* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ | KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ |HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

Số 1857

BỬU TẠNG LUẬN

Tác Giả: Đại Sư Tăng Triệu -

Việt dịch: HT Thích Duy Lực

Xuất Bản Tại Saigon, Việt Nam 2001 

Lời Dịch giả

Phẩm 1 Quảng Chiếu Không Hữu

Phẩm 2 Ly Vi Thể Tịnh

Phẩm 3 Bản Tế Hư Huyền

BỬU TẠNG LUẬN tác giả là Tăng Triệu, bài luận này và bộ TRIỆU LUẬN đều có ghi trong tập 96 của TỤC TẠNG KINH, nhưng bộ Triệu Luận đă lưu hành từ xưa nay, mà trong đó lại sót bài luận này, chúng tôi xét thấy bài luận này diễn tả thể dụng của tự tánh rất hay, nhất là dùng hai chữ ly vi để sáng tỏ bản thể của tự tánh. Tự tánh vốn chẳng thể dùng lời nói để diễn tả được mà tác giả lại phương tiện giải thích rất kỹ càng.

Chúng tôi hy vọng: độc giả nhờ bài luận này được tăng cường ḷng tin đối với tự tâm, do đó quyết chí tu hành cho đến kiến tánh, chớ nên lầm tưởng, chấp thật lời phương tiện cho là chẳng cần tu, cũng như tự tánh chẳng cần ăn cơm mặc áo, nhưng người học đạo vẫn cần ăn cơm, mặc áo vậy.

Thích Duy Lực

PHẨM QUẢNG CHIẾU KHÔNG HỮU

(thứ nhất)

"Không" nếu làm "không" được th́ chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được th́ chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh, vô danh là cha của danh vô tướng là mẹ của tướng, ấy là nguồn gốc của muôn loài, thái tổ của trời đất, trên tỏ rơ đủ thứ h́nh tượng, dưới bày ra nhà cửa cây cối, nguyên khí (tự tánh) hàm nơi đại tượng, đại tượng ẩn nơi vô tướng, ấy là cái linh tánh hay nhận vật trong linh có thần, trong thần có thân, vô vi biến hóa, mỗi mỗi theo nơi tự nhiên. Vừa mống lên chút sự dụng th́ dần dần mới có danh tướng, tướng sanh khởi khi chưa có thật chất, danh lập ra lúc chưa có tên gọi, danh tướng đă hiện th́ du khí (1)[1] làm đục cái trong sạch của tự tánh, từ tịch liêu trống rỗng sanh ra đủ thứ phân biệt, trên th́ có vua, dưới th́ có thần, cha con thân cận cùng ở, tôn ty ngôi bậc khác nhau, đời sống văn minh bắt đầu, con người thành lập gia đ́nh, rồi từ đó tụ nhau h́nh thành bộ lạc, trong mỗi bộ lạc gồm nhiều hộ, mỗi người tự giữ lấy bổn phận của ḿnh. V́ an ninh trật tự mà đặt ra lễ giáo, nên có danh từ để phân chia thiện ác, người thiện được trọng, kẻ ác bị khinh; người trí thong thả, kẻ ngu tự trói, từ đó mống khởi đủ thứ thị phi, trên bày ra sự phiền phức, dưới chẳng có sự an vui, làm mất cái ư chí tự nhiên của con người, bị bó buộc vào cái khuôn khổ của ngoại vật, mê lầm cái hữu vi của vô vi, động thành cái tác dụng của hữu tác. Giáo hóa đă thi hành, khiến trên dưới đều phải tuân theo, cho nên, thanh lập ngũ âm, sắc lập ngũ sắc, hạnh lập ngũ hành, đức lập ngũđức, có thầy có tṛ, thầy đă dạy bảo tṛ phải tuân theo, mảy may xê dịch, lỗi bằng Tu Di, luật cấm khi chưa phạm, pḥng ngừa lúc chưa làm, có nhiều điều hạn chế, chẳng tha thứ khoan hồng. Tại sao vậy? V́ con người tham dục chẳng biết đủ, từ đó sanh ra hỗn loạn.

Trời đất vắng lặng, vũ trụ trống rỗng, trong niệm vừa dấy lên chút bụi trần, liền thành lớp màng che phủ con mắt của tự tánh. Cái bản thể lừng lẫy vốn là trong ngoài thần linh, vọng tưởng bỗng khởi th́ chơn nhất (tự tánh) ẩn dấu, do vọng sanh ư thức phân biệt nên chơn tánh bị mê hoặc, chẳng cần cầu mà mong cầu, chẳng cần đắc mà muốn đắc, nói về lư th́ vô cùng, nói về vật th́ vô tận, từ đó sanh ra động loạn, bên trong sanh khởi tam độc, bên ngoài lănh thọ ngũ dục, thân tâm bận rộn bối rối, đuổi theo thấy nghe, tùy cảnh tạo tác, như lửa cháy bừng. Nên bậc thánh kiến lập chánh giáo, nói ra chơn lư, khiến những kẻ ngu muội có nơi nương tựa, tu vô vi, ngưng hữu vi, dần dần đến chỗ như như. Cái lư như như này là bản thể của chơn tánh, chẳng thể tu chứng, chẳng thể mong cầu, chỉ là tánh tịch diệt vậy.

Nói đến chữ Chơn là tổ tiên của vạn vật, chẳng thế giới, chẳng chúng sanh, chẳng bờ bến, chẳng xứ sở, là căn bản của tam giới, chẳng cho mắt thấy tai nghe, chẳng có hồn phách và sắc tướng. Người tu chánh pháp trước tiên phải ĺa tướng, bặt t́nh ái, chẳng đuổi theo vật, chẳng chấp sanh tử, mới có thể dung hợp đại đạo, thông đạt thần minh. Có dụng là thần, có tướng là thân, vô vi là đạo, vô tướng là chơn, tùy vật lập danh, theo vật tạo tác, thường trụ thường tồn, chẳng sanh chẳng diệt. Lư hợp muôn đức, sự tỏ khôn khéo, sự dù vô cùng, lư chỉ có một. Chẳng có người chứng, chẳng có kẻ đắc, nhưng chẳng chứng chẳng đắc, nơi tâm vẫn c̣n mê hoặc, cái tâm chẳng chơn lại mê hoặc người khác, hoảng hốt như gặp ma, dùng tư tưởng suy cứu th́ cuối cùng chẳng có ǵ cả. Như gương bỗng có bụi, như trời bỗng có mây, tất cả duyên khởi với nhau, v́ vọng chấp thật có tồn tại, có vọng là ngu, chẳng vọng là chơn, như băng chơn tan thành nước, nước vọng đóng thành băng, băng nước dù hai, bản thể chẳng khác. Mê vọng là ngu, ngộ chơn là trí, mùa đông th́ băng chẳng thể tan, mùa xuân th́ nước chẳng thể đóng, nên ngu chẳng thể sửa ngay, trí chẳng thể liền được, băng tan dần rồi mới chảy vào biển cả, ấy là cái đạo của tự nhiên, sự dụng của nhiệm mầu, chẳng phải tâm niệm có thể suy lường, chỉ có thể kéo dài măi măi, chẳng thể siêng năng t́m cầu.

Cái nhân duyên vào đạo có muôn ngàn đường lối, như cá bị kẹt nơi vũng lầy, chim bệnh mắc trong đám sậy, cả hai đều chẳng biết nơi biển lớn rừng sâu, con người tu theo tiểu thừa th́ cái nghĩa cũng vậy. Ấy là phí công tu lâu, ngưng nghỉ giữa đường, v́ chẳng thông đạt được lư như như, bỏ lớn cầu nhỏ, được ít cho là đủ, tự an nơi tiểu an, chẳng bằng sự an ổn của đại an. Nói "đại" là mênh mông chẳng bờ bến, tất cả hàm linh vạn vật đều đồng, ứng cơ th́ có muôn ngàn phương tiện, biến hóa th́ có đủ thứ tướng hiện, nhưng chẳng xuất chẳng nhập, sự dụng chẳng có gián đoạn. Có tâm vô tướng, có dụng chẳng người, thị hiện sanh mà vô sanh, thị hiện thân mà vô thân, thường suy lường mà chẳng lường, thường biết mà chẳng biết, vi mà vô vi, đắc mà vô đắc, gương tỏ ngàn tượng, nước hiện muôn sắc, trong bóng phân ra trần thế tam giới, ứng dụng vô tận, vô tướng mà thành tướng, vô danh mà lập danh, loài vật cảm ứng với nhau, ḥa hợp mà sanh. Nhưng sanh cũng chẳng sanh, t́nh cũng chẳng t́nh chúng sanh gọi là thánh, chúng sanh gọi là minh, đủ thứ danh hiệu, tùy mọi vật mà gán tên, k thực đều lấy vô vi làm tông chỉ, vô tướng làm dung mạo, trống rỗng đồng như hư không, muốn t́m th́ chẳng có xứ sở, mà sự dụng thường ở trong đó. Kẻ đắc là nhất, kẻ chứng là mật, đắc th́ bất nhất, chứng th́ bất mật, nhưng phi bất nhất, phi bất mật, bản thể âm ly, sự dụng dương vi (âm ly và dương vi, giải thích nơi phẩm sau), nói lư th́ vô cùng, nói hành th́ vô tận, ấy gọi là thái vi (tự tánh). Cũng như cây cỏ vô cùng, nước suối vô tận, gió thổi chẳng ngưng, tiếng chuông chẳng ngừng, loài vật c̣n như vậy, huống chi là đạo! Sự hữu ắt phải chóng mất, sự vô ắt được lâu dài, trời đất dù có thay đổi, hư không luôn luôn trống rỗng.

Người học đạo th́ học theo vô dư, kẻ chẳng học đạo th́ học theo hữu dư. Vô dư th́ đạo gần, hữu dư th́ đạo xa, tri hữu th́ hữu hoại, tri vô th́ vô hoại, sự tri của chơn tri, hữu vô đều chẳng chấp, nơi hữu mà chẳng hữu, nơi vô mà chẳng vô, hữu vô đều chẳng chấp th́ tánh tướng như như, bản thể của tự tánh tịch nhiên vô vật, sự dụng từ đó mà ra. Nếu chẳng như thế th́ trở thành nhiều vọng nhiều sai, trong có mộng tưởng, do đó huân tập thành nhiều bệnh, chẳng hung mà hung, chẳng kiết mà kiết (lành), những việc kiết hung, chướng ngại chơn nhất, nên người hành đạo chẳng nên mê theo mộng tưởng.

Người học đạo có ba loại: một gọi là chơn, hai gọi là lân (lân cận), ba gọi là văn (nghe), tập học gọi là văn, tuyệt học gọi là lân, vượt cả hai này gọi là chơn. Người chẳng học đạo cũng có ba: bậc thượng gọi là tường, bậc trung gọi là lương, bậc hạ gọi là ương (tai họa); cực vui gọi là lương, cực khổ gọi là ương, chẳng khổ chẳng vui gọi là tường, nhưng ba loại này đều chẳng nhập chơn thường, tức là chẳng phải đạo vậy.

Tự tánh nhiệm mầu, sự dụng mênh mông, hễ tâm trần nhiễu động th́ như biển nổi làn sóng, thành sự sanh tử luân hồi trong lục đạo, chẳng thể dùng đạo tiếp tế, chẳng thể dùng Chơn cứu giúp, thật đáng buồn thay! Chư Phật thương xót như mẹ nhớ con, dù muốn độ hết nhưng phải có cơ duyên, nên có duyên th́ hiện, chẳng duyên th́ ẩn, đại đạo như thế, xưa nay đều vậy, chẳng thể th́nh ĺnh, chẳng thể làm gấp.

Chơn tánh tự có trí, trong trí tự có bi (từ bi), bi hay cứu khổ, khổ cứu chẳng được, Chỉ tự lao nhọc, hễ khi đđược th́ cứ độ tiếp măi. Nhưng chúng sanh thường ở trong mộng tưởng, dù học đạo siêng năng tinh tấn, nhưng chẳng tin tự tâm, mà t́m kiếm bên ngoài, lạc mất đường lối chánh pháp, như ô uế làm đục nước trong, bởi do t́nh chấp thật có thật không, chẳng ĺa được phiền năo, thật là khổ thay!

Mặt trời ẩn trong đám mây, dù sáng mà chẳng chiếu; trí huệ ẩn trong mê hoặc, dù chơn mà chẳng phải đạo. Tại sao vậy? V́ tự ḿnh chưa ra khỏi ràng buộc, cho nên xa th́ chẳng thể dung hợp, gần th́ chẳng thể ĺa bỏ, kẻ chưa đạt đạo chẳng nên làm càn! Kẻ quyết quay về th́ chẳng màng việc sau, kẻ quyết chiến th́ chẳng màng cái đầu, kẻ quyết học th́ chẳng quư cái thân, kẻ quyết học đạo th́ chẳng quư nơi sự, nhập chẳng dấu tích, xuất không chỗ t́m, ngộ vô sở đắc, phan duyên tự tịch, tịch mà chẳng sanh, tự thể vô danh, vô danh là thật, lư chẳng ngoài dục, hằng sa công đức, rơ ràng cụ túc.

Loài vật sống trong vỏ như cua, ốc th́ chẳng biết sự rộng lớn của vũ trụ; loài vật sống trong ao giếng th́ chẳng biết sự mênh mông của biển cả, trong tối th́ chẳng sáng, trong sáng th́ chẳng tối, các pháp mỗi mỗi chẳng biết nhau, nên vật cách t́nh ĺa, nghịch t́nh th́ khó hiểu, cũng như trái táo có sâu, bên trong đă hư mà bên ngoài vẫn tốt; như nước với cát cùng chảy th́ trên trong dưới đục; cũng như quốc gia có gian thần th́ đất nước chẳng yên, hễ trong tâm có ẩn dấu h́nh tướng th́ vạn vật đều loạn. Tại sao? V́ đă mắc bệnh vậy. Cho nên, hễ vật có linh (giác tri), linh tất có yểu (tà vọng), yểu tất có dục, dục tất có tâm (ư thức phân biệt), tâm tất có t́nh, t́nh động thành dục, yểu phát thành tinh (yêu tinh), tinh mê nơi thần, dục mê nơi chơn. Vậy th́ người học đạo chẳng nên lọt vào loại lân (tuyệt học), cũng như gương cổ chiếu soi yêu tinh th́ yêu tinh tự hiện h́nh, cổ giáo (giáo pháp của cổ đức) chiếu soi nơi tâm th́ tâm tự minh. Hễ nói về trời đất th́ có trên dưới; nói về nhựt nguyệt th́ có đông tây, nói về thân thể th́ có bỉ thử, nói về tâm thức th́ có thị phi, nếu không có bỉ thử th́ thị phi chẳng sanh. Chỉ v́ vật theo t́nh đổi, t́nh tùy vật dời, trong ngoài lay động, tâm đuổi theo vật, tự thành lao nhọc, khi sống thành người, khi chết thành hồn, tương tợ tương tục, như thân trong chiêm bao, khi chiêm bao th́ chấp cái thân trong chiêm bao là ta, vậy th́ cái thân thức tỉnh chẳng phải ta; khi thức tỉnh th́ chấp cái thân thức tỉnh là ta, vậy th́ cái thân trong chiêm bao chẳng phải ta. K thực, tất cả đều như chim bay trên trời, chẳng có dấu tích, những hiện tượng k lạ khó suy khó lường, âm dương tương đối, vơng tưởng âm thầm, mỗi mỗi tự có nhân quả?, sự vật như huyễn hóa, đủ thứ hiện tượng đều chẳng phải thật, ấy gọi là bất chơn, chỉ làm mê hoặc con người.

Chơn lư trống rỗng, vốn là vô thân, sự thần thông biến hóa như con rồng trên trời, sự che khuất vũ trụ như mây bỗng tụ, ấy chưa phải là quư, ấy chưa phải là chơn, nếu chấp đó cho là thật tức là người chưa đạt đạo. Hoặc có h́nh tướng đẹp đẻ, hoặc có ngôn ngữ biện tài, hoặc có trí huệ thông minh, hoặc có ứng dụng khéo léo, nếu chấp ấy cho là đạo cũng chưa phải là việc lành vậy. Sự hữu tất bất chơn, tạo tác tất bất thường, trời đất c̣n phải hoại, huống là vật chất, đâu thể vững chắc lâu bền!

Chỉ có đạo là vô căn (gốc), trạm nhiên thường tồn, chỉ có đạo là vô thể, vi diệu thường chơn, chỉ có đạo là vô sự, xưa nay thường quư chỉ có đạo là vô tâm, muôn vật đầy đủ. Nên đại đạo vô tướng, vô h́nh, vô sự, vô ư, vô tâm hay lợi ích chúng sanh vạn vật, làm chủ cho tất cả người và vật, vạn vật đều có đối đăi, chỉ có đại đạo độc tồn, bên ngoài chẳng có cái khác, bên trong chẳng phải trống rỗng, chẳng trong chẳng ngoài, bao hàm thái nhất (tự tánh), gồm cả vũ trụ, vạn vật đầy đủ. Cái thực tướng ấy phi nội phi ngoại, phi tiểu phi đại, phi nhất phi dị, phi minh phi muội, phi sanh phi diệt, phi thô phi tế, phi không phi hữu, phi khai phi bế, phi thượng phi hạ, phi hành phi hoại, phi động phi tịnh, phi quy phi thệ (mất), phi thâm phi thiển, phi ngu phi huệ, phi nghịch phi thuận, phi thông phi tắc, phi bần phi phú, phi tân phi cố (cũ), phi hảo (tốt) phi tệ (xấu), phi cương phi nhu, phi độc phi đôi, tại sao vậy? Nếu nói là nội th́ bao hàm pháp giới, nếu nói là ngoại th́ ứng dụng đầy đủ, nếu nói là tiểu th́ phổ khắp xa gần, nếu nói là đại th́ nhập vào vi trần, nếu nói là nhất th́ h́nh tướng đủ thứ, nếu nói là dị th́ bản thể vô vật, nếu nói là minh th́ mờ mờ mịt mịt, nếu nói là muội th́ chiếu soi sáng tỏ, nếu nói là sanh th́ vô tướng vô h́nh, nếu nói là diệt th́ xưa nay thường linh, nếu nói là thô th́ rút thành hạt bụi, nếu nói là tế th́ thân bằng tu di, nếu nói là không th́ sự dụng mênh mông, nếu nói là hữu th́ chẳng có dung mạo, nếu nói là khai th́ chẳng nhập trần ai, nếu nói là bế th́ nghĩa rộng vô biên, nếu nói là thượng th́ b́nh đẳng vô tướng, nếu nói là hạ th́ chẳng vật nào so bằng, nếu nói là thành th́ duyên hết liền tan, nếu nói là hoại th́ luôn luôn tồn tại, nếu nói là động th́ trạm nhiên vắng lặng, nếu nói là tịnh th́ bận rộn lăng xăng, nếu nói là quy th́ đi mà chẳng về, nếu nói là thệ th́ ứng cơ trở lại, nếu nói là thâm th́ vạn vật cùng ở, nếu nói là thiền th́ gốc chẳng thể t́m, nếu nói là ngu th́ ứng cơ chẳng sai, nếu nói là huệ th́ tịch diệt vô dư, nếu nói là nghịch th́ có tín có tựa, nếu nói là thuận th́ vật chẳng thể trói, nếu nói là thông th́ chẳng thấu tông tích, nếu nói là tắc th́ ra vào trống rỗng, nếu nói là bần th́ muôn ngàn công đức, nếu nói là phú th́ chẳng có một vật, nếu nói là tân th́ sẵn từ đời xưa, nếu nói là cố th́ vật chẳng ô nhiễm, nếu nói là hảo th́ chẳng vật để giữ, nếu nói là tệ th́ từ xưa vẫn vậy, nếu nói là cương th́ sanh diệt bất thường, nếu nói là nhu th́ sức mạnh vô cùng, nếu nói là độc th́ hằng sa chủng tộc, nếu nói là đôi th́ chơn nhất chỉ một. Nên đại đạo chẳng thể dùng chữ nhất để gán tên, chơn lư chẳng thể dùng một nghĩa nào để diễn tả, nay chỉ thể tŕnh bày đại khái, chẳng thể tỏ rơ tận cùng, dù cho chặt đầu thiêu xác cũng chẳng thể làm thương tổn sự sanh, kim đơn cam lồ cũng chẳng thể giữ măi sự sanh, nếu chơn sanh th́ bất diệt, chơn diệt th́ bất sanh, nên có thể gọi là thường diệt, cũng có thể gọi là thường sanh. Kẻ ham sanh sợ diệt ấy là chẳng ngộ lư thường diệt, kẻ muốn diệt chán sanh ấy là chẳng ngộ lư thường sanh, nhưng kẻ mê người ngộ đều là chẳng thấy chơn nhất, v́ có tâm lấy bỏ, đuổi theo t́nh chấp hư vọng vậy.

Thường không chẳng có, thường có chẳng không, nếu cả hai chẳng đối đăi th́ mỗi mỗi đều là chánh tông. Cho nên bậc thánh tùy có nói có, tùy không nói không, không chẳng trái có, có chẳng trái không, hai lời chẳng bệnh, hai nghĩa đồng thông, cho đến nói "ngă" cũng chẳng trái với "vô ngă", nói "sự" cũng chẳng trái với "vô sự", nên chẳng bị lời nói xoay chuyển.

Đúc vàng thành người, nếu chỉ nh́n người mà chẳng nh́n vàng th́ bị h́nh tướng mê hoặc, ấy gọi là mê, tại sao? V́ mất cái chơn vậy. Thế th́ tất cả đều huyễn, hư vọng chẳng thật, biết huyễn là huyễn, trong giữ chơn nhất, ngoài chẳng nhiễm vật, ấy là sự trống rỗng của thái nhất, th́ chơn đâu có mất! Quên tâm bỏ ư, thể ĺa bệnh tật (bệnh chấp thật), một tướng chẳng sanh, kiết hung tịch lặng, kiết c̣n không theo, hung làm ǵ được! Sự kiết sự hung đều chẳng nương tựa.

Đường lối vào đạo như nước trong lặng hiện bóng vạn tượng, trong ngoài rơ ràng, tâm chẳng nổi, ư chẳng sanh, chẳng xuất chẳng nhập, trạm tịch như như, trong ngoài chẳng nhiễm, vật chẳng biết nhau, chẳng nhờ lời nói văn tự, mỗi mỗi tự có cái bản nhất. Như lửa chẳng nhờ mặt trời mà nóng, gió chẳng nhờ mặt trăng mà mát, sáng chẳng nhờ tối, khô chẳng nhờ ướt, vật vật c̣n chẳng nhờ nhau huống chi là đạo!

Vạn vật do con người mới được hiện ra sự dụng, người phụ thuộc nơi vua, vua nương tựa nơi người, ngộ được tất cả bất nhị ấy gọi là Phật, tam giới độc tôn, giác ngộ vô vật, chẳng làm mà làm, việc làm đă xong, hiệu chánh biến tri. Là đạo sư của trời người, dẫn dắt chúng sanh, phương tiện tùy nghi, lư tịnh dù hư vô, ánh sáng siêu huệ nhật, chiếu khắp mười phương, trên dưới cùng được lợi ích, chẳng muốn khác với con người, chẳng muốn khác với trần thế, chẳng muốn khác với nghĩa lư, chẳng muốn khác với nhân quả, tất cả đều b́nh đẳng bất nhị, nhất thể viên thông, lư ấy khó thấy, nhờ sự ǵ, thiết phương tiện, lập ra pháp số, vấn đáp, ngôn luận, tùy cơ ứng hiện, gọi là chơn thật của đại tượng.

Kẻ ham bên ngoài là chấp trần, kẻ ham bên trong là chấp thân, kẻ ham thấy nghe là chấp tâm, dựa theo lục trần là dục giới, dựa theo h́nh tướng là sắc giới, dựa theo tâm so đo là vô sắc giới, diệt ba loại này gọi là đạo đế, hễ diệt đế tức là đạo vậy. Nhưng cái đạo này chỉ là phương tiện tạm thời, chưa phải là chánh, tam giới hư vọng chẳng thật, lục đạo như mộng huyễn vô vật. Người đạt đạo chẳng bỏ một pháp, chẳng đắc một pháp, chẳng tu một pháp, chẳng chứng một pháp, tự tánh thiên chơn trong sạch, gọi là đại đạo. Do đó quán khắp thiên hạ, tức người tức chơn, nếu ngộ lư này th́ b́nh đẳng đồng một, nhưng kẻ học đạo này đă hiếm có, mà kẻ đắc đạo này lại càng ít hơn, v́ việc này thâm sâu, mịt mù khó biết, người biết được là đạo sư, kẻ thông suốt là yên ổn, động tác vô tâm th́ tác mà vô vi, vô vi mà vi th́ vô sở bất vi, ḥa quang tùy vật nên vật chẳng thể trói.

Ở nơi trời đất, khắp cả vũ trụ, có một bửu vật, ẩn trong h́nh tượng, tự tánh linh chiếu, trong ngoài trống rỗng, tịch lặng khó thấy gọi là huyền diệu, sự dụng khéo léo ra ngoài tưởng tượng, sức lực ẩn nơi hư vô, tùy cơ giáo hóa mà chẳng động, độc nhất không hai, hễ lên tiếng th́ phát ra diệu âm, hiện h́nh th́ tỏ ra diệu sắc, muốn thấy th́ chẳng có xứ sở, chỉ có thể tạm gán tên gọi là không không. Chỉ giữ âm thanh, chẳng thấy h́nh tướng, chỉ giữ công đức, chẳng thấy dung mạo, ẩn hiện đều chiếu soi sáng tỏ, vật và lư dung thông ấy là bửu ấn của sum la, chơn tông của vạn tượng. Nói về h́nh tướng th́ âm thầm tịch lặng, bản thể trong sạch mà chẳng phải sáng, pháp vốn viên măn, quang minh siêu nhựt nguyệt, đức dụng vượt vũ trụ, vạn vật vô tác, tất cả vô danh, chuyển biến trời đất, tự tại tung hoành, hằng sa diệu dụng, hỗn độn mà thành, ai nghe được chẳng vui mừng, ai thấy được chẳng ngạc nhiên, chúng sanh tại sao cho cái bửu vật vô giá đem chôn vùi trong hầm của ngũ ấm lục nhập! Sự đen tối nhiều kiếp làm sao mà sáng được? Ấy là tự khinh, thật đáng thương xót!

Cái bửu vật ấy sáng lạn chói chang, chiếu khắp mười phương, tịch nhiên chẳng động, sự dụng cảm ứng rơ ràng, tùy thanh ứng thanh, tùy sắc ứng sắc, tùy âm ứng âm, tùy dương ứng dương, k lạ chẳng gốc, trạm nhiên thường tồn, mắt nh́n chẳng thấy, lắng tai chẳng nghe, bản thể nhiệm mầu, muôn ngàn biến hóa, diệu dụng linh động gọi là tinh vi của đại đạo. Cái tinh vi ấy rất chơn thật, là nhân sanh khởi của vạn vật, tịch liêu thường trụ, chẳng ǵ so bằng. Nên kinh nói: "tùy nơi tâm tịnh tức Phật độ tịnh", diệu dụng sum la gọi là Bậc thánh.

[1] Du khí: Vọng tưởng hóa thành khí trược, phù du lơ lững trong hư không, gọi là du khí.

PHẨM LY VI THỂ TỊNH

(thứ nh́)

Nhập là ly (ĺa), xuất là vi (tế). Ngoài ly biết nhập th́ ngoại trần chẳng có chỗ dựa, trong vi biết xuất th́ vọng tâm chẳng có chỗ tạo tác, trong tâm chẳng tạo tác th́ chư kiến (đủ thứ kiến chấp) chẳng thể chướng ngại, ngoại trần chẳng chỗ dựa th́ vạn vật chẳng thể trói buộc. Vạn vật chẳng thể trói th́ tưởng niệm chẳng đuổi theo cảnh, chư kiến chẳng chướng ngại th́ tịch diệt bất tư ngh́. Sao gọi là thể tịnh? V́ bản thể tự ly vi vậy.

Nói về thể nhập nên gọi là ly, nói về sự dụng nên gọi là vi, dung hợp thành một th́ chẳng ly chẳng vi. Thể ly th́ chẳng thể nhiễm, chẳng nhiễm nên chẳng phải tịnh, thể vi th́ chẳng thể có, chẳng có nên chẳng chỗ dựa, vậy th́ dùng mà chẳng có, tịch mà chẳng không. Chẳng không nên chẳng phải đoạn, chẳng có nên chẳng phải thường.

Cái tánh của ly vi chẳng lấy chẳng bỏ, chẳng tu chẳng học, chẳng phải xưa không mà nay có, chẳng phải xưa có mà nay không. Cho đến một pháp chẳng sanh, một pháp chẳng diệt, chẳng phụ thuộc nơi tam giới, chẳng biến hóa theo lục đạo, chẳng sửa đổi theo ngu trí, chẳng xoay chuyển theo chơn vọng, phổ biến b́nh đẳng, tất cả viên măn gọi là một đại pháp giới, cũng gọi là nguồn gốc của sự ứng cơ giáo hóa. Kẻ mê th́ uổng tu nhiều kiếp, kẻ ngộ th́ ngay đó tịch lặng, hễ có sự ham muốn th́ chẳng thấy cái ly, hễ có sự tạo tác th́ chẳng thấy cái vi. Kẻ chẳng thấy vi tức là bên trong nổi ác kiến, kẻ chẳng thấy ly tức là bên ngoài khởi trần lao, ngoài khởi trần lao nên bị cảnh ma nhiễu loạn, trong nổi ác kiến nên bị tà kiến mê hoặc, trong ngoài đă có nhân duyên sanh khởi th́ chơn nhất tự ẩn. V́ vậy kẻ mê ly nhiễm theo vọng gọi là phàm phu, kẻ mê nhiễm ly theo vọng gọi là nhị thừa, kẻ thông đạt bổn tánh của ly gọi là Bồ tát, kẻ liễu đạt tam thừa chẳng khác gọi là b́nh đẳng chơn Phật. Nhưng lư ấy thâm sâu, ngôn thuyết chẳng thể hiển bày, h́nh tướng chẳng thể tỏ rơ, muốn tỏ h́nh tướng th́ mê nơi vô tướng, muốn hiển ngôn thuyết th́ mê nơi vô thuyết, nếu chẳng hiển chẳng tỏ th́ đại nghĩa khó thông, nên huyền đạo ly vi, chơn lư khó tả. Sở dĩ nói ly, là v́ bản thể chẳng hợp với vật, cũng chẳng ĺa vật. Như gương sáng hiện bóng vạn tượng, mà gương sáng chẳng hợp với bóng, cũng chẳng ĺa bóng, cũng như hư không, dung nạp tất cả mà chẳng hợp chẳng ĺa, ngũ sắc chẳng thể ô nhiễm, ngũ âm chẳng thể nhiễu loạn, vạn vật chẳng thể trói buộc, sum la chẳng thể hỗn tạp nên gọi là ly vậy. Sở dĩ nói vi là v́ diệu thể vô tướng, vô h́nh vô sắc, ứng dụng mọi thứ mà chẳng thấy dung mạo, gồm đủ vạn năng mà chẳng hiện công đức, mắt nh́n chẳng thấy, lắng tai chẳng nghe, mà sẵn đủ hằng sa công dụng, chẳng thường chẳng đoạn, chẳng ĺa chẳng tan nên gọi là vi vậy.

Hai chữ ly và vi là pháp yếu của đạo, sự cảm giác của lục căn chẳng dấu tích gọi là ly, muôn ngàn ứng dụng chẳng có ngă gọi là vi. Vi tức là ly, ly tức là vi, v́ nói theo căn trần nên giả lập hai tên, mà bản thể vốn là một.

Người học đạo đều muốn dứt phiền năo, cầu bồ đề, bỏ tiểu thừa, vào đại thừa, nhưng trong diệu lư thật chẳng có những việc này. Bản thể ly th́ vốn chẳng có phiền năo để dứt, chẳng có tiểu thừa để bỏ; bản thể vi th́ chẳng có bồ đđể cầu, chẳng có đại thừa để vào. Tại sao? V́ chẳng một pháp có thể tương ứng vậy. Cho nên bậc thánh chẳng dứt vọng, chẳng chứng chơn, ứng dụng vạn năng mà chẳng tác ư. Nếu thật muốn cầu pháp th́ phải vô sở cầu, v́ chỗ thực tế vốn vô danh, cũng chẳng cần mong cầu ấy gọi là diệu giác.

Nói ly và vi chẳng phải vọng tâm có thể biết, chẳng phải tà trí có thể hiểu, vọng tâm tức là lục thức, tà trí tức là nhị trí (quyền trí và thật trí), v́ bản thể chơn nhất nên nhị trí chẳng thể hiểu, v́ bản thể vô vật nên lục thức chẳng thể biết; chẳng một pháp từ bên ngoài đến, chẳng một pháp từ bên trong ra, cũng chẳng một pháp do ḥa hợp mà sanh, nên gọi là thái thanh, cũng gọi là chơn tinh (tự tánh). V́ bản thể ĺa tất cả tri kiến nên chẳng thể dùng ư thức đđo lường, v́ bản thể ĺa tất cả số lượng nên chẳng thể dùng lời nói diễn tả, cho nên Duy Ma Cật im lặng, Như Lai tịch nhiên, dù nói các thừa, đều là phương tiện để khai thị ngộ nhập tri kiến Phật.

Nói biết là biết ly, nói thấy là thấy vi, nên Kinh nói "thấy vi gọi là Phật, biết ly gọi là pháp". Hễ biết ly th́ chẳng lọt vào tất cả phiền năo, hễ thấy vi th́ chẳng lọt vào tất cả hư vọng; chẳng có hư vọng th́ lư chơn nhất hiện, chẳng có phiền năo th́ sáng tỏ tự nhiên. Diệu nghĩa của ly vi chẳng một chẳng hai, ngôn thuyết chẳng thể nói, phải dùng thâm tâm thể cứu mới được sáng tỏ hiện tiền. Người học đạo chẳng nên quên cái đạo ly vi, đuổi theo t́nh thức, lời nói trái với tâm th́ nghĩa lư chẳng thật. Nếu đối cảnh vô tâm, gặp duyên chẳng động, dụng công chẳng kể ngày đêm, chẳng màng đến động tịnh, chú tâm một chỗ, mới có thể khế ngộ, hễ có sự lấy bỏ, vọng có sở tu, vọng có sở chứng, đều chẳng vào được chơn thật, ấy là trái nghĩa ly vi, hủy pháp đại đạo.

Hễ chơn th́ chẳng cần cầu, v́ bên ngoài vô sở đắc, hễ thật th́ chẳng cần tu, v́ bên trong vô sở chứng, hễ không có vọng tưởng th́ đạo ly vi hiện tiền. Ly là trống rỗng, vi là nhiệm mầu, hư vô tịch lặng nên gọi là ly vi.

Bậc thánh sở dĩ không có vọng tưởng v́ thông đạt sự ly, diệu dụng vô cùng v́ liễu triệt sự vi, vi th́ vô tâm, ly th́ vô thân, thân tâm đều mất, linh trí độc tồn, tuyệt nơi hữu vô, bặt nơi năng sở, pháp giới tự nhiên, công dụng sáng tỏ mà vô sanh. Nên bậc thánh ở nơi vô vi mà tùy cơ hóa độ, dùng giáo pháp chẳng cần ngôn ngữ mà âm thầm khế hợp chơn lư, tịch lặng chẳng thấy tướng người, cho nên được dung thông đại tượng, bao hàm vạn vật, cũng như hư không đầy đủ khắp nơi; kẻ mê nơi vô ngă mà lập ngă th́ bên trong sanh khởi ngă đảo (ngă chấp điên đảo), trong sanh ngă đảo th́ thánh lư bị kẹt; thánh lư bị kẹt th́ bên ngoài có sở lập, ngoài có sở lập th́ trong ngoài đều bị chướng ngại. Trong ngoài chướng ngại th́ vật lư chẳng thông, bèn vọng khởi lưu chuyển luân hồi, sự lưu chuyển hỗn độn nơi tịch chiếu nên đại tượng ch́m mất, chơn nhất nhiễu loạn; chơn nhất nhiễu loạn th́ tà kiến vọng khởi, nên bị trôi lăn trong ṿng sanh tử, v́ thế nên giả lập cái luận ly vi để tỏ rơ thể dụng nhiệm mầu của tự tánh. Người học đạo hễ tham cứu măi th́ cuối cùng sẽ rơ được nguồn gốc của hư thật.

Sắc pháp thanh pháp, như bóng như tiếng, nếu chỉ dùng bóng và tiếng để chỉ bày thật tướng th́ chưa thể cho là chơn thật, bởi v́ ngón tay chẳng phải mặt trăng, lời nói chẳng phải là đạo, người học nên được đạo quên lời, thấy trăng quên ngón. Vậy th́ kẻ mê ly tức tà ma, v́ tham ái trần lao, cam chịu sanh tử; kẻ mê vi tức ngoại đạo, v́ ham so đo t́m cầu, vọng khởi chư kiến.

Hữu và vô là căn bản của chư kiến. Sao gọi là hữu? V́ vọng có sở tác; sao gọi là vô? V́ quán xét thấy vô sở đắc. Đă có hai thứ kiến chấp hữu vô nên sanh khởi chư kiến, chư kiến đă khởi tức tà kiến bất chơn nên gọi là ngoại đạo.

Tồn và vong là căn bản của sanh tử, thân tồn th́ sanh, thân vong th́ diệt, kẻ chấp trước vọng tưởng, ham thích ngoại cảnh, ôm chặt thân kiến (chấp thân là thật), mong cầu vị lai được sanh nơi thù thắng, thọ quả báo tốt đẹp nên gọi là tà ma.

Hễ thấu được ly th́ tất cả chẳng nhiễm, chẳng nhiễm tức siêu việt cảnh giới tà ma; hễ thấu được vi th́ tất cả tịch lặng, chẳng có vọng tưởng, tức siêu việt đủ thứ tà kiến ngoại đạo, nên Kinh nói "vi diệu thâm sâu", chẳng ĺa tự tánh vậy.

Nói vi là chẳng có chư kiến, nói ly là chẳng có nhiễm trước, chẳng nhiễm chẳng trước th́ tịch diệt làm vui. Sao gọi là khổ? V́ chẳng liễu được vi nên bên trong có suy tư, v́ chẳng liễu được ly, nên bên ngoài có nương tựa. Ngoài có nương tựa là tham, trong có suy tư là duyên, duyên tham đă khởi, liền bị cảnh ma sai khiến, ngày đêm bâng khuâng chẳng được tạm ngừng, cam chịu trần lao nên gọi là khổ. Sao gọi là vui? V́ liễu được vi nên bên trong chẳng suy tư, v́ liễu được ly nên bên ngoài chẳng nương tựa. Ngoài chẳng nương tựa tức chẳng tham, trong chẳng suy tư tức chẳng duyên, chẳng duyên chẳng tham th́ không bị vạn hữu trói buộc, cũng không bị trần lao sai khiến, do đó thanh hư tịch lặng, chẳng có ǵ chướng ngại, tự tánh giải thoát nên gọi là vui.

Ly tức lư, vi tức mật. Sao gọi là lư? V́ chẳng ĺa tất cả vật; Sao gọi là mật? V́ bản thể ẩn mật mà hiện ra công dụng.

Ly tức không, vi tức hữu, "không" nên vô tướng, "hữu" nên hiển dụng. Do vậy phi hữu phi không là chánh tông của muôn pháp, phi không phi hữu là cha mẹ của vạn vật, ra chẳng phương hướng đđến, vào chẳng xứ sở để ở, bao gồm vạn hữu mà chẳng có việc làm, hóa độ muôn loài mà chẳng phải pháp chủ. Cho nên tiểu thất mà rộng vô biên, nhất niệm mà thông muôn loài, tâm chẳng thể suy lường, ư chẳng thể hiểu biết, ấy gọi là sức dụng trụ nơi giải thoát bất tư ngh́. Sao gọi bất tư ngh́? V́ bản thể vốn ly vi. Sao gọi là giải thoát? V́ chẳng có ǵ trói buộc vậy.

Ly tức pháp, vi tức Phật, cả hai ḥa hợp gọi là tăng, ba tên một thể, một thể ba tên, ḥa lẫn th́ chẳng thể phân biệt, trở về cội nguồn lại thành vô danh. Ly tức dung, vi tức dùng. Dung th́ bao hàm cáu bẩn, dùng th́ chẳng ǵ so bằng. Chẳng ǵ so bằng nên diệu hạnh hóa độ thường xuyên, bao hàm cáu bẩn nên thường lẫn lộn trong vạn hữu. Lại chẳng mắt chẳng tai gọi là ly, có thấy có nghe gọi là vi, vô ngă vô tác gọi là ly, có trí có dụng gọi là vi; vô tâm vô ư gọi là ly, có thông có đạt gọi là vi. Lại ly tức niết bàn, vi tức bát nhă, bát nhă th́ vô biên đại dụng, niết bàn th́ tịch diệt vô dư; vô dư th́ phiền năo chấm dứt, đại dụng th́ giáo hóa vô cùng. Nếu người chẳng liễu đạt ly vi, dù cho khổ hạnh đầu đà, xa ĺa cảnh trần, dứt tham sân si, thành tựu nhẫn nhục trải qua vô lượng kiếp, cũng chẳng vào được chơn thật. Tại sao? V́ bị kẹt nơi y báo chánh báo, trụ nơi có sở đắc, chẳng ĺa điên đảo mộng tưởng tà giác và chư kiến. Nếu có người thấu rơ ly vi, dù tập khí, vọng tưởng và phiền năo vẫn c̣n hiện hành, nhưng luôn luôn cảnh giác diệu nghĩa của ly vi, th́ người ấy chẳng bao lâu sẽ vào được chơn thật của vô thượng đạo. V́ sao? V́ liễu được căn bản của chánh kiến.

Nói ly là đối với lục nhập, nói vi là đối với lục thức, nếu hợp sáu thành một th́ tịch lặng vô vật. Bậc thánh tùy theo sự chấp chẳng đồng của chúng sanh mà thiết lập đủ thứ ngôn giáo để ứng cơ hóa độ, nhưng trong lư cứu cánh th́ chẳng có danh tự, ví như hư không, ĺa số và phi số, ĺa tánh và phi tánh, phi nhất phi dị, phi cảnh phi ĺa cảnh, chẳng có xuất nhập, tâm thức chẳng thể suy lường.

Tất cả kinh luận đều tùy theo phàm t́nh mà phá chấp, tùy theo căn cơ tŕnh độ của chúng sanh mà giả lập phương tiện, đều chẳng trụ nơi danh tướng và sự vật. Nếu chẳng trụ danh tướng th́ chẳng cần tất cả ngôn thuyết và nghĩa của ly vi, nên Kinh nói "tùy nghi thuyết pháp, lư thú khó hiểu", dù nói các thừa, đều chỉ là phương tiện để trợ đạo cho chúng sanh chớ chẳng phải thật có cứu cánh giải thoát niết bàn. Ví như có người vẽ h́nh trong hư không và phát ra đủ thứ âm thanh, nhưng hư không cũng chẳng hiện tướng ǵ cả, cũng chẳng thấy thêm bớt biến động, hóa thân của chư Phật thuyết pháp cũng như vậy, ở nơi thực tế chẳng có đồng dị. Cho nên trời đất hàm ly, hư không hàm vi, mà sự tạo tác của vạn vật biến hóa vô cùng.

Tự tánh có thần, trong thần có trí, trong trí có thông, thông có ngũ thông, trí có ba thứ. Thế nào là Ngũ thông? Một là đạo thông, hai là thần thông, ba là y thông, bốn là báo thông, năm là yêu thông. Sao gọi yêu thông? Côn trùng già biến thành tinh, nhập vào thân người, thông minh k lạ, ấy là yêu thông. Sao gọi báo thông? Biết quá khứ vị lai của quỷ thần, biến hóa của cơi trời và thần long, ấy là báo thông. Sao gọi y thông? Y theo pháp mà biết, duyên theo thân mà dùng, văng lai bằng phù chú, y theo luyện đơn để tỏ linh biến, ấy là y thông. Sao gọi thần thông? Tịnh tâm chiếu soi, biết quá khứ vị lai, tùy theo sức định có đủ thứ biến hóa, ấy là thần thông. Sao gọi đạo thông? Ứng vật vô tâm, tùy duyên giáo hóa vạn hữu, quán tất cả pháp đều như hoa đốm trên không, bóng trăng trong nước, dù thấy mọi thứ h́nh tướng đều chẳng chấp thật, ấy gọi là đạo thông.

Thế nào là ba thứ trí? Một là chơn trí, hai là nội trí, ba là ngoại trí. Sao gọi ngoại trí? Lục căn phân biệt, hiểu biết cảnh trần, bác học cổ kim, thông suốt thế tục, ấy là ngoại trí. Sao gọi nội trí? Tự ngộï vô minh, phiền năo cắt đứt, tâm ư tịch lặng, tất cả đều không, ấy là nội trí. Sao gọi chơn trí? Ngộ được bản thể tịch lặng, vốn là vô vật, thông đạt khắp nơi, tịnh nhiễm chẳng khác, ấy là chơn trí. Nên chơn trí đạo thông, chẳng thể gán tên, ngoài ra đều tà ngụy. Ngụy tức chẳng chơn, tà tức chẳng chánh, v́ tâm sanh vọng chấp, mê nơi thể tánh, nên giả lập hai tên nội trí và ngoại trí. Nếu ngộ nhập ly vi, thông đạt vạn hữu th́ tự tánh vốn chơn, siêu việt tất cả. Muốn phân biệt tà chánh, thấu rơ chơn ngụy cần phải pháp nhăn sáng tỏ mới được thông suốt. Nhưng người thế gian phần nhiều tin theo tà ngụy, chánh tín rất ít, tiểu thừa hiện hành, đại thừa bị kẹt, nên diệu lư khó được hiển bày. Ly là vô thân, vi là vô tâm; vô thân nên đại thân, vô tâm nên đại tâm. Đại tâm th́ cùng khắp vạn vật, đại thân th́ ứng cơ đầy đủ, nếu chấp thân là thân th́ mất đại ứng (ứng cơ), nếu chấp tâm là tâm th́ mất đại trí, cho nên muôn ngàn kinh luận đều nói phải ĺa thân tâm, phá hết tri kiến chấp trước mới vào được chơn thật. Ví như thợ bạc luyện lấy vàng ṛng, phải lược bỏ những chất khác mới làm đồ dùng bằng vàng thiệt được, nếu chấp thật có thân th́ bị "có thân" chướng ngại, có thân chướng ngại th́ pháp thân ẩn nơi h́nh tượng; nếu chấp thật có tâm th́ bị "có tâm" chướng ngại, có tâm chướng ngại th́ chơn trí ẩn nơi tưởng niệm, thế th́ lục thức nhiễu loạn bên trong, lục căn phan duyên bên ngoài, ngày đêm bâng khuâng chẳng được ngừng nghỉ, khiến cho diệu lư ch́m mất, đại đạo chẳng thông.

Chẳng quán tâm th́ chẳng thấy vi, chẳng quán thân th́ chẳng thấy ly, nếu chẳng thấy ly vi th́ lạc mất pháp yếu của đạo. Nên kinh Kim Cang nói "Phật thuyết phi thân, thị danh đại thân" là nghĩa này vậy. Nói bỏ quyền (phương tiện tùy nghi) về thật, bỏ giả về chơn, cũng như thợ bạc lấy nhiều đồ bằng vàng đđúc thành một tượng, diệt những tướng khác nhau, hỗn hợp thành một, tức là đại dă (rèn đúc nhiều đồ kim loại trong một ḷ). Nói đại dă tức là đại đạo vậy, trong ḷ đúc của đại đạo, tạo hóa vô cùng, làm ra muôn ngàn đồ dùng, hoặc thành hoặc hoại mà bản thể chẳng có thêm bớt. Nên Kinh nói "có Phật chẳng Phật, tánh tướng thường trụ" sở dĩ nói dung tướng (nhiều tướng dung hợp thành một) là v́ phàm phu chấp hữu tướng, sợ vô tướng; sở dĩ nói tướng là v́ ngoại đạo chấp vô tướng, sợ hữu tướng, sở dĩ nói trung đạo là muốn khiến cho hữu tướng và vô tướng chẳng khác, phàm dùng lời nói diễn tả được đều chẳng phải chơn lư, tất cả đều là để phá chấp và dứt trừ sự nghi ngờ mà thôi. Nếu có người liễu ngộ Thật tướng chẳng có một pháp, b́nh đẳng bất nhị, chẳng lấy chẳng bỏ, chẳng bỉ (cái kia) chẳng thử (cái này), cũng chẳng trung gian (chính giữa), th́ chẳng nhờ lời nói của bậc thánh mà chơn lư tự thông vậy.

Hể cho tướng là vô tướng th́ tướng tức vô tướng, nên Kinh nói "sắc tức thị không", chẳng phải dùng sắc để diệt không, cũng như nước chảy im ĺm, bị gió đánh lên bọt, tức bọt là nước, chẳng phải dùng bọt để diệt nước. Hễ cho vô tướng là tướng th́ vô tướng tức là tướng vậy. Kinh nói "không tức thị sắc", chẳng phải dùng không để diệt sắc, không vô tận th́ sắc vô tận, cũng như hủy bọt thành nước, nước tức là bọt, chẳng phải ĺa nước có bọt. Kẻ ham hữu tướng sợ vô tướng, v́ chẳng biết hữu tướng tức vô tướng; kẻ ham vô tướng sợ hữu tướng, v́ chẳng biết vô tướng tức là tướng, k thật hữu tướng, vô tướng tất cả đều ở trong tự tánh, người giác ngộ được gọi là Phật. Hễ ngộ th́ vọng tưởng chẳng sanh, nếu vọng chẳng sanh th́ bản thể vốn chơn thật.

Tướng của vô tướng gọi là ly, v́ bản thể của ly vốn vô tướng; vô tướng của tướng gọi là vi, v́ bản thể của vi chẳng phải vô tướng. Cho nên người hành đạo sống chẳng thấy vui, chết cũng chẳng buồn. Tại sao? V́ sống là trôi nổi, chết là nghỉ ngơi, cho sống là huyễn hóa, chết là chơn thật. Nên Kinh nói "sanh chỉ là pháp sanh, diệt chỉ là pháp diệt". Nói đến những pháp này, mỗi mỗi đều chẳng biết nhau, lúc sanh chẳng nói ta sanh, lúc diệt chẳng nói ta diệt. Bởi v́ đại trí vô tri, đại giác vô giác, chơn tế lư không (nơi nghĩa lư chơn thật của tự tánh vốn trống rỗng), chẳng thể gán tên, chẳng thể lập tướng, cho nên niết bàn đại tịch, bát nhă vô tri, pháp thân viên măn, tất cả sắc tướng có số lượng đều tịch diệt vậy.

PHẨM BẢN TẾ HƯ HUYỀN

(thứ ba)

(Bản thể của tự tánh, vốn trống rỗng nhiệm màu, nên gọi bản tế hư huyền).

Nói bản tế tức là cái tánh niết bàn vô ngại của tất cả chúng sanh. Sao bỗng có vọng tâm và đủ thứ điên đảo như thế này? Chỉ v́ một niệm mê hoặc, niệm mê này từ "một" sanh khởi, "một" từ bất tư ngh́ sanh khởi, nói bất tư ngh́ tức là chẳng có chỗ khởi. Nên Kinh nói "sự bắt đầu của đạo là sanh ra một". "Một" là vô vi, từ một sanh ra hai, "hai" là vọng tâm, v́ có tâm biết một th́ có năng biết sở biết, nên chia thành hai, từ hai sanh ra âm dương, nói âm dương cũng là động tịnh vậy. Dương là thanh (trong), âm là trược (đục), thanh khí trống rỗng bên trong là tâm, trược khí kết tụ bên ngoài là sắc, thành có hai pháp tâm và sắc. Tâm tương ưng nơi dương, dương tương ưng nơi động; sắc tương ưng nơi âm, âm tương ưng nơi tịnh, tịnh với huyền tẩn (loại cái nhiệm màu, chẳng có thật chất) thông nhau nên có trời đất giao hợp. Tất cả chúng sanh đều bẩm thụ hư khí của âm dương mà sanh. Cho nên từ một sanh hai, từ hai sanh ba, từ ba sanh vạn pháp vậy. Đă duyên theo vô vi mà có tâm, lại duyên theo có tâm mà có sắc, nên Kinh nói "tâm sanh muôn niệm, sắc khởi muôn loài", đủ thứ tâm sắc ḥa hợp thành nghiệp nhân, bèn thành hạt giống của tam giới.

Tại sao có tam giới? V́ có tâm chấp thật làm căn bản, cái chấp tâm này mê muội chơn nhất, th́ có ác trược sanh ra vọng khí, vọng khí trong lặng thành vô sắc giới, cũng gọi là tâm; trược khí hiện hành thành sắc giới, cũng gọi là thân, cặn bă của ác trược xao động thành dục giới cũng gọi là cảnh trần vậy. Nên Kinh nói "tam giới hư vọng chẳng thật, chỉ do một niệm vọng tâm biến hóa". Bên trong có "một" sanh khởi tức bên ngoài có vô vi; bên trong có "hai" sanh khởi tức bên ngoài có hữu vi; bên trong có "ba" sanh khởi tức bên ngoài có tam giới, trong và ngoài đă tương ứng với nhau, bèn sanh đủ thứ chư pháp và hằng sa phiền năo. Hễ "một" chẳng sanh th́ chẳng có vô vi, nếu có người nói ta chứng vô vi, ấy là hư vọng; hễ "hai" chẳng sanh th́ chẳng có hữu vi, nếu có người nói ta chứng hữu vi ấy là hư vọng; hễ "ba" chẳng sanh th́ chẳng có tam giới, nếu có người nói thật có tam giới ấy là hư vọng. Nên Kinh nói "có hữu tức có khổ, chẳng hữu tức niết bàn", bậc Thanh Văn chứng quả? vô vi c̣n là hữu dư, cho đến Thập địa Bồ tát vẫn c̣n sự chướng ngại vi tế của căn bản vô minh, nên nói "một" là vô vi, "hai"là hữu vi, "ba" là tam giới vậy. Vô vi có hai: một là chứng diệt vô vi, hai là tánh vốn vô vi. Nói chứng diệt vô vi, ấy là những bậc thánh tu đạo đoạn chướng, chứng được bản thể như như, nên Kinh nói "tất cả hiền thánh đều v́ pháp vô vi mà có sai biệt". Nói tánh vốn vô vi, ấy là căn bản của pháp tánh, vốn như vậy, phi tu phi chứng, chẳng do người làm nên, chẳng do pháp khế hợp, người và pháp vốn không, bản thể của chơn đế trong sạch, nên Kinh nói "diệu lư của thật tướng chẳng hữu vi, chẳng vô vi, chẳng bờ bên đây, chẳng bờ bên kia, cũng chẳng ở giữa". V́ chẳng hữu vi nên chẳng thể tu học, chẳng vô vi nên chẳng thể chứng diệt, nếu có tu có chứng, tức là bản tánh chẳng phải vốn vô vi vậy. Nên Kinh nói "tất cả lấy chẳng sanh làm tông", tông nếu chẳng sanh tức chẳng vô sanh, vô sanh chẳng sanh th́ chẳng thể chứng lấy. Tại sao? Hễ có chứng tức có sanh, hễ chẳng chứng tức vô sanh, cũng là thuận theo tự tánh vậy.

Nói chẳng sanh tức là bản tế, chẳng xuất chẳng nhập, cũng như hư không, chẳng vật nào để thí dụ, chỉ v́ tất cả pháp hữu vi hư vọng chẳng thật, nhờ nhân duyên giă lập với nhau mà có sanh diệt, nếu truy cứu cùng tận nguồn gốc th́ cuối cùng trở về thực tế. Nhưng tất cả chúng sanh v́ thất lạc căn bản, hướng ngoại t́m cầu, cam chịu khổ nhọc, tu tập nhiều kiếp mà chẳng ngộ chơn tánh, cho nên hễ lấy gốc t́m ngọn th́ ngọn vọng chẳng chơn, lấy ngọn t́m gốc th́ gốc hư chẳng thật, gốc tức chẳng cần cầu. Tại sao? V́ gốc chẳng cầu nơi gốc, cũng như vàng chẳng cầu nơi vàng vậy. ngọn tức chẳng cần tu. Tại sao? V́ vọng chẳng cầu nơi vọng, cũng như nắm đất chẳng thể thành vàng. Pháp của thân tâm hư vọng chẳng thật, mà người thế gian phần nhiều khổ tu thân tâm để t́m đạo, cũng như nắm đất để t́m vàng, nếu cho thân tâm tức là đạo th́ tại sao bậc thánh nói ĺa thân tâm? Nên biết chẳng phải đạo. Bản thể chân thật cũng chẳng cần tu. Tại sao? V́ tự tánh chẳng có nhị pháp.

Bậc thánh thị hiện sống mà chẳng phải có, chết mà chẳng phải không, chẳng có vọng tâm lấy bỏ, dù trải qua muôn ngàn sanh tử chỉ tùy theo pháp tánh tự nhiên mà chẳng nổi ư phân biệt, khi ấy chẳng có ngă và vô ngă; phàm phu v́ có vọng tưởng, trong tâm mê hoặc, bèn sanh đủ thứ tri kiến, v́ chẳng chơn thật nên tự tánh chẳng được sáng tỏ.

Bản tế của tự tánh trong sạch, vi diệu thâm sâu, vốn chẳng cáu bẩn, các bậc Thánh Hiền đủ thứ ngôn luận đều là lời nói tùy cơ giáo hóa. Thật ra, nói chơn thật hay chẳng chơn thật, giáo hóa hay chẳng giáo hóa, chỉ là tùy nghi giả lập. Bản tế vốn là vô danh. Bản tế vô danh mà gán tên nơi vô danh, bản tế vô tướng mà gán tên nơi vô tướng, danh tướng đă lập th́ vọng tưởng liền sanh, từ đó chơn nhất chôn vùi, đại đạo ẩn mất.

Bản tế của vô danh cùng khắp tất cả, chẳng có tên gọi, siêu việt số lượng, chẳng một chẳng hai, nên Kinh nói "sum la cập vạn tượng, nhất pháp chi sở ấn", ấn tức là bản tế, nhưng nghĩa lư của bản tế chẳng ḿnh chẳng người, chẳng một chẳng nhiều, bao hàm nhất khí (tự tánh), gồm đủ vạn hữu. Nếu có người tự tánh trong sạch, hàm nhất (ôm theo tự tánh) mà sanh, chẳng có vọng tưởng tức là bậc thánh. Nếu tự mê hoặc, loạn khởi vọng tưởng, tức là phàm phu. K thật th́ chẳng có bậc thánh cũng chẳng có phàm phu, thánh phàm chẳng phải khác nhau nên Kinh nói "Phật tánh b́nh đẳng, mênh mông khó lường, thánh phàm bất nhị, tất cả viên măn", cây, cỏ, muỗi, kiến đều sẵn đầy đủ, cho đến một vi trần, một sợi tóc đều hàm nhất mà có, nên Kinh nói "hễ liễu tri nhất th́ muôn việc đều xong". Bởi v́ tất cả chúng sanh đều từ nhất thừa mà sanh, nên gọi là Phật thừa là nhất thừa, kẻ ngộ tức nhất, kẻ mê tức dị. Kinh nói "tiền niệm là phàm, hậu niệm là thánh", lại nói "nhất niệm biết tất cả pháp", cho nên nhất là tất cả, tất cả là nhất, do công dụng của nhất pháp mà thành tựu vạn tượng. Nên Kinh nói "tất cả nếu có, có tâm là mê tất cả nếu không, không tâm th́ khắp mười phương". Vậy th́ chơn nhất có muôn ngàn sai biệt, muôn ngàn sai biệt tức là chơn nhất. Ví như biển nổi ngàn sóng, ngàn sóng tức biển, nên tất cả đều nhất, chẳng có khác biệt. Nhất là đối với dị (khác biệt) mà nói, dị đă phi dị, nhất cũng phi nhất, phi nhất bất nhất, giả lập chơn nhất, chơn nhất th́ phải lập văn tự lời nói có thể diễn tả. Do đó, phi nhất thấy nhất, hễ có sở thấy, tức là có nhị, chẳng được gọi là chơn nhất, cũng chẳng gọi là tri nhất. Nếu dùng nhất để tri nhất, tức gọi là nhị, chẳng gọi là nhất; nếu có sở tri tất có vô tri, có tri và bất tri, tức có nhị vậy. Cho nên đại trí vô tri mà vô sở bất tri, mănh liệt thường tri, thường tri vô tri giả danh gọi là tri, phi ngă và ngă sở, phi tâm phi ư. Pháp nếu hữu vi tức có sở tri, pháp nếu vô vi, cũng như hư không, chẳng có bờ bến th́ chẳng có tri và bất tri. Bậc thánh sở dĩ nói tri là v́ có tâm có số, có làm có pháp, nên có thể tri; sở dĩ nói vô tri là v́ chẳng tâm chẳng số, chẳng làm chẳng pháp, nên chẳng thể tri. Nếu dùng hữu tri để tri nơi tri th́ chẳng có chỗ đúng, ví như có người suốt ngày nói không, ấy chỉ là người nói, chớ chẳng phải "không" nói; dùng cái tri để tri vô tri cũng vậy. Bậc thánh sở dĩ hoặc nói ta tri, là v́ đối với sự mê, để phá trừ nghi ngờ của những kẻ có bệnh chấp thật. K thật, tri và vô tri chẳng phải là hai. Sở dĩ nói vô tri, v́ phàm phu chẳng liễu đạt chơn nhất, chấp ngă và ngă sở, vọng tâm so đo có năng tri sở tri, nên nói vô tri vô phân biệt. Phàm phu nghe xong liền học vô tri, như người ngu muội, chẳng thể phân biệt, nên bậc thánh v́ những kẻ hư vọng mà nói Như lai liễu liễu tri kiến, chẳng phải bất tri. Phàm phu nghe xong liền học hữu tri, hễ có hữu tri th́ bị hữu tri chướng ngại, ấy là hư tri, cũng gọi là vọng tri, sự tri như thế lại càng xa với đạo vậy. Nên Kinh nói "chúng sanh thân cận ác tri thức, sanh trưởng ác tri kiến". Tại sao? Những người ngoại đạo có thần thông, biết được quá khứ vị lai của thân tâm; v́ thân tâm chẳng trong sạch nên chẳng ra khỏi sanh tử. Những kẻ học vô tri, đều bỏ hữu tri học vô tri, mà chẳng biết vô tri tức là tri, c̣n những kẻ bỏ vô tri học hữu tri, chẳng biết có tri tức có giác, có giác th́ tâm ư sanh khởi muôn ngàn tư tưởng, chẳng thể ĺa khổ. Hai thứ kiến chấp tri và vô tri đều chẳng thể khế hợp lư như như, nên chẳng thể đến chỗ chơn thật. Chỗ chơn thật vốn ĺa hữu tri và vô tri, v́ siêu việt tất cả số lượng vậy.

Hễ thấy th́ có phương, nghe th́ có sở, giác th́ có tâm, tri th́ có lượng (số lượng), nếu liễu đạt bản tế vốn chẳng phương sở, chẳng tâm chẳng lượng, th́ chẳng có kiến văn giác tri. Chơn nhất chẳng có hai, mà hiện ra sự bất đồng, cũng như có người niệm Phật th́ Phật hiện, niệm Tăng th́ Tăng hiện, nhưng sự thật th́ phi Phật phi phi Phật mà hiện nơi Phật, cho đến phi Tăng phi phi Tăng mà hiện nơi Tăng. Tại sao? Do người niệm có tâm hy vọng được hiện, th́ bất giác tự tâm hiện ra. Những việc thánh hiền do nhân duyên sanh khởi, luôn luôn tùy theo ngoại cảnh mà có sai biệt, k thật chẳng phải Phật với Tăng có khác. Nên Kinh nói "kẻ thấy sắc thân và quốc độ của chư Phật có số lượng, mà vô ngại huệ của tự tánh th́ chẳng có số lượng". Ví như người làm ảo thuật nơi hư không, tùy sức ảo thuật hóa ra đủ thứ h́nh tượng, những kẻ ngu muội cho là nơi hư không đă có việc này, kẻ niệm Phật, Tăng cũng vậy, ở nơi pháp không, nhờ sức tâm niệm hóa ra đủ thứ sắc tướng, mà theo đó vọng khởi kiến chấp. Nên Kinh nói "tâm như người ảo thuật, ư như người phụ tá, ngũ thức là bạn bè, vọng tưởng là người xem". Ví như có người tự làm khuôn h́nh nơi ḷ đúc, vuông tṛn lớn nhỏ tùy theo ư muốn, vàng chảy vào khuôn làm ra h́nh tượng, h́nh tượng tùy theo ư muốn mà thành, k thực bản thể của vàng ṛng phi tượng phi phi tượng mà hiện nơi tượng, kẻ niệm Phật Tăng cũng vậy.

Người đúc vàng dụ cho đại trí của Như Lai; khuôn h́nh dụ cho pháp thân của chúng sanh, v́ trong tâm mong cầu thấy Phật, nên nhờ nhân duyên niệm Phật, được hiện ra đủ thứ thân tướng, mà chẳng biết pháp thân, phi tướng phi phi tướng. Sao gọi phi tướng? Vốn chẳng có tướng nhất định vậy. Sao gọi phi phi tướng? V́ có chư tướng duyên khởi. Pháp thân phi hiện phi phi hiện, ĺa tánh và vô tánh, phi hữu phi vô, chẳng tâm chẳng ư, chẳng thể so đo suy lường. Phàm phu tùy theo vọng tưởng cho là thấy Phật, xưa nay chấp thật ngoài tâm có Phật, chẳng biết do tự tâm vọng hiện mà có; hoặc nói ngoài tâm chẳng Phật, ấy là phỉ báng chánh pháp. Nên Kinh nói: "cảnh giới của bậc thánh ĺa phi hữu phi vô, chẳng thể đo lường", nếu chấp thật có thật không, tức lọt vào nhị biên, cũng là tà vọng. Tại sao ? V́ vọng sanh nhị kiến, sai trái với chân lư vậy. Ví như có người ở trong kho chứa đồ vàng, chỉ thấy nơi vàng, chẳng thấy các tướng, dù thấy các tướng, cũng chỉ là vàng. Chẳng bị các tướng mê hoặc th́ ĺa phân biệt, thường thấy bản thể của vàng nên chẳng hư vọng, dụ cho bậc thánh thường quán chơn nhất, chẳng thấy các tướng, dù thấy các tướng cũng là chơn nhất, xa ĺa vọng tưởng, chẳng có điên đảo, trụ nơi thật tế, nên gọi bậc thánh. C̣n như có người ở trong kho chứa đồ vàng, thường thấy các tướng, chẳng thấy bản thể là vàng, vọng khởi đủ thứ tri kiến, phân biệt tốt xấu, làm mất tánh vàng, bèn có tranh luận, dụ cho phàm phu, thường thấy sắc tướng, nam nữ xấu đẹp, đủ thứ sai biệt, mê muội bản tánh, chấp trước tâm tướng, vọng sanh yêu ghét lấy bỏ, kiến chấp điên đảo, trôi lăn trong ṿng sanh tử, thọ thân này thân kia, vọng tưởng sum la, che khuất chơn nhất. Cho nên, những hành giả có đạo, thông đạt Phật pháp, xa ĺa chư kiến, mới tương ưng với đạo, khế hợp chơn nhất.

Chơn nhất khó tả, phải nhờ lời thí dụ để tỏ bày, k thật lư cứu cánh của đạo chẳng phải lời nói có thể diễn đạt được. Cũng như cho nhăn là nhăn th́ sanh nhăn đảo (điên đảo), cho nhăn là vô nhăn th́ sanh vô nhăn đảo, ấy đều là vọng tưởng. Nếu chấp có nhăn tức mê nơi vô nhăn, do chấp có nhăn th́ diệu kiến chẳng thông, nên Kinh nói "vô nhăn, vô sắc"; nếu chấp vô nhăn tức mê nơi nhăn, do chấp vô nhăn th́ lạc mất chơn nhăn, như người mù chẳng phân biệt màu sắc; nên Kinh nói "ví như những người lục căn bị tàn phế th́ chẳng thể lănh thọ ngũ dục". Các bậc Thanh văn cũng vậy. Chỉ có Như lai được chơn thiên nhăn, thường ở nơi chánh định, thấy khắp tất cả quốc độ Phật, v́ chẳng nhị tướng, nên chẳng đồng với cái sở kiến của phàm phu; v́ thấy khắp nên khác với cái vô sở kiến của Thanh văn. Nói "nhị kiến" ấy là vọng kiến hữu vô, nhưng bản thể của chơn nhất chẳng phải hữu vô, chỉ do vọng tưởng kiến lập mà có hữu vô. Nên bậc thánh hoặc nói ta liễu liễu kiến, hoặc nói chẳng kiến, chỉ là tùy bệnh phá chấp mà nói kiến và chẳng kiến, k thật diệu lư của chơn nhất ĺa kiến và chẳng kiến, siêu việt thánh phàm và số lượng, nên được liễu liễu kiến, chẳng phải hư vọng. V́ chẳng phải sắc pháp nên nhục nhăn chẳng thể kiến; v́ chẳng phải pháp chứng nên pháp nhăn chẳng thể kiến, chỉ có Phật nhăn trong sạch, phi kiến phi bất kiến, nên liễu liễu kiến, chẳng thể suy lường, chẳng thể so đo; phàm phu th́ tuyệt phần, nhị thừa chỉ được ít phần, Bồ tát được thấy hết mà mơ hồ, nên biết Phật tánh khó thấy vậy. Mặc dù như thế, Kinh nói "Phật tánh phổ biến, chẳng kể thánh phàm". Người học đạo chỉ cần thể cứu chơn nhất nơi tự thân, đâu cần t́m kiếm bên ngoài! Nếu dụng công ngày đêm chẳng ngừng, cuối cùng sẽ được tự chứng ngộ, nên Kinh nói "quán thân thật tướng, quán Phật cũng vậy". Quán thân thật tướng tức là nhất tướng. Nhất tướng tức không tướng, không tướng chẳng tướng nên phi dơ phi sạch, phi phàm phi thánh, phi hữu phi vô, phi tà phi chánh, thể tánh thường trụ, chẳng sanh chẳng diệt tức là bản tế. Lục căn của Như Lai tại sao hỗ dụng lẫn nhau? V́ liễu ngộ chơn nhất, chẳng số lượng, chẳng ngằn mé, th́ pháp thân trống rỗng, tất cả vô ngại; lục căn của phàm phu tại sao chẳng được hỗ dụng lẫn nhau? V́ có vọng tưởng phân biệt, mỗi căn ngăn cách với nhau, tinh thần có giới hạn, thành có ngằn mé, v́ mê muội chơn nhất, nên chẳng được hỗ dụng. Nên Kinh nói "phàm phu v́ có vọng tưởng, mê hoặc chẳng thông, chấp trước căn trần nên có đủ thứ sai biệt, bậc thánh thông đạt chơn nhất, chẳng có vọng tâm ngăn cách căn trần, tâm chẳng số lượng nên được đồng dụng".

Sao gọi là chơn nhất? Chơn th́ chẳng dị, chẳng dị nên vạn vật hàm nhất mà sanh. Nói vạn vật cũng là nhất vậy. Tại sao? V́ bản thể vốn nhất, nhất tức là bất nhị, cũng như cây trầm là cây trầm, chẳng phải cây nọc. Chơn Nhất có đủ thứ tên gọi, dù có đủ thứ tên gọi, đều đồng một nghĩa, hoặc gọi pháp tánh, hoặc gọi pháp thân, cho đến chơn như, thực tế, Hư không, Phật tánh, Niết bàn, Pháp giới, Bản tế, Như Lai Tạng vô lượng tên gọi đều là biệt danh của chơn nhất, cùng là một nghĩa. Nghĩa lư của ba phẩm này đều như thế.

Sao gọi là phẩm Quảng Chiếu? V́ sự chiếu soi của Đại trí mênh mông khắp nơi, như huệ nhựt viên chiếu, bao hàm vật lư, soi thấu vạn linh, nên gọi Quảng Chiếu. Sao gọi là phẩm Ly Vi? V́ tự tánh gồm sẵn chơn ly, cùng tột nguồn gốc nhiệm mầu, Thật tế trống rỗng, vốn tịnh chẳng nhiễm, nên gọi ly vi. Sao gọi là phẩm Bản tế? V́ diệu lư thiên chơn, bản thể sáng soi, chẳng do tu mà thành, tánh vốn trống rỗng mà sẵn đủ vạn vật, nên gọi Bản Tế vậy.

Tự tánh bất nhị, thuyết lư dù chia ba phẩm, hợp lại chỉ là một nghĩa. Dù một nghĩa mà có sự dụng vô cùng, tổng danh Thật Tạng, là để bàn luận căn nguồn của tánh nhận vật, xiển dương ư nghĩa sum la, trống rỗng thấu triệt – thái – thanh, âm thầm khế hiệp diệu lư. Kẻ biết được sẵn đầy đủ th́ tự thể khế hợp chơn nhất, kẻ liễu ngộ th́ huyền chỉ tự thông, nên lập luận để tỏ rơ lư như như của pháp giới, hiển bày pháp yếu của đại đạo vậy.

 

   back_to_top.png   

[ TRANG CHỦ | KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ |HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0