết!’ Chỉ v́ một niệm tưởng đó mà tất cả nhân dân trong nước đều bị chết sạch. Bởi v́ nguyên do này, cho nên bây giờ suốt mấy ngàn dặm đất ở đây, chúng ta không thấy có bóng người."

Quí vị nghĩ lại coi, tuy đây là truyền thuyết, nhưng ta phải nhớ rằng những người tu hành cũng có lúc không nhẫn nhịn được, bởi vậy có câu nói: "Thà khuấy động nước của một ngàn con sông, chớ không khuấy động ḷng người tu hành" (ninh động thiên giang thủy, bất động đạo nhân tâm), tức là không nên làm tổn hại đến sự an vui của người tu hành. Lúc xưa, Phật Thích-ca tu hạnh nhẫn nhục, trải một kiếp không thành, và không rơ Ngài đă tu trong bao nhiêu kiếp, do đó mới nói: "Bao kiếp từng làm tiên nhẫn nhục."

Trước đây cũng có một người tu nhẫn nhục, đă rất lâu chưa thấy ḿnh cáu giận, trong ḷng bèn nẩy sanh tâm kiêu hănh, quảng cáo cho mọi người hay. Ông treo một tấm bảng trước cửa nhà, trên đề mấy chữ: "Tánh như tro lạnh," ư muốn cho tất cả biết rằng ḿnh là một người không biết bực tức nóng giận. Không rơ treo bảng trong bao lâu, có một hôm, Quán Thế Âm Bồ Tát đi ngang qua trông thấy bảng đó, Ngài liền biến hóa thành một người cùng khổ đi xin ăn, tới hỏi vị tu hành:

–Tấm bảng của ông treo đó đẹp lắm, trên lại có mấy chữ nữa. Mấy chữ này đọc ra sao, xin ông nói cho biết?

Vị này nghĩ rằng, người xin ăn muốn hiểu ư nghĩa mấy chữ "tánh như tro lạnh," liền đáp:

–Mấy chữ này đọc là "tánh như tro lạnh," bổn tánh ví như tro lạnh, nghĩa là trong đám tro một đốm lửa cũng không c̣n, bất cứ gặp chuyện ǵ chẳng xứng ư cũng không nổi nóng.

Người xin ăn cám ơn và bước ra, nhưng đi được ba bước th́ quay lại hỏi:

–Mấy chữ này đọc như thế nào tôi lại quên mất?

–"Tánh như tro lạnh," nghĩa là người tu hành này không nổi nóng, ḷng như tro lạnh, ráng ghi nhớ đi.

–Cám ơn lắm!

Nhưng đi không xa, người ăn mày lại trở lại hỏi nữa:

–Tôi lại quên nữa rồi. Mấy chữ này là ǵ đây?

–Tánh như tro lạnh.

Người ăn mày đi ra, rồi trở lại, cứ như vậy mười mấy lần luôn. Ḷng của vị tu hành lúc này như tro mà lại có lửa, ông nổi nóng:

–Tánh như tro lạnh! Tánh như tro lạnh! Cứ hỏi măi!

Người ăn mày nói:

–Hóa ra tro của ông hăy c̣n lửa a! Thôi xin chào!

Nói rồi bay lên trên không, hiện thành Bồ Tát Quán Thế Âm.

Vị này nghĩ: "Bấy lâu nay tu, mong được gặp Quán Thế Âm Bồ Tát một lần, không dè tu măi mà ḷng vẫn chưa nguội lạnh, gặp Ngài mà không nhận ra, thật uổng! Đáng thương biết bao nhiêu!" Nghĩ rồi khóc sướt mướt, y có dè đâu lửa c̣n âm ỉ trong đám tro, phút giây bốc cháy, chút nữa đốt luôn cả thân ḿnh.

Qua trường hợp tu nhẫn nhục của vị trước, chúng ta hăy thử suy ngẫm: Ông tể tướng nhờ vị tiên nhẫn nhục chỉ dẫn cách thức nên vua triệu hồi y cho làm lại chức cũ; bà hoàng hậu cũng được sự chỉ dẫn này mà thoát ra khỏi cung lạnh; vận nước không may mà biến thành may mắn; tại sao như vậy? Chúng ta nên hiểu rằng, phàm người có đức hạnh, lại có công tu, có đạo đức, có trí huệ, nếu họ hồi hướng cho ta, mong cho ta hưởng điều may mắn, vạn sự hanh thông, th́ chắc chắn ta sẽ được lợi lạc. Nguyên do, bởi đạo lực của họ hơn người, nên một khi tâm họ dấy lên một sự mong ước, cầu sự tốt lành cho ta, ta sẽ được hưởng mọi sự lành. Thậm chí có kẻ gặp cảnh ngộ đáng chết, vậy mà, được hồi hướng cũng có thể sống lại, bởi v́ người tu hành đó, đầy đủ công đức, có khả năng sai khiến quỷ thần, bảo quỷ thần làm cho cái này hoặc làm cho cái kia. Tỷ như có người đă tới số, vua Diêm vương đă cho giấy mời đến dự tiệc, nhưng khi được dặn ḍ nên tha cho người đó th́ người này bèn sống lại. Lẽ dĩ nhiên, phải làm sao cho người tu nói trên động tâm mới được, bởi có sự cảm ứng th́ sự việc mới thành. Bất cứ cảnh huống nào, chỉ cần vị đức hạnh đó một ḷng hồi hướng cho ta th́ việc dữ sẽ hóa lành, mọi tai nạn sẽ qua khỏi. Ngược lại, nếu ta làm cho các vị này bực tức, th́ chỉ cần một động niệm của họ, kết quả sẽ rất tai hại, cho nên ở trên đă nói: "Thà khuấy động nước của một ngàn con sông, chớ không khuấy động tâm của người tu đạo."

Người tu đạo, mỗi ngày mỗi tu thành tựu được đạo nghiệp, tu hành được trí huệ, đạt tới từ, bi, hỷ, xả, th́ chỉ cần một niệm dấy lên, ḷng nghĩ tới là sự việc thành, đạo lực tới độ như vậy đó! Cho nên, quí vị phải nỗ lực tu hành, nếu thực sự có công đức, th́ có thể tùy duyên biến hóa vô cùng, thậm chí có thể dời non lấp biển.

Hăy xem như vị tiên tu nhẫn nhục, khi vị này dấy niệm rằng: "Bọn các người đáng chết!" Th́ quả nhiên tất cả mọi người, chẳng những không được may mắn, mà c̣n gặp cảnh chết chóc, tại sao như vậy? Đó là do công lực tu hành tới độ có thể khiến Diêm vương quỷ thần phải thi hành y theo ư nghĩ của vị đó. Bởi vậy, mỗi khi chúng ta gặp ai tu hạnh nhẫn nhục, xin ghi nhớ chớ nên đắc tội với họ, kẻo họ nổi nóng th́ tai hại vô cùng.

Chúng ta là những người tu học, nếu tu nhẫn nhục th́ kết quả sẽ có tướng mạo đẹp đẽ, đoan chính. Đức Phật Thích-ca có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, chính là kết quả của công phu Ngài tu nhẫn nhục. Bất cứ ai, muốn cho ḿnh có giáng dấp đẹp đẽ, anh tuấn, th́ phải tu nhẫn nhục. Có ai đánh ta, ta chẳng bực tức; mắng ta, ta chẳng oán hờn, ḷng ta nhẫn nhịn, đó là đức hạnh, ngày sau tướng mạo của ta sẽ đẹp đẽ trang nghiêm. Ngược lại, nếu ta ngày ngày cau có, th́ tương lai sẽ là quỷ đói, chẳng đẹp đẽ ǵ, xin quí vị hết ḷng ghi nhớ!

Kỷ hồi sanh, kỷ hồi tử,

Sanh tử du du vô định chỉ.

Tự ṭng đốn ngộ liễu vô sanh,

Ư chư vinh nhục hà ưu hỷ.

Dịch:

Mấy hồi tử, mấy hồi sanh?

Sanh tử mơ màng không định dứt.

Tự thời thoắt ngộ pháp vô sanh,

Cơn vinh nhục mừng lo ǵ tá?

Kỷ hồi sanh, kỷ hồi tử: Đây là ư nói đức Phật Thích-ca đời nọ tiếp đời kia, bao lần tu nhẫn nhục, bố thí sanh mạng.

Tự ṭng đốn ngộ liễu vô sanh: Bất cứ ai tu hành, nếu đốn ngộ, chứng được pháp vô sanh nhẫn, là biết tu hạnh nhẫn nhục.

Ư chư vinh nhục hà ưu hỷ: Có ai sỉ nhục ta, có ǵ đâu mà buồn; có ai khen ta, có ǵ đâu mà vui? Vinh nhục chẳng buồn động tâm. Mọi sự xảy đến, gặp mọi hoàn cảnh, ta đều sống với công phu nhẫn nhục.

Bồ-tát Di-lặc tu nhẫn nhục, nên Ngài có bụng phệ, và bụng của Ngài có thể chứa mọi thứ mà thế gian không chứa nổi. Ngài luôn luôn cười, Ngài nh́n người thế gian rất buồn cười. Chúng ta xem như vậy th́ đủ hiểu.

Như Đức Phật Thích-ca, trong thời gian Ngài tu nhân, đă xả thân làm mồi cho hổ. Hổ là ác thú, Ngài đem sanh mạng của ḿnh bố thí cho hổ, hổ ăn thịt của Ngài nên không bị chết đói. Chim ưng cũng là một loại ác điểu. Ngài cắt thịt của ḿnh cho chim ưng ăn khi thấy nó đói không bay được và nó sắp sửa ăn thịt con chim bồ câu. Ngài lóc thịt trên toàn thân ḿnh cho nó ăn như vậy. Quí vị thử nghĩ coi, xả thân làm mồi cho hổ, cắt thịt trên thân ḿnh cho chim ăn, điều này thực chẳng ai làm được!

Trong thời kỳ tu nhân, Đức Phật Thích-ca xả thân ḿnh không biết bao nhiêu lần, hy sanh tính mạng cho nhân loại không biết bao nhiêu lần. Trong tam thiên đại thiên thế giới, khắp hết mọi nơi, không một chỗ nào, thậm chí nhỏ như hạt bụi mà không phải là nơi mà chư Phật mười phương đă từng bố thí sanh mạng. Nói một cách khác, mỗi chỗ nhỏ như hạt bụi là mỗi địa điểm mà chư Phật mười phương đă từng hy sanh thân mạng, bố thí thân thể của ḿnh. Nếu quả chúng ta hiểu được ư nghĩa này, th́ c̣n có ǵ mà chẳng buông bỏ được? Để đến nỗi chấp trước? Để tối ngày tính tới tính lui, làm sao có tiền, làm sao cho phát tài? Quí vị muốn ḿnh phải phát tài, th́ tự nhiên sẽ phát tài, chẳng cần phải dụng tâm nghĩ mưu kế như vậy.

Nhập thâm sơn, trú lan-nhă,

Sầm cương u thúy trường tùng hạ.

Ưu du tĩnh tọa dă tăng gia,

Khuưch tịch an cư thực tiêu sái.

Dịch:

Vào rừng sâu, ở lan-nhă,

Núi dựng, tùng già, ôm bóng cả.

Thong dong ngồi tịnh mái chùa tranh,

Cảnh lặng ḷng yên thanh thoát lạ!

Nhập thâm sơn, trú lan-nhă: Đoạn này nói người tu hành nên t́m nơi thâm sơn cùng cốc, những hang động, những chỗ tĩnh mịch để tu. Lan-nhă là tiếng Phạn, có nghĩa là nơi tịch tĩnh. Nhă là tịch, không có tiếng động; tĩnh là an tĩnh, không động. Tĩnh và động trái nghĩa với nhau, tĩnh là chẳng động, động là chẳng tĩnh.

Phải trú ngụ ở hang động. Tại sao cần phải tới tận rừng sâu hốc núi, những chỗ hẻo lánh như vậy? Bởi v́ tu ở nơi đô hội rất khó khăn. Vừa chớm có chút định lực, mọi thứ duyên lại ào tới, uổng mất công phu, cho nên cần phải ở chỗ tĩnh mịch, ẩn cư nơi rừng sâu hốc núi.

Sầm cương u thúy trường tùng hạ: "Sầm cương" là núi cao. Ở vùng núi đá có những chóp núi nhô cao lên, gọi là "u thúy." Những nơi này hết sức u tĩnh, không ồn ào như chỗ đông người. Ở đây mà tu tập thiền định dưới bóng tùng xanh, rồi hấp thụ linh khí của núi sông, để ḥa nhập chung với trời đất.

Ưu du tĩnh tọa dă tăng gia: "Ưu du" là siêu nhiên tự tại, chẳng có ǵ trói buộc, chẳng có ǵ ngăn ngại, không người không ta, siêu thoát hẳn ngoại vật. "Dă tăng," ư nói trong bộ điệu giống như người rừng. Bởi không câu nệ bề ngoài nên râu mọc dài, móng tay dài, khắp người lông lá. Tuy nhiên, đây là một vị tăng, xa lánh thế gian, không tranh đua với người, không tranh tài sắc, tranh danh lợi, tranh ăn uống, không ham nằm cho êm ái, ngủ dưới đất, ngủ cũng được mà không ngủ cũng được. Có ǵ ăn được th́ ăn, mà không ăn cũng vậy. Về danh th́ khỏi cần nói, ở đây không có thanh âm, không có mùi hương, không có người, không có ta; về sắc, th́ rơ ràng chẳng có cái ǵ gọi là nhan sắc mỹ lệ; về tài - của cải - th́ xung quanh đâu có ǵ để tranh đua.

Khuưch tịch an cư thực tiêu sái: Tại nơi cư ngụ của người xuất gia rừng rú này, không khí rất vắng lặng, không ai thấy vết tích nào của đời sống phồn hoa, không ai nghe một tiếng ồn ào tranh căi. Đúng là tĩnh mịch, tiêu sái, thong dong tự tại, ta chẳng cần để ư tới ai, mà chẳng ai chú ư tới ta, không có ǵ gây phiền nhiễu, đó mới là tự do thực sự.

Đây là đại ư của đoạn văn trên. Nghĩa lư của nó thật là vô cùng tận mà chúng ta phải ráng lănh hội, ngộ được cảnh giới này. Cho nên mỗi người chúng ta phải phát huy trí năng của ḿnh đạt được trí huệ th́ mới có thể tới được "bảo sở."

Giác tức liễu bất thi công,

Nhất thiết hữu vi pháp bất đồng.

Trụ tướng bố thí sanh thiên phước,

Do như ngưỡng tiễn xạ hư không.

Dịch:

Biết là xong chẳng cần công,

Thảy thảy hữu vi pháp bất đồng.

Của cho trụ tướng phước trời hưởng,

Ví như tên bắn nhắm hư không.

Giác tức liễu: Điều mà Phật giáo chú trọng chính là giác. Chữ giác đây nghĩa là giác ngộ. Giác ngộ điều ǵ vậy? Đó chính là phá màng vô minh, đặng cho ánh sáng hiển lộ, khiến cho hắc ám tan biến mà thuật ngữ trong Thiền tông gọi là cái thùng sơn đen. Phá được thùng sơn đen th́ cái trí huệ cố hữu của mọi người sẽ sáng tỏ. Đây là một sự khai phá, giống như khai phá đất hoang. Mà khai phá đất hoang th́ phải dùng nhân công, phải tốn sức lực.

Bất thi công: Khai phá trí huệ th́ chẳng cần sức lực ǵ, ta chỉ cần gạt bỏ cái tâm ô nhiễm, giữ cái tâm thanh tịnh, trở về với cái cội nguồn thanh tịnh của tánh chân như. Đó cũng chính là sự quay về nguồn, để minh tâm kiến tánh. Tuy nhiên, nói "bất thi công," chẳng dùng công sức, kỳ thực nguời tu phải đinh ninh một dạ, một niệm chẳng đổi dời chẳng sao lăng, không phải như kiểu cách của kẻ "yết miêu trợ trưởng."

"Yết miêu trợ trưởng" là câu chuyện của một người nước Tống vào thời Liệt Quốc năm xưa. Người nước Tống kia, v́ quá thông minh mà trở thành ngu xuẩn. Quá thông minh như thế nào? Sự việc không làm nổi mà cứ làm, chưa phải lúc làm mà cứ làm một cách ép uổng! Xin kể ra đây làm một thí dụ:

Ở nước Tống vào thời đó, có một người thấy cây lúa mạ của ḿnh hăy c̣n thấp, muốn cho chúng mọc cao, mới nghĩ cách giúp cho cây mạ cao hơn nữa. Giúp bằng cách nào? Bằng cách kéo dài ra. Thí dụ, cây mạ chỉ cao một tấc, ông này kéo thêm ra hai tấc, cứ như thế kéo từng cây một, kéo suốt một ngày cho tới khi thân thể mệt nhoài mới trở về nhà. Người con hỏi lư do làm sao mà mỏi mệt, th́ ông kể lại công tŕnh kéo cây mạ của ông. Người con bèn đi ra ruộng coi thử phương pháp "giúp mạ mọc cao" của cha ra sao. Đến nơi, y chỉ thấy các cây mạ đă chết khô từ lúc nào.

Đây là trường hợp một người không biết tí ǵ về nghề trồng trọt. Chỉ biết nghĩ rằng, nếu cây chưa cao th́ kéo dài ra cho cao thêm, chớ có biết đâu nếu kéo dài ra th́ cây mạ sẽ chết! Đó là nói về người nước Tống. Tuy nhiên, chẳng cứ người nước Tống mới xử sự như vậy, thực tế vẫn có những người, làm những chuyện kỳ khôi, tin những chuyện kỳ quặc, khiến cho mọi người không biết đâu mà tin tưởng.

Trở về câu "giác tức liễu," giác đây nghĩa là ǵ? Giác là trí huệ. Mọi người đều sẵn có trí huệ, đại trí huệ chớ không phải tiểu trí huệ. Phật thành bậc đại giác, một bậc đại trí huệ, điều này chẳng có ǵ lạ lùng. Chẳng cần dụng công, không do một sự tạo tác nào, chẳng cần tới phương pháp "giúp mạ mọc cao" như vừa nói trên.

Nhất thiết hữu vi pháp bất đồng: Tuy nhiên, pháp vô vi thực sự không giống như pháp hữu vi, cho nên Kinh Kim Cang có nói như sau:

Nhất thiết hữu vi pháp

Như mộng huyễn bào ảnh,

Như lộ diệc như điện.

Ưng tác như thị quán.

Dịch:

Hết thảy pháp hữu vi

Như mộng huyễn, bọt, ảnh,

Như sương, như điện chớp.

Phải nên quán như thế.

Pháp hữu vi là nói những ǵ có h́nh tướng, khiến cho chúng ta quan sát được, nh́n thấy được. Chúng ta tạo ra cái ǵ th́ cái đó biểu hiện ra, như vậy gọi là pháp hữu vi. C̣n pháp vô vi th́ không phải như vậy, pháp vô vi không cần sự tạo tác, vô vi là không làm, mà thực chẳng có ǵ là không làm (vô vi nhi bất vi).

Trụ tướng bố thí sanh thiên phước: Có người mê pháp hữu vi, chỉ mong được giàu sang, có danh vọng, địa vị lớn, quyền thế cao, đó là những người chấp tướng. Họ nghe nói nếu tu ngũ giới và thập thiện th́ sẽ hưởng quả phú quư nên họ đă tận t́nh làm việc bố thí hữu vi, làm công đức chấp tướng.

Bố thí th́ gồm tài thí, pháp thí, vô úy thí. Tài thí là bố thí tài vật, tiền tài, tức là một vật dùng để giao hoán thay thế phương thức lấy vật đổi vật của thời xưa. Pháp thí là ngày ngày giảng pháp cho người ta nghe, lấy pháp làm vật bố thí chúng sanh. Vô úy thí là đương lúc người ta gặp sự hoạn nạn, gặp hoàn cảnh khổ sở, chúng ta t́m cách an ủi họ, để cho họ hết mọi sự sợ hăi buồn rầu, đó chính là bố thí sự vô úy. Trong ba cách bố thí vừa kể, pháp thí là hơn cả.

Muốn lấy pháp bố thí th́ phải có đủ chánh tri chánh kiến mới có thể giảng kinh thuyết pháp, giáo hóa chúng sanh, mang lợi lạc đến cho chúng sanh. C̣n như tà tri tà kiến th́ chỉ có có thể dẫn chúng sanh đọa địa ngục, chẳng những không được công đức ǵ mà c̣n mang tội lớn. Nếu có chút công đức th́ có thể được hưởng quả phước của các tầng trời, hưởng cho đến khi hết phước đó, sẽ trở lại thọ khổ.

Do như ngưỡng tiễn xạ hư không: Chỗ này nêu lên một thí dụ: Như ta lấy một cây cung, bắn một mũi tên. Mũi tên không nhắm vào hướng đông hay hướng tây, hướng nam, hướng bắc mà nhắm thẳng lên hư không. Cuối cùng, mũi tên chẳng tới được mục tiêu nào, chỉ bay lên không trung một lát rồi rớt xuống.

Thế lực tận, tiễn hoàn trụy,

Chiêu đắc lai sanh bất như ư.

Tranh tự vô vi thực tướng môn,

Nhất siêu trực nhập Như Lai địa.

Dịch:

Đà bắn hết mũi tên rơi,

Kiếp sau hận cũ lại bời bời.

Sao bằng tự cửa vô vi ấy,

Một nhảy vào liền đất Như Lai.

Thế lực tận: Ư? bắn tên lên hư không là điều vô ích, chỉ uổng phí công đức, giống như dao chém nước chẳng ghi lại dấu vết ǵ. Đúng là kiếm chuyện làm cho rắc rối thêm.

Tiễn hoàn trụy: Mũi tên bắn lên rồi lại rớt xuống. Nhớ rằng bất cứ vật ǵ từ trên rơi xuống, đầu nào nặng sẽ quay xuống, đầu nhẹ quay lên, nên đầu mũi tên sẽ chúc xuống, và nếu quí vị vô ư, đầu quí vị sẽ hứng lấy mũi tên, rất là nguy hiểm.

Chiêu đắc lai sanh bất như ư: Nếu quí vị bố thí trong tinh thần chấp trước, tuy đó là gieo nhân tốt, nhưng phước báo này chẳng có tánh cách lâu dài. Nó chỉ tạm thời, nó đến và qua đi trong chớp mắt, chẳng nhờ cậy được bao lâu, do đó kiếp tới lại chẳng được như ư. Hoặc giả kiếp này quí vị có phước, kiếp sau cũng hưởng phước, kiếp tới nữa vị tất đă có phước. Phước hết th́ sẽ chịu khổ. Hơn nữa, đă ở trong cảnh luân hồi, th́ luẩn quẩn hoài trong ṿng lục đạo. Nếu không ra khỏi được, không thoát được ṿng sanh tử, th́ tránh đâu khỏi cảnh bất như ư.

Tranh tự vô vi thực tướng môn: Như vậy th́ đâu có thể so sánh được với pháp môn giải thoát của thực tướng và vô tướng? Cho nên:

Nhất siêu trực nhập Như Lai địa: Một bước là có ngay Pháp thân, là chứng được Phật quả, chẳng cần phải đi từng thứ bậc, trải qua biết bao nhiêu a-tăng-kỳ kiếp.

Đản đắc bổn, mạc sầu mạt,

Như tịnh lưu ly hàm bảo nguyệt.

Kư năng giải thử như ư châu,

Tự lợi lợi tha chung bất kiệt.

Dịch:

Cốt ở gốc lo chi cành,

Như ngọc lưu ly ngậm ánh trăng.

Đă hay thấu được châu như ư,

Lợi ta lợi người không biết mấy.

Đản đắc bổn, mạc sầu mạt: Chúng ta tu học Phật pháp, điều cần yếu là phải nhận ra đạo lư cội gốc. Đạo lư đó là ǵ? Chính là đoạn trừ ái dục, bớt sự ham muốn, biết lẽ tri túc, tức cũng là dẹp những vọng tưởng, loại vô bổ ích. Giữ được gốc rồi, th́ những vấn đề chi tiết ngọn nghành chẳng cần quan tâm. Gốc là cái chân, giữ được gốc chính là đạt được trí huệ chân chánh, là tự tánh chân như, xưa nay vốn thanh tịnh, vốn chẳng động, vốn hiện thành. Cái gốc này cũng gọi là hạt ngọc như ư. Hạt ngọc như ư là ǵ? Chính là đại viên kính trí. Đạt được trí huệ này, các tư tưởng hữu lậu sẽ không c̣n nữa, do đó mới gọi là gốc.

Như tịnh lưu ly hàm bảo nguyệt: Gốc th́ không hề bị nhiễm, không vướng bụi, mọi nghĩ suy đều không, giống như một b́nh bằng lưu ly, trong suốt, ở bên trong là một vừng trăng. Bên ngoài th́ tỏa ra ánh sáng long lanh, chiếu khắp mọi nơi, không có chỗ nào là bị nhiễm khí âm mà thuần một khí dương. Đó là ngọc như ư. Như ư v́ nó tùy theo tâm ư, biến hóa vô lường, dùng nó th́ không bao giờ hết, diệu dụng của nó không thể kể hết.

Kư năng giải thử như ư châu: Nếu quí vị lănh hội được ư nghĩa này, thông suốt được thể tánh của hạt ngọc như ư, tác dụng và công năng của nó th́:

Tự lợi lợi tha chung bất kiệt: Hạt ngọc như ư này, một loại trí huệ của đại viên kính trí, sẽ mang lại lợi lạc, không những cho chính quí vị mà c̣n cho nhiều người khác. Lợi ḿnh, khiến cho ḿnh không bị điên đảo; lợi người, tức người sẽ không bị điên đảo. Nói thêm một chút nữa, ḿnh sẽ không hồ đồ, chúng sanh sẽ không hồ đồ, đó là nghĩa của lợi ḿnh lợi người. Câu "chung bất kiệt" có nghĩa là không khi nào hết, muốn dùng tới lúc nào cũng được, bản chất của nó vẫn nguyên vẹn. Câu trên đây có ư nghĩa như vậy.

Giang nguyệt chiếu, tùng phong xuy,

Vĩnh dạ thanh tiêu hà sở vi.

Phật tánh giới châu tâm địa ấn,

Vụ lộ vân hà thể thượng y.

Dịch:

Trăng sông tỏ, gió tùng lay,

Đêm trường thanh vắng, để chi đây?

Ngọc giới hạnh, tâm in, tánh tỏ,

Trên ḿnh mây ráng khoác làm y.

Giang nguyệt chiếu: Giống như một con thuyền bơi trên sông, ánh trăng chiếu xuống mặt sông, cảnh tượng hết sức tự nhiên.

Tùy phong xuy: Gió lay cây tùng, đưa lại một mùi hương thoang thoảng khiến cho mọi người có một cảm giác sảng khoái, đây cũng là cảnh đẹp của thiên nhiên.

Vĩnh dạ thanh tiêu hà sở vi: Đêm trường thanh vắng, chẳng có chuyện ǵ làm. Nhưng trong thời gian chẳng làm ǵ cả, tuy là vô vi, mà không có ǵ là chẳng làm (vô vi nhi bất vi).

Phật tánh giới châu tâm địa ấn: Trong đêm trường thanh vắng ấy, trước cảnh vật hoang dă của thiên nhiên, Phật tánh và giới châu liền hiển lộ. Giới châu đó chính là Kim Cang Quang Minh Bảo giới và cũng là tâm ấn trong pháp môn của chúng ta.

Vụ lộ vân hà thể thượng y: Như đoạn trên có nói: "Ngũ uẩn phù vân không khứ lai," tức là cái thân ngũ uẩn này chẳng khác ǵ đám mây trôi nổi, ví như sương mù, ví như quần áo khoác trên thân, chẳng phải phần bộ nào trong con người của ḿnh, mà ở ngoài thân ḿnh. Đó chẳng qua là một tấm áo khoác, dệt bằng mây, bằng sương mà thôi. Phật tánh mới là của ḿnh, viên ngọc giới châu là của ḿnh, bởi vậy chúng ta đừng nhận những cái kể ở trên là chân thật.

Chúng ta hiện nay sống ở thời mạt pháp, lúc Phật pháp sắp sửa diệt vong, thời kỳ mà ma mạnh pháp yếu, tà thịnh và chánh suy. Đó là lúc các loại tà thuyết đua nhau xuất hiện. Các tà thuyết này khi mới nghe qua th́ có vẻ hợp lư, nhưng tựu chung nó sẽ dẫn tới cảnh vong quốc diệt chủng, nhân loại sẽ đi tới cảnh tận diệt.

Chúng ta đều hiểu rằng đạo lư của trời đất là sanh hóa bất tận, có âm có dương, có chánh có tà. Nếu chúng ta đi ngược lại lẽ âm dương tà chánh của tạo hóa, tất không tránh khỏi bị diệt vong.

Ngày nay, toàn thế giới đều sợ bệnh AIDS hay SIDA (dịch là "ái tử"). Chỉ nghe đọc lên danh từ đó, người ta cũng hiểu ngay nó là ǵ? Làm sao mà "tử"? Bởi v́ "ái" một cách điên loạn, "ái" một cách không chánh đáng, ngược hẳn lại nguyên tắc sinh lư tự nhiên. Người ta lại c̣n mang nó ra tuyên truyền đề xướng, đi vào con đường mê muội, làm như mọi người chẳng biết phân biệt cái ǵ là chánh, cái ǵ là tà, cái ǵ là phải, cái ǵ là trái, lại c̣n muốn xin hợp thức hóa nữa! Bệnh AIDS (sida), "ái tử," chính là do số người đồng tánh luyến ái gây ra.

Số là, theo đạo lư th́ có ngày tức phải có đêm, có thiện tức có ác, có nghịch tức có thuận, có trời tức có đất, đó mới là lẽ thường, lẽ tương đối của tạo hóa. Bởi ư nghĩa đó mà các thánh nhân đời xưa đề xướng trai với gái ở một nhà, rồi từ cái đạo lư lớn này mà định ra "lễ," cho nên có cái lệ trai ba mươi tuổi th́ lấy vợ, gái hai mươi tuổi th́ lấy chồng, đó là một điều trong luân thường. Gọi là ngũ luân, tức là năm mối quan hệ giữa vua tôi, cha con, anh em, vợ chồng và bạn bè; gọi là tám đức tức là tám nết, hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm và sỉ. Sanh làm người chúng ta phải y chiếu vào ngũ luân và tám đức mà ăn ở, chớ từ xưa tới nay chưa ai nghe nói có thứ luân lư nào bảo đàn ông chung chạ với đàn ông như vậy.

Thời kỳ mạt pháp có các loại ma quái xuất hiện, để công nhiên đề xướng những hành động diệt chủng, vong quốc, tiêu diệt nhân loại. Quí vị thử nghĩ coi, nếu ai ai cũng theo kiểu đồng tính luyến ái th́ trong quốc gia sẽ không c̣n người, mà quốc gia không c̣n th́ nhân loại sẽ thành diệt vong. Chúng ta c̣n sợ rằng trời đất sẽ không chờ đợi tới ngày đó, ngày mà nhân loại sẽ tự ḿnh hủy diệt, v́ ngay bây giờ đă thấy có bệnh AIDS ra đời. Cái bệnh "ái tử," cũng có thể gọi là "khoái tử"- chết mau - cho tới nay vẫn chưa kiếm ra được thuốc trị. Bệnh này làm mất sức đề kháng của người bệnh, do đó một khi họ bị tà khí bên ngoài xâm nhập, th́ không c̣n phương cứu chữa.

Nguyên tôi cũng chẳng muốn nói tới vấn đề này làm ǵ. Nhưng hiện nay có những người chưa bị tà thuyết này mê hoặc, nên bắt buộc tôi phải nói ra. Nói ra sẽ có thể làm cho một số yêu ma quỷ quái không vừa ḷng, nhưng tôi vẫn phải nói những điều tôi muốn nói. Thời kỳ này chính là thời tai kiếp, rất hiểm nghèo, chúng ta không thể khoanh tay làm ngơ, nhưng phải làm sao đây? Chúng ta phải cùng một lượt niệm danh hiệu Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát mới có thể hy vọng cứu văn được t́nh thế này. Một khi Quán Thế Âm Bồ Tát hiển lộng thần thông th́ bệnh ǵ cũng có thể cứu được, có thể cải tử hồi sinh, "buồn giận thành hoan hỷ, người chết trở lại sống, nếu nói đó là hư, chư Phật là nói dối." Chúng ta, tất cả mọi người hăy nên quy mạng về Ngài Quán Thế Âm đặng Ngài cứu độ cho nạn diệt vong này của nhân loại.

Hàng long bát, giải hổ tích,

Lưỡng cổ kim hoàn minh lịch lịch.

Bất thị tiêu h́nh hư sự tŕ,

Như Lai bảo trượng thân tung tích.

Dịch:

Bát thâu rồng, gậy giải cọp,

Hai dăy khoen vàng khua lảnh lót.

Phải đâu hư sự giữ làm v́,

Gậy báu Như Lai dấu tự ghi.

Hàng long bát: Cái bát của người xuất gia gọi là "ứng lượng khí," có nghĩa rằng ḿnh ăn được chừng nào th́ bát chứa chừng đó, lấy đồ ăn cho vừa, không lấy quá nhiều, chỉ vừa đủ ăn mà thôi. Tuy nhiên, cái bát này không phải chỉ có công dụng chứa phần ăn mà nó c̣n là một vật báu, có khả năng hàng thiên ma, chế phục ngoại đạo, có khả năng chứa gọn cả tam thiên đại thiên thế giới, cho nên từ xưa, bát này đă được dùng để thâu rồng, để trị bệnh, dụng ích của nó là vô cùng tận.

Rồng là một loại chúng sanh ẩn hiện khôn lường, lại có thần thông và rồng dữ c̣n có thể hại người. Rồng mà phun hơi độc th́ người nào bị trúng sẽ chết. Thật ra, thế nào là rồng? Tánh t́nh của người ta cũng giống như một con rồng. Như chúng ta luôn giữ tánh nết ôn ḥa, không để cho tánh t́nh phát tác, tức là đă hàng phục được con rồng của ta. Thất t́nh nổi lên, lúc có lúc không, bảo nó có th́ nó có, bảo nó không, th́ nó không, hốt nhiên đến, hốt nhiên đi, chẳng ghi lại tung tích dấu vết ǵ, cho nên ví nó như con rồng vậy.

Giải hổ tích: Tích là cây tích trượng, mà người xuất gia thường dùng khi đi hành cước. Cây gậy này có hai cái ṿng, tượng trưng cho chân đếtục đế. Mỗi ṿng lại có ba cái khoen, hai ṿng thành sáu khoen, tượng trưng cho lục độ vạn hạnh. Năm xưa, một vị cổ đức dùng tích trượng rẽ đôi một cặp hổ đương khi chúng đấu với nhau kịch liệt. Đời sau người ta kêu tích trượng là cây gậy giải cọp.

Lưỡng cổ kim hoàn minh lịch lịch: Thật là rơ ràng, hai cái ṿng khua lên, lảnh lót. Nói như vậy e rằng chấp tướng chăng? Thực ra là:

Bất thị tiêu h́nh hư sự tŕ: Không phải vậy.

Như Lai bảo trượng thân tung tích: Đây là cây gậy báu của Phật, do Phật trao tay cho đệ tử, nên nó được coi như pháp bảo. Người xuất gia có ba tấm y, một cái bát, là những vật bất ly thân, lại thêm cây tích trượng, đều là những pháp bảo trong đời tu hành. Tỳ-kheo th́ phải cho đúng kiểu cách của tỳ-kheo; tỳ-kheo ni cũng phải theo đúng kiểu cách của tỳ-kheo ni. Đă là người xuất gia th́ phải thực sự giữ đúng quy củ, chớ không thể bạ đâu làm đó, theo lối tùy tiện. Người ta nói: "Ba ngàn uy nghi, tám vạn tế hạnh" cho nên đó là những điều chúng ta phải đặc biệt chú ư.

Bất cầu chân, bất đoạn vọng,

Liễu tri nhị pháp không, vô tướng.

Vô tướng, vô không vô bất không.

Tức thị Như Lai chân thực tướng.

Dịch:

Không cầu chân chẳng dứt vọng,

Mới hay chân vọng không, chẳng tướng.

Chẳng tướng, chẳng không không chẳng không,

Ấy mới Như Lai chân thật tướng.

Bất cầu chân, bất đoạn vọng: Tại sao vậy? Bởi v́ khi đă tới được gốc th́ đâu cần quan tâm đến ngọn nữa. Trong một đoạn văn nói trước đây, đại ư của chỗ này đă được giảng rơ. "Như tịnh lưu ly hàm bảo nguyệt," là nói một b́nh bằng lưu ly trong sáng ở trong th́ chứa một vừng trăng. Tất cả phát ra ánh sáng long lanh. "Kư năng giải thử như ư châu," là nói nếu chúng ta hiểu thấu đáo hạt châu như ư "tự lợi lợi tha chung bất kiệt," ta đă có lợi, lại c̣n lợi ích cả cho người khác, lợi ḿnh, lợi người, lợi không bao giờ hết, dùng hoài không bao giờ cùng tận.

Thế nào gọi là gốc? Gốc là chỉ vấn đề sanh tử, vô minh; tới gốc là phá được vô minh, sanh tử. Phá xong vô minh là tới gốc, và khi đă tới gốc th́ vấn đề ngọn ngành rất dễ giải quyết. Do ư nghĩa này nên mới có câu "không cầu chân, không đoạn vọng." Thực vậy, c̣n có cái chân nào phải cầu nữa đâu, v́ một khi đă đạt tới cảnh giới không có cái mê lầm nào mà chẳng dứt, không có cái chân nào mà không tồn tại, th́ đâu c̣n nói tới vọng, tất cả đều nhất loạt chân, ngay đến danh nghĩa của chân cũng không vướng nữa.

Liễu tri nhị pháp không vô tướng: Bởi v́ khi đă đạt được cái lư "chân" là vô tướng, th́ "giả"?361;ng không có h́nh tướng, chân vọng đều không h́nh tướng, có và không cũng không h́nh tướng. Bởi v́ tự tánh ví như hư không, nên chân cũng như vọng cũng là hư không. Nếu quả quí vị chẳng c̣n sự mê hoặc, cái vọng tự nhiên sẽ không c̣n; nếu quí vị đă minh bạch th́ chân cũng chẳng hiển hiện, do đó mới nói: "bất cầu chân, bất đoạn vọng, liễu tri nhị pháp không vô tướng."

Vô tướng vô không vô bất không: Chẳng tướng, cũng chẳng không, chẳng một h́nh tướng ǵ th́ sao lại nói là có cái không? "Vô bất không" đây là nói về chân không. Chân không tức là Diệu hữu. Chân không là chẳng không, bởi vậy mới gọi là Chân không; Diệu hữu là không hữu, nên mới kêu là Diệu hữu.

Tức thị Như Lai chân thực tướng: Đây tức là lư thể của thực tướng, là của sự rốt ráo chẳng chấp trước, tất cả mọi thứ chấp trước đều bị phá. Đó là đại ư của đoạn văn này.

Tâm kính minh, giám vô ngại,

Quách nhiên oanh triệt châu sa giới.

Vạn tượng sum la ảnh hiện trung,

Nhất lỏa viên quang phi nội ngoại.

Dịch:

Gương tâm sáng soi chẳng ngại,

Suốt thông chiếu khắp hằng sa giới.

Muôn tượng um tùm ảnh hiện trong,

Một điểm viên quang không nội ngoại.

Tâm kính minh: Tâm của chúng ta là trí huệ đại viên kính – đại viên kính trí – và nếu quí vị tới được chỗ này, chứng được trí huệ này th́:

Quách nhiên oanh triệt châu sa giới: "Quách nhiên" vừa có ư nghĩa to lớn, vừa có nghĩa là ánh sáng. "Oanh triệt" là trong suốt long lanh, trong chiếu ra ngoài, ngoài chiếu vào trong, không bị ngăn ngại. "Châu sa giới" là cùng khắp pháp giới, không chỗ nào là không tới.

Vạn tượng sum la ảnh hiện trung: Mọi hiện tượng trong trời đất, mọi vật từ nhà cửa pḥng ốc v.v.. đều hiện ra h́nh ảnh ở bên trong.

Nhất lỏa viên quang phi nội ngoại: Điểm viên quang đó là của hạt ngọc như ư. Nếu quả quí vị giải được hạt châu như ư, thấu được chân nghĩa của nó th́ "lợi ḿnh, lợi người, không thể dùng cho hết." Hạt châu như ư sẽ tỏa ra ánh sáng, ánh sáng này chẳng phải ở trong, mà cũng chẳng phải ở ngoài. Đó là ánh sáng của tự tánh, của chính quí vị, có điều lâu nay quí vị không biết xử dụng nên nó bị mai một từ lâu rồi. Bây giờ quí vị mới hiểu, mới rơ, quí vị đă chứng được đại viên kính trí, cái điểm viên quang đó, do đó mới nói "một điểm viên quang không nội ngoại."

Người nghiên cứu Phật pháp, cần phải dụng công lâu dài, ngày ngày tham cứu, không ngưng nghỉ, ngày ngày huân tập giáo lư, giống như phương cách ngâm tẩm hay xông khói hương của người đời. Thí dụ dùng khói để xông một vật ǵ chẳng hạn, một ngày chưa thấy ǵ, hai ngày cũng chưa được ǵ, nhưng lâu dần sẽ thấy màu vàng xuất hiện, tức là vật đó đă bị ướp khói. Cũng như thế, một vật nguyên rất cứng, nhưng đem ngâm lâu ngày trong nước, nó cũng biến thành mềm. Con người bổn tánh cương cường, nhưng một khi được huân tập giáo lư Phật pháp, cũng được biến cải, thành hai bên cương nhu giao ḥa với nhau. Như quí vị vốn chẳng biết một pháp ǵ, nhưng sau một thời gian huân tập giáo lư, quí vị cũng sẽ thông hiểu Phật pháp.

Chúng ta chớ nên mắc cái tật quá hiếu kỳ. Hiếu kỳ quá đáng có thể dẫn chúng ta tới chỗ té ngă, rơi xuống hố sâu không ra khỏi được. Như mấy người ưa thám hiểm, không chỗ nào là không tới, đến nỗi có khi uổng mạng, mà uổng mạng th́ c̣n giá trị ǵ? Chẳng phải lúc nào cũng đáng giá! Bởi vậy chúng ta phải luôn luôn có chánh tín, để tránh những lối đi ngơ ngách, những lối hắc ám. Ham cái mới, chuộng cái lạ cũng là bệnh chung của các tín đồ Phật giáo, để cuối cùng chẳng thâu lượm được kết quả ǵ, khiến uổng phí cả thời gian, đáng tiếc biết bao. Thường thường quí vị cứ nghĩ rằng quí vị chẳng có thời gian cho Phật pháp, nhưng sao quí vị lại có thời gian để chạy tới chỗ của bàng môn tả đạo. Như vậy rất dễ bị trúng tà độc, hiện tại chúng đầy rẫy khắp mọi nơi làm cho quí vị bị mê hoặc, để rồi tương lai quí vị cũng biến thành quyến thuộc của ma, gây thêm thanh thế cho ma vương. Bởi vậy quí vị Phật tử, có ḷng chánh tín, không nên ngă theo đường lệch lạc, chớ theo lối tiểu xảo đầu cơ, mà phải chất phác thật thà học hỏi Phật pháp. Đó mới chính là kỷ phận của chúng ta.

Khoát đạt không, bát nhân quả,

Mảng mảng đăng đăng chiêu ương họa.

Khí hữu trước không bệnh diệc nhiên,

Hoàn như tỵ nịch nhi đầu hỏa.

Dịch:

Đắm ngoan không, phá nhân quả,

Bừa băi, rối ren càng thêm họa.

Bỏ?243;, níu không, bệnh vẫn nguyên,

Khác nào trốn nước sa vào lửa.

Khoát đạt không: Trong đời có một loại người không tin vào chân lư, cũng không tin nhân quả. Luận điệu của họ là hết thảy mọi sự đều không, họ cho rằng con người khi mạng chung giống như ngọn đèn sau khi tắt, chẳng c̣n ǵ lưu lại. Đối với họ tất cả mọi thứ đều trở về không, do đó mới nói câu "khoát đạt không."

Bát nhân quả: Ư nói gạt bỏ nhân quả. những người này không tin rằng trong đời hễ gieo nhân lành th́ gặt quả lành, gieo nhân ác th́ gặt quả xấu, họ không tin vào chân lư đó. Họ chủ trương chẳng có nhân quả, chẳng có báo ứng, họ nhất loạt chối bỏ đạo lư nhân quả và báo ứng. Tuy nhiên, nhân quả và báo ứng chính là lẽ thật, làm sao mà chối bỏ được. Do đó họ là những kẻ hoàn toàn thiếu sự hiểu biết, họ biến thành những kẻ thô lỗ.

Mảng mảng đăng đăng chiêu ương họa: Mảng mảng nghĩa là lỗ măng, thô tục, không hiểu biết ǵ hết; đăng đăng nghĩa là chẳng có quy củ. C̣n tệ hại hơn nữa là chẳng những không giữ một phép tắc nào, lại c̣n v́ gạt bỏ nhân quả nên những hạng người này đă làm sai quấy với nhân quả. Họ ắt gặp tai ương, hoạn nạn, gây nên bao nhiêu là nghiệp tội mà chính họ chẳng hay.

Khí hữu trước không bệnh diệc nhiên: Tại sao lại "khí hữu," tức là bỏ cái "có"? Bởi v́ một khi đă cho rằng mọi sự đều không, chấp vào cái "không," cái ǵ cũng trở về không, th́ căn bệnh này cũng giống như "bát nhân quả" vậy. Chấp "không," chấp "có" đều là thiên lệch, để rơi vào "nhị biên" tức chẳng phải là Trung đạo Liễu nghĩa.

Trung đạo Liễu nghĩa là chẳng không mà chẳng có. Bảo là không, nhưng nó có Diệu Hữu; bảo là có, th́ nó lại là Chân Không. Bởi vậy, Chân Không và Diệu Hữu không hề chướng ngại với nhau.

Chân Không chẳng phải là cái không, v́ c̣n có Diệu Hữu, nhưng Diệu Hữu cũng chẳng phải là cái có. Nó có một phần có, nhưng nó lại không phải là hoàn toàn có, bởi v́ nó cũng là cái phi hữu, cho nên mới gọi là Chân Không, tức là hai mà chẳng phải hai.

Chân Không chẳng phải nhất định là không, cho nên kêu là Diệu Hữu; Diệu Hữu chẳng phải nhất định có, cho nên kêu là Chân Không. Nếu quí vị bỏ cái Diệu Hữu mà chấp cái Chân Không, là sai lầm, cho nên mới có câu: "khí hữu trước không bệnh diệc nhiên," tức là nếu quí vị chấp vào lư không, th́ cũng mắc tệ bệnh giống như bỏ cái có vậy.

Hoàn như tỵ nịch nhi đầu hỏa: Sự việc này giống như thế nào? Giống như khi quí vị tránh nước v́ sợ bị chết đuối, quí vị lại đâm đầu vào chỗ có lửa. Lửa cũng là một tai nạn, khiến quí vị có thể chết v́ lửa, đâu có khác ǵ quí vị chết v́ nước? Bỏ có chấp không cũng giống như vậy, giống như người tránh nước mà nhảy vào lửa.

Xả vọng tâm, thủ chân lư,

Thủ xả chi tâm thành xảo ngụy.

Học nhân bất liễu dụng tu hành,

Chân thành nhận tặc tương vi tử.

Dịch:

Buông vọng tâm, giữ chân lư,

Buông giữ tâm hoàn tâm xảo ngụy.

Đạo nhân chẳng rơ dốc ḷng tu,

Chân thành nhận giặc làm con quư.

Chúng ta là người tu đạo, nếu không biết dụng công, sẽ là những kẻ chấp trước rất nặng. Lỗi chấp trước nặng đó gọi là "trên đầu lại mọc thêm đầu, cưỡi lừa mà c̣n kiếm lừa." Bởi hồ đồ, không giản trạch, cứ nghĩ rằng phải:

Xả vọng tâm: Nghĩa là không nên có tâm vọng tưởng, mà phải mang những tâm đó xả bỏ đi. Kỳ thực, tâm vọng tưởng chỉ là hư dối, chẳng phải là cái này hay cái kia để có thể mang ra vứt bỏ. Chỉ cần chúng ta chẳng vọng tưởng là xong, đâu c̣n phải xả cái ǵ nữa?

Thủ chân lư: Chân lư chẳng phải ở đâu bên ngoài, để chúng ta kiếm. Nó ở ngay trong tự tánh. Nếu hết vọng tưởng, chân lư sẽ hiện ra. Nếu không hàng phục được tâm vọng tưởng, không chịu buông bỏ, lại chấp trước vào nó, tưởng là kiếm chân lư! Chân lư chẳng phải ở bên ngoài để kiếm, nó sẵn có trong tất cả mọi người, chẳng ai là không có, cho nên chúng ta chẳng cần phải "thủ," cũng chẳng cần phải "xả." Xả nghĩa là buông bỏ, thủ là giữ lại. Không cần nó là chấp tướng, mà giữ nó lại cũng là chấp tướng. Chân lư th́ không có h́nh tướng, vậy làm sao chúng ta có thể mang cái tâm thủ xả này để tu hành được? Cũng v́ lẽ đó, trong đoạn mở đầu của bài ca này có câu: "Bất cầu chân, bất đoạn vọng." Chẳng cầu chân, chẳng dứt hết vọng; nếu lại có chỗ để cầu, th́ chẳng kiếm ra chân; nếu muốn dứt th́ hóa ra vọng. Đó là ư nghĩa của "xả vọng tâm, thủ chân lư."

Thủ xả chi tâm thành xảo ngụy: Cũng v́ có tâm thủ xả mà thành ra xảo ngụy. Nghĩa của xảo là trí huệ, mà ngụy là ngu si. Như vậy có trí huệ nhưng chưa phải là trí huệ chân chánh. Trí huệ chân chánh là "vô trí diệc vô đắc," tức là chẳng có trí huệ mà cũng chẳng có cái được, nó là không h́nh tướng. Bởi vậy nếu chúng ta mang cái ư tưởng bỏ hay giữ; tức là trên đầu lại muốn mọc thêm đầu, cưỡi trên lưng lừa mà c̣n kiếm lừa. Chân lư chính là bổn địa phong quang, là của báu trong nhà, chẳng ở đâu bên ngoài để nhọc công t́m kiếm. Bởi vậy, bỏ và giữ là xảo ngụy, v́ lẽ, bỏ và giữ chính là vừa trí huệ vừa ngu si.

Học nhân bất liễu dụng tu hành: Học nhân là nói người tu đạo, từ sáng đến tối, nếu chỉ nhằm việc xả vọng tưởng, giữ chân lư, dụng công như vậy th́:

Chân thành nhận tặc tương vi tử: Chẳng khác ǵ nhận giặc làm con của ḿnh. Nếu quả quí vị cứ một mực xả vọng tưởng, tức có nghĩa rằng quí vị có một tên giặc phải dứt bỏ. Trong cái vọng lại sinh thêm một cái vọng.

C̣n như "giữ chân lư," th́ chân lư chẳng có h́nh tướng, chẳng có ǵ để quí vị giữ, cũng chẳng có ǵ để quí vị xả. Quí vị chẳng hiểu rơ đạo lư này nên mắc phải cái lầm "cưỡi lừa mà kiếm lừa"- con lừa mà quí vị đương cưỡi trên lưng, vậy quí vị c̣n kiếm nó làm ǵ nữa? Trên đầu lại đội thêm đầu - quí vị đă có một cái đầu, vậy mà thấy chưa đủ muốn kiếm thêm một cái đầu nữa đội lên, thử hỏi đó là nghĩa ǵ? Chẳng phải là yêu quái hay sao? Người tu đạo không hội được nghĩa này th́ chẳng bao giờ có thể hợp nhất với đạo. Quí vị tại đây nên nghiên cứu rơ ư nghĩa này. Học Phật pháp, cũng phải học một cách thông minh, trí huệ, chớ không thể càng học càng ngu si thêm. Học như thế nào mới gọi là học có trí huệ? Nghĩa là, hễ làm bất cứ chuyện ǵ, cũng phải theo đúng phép tắc, thực ḷng mà làm, chớ không nên học lối thừa cơ dối trá, tranh phần tiện nghi cho riêng ḿnh. Làm như vậy tức không phải là đệ tử chân chánh của Phật, mà chỉ là mượn danh nghĩa đạo lư, để kiếm lợi, để quảng cáo cho ḿnh mưu cầu danh dự và địa vị. Như vậy là sai.

Tổn pháp tài, diệt công đức,

Mạc bất do tư tâm ư thức.

Thị dĩ thiền môn liễu khước tâm,

Đốn nhập vô sanh tri kiến lực.

Dịch:

Tốn pháp tài, dứt công đức,

Chỉ v́ điên đảo theo vọng thức.

Cho nên thiền pháp dạy không tâm,

Thoắt chứng vô sanh, sáng trí Phật.

Như đoạn trên nói: "Xả vọng tâm, thủ chân lư, thủ xả chi tâm thành xảo ngụy. Học nhân bất liễu dụng tu hành, chân thành nhận tặc tương vi tử," chúng ta thường mắc phải một khuyết điểm, là nếu không thái quá, th́ lại bất cập. Thái quá và bất cập đều là khuyết điểm. Chúng ta tu học không thể lấy cái tâm vọng tưởng để tu, mà phải dùng cái tâm trong sáng cố hữu của ḿnh. Tâm cố hữu đó không thể nghĩ bàn, không chỗ nào là không biết, mà chẳng dùng tới sự ức đoán, đo đạc hay suy tưởng. Có điều mọi người không biết cách dụng công, chỉ biết lấy cái tâm huyết nhục, cái tâm suy đoán, đắn đo, để tu hành Phật pháp. Dùng các loại tâm ấy, các thức phân biệt ấy, tức là dùng sai lầm tâm ư thức, nên không thể trở về với bổn tâm sáng suốt của ḿnh, đó gọi là dụng tâm sai lầm.

Tổn pháp tài: Như vậy th́ chân pháp sẽ không hiển lộ, nó bị tổn thương.

Diệt công đức: Quí vị tận dụng tâm ư thức để làm công đức, tưởng ḿnh có chỗ sở đắc, nắm bắt được cái ǵ, thực ra đó là chấp trước.

Mạc bất do tư tâm ư thức: Người tu đạo không hiểu ư nghĩa này, chỉ biết mang cái tâm (vọng thức) ra hạ thủ công phu, mang ư và cái thức phân biệt ra hạ thủ công phu, người đó gọi là "học nhân bất liễu dụng tu hành." V́ không hiểu đạo nên lấy tâm, ư, thức làm công cụ để tu hành, tức là có sự chấp trước, do đó, họ càng tu th́ lại càng xa với đạo.

Thị dĩ thiền môn liễu khước tâm: V́ lư do này, thiền môn mới chủ trương "liễu khước tâm." Liễu khước tâm nghĩa là không dùng tâm, ư, thức như trong câu nói: "Đàm đáo vô tâm tiện thị đạo" (nói đến không tâm đó là đạo). Không tâm, không ư, không thức; tâm, ư, thức đều không. Trong câu "liễu khước tâm" nói trên th́ chữ "tâm" bao gồm cả ba chữ tâm, ư và thức.

Đốn nhập vô sanh tri kiến lực: Tới chỗ đó quí vị sẽ chứng được vô sanh pháp nhẫn và trí huệ lớn hiện bày. Trí huệ của quí vị đă tới mức viên dung vô ngại, quí vị đă thành một đại trượng phu.

Đại trượng phu, bỉnh huệ kiếm,

Bát nhă phong hề kim cang diệm.

Phi đản không thôi ngoại đạo tâm,

Tảo hội lạc khước thiên ma đởm.

Dịch:

Đại trượng phu cầm kiếm huệ,

Ánh bát nhă hề kim cương lóe.

Đă hay ngoại đạo bạt tâm mê,

Lại khiến thiên ma lùi khiếp vía.

Đại trượng phu: Thế nào gọi là đại trượng phu? Thầy Mạnh-tử giảng về đại trượng phu như thế nào? "Phú quư bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất," ai theo được như vậy th́ gọi là đại trượng phu.

"Phú quư bất năng dâm" nghĩa là giàu sang mà không dâm... Người giàu có, lắm tiền bạc, thế lực lớn, thường chẳng biết giữ phép tắc, không chịu kiểm soát hành vi của ḿnh, hóa thành dâm loạn. Tuy nhiên, nếu quí vị cũng ở trong hoàn cảnh giàu sang, mà không có hành vi dâm loạn, biết giữ quy củ, chất phác thực thà, th́ quí vị không vi phạm luật pháp của thế gian, chẳng phạm tới luật pháp của cơi trời, cũng chẳng phạm vào luật pháp của địa ngục. Đó là phú quư bất năng dâm.

"Bần tiện bất năng di" nghĩa là nghèo hèn mà không đổi. Người ta khi nghèo khó th́ mất cả chí khí, chẳng từ một thủ đoạn nào, cốt sao mánh lới cho tinh khôn; đối với người giàu th́ nịnh hót, kẻ nghèo th́ khinh khi, làm những hành vi hạ tiện. Tuy nhiên, nếu quí vị nghèo nhưng chí nguyện của quí vị không đổi, quí vị xử sự với đời như một chính nhân quân tử, quang minh lỗi lạc, giữ đúng nhân cách tuyệt vời, đầy đủ chí khí, không chịu đi vào chỗ bùn nhơ. Đó là bần tiện bất năng di.

"Uy vũ bất năng khuất" nghĩa là uy vũ không khuất phục được. Uy vũ tức là dùng thế lực. Không chịu cúi đầu tù?hục trước bất cứ một thế lực nào, một quyền lực nào, người đó là đại trượng phu.

Trên đây là nói về người đại trượng phu trong thế gian. Trong bài ca, danh từ này dùng để chỉ bậc đại trượng phu xuất thế gian. Trong tâm của đại trượng phu xuất thế th́ chẳng có giàu sang, mà cũng chẳng có nghèo hèn, chẳng có quan niệm về giai cấp, về quyền lực; quan niệm về ḿnh về người cũng chẳng c̣n nữa; trong tâm chẳng c̣n ǵ, quan niệm về uy vũ chẳng có, những chuyện thế gian đă được gội sạch, chỉ c̣n lại là cái phong thái đội trời đạp đất, thông suốt thiên địa, trong cái hào khí triền miên, và cái thái độ chính đại quang minh đầy ắp vũ trụ. Mọi ư niệm phải trái của người với của ta đă im bặt, những chuyện dính mắc thuộc loại này không c̣n nữa. Vậy th́ người đó c̣n sự hiểu biết chăng? C̣n hiểu biết. Cái ǵ cũng hiểu biết cả có điều là họ không đi ngược lại đạo lư. Những bậc đại trượng phu ấy, họ nhờ vào cái ǵ vậy mà có thể "giàu sang không dâm, nghèo hèn không đổi, quyền uy không thể khuất phục"? Bởi trong tâm của họ không c̣n cặn bă, không có thứ ǵ làm vẩn đục tâm của họ.

Bỉnh huệ kiếm: Bậc đại trượng phu đă dứt mọi thứ t́nh ái, chẳng c̣n đa mang lôi thôi. Tại sao vậy? Bởi v́ thanh kiếm trí huệ của vị này đă chặt hết mọi thứ dây ràng buộc, nên thất t́nh lục dục chẳng c̣n nẩy sinh và các món tài, sắc, danh, thực, thùy không c̣n lôi cuốn được nữa.

Bát nhă phong hề kim cang diệm: Trí huệ bát nhă có thể ví như mũi nhọn (phong) vô cùng sắc bén, có thể chém đinh chặt đá, cắt thép như bùn, như vậy mới có thể chặt hết các dây t́nh ái của thế gian, những thứ ǵ là ô tạp đều bị nhát kiếm trí huệ dẹp sạch. V́ hắc ám bị phá tan, do đó ngọn lửa kim cương liền xuất hiện và phát ra ánh sáng trí huệ. Quí vị xem! Có người thật là thông minh, nhưng tiếc là họ quá dụng tâm, để cho mặt mũi xạm đi, tóc bạc, lưng c̣ng, đầu không ngửng được lên nữa. Đó là v́ họ đă lấy tâm, ư, thức này ra để dụng công. Đại trượng phu đâu phải như vậy.

Phi đản không thôi ngoại đạo tâm: Nghĩa là không những tà khí của ngoại đạo bị dẹp tan, mà:

Tảo hội lạc khước thiên ma đởm: Mà số thiên ma cũng sớm bị khiếp vía, hăi sợ đến dựng tóc gáy. Đây là nói về những bậc đă thực sự chứng quả, đă thành tựu đạo nghiệp. Họ mới là những bậc xuất chúng, vượt lên trên kẻ b́nh phàm, họ thực là những nam tử đại trượng phu, chớ không phải là những hạng miệng nói th́ hay mà thực tế th́ chẳng làm được ǵ, chỉ biết nói thiền ở cửa miệng, như vậy không thể thành bậc đại trượng phu.

Cái hay của bài "Chứng Đạo Ca" là nếu quí vị học cho thuộc bài này, mỗi lúc gặp chuyện ǵ âu sầu phiền năo, quí vị đọc lên sẽ thấy phiền năo tiêu tán, và thân tâm biến thành sảng khoái, vui tươi. Có thể mỗi ngày tụng vài lần, chắc chắn thọ mạng của quí vị sẽ dài hơn, thân thể sẽ khang kiện hơn.

Chấn pháp lôi, kích pháp cổ,

Bố từ vân hề, sái cam lồ.

Long tượng xúc đạp nhuận vô biên,

Tam thừa ngũ tánh giai tỉnh ngộ.

Tuyết sơn ph́ nhị cánh vô tạp,

Thuần xuất đề hồ ngă thường nạp.

Dịch:

Nổi pháp lôi gióng pháp cổ,

Bủa mây từ hề, rưới cam lồ.

Voi rồng dẫm bước nhuận ân sâu,

Năm tánh ba thừa đều tỉnh ngộ.

Cỏ ph́-nhị đơm ṛng đỉnh Tuyết,

Vị đề-hồ ta từng nếm biết.

Chấn pháp lôi, kích pháp cổ: Đây chẳng qua là tỷ dụ. Chẳng phải là tiếng sấm hay tiếng sét thực. Ư nói lời Phật thuyết pháp có thể so sánh như tiếng rống của sư tử, hay âm thanh của sấm sét. Chúng sanh đương mê man trong giấc mộng, nghe được tiếng sấm sét, bèn tỉnh giấc, bỏ tà theo chánh, đó là ư của câu: "Nổi pháp lôi, gióng pháp cổ."

Bố từ vân hề, sái cam lồ: "Bố" là phân bố, rải rộng ra. Rải rộng đám mây pháp từ bi, rưới xuống trận mưa pháp cam lồ, khiến cho chúng sanh, như các cây khô héo, được hưởng mưa pháp trở thành mát mẻ tươi nhuận, để từ đó mà phục hồi được pháp thân và huệ mạng.

Long tượng xúc đạp nhuận vô biên: Lúc đó các hàng long tượng trong pháp môn, gặp mưa pháp, họ càng được thấm nhuần gấp bội. Các bậc long tượng này lại mang pháp âm, pháp vũ hiển dương, khiến cho hết thảy chúng sanh được giác ngộ, cho nên nói:

Tam thừa ngũ tánh giai tỉnh ngộ: "Tam thừa" là chỉ Thanh văn, Duyên giác, và Bồ-tát; Ngũ tánh là chỉ năm loại tánh: Thiện, ác, định, bất định, xiển đề. Năm loại này là bao quát hết các căn tánh của chúng sanh, từ hạng thượng căn lợi trí, tới hạng hạ căn ngu độn. Hết thảy chúng sanh đều được thấm nhuần mưa pháp.

Tuyết sơn ph́ nhị cánh vô tạp: Trên đỉnh Tuyết Sơn có một loại cỏ rất mầu mỡ. Con bạch ngưu ăn cỏ này sẽ cho một thứ sữa tinh thuần (đề hồ), nuôi dưỡng chúng sanh. Vậy là tất cả được thấm nhuần tươi mát. Bởi vậy có câu sau:

Thuần xuất đề hồ ngă thường nạp: Đại sư Vĩnh-Gia cho hay Ngài thường uống sữa cam lồ đó, biết hiệu dụng của nó như thế nào. Bởi vậy Ngài cũng hy vọng, các chúng sanh đều được thọ hưởng cam lồ, đặng có thể bỏ bến mê quay về giác ngộ, ĺa khổ được vui, liễu sanh thoát tử, khỏi phải ch́m nổi trong cảnh luân hồi.

Nhất tánh viên thông, nhất thiết tánh,

Nhất pháp biến hàm nhất thiết pháp.

Nhất nguyệt phổ hiện nhất thiết thủy,

Nhất thiết thủy nguyệt nhất nguyệt nhiếp.

Dịch:

Một tánh viên thông muôn tánh hệt,

Một pháp bao gồm muôn pháp hết.

Một trăng hiện khắp tất cả nước,

Tất cả trăng nước một trăng nhiếp.

Nhất tánh viên thông, nhất thiết tánh: "Nhất tánh" là chỉ Phật tánh; "Nhất thiết tánh" là chỉ chúng sanh tánh. Phật tánh và chúng sanh tánh vốn không phân biệt; Phật tánh là chúng sanh tánh; chúng sanh tánh là Phật tánh. Hai mà không phải hai, một mà chẳng phải một; cũng là một, cũng là hai, chẳng phải một chẳng phải hai. Nếu quí vị hiểu rơ th́ đó là một; bằng không hiểu th́ đó là hai; hiểu rơ không hiểu rơ, th́ cũng chẳng phải một, cũng chẳng phải hai. Viên thông tức viên dung vô ngại, viên măn bồ đề. Nhất tánh, tại Phật chẳng tăng, tại phàm chẳng giảm, bổn lai chẳng thiếu chẳng thừa, chẳng phải hơn một chút hay kém một chút, cho nên viên thông hết thảy mọi tánh.

Nhất pháp biến hàm nhất thiết pháp: Pháp của Phật có tám vạn bốn ngàn loại. Mỗi một pháp trong đó thông suốt cả tám vạn ba ngàn chín trăm chín mươi chín pháp kia. Toàn bộ các pháp đều dung thông với nhau, không một pháp nào ly khai. Nói là tám vạn bốn ngàn pháp nhưng kỳ thực chỉ là một, mà truy cứu nữa th́ bổn lai một pháp cũng chẳng có, cho nên nói "một pháp bao gồm muôn pháp hết."

Nhất nguyệt phổ hiện nhất thiết thủy: Đúng là:

Thiên đàm hữu thủy thiên đàm nguyệt,

Vạn lư vô vân vạn lư thiên.

Nghĩa là:

Muôn đầm nước hiện muôn h́nh nguyệt,

Vạn dặm không mây vạn dặm trời.

Như có một ngàn cái hồ nước tức sẽ hiện lên một ngàn mặt trăng. Vậy th́ bản thể của trăng có tới một ngàn mặt trăng ư? Không phải vậy. Đó là nghĩa "một tánh viên thông hết mọi tánh."

Vừng trăng kia chính là chân như Phật tánh của chúng ta. Vừng trăng hiện ra tại hết thảy mọi nơi có nước và hết thảy các mặt nước có thể ví như chúng sanh tánh. Chúng sanh tánh chẳng ly Phật tánh, Phật tánh chẳng ly chúng sanh tánh. Người giác ngộ là Phật, người mê là chúng sanh.

Trong chúng ta, người này tham, người kia tham; người này cầu, người kia cầu; trong thấy vật dụng ǵ th́ nổi ḷng tự tư, thấy tiền bạc nổi ḷng tự lợi, từ đó sanh ra thói nói dối như vậy là mê, mê là chúng sanh, giác ngộ là Phật. Thế nào là giác ngộ? H́nh tướng của giác ngộ giống như thế nào? Chẳng có h́nh tướng ǵ hết, giác ngộ là giác ngộ. Vậy không có ǵ biểu hiện sao? Có biểu hiện. Người giác ngộ là người có trí huệ, biết tận gốc các pháp, thấy rơ thực tướng các pháp, không bị một ngăn ngại nào. Phật tánh thường có tại các chúng sanh, mỗi chúng sanh có một Phật tánh, có điều chúng sanh chỉ xử dụng chúng sanh tánh mà không biết dùng tới Phật tánh. Có người nói: "Thưa Thầy, Thầy giảng tới giảng lui mà con vẫn không hiểu ǵ. Nói cho cùng thế nào là chúng sanh tánh thế nào là Phật tánh?" Vừa rồi, tôi đă trả lời câu hỏi này. Quí vị giác ngộ th́ Phật tánh hiện ra, quí vị mê lầm th́ đó là chúng sanh tánh, chỉ trong khoảnh khắc một niệm là biết, cho nên có câu trên "một trăng hiện khắp tất cả nước."

Nhất thiết thủy nguyệt nhất nguyệt nhiếp: Chẳng cứ nước nhiều hay ít, bao nhiêu ao hồ, bao nhiêu ng̣i lạch sông biển, đâu đâu cũng thấy trăng chiếu không bỏ sót.

Chư Phật pháp thân nhập ngă tánh,

Ngă tánh đồng cộng Như Lai hợp.

Nhất địa cụ túc nhất thiết địa,

Phi sắc phi tâm phi hành nghiệp.

Dịch:

Chư Pháp thân Phật vào tánh ta,

Tánh ta cùng với Như Lai hiệp.

Một địa gồm đủ tất cả địa,

Chẳng sắc chẳng tâm chẳng hạnh nghiệp.

Chư Phật pháp thân nhập ngă tánh: Pháp thân của chư Phật đă nhập vào chúng sanh tánh của ta.

Ngă tánh đồng cộng Như Lai hợp: Chúng sanh tánh của ta cùng với Phật tánh ḥa nhập làm một. Hai mà chẳng phải hai.

Nhất địa cụ túc nhất thiết địa: Nếu quí vị thấu hiểu đạo lư của một địa, tức th́ các địa khác, thứ nh́, thứ ba, thứ tư, đến thứ mười, quí vị đều hiểu thấu minh bạch. C̣n như nếu quí vị không có trí huệ của địa thứ nhất, th́ trí huệ của các địa khác cũng chẳng có. Hai câu: "Chư Phật pháp thân nhập ngă tánh, Ngă tánh đồng cộng Như Lai hợp" chứng tỏ ngài Vĩnh-Gia đă chứng được lư thể của Thập đẳng địa (địa thứ mười).

Phi sắc phi tâm phi hành nghiệp: Chẳng thuộc về sắc, chẳng thuộc về tâm, cũng chẳng thuộc về hành động do nghiệp tạo tác.

Đàn chỉ viên thành bát vạn môn,

Sát na diệt khước tam kỳ kiếp.

Nhất thiết số cú phi số cú,

Dữ ngô linh giác hà giao thiệp.

Dịch:

Búng tay, tám vạn pháp môn thành,

Nháy mắt rũ xong ba kỳ kiếp.

Tất cả văn tự chẳng văn tự,

Cùng linh giác ấy nào can dự.

Đàn chỉ viên thành bát vạn môn: Chỉ trong thời gian một búng tay đă thành tựu được viên măn cả tám vạn pháp môn, nhanh chóng như vậy đó. Chẳng qua, một khi ngộ là ngộ hết thảy, một khi xong là xong tất cả, một khi chứng là chứng cùng hết, một khi thông th́ tất cả thông suốt.

Sát na diệt khước tam kỳ kiếp: Chỉ trong công phu một sát-na có thể làm cho khoảng thời gian của ba đại a-tăng-kỳ kiếp mất tiêu.

Nhất thiết số cú phi số cú: Chẳng kể số của các danh tướng ngôn từ, bao nhiêu lư luận đi nữa cũng vậy, tất cả đều bị quét sạch. Cảnh giới này đúng là: "Mê thời thiên cú thiểu, ngộ hậu nhất tự đa" (khi mê ngàn câu cũng thấy ít, khi ngộ rồi, một chữ cũng thấy nhiều).

Dữ ngô linh giác hà giao thiệp: Các loại danh tướng, văn tự Bát-nhă này chẳng liên hệ ǵ tới linh giác sáng suốt của chúng ta. Văn tự Bát-nhă ghi nhớ cho thật nhiều cũng chẳng nói lên được điều ǵ.

Bất khả hủy, bất khả tán,

Thể nhược hư không vật nhai ngạn.

Bất ly đương xứ thường trạm nhiên,

Mịch tức tri quân bất khả kiến.

Thủ bất đắc, xả bất đắc,

Bất khả đắc trung chỉ ma đắc.

Dịch:

Không thể chê, không thể khen,

Như hư không ấy vốn vô biên.

T́m kiếm đă hay không thấy được,

Mà luôn trước mắt vẫn thường nhiên.

Lấy chẳng được, bỏ chẳng được,

Trong cái chẳng được cái ǵ được.

Bất khả hủy bất khả tán: Quí vị muốn tán thán pháp môn này chăng? Chẳng có ǵ hay để quí vị tán thán. Quí vị muốn chê nó chăng? Chẳng có ǵ là dở để quí vị chê. Bởi chưng gốc gác của nó chẳng có ǵ hết. Hăy nghe Lục-Tổ nói: "Bổn lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai."

Thể nhược hư không vật nhai ngạn: Thể tánh của nó như hư không, cho nên có câu:

"Tự tánh như hư không,

Chân vọng tại kỳ trung.

Ngộ triệt bổn lai thể,

Nhất không, nhất thiết không."

Vậy là nó không có ngằn mé. Vật chất có mặt ở đâu cũng đều là hư không. Hư không không bị hư hoại, bởi v́ nếu có ǵ hư hoại th́ đó không phải là hư không.

Bất ly đương xứ thường trạm nhiên: Chẳng cần phải kiếm nó ở đâu hết, quay đầu lại là có nó, nó ở ngay đây. "Trạm nhiên" trong nghĩa của trạm nhiên thường tịch, tức là trong sáng vắng lặng triền miên. Tới lúc đó quí vị sẽ trạm nhiên thường tịch, tịch nhưng không có chỗ tịch, không hết mọi thứ, không tới cực điểm. Thử hỏi như vậy dục vọng c̣n sanh khởi nữa không? Một khi niệm về dục chẳng c̣n, th́ tâm, ư, thức đâu c̣n làm chủ nhân ông được nữa.

Mịch tức tri quân bất khả kiến: Tuy nhiên, cảnh giới đó quí vị có thể kiếm ra được chăng? Quí vị không bao giờ có thể kiếm được, bởi nó chẳng hề mất. Thử hỏi quí vị đi tới đâu để kiếm nó? Bổn lai là nó, vậy quí vị c̣n kiếm cái ǵ nữa? Mà c̣n cái ǵ để quí vị kiếm? Cho nên tiếp theo có mấy câu sau: "Thủ bất đắc..."

 Thủ bất đắc: Quí vị muốn bắt giữ nó ư? Bắt chẳng được.

Xả bất đắc: Quí vị không muốn cái chân như Phật tánh đó, cũng chẳng được, bởi quí vị không có cách ǵ đem nó bố thí cho người khác.

Bất khả đắc trung chỉ ma đắc: Ngay trong cái bất khả đắc đó, ǵ cũng không đắc được.

Mặc thời thuyết, thuyết thời mặc,

Đại thí môn khai vô ủng tắc.

Hữu nhân vấn ngă giải hà tông,

Báo đạo Ma-ha Bát-nhă lực.

Dịch:

Im thời nói, nói thời im,

Cửa đại thí mở thông thông suốt.

Có người hỏi ta giải tông nào,

Xin thưa: Ma-ha Bát-nhă lực.

Mặc thời thuyết: Chúng ta thấy vị đó không nói pháp, thế nhưng người đương nói pháp ở đấy; chúng ta thấy người đương nói pháp, thực ra chưa hề nói pháp. Nói như vậy là nghĩa lư ǵ? Chính bởi lẽ nói pháp mà chẳng có pháp để nói, nghe pháp mà chẳng có pháp để nghe: Lại nữa, nói pháp th́ nói ở đâu, nghe pháp th́ nghe ở đâu, chính là thử xem quí vị có trí huệ hay không. Nếu có trí huệ th́ "thô ngôn cập tế ngữ, giai quy đệ nhất nghĩa" (lời nói dù thô hay tế đều quy về đệ nhất nghĩa); c̣n như quí vị chẳng có trí huệ th́ dầu có nói tới "vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ" quí vị cũng chẳng thấy có ǵ là hay, có khác chi chẳng nói pháp vậy.

Thuyết thời mặc: Trong định nói pháp, trong định chuyển pháp luân, là nghĩa của "thuyết thời mặc"; ra khỏi định chuyển pháp luân cũng là trí huệ ở trong định mà ra, cho nên lúc nói (thuyết thời) là lúc nín (mặc).

Đại thí môn khai vô ủng tắc: Người nói pháp v́ pháp mà quên ḿnh. Trong các loại bố thí cúng dường pháp là trên hết. Vị này ước nguyện dùng pháp làm vật cúng dường, lấy pháp làm vật bố thí, để thực hiện "vô duyên bố thí," "vô già" bố thí (bố thí b́nh đẳng), bố thí hoàn toàn không có tính cách phân biệt. "Vô ủng tắc" là nghĩa đối với chấp trước không hề vướng một chút nào, chẳng chấp vào sự việc ǵ. Chẳng phải v́ chấp vào đại chúng hoan hỷ, muốn nghe thuyết pháp, chẳng phải bởi đại chúng cúng dường ḿnh - cái này gọi là ḷng tham cầu lợi dưỡng - chẳng phải v́ có ư tưởng khách khí, nhún nhường, tóm lại chẳng phải do một cớ ǵ khác mà thuyết pháp. Như vậy mới gọi là đại thí môn khai vô ủng tắc. Do đó có câu: Tảo nhất thiết pháp, ly nhất thiết tướng (quét sạch mọi pháp, ly hết thảy mọi tướng).

Hữu nhân vấn ngă giải hà tông: Thản hoặc lúc ấy có ai tới hỏi: "Ông theo tông nào, phái nào vậy?

Báo đạo Ma-ha Bát-nhă lực: Câu trả lời là: " Đó là trí huệ Bát-nhă, do định mà sanh trí huệ này. 

Hoặc thị, hoặc phi nhân bất thức,

Nghịch hành thuận hành thiên mạc trắc.

Ngô tảo tằng kinh đa kiếp tu,

Bất thị đẳng nhàn tương cuống hoặc.

Dịch:

Làm ngược làm xuôi trời biết đâu,

Rằng phải rằng trái ai rơ được.

Ta sớm từng qua bao kiếp tu,

Nào dám sai ngoa lời dối mị.

Hoặc thị, hoặc phi nhân bất thức: Thản hoặc có người bảo như thế là đúng, hay bảo như thế là sai. Mặc ai muốn nói sao th́ nói, đúng cũng được mà sai cũng được, ḷng ta tự hiểu là đủ.

Nghịch hành thuận hành thiên mạc trắc: Người tu đạo chân chánh không chiều theo t́nh đời, có lúc th́ hành động thuận nhân t́nh, mà cũng có lúc không theo nhân t́nh. Người đời không hiểu, không thể suy đoán bởi v́ không cùng một tŕnh độ. Nói suy đoán th́: "Ngưỡng chi di cao, toản chi di kiên, chiêm chi tại tiền, hốt yên tại hậu," nghĩa là ngửa lên trông thấy càng cao, khoan vào th́ thấy càng cứng, nh́n th́ ở đàng trước, hốt nhiên lại thấy đàng sau, tóm lại cao sâu khôn lường. Quí vị ở đây nếu chưa có con mắt "trạch pháp," xin chớ bao giờ phẩm b́nh bậy bạ.

Ngô tảo tằng kinh đa kiếp tu: Ở đây Đại sư Vĩnh-Gia tự nhận ḿnh như sau: "Ta biết sự t́nh của ta như thế nào. Ta đă từng tu hành trong nhiều đời, nhiều kiếp, cho nên kiếp này chứng đạo ta mới hiểu rơ đạo nghĩa này."

Bất thị đẳng nhàn tương cuống hoặc: Chẳng phải giống như thông tục của người đời, quí vị khoác lác với tôi, tôi khoác lác với quí vị, quí vị tâng bốc tán tụng tôi, tôi tâng bốc tán tụng quí vị, cứ như vậy khoa trương với nhau.

Kiến pháp tràng, lập tông chỉ,

Minh minh Phật sắc Tào-khê lộ.

Đệ nhất Ca-diếp thủ truyền đăng,

Nhị thập bát đại Tây thiên kư.

Dịch:

Dựng pháp tràng, lập tông chỉ,

Rơ ràng tâm Phật ứng Tào-khê.

Thoạt tiên Ca-diếp đèn tâm truyền,

Hăm tám đời Tổ sư Tây Thiên.

Theo như đại ư câu này, th́ tín đồ của Phật giáo, là phải nổi pháp lôi, gióng pháp cổ và dựng pháp tràng.

Kiến pháp tràng: Dựng pháp tràng là thế nào? Pháp tràng là đạo tràng, dựng lên đạo tràng, như trong câu "kiến pháp tràng ư xứ xứ, phá nghi vơng ư trùng trùng," nghĩa là dựng pháp tràng khắp mọi nơi, phá mê lầm không kể xiết. Tới chỗ nào cũng tạo lập đạo tràng cho mọi người tu học. Pháp tràng là một thứ cờ để trang nghiêm đạo tràng tỷ dụ như phạm vơng tràng chẳng hạn, chỗ nào có đạo tràng là nơi đó có pháp tràng. V́ pháp mà lập đạo tràng, v́ đạo tràng nên phải dựng pháp tràng.

Lập tông chỉ: Tông chỉ là chủ ư quy về cái ǵ. Chúng ta th́ noi theo cái ǵ làm tông chỉ đây? Như tông chỉ của Vạn Phật Thành là "bất tranh, bất tham, bất cầu, bất tự tư, bất tự lợi, bất vọng ngữ." Liệu chúng ta có noi theo được mấy điều này chăng? Bây giờ th́ chưa theo được hoàn toàn. Chẳng nói ai khác, ngay đến hai vị mở đầu cuộc hành hương "tam bộ nhất bái" ở Los Angeles, cũng chưa theo được sáu tông chỉ đó một cách viên măn. Quí vị không tranh đua với người, nhưng lại tranh đua với chính quí vị; đối với người quí vị không tham, nhưng đối với chính quí vị lại tham; đối với người không cầu, đối với chính ḿnh lại cầu; đối với người không tự tư, đối với ḿnh lại tự tư; đối với người không tự lợi, đối với ḿnh lại tự lợi; đối với người không nói dối, đối với bản tâm ḿnh th́ nẩy sinh bao nhiêu là vọng tưởng hư dối. Vọng tưởng là có lúc quí vị nghĩ thế này, có lúc quí vị nghĩ thế khác; ba hồi quí vị nghĩ đến tu, ba hồi quí vị nghĩ không tu; ba hồi quí vị nghĩ tới tŕ giới, ba hồi quí vị chẳng nghĩ tới tŕ giới, đó là do ḷng quí vị bất định, quí vị cũng chưa biết làm sao để giữ niệm "không." Gặp cảnh thuận th́ sanh ḷng hoan hỷ tức là tính bất định; gặp cảnh nghịch th́ sanh ḷng chán nản, phiền năo, cũng là v́ chưa theo được tông chỉ định, tính chưa định. Tính chưa định, th́ ma không phục, do đó điều bắt buộc là tính phải định. Như trong trường hợp...

"Túng ngộ phong đao thường thản thản," dù có người cầm dao đến giết quí vị, quí vị vẫn thản nhiên tự tại, vẫn theo đường chánh đạo, chẳng v́ sự an toàn của ḿnh mà theo đường tà vạy.

Bây giờ miệng quí vị nói không tự lợi, nhưng một khi có lợi đến, tâm tranh của quí vị sẽ nẩy sanh, và nếu có tâm tranh th́ tâm tham cũng sẽ xuất hiện. Bên trong là cái tâm tham, bên ngoài là sự t́m cầu, chạy chọt ở ngoài để t́m kiếm. Hành động chạy chọt đó, truy ra tận gốc đều do ḷng tự tư tự lợi mà ra. Tựu chung là do không lập thành tông chỉ nên ma chẳng phục, cho nên có câu: "Tính định ma phục, triêu triêu lạc, vọng niệm bất khởi xứ xứ an," nghĩa là tính có định th́ ma phục, sớm sớm vui; vọng niệm không sanh th́ nơi nào tâm cũng an. Một khi vọng niệm không c̣n, th́ ở chỗ nào cũng giống nhau, cũng đều là "hành trú tọa ngọa, bất ly giá cá; ly liễu giá cá, tiên thị thố quá," có nghĩa là trong mọi tư thế, đi, đứng, nằm, ngồi, không ĺa cái đó; nếu ĺa cái đó, tức là sai lầm. Nếu quí vị gặp một vị xuất gia, cứ suốt ngày quan hệ hết người này đến người khác, quí vị phải khẳng định vị này chẳng tu hành ǵ, bởi không tu hành mới đi ra ngoài t́m kiếm; người đă dụng công th́ khi nào đáng nói mới nói, đáng làm mới làm, c̣n ngoài ra th́ lúc nào cũng quán sát ḿnh, ở chỗ nào cũng thâu nhiếp tâm ḿnh, như vậy mới gọi là có tông chỉ.

Sáu tông chỉ lớn của Vạn Phật Thành, nếu ai theo được th́ người đó là người tu hành; ai không theo được, th́ người đó chỉ là tu hành giả bộ. Rơ ràng như vậy đó. Nếu quí vị thấy vị xuất gia nào mà đi đâu hay gặp ai cũng cười đùa ngặt nghẽo, khi nói năng th́ gật gù, ưỡn ẹo, thậm chí hỏi ai điều ǵ th́ khúm núm. Như vậy là hỏng rồi, vị đó chẳng phải là đệ tử chân chánh của Phật. Phàm là đệ tử chân chánh của Phật th́ không khi nào có những cử chỉ hạ thấp giá trị như vậy.

Mỗi cá nhân theo mỗi tông chỉ. Như Phật th́ có tám vạn bốn ngàn pháp môn. Một trong các pháp môn này, nếu quí vị theo được một cách viên măn, th́ cả tám vạn bốn ngàn pháp môn quí vị đều thành tựu. Bởi vậy có câu: "Nhất ngộ nhất thiết ngộ, nhất nhập nhất thiết nhập, nhất khai nhất thiết khai, nhất thị nhất thiết thị," nghĩa là một khi ngộ là ngộ hết thảy, một khi vào là vào hết thảy, một khi khai mở là khai mở hết thảy, một khi tỏ bày là tỏ bày hết thảy. Câu này nói về khai thị ngộ nhập tri kiến Phật. Nếu quả quí vị chẳng chịu làm một việc ǵ, một pháp môn cũng không theo một cách chuyên nhất, tức là quí vị để thời giờ trôi qua một cách uổng phí, chẳng thành tựu được ǵ, chỉ tự ḿnh dối ḿnh mà thôi.

Nói đến tông chỉ th́ chúng ta nên theo tông chỉ nào? Tông chỉ "lấy tâm ấn tâm" của Phật, tông chỉ "niêm hoa vi tiếu," các pháp môn này. Chúng ta lấy nguyên tắc "trực tâm là đạo tràng."

Dựng pháp tràng, lập tông chỉ cần phải có trực tâm.

Minh minh Phật sắc Tào-khê thị: Lục Tổ chẳng phải ngẫu nhiên mà thành Tổ-sư. Vào triều đại nhà Lương, Tam tạng pháp sư Trí-Dược khi tới Quảng Châu, đă từng dự đoán và nói như sau: "Một trăm bảy mươi lăm năm sau, tại gốc cây bồ đề này, sẽ có một nhục thân Bồ-tát giảng pháp thượng thừa, chỉ thẳng nhân tâm, để kiến tánh thành Phật." Chùa Nam Hoa cũng là do Pháp sư Trí Dược khi lên núi, tới chỗ đó, lấy tay bụm nước ở dưới con suối lên uống, uống xong nói rằng: "Nước ở đây có vị giống như ở núi Bảo Lâm bên Ấn Độ." Quả nhiên, một trăm bảy mươi năm sau, khi tới nơi đây Lục Tổ rộng truyền pháp yếu, khiến cho một số người có chí hướng về đạo bồ-đề được chứng quả khai ngộ. Kinh Phật có nói ở nước Chấn Đán (Trung Hoa) có núi Bảo Lâm và nơi đây là đạo tràng truyền tâm ấn Phật. Như vậy tâm ấn Phật ứng vào Tào-khê là điều rơ ràng.

Đệ nhất Ca-diếp thủ truyền đăng: Đầu tiên là ngài Ca-diếp, vị tổ thứ nhất, được truyền tâm ấn Phật, tính đến ngài Bồ-đề Đạt-ma ở bên Tây-trúc là vị tổ đời thứ hai mươi tám.

Nhị thập bát đại Tây thiên kư: Do Phật "cầm bông hoa mỉm cười" (niêm hoa vi tiếu) mà có pháp môn "lấy tâm ấn tâm, không lập văn tự, đặc biệt truyền ngoài văn tự." Truyền được hai mươi tám đời ở Ấn Độ đến Tổ Bồ-đề Đạt-ma (ở Trung-quốc ngài là Sơ tổ).

Pháp đông lưu, nhập thử thổ,

Bồ-đề Đạt-ma vi Sơ tổ.

Lục đại truyền y thiên hạ văn,

Hậu nhân đắc đạo hà cùng số.

Dịch:

Pháp sang đông, vào Trung thổ,

Bồ-đề Đạt-ma là sơ tổ.

Sáu đời y bát thiên hạ nghe,

Người sau được đạo nhiều vô số.

Vị tổ sư đời thứ hai mươi tám là Bồ-đề Đạt-ma, Ngài ở Trung-quốc lúc bấy giờ, th́ ghé vào Quảng-châu bằng đường biển, nên tại Quảng-châu có chỗ gọi là đất Sơ tổ Tây lai. Từ Quảng-châu ngài đi tới Nam-kinh, rồi từ Nam-kinh đi Hà-bắc. Với một tâm lượng đại từ đại bi, Ngài cốt tới Trung-quốc để giáo hóa chúng sanh, nhưng tiếc là hồi đó người Trung-quốc có ḷng kỳ thị đối với người Ấn Độ. Lúc xưa tại Trung-hoa chưa có Phật pháp, tới đời Hán Minh-đế Phật giáo mới được truyền qua. Vào thời Nam-Bắc triều, đời vua Lương Vũ-đế, t́nh trạng Phật giáo vẫn chưa sáng sủa, người ta vẫn chưa thấy một sự thực tập chân chánh quy chiếu vào giới luật để tu hành. Hồi đó tại Trung-quốc, Ngài không được hàng nhân sĩ Phật giáo hoan nghênh. Ngài lại không biết tiếng Trung-hoa, nên giảng pháp trong t́nh trạng ngôn ngữ bất đồng, thành thử không ai hiểu Ngài. Đó là lư do đi tới đâu Ngài cũng gặp sự lạnh nhạt của mọi người, tóm lại nhân duyên chưa hội đủ. Tới lúc Sơ tổ đi qua Nam-kinh gặp Đại sư Thần-quang rồi bị Đại sư dùng chuỗi hạt châu bằng thép đánh gẫy hai cái răng, ḷng Ngài càng thêm nguội lạnh. Sơ tổ bèn đi lên núi Tung-sơn, ngồi quay mặt vào vách ở chùa Thiếu-lâm trong suốt chín năm. Đó chính là cảnh giới: "Mặc thời thuyết, thuyết thời mặc, đại thí môn khai vô ủng tắc," mấy câu trong bài ca.

Quí vị thử tưởng tượng xem sự nhẫn nại của Ngài như thế nào. Chẳng phải như những ai chẳng có công phu tu học, ham danh ham lợi, đến một nơi nào đó, cứ tưởng ḿnh sẽ vung tay một cái là làm nên công chuyện để tiếng tăm lừng lẫy thiên hạ. Luận về đạo đức, về trí huệ, về thần thông, cái ǵ Ngài Bồ-đề Đạt-ma cũng là xuất chúng. Vậy mà Ngài mai danh ẩn tích, nhẫn nại chờ thời, chịu ngồi quay mặt vào vách đá tại chùa Thiếu-lâm. Ta nghĩ xem, nếu chẳng có ḷng nhẫn nại, có đức pháp nhẫn, liệu làm như vậy có được chăng?

Tại chùa Thiếu-lâm, Sơ tổ diện bích trong chín năm. Nhị tổ Thần-quang biết Ngài chẳng phải tầm thường, bèn t́m tới và quỳ bên cạnh trong chín năm. Chúng ta bây giờ thử nghĩ coi, đừng nói quỳ suốt chín năm, chúng ta thử quỳ trong chín ngày, liệu có chịu nổi không? Thậm chí quỳ chín tiếng đồng hồ cũng chẳng chịu nổi nữa! Ngồi trong chín ngày đă coi là ghê gớm, công phu đă coi như tới mức, trong ḷng lấy làm tự măn lắm!

Pháp đông lưu, nhập thử thổ: Nghĩa là pháp môn truyền tâm ấn truyền đến phương đông - Chấn-đán - tức là truyền đến Trung-quốc. "Nhập thử thổ" là vào đất này. Chữ "đất này" là chỉ Trung-quốc.

Bồ-đề Đạt-ma vi Sơ tổ: Tại Ấn Độ th́ Bồ-đề Đạt-ma là tổ thứ hai mươi tám. Tại Trung-hoa th́ Ngài là tổ của Thiền tông đời thứ nhất. Tổ sư đời thứ nhất th́ sao? Đây chẳng qua là giả danh. Bậc tổ sư chân chánh chẳng phải do ở danh xưng. Chính là do ở đạo đức, trí huệ, đức hạnh nhẫn nại của Ngài. Lục độ vạn hạnh của Ngài tới mức tuyệt vời. Trên thân chẳng mang một vật ǵ, chẳng có ǵ gọi là quư báu, ấy thế mà chẳng phải Ngài không có ǵ để bố thí. Tuy chẳng có ǵ thực, nhưng nếu "chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành" th́ đó là giới luật tới chỗ viên măn, tới chỗ ba-la-mật rồi; nhẫn của Ngài cũng là nhẫn nại ba-la-mật; Ngài ngồi luôn chín năm, đó là tinh tấn ba-la-mật; Ngài ngồi một nơi, tĩnh tọa, chớ không phải như ai, ngó đông nh́n tây, và thường trong đại định, sống bởi thiền duyệt, vui với pháp hỷ đó chính là thiền định ba-la-mật. Bởi đâu mà Ngài được như vậy? Bởi v́ Ngài có trí huệ Bát-nhă. Phải có đại trí đại huệ mới có thể làm những điều mà người khác không làm nổi. Ngài đă chứng được sáu ba-la-mật tới chỗ viên măn vậy, Ngài truyền tâm ấn cho Nhị-tổ Thần Quang (Huệ Khả). Nhị-tổ truyền cho Tam-tổ Tăng Xán; Tam-tổ truyền cho Tứ-tổ Đạo Tín; Tứ-tổ truyền cho Ngũ-tổ Hoằng Nhẫn, rồi Ngũ-tổ lại đem tâm ấn, y bát truyền lại cho Lục-tổ. Bởi vậy có câu: "Lục đại truyền y thiên hạ văn."

Vào thời gian Lục-tổ tiếp nối truyền thừa của Ngũ-tổ, tín vật y và bát thường là đề mục tranh chấp trong giới xuất gia. Ai cũng muốn ḿnh là người được truyền tâm ấn và thừa hưởng y bát, thậm chí họ không từ bỏ một mánh lới nào cốt sao tranh đoạt cho được tín vật này, đại khái như phe của Huệ Minh chẳng hạn, khi nghe nói "pháp đă đi về hướng Nam" mọi người đều hùa nhau chạy đuổi theo để đoạt lại y bát. Đến ngày nay, đầy rẫy những người đă xuất gia mà c̣n nhiều đầu óc tranh chấp! Triều đại nhà Đường hồi đó không thiếu ǵ những hạng người như vậy. Do đó, để dặn ḍ Lục-tổ, Ngũ-tổ mới nói câu: "Y vi tranh đoan, chỉ nhữ vật truyền," ư nói y bát là đầu mối của tranh chấp, đến đời sau th́ đừng truyền lại nữa, do đó chúng ta thấy về sau không có vụ truyền y bát. Căn cứ theo truyền thuyết th́ tín vật kể trên đă bị Vơ Tắc Thiên lấy đi. Bà ấy nghĩ rằng của báu ấy phải do bà ấy thừa hưởng. Của báu giấu cất đi, "đa tàng hậu tất vong," tức càng giấu kỹ th́ lại càng dễ bị thất lạc. Đời là như vậy, mọi sự vô thường!

Lục đại truyền y thiên hạ văn: Sáu đời truyền y bát, tất cả mọi người đều hay biết.

Hậu nhân đắc đạo hà cùng số: Tuy không truyền lại y bát nhưng các Tổ sư được truyền tâm ấn th́ rất đông, đúng như câu: "Nhất hoa khai ngũ diệp, kết quả tự nhiên thành." Về sau, Tông môn được chia thành năm phái, y theo truyền thống tu hành và những người đắc đạo th́ không thể kể hết.

Chân bất lập, vọng bổn không,

Hữu vô câu khiển bất không không.

Nhị thập không môn nguyên bất trước,

Nhất tánh Như Lai thể tự đồng.

Dịch:

Chân chẳng lập, vọng vốn không,

Hữu vô dứt trọn chẳng không không.

Hai chục cửa không nguyên chẳng chấp,

Một tánh Như Lai vốn thể đồng.

Chúng sanh mê lầm, không nhận ra cái thực, đuổi theo cái hư dối, nên nhận giặc làm con, chịu khổ mà cho là vui, lừa gạt người, sống keo kiệt, tưởng như vậy là có lợi mà kỳ thực chính là một sự thiệt hại lớn. Chúng ta hăy xem các chúng sanh làm thân gà, vịt, ngựa hay heo, có phải là đáng thương chăng? Bởi đâu mà thành nông nỗi đó? Chính bởi mê lầm, bỏ cái thực chạy theo cái hư dối, rước cái khổ cho là vui, nhận giặc làm con, thậm chí đến chỗ đạo tràng c̣n kiếm tiện nghi. Chúng ta tới chùa, phải biết giúp chùa. Chùa cần tiền th́ ủng hộ tiền, cần giúp sức lực th́ giúp sức lực, lượng sức của ḿnh mà giúp đỡ chùa, chớ không nên tới chùa để kiếm lợi ích, chẳng chịu phát tâm, công sức th́ không chịu bỏ ra, như vậy không tránh khỏi tương lai làm thân trâu ngựa heo gà v.v.. Thậm chí đến chùa c̣n mang tâm tham lam, lúc nào cũng chỉ tính cái lợi cho riêng ḿnh. Vậy là rất nguy hại cho cuộc đời mai sau. 

Chân bất lập, vọng bổn không: Đúng ra là chân chẳng chấp mà vọng cũng không, nhưng quí vị lại mê lầm cái chân, chạy theo cái vọng. Bổn lai chân chẳng có, vọng cũng chẳng có, nhưng quí vị lại nhận giặc làm con, chịu khổ mà thấy là vui, tự nghĩ đó là lợi ích, mà không biết đó là thiệt hại. Mang sẵn cái sai lầm đó giao tiếp với mọi người, đối với bạn bè tưởng giao t́nh như vậy là hay, là mang lợi ích cho ḿnh, nhưng kỳ thực cái tâm địa đó sẽ di hại về sau, đó chính là sự sai lầm về nhân quả.

Hữu vô câu khiển bất không không: Có và không có đều chẳng ham. Chúng có mất đi, cũng chẳng rơi vào trống rỗng, cũng chẳng rơi vào có, cũng chẳng rơi vào không, cái chẳng không cũng cho mất luôn.

 Nhị thập không môn nguyên bất trước: Hai mươi pháp "không" chẳng qua chỉ là những cái tên mà thôi. Chẳng riêng hai mươi pháp không đó ta không nên chấp trước, mà một chữ không cũng không chấp nữa.

Hai mươi pháp không là: Nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, tiểu không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không.

Cả hai mươi pháp trên đều không chấp trước, cho đến một không cũng không chấp, hết thảy mọi thứ đều không chấp trước.

Nhất tánh Như Lai thể tự đồng: Tất cả chúng ta đều có đầy đủ Như Lai Tạng tánh, cùng với tánh của Phật không có ǵ sai khác, bản thể là một. Có điều Phật đă tu nên đă chứng quả Phật, ta chưa tu nên ta chưa thành Phật. Cho nên khi đă hiểu rơ cách tu th́ chúng ta và Phật sẽ như nhau, không khác. Nhưng tu như thế nào? Trước hết không mê lầm cái chân mà đuổi theo cái vọng, không nhận giặc làm con, không rước cái khổ mà coi là vui.

Tâm thị căn, pháp thị trần,

Lưỡng chủng do như kính thượng ngân.

Ngân cấu tận trừ quang thủy hiện,

Tâm pháp song vong tánh tức chân.

Dịch:

Tâm là căn, pháp là trần,

Thảy đều ngấn bụi ám gương trong.

Bao giờ ngấn hết gương trong lại,

Tâm pháp cùng quên tánh rơ chân.

Lục căn là chỉ sáu bộ phận mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ư; các thứ này thuộc về nội không. Lục trần là chỉ sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp; những thứ này thuộc về ngoại không. Mắt không bị h́nh sắc lôi cuốn, tai không bị thanh âm lôi cuốn, mũi không bị mùi hương lôi cuốn, lưỡi không bị mùi vị lôi cuốn, thân không bị cảm xúc lôi cuốn, ư không bị pháp trần lôi cuốn - bổn lai những thứ này đều chỉ là giả danh, không hề có thực thể. Như vậy, bên trong th́ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư đều không, bên ngoài th́ sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp cũng không có, cũng là không, cũng chỉ là giả danh, cũng đều không có thực nghĩa, tóm lại sáu căn không, sáu trần không, rồi từ căn trần dẫn tới sáu thức - nhăn thức, nhĩ thức, thiệt thức, thân thức, và ư thức, tất cả đều không tồn tại, tất cả đều là tên gọi, đều là những lời nói, chẳng có nghĩa thực sự, tất cả chỉ là giả danh mà thôi. Đối với các thứ kể trên nếu chúng ta không dính mắc, tức là mắt chẳng quan sát, tai chẳng lắng nghe, mũi không ngửi hơi hương, lưỡi không nếm mùi vị, thân không cảm sự xúc chạm, ư không theo dơi pháp, th́ tất cả mọi vấn đề này đều không c̣n nữa, cho nên nói nội ngoại đều không.

Nếu sáu căn, sáu trần, sáu thức đă không, tức là đại không (pháp Đại thừa), và tiểu không (pháp tiểu thừa). Mang ư niệm không đó cho nó thành không, tức là pháp tướng không - cả cái không này cũng thành không luôn. Pháp tướng không, thắng nghĩa cũng không, mọi thứ đều không. Nếu quí vị thực hiện được cái không này, quí vị chẳng c̣n chấp vào điều ǵ nữa hết, quí vị quét sạch mọi thứ pháp, ly mọi thứ tướng, chẳng c̣n chấp ngă, chẳng c̣n chấp pháp, nhân không và pháp cũng không. Không chấp trước, th́ có bao nhiêu cái không đi chăng nữa cũng chỉ là danh từ. Cả cái không cũng không luôn th́ làm ǵ c̣n con số hai chục cái không nữa? Đó chính là, từ cái gốc chẳng chấp trước, th́ đâu c̣n chấp ǵ nữa!

Tâm thị căn, pháp thị trần: Tâm thuộc về căn, pháp thuộc về trần. Căn và trần đều không tức cả hai đều không chấp.

Lưỡng chủng do như kính thượng ngân: Cả hai thứ đều ví như hạt bụi trên mặt gương. Gương th́ vốn trong sáng, và Phật tánh của chúng ta cũng trong sáng như vậy. Tâm đối với pháp, cũng như căn đối với trần, đều có thể ví như bụi trên mặt gương, in dấu vết trên gương, làm cho gương có dấu.

Ngân cấu tận trừ quang thủy hiện: Nếu chúng ta quét sạch bụi đi, sạch hết các vết dơ th́ sự trong sáng lại hiện ra.

Tâm pháp song vong tánh tức chân: Nếu quí vị không chấp vào cái căn tâm, không chấp vào cái trần pháp th́ Phật tánh cố hữu của quí vị, cái kính trí huệ tṛn đầy (Đại Viên Kính Trí) cũng sẽ hiển lộ giống như ánh sáng của tấm gương vậy.

Ta mạt pháp, ác thời thế,

Chúng sanh phúc bạc nan điều chế.

Khứ thánh viễn hề tà kiến thâm,

Ma cường pháp nhược đa oán hại.

Văn thuyết Như Lai đốn pháp môn,

Hận bất diệt trừ linh ngơa toái.

Dịch:

Ôi mạt pháp! Ác thời thế,

Chúng sanh phước mỏng khôn cầm chế.

Hiền thánh xa rồi tà vạy sâu,

Ma mạnh pháp yếu nhiều ác tệ.

Nghe nói Như Lai phép đốn tu,

Hận chẳng nghiền tan như ngói bể.

Ta Mạt pháp: Đây là một câu than, ư than tiếc, đại để như nói: Ôi! Thời Mạt pháp! Chẳng dễ ǵ hoằng dương Phật pháp!

Ác thời thế: Đây là thời kỳ quá ác nghiệt. Biết bao người ở trong Phật giáo, ăn cơm của Phật giáo, mà lại bậy trong nồi cơm đó nữa. Có câu nói: "Ḍi bọ trong thân của sư tử ăn thịt của sư tử." Câu này ám chỉ người của Phật giáo phá hoại Phật giáo, nói xấu Phật giáo, lại c̣n bảo Phật giáo phụ họ nữa. Tỷ như lần trước, vào lúc Vạn Phật Thành làm kỷ niệm đệ thập châu niên, có cư sĩ ở Los Angeles tới, công nhiên bảo rằng ở đây chúng ta muốn nhiều tiền nhưng cho mọi người ăn chẳng ra ǵ, rồi chỗ trú chân th́ như thế này thế kia, chẳng hạn. Những người đó chẳng ủng hộ đạo tràng th́ thôi, c̣n t́m cách phá hoại đạo tràng. Quí vị cũng nên nhớ rằng, Vạn Phật Thành mới thành lập, mà thành lập được cũng phải trải qua trăm ngàn gian khổ, cho tới nay hiện trạng vẫn c̣n nhiều bấp bênh, chưa có thể nói là sung măn được. Quí vị có tới Vạn Phật Thành cũng nên phát tâm ủng hộ, mà đóng góp phần nào công sức của ḿnh. Có rất nhiều cư sĩ tới đó, hễ thấy công tác ǵ th́ ra công giúp sức, coi như là công việc của chính ḿnh, tự gánh vác lấy trách nhiệm, với tất cả nhiệt tâm; có người th́ chỉ đến làm phiền, chuyên môn phê b́nh này nọ, phiền trách các sự thiếu sót, chỉ cốt làm nhiễu loạn. Những người hay nhiễu loạn như vậy, đúng ra chẳng phải là tín đồ của Phật, có thể nói là của ma, con của ma, cháu của ma, do ma sai bảo, đến chỗ đạo tràng mà phá hoại.

Quí vị đi khắp mọi nơi trên thế giới cũng chẳng thấy một chỗ nào mà người xuất gia chỉ ăn một bữa trong mỗi ngày. Dù tu hành đến đâu hay đạo hạnh đến đâu th́ cũng đều ăn hai bữa, một bữa sáng và một bữa trưa. Chẳng có nơi nào giống như Vạn Phật Thành, mà từ sáng đến tối, ai ai cũng chỉ làm việc, không bê trễ, hoằng dương Phật pháp không ngưng nghỉ, vùi đầu cực nhọc trong công tác. V́ Vạn Phật Thành mới thành lập nên luôn luôn cần tới sự giúp đỡ của mọi người. Quí vị có tới, lư ưng là phải bỏ công giúp sức, mang hết tinh thần ra để ủng hộ, mới là đúng. Nay có người tới lại chỉ lo cho tiện nghi của ḿnh, quí vị nghĩ xem như vậy có đáng thương chăng? Ai là những người như thế? Ai là người đến Vạn Phật Thành mà lo tiện nghi cho ḿnh, ai là những người đó? Ai tự thấy ḿnh có lỗi th́ sửa đổi, ai không có th́ cố gắng thêm.

Từ đây về sau phải nhớ kỹ, tới đạo tràng th́ đừng nhiễu loạn, nói cái này phải cái kia trái, làm rộn mọi người. Ai làm như vậy phải cảm thấy ḿnh xấu hổ. Đă không ủng hộ đạo tràng, lại hành động sai nhân quả, phá hoại đạo tràng, đó chính là Mạt pháp, đó chính là ác thời thế.

Chúng sanh phúc bạc nan điều chế: Chúng sanh bây giờ chẳng có phước, không biết cách trồng phước, đến chùa miếu thường làm những việc phiền hà. Quí vị nghĩ coi đối với những hạng người đó tôi có muốn cho họ quy y làm đệ tử chăng? Tôi chẳng sợ chuyện phá hoại, có điều làm vậy chính là gieo nhân sau này làm trâu, ngựa, heo, gà, vịt. Quí vị có biết làm sao để thành heo không? V́ quí vị đi tới đâu cũng muốn chiếm tiện nghi, sớm tối chỉ biết ăn của người mà không ăn của ḿnh. Bởi vậy mới thành heo, để ngày ngày người ta cho ăn các thứ. Ăn cho béo mập để ngày nào đó bị người ta mang ra xẻ thịt. Quí vị thử nghĩ cuối cùng đó là cái lợi hay đó là cái hại? Đối với những hạng người kể trên quí vị không nên kết bạn, ai mà giao du với họ tất sẽ lây cái hậu quả làm heo. Tôi nói với quí vị như vậy với tất cả tấm ḷng từ bi của tôi, nếu không, quí vị đó có thể sống trong mê mờ th́ rất là bất hạnh. "Nan điều chế" nghĩa là khó giáo hóa. Quí vị bảo họ không nên lầm nhân quả th́ họ lại cứ lầm nhân quả cho quí vị coi!

Khứ thánh viễn hề tà kiến thâm: Bởi từ đâu vậy? Nguyên nhân là thời Phật đă quá xa nên tà tri tà kiến rất sâu.

Ma cường pháp nhược đa oán hại: Trong thời kỳ Mạt pháp, thế lực của ma cường thịnh. Quí vị thử xem như họ Lâm, họ Lư kia, không biết bên trong ra sao, nhưng kỳ thực họ đă gieo nhân địa ngục, có điều họ không biết đấy thôi. Tương lai họ sẽ gặp quả báo, có hỏi cũng đă muộn rồi.

Quí vị phải lưu ư điểm này. Tôi không thể không nói thực cho các quí vị nghe. Tôi muốn cho mọi người thức tỉnh, bởi nếu tôi không nói điều chân thực, sợ mai này xuống địa ngục rồi các quí vị lại kêu rằng: "Sư phụ đă biết rơ như vậy mà sao không nói một tiếng cho các đệ tử biết. Bây giờ đọa địa ngục rồi, làm sao đây?" Thực vậy, lúc đó, tôi chẳng c̣n cách ǵ, có muốn giúp cũng chẳng thể giúp nổi.

Thời nay, tà ma quỷ quái, thiên ma ngoại đạo quả là thịnh hành, quyến thuộc của chúng cũng nhiều, kẻ ủng hộ chúng cũng không thiếu, trong khi đó người thực sự có đạo lại chẳng được hoan nghênh, ít người ủng hộ. Tại sao vậy? Ở đời, cái ǵ thực và tốt lành th́ ít, c̣n cái ǵ giả và xấu xa th́ nhiều, cái triết lư đó các quí vị phải nên hiểu cho. Lấy thí dụ như họ Lâm kia, người nào đến nghe y giảng đạo, mỗi lần phải đóng 200 đồng (mỹ kim), c̣n tại Kim-luân Thánh tự, 2 đồng cũng không thâu nữa, vậy mà không ai đến! Người đời nhận cái giả mà không nhận cái chân.

Văn thuyết Như Lai đốn pháp môn: Khi được nghe nói về một pháp môn mà theo pháp môn này Phật đă tức khắc thành Phật, thấy tánh thành Phật, một pháp môn đốn ngộ th́...

Hận bất diệt trừ linh ngơa toái: Cảm thấy như gặp kẻ thù, rồi quyết tâm hủy diệt chánh pháp, phỉ báng nó, bảo nó là sai quấy, t́m cách phá hoại nó giống như đập bể viên ngói cho tan tành th́ mới hả giận.

Tác tại tâm, ương tại thân,

Bất tu oán tố cánh vưu nhân.

Dục đắc bất chiêu Vô gián nghiệp,

Mạc báng Như Lai chánh pháp luân.

Dịch:

Tại tâm làm, tại thân chịu,

Đừng có kêu oan chớ trách người.

Muốn khỏi nghiệp vương muôn kiếp lụy,

Vành xe chánh pháp chớ chê cười.

Tác tại tâm, ương tại thân: Tâm của quí vị tạo nghiệp, tương lai chịu quả báo làm các thân trâu, ngựa, heo, gà, vịt...

Bất tu oán tố cánh vưu nhân: Quí vị thấy con gà mỗi khi nó kêu "quác! quác!," nghe giống như tiếng "quá đa! quá đa!" (tội lỗi lớn). Vậy lúc phải chịu quả báo, không nên oán trời oán người làm chi.

Dục đắc bất chiêu vô gián nghiệp: Nếu quí vị muốn tránh cảnh đọa vào địa ngục vô gián th́...

Mạc báng Như Lai chánh pháp luân: Đừng có phỉ báng Tam Bảo, đừng có phỉ báng đạo tràng của chánh pháp, v́ làm như vậy tương lai quí vị sẽ bị đọa địa ngục Vô gián.

Chiên đàn lâm, vô tạp thụ,

Uất mật sâm trầm sư tử trú.

Cảnh vắng lâm gian độc tự du,

Tẩu thú phi cầm giai viễn khứ.

Dịch:

Rừng chiên đàn không tạp thụ,

Sâu kín um tùm sư tử trú.

Cảnh vắng rừng im một ḿnh chơi,

Cao chạy xa bay chim cùng thú.

Chiên đàn lâm: Hương trầm ngưu đầu là loại nhang thơm nhất. Đốt một cây nhang loại này, mùi hương tỏa ra khắp bốn mươi dặm. Đó là một loại nhang quư, cho nên cây trầm chiên đàn để làm nhang được coi là vô cùng quư giá trong các loại cây. Ai mà trú ẩn trong cánh rừng chiên đàn này ắt phải vô cùng đặc biệt, phải là xuất chúng -người đó chính là sư tử. "Vô tạp thụ": Không có loại cây nào khác.

Uất mật sâm trầm sư tử trú: Chỗ này cây cối rậm rạp, tiện cho sư tử trú ẩn. Ở ngoài nh́n vào không thấy rơ.

Cảnh vắng lâm gian độc tự du: Trong rừng chiên đàn thanh vắng tĩnh mịch, sư tử qua lai tự do.

Tẩu thú phi cầm giai viễn khứ: Chỗ nào có sư tử th́ các loại chim muông dă thú đều sợ oai mà lánh đi nơi khác.

Rừng chiên đàn chính là một nơi lư tưởng cho các hiền thánh tăng trú ẩn. Chỗ đó um tùm sâu kín, linh khí rất là thịnh. Bởi linh khí thịnh nên mới hun đúc thành bậc long tượng trong pháp môn, ví như hàng sư tử trong loại thú. Các bậc long tượng ở những chỗ tùng lâm đặc biệt như vậy để dụng công tu hành, kẻ không dụng công th́ không ở được những chỗ ấy, cũng không tới được những chỗ ấy. Ai không có tâm đạo ở đấy sẽ không cảm thấy tự tại. Chẳng hạn như tại Vạn Phật Thành, người nào có tâm đạo mới ở lại được, ai không có tâm đạo ở đấy sẽ không chịu nổi. Vạn Phật Thành là cốt dành cho những ai muốn tu hành thực sự làm nơi lưu trú, c̣n hạng thiên ma ngoại đạo có tới đấy cũng không thể ở được lâu, cuối cùng sẽ bỏ đi nơi khác.

Phép tu đạo, như trên, cũng hiếm hoi lắm, hiếm như mùi hương cây chiên đàn vậy. Tại một đạo tràng thù thắng như vậy mà có thể dụng công tu hành được th́ đó chẳng phải chỉ gieo căn lành nơi một vị Phật, hai vị Phật, ba, bốn, năm vị Phật mà là tại vô lượng trăm ngàn vạn ức vị Phật. Cho nên tới Vạn Phật Thánh Thành để dụng công tu hành, hoằng dương Phật pháp, th́ bọn tà ma ngoại đạo có tới cũng phải hăi sợ mà lánh xa, không dám lui tới. Có người nói: "Tới Vạn Phật Thành chỉ ăn một bữa, là không dám ở lại." Bởi vậy từ hơn mười năm nay, Vạn Phật Thành là nơi "gạn cát đăi vàng," dần dần mới thanh lọc ra được người thực sự dụng công tu hành, sự việc đó chẳng thể tiến hành một cách mau chóng được.

Sư tử nhi, chúng tùy hậu,

Tam tuế tiện năng đại hao hống.

Nhược thị dă can trục Pháp vương,

Bách niên yêu quái hư khai khẩu!

Dịch:

Sư tử con chúng theo hậu,

Tuổi mới lên ba đà hống khỏe.

Chó rừng dầu bén gót Pháp vương,

Trăm năm yêu quái há mồm suông.

Sư tử nhi, chúng tùy hậu: Sư tử con, tuy hăy c̣n nhỏ vẫn có oai phong, vừa sanh ra đời đă khiến mọi loài thú phải khiếp sợ. Bởi vậy bất luận con thú nào cũng phải đi sau nó.

Tam tuế tiện năng đại hao hống: Sư tử dầu c̣n non nớt, lên ba tuổi đă có thể gầm lên làm cho mọi loài sợ hăi. Nó không biết sợ, chẳng sợ một con thú nào khác. Bởi vậy ở phần trên đă có câu:

"Sư tử hống! Vô úy thuyết.

Bách thú văn chi giai năo liệt.

Hương tượng bôn ba thất cước uy,

Thiên long tịch thính sinh hân thuyết"

(Sư tử hống, thuyết vô úy,

Trăm thú nghe qua xé óc tủy.

Hương tượng chạy dài hết liệt uy,

Thiên long lặng ngóng ḷng hoan hỷ.)

Khi sư tử đă gầm lên, hết thảy mọi loài cầm thú phải sợ oai mà phục ṭng.

Nhược thị dă can trục pháp vương: Dă can là một loại thú giống như con cáo (jackals), rất khôn ngoan quỷ quái và không theo phép tắc. Tuy khôn ngoan nhưng vẫn là giống yêu quái.

Bách niên yêu quái hư khai khẩu: Người nào chẳng có căn đại thừa dầu có theo Pháp Vương cả trăm năm đi nữa cũng chỉ là yêu quái chẳng thể mở miệng thi thố được điều ǵ.

Viên đốn giáo, một nhân t́nh,

Hữu nghi bất quyết trực tu tranh.

Bất thị sơn tăng sính nhân ngă,

Tu hành khủng lạc đoạn thường khanh.

Dịch:

Pháp viên đốn vượt t́nh thường,

Mọi niềm ngờ vực quyết không vương.

Săi tôi đâu sính bàn nhân ngă,

Sợ lạc đường tu hố đoạn thường.

Trong các pháp môn tu, chỉ nhắm một cửa là pháp môn tâm địa tức Thiền tông. Đă hướng như vậy rồi là cứ tiến tới không trở lui.

Viên đốn giáo: "Viên" nghĩa là viên măn; "đốn" nghĩa là lập tức khai ngộ. Kinh Pháp Hoa giảng về viên giáo, đốn giáo, tức là nói về pháp môn tức khắc thành Phật, cho nên gọi là "đốn ngộ."

Một nhân t́nh: Giáo lư viên đốn không có nói tới nhân t́nh, không nói thứ bậc, không nói cái ǵ là hư ngụy, mà trong đó từng chữ từng câu đều là cái chân thật, chớ không thấy có cái ǵ gọi là nhân t́nh, không hề bàn về vấn đề thể diện.

Hữu nghi bất quyết trực tu tranh: Nếu có điều ǵ nghi ngờ không hiểu rơ, ta hăy cùng nhau bàn căi để cho chân lư hiển lộ. "Tranh" có nghĩa là tranh luận, dùng lư lẽ để bàn căi, chớ không phải tranh dành thị phi, như lối tranh chấp của người đời.

Bất thị sơn tăng sính nhân ngă: Chẳng phải là người sống ở núi làm tăng sĩ này có ư tranh hơn tranh thắng với ai, cốt cho ḿnh được người khác thua, chẳng phải như vậy đâu.

Không tranh phải, tranh trái, tranh hơn, tranh thắng, vậy là nghĩa thế nào?

Tu hành khủng lạc đoạn thường khanh: Tu hành là phải theo trung đạo, tu pháp liễu nghĩa chớ không phải pháp chưa liễu nghĩa; không chấp vào tướng đoạn diệt, cũng không chấp vào tướng thường trú. Quí vị chấp đoạn th́ quí vị sẽ rơi vào không, quí vị chấp thường th́ quí vị sẽ rơi vào có, và chấp không hay chấp có cũng đều rơi vào biên kiến, tức là hai bên, chẳng phải trung đạo. Bởi vậy, nếu chúng ta rơi vào tà kiến, chấp đoạn, chấp thường, th́ chẳng khác ǵ rơi xuống hầm hố, thoát ra không phải dễ dàng.

Hôm nay tôi muốn nói với quí vị điều này là phàm tu học Phật pháp tất phải lấy Phật pháp làm trọng, chớ không thể tùy tiện phụ họa một cách ồn ào. Ở đây ngày ngày đều có giảng kinh thuyết pháp , dù có bận công chuyện đi nữa th́ quí vị cũng nên đến đây nghe kinh nghe pháp, chẳng phải cứ có tôi tới th́ mới tới, rồi khi tôi đi khỏi quí vị cũng đi. Tại Los Angeles, chùa Kim Luân này là một đạo tràng có pháp luân thường chuyển, nghĩa là nơi đó luôn luôn chuyển bánh xe pháp, chớ không phải mỗi tuần chỉ tổ chức một ngày lễ bái, c̣n sáu ngày là nghỉ ngơi. Tại Kim Luân thánh tự, ngày ngày nghiên cứu Phật pháp, tựa như lấy nước pháp để ngâm tẩm, huân tập lâu dần, Phật pháp sẽ ngấm. Quí vị muốn bỏ công nghiên cứu Phật pháp th́ phải coi việc đó như đi kiếm tiền, hay đi kiếm cơm ăn, trọng yếu như vậy đó! Nếu quí vị thiếu pháp để bồi dưỡng trí huệ của quí vị sẽ bị đói khát vô cùng. Quí vị muốn cho thể xác được an vui, tự tại, thoải mái, quí vị phải kiếm tiền để nuôi thân. Tuy nhiên, đó cũng chỉ là nhu cầu hời hợt bên ngoài, quí vị phải làm sao cho cái bên trong, cái cốt yếu đó khỏi bị đói khát, khỏi bị nghèo hèn, th́ mới đáng kể.

Nếu quí vị chẳng thấu rơ Phật pháp, quí vị chỉ riêng quy y, quí vị chờ khi nào tôi đến th́ quí vị mới đến; rồi khi tôi đi, quí vị cũng đi, ngoài ra quí vị không chịu gánh vác một trách nhiệm nào cho đạo, th́ điều đó không phù hợp với pháp Phật. Tôi không muốn nói đến phương diện lợi ích, v́ nói tới lợi ích có thể dấy động ḷng tham. Tôi chỉ nói tới nghĩa phù hợp v́ điều đó tự quí vị cảm thấy. Quí vị ngâm ḿnh trong nước pháp, tự nhiên quí vị sẽ thâm nhập kinh tạng, trí huệ như biển, và từ đó gặp bất cứ hoàn cảnh nào cũng tự ḿnh đương đầu, không bị phiền năo, ưu sầu, không vấp phải cảnh tiến không được mà thoái không xong, ngồi không yên, đứng không yên, chạy đâu cũng không ổn. Nếu quí vị minh bạch Phật pháp th́ sẽ cảm thấy "Everythings is OK., No problem!"

Phi bất phi, thị bất thị,

Sai chi hào ly thất thiên lư.

Thị tắc Long nữ đốn thành Phật,

Phi tắc Thiện tinh sanh hăm đọa.

Dịch:

Thị chẳng thị, phi chẳng phi,

Sai lạc đường tơ ngàn dặm đi.

Thị: đấy Long nữ thoắt thành Phật,

Phi: đấy Thiện tinh rơi địa ngục.

Phi bất phi, thị bất thị: Cái trái chẳng phải nhất định trái; cái phải chẳng phải nhất định là phải.

Sai chi hào ly thất thiên lư: Tại cảnh giới trên, quí vị không thể sai. Cái phải là phải, cái trái là trái, nếu quí vị sai một chút, tức là sai đạo, không phù hợp với đạo. Lúc đầu mà sai một chút nhỏ, th́ về sau tận cùng sẽ xa đạo cả ngàn dặm, cho nên tu đạo là phải phân biệt phải trái, phải có trí huệ lớn.

Thị tắc Long nữ đốn thành Phật: Bổn lai, thân phụ nữ là thân "ngũ lậu," và mang thân ngũ lậu th́ rất khó tu hành nên không thành Phật được, nhưng Long nữ đă tức khắc thành Phật v́ đă cúng dường Phật viên ngọc quư của ḿnh. Đối với loài rồng th́ viên ngọc của nó không thể xả bỏ được, vậy mà Long nữ đă bỏ ra viên ngọc quư đó để dâng Phật! Cho nên, khi người ta thực hành bố thí th́ phải bố thí một cách chân chánh. Nhưng thế nào là bố thí chân chánh? Tức là bố thí những thứ ǵ mà chúng ta không xả bỏ được, đó gọi là bố thí chân chánh. C̣n như cái không bỏ được th́ không bỏ, để có cái ǵ có thể bỏ được th́ mới chịu bỏ, đó chẳng phải là bố thí chân chánh, bởi cái gốc tham hăy c̣n tồn tại. Long nữ coi viên ngọc như sinh mạng của ḿnh, vậy mà bỏ luôn viên ngọc đó để dâng Phật và do cảm ứng đạo giao, Long nữ bèn tức khắc thành Phật.

Phi tắc Thiện tinh sanh hăm đọa: Nếu quí vị làm điều trái, tức sai lầm nhân quả. Hồi xưa có Tỳ-kheo Thiện-tinh, v́ lầm nhân quả nên bị sanh hăm địa ngục, sống mà bị đọa trong địa ngục, cho nên chỉ cần sai một chút sau này sẽ thành một sự lầm lẫn lớn. Lúc mới đầu, Tỳ-kheo Thiện-tinh cũng thực hiện bố thí, nhưng ông không bố thí cái mà ông không xả bỏ được. V́ lư do này, nên về sau khi làm thân Tỳ-kheo, nghiệp tội vẫn đuổi theo khiến cho ông đương sống mà bị đọa vào địa ngục. C̣n sống mà cớ sao lại bị đọa vào địa ngục? Quí vị hăy nh́n xem trên đời này thường có người mang bệnh quái dị, lại không cho chết, như các loại ung thư, bệnh AID (ái-tử bệnh) chẳng hạn, họ sống có khác ǵ sống trong địa ngục. Nếu quí vị không tin là có địa ngục, quí vị hăy quan sát mấy người sống mà chịu tội th́ quí vị sẽ biết, cảnh ngộ đó chẳng khác ǵ địa ngục cả. Như muốn chờ tới khi đọa địa ngục rồi mới chịu hiểu cho th́ lúc đó đă quá muộn.

Ngô tảo niên lai tích học vấn,

Diệc tằng thảo sớ tầm kinh luận.

Phân biệt danh tướng bất tri hưu,

Nhập hải toán sa đồ tự khốn.

Dịch:

Ta sớm bao năm chuyên học vấn,

Từng viết sớ sao t́m kinh luận.

Phân biệt danh tướng măi không thôi,

Vào biển đếm cát tự chuốc hận.

Ngô tảo niên lai tích học vấn: Chỗ này Đại sư Vĩnh-Gia nói lúc đầu Người đă uổng phí bao nhiêu công v́ đi lầm đường. Lúc đó chưa biết cách dụng công bởi chưa hiểu rơ pháp môn này.

Ngài nói: "Khi c̣n ít tuổi, ta đă từng nghiên cứu giáo lư tông Thiên-thai, muốn thâu nhận thật nhiều học vấn, đọc sách, và học tập văn tự bát-nhă.

Diệc tằng thảo sớ tầm kinh luận: "Hồi đó học về giáo lư, chú giải các Phật điển, cũng như phân chia ra nào phán giáo, ngũ phần khoa, thập bát giáo, t́m các kinh luận, và các luật luận, tất cả đều nghiên cứu qua. Thời gian học giáo lư, với bao nhiêu danh từ, thuật ngữ giáo tướng, công phu nghiên cứu quả là lâu dài.

Phân biệt danh tướng bất tri hưu: "Ta phân biệt các loại danh tướng, thế nào là ngũ thời bát giáo, thế nào là các tạng, thông, biệt, viên, đốn, tiệm, bí mật, bất định. Kinh giáo nào được nói ra trong thời kỳ Hoa Nghiêm? Kinh giáo nào nói tại thời A-hàm? Kinh giáo nào vào thời Phương-đẳng? Vào thời Bát-nhă? Vào thời Niết-bàn? Ta học các loại danh tướng như vậy, học miệt mài, không ngưng nghỉ chấp trước vào sự học hỏi triền miên cho nên ngày ngày vùi đầu vào các kinh sách. Các danh từ về giáo tướng kể ra vô số, chẳng khác ǵ số cát ở biển. Quí vị có thể đếm được một cách rơ ràng hết thảy số cát tại biển chăng? Chẳng thể nào đếm được. Học tập các danh từ trong kinh giáo cũng giống như vậy đó. Danh từ trong kinh cũng vô số giống như cát ở biển, vậy th́ quí vị dụng công bằng cách học tập như vậy th́ có khác ǵ...

Nhập hải toán sa đồ tự khốn: Quí vị đi ra biển, đem hết số cát ra mà đếm, đếm tới khi nào cho nó hết được!"

Khước bị Như Lai khổ kha trách,

Sổ tha trân bảo hữu hà ích?

Ṭng lai tắng đắng giác hư hành,

Đa niên uổng tác phong trần khách.

Dịch:

Quả đáng bị Như Lai quở trách,

Châu báu của người có ích ǵ?

Lâu nay đắng đót rơ công suông,

Uổng bấy làm thân phong trần khách!

Khước bị Như Lai khổ kha trách: Ra biển đếm cát quả là một việc ngu si, bởi dụng công theo lối đó chẳng ăn nhầm ǵ tới tự tánh của ḿnh cả, cho nên Phật mới quở trách ra sao? Phật bảo:

Sổ tha trân bảo hữu hà ích?: Giống như câu:

Chung nhật sổ tha bảo,

Tự vô bán tiền phần,

Ư pháp bất tu hành,

Kư quá diệc như thị.

Nghĩa là: Suốt ngày đếm của cải của người, tự ḿnh chẳng được nửa xu; không tu hành theo pháp, lầm lỗi vẫn như vậy.

Quí vị đếm tiền cho người, ngày ngày làm việc ở ngân hàng, đếm tiền chẳng hạn, đếm tới đếm lui, vẫn là tiền của người khác, không phải là tiền của quí vị. Lại tỷ dụ quí vị chạy bàn ở quán ăn, từ sáng đến tối nói món này ngon, món kia ngon, toàn là nói tên các món ăn, rồi đếm tiền cho người, c̣n bản thân quí vị chẳng được ǵ.

Phật quở trách như vậy đó. Bây giờ th́ đă tỉnh ngộ.

Ṭng lai tắng đắng giác hư hành: V́ không biết tới pháp môn nói trên nên từ khi xuất gia tu hành đến nay sự dụng công chỉ là hời hợt ở bên ngoài, chẳng khác ǵ người chuyên đếm tiền, nói tên các thức ăn, hay ra biển đếm cát, chỉ biết miệt mài như vậy, đó là nghĩa của chữ "tắng đắng," làm uổng phí thời gian; "hư hành" nghĩa là chẳng có giá trị ǵ, để cho sinh mạng trôi qua, thời gian quư báu trôi qua, chẳng ích lợi ǵ.

Đa niên uổng tác phong trần khách: Cũng kể từ hồi đó, oan uổng sống trong cảnh phong trần, lăng phí bao nhiêu thời gian quư giá, thiệt là thương, thiệt là tiếc! Chữ "phong trần" có nghĩa là vất vả mà không làm được chuyện ǵ hữu ích.

Chúng ta là người tu học Phật pháp, nghe tới đây, nên tự ḿnh nh́n lại ḿnh. Ngài Vĩnh-Gia chuyên tâm nghiên cứu giáo lư như vậy, đặc biệt dụng công, không ra ngoài giao tiếp với ai, cắt đứt liên hệ với xă hội, Ngài nhất tâm nghiên cứu kinh giáo, không phan duyên, vậy mà cuối cùng c̣n cảm thấy bỏ phí thời gian. Đây là những lời phát xuất từ trong gan ruột của Ngài, chính là những lời vàng ngọc.

Đối với Phật pháp, chúng ta có nghiên cứu một cách chuyên nhất như Ngài Vĩnh-Gia nghiên cứu về kinh giáo chăng? Không chuyên nhất!

Ở đây là một đạo tràng ngày ngày giảng kinh chuyển pháp luân, vậy chúng ta có tham gia hàng ngày chăng? Chúng ta có hộ tŕ cái đạo tràng chuyển pháp luân này chăng? Hay là chúng ta mỗi ngày đi về với công việc, cam tâm làm nô lệ cho kim tiền? Rồi v́ chút ít sanh kế mà lăng xăng bận bịu? Ḷng chúng ta có phải v́ pháp hay v́ miếng ăn? Hay v́ lợi? Đó là những điều chúng ta hăy tự vấn tâm. Quí vị là đệ tử đă quy y với tôi, tôi hy vọng quí vị sớm thành Phật, hy vọng quí vị hăy buông bỏ chút ít các chuyện thế gian, lấy ít thời giờ tu học Phật pháp, chớ đừng có chờ tôi đến th́ quí vị mới đến, tôi không đến quí vị cũng chẳng đến.

Có người cho hay, nhà ở xa, lái xe cả hai hay ba tiếng đồng hồ mới tới. Vậy nếu phải lái hai tiếng, th́ ta hăy ngồi trên xe niệm Phật, tụng kinh điển, coi như có dịp ôn tập những điều đă học hỏi trong Phật pháp. Tới được đây để nghe kinh nghe pháp chính là một cơ hội hy hữu. Hiện nay, quí vị đi cùng khắp nơi trên thế giới thử xem có một đạo tràng thứ hai nào ngày ngày đều có giảng kinh thuyết pháp, có người nghe cũng giảng, không có người nghe cũng giảng, đó là nghĩa làm sao? Bởi v́ chúng tôi muốn làm công tác chuyển pháp luân cho thật hữu hiệu, đem hết ḷng ra để hoằng dương Phật pháp.

Quí vị muốn học tập Phật pháp hay là không, điều này thuộc quyền lợi của các vị. Tuy nhiên như vậy, quí vị như đă quy y Tam Bảo th́ cũng phải bỏ công sức cũng như thời gian ra để nghiên cứu Phật pháp, chớ đừng ngủ nghỉ cho uổng lúc nhàn rỗi. Quí vị học hỏi Phật pháp nhiều, tức thâu nhập món ăn cho Pháp thân quí vị, quí vị sẽ phát triển trí huệ, quí vị sẽ không điên đảo, đó là điều tối khẩn yếu.

Đây là những lời chân thật tôi nói với các vị. Nếu quí vị ngày ngày đến nghe kinh th́ tôi rất lấy làm hoan hỷ. Quí vị nghe qua băng ghi âm những lời tôi giảng trước đây hơn mười năm, cũng là hồi tôi đặc biệt mang hết công phu để giảng pháp. Quí vị chưa nghe qua th́ hăy nghe những cuốn băng đó từ đầu cho đến cuối, chớ đừng coi thường v́ đó cũng là một cơ hội hy hữu cho quí vị. Chính là: "Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, bách niên vạn kiếp nan tao ngộ. Ngă kim kiến văn đắc thọ tŕ, nguyện giải Như Lai chân thiệt nghĩa." Quí vị chớ để quang âm trôi qua một cách lăng phí, giảm bớt thú chơi mạt-trược đi, bớt xem điện ảnh đi,... hăy dùng thời gian đó mà nghe kinh nghe pháp, không c̣n ǵ tốt hơn.

Chủng tính tà, thố tri giải,

Bất đạt Như Lai viên đốn chế.

Nhị thừa tinh tấn một đạo tâm,

Ngoại đạo thông minh vô trí huệ.

Dịch:

Tánh tà vạy, giải lạc lầm,

Chẳng được pháp Như Lai đốn chế.

Hai thừa tinh tấn thiếu đạo tâm,

Ngoại đạo thông minh không trí huệ.

Chủng tính tà: Chỗ này nói người gieo hạt giống tà vạy, chính là do căn tánh bất chánh.

 

Thố tri giải: Ấy cũng bởi tri kiến không chân chánh.

Bất đạt Như Lai viên đốn chế: "Viên" nghĩa là viên dung vô ngại; "đốn" là đốn siêu ba giới. Nguyên nhân của tà tri tà kiến là không hiểu thấu lời Phật dạy. Những hạng có tà tri tà kiến không hiểu được đạo lư này, nên mới rơi vào nhị biên, rơi vào không, hay rơi vào có, chẳng chấp vào không th́ lại chấp vào có, không biết rằng pháp của Phật là viên dung vô ngại, cho nên nói kiến giải của họ bị lầm lạc (thố tri giải).

Nhị thừa tinh tấn một đạo tâm: Nhị thừa là chỉ hàng Thanh-văn và Duyên-giác. Họ có tinh tấn nhưng không phải là tinh tấn theo nghĩa trung đạo, bởi họ không biết phát tâm Đại thừa, chỉ lo tu cho ḿnh chớ chưa có tư tưởng cầu Phật đạo một cách chân chánh. Họ đi được nửa đường mà đă tự vạch ra lằn ranh, được chút ít đă coi là đủ, tóm lại họ không biết phát tâm bồ-đề của Đại thừa.

Ngoại đạo thông minh vô trí huệ: Hàng ngoại đạo cũng có kẻ thông minh, nhưng đó là kiểu thông minh biện bác theo lối thế gian, bởi họ đă dụng công trong tinh thần hữu lậu. Họ không biết rơ cảnh giới vô lậu.

Diệc ngu si, diệc tiểu ngăi,

Không quyền chỉ thượng sinh thực giải.

Chấp chỉ vi nguyệt uổng thi công,

Căn cảnh pháp trung hư niết quái.

Dịch:

Như trẻ dại, như ngu si,

Thấy nắm tay không quyền tưởng thiệt.

Chấp lấy ngón tay làm mặt nguyệt,

Bóng ma căn cảnh uổng công ghi.

Diệc ngu si: Những hạng người như vậy, có thể gọi họ là ngu si, cũng có thể nói họ có chút ít trí huệ. Bởi họ không có trí huệ chân chánh, trí thông minh chân chánh, chỉ là thế trí biện thông - trí thông minh biện bác của thế gian (một trong bát nạn) - cho nên gọi họ là ngu si.

Diệc tiểu ngăi: Trí huệ thế gian th́ họ có, trí huệ xuất thế gian th́ họ không có, bởi vậy họ không hiểu rơ lẽ trung đạo.

Không quyền chỉ thượng sinh thực giải: Như khi đức Phật thấy một đứa nhỏ sắp rớt xuống giếng, Ngài liền bảo: "Quay lại đi! Ta cho em một cục kẹo," trong khi đó Ngài nắm tay lại giống như cầm một vật ǵ. Sự thực trong tay không có ǵ hết, nhưng muốn cứu đứa nhỏ nên phải tạm t́m ra một phương cách, một pháp môn khôn khéo có tính cách tạm thời (quyền xảo phương tiện), nhưng kẻ ngu si cho là thiệt, cho là trong tay Phật có thể có kẹo thực sự. Đó là nghĩa của mấy chữ "sinh thực giải." Hoặc giả, kẻ ngu si biết chắc trong tay Phật chẳng có kẹo, bèn cho là Phật nói dối, đó là trường hợp không hiểu rơ pháp môn phương tiện.

Chấp chỉ vi nguyệt uổng thi công: Như có người lấy ngón tay chỉ mặt trăng, kẻ ngu si lại tưởng rằng đầu ngón tay chính là mặt trăng. Như vậy không những kẻ đó chẳng nhận ra mặt trăng thực mà ngay đến đầu ngón tay của ḿnh cũng không nhận ra nữa, thật là uổng công chỉ. Xem như vậy th́ dụng công theo lối đó chẳng bao giờ thành tựu được, không thể tương ưng với đạo. Tại sao vậy? Tại v́...

Căn cảnh pháp trung hư niết quái: Căn là sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư; cảnh là nói về sáu trần cảnh: sắc, thanh, hương, vị, xúc chạm và pháp. Lấy sáu căn và cảnh giới sáu trần để dụng công th́ há chẳng quái rở sao?

Bất kiến nhất pháp tức Như Lai,

Phương đắc danh vi Quán Tự Tại.

Liễu đắc nghiệp chướng bổn lai không.

Vị liễu ưng tu hoàn túc trái.

Dịch:

Chẳng thấy một pháp tức Như Lai,

Nên cũng kêu là Quán Tự Tại.

Tỏ rồi, nghiệp chướng hóa thành không,

Chưa tỏ, nợ xưa đành trang trải.

Bất kiến nhất pháp tức Như Lai: Như quí vị đă thông hiểu rơ tường, quét sạch mọi pháp, ĺa hết mọi tướng, chẳng thấy một chút pháp sanh, chẳng thấy một chút pháp diệt, một niềm nhẫn trong tâm, tức là quí vị đă chứng được vô sanh pháp nhẫn, nghĩa là một pháp cũng chẳng lập, lúc đó có cái ǵ c̣n lại nữa chăng? Đó chính là: Bổn lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai? Bổn lai không một vật tức là một pháp cũng chẳng lập, hà xứ nhạ trần ai tức làm ǵ c̣n chỗ nào để phiền năo? Đâu c̣n vấn đề nào nữa? Cho nên nói "chẳng thấy một pháp tức Như Lai," v́ nếu quí vị thấu rơ một pháp cũng chẳng lập th́ vạn niệm đều không.

Phương đắc danh vi Quán Tự Tại: Như vậy mới có thể gọi là Bồ-tát Quán Tự Tại một cách chân chánh. Bởi quí vị chẳng chạy đi đâu, chính quí vị làm chủ lấy ḿnh, chẳng hướng ra ngoài t́m kiếm, chẳng xoay sở điên đảo với sáu căn sáu trần của quí vị, đó mới gọi là Quán Tự Tại.

Liễu đắc nghiệp chướng bổn lai không: Nếu quả quí vị thông hiểu, quả quí vị đă khai ngộ th́ "sát na diệt khước a-tỳ-nghiệp," trong sát-na các tội của địa ngục vô gián đều tiêu diệt.

Nếu quí vị chưa thông hiểu ư?

Vị liễu ưng tu hoàn túc trái: Nếu quí vị chưa chứng ngộ, quí vị sẽ phải trả nghiệp do quí vị tạo tác từ trước, quí vị phải hoàn trả nợ. Quí vị ăn cơm, quí vị phải trả tiền cơm, quí vị mặc áo phải trả tiền may áo, ăn thịt trả tiền thịt, uống máu trả tiền máu, nợ máu trả máu. Nếu chưa chứng đạo, quí vị vẫn ch́m nổi trong luân hồi, lên xuống trong ṿng lục đạo, cùng nhau vay trả; quí vị vay của tôi, ngày khác quí vị sẽ trả; tôi vay của quí vị, cũng tới lúc tôi hoàn trả lại quí vị, cứ như vậy vay nợ lẫn nhau. Lại nói về vấn đề ăn thịt. Đương lúc ăn thịt quí vị thấy ngon lắm, tới khi quí vị phải trả nợ này th́ quí vị sẽ cảm thấy rất là đau đớn, ư nghĩa nó là như vậy.

Cơ phùng vương thiện bất năng san,

Bệnh ngộ y vương tranh đắc sái.

Tại dục hành thiền tri kiến lực,

Hỏa trung sanh liên chung bất hoại.

Dũng Thí phạm trọng ngộ vô sanh,

Tảo thời thành Phật ư kim tại.

Dịch:

Đói gặp tiệc vua không thể ăn,

Bệnh tránh y vương sao mạnh được?

Thiền trong biển dục rơ kiến lực,

Sen trong lửa đỏ muôn đời rực.

Dũng Thí phạm giới chứng vô sanh,

Sớm vẫn viên thành trong cơi dục.

Cơ phùng vương thiện bất năng san: Chỗ này nói người nghèo khổ, tuy trong bụng rất đói, nhưng khi gặp bữa cơm thịnh soạn của vua cho lại không dám ăn.

Bệnh ngộ y vương tranh đắc sái: Kẻ mang bệnh thật là khổ sở lại không dám tin vào thuốc chữa do vị y vương ban cho, như vậy th́ bệnh của y làm sao có thể khỏi được?

Kẻ cùng khổ thấy đồ ăn ngon mà không dám ăn, bởi v́ y quá sợ, quên luôn cả đói, mà có ăn cũng không nuốt trôi. C̣n người bệnh lẽ ra phải tin thầy thuốc, nay gặp được y vương lại không tin, cho nên bệnh không chữa khỏi.

Đại ư chỗ này nói rằng tự tánh của chúng ta cùng với Phật là đồng một thể. Khi gặp pháp Đại thừa lại không dám tin Đại thừa, không dám học pháp Đại thừa, th́ làm sao giải trừ được căn bệnh đói pháp? Bởi căn tánh ngu si - độn căn - nên gặp được y vương mà không biết tin (y vương đây chỉ đức Phật) th́ làm sao chữa khỏi được tám vạn bốn ngàn căn bệnh?

Tại dục hành thiền tri kiến lực: Dục là do vô minh sanh ra, chẳng biết tại sao như vậy, tuy nhiên nếu ở trong chỗ ô nhiễm mà vẫn giữ được thanh tịnh th́ gọi là "tại dục hành thiền." Cũng như "đản tri vô tâm ư vạn vật, hà phương vạn vật thường vi nhiễu," nghĩa là, chỉ cần đối trước vạn sự mà giữ được vô tâm, th́ lo ǵ bị hoàn cảnh quấy nhiễu. Đây là nói trạng thái vô tâm thực sự - chẳng phải cái lối tự lừa dối ḿnh, tỷ dụ quí vị chưa tới được tŕnh độ vô tâm mà quí vị nói quí vị vô tâm, quí vị cho là quí vị không bị ưu phiền, quí vị đă vượt lên trên cảnh giới đó, thực ra đây chỉ là cách "bịt tai, cắp chuông" đi mà thôi. Nay quí vị đương ở chỗ ô nhiễm mà vẫn giữ được thanh tịnh, cái đó gọi là "tại dục hành thiền," như trường hợp của Phó Đại sĩ, của Bàng cư sĩ, của Pháp sư Cưu-ma-la-thập, chẳng hạn. Họ có tri kiến lực, tức một loại định lực, một tri kiến thật sâu sắc (chân tri chước kiến).

Hỏa trung sanh liên chung bất hoại: Cũng như trường hợp hoa sen sanh trong ḷ lửa. Nguyên lửa không thể sanh ra hoa sen, vậy th́ trong cảnh dục mà hành thiền cũng tương tự như thế. Một điều không thể làm được mà quí vị lại làm được; đó là nghĩa lửa sanh hoa sen mà hoa không hủy hoại.

Dũng Thí phạm trọng ngộ vô sanh: Xưa có vị Tỳ-kheo tên là Dũng Thí. Ông phạm trọng tội, nhưng về sau ông sám hối sửa đổi, cho nên...

Tảo thời thành Phật ư kim tại: Dù đă phạm trọng tội, sau biết chân thành sám hối, th́ cũng thành Phật. Thực vậy, vị Tỳ-kheo đó nay đă thành Phật. Cho nên, chúng ta đừng sợ ḿnh có tội, chỉ sợ ḿnh không biết hối cải. Nếu quả có thể sửa lại lỗi lầm th́ không xa đường tu là bao nhiêu.

Sư tử hống, vô úy thuyết,

Thâm ta mông đổng ngoan b́ đát.

Chỉ tri phạm trọng chướng bồ-đề,

Bất kiến Như Lai khai bí quyết.,

Dịch:

Sư tử hống thuyết vô úy,

Thương thay ai vẫn mê mờ rối.

Mảng e tội chướng lấp bồ-đề,

Chẳng được Như Lai mở kho bí.

Sư tử hống: Sư tử là vua trong loài thú, cho nên một khi nó gầm lên, các thú đều sợ hăi.

Vô úy thí: Phật thuyết pháp có thể ví như sư tử rống. Các loại bàng môn ngoại đạo một khi nghe qua lời thuyết pháp vô úy của Ngài đều sợ hăi đến độ lông tóc dựng lên.

Thâm ta mông đổng ngoan b́ đát: "Thâm ta" nghĩa là than, thở than một cách sâu xa. "Mông đổng" nghĩa là không hiểu rơ. "Ngoan b́ đát" là tỷ dụ như da trâu, vừa dầy vừa thô, khó mà thấm vào bên trong, tóm lại là khó nói cho hiểu.

Chỉ tri phạm trọng chướng bồ-đề: Người ta chỉ biết rằng các trọng tội sẽ làm chướng ngại đạo bồ đề, chướng ngại cho sự giác ngộ, đại khái như phạm các tội giết người, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu. Chỉ biết như vậy tức là họ chưa thông suốt pháp sám hối, cái đó làm chướng ngại cho con đường tu đạo.

Bất kiến Như Lai khai bí quyết: Họ không hiểu rằng trong giới luật có các pháp phạm, giá, khai?ỉ tŕ, tác tŕ. Nếu như hành động mà vô tâm th́ vô tội, chỉ khi nào hữu tâm mới là phạm tội, đó chính là bí quyết Phật đă khai mở. Điều Phật nói đó có ư nghĩa rất b́nh đẳng, rất công bằng, không mảy may thiên lệch. Phật là rất công bằng chính trực, cho nên nói "sư tử hống vô úy thuyết." Phần trên đă có câu: Sư tử nhi, chúng tùy hậu, tam tuế tiện năng đại hao hống, đó là nói tới oai phong của loài sư tử, và Phật thuyết pháp cũng giống như sư tử gầm rống lên vậy.

Hữu nhị tỳ-kheo phạm dâm sát,

Ba-la huỳnh-quang tăng tội kết.

Duy-ma đại sĩ đốn trừ nghi,

Do như hách nhật tiêu sương tuyết.

Dịch:

Có hai tỳ-kheo phạm dâm sát,

Đóm huỳnh Ba-li thêm buộc xiết.

Bồ-tát Duy-ma chốc giải ngờ,

Như vừng dương hực tiêu sương tuyết.

Hữu nhị tỳ-kheo phạm dâm sát: Xưa có hai vị tỳ-kheo ở chung một nơi, một vị phạm vào giới dâm, một vị phạm vào giới sát. Bởi đâu mà phạm giới dâm? Số là hai vị tỳ-kheo này ở trong núi, rồi tới một hôm, một vị có việc phải xuống núi, c̣n vị kia, ở lại trên núi, nằm ngủ. Lúc đó có một người con gái hái củi đi qua, cô này sanh ḷng ô nhiễm, mới cưỡng gian vị tỳ-kheo này. Nhằm ngay lúc vị tỳ-kheo kia, sau khi xuống núi trở về, thấy cô gái đă làm tổn hại giới thể của bạn đồng tham với ḿnh, bèn chạy đuổi bắt cô gái. Chẳng may, khi chạy trốn, cô gái lỡ chân rớt xuống khe suối chết. Một vị th́ nhận đă phạm giới dâm, v́ hạnh bất tịnh của cô gái, c̣n vị kia nhạđuổi theo cô gái khiến cho cô này sẩy chân rớt xuống khe suối mà chết, nên nhận tội đă phạm giới sát.

Ba-la huỳnh-quang tăng tội kết: Cả hai t́m đến Tôn-giả Ba-la Huỳnh-quang để cầu xin sám hối. Việc này giải quyết ra sao? Tôn-giả bèn bảo rằng cả hai đều phạm vào tội vô gián địa ngục, có sám hối cũng không được và cũng chẳng c̣n biện pháp nào để giải tội cho họ cả. Hai vị tỳ-kheo đều cảm thấy trong ḷng có sự hoài nghi, họ tự nghĩ rằng: Việc phạm giới dâm chẳng phải do sự nguyện ư và phạm giới sát cũng như vậy, cả hai việc xảy ra không do cố ư, họ vô tâm, như vậy vẫn bị tội th́ chẳng công b́nh chút nào.

Duy-ma đại sĩ đốn trừ nghi: Do đó hai vị này đến thỉnh giáo cư sĩ Duy-ma-cật. Cư sĩ nói với hai người rằng: "Vô tâm vô tội," nghĩa là nếu quí vị không có ư phạm tội th́ chẳng có tội, và từ đó giải trừ được mối hoài nghi cho họ.

Do như hách nhật tiêu sương tuyết: Tỷ như ánh sáng gay gắt của mặt trời làm tan sương tuyết, đây là một loại sức mạnh giải thoát không thể nghĩ bàn.

Bất tư nghị giải thoát lực,

Diệu dụng Hằng sa dă vô cực.

Tứ sự cúng dường cảm từ lao.

Vạn lượng hoàng kim diệc tiêu đắc.

Phấn cốt toái thân vị túc thù,

Nhất cú liễu nhiên siêu bách ức.

Dịch:

Bàn nghĩ chi sức giải thoát,

Diệu dụng Hằng hà như số cát.

Bốn sự cúng dường dẫu nhọc hao,

Muôn lượng vàng ṛng dầu tiêu hết,

Thịt tan xương nát chửa đền xong,

Một câu thấu suốt tiêu ngàn ức.

Bất tư nghị: Không thể lấy tâm ư để nghĩ suy, không thể lấy ngôn từ để bàn luận.

Giải thoát lực: Một loại sức mạnh giải thoát.

Diệu dụng Hằng sa dă vô cực: Diệu dụng của nó đếm không xuể như số cát của sông Hằng.

Tứ sự cúng dường cảm từ lao: Cho nên phải lấy bốn thứ để cúng dường. Bốn thứ là ẩm thực, y phục, các vật dụng cần để nằm, thuốc thang. Sắm sửa bốn thứ này để cúng dường Tam Bảo, dầu có lao khổ cũng không suy từ.

Vạn lượng hoàng kim diệc tiêu đắc: Để đổi lấy sức mạnh giải thoát không thể nghĩ bàn đó th́ cúng dường cả vạn lạng vàng ṛng cũng đáng.

Phấn cốt toái thân vị túc thù: Nếu quí vị có thể thấu được chỗ ảo diệu của Phật pháp th́ dẫu quí vị có tan xương nát thịt cũng chưa đủ báo đáp ơn của Phật, ơn của Pháp cũng như của ân sư.

Nhất cú liễu nhiên siêu bách ức: Nếu quả quí vị thấu hiểu minh bạch một câu cũng đủ đưa quí vị vượt qua trăm vạn a-tăng-kỳ kiếp, vô lượng vô số a-tăng-kỳ kiếp, cả một thời gian dài như vậy quí vị cũng vượt qua.

Pháp trung vương, tối cao thắng,

Hằng sa Như Lai đồng cộng chứng.

Ngă kim giải thử như ư châu,

Tín thọ chi giả giai tương ứng.

Dịch:

Pháp này vua, là tối thắng,

Hằng sa Như Lai cùng chung chứng.

Ta nay giải vậy như ư châu,

Người người tin nhận đều tương ứng.

Pháp trung vương: Pháp này là vua trong các pháp.

Tối cao thắng: Nghĩa là pháp này rất cao siêu, thù thắng, không có pháp nào sánh được.

Hằng sa Như Lai đồng cộng chứng: Các vị Phật nhiều như số cát sông Hằng, đều theo pháp môn này và đều chứng được Pháp thân.

Ngă kim giải thử như ư châu: Hôm nay tôi giải bày pháp giác ngộ này, nó như là hạt ngọc như ư, bao hàm hết thảy mọi pháp.

Tín thọ chi giả giai tương ứng: Nếu có người nào tin theo và phụng hành th́ cũng sẽ đạt được ngang như vậy, chứng được lư thể của Pháp thân giống như của ba đời mười phương chư Phật thọ hưởng bốn đức của Niết-bàn, đó là thường, lạc, ngă, tịnh.

Liễu liễu kiến, vô nhất vật,

Diệc vô nhân, diệc vô Phật.

Đại thiên sa giới hải trung âu,

Nhất thiết thánh hiền như điện phất.

Giả sử thiết luân đỉnh thượng triền,

Định huệ viên minh chung bất thất.

Dịch:

Suốt suốt thấy không một vật,

Cũng không người, cũng không Phật.

Thế giới ba ngàn bọt nước xao,

Mỗi mỗi thánh hiền như điện phất.

Ví phỏng thiết luân trên đầu chuyển,

Định huệ sáng tṛn luôn chẳng biến.

Liễu liễu kiến, vô nhất vật: Nếu quí vị chứng được pháp này, quí vị sẽ thấy không c̣n vật ǵ nữa, đó chính là: "Bổn lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai," cái ǵ cũng chẳng c̣n.

Diệc vô nhân, diệc vô Phật: Người không c̣n, Phật cũng không, cho nên nói: "Nhất pháp bất lập, vạn tượng giai không," một pháp cũng chẳng lập, sum la vạn tượng đều không.

Đại thiên sa giới hải trung âu: Cả tam thiên đại thiên thế giới trong không gian cũng chỉ là cái bọt nổi trên mặt biển lớn, một chấm nhỏ li ti, chẳng to tát ǵ, cho nên trong kinh Lăng Nghiêm có câu: "Không sinh đại giác trung, như hải nhất âu phất," nghĩa là cái không trong đại giác tánh, cũng nhỏ như cái bọt so với biển cả vậy.

Nhất thiết thánh hiền như điện phất: Vào lúc đó, lúc đă quay về gốc, trở về nguồn, th́ hết thảy mọi thứ đều như như bất động, luôn luôn tỏ sáng (như như bất động, liễu liễu thường minh). Hết thảy thánh hiền lướt qua nhanh như điện chớp, không mảy may tung tích.

Giả sử thiết luân đỉnh thượng triền: Giả sử ṿng lửa đỏ có quay trên đầu, cũng không thiêu đốt được, chẳng hề hấn ǵ.

Định huệ viên minh chung bất thất: Nếu quí vị có được hạt ngọc như ư th́ tự nhiên định huệ của quí vị sẽ phát huy động lực. Mà nếu định huệ được viên minh th́ sẽ như thế nào? Xuống nước không bị chết ch́m, vào lửa không bị thiêu, tức là lửa có cháy cũng không đốt được quí vị, nước có ngập cũng không nhận ch́m quí vị được.

Nhật khả lănh, nguyệt khả nhiệt,

Chúng ma bất năng hoại chân thuyết.,

Tượng giá tranh vanh mạn tiến đồ,

Thùy kiến đường lang năng cự triệt.

Dịch:

Nguyệt dầu thành lửa, nhật thành băng,

Ma nào phá được chân thuyết hiện.

Xe voi dốc ngược vững đường lên,

Sức mấy bọ trời ngăn bước tiến.

Nhật khả lănh: Ta nói pháp này, giả sử mặt trời có nguội lạnh - mặt trời vốn nóng, không thể lạnh được - nhưng cứ giả sử nó có thể lạnh,

Nguyệt khả nhiệt: Mặt trăng vốn nó lạnh, không thể nóng, nhưng cứ giả sử nó có thể nóng - tức là một sự việc không thể làm nổi, không cách ǵ làm được mà lại hóa ra làm được, dầu có chuyện đó đi chăng nữa, nhưng...

Chúng ma bất năng hoại chân thuyết: Cái pháp tối cao siêu này, vua của các pháp, không đời nào bị bọn thiên ma ngoại đạo phá hủy cho được. Bởi vậy ma không thể phá nổi lời nói thật. Những lời chân thật mà ta nói, chẳng một ai phá được, chẳng một ai hủy được.

Tượng giá tranh vanh mạn tiến đồ: Như cái xe voi, quí vị thấy voi đi thủng thẳng, tưởng là xe đi chậm chạp, mà kỳ thực xe đi nhanh.

Thùy kiến đường lang năng cự triệt: Con bọ ngựa là một loài động vật nhỏ, thử hỏi sức nó có cản được xe voi chăng? Không thể được. Cho nên, thiên ma ngoại đạo chẳng có cách nào phá hoại được chánh pháp.

Đại tượng bất du ư thỏ kính,

Đại ngộ bất câu ư tiểu tiết.

Mạc tương quản kiến báng thương thương,

Vị liễu ngô kim vi quân quyết.

Dịch:

Voi lớn đâu thèm đi dấu thỏ,

Ngộ lớn xá ǵ chút tiết nhỏ.

Đừng ḍm trong ống biếm trời xanh,

Chưa tỏ, v́ anh ta mở rơ.

Đại tượng bất du ư thỏ kính: Voi lớn không đi trên lối đi của thỏ, nó đi trên đường lớn.

Đại ngộ bất câu ư tiểu tiết: Những người đă ngộ đạo, đại triệt đại ngộ, th́ hoàn toàn không bị câu thúc, không bị ngăn ngại, họ ở trong trạng thái không người không ta, không nệ vào các tiểu tiết. Quí vị thấy có lúc họ mắng người, có lúc họ đánh người nữa. Cớ sao, họ là người tu hành lại c̣n mắng người, đánh người vậy? Bởi v́ họ đă khai ngộ, thấy rơ cơ duyên, thấy lúc nào cần đánh th́ họ đánh, cần mắng th́ mắng, chẳng câu nệ tiểu tiết, chẳng phải cứ khư khư giữ vẻ tao nhă lễ nghi. Họ chảng quản ǵ hết.

Mạc tương quản kiến báng thương thương: Chúng ta không nên thấy Ḥa thượng Chí-công như vậy mà đem ḷng phỉ báng, bảo rằng ông ấy ăn thịt cầy, ông ấy uống rượu, là không tốt. Sư tổ Chí-công mỗi ngày ăn hai con chim bồ câu, nhưng khi chúng được nấu chín và khi Sư tổ ăn xong, người khạc ra th́ hai con đó sống trở lại. Cho nên chúng ta không nên lấy con mắt phàm phu mà nhận xét trí huệ của bậc thánh nhân, cho nên câu trên nói, đừng ngắm qua ống trúc để biết trời xanh rộng lớn chừng nào. Đó là phỉ báng trời, cho là trời quá nhỏ. Như vậy là không đúng.

Vị liễu ngô kim vi quân quyết: Nếu như quí vị vẫn chưa hiểu những điều đó, bây giờ ta làm bài ca này để cho quí vị đọc vài lần th́ quí vị sẽ hiểu thấu đáo.

Hết

 

back_to_top.png

[ TRANG CHỦ | KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0