佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

 T1957

LƯỢC LUẬN VỀ NGHĨA AN LẠC TỊNH ĐỘ

Nguyên tác: Đại sư Thích Đàm Loan.

Việt dịch: T́-kheo Thích Bửu Hà.

          Hỏi: Nước An Lạc thuộc cơi nào trong ba cơi?

          Đáp: Thích luận ghi: “Tịnh độ chẳng thuộc ba cơi. V́ sao? V́ không c̣n dục nên chẳng thuộc cơi Dục, v́ sống trên đất nên chẳng thuộc cơi Sắc, v́ có h́nh sắc nên chẳng thuộc cơi Vô sắc”.

Kinh ghi: “Đức Phật A-di-đà khi c̣n tu đạo bồ-tát, làm một vị t́-kheo tên là Pháp Tạng.Ngài đă thỉnh hỏi Phật Thế Tự Tại Vương về hạnh Tịnh độ của chư Phật. Lúc đó, Đức Phật Thế Tự Tại Vương giảng cho t́-kheo Pháp Tạng nghe về hai trăm mười ức cơi Phật, những việc thiện ác của trời người, cùng sự đẹp xấu của các quốc độ, tất cả đều giảng thuyết rơ ràng. Ngay lúc đó, t́-kheo Pháp Tạng đến trước Đức Phật, phát nguyện rộng lớn giữ lấy các cơi Phật. V́ thế, trong vô lượng a-tăng-ḱ kiếp, t́-kheo Pháp Tạng thực hành các ba-la-mật như đă phát nguyện, viên măn muôn điều thiện, thành đạo Vô thượng. Do biệt nghiệp mà được, nên chẳng thuộc ba cơi”.

          Hỏi: Nước An Lạc có mấy loại trang nghiêm mà được gọi là Tịnh độ?

          Đáp: Nếu y cứ nghĩa kinh th́ bốn mươi tám nguyện của t́-kheo Pháp Tạng là những loại trang nghiêm, t́m đọc sẽ biết, không cần phải nói lại. Nếu căn cứ luận Vô Lượng Thọ th́ dùng hai loại thanh tịnh tóm thâu hai mươi chín loại trang nghiêm thành tựu. Hai loại thanh tịnh là khí thế gian thanh tịnh và chúng sinh thế gian thanh tịnh.

-              Khí thế gian thanh tịnh: Khí thế gian thanh tịnh có mười bảy loại trang nghiêm thành tựu: Một, tướng quốc độ thù thắng, vượt trên ba cơi. Hai, quốc độ ấy rộng lớn như hư không, không có giới hạn. Ba, quốc độ do căn lành xuất thế chính đạo đại từ bi của bồ-tát h́nh thành. Bốn, thanh tịnh, trong sáng, tṛn đầy và trang nghiêm. Năm, đầy đủ đặc tính của châu báu bậc nhất, sản sinh các vật báu ḱ diệu. Sáu, ánh sáng thanh khiết thường chiếu thế gian. Bảy, các vật báu trong nước ấy rất mềm mại, chạm vào tâm liền vui thích, sinh niềm an lạc thù thắng. Tám, muôn ngh́n hoa báu trang nghiêm ao hồ, điện báu và lầu gác báu đều làm bằng các loại gỗ quí, ánh sáng nhiều màu sắc ảnh hiện các thế giới, vô lượng lưới báu giăng khắp hư không, chung quanh đều treo chuông, thường phát ra âm thanh diệu pháp. Chín, trong hư không tự nhiên tuôn hoa trời, áo trời trang nghiêm, hương trời xông khắp. Mười, ánh sáng trí tuệ Phật chiếu soi diệt trừ si ám. Mười một, Phạm thanh[1] khai ngộ vang khắp, mười phương đều nghe rơ. Mười hai, Đức A-di-đà Vô Thượng Pháp Vương dùng sức tu thiện để giữ ǵn. Mười ba, từ hoa thanh tịnh của Như Lai hóa sinh. Mười bốn, ưa thích hương vị Phật pháp, dùng thiền tam-muội[2] làm thức ăn, Mười lăm, ĺa hẳn các khổ của thân tâm, hưởng niềm vui không gián đoạn. Mười sáu, không bao giờ nghe đến danh từ Nhị thừa, người nữ, người thiếu căn. Mười bảy, những điều chúng sinh mong muốn đều có được đầy đủ và như ư. Mười bảy loại trang nghiêm này gọi là khí thế gian thanh tịnh.

-              Chúng sinh thế gian thanh tịnh: Chúng sinh thế gian thanh tịnh có mười hai loại trang nghiêm thành tựu: Một, đài hoa diệu ḱ với vô lượng châu báu quí hiếm dùng làm ṭa ngồi cho Phật. Hai, vô lượng tướng tốt và vẻ đẹp, vô lượng ánh sáng trang nghiêm thân Phật. Ba, Đức Phật dùng vô lượng biện tài tùy căn cơ nói pháp, rơ ràng đầy đủ, khiến người thích nghe; người nghe rồi nhất định sẽ lĩnh ngộ, không nói lời hư dối. Bốn, trí tuệ chân như của Phật giống như hư không, soi sáng tổng tướng và biệt tướng của các pháp, tâm không phân biệt. Năm, chúng trời người bất động, rộng lớn trang nghiêm, giống như núi Tu-di ánh hiện bốn biển lớn, đầy đủ tướng pháp vương. Sáu, thành tựu quả Vô thượng, không ai có thể sánh bằng, huống ǵ là vượt hơn. Bảy, là bậc Trượng phu của trời người, Điều ngự sư có đại chúng cung kính vây quanh, như các sư tử vây quanh sư tử chúa. Tám, sức bản nguyện của Phật trang nghiêm, giữ vững các công đức; những ai gặp được sẽ không uổng phí, có thể giúp họ chóng đầy đủ biển tất cả công đức; nhưng bồ-tát chưa được tịnh tâm th́ cuối cùng được chứng B́nh đẳng pháp thân[3]; bồ-tát tịnh tâm và bồ-tát thượng địa cuối cùng đồng tịch diệt b́nh đẳng. Chín, các chúng bồ-tát trong nước An Lạc không động thân mà đi khắp mười phương, ứng hóa các loại thân h́nh, như thật tu hành, thường làm việc Phật. Mười, ứng hóa thân của bồ-tát như vậy, đối với tất cả thời không trước, không sau; nhất tâm, nhất niệm phóng ánh sáng lớn, đến khắp mười phương thế giới giáo hóa chúng sinh, dùng tất cả phương tiện do tu hành thành tựu để diệt trừ tất cả khổ năo của chúng sinh. Mười một, các bồ-tát ấy ở khắp trong tất cả thế giới không sót, chiếu soi toàn bộ các hội lớn của chư Phật; lại cúng dường, cung kính, ca ngợi vô lượng công đức của chư Phật Như Lai. Mười hai, ở những nơi không có Tam bảo trong tất cả thế giới, th́ bồ-tát trụ tŕ, trang nghiêm biển lớn công đức Phật-pháp-tăng, chỉ dạy cho tất cả chúng sinh hiểu rơ, như thật tu hành. Tám loại trang nghiêm công đức thành tựu của Pháp vương và bốn loại trang nghiêm công đức thành tựu của bồ-tát, gọi là chúng sinh thế gian thanh tịnh.

          Cơi nước An Lạc đầy đủ hai mươi chín loại trang nghiêm công đức thành tựu như vậy cho nên gọi là Tịnh độ.

            Hỏi: Người sinh vào cơi An Lạc th́ có mấy phẩm bậc và mấy nhân duyên?

          Đáp: Trong kinh Vô Lượng Thọ chỉ nêu ba phẩm thượng, trung và hạ. Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ th́ mỗi phẩm lại phân ra ba bậc thượng, trung và hạ, thành chín phẩm. Nay y cứ vào kinh Vô Lượng Thọ mà bàn, lại căn cứ vào ba phẩm mà kinh này lập để luận.

          Người sinh phẩm thượng có năm nhân duyên: Một, xuất gia, ĺa dục làm sa-môn; hai, phát tâm vô thượng bồ-đề; ba, một mực chuyên niệm Đức Phật Vô Lượng Thọ; bốn, huân tu các công đức; năm, nguyện sinh vào nước An Lạc. Nếu người nào đầy đủ năm nhân duyên này, th́ khi lâm chung, Đức Phật Vô Lượng Thọ và đại thánh chúng hiện ra trước mắt, người đó liền theo Phật sinh đến nước An Lạc, tự nhiên hóa sinh từ trong hoa sen bảy báu, trụ ngôi Bất thoái chuyển, có trí tuệ dũng mănh, thần thông tự tại.

          Người sinh phẩm trung có bảy nhân duyên: Một, phát tâm vô thượng bồ-đề; hai, một mực chuyên niệm Phật Vô Lượng Thọ; ba, tu tập các điều thiện, vâng giữ trai giới; bốn, đúc tượng và xây tháp; năm, cúng dường thức ăn nước uống cho sa-môn; sáu, treo lụa, thắp đèn, dâng hoa, đốt hương cúng dường; bảy, đem những công đức này hồi hướng nguyện sinh về nước An Lạc. Người nào đầy đủ bảy nhân duyên này, th́ lúc lâm chung Đức Phật Vô Lượng Thọ hóa hiện thân ḿnh, đầy đủ ánh sáng và tướng hảo như Phật thật cùng với đại chúng hiện ra trước mắt, người đó lập tức theo hóa thân Phật sinh đến nước An Lạc, trụ ngôi Bất thối chuyển, nhưng công đức trí tuệ kém hơn phẩm thượng.

          Người sinh phẩm hạ có ba nhân duyên: Một, giả sử không có thể tạo công đức th́ phải phát tâm vô thượng bồ-đề; hai, một mực chuyên tâm dù chỉ mười niệm niệm Đức Phật Vô Lượng Thọ; ba, dùng tâm chí thành nguyện sinh nước An Lạc. Đầy đủ ba nhân duyên này, th́ lúc lâm chung mộng thấy Đức Phật Vô Lượng Thọ, cũng được văng sinh, nhưng công đức trí tuệ kém hơn phẩm trung.

          Lại có một hạng văng sinh nước An Lạc mà không thuộc ba phẩm trên. Đó là hạng người dùng tâm nghi ngờ mà tu tập các công đức nguyện sinh nước An Lạc. Họ nghi ngờ, không hiểu Phật trí, Bất tư nghị trí, Bất khả xưng trí, Đại thừa quảng trí, Vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí, nhưng vẫn c̣n tin tội phúc, tu tập căn lành, nên được sinh vào nước An Lạc. Lại khi được sinh vào cung điện bảy báu của nước An Lạc, hoặc một trăm do-tuần, hoặc năm trăm do-tuần, ở trong đó hưởng thụ các khoái lạc tự nhiên như cơi trời Đao-lợi. Nhưng trong năm trăm năm, họ không gặp Phật, không nghe kinh pháp, không thấy bồ-tát và thánh chúng thanh văn. Đây là biên địa của cơi An Lạc, cũng gọi là thai sinh. Nói biên địa, v́ năm trăm năm không thấy nghe Tam bảo, theo nghĩa th́ đồng với nạn biên địa, hoặc cũng ở biên giới nước An Lạc. Nói thai sinh, là giống như khi người vừa sinh ra từ thai, nhân pháp chưa thành. Biên địa là nói về nạn, thai sinh là nói về tối tăm. Hai tên gọi này đều là mượn điều này để nói kia thôi, chứ chẳng phải là biên địa trong tám nạn, cũng chẳng phải là thai sinh từ bào thai. V́ sao biết được? V́ nước An Lạc chỉ toàn là hóa sinh, cho nên biết chẳng phải thai sinh; v́ năm trăm năm sau lại được thấy nghe Tam bảo, cho nên biết chẳng phải biên địa trong tám nạn.

          Hỏi: Loài thai sinh ở trong cung điện bảy báu có được vui thích không? Nhớ nghĩ điều ǵ?

          Đáp: Trong kinh ví dụ: “Giống như con của Chuyển luân thánh vương đắc tội với vua cha, bị giam vào hậu cung, dùng gông vàng khóa lại, cung cấp đầy đủ các thứ đồ dùng như vua, không thiếu ǵ. Lúc này, vương tử tuy có đầy đủ các món đồ chơi tốt đẹp, nhưng tâm vẫn không được vui, chỉ nghĩ t́m phương cách để thoát khỏi nơi buồn khổ này”. Loài thai sinh kia cũng như vậy, tuy ở trong cung điện bảy báu, có các thứ sắc đẹp, âm thanh hay, hương thơm, vị ngon, cảm xúc thích thú nhưng không cho đó là vui; chỉ v́ không thấy Tam bảo, không được cúng dường, tu các căn lành, nên cho đó là khổ. V́ biết tội lỗi ngày trước của ḿnh, nên ḷng rất hối hận tự trách, muốn ĺa nơi ấy, liền được như ư. Trường hợp này đồng với ba bậc văng sinh, v́ năm trăm năm sau mới biết sám hối tội lỗi.

          Hỏi: Với tâm nghi hoặc văng sinh cơi An Lạc th́ gọi là thai sinh, nhưng v́ sao sinh nghi?

         Đáp:  Trong kinh chỉ ghi “Nghi hoặc, không tin” chứ không nêu ra nguyên nhân khiến tâm nghi. Xét năm câu “Không thông đạt…” dùng để đối trị mà luận về điều đó. “Không thông Phật trí” tức là không tin có thể thông đạt nhất thiết chủng trí[4] của Phật, v́ không thông đạt nên sinh nghi. Câu đầu tiên này tŕnh bày tổng quát chỗ nghi, bốn câu sau mỗi mỗi đối trị chỗ nghi. Nghi có bốn ư:

Một, nghi rằng chỉ nhớ niệm Đức Phật A-di-đà không chắc chắn được văng sinh nước An Lạc. V́ sao? Kinh ghi: “Nghiệp đạo như cái cân, bên nào nặng th́ kéo xuống trước”, nhưng tại sao sống một đời hoặc trăm năm, hoặc mười năm, hoặc một tháng, không việc ác nào không làm mà chỉ với mười niệm tương tục liền được văng sinh, vào chính định tụ[5], không bao giờ thoái lui, ĺa hẳn các khổ trong ba đường! Vậy th́ nghĩa bên nào nặng liền kéo xuống trước làm sao tin được? Lại từ nhiều kiếp lâu xa đến nay, đă gây tạo biết bao pháp phiền năo trói buộc trong ba cơi, v́ sao không đoạn kết hoặc trong ba cơi mà chỉ dùng ít thời niệm Phật A-di-đà th́ liền ra khỏi ba cơi? Ư nghĩa nghiệp trói buộc sẽ như thế nào đây? V́ đối trị tâm nghi này cho nên nói Bất tư nghị trí.

Bất tư nghị trí là trí Phật có năng lực biến ít trở thành nhiều, nhiều thành ít; gần thành xa, xa thành gần; nhẹ thành nặng, nặng thành nhẹ, dài thành ngắn, ngắn thành dài. Trí Phật như vậy, vô lượng vô biên, chẳng thể nghĩ bàn. Giống như trăm tiều phu đốn củi trong trăm năm , chất cao ngh́n nhận[6], nếu dùng đóm lửa bằng hạt đậu đốt th́ nửa ngày là cháy hết. Như vậy đâu thể nói củi chứa trăm năm, trong nữa ngày cháy không hết!

Lại như người tàn tật đi nhờ thuyền, v́ buồn thuận gió nên một ngày đi cả ngh́n dặm. Như vậy đâu thể nói người tàn tật không thể một ngày đi được ngh́n dặm! Như người nghèo khó, nhặt được vật quí, đem dâng cho vua. Vua được vật quí rất mừng, nên trọng thưởng cho người nghèo ấy. Trong phút chốc người nghèo ấy bỗng nhiên giàu có sung túc. Như vậy há có thể nói: “Ta mấy mươi năm làm quan, siêng năng gian khổ, c̣n không được ǵ mà quay trở về, người kia bỗng nhiên được giàu sang th́ thật là vô lí!”, được sao?

Lại như người yếu, dùng hết sức ḿnh vọt lên lưng con lừa không nổi, nhưng nếu đi theo Chuyển luân vương th́ nương hư không bay đi tự nhiên. Như vậy đâu thể nói kẻ yếu sức nhảy lên lưng con lừa không nổi nhất định không thể bay trên hư không!

Lại như mười dây thừng rất lớn, ngh́n người có sức mạnh không thể bứt đứt, nhưng đứa trẻ vung kiếm th́ trong khoảng khắc đứt làm đôi. Như vậy đâu thể nói sức trẻ con không thể làm đứt nổi dây thừng! Lại như khi loài chim trấm[7] xuống nước th́ cá cua… liền chết, nếu đem sừng tê giác khuấy vào bùn th́ những con vật đă chết kia đều sống lại. Như vậy đâu được nói tính mạng một khi đă chấm dứt th́ không thể sống lại! Như chim hoàng hộc[8] gọi Tử An[9], Tử An liền sống lại. Như vậy đâu được nói ngh́n năm dưới mồ nhất định không thể sống lại!

          Tất cả vạn pháp đều có tự lực và tha lực, tự nhiếp và tha nhiếp, ngh́n mở vạn đóng, vô lượng vô biên, đâu thể đem sự hiểu biết có ngăn ngại để nghi ngờ pháp vô ngại kia.

            Hai, nghi trí Phật không cao siêu hơn người. V́ sao? V́ tất cả danh tự đều từ đối đăi sinh, hiểu biết từ không hiểu biết sinh, lạc phương hướng từ chỗ ghi nhớ phương hướng mà sinh. Nếu mê hoàn toàn chẳng mê, th́ mê rốt cuộc chẳng phải ngộ; nếu mê có thể ngộ, th́ chắn chắn mê là ngộ, cũng có thể nói ngộ là mê. Mê-ngộ, ngộ-mê giống như lật bàn tay. Vậy đâu có thể cho sáng-tối khác nhau, cũng đâu có ǵ cao siêu? Do khởi nghi này nên sinh tâm nghi ngờ trí tuệ Phật. Để đối trị tâm nghi này, cho nên Phật nói Bất khả xưng trí.

        Bất khả xưng trí là trí Phật bặt dứt tên gọi, chẳng thuộc h́nh tướng đối đăi. V́ sao nói như thế? Nếu pháp đă có, th́ nhất định phải có trí biết có; nếu pháp đă không, th́ cũng phải có trí biết không. Các pháp ĺa có-không, mà Phật thông đạt các pháp, nên trí dứt bặt đối đăi. Ông dẫn ngộ-mê làm ví dụ th́ vẫn chỉ là mê, chưa phải là mê-ngộ. Cũng như trong mộng giải mộng với người khác, tuy nói là giải mộng nhưng không phải là không có mộng. V́ nói biết Phật, tức không biết Phật; v́ nói không biết Phật, th́ cũng chẳng biết Phật; v́ nói chẳng biết, chẳng phải không biết Phật, th́ cũng chẳng biết Phật; v́ nói chẳng phải chẳng biết, chẳng phải chẳng phải không biết th́ cũng chẳng biết Phật”. Trí Phật ĺa bốn câu này, duyên theo nó th́ tâm hành diệt, chỉ cho biết th́ ngôn ngữ đoạn. V́ nghĩa này cho nên Thích luận ghi: “Nếu người thấy bát-nhă, đó chính là bị trói buộc; nếu không thấy bát-nhă, đó cũng là bị trói buộc. Nếu người thấy bát-nhă, đó chính là giải thoát; nếu không thấy bát-nhă, đó cũng là giải thoát”. Bài kệ này nói không ĺa bốn câu th́ bị trói buộc, ĺa bốn câu th́ được giải thoát. Ông nghi trí Phật không cao siêu hơn người th́ không đúng tí nào!

          Ba, nghi Phật thật không thể độ tất cả chúng sinh. V́ sao? V́ đời quá khứ có vô lượng a-tăng-ḱ hằng-sa chư Phật; hiện tại cũng có vô lượng vô biên a-tăng-ḱ hằng-sa chư Phật trong thế giới khắp mười phương. Nếu Phật thật có thể độ tất cả chúng sinh, th́ ba cơi đă phải không c̣n từ lâu. Phật thứ hai không cần v́ chúng sinh, phát tâm bồ-đề, tu tập Tịnh độ, nhiếp thụ chúng sinh. Nhưng thật có Phật thứ hai nhiếp thụ chúng sinh, cho đến thật có vô lượng chư Phật trong mười phương ba đời nhiếp thụ chúng sinh. V́ thế nên biết Phật thật không thể độ tất cả chúng sinh. V́ khởi nghi này nên khởi ư niệm Đức Phật A-di-đà có hạn lượng. Để đối trị nghi này nên nói Đại thừa quảng trí.

          Đại thừa quảng trí là trí Phật biết tất cả pháp, đoạn sạch phiền năo, đầy đủ muôn thiện, độ tất cả chúng sinh. Sở dĩ có ba đời, mười phương là có năm nghĩa: Một, nếu không có Phật thứ hai, cho đến không có a-tăng-ḱ hằng-sa chư Phật th́ Phật không thể độ tất cả chúng sinh. V́ thật có thể độ tất cả chúng sinh, nên có vô lượng chư Phật trong mười phương, vô lượng chư Phật tức là vô lượng chúng sinh đă được Phật trước cứu độ. Hai, nếu một Phật độ hết chúng sinh th́ đă không cần có các Phật sau. V́ sao? V́ không có nghĩa giác tha, th́ căn cứ nghĩa ǵ để nói có ba đời chư Phật? V́ căn cứ nghĩa giác tha, nên nói chư Phật đều độ tất cả chúng sinh. Ba, năng lực độ sinh của các Phật sau vẫn là năng lực của Phật trước. V́ sao? V́ Phật trước nên mới có Phật sau. Giống như ḍng dơi đế vương, nối tiếp kế thừa, năng lực vua sau tức là năng lực của vua trước. Bốn, năng lực của Phật tuy có thể độ tất cả chúng sinh, nhưng cần phải có nhân duyên, nếu chúng sinh không có nhân duyên với Phật trước th́ phải đợi Phật sau. Như vậy, chúng sinh không có duyên, dù trải qua trăm ngh́n vạn Phật vẫn không nghe, không thấy, chứ chẳng phải do năng lực của Phật yếu kém. Giống như mặt trời, mặt trăng chiếu soi khắp thiên hạ, phá tan những tối tắm, nhưng người mù th́ không thấy, chứ chẳng phải mặt trời, mặt trăng không sáng; tiếng sấm rền tai, nhưng người điếc th́ không nghe, chứ chẳng phải âm thanh không chấn động. Thông đạt lí của các duyên th́ gọi Phật. Nếu tâm cưỡng trái với lí duyên th́ chẳng phải chính giác. Thế nên, chúng sinh vô lượng, Phật cũng vô lượng. Đă trái với Phật th́ chớ hỏi có duyên, không duyên, v́ sao không độ hết chúng sinh, th́ lời này thật vô lí. Năm, chúng sinh nếu tận th́ thế gian liền rơi vào hữu biên. V́ nghĩa này, cho nên có vô lượng Phật độ tất cả chúng sinh.

          Hỏi: Nếu chúng sinh không tận th́ thế gian lại phải rơi vào vô biên. V́ vô biên, nên Phật thật không thể độ tất cả chúng sinh sao?

          Đáp: Thế gian chẳng phải hữu biên cũng chẳng phải vô biên…, ĺa bốn phàm trù như vậy. Phật dạy chúng sinh ĺa bốn câu này, đó chính là độ. Nhưng ḱ thật chẳng phải độ cũng chẳng phải không độ, chẳng phải tận cũng chẳng phải không tận. Giống như người nằm mộng thấy ḿnh đang vượt biển lớn, gặp sóng to và các chướng nạn, người ấy sợ hăi kêu lớn, vang ra ngoài. Người bên ngoài nghe tiếng gọi giật ḿnh thức dậy, nhưng biết người kia nằm mộng, nên b́nh thản không lo lắng, chỉ là vượt mộng chứ không phải vượt biển.

            Hỏi: Nói độ và không độ đều rơi vào biên kiến, vậy th́ v́ sao chỉ nói trí độ tất cả chúng sinh là Đại thừa quảng trí mà không nói là không độ chúng sinh là Đại thừa quảng trí?

          Đáp: chúng sinh đều chán khổ cầu vui, sợ trói buộc cầu giải thoát. Cho nên khi nghe độ th́ nương về, nghe không độ th́ không biết v́ sao không độ, liền cho Phật không từ bi, nên không nương về. V́ không nương về, cho nên ngủ măi trong mộng dài, không biết làm sao tỉnh thức. Phật v́ những hạng người này mà thường nói nhiều về độ mà không nói đến không độ. Lại nữa, kinh Chư Pháp Vô Hành cũng có ghi: “Phật không chứng Phật đạo, cũng không độ chúng sinh; chỉ v́ hàng phàm phu vọng phân biệt nói có thành Phật và độ chúng sinh”. Nói độ chúng sinh là đối trị tất-đàn[10]; không độ chúng sinh là đệ nhất nghĩa tất-đàn[11]. Hai lời nói này đều có nguyên do, không trái ngược nhau.

          Hỏi: Nếu mộng dứt th́ lẽ nào không phải là độ? Nếu tất cả chúng sinh đều dứt mộng th́ thế gian lẽ nào không tận?

          Đáp: Nói mộng là thế gian, nếu mộng dứt th́ không c̣n mộng, không c̣n mộng th́ cũng không nói đến độ. Như thế nên biết, thế gian tức là xuất thế gian, tuy độ vô lượng chúng sinh nhưng không rơi vào điên đảo.

          Bốn, nghi Phật không được Nhất thiết chủng trí. V́ sao? V́ nếu có thể biết hết thảy các pháp th́ các pháp rơi vào hữu biên; nếu không biết hết thảy các pháp th́ chẳng phải Nhất thiết chủng trí. Để đối trị nghi này nên Phật nói Vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí.

          Vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí: Trí của phàm phu hư vọng, trí của Phật như thật, hư vọng và như thật khác nhau rất xa, theo lẽ không thể sánh ngang, cho nên nói là vô đẳng. Hàng thanh văn, bích-chi-phật muốn biết các pháp, phải vào định mới biết, rời khỏi định th́ không biết, nhưng cũng chỉ biết giới hạn. Phật được tam-muội Như thật, thường ở trong thiền định sâu xa, nên biết rơ vạn pháp không hai, pháp ấy sâu xa vi diệu không ǵ sánh bằng, cho nên nói là vô luân. Bồ-tát Bát địa trở lên, tuy được dụng của tam-muội[12] Báo sinh, không c̣n ra vào, nhưng tập khí nhẹ huân vào tam-muội, nên không được hoàn toàn thanh tịnh sáng suốt, nếu so sánh th́ trí Phật vẫn ở trên. Phật đầy đủ trí-đoạn[13], như pháp chiếu soi, pháp vô lượng nên chiếu cũng vô lượng. Giống như cái hộp lớn th́ sức chứa cũng lớn, cho nên nói là tối thượng.

          Ba câu này cũng có thể xoay vần bổ xung nhau, v́ trí Phật không ai bằng cho nên vô luân, v́ vô luân cho nên tối thượng thù thắng; cũng có thể nói v́ trí Phật tối thượng thắng cho nên vô đẳng, v́ vô đẳng cho nên vô luân. Vậy th́ chỉ nói vô đẳng là đủ, đâu cần nói hai câu sau? Giống như trí của tu-đà-hoàn, tuy không bằng trí của a-la-hán, những cùng một trí. Bồ-tát Sơ địa đến Thập địa cũng như vậy, trí tuy không ngang nhau, nhưng cùng một trí. V́ sao? V́ chẳng tối thượng. Ông dùng hữu biên-vô biên để gạn hỏi, để nghi Phật chẳng phải bậc Nhất thiết trí, thật là điều không đúng.

          Hỏi: Trong phần sinh phẩm hạ có nói “Mười niệm tương tục liền được văng sinh”. Thế nào là mười niệm tương tục?

          Đáp: Giống như có người trên đường về nhà, đến đoạn đường hoang vắng th́ gặp giặc cướp. Chúng vung đao dũng mănh, xông tới muốn giết. Người ấy chạy nhanh, khi gặp con sông, th́ liền muốn vượt qua, nếu qua sông được th́ tính mạng mới bảo toàn. Bấy giờ, người ấy chỉ nghĩ cách qua sông: “Nếu ta qua sông, th́ nên mặc áo hay không mặc áo? Nếu vẫn mặc áo th́ e rằng không qua được, nếu cởi áo ra th́ sợ không kịp!”. Người ấy chỉ suy nghĩ như vậy, chứ không nghĩ ǵ khác. Chỉ một ư niệm làm sao qua sông, chính là một niệm. Như thế cho đến mười niệm, tâm không tạp loạn, th́ gọi là mười niệm tương tục. Hành giả cũng vậy, niệm Đức Phật A-di-đà, như người kia nghĩ cách qua sông, cho đến mười niệm: Như niệm danh hiệu của Phật, hoặc niệm tướng tốt và vẻ đẹp của Phật, hoặc niệm ánh sáng của Phật, hoặc niệm thần lực của Phật, hoặc niệm công đức của Phật, hoặc niệm trí tuệ của Phật, hoặc niệm bản nguyện của Phật. Như vậy không để cho niệm nào khác xen vào, tâm tâm nối tiếp nhau cho đến mười niệm, gọi là mười niệm tương tục.

          Khi nói mười niệm tương tục th́ dường như không khó. Nhưng tâm kẻ phàm phu như con ngựa hoang, thức như vượn khỉ luôn rong ruổi theo sáu trần, không một giây dừng nghỉ. Phải có ḷng tin thật bền chắc, hiện tại chuyên niệm, lâu ngày tích tập thành tính, khiến cho căn lành vững chắc mới được. Như Đức Phật dạy vua Tần-bà-sa-la: “Người gom chứa hạnh lành th́ khi chết không có niệm xấu. Như cây nghiêng về hướng tây, nhất định phải ngă theo hướng ấy”. Chứ một khi lâm chung, trăm khổ dồn vào thân, nếu tâm không huân tập trước th́ làm sao mà niệm cho được.

          Lại nên lập ước nguyện với năm hoặc ba người đồng tâm chí, để đến khi lâm chung th́ luân phiên khai thị, xưng niệm danh hiệu Đức Phật A-di-đà, nguyện sinh nước An Lạc. Từng tiếng từng tiếng nối tiếp nhau sao cho thành mười niệm. Giống như con dấu bằng sáp ong in trên đất sét, con dấu sáp tuy hư hoại, nhưng trên đất đă in dấu; tức khi thân mạng này chấm dứt cũng chính là lúc sinh vào nước An Lạc. Một khi đă vào chính định tụ th́ c̣n ǵ phải lo nữa!

 



[1] Phm thanh 梵聲: Âm thanh ca Pht.

[2] Thin tam-mui 禪三昧: Ch thin-na và tam-mui. Thin-na, Phm: Dhyàna, Hán dch: Tư duy, tu tp. Tam-mui, Phm: Samàdhi, Hán dch: Đnh. Thin-na và tam-mui là cùng mt th mà khác tên.

[3]B́nh đng pháp thân 平等法身: Ch cho T tính pháp thân. Tc các B tát t đa v th tám tr lên đă chng được chân như b́nh đng tch dit, nhm vn t nhiên, tuy không cn gia công dng hnh, nhưng cũng có th đng thi th hin các loi giáo hóa, làm các Pht s trong khp mười phương thế gii, mà không có ư tưởng đi li, cũng không có ư tưởng to tác, cho nên gi là B́nh đng pháp thân.

[4] Nht thiết chng trí 一切種智: Trí tu này ch có đc Pht chng được. Tc là dùng 1 loi trí tu mà biết được nhân chng ca tt c các pháp và tt c chúng sinh, đng thi cũng là trí rơ sut tướng vng lng và hành loi ca các pháp.

[5] Chính đnh t正定聚: Ch người chc chn được chng ng trong s chúng sinh.

[6]Nhn : Đơn v đo chiu dài, đi Chu 8 thước là mt nhn, khong 6, 48m bây gi.

[7] Chim trm 鴆鳥: Mt loài chim rt đc. Ngày xưa bo ly cánh nó khuy vào rượu ung th́ chết ngay.

[8] Hoàng hc 黃鵠: Tên mt loài chim bay rt cao, c dài; c̣n gi là thiên nga.

[9] T An 子安: tiên nhân trong truyn thuyết ca Trung Hoa.

[10] Đi tr tt-đàn對治悉檀: Phương pháp tùy bnh cho thuc mà Đc Pht dùng đ đi tr phin năo ác nghip ca mi chúng sinh.

[11] Đ nht nghĩa tt-đàn第一義悉檀: Phương pháp dùng đ phá tr tt c s bin lun, vượt ra ngoài li nói.

[12] Báo sinh tam-mui 報生三昧: Tam-mui mà pháp thân B tát t đa th tám tr lên có được. Sau khi vào tam-mui này, tâm t nhiên tr thành vô công dng, có kh năng nhm vn vô tác mà th hin các loi thân đ tế đ chúng sinh hoc cúng dường Pht.

[13] trí đon智、斷: Trí đc và đon đc làm sáng t chân lư và đon dit phin năo.

 

 

back_to_top.png

 

 

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0