* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

Số 1762

A Di Đà Kinh Yếu Gii

Linh Phong Ngẫu Ích Trí Húc đại sư soạn

Việt dịch: Bồ Tát giới đệ tử Tuệ Nhuận

Phật Tánh

Lời tựa A Di Đà Kinh Yếu Giải mới dịch ra tiếng Việt

Tu Thiền Tông mau chóng thành Phật nhất, tu Tịnh Độ tông c̣n mau chóng và chắc chắn hơn. Tu môn này th́ mỗi tiếng niệm Phật danh là thấy rơ Phật tính hiện tiền. Thấy rơ Phật tính là thành Phật quả, thành Phật quả là chuyển hóa được quả đất Ta Bà thành quả đất Cực Lạc, là diệt trừ được tai nạn chiến tranh tàn sát cho quần chúng hết đau khổ, là trả lại hạnh phúc, ḥa b́nh, tự do, b́nh đẳng cho tất cả muôn loài.

Tuệ Nhuận

Phật nói: “Tất cả chúng sinh ai cũng có tính Phật th́ ai cũng sẽ thành Phật”.

Bồ Tát Giới nói: “Ông là Phật sẽ thành, tôi là Phật đă thành, thường khởi tin như thế, giới phẩm đầy đủ rồi…”

Theo Phật phải học Phật, học Phật có ba môn: “Giới, Định, Huệ”, giống như 3 chân cái đỉnh trầm, găy một chân thành đồ vô dụng; người tam học thiếu một môn cũng là người vô dụng. Học đủ 3 môn áp dụng vào đời sống của ḿnh và của người, gọi là thành Phật.

Học Phật tới đích thâm truyền, chỉ cần hiểu suốt chính nghĩa một câu này, được đầy đủ 3 môn Giới, Định, Huệ: “Tất cả chúng sinh đều có tính Phật, ai cũng thành Phật”. Nếu ta áp dụng vào đời sống của ta và của muôn loài, ta có 4 thực hiện:

1) Ta thấy ta với mọi loài là b́nh đẳng (1).

2) Ta không dám xâm lăng áp bức sát hại một loài nào, dù là loài rất nhỏ mọn (2).

3) Ta giữ được định tâm b́nh đẳng đối với ta và đối với mọi loài (3)

4) Ta có tính Phật, mọi loài cũng có tính Phật, ta thành Phật, mọi loài cũng thành Phật (4)

Mắt thấy thế, tâm biết thế, là mắt Phật, tâm Phật đấy rồi, c̣n phải t́m đâu nữa. Một người thấy và biết như thế là người siêu phàm thoát tục, người xuất gia, xuất thế, người thành Bồ Tát, thành Phật. Khế Kinh gọi là “người chính biến tri”. Trái lại, kẻ nào không thấy, không biết như thế gọi là kẻ tà kiến, tà tri, là phàm phu si ám, là chúng sinh mê muội trong 7 Thú: Thiên, tiên, nhân, a tu la, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục.

Tính Phật là tính hiểu biết sáng suốt, không sai lầm một ly, tất cả muôn vật, muôn sự, muôn pháp trong vũ trụ vô biên. Tất cả chúng sinh trong 7 thú, ai cũng có tính Phật hiểu biết sáng suốt ấy, lẽ dĩ nhiên ai cũng là b́nh đẳng, ai cũng là Phật; lẽ dĩ nhiên không c̣n ai xâm lăng, áp bức, sát hại. Lẽ dĩ nhiên tai nạn chiến tranh phải tuyệt dứt, hạnh phúc, ḥa b́nh phải trở lại. Và lẽ dĩ nhiên không c̣n có những thế giới và những căn thân của chúng sinh trong 7 thú nữa, chỉ c̣n một thế giới Cực Lạc với một loại thân vô lượng thọ, vô lượng quang (Amita) mà thôi.

Đó là công nghiệp Tịnh Độ hóa cái thế gian ngũ ấm 7 thú mà người theo đạo Phật phải làm ngay. Sự nghiệp Tịnh Độ hóa thế gian ô trược này mà không thành th́ sự học Phật của ḿnh chưa có ǵ, v́ ḿnh chưa đủ Giới, Định, Huệ, chưa hiểu Phật tính là ǵ, chưa thực hiện được chính nghĩa b́nh đẳng của Phật.

Học Phật cần phải hiểu tính Phật, cốt để hiểu biết tính của ḿnh, tính của người, tính của muôn vật, muôn pháp trong vũ trụ vô biên (tự giác, giác tha). Ḿnh sở dĩ hiểu biết sáng suốt chu biến như thế, là bởi tính Phật của ḿnh nó hiểu biết.

Kinh Niết Bàn nói: “Tất cả chúng sinh trong 7 thú và các vị Thanh Văn, Duyên Giác đều chẳng thấy được Phật tính của ḿnh. Các vị Thập Trụ Bồ Tát mới thấy được, nhưng thấy không rơ. Chỉ có chư Phật và các vị đại Bồ Tát mới thấy được rơ ràng”.

Ngài Sư Tử Hống Bồ Tát hỏi Phật: “Phật tính của chúng sinh là một hay nhiều? Tất cả chúng sinh cùng có chung Phật tính, hay là mỗi người có một Phật tính riêng biệt?”

Phật đáp: “Tất cả chúng sinh, tất cả chư Phật cùng có chung một Phật tính; nhưng Phật tính chẳng phải một, chẳng phải hai, Phật tính b́nh đẳng, giống như hư không”.

Nghe Phật dạy ngài Sư Tử Hống Bồ Tát như thế, chúng sinh phàm phu si ám trong 7 thú, liệu có hiểu biết Phật tính của ḿnh nó thế nào không?

Ta nên nghe kỹ, nghe kỹ:

Phật nói: “Nó chẳng phải một”, rơ ràng là nó nhiều. Nhưng Phật lại nói: “Nó chẳng phải hai”, vậy th́ nó lại là một. Phật lại nói: “Nó b́nh đẳng như nhau và nó giống như hư không”, vậy nó vẫn là nhiều (v́ nó bằng nhau), nhưng nó giống như hư không th́ nó phải là một (v́ hư không vô biên, không thể có hai được).

Ta tuy là phàm phu trong bảy thú, nhưng nếu ta có chút thông minh, thẳng thắn mà suy nghĩ, ta cũng hiểu được chính nghĩa lời Phật dạy bảo.

Một khi Phật nói: Phật tính của tôi, của anh, của nó, của chúng sinh, của chư Phật đều là b́nh đẳng như nhau, hẳn anh cũng hiểu như tôi rằng: Như nói Tính của anh, lẽ dĩ nhiên không phải Tính của tôi. Và khi nói Tính của tôi, cố nhiên cũng không phải Tính của anh. Rơ ràng, anh có một Tính, tôi một Tính: Một với một là hai, đâu có phải là một (đó chính là nghĩa: Bất Nhất). Chỉ có điều Phật lại nói: Tính anh và Tính tôi b́nh đẳng, rơ ràng 2 Tính của hai ta bằng nhau. Khi đă nhận rơ 2 Tính bằng nhau, nên coi 2 là 1, không nên phân biệt làm 2 (đó là chính nghĩa: Bất Nhị). Phật lại nói: Phật tính của ta b́nh đẳng như hư không, th́ dù biết nó là nhiều, nhưng không ai có tài phân tách hư không ra làm nhiều được, mà phải để nó hợp nhất với nhau làm một (đó là chính nghĩa: “bất nhất mà lại bất nhị” và “b́nh đẳng mà lại như hư không”).

Khi Phật nói: Phật tính của chúng sinh là bằng nhau, ta phải ước lượng mỗi tính rộng răi, cao là ngần nào, xem nó có thật bằng nhau hay không. Nhưng Phật đă bảo Tính ấy rộng lớn bằng cả hư không th́ chẳng ai có tài đo được hư không vô biên ấy, cũng không thể tách hư không ra làm hai hoặc làm nhiều được.

Vậy ta nên sáng suốt cố hiểu một tí: Phật tính của chúng sinh là b́nh đẳng (bằng nhau), lẽ dĩ nhiên phải có nhiều cái so sánh với nhau, mới thấy nó bằg nhau; chứ chỉ có một cái th́ bằng nhau với cái ǵ? – Ta đă nhận rơ tính Phật của ta là bằng nhau, lẽ dĩ nhiên không có cái lớn, cái nhỏ, cái nào cũng phải bằng nhau và phải rộng lớn bằng cả hư không; vậy tuy là nhiều, mà ta đành phải để nó hợp nhất với nhau làm một, bởi v́ chẳng ai có tài phân tách hư không ra làm 2 hoặc làm nhiều được (đó là chính nghĩa: bất nhị).

Anh và tôi, hai ta cùng sống chung trên một quả đất, trong một hư không. Nhưng anh ở bên Đông, tôi ở bên Tây, anh đừng mê muội, tưởng lầm quả đất và hư không phải cắt đôi ra làm hai để anh nắm chặt lấy một phần làm của riêng anh và riêng cho tôi một phần làm của riêng tôi! – Không phân tách được đâu!

Hư không và quả đất chẳng khi nào chịu để hai ta chia sẻ nó, nếu ta tham vọng cố làm, th́ chỉ thêm nhọc xác gây oán thù với nhau đời đời vô cùng tận; gây cái mầm đại bất b́nh đẳng, đại chiến tranh thế giới. Mầm ấy chỉ chờ duyên là kết quả tức th́.

Phật tính của anh to bằng cả hư không, Phật tính của tôi cũng phải to bằng cả hư không, th́ mới gọi là bằng nhau, là b́nh đẳng chứ.

Nếu anh và tôi có tài chia được hư không ra làm hai khu vực Đông và Tây, thực sự th́ hư không sẽ mất cá tính hư không b́nh đẳng của nó rồi, c̣n chi là hư không b́nh đẳng nữa. Lại nữa, hư không là vô biên (không có bến bờ), nếu ta có tài chia được nó ra làm 2 khu vực khác nhau, th́ nó sẽ mất cá tính vô biên, nó sẽ thành 2 cái hư không hữu biên, là hai cái không thể có được ở thế gian này, nó chỉ là hai cái: lông rùa và sừng thỏ. Phật tính như hư không của hai ta là cá tính diệu chân như, “thường trụ chu biến”.

Thế nào là “thường trụ”? Là nó thường hằng ở suốt cả ba đời: quá khứ, hiện tại, vị lai, chứ nó không cố định chỉ ở một thời gian này hay một thời gian kia. Giờ phút nào nó cũng có mặt hiện tại, không đi đâu, không ở đâu đến.

Thế nào là “chu biến”? Là nó thường hằng ở khắp cả mười phương: Đông, Tây, Nam, Bắc, tứ duy, thượng, hạ, chứ nó không cố định chỉ ở một phương này hay một phương kia. Chỗ nào cũng phải có mặt nó hiện tại, nó không hề ở đâu đến, cũng không hề đi đâu bao giờ.

Có hiểu được chính nghĩa bốn chữ “thường trụ chu biến” mới hiểu được lời huyền vi của Phật. Phật tính của chúng sinh không có cái lớn, cái nhỏ, cái nào cũng b́nh đẳng, cái nào cũng rộng lớn bằng cả hư không. Khi mắt Phật, tâm Phật của anh đă mở ra, anh thấy rơ, biết rơ hôm nay anh mới đến ở phương Đông mà Phật tính như hư không của anh nó vẫn đă ở phương Đông từ hôm qua, từ bao nhiêu kiếp trước rồi; dù ngày mai anh bỏ phương Đông đi phương khác, Phật tính của anh vẫn ở măi đấy không hề đi đâu.

Lại nữa, như hiện nay anh đang ở phương Đông, tôi ở phương Tây, nhưng Phật tính của hai ta, nó không hề bị bó buộc vào trong hai cái thân ta bé nhỏ mà ở ra làm hai nơi đâu! Tuy thân chúng ta, mỗi người mỗi phương, mà Phật tính của ta, cũng như hư không của ta, nó vẫn thường hằng ở khắp mười phương, chứ không phải đút nút chặt vào trong cái thân ta như một tí hư không bị đút nút chặt vào trong một cái hũ tí hon đâu!

Anh nên nghe kỹ lời Phật dạy dỗ tôn giả Ananda trong kinh Surangàma:

Phật đặt ra một người rất ngu độn, vô minh, tà kiến làm thí dụ, để diễn giảng cái tính Duy Thức (tức Tính Phật) cho tôn giả nghe. Phật nói: Trong thế gian ngũ ấm của ông, có cái Thức ấm, vốn là tính diệu chân như, tính Như Lai tạng nó rộng lớn chu biến thường trụ giống như hư không. Bây giờ có người ở phương Đông, lấy cái b́nh Tần Già (5) đút nút miệng b́nh lại, trong b́nh ấy đựng đầy hư không, vác đi xa ngàn dặm bố thí cho người bạn ở phương Tây. Người mê muội ấy vọng tưởng rằng cái b́nh Tần Già của ḿnh đă mang mất một ít hư không ở phương Đông đi rồi; khi họ đến phương Tây, mở nút đổ ra, họ tưởng sẽ thấy một ít hư không của họ lấy ở phương Đông đổ vào phương Tây! Không phải thế đâu, các ông thiện nam tử ơi! Khi ông đem thân và b́nh đựng hư không đi khỏi phương Đông th́ hư không của ông ở phương Đông vẫn nguyên vẹn chẳng mất đi tí nào. Và khi ông đến phương Tây đem hư không ở b́nh đổ ra, hẳn ông cũng chẳng thấy ở phương Tây thêm ra được một tí hư không nào!

Bây giờ mắt Phật, tâm Phật của ông đă mở rộng ra, ông đă thấy rơ, biết rơ Phật tính của ông cũng như của tôi, cũng như của chư Phật và của chúng sinh trong mười phương Pháp giới đều là b́nh đẳng ngang nhau, không có cái nào to, cái nào nhỏ, cái nào cũng rộng lớn bằng cả hư không, nó vẫn y nguyên ở khắp mười phương, nó không đi đâu lại đâu cả, chỉ có cái thân của chúng sinh vác cái b́nh hành nghiệp vọng thức, vác đi nay đây, mai đó, ṿng quanh trong 7 thú đấy mà thôi.

Chúng sinh mê muội trong 7 thú cứ tưởng lầm cái thân ông này to, vác cái b́nh lớn đựng được nhiều hư không Phật tính, c̣n cái thân con kiến, con ong bé tí, vác cái b́nh nhỏ xíu đựng được ít thôi. V́ vô minh tưởng tượng ấy mà nảy nở ra biết bao trí óc bất b́nh đẳng phân biệt ṇi giống, màu da, mạnh ai nấy được, tranh cướp lấy thật nhiều hư không về bè ḿnh, định nô lệ hóa những loài nhược tiểu! Rốt cuộc hư không chẳng cướp được, chỉ cướp được cái b́nh nghiệp báo thật to. Than ôi! Chiến tranh chưa kết liễu, b́nh đă vỡ, thân đă tàn. Hư không Phật tính của người nào vẫn nguyên vẹn của người ấy, chẳng ai cướp được của ai một tí nào!

V́ muốn diệt khổ bất b́nh, chiến tranh, tai nạn do chúng sinh mê muội trong 7 thú đă tạo ra, nên Phật Thích Ca phải giáng sinh vào thế gian ngũ ấm ô trược và nói pháp cho chúng sinh giác ngộ rằng: Phật tính của tất cả chúng sinh, của tất cả chư Phật là b́nh đẳng, rộng lớn như hư không, bất nhất và bất nhị. Sự nghiệp vô cùng vĩ đại của Phật và quyết định Duy Thức hóa và Tịnh Độ hóa cái thế gian ngũ ấm ô trược đầy bất b́nh: sát, đạo, dâm, vọng, tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, chuyển nó thành thế giới thất bảo như thế giới Cực Lạc Tây phương của Phật A Di Đà đă chuyển.

Vậy đương khi ông ngồi đây niệm Phật cầu sinh về Cực Lạc Tây phương, cách xa đây mười vạn ức Phật độ, thế mà Phật tính của ông vẫn đă ở Cực Lạc rồi, chẳng phải chờ khi ông chết, ông vác cái b́nh Tần Già đựng một ít hư không ở đây về Cực Lạc làm ǵ! Ông đừng tà kiến vô minh mê muội tưởng lầm như thế.

C̣n ai muốn niệm Phật cầu sinh về thế giới Đông phương của Phật Dược Sư cách xa đây nhiều Phật độ hơn, nhiều bằng mười số cát sông Hằng, thế mà Phật tính của người ấy cũng vốn đă ở phương Đông rồi, người ấy đừng mê muội đựng một ít hư không ở đây vào cái b́nh Tần Già mang đi, mang lại cho thêm phiền.

Như vậy, mỗi tiếng niệm Phật của ta ở đây đă rung cảm Phật tính của ta ở khắp mười phương rồi, tùy ư ta muốn hiện sinh ở phương nào, Phật tính của ta hiện thân ngay ở phương ấy. Thật là Bản Như Lai Tạng diệu Chân Như tính của người, của ta, của chúng sinh, của Phật bao giờ cũng thường hằng, linh thông cảm ứng với nhau vô lượng vô biên, vô cùng vô tận!

Nam mô Pháp Giới Tạng Thân A Di Đà Phật.

Nam mô Vô Biên Thân Bồ Tát Ma Ha Tát.

Nam mô Hư Không Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát.

Tuệ Nhuận

(1) Câu này là đă phát ra trí tính b́nh đẳng.

(2) Cây này là đă đủ giới luật rồi.

(3) Câu này là đă được nhất tâm bất loạn.

(4) Câu này là đă đủ trí tuệ đại quang minh đại b́nh đẳng.

(5) Nguyên tiếng Phạm Ấn Độ đọc là Kalavinka, dịch âm ra chữ Hán là Ca Lăng Tần Già, là tên con chim ở núi Tuyết Sơn (Hymalaya), tiếng chim hót hay hơn hết các loài chim. Người Ấn Độ rất yêu tiếng chim này, nặn cái b́nh có h́nh tượng giống con chim này, nên gọi tắt là b́nh Tần Già.

Lời tựa dịch Phật Thuyết A Di Đà Kinh Yếu Giải

Người học Phật tinh thâm ai cũng biết tên tuổi ngài Trí Húc Đại Sư là một lănh tụ trong giới Thiền tông. Từ miệng Ngài đă nói ra: “Khi Húc mới xuất gia, tự phụ là Thiền Tông, khinh miệt các giáo môn khác, dám nói rằng: ‘Phép Niệm Phật riêng cho người trung căn và hạ căn’. Về sau, nhân v́ đau nặng mới phát tâm cầu về Tây Phương, mới chịu nghiên cứu các sách: Diệu Tông, Viên Trung, Vân Thê Sớ Sao, mới biết phép Niệm Phật Tam Muội thực quư giá vô ngần, mới chịu hết ḷng niệm Phật với một sức mạnh bằng vạn con trâu kéo không lại.

Một ông bạn tu Tịnh Độ của tôi là ông Khứ Bệnh, ông muốn cho ư nghĩa lớn lao của kinh này được rất rơ rệt, mà lời giảng đừng rậm quá, ông yêu cầu tôi trước thuật một Yếu Giải, tôi cũng muốn cùng với các hữu t́nh trong Pháp giới cùng sinh về Cực Lạc, nên tôi không từ chối, cầm bút viết luôn từ ngày 27 tháng 9 năm Đinh Hợi, đến mồng 5 tháng 10 vừa xong, tất cả mất chín ngày. Tôi mong rằng mỗi câu, mỗi chữ là một môn tư lương, mỗi người thấy, mỗi người nghe cùng lên ngôi Bất Thoái, người tin, người nghe cùng gieo giống Bồ Đề, người chê, người khen cùng về nơi Giải Thoát.

Tôi ngửa trông chư Phật, Bồ Tát nhận lấy và chứng minh cho, các bạn đồng học tùy hỷ giúp sức. Kinh Phật nói rằng: ‘Đời mạt pháp, ức vạn người tu hành, ít có một người tu đắc đạo; chỉ c̣n nhờ phép Niệm Phật mới được độ thoát’. Than ôi! Nay chính là đời Mạt Pháp rồi mà bỏ pháp môn Niệm Phật này th́ c̣n có pháp môn nào tu học được nữa?”

Trên đây là lời văn kết luận trong sách Yếu Giải kinh Phật thuyết A Di Đà của ngài Trí Húc Đại Sư. Riêng về phần tôi, trước đây hơn 20 năm, tôi phát tâm học Phật, tôi cũng tự phụ có đủ thông minh tu học được Thiền tông, tuy không có thầy, mà cũng mon men vào cửa ải ấy. Phúc cho tôi quá, ngày 26 tháng 3 năm Canh Th́n (Mai 1940), tôi được gặp ngài Thái Hư Đại Sư qua chơi Hà Nội, tôi đến bái yết Ngài trong một khách sạn, tôi hỏi Ngài về Thiền Tông. Ngài nói: “Tôi xét thấy ở Việt Nam, cư sĩ đă tu Tịnh Độ rồi, thế là hay hơn cả. Vả chăng, tu Tịnh Độ đến chỗ niệm Phật nhất tâm bất loạn th́ Thiền Tông của ngài Quán Thế Âm, hay của ngài Đại Thế Chí đều ở cả trong chỗ ấy rồi”. Tôi liền quy y Ngài và xin Ngài cho nghe thế nào là có nhiều thiện căn, nhiều phúc đức để sinh về Cực Lạc. Ngài nói: “Thông thường, nghĩa thiện căn là tâm Bồ Đề ḿnh có 5 căn: Tín, Tiến, Niệm, Định, Huệ. Phép tu Tịnh Độ là một pháp môn rất khó tin. Người nào có tâm tin sâu mới chịu dốc ḷng phát nguyện đi sinh sống ở Tịnh Độ, chỉ người ấy mới có đủ thiện căn (bắt đầu đă có Tín căn và Tiến căn rồi). Lại thêm có tâm niệm Phật luôn luôn không ngừng, là có Niệm căn. Niệm măi rồi có cái tâm nhất định là Định căn. Thế là 5 thiện căn, đă có bốn, chỉ c̣n chờ đón ngày đi sinh sang Tịnh Độ, nếu có thể th́ trước khi sang, là ngày tỏ ngộ được “vô sinh”, ấy là Huệ căn. Thế là 5 căn đầy đủ cả. Trong khi tu tập năm căn ấy; lại tu thêm các món tư lương Bồ Đề là tu những phép: Tŕ Giới, Nhẫn Nhục, Bố Thí v.v… cho có được nhiều duyên phúc đức, th́ mới đúng với cái nghĩa: “Đa thiện căn, đa phúc đức nhân duyên, đắc sinh bỉ độ”.

Nghe xong, tôi sung sướng, không dám ngồi lâu nữa, cho được nghe thế là đại phúc rồi, liền cáo từ. Ngài nói: “Tôi biết cư sĩ là một đạo khí, khi về nước có pháp bảo sẽ gởi tặng sau. Chúc cư sĩ vào Như Lai Tạng đem ân huệ Phật nhuần thấm sinh linh”.

Lại một hạnh phúc, tôi không nhớ v́ đâu, có lẽ là của một bạn hiền đem biếu, trong tủ kinh tôi có một quyển Di Đà Yếu Giải, tôi đọc qua một lần như người mới t́m thấy vật báu của ḿnh mất đă nhiều đời. Tôi phát tâm dịch ra Việt văn để cống hiến đồng nhân; v́ ít phúc duyên, từ đấy đến nay vẫn không dịch được. Nay tôi họp anh em lại diễn giảng sách ấy, mong có người nối chí và giúp sức, nhưng chưa gặp ai, một thân vừa già vừa đau, tôi cầu nguyện cho thân tôi được bệnh tật tiêu trừ, nhất là cái cố tật Vô Minh; thời gian tao loạn cấp lắm, lần này tôi phải gắng hết sức dịch cho xong. Ngửa mong chư Phật, Bồ Tát phù tŕ và các vị thiện tri thức tùy hỷ gia bị, ngơ hầu cùng với hết thảy người nhất tâm tín nguyện niệm “Nam mô A Di Đà Phật” cùng về Cực Lạc Tây Phương.

Trước khi dịch kinh này và để các vị chứng minh phép tu Tịnh Độ cao quư và chắc chắn hơn phép tu Thiền Tông, tôi hăy dịch, của ngài Vĩnh Minh Thọ thiền sư, là một vị đại đức trong Thiền Tông mà cũng phải tu Tịnh Độ. Bốn bài kệ của Ngài như sau này:

Có Thiền tông, có Tịnh Độ,

Như thêm sừng cho mănh hổ.

Đời hiện tại làm thầy người,

Đời vị lai làm Phật, Tổ.

Có Thiền tông, không Tịnh Độ,

Mười người tu, chín người rớt

Ấm cảnh (1) nếu thấy hiện ra,

Chỉ chớp mắt là theo nó.

Không Thiền tông, có Tịnh Độ

Vạn người tu, vạn người đỗ (đắc).

Đă được thấy A Di Đà,

C̣n lo ǵ chẳng khai ngộ.

Không Thiền Tông, không Tịnh Độ,

Địa ngục đêm ngày đau khổ

Muôn đời ngh́n kiếp c̣n lâu,

Nhờ cậy ai, ai tế độ?

Hà Nội, sáng ngày 7 tháng 10 năm Tân Măo (ngày 5 tháng 11 năm 1951)

Bồ Tát giới đệ tử

Tuệ Nhuận cẩn tự 

(1) Ấm cảnh là cảnh Ngũ Ấm: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành và Thức. Năm cảnh này thường hiện ra để che lấp tâm Bồ Đề. Người tu Thiền Tông cốt ngồi yên để soi thấy tâm Bồ Đề hiện ra. Nhưng nếu chẳng thấy tâm Bồ Đề mà chỉ thấy ấm cảnh hiện ra, tức th́ phải theo nó đi làm chúng sinh măi măi.

Chánh Văn

Lời tựa Phật Thuyết A Di Đà Kinh Yếu Giải

Nguyên là chư Phật thương xót lũ người mê, phải tùy cơ của mỗi người mà bố thí cho lời giáo hóa.

Đưa người tới đích, tuy chỉ có một đích thôi, mà dùng phương tiện để đưa đi, tất phải dùng nhiều phương tiện. Trong hết thảy các phép phương tiện, t́m lấy một phép rất thẳng, rất mau, rất tṛn, rất chóng, th́ không phép nào bằng phép “niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ”. Lại trong các phép niệm Phật, t́m lấy một phép giản dị, rất ổn đáng th́ không phép nào bằng phép “tín, nguyện, chuyên tŕ danh hiệu”. Thế cho nên ba bộ kinh nói về Tịnh Độ đều có lưu hành, mà cổ nhân chỉ chọn lấy một bộ kinh A Di Đà làm khóa tụng hàng ngày. Thế chẳng phải là một phép Tŕ Danh ấy hợp với tất cả ba hạng người: thượng căn, trung căn, và hạ căn, tóm thâu được cả phần Sự, phần Lư không c̣n thiếu sót. Cả Thiền tông và các giáo môn khác cũng không thể ra ngoài được phép Tŕ Danh này. Thực là một phép chẳng khá nghĩ bàn vậy.

Về việc chú thích và giải nghĩa kinh này, thời đại nào cũng không thiếu người, nhưng c̣n để lại ở đời không có mấy. Bộ sách Sớ Sao của ngài Vân Thê th́ rộng lớn tinh vi, bộ Viên Trung Sao của ngài U Khê th́ cao cả sâu rộng, như hai vầng mặt trời, mặt trăng ở giữa trời, ai có mắt mà chẳng thấy rơ. Chỉ v́ văn chương giàu có lắm, nghĩa lư phồn thịnh nhiều không bờ, không bến chẳng ai đo lường được, đến nỗi những người mới học, biết ít, khó bề ngoi lên để mở ḷng tin và phát nguyện. Cho nên tôi chẳng quản ngu hèn, lại trước thuật sách Yếu Giải này, chẳng dám cùng với hai ông cạnh tranh mà lập dị, và cũng chẳng dám cố ép cho được đồng ư với hai ông.

Trước hết, tôi rút ở trong những câu văn của bộ kinh này, lấy 5 tầng nghĩa lư huyền vi mà giải thích:

I. Thích nghĩa rơ cái tên đề của bộ kinh.

II. Biện luận thể chất của bộ kinh.

III. Nói rơ tôn chỉ của bộ kinh.

IV. Nói rơ lực dụng của bộ kinh.

V. Nói về giáo tướng của bộ kinh.

Lời người dịch:

Đọc tụng bộ kinh này, phải biết rơ năm tầng nghĩa huyền vi ấy th́ người tu mới thấy có hiệu nghiệm và đắc đạo).

 

 

back_to_top.png

 

 

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

 

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0