* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ | KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

Số 1724

Pháp Hoa Huyền Tán Nghĩa

ĐẠI CHÁNH TÂN TU ĐẠI TẠNG KINH THỨ TỰ KINH VĂN SỐ 1724

Tỳ Kheo Huệ Chiểu chùa Đại Vân ở Chuy Châu sọan

Sa Môn Thích Như Điển Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc dịch từ Tiếng Hán sang tiếng Việt trên chuyến Hoằng Pháp Âu Châu năm 2013(Chùa Khánh Anh )Pháp Quốc.Cuối tháng 3 năm 2013.

Hỏi về Bồ Tát có hai lọai. Nghĩa là về Đốn Tiệm Ngộ. Chia rơ hai lọai ấy th́ có khác nhau chăng?

Đáp rằng: Chính việc chứng lư th́ gọi là Đốn Ngộ. Được Thánh hồi tâm th́ gọi là Tiệm Ngộ. Kẻ chưa được Thánh th́ chưa ngộ lư. Nếu dùng niềm tin để Ngộ th́ gọi là Tiệm Ngộ . Kẻ ấy đă có sẵn căn tánh Đại Thừa. Tuy chưa được nghe về Đại, mà chỉ nghe về Tiểu. Tuy chẳng có ư cầu nghe mà được rơ biết. Há gọi là Tiệm Ngộ sao?

Nếu niềm tín giải nầy chẳng gọi là Tiệm Ngộ th́ chưa được quả Thánh. Kẻ liền hồi tâm lại cũng chưa Tiệm Ngộ. Nếu như vậy th́ Định Sanh kia lúc ấy chẳng sánh với số lần sanh không nhiều, làm sao chẳng phải là Tiệm Ngộ? Điều nầy cũng chẳng phải như vậy. Nếu y cứ nơi quả của Tiểu th́ là Định Sanh nầy; nhưng nếu quay trở lại Đại th́ số lần sanh bất định.

Hỏi rằng: Đă định sanh rồi; tức là chẳng sanh nhiều lại chẳng tạo nghiệp. Như vậy th́ thế nào là bất định và ai nói rằng chẳng tạo nghiệp? Luận thuyết có hai chi, chẳng nhiếp được hai vị. Dùng sự tăng lên th́ chẳng có hữu. Nếu sẽ tạo nghiệp th́ làm sao chẳng có những phần khác của hữu?

 Đáp rằng: Có hai cách giải. Thứ nhất giải thích rằng: Căn cứ vào vô lậu th́ chẳng có phần phụ để nhiếp. Cho nên  tạp tập nói rằng: Kẻ rơ con đường Đạo th́ chẳng có lậu hoặc, mà như vậy th́ làm thế nào để cảm được cái quả của Thập Vương? Tất cả các luận đều nói về Bát Nhă Ba La Mật Đa. Hoặc cảm nhận điều kia. Giả sử chẳng có một tướng, lại cảm được quả kia vậy. Vô Trước Bát Nhă luận rằng: Một bên; cho nên nếu chẳng cảm hữu lậu, th́ một bên là thế nào? Lại có hai việc đúng. Đó là chẳng thể Chánh Cảm. Nghĩa là đối với Vị nầy tạo ra Cảm và sau đó có nghiệp. Kinh Duyên Khởi nói rằng:Trong Pháp ấy sinh ra khác. Nếu là kẻ buông lung th́ lấy 3 lọai vô minh làm Duyên. Nếu chẳng phóng dật th́ chẳng nói vô minh làm duyên. Lại nói rằng: Các bậc Thánh có học, chẳng tạo hoặc, sau đó có nghiệp. Chẳng phải nói: Chẳng phải Thánh, chẳng tạo nghiệp.

Lại nói rằng: Nếu không có khổ, th́ khổ chẳng có. Vô Minh và các Hành chẳng sanh ra làm hai. Đă từ h́nh dung hiện ra hành động,  th́ sao lại chẳng tạo nghiệp?Gia Hạnh Đốn Trạng căn cứ vào Măn Vị để nói. Dùng điều nầy;cho nên rơ biết hồi tâm, trải qua nhiều lần sanh; cho nên trở thành Đốn Ngộ. Lại nữa ở Tạp Tập Luận thứ 13 nói rằng: Đối với trong việc sanh nầy quyết định thường hay thông đạt chơn lư. Đây  được gọi là Thông Đạt Thuận Quyết Trạch Phần. Tức là ở trong ngôi vị nầy thuộc về Bất Định Tánh vậy. V́ muốn hồi hướng đến tối thượng Bồ Đề và v́ muốn cầu nơi các vị Độc Giác, Vô Sư tự chứng Bồ Đề, chuyển đổi rồi sanh.  Đây gọi là Dư Sanh Thuận Quyết Trạch Phần.

Đă nói chuyển đổi đến Dư Sanh Minh Sanh Bất Định. Lại có Pháp Sư nói về bổn ư và chẳng nói về  điều lành dơng mănh. Bát Nhă nói:Cầu nhập vào chánh tánh ĺa sanh, căn cứ vào việc chẳng dễ dàng thọ nhận sự luyến ái. Đă chẳng thọ việc luyến ái dễ dàng, th́ sự sáng suốt ấy tức là đi đến Thánh quả lớn, chẳng phải nhỏ. Nói Định Sanh cùng với Giả Thục kia. Lúc ấy lại giải thích thêm rằng:Giả sử phàm phu chưa cầu ở nơi Tiểu; tức là cầu Đại Thừa. Cho nên Bất Định Tánh ấy lại có tên là  Tiệm Ngộ. Do đó chẳng có thể một lần qua lại vậy. Trong ấy lại thối lui; nên nói rằng chẳng nghe nói một thừa; cho nên có thể thối lui.

Nếu mà nói chẳng nghe nói về Nhứt Thừa; tức có thể có sự thối lui. Nghe nói về Nhứt Thừa tức liền chẳng thối. Xá Lợi Phất cùng hội chúng lại nghe nói về Diệu Pháp Nhứt Thừa. Như thế sao có sự thối lui? Dùng điều nầy cho nên rơ biết hay có Tiểu tánh gọi là thối lui để chấp vào Tiểu. Được Thánh rồi mới quay trở lại lúc ban đầu thành bất thối. Cho nên gọi là Tiệm Ngộ. Giả sử có nhiều lọai cảnh giới, duy chỉ có h́nh thức của Tiểu tánh , lại có bất thối. Cuối cùng điều nầy lấy một phần chủng tử của Tiểu Thừa để trở thành Tiệm Ngộ. Cho nên pháp ấy gọi là Tiệm Ngộ. Đó cũng là Bất Định Tánh vậy.

Hỏi rằng: Đă v́ đọan nghi; nên nói Diệu Pháp.V́ sao nghe rồi nghi liền sanh?

Đáp rằng: Nghi ấy có cũ và mới. Nghi cũ chẳng được làm Phật; cho nên chưa hồi tâm. Nói rằng ngày xưa chẳng thật, đều sẽ làm Phật. Đầu tiên nghe chỗ Phật nói, trong tâm hay có lo sợ lớn; chẳng phải là ma giả Phật làm năo lọan tâm ta ư! Cho đến khi ta nghe, lưới nghi đă đọan rồi , v́ đọan nghi; nên nói rằng Định sanh; tức là khi điều nầy sanh th́ một chỗ Thuận Quyết Trạch Phần vậy.

Tạp tập thứ 13 nói rằng: Chưa đầy đủ tư lương th́ chúng sanh làm cho đầy đủ. Khi chúng sanh chưa đầy đủ tư lương đă làm đầy đủ rồi; cho đến nói như vậy ba lọai chúng sanh đều do thành tựu Thuận Giải Thuyết Phần, Thuận Quyết Trạch Phần, mỗi mỗi có 3 phẩm. Ước(Giáo)hay dẫn đến Sanh Thuận Quyết Trạch Phần và Chơn lư hiện thấy. Như thế lần lượt chưa Định liền Định; tức là điều nầy lúc sanh th́ đối với Đế Tăng Thượng Pháp thanh tịnh, tướng Thắng Giải là Thuận Giải Thóat Phần. Đối với Pháp Đế, Pháp Nhẫn tướng là Thuận Quyết Trạch Phần. Như điều nầy lần lượt Tín tăng lên; cho nên Huệ cũng tăng.

Ở trong đây 3 phẩm Thuận Quyết Trạch Phần th́ trừ Thế Đệ Nhứt Pháp. Do tánh của Đệ Nhứt Pháp chỉ trong một sát na liền chẳng tương tục; tức là điều nầy khi  sanh, Định Nhập Hiện Quán, chẳng phải là vị trí ở trước vậy. Câu văn phía trước hiển bày Tư Lương Gia Hạnh 2 vị và trong ấy mỗi mỗi có 3 phẩm. Như đây lần lượt chưa định sẽ định; tức là việc sanh nầy ở tại phiền năo nhẫn.Trừ Thế Đệ Nhất Pháp. Thế Đệ Nhất Pháp tuy trong một sát na liền chẳng tương tục; chẳng thể phân chia. Cho nên nói: tức điều nầy khi sanh là Định Nhập Hiện Quán vậy. Căn cứ điều nầy , sát  na sanh để nói. Tiền Giải Thóat Phần gọi sanh nầy là Ứơc Nhất Kỳ Sanh. Lại nữa, giải thích cho đầy đủ th́ Ứơc(Giáo)nói là Nhất Kỳ Sanh. Dùng Thế Đệ Nhất Pháp tức là Sanh Thời nầy. Nghĩa là Trừ Thế Đệ Nhất Pháp làm rơ Ước Nhứt Kỳ;  chỉ Tăng Thượng Nhẫn lại cùng với một sát na giống như ngăn cách Thế Nhất Thế Pháp. Chẳng phải điều nầy; tức là sát na sanh. Không nghe, chỉ thấy.

Lại nữa Phục Thông phân ra Yên Đảnh Nhẫn có 3. V́ ba ấy nghĩa là Tựu Thuận Quyết Trạch như thế . Sự phân chia ấy có sáu loại. Một là Tùy Thuận Thuận Quyết Trạch Phần. Hai là Thắng Tiến. Ba là Thông Đạt. Bốn là Dư Chuyển. Năm là Nhất Sanh và sáu là Nhất Tọa. Đầu tiên chỗ khởi duyên vào Đế Cảnh thực hiện phần thiện căn hạ phẩm. Gọi đây là Tùy Thuận Thuận Quyết Trạch Phần. Tức là căn lành nầy chuyển thành Trung Phẩm. Gọi là Thắng Tiến Thuận Quyết Trạch Phần, hướng về Hạ Phẩm phía trước để làm tăng thêm lên vậy. Tức là căn lành nầy tăng lên đến Thượng Phẩm. Đối với việc sanh nầy quyết định sâu xa có thể thông đạt Đế Lư. Gọi Thông Đạt Thuận Trạch Phần. Ba lọai trứơc nầy tại Nơan Đảnh Nhẫn Vị. Nếu Ước(Giáo)theo Tiểu Thừa th́ có thể như thế phân phối Vị Định rồi trở nên Định; tức là Sanh Thời nầy.

Nếu Đại Thừa th́ Trung Nhẫn Măn Vị mới gọi Sanh Thời nầy. Nếu ở tại Hạ Nhẫn cho đến Trung Nhẫn Vị th́ chưa đầy đủ. Giống như Đa Sanh vậy. C̣n Nhị Thừa Vị tuy là Sanh nầy có thể có quay lại. Gọi là Dư Chuyển Thuận Quyết Trạch Phần; nếu Dư Chuyển ấy sanh ra Sanh nầy; tức là Bất Định. Để cầu Độc Giác Vô Thượng Bồ Đề th́ liền ở nơi Đa Sanh Tu Thắng Hạnh. Nếu ở tại Đại Thừa th́ Thuận Quyết Trạch Phần vậy. Liền không quay lui lại ở chỗ thấp hơn. Quyết một đời cùng với Đệ Thất Trụ, sớm gọi là Bất Thóai. Quyết Trạch Phần nầy ở tại hồi hướng tu. Dùng sự so sánh nầy; nếu Thuận Giải Thóat qua khỏi Đệ Thất Trụ, chưa Định đă Định th́ tất cả đều chưa phải Dư Chuyển. Dư Chuyển và phía trước đă nói; cho nên từ Hạ Trung Thuận Giải Thóat Phần,Thuận Quyết Trạch Phần có nghĩa là có thể thối.

Căn cứ vào Nhị Thừa Vị để nói; nếu ở nơi Sanh Định nầy, có thể thông đạt, th́ đây gọi là Nhẫn Sanh Thuận Quyết Trạch Phần. Như trứơc đă nói về Thông Đạt, theo Ước(Giáo)Nhị Thừa Vị công năng mà nói th́ chẳng phải Bất Định Tánh tức là Bất  Quyết Định . Dư Chuyển Quyết Trạch chỉ Bất Định Tánh. Một đời Thuận Quyết Trạch Phần căn cứ nơi Quyết Định Tánh. Mỗi mỗi thú hướng nơi mỗi Thừa; hoặc lại Thông ấy có Bất Định Tánh.

Căn cứ vào Bất Hồi Tâm tức là một đời nhập vào Phi Bất Định Tánh. Tất cả đều thấy đạo phía trước; tức là có thể Hồi Tâm. Trong đời sống ấy lại trải qua Bất Định Tánh. Ở trong Thượng Nhẫn, như câu văn phía trước về Trừ Thế Đệ Nhất Pháp,chỉ có một sát na vậy.

Ba lọai Luyện Ma Tâm đọan ĺa Bốn Chướng; trong Vô Tánh Nhiếp Luận phần thứ 6 nói rằng: Nơi thuyết nầy rơ biết chỗ Sở Tri Tướng nhập vào Sở Tri Tướng.V́ sao thường thấy đa văn huân tập và nương tựa, chẳng phải chỗ nhiếp của A Lại Gia Thức? Kế đó hỏi rằng ai có thể rơ biết để có thể hỏi người có thể nhập?

Nghĩa là Đại Thừa đa văn huân tập tương tục rồi, được gặp những việc rất nhiều mà chư Phật đă xuất hiện ở đời trước. Được ở hướng Quyết Định Thắng Giải rồi, lành chứa nhiều căn lành , làm giàu cho Phước Trí Tư Lương. Bồ Tát với câu đáp nầy có thể nhập vào nơi người, căn cứ vào đó để khởi lên Hiện Hành Đa Văn, huân tập thêm cho hai tư lương. Nơi nào có thể vào và có thể Nhập Vị?

Nghĩa là liền ở nơi kia cái thấy giống với Pháp và với ư nghĩa. Nói rằng Đại Thừa Pháp Tướng cùng với chỗ sanh khởi Thắng Giải Hạnh Địa sánh với Pháp Nghĩa giống nầy; tức là nhập vào Đẳng Sở Sanh Thắng Giải Hạnh Địa, thấy được Đạo, Tu Đạo, cứu cánh đạo; ở trong ấy có thể đáp là Nhập Vị.

Đối với 4 Vị nầy theo sự nghe mà được thắng giải. Trị tất cả chướng. Cho nên ĺa tất cả chướng vậy. Như thế  lần lượt 4 con đường có thể lần lượt đi đến chỗ sai biệt.

Luận rằng: Do những ǵ mà có thể nhập và do căn lực lành nào mà có thể ǵn giữ vậy?

Đó là 3 lọai tướng Luyện Ma Tâm vậy; tức là  4 xứ, giải pháp nghĩa cảnh, chỉ quán hằng thường ân trọng gia hạnh, không phóng dật.

Giải thích rằng:Do những ǵ mà có thể nhập? Câu hỏi nầy là vào nhơn. Nghĩa là do nhơn ǵ; tức là do thiện căn lực sở nhiệm tŕ vậy. Tuy có thiện căn lực, mà tâm hoặc thối lui vậy.

Nói về 3 lọai tướng luyện ma tâm. Ba lọai luyện ma ấy là:Vô lượng các thế giới, rất nhiều con người trong một đời của ḷai hữu t́nh mỗi sát na sát na chứng được điều giác ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề. Đây là phần thứ nhất.

Do ư nầy vui có thể làm việc thí. Ta cũng được có ư vui như thế, th́ đây là ư lạc. Ta do điều nầy dụng công lực ít về tu tập bố thí, sẽ được viên măn. Đây là điều thứ hai.

Nếu có thành tựu các chướng trong việc thiện, đến khi lâm chung tức liền có thể thương tất cả chúng sanh tự thể viên măn mà được sanh. Ta có Diệu Thiện Vô Chướng Ngại Thiện.

V́ sao lúc ấy chẳng thể được tất cả viên măn? Đây là điều thứ ba.

Giải thích rằng:Vô lượng những thế giới cùng với sự hiển thị đầu tiên luyện dẫn kia đến thí dụ nầy, làm cho tâm tăng cảm, chẳng có thối lui. Do việc ư vui nầy mà làm rơ phần thứ hai. Nếu những người thành tựu th́ hiển thị phần thứ ba. Rộng như kia đă giải thích.

Luận rằng:Do v́ ĺa Thanh Văn Độc Giác có tác ư đọan trừ tác ư. Do nơi Đại Thừa , các nghi đă ĺa th́ có thể vĩnh viễn đọan trừ huệ nghi khác. Do ĺa chỗ nghe, chỗ suy nghĩ, trong ngă, ngă sở, chấp đọan, chấp pháp. Do nơi hiện tiền, hiện trụ, an lập tất cả tướng, không có chỗ tác ư, không có chỗ phân biệt, đọan phân biệt.

Giải thích rằng: Đọan tác ư nghĩa là đọan trừ Nhị Thừa phân biệt tác ư. Ư nầy được giải thích rằng: Cho nên ĺa Thanh Văn cùng với tác ư, rồi có thể đọan trừ. Chẳng khởi lên việc chấp thủ tâm nhị thừa.                           

Giải thích rằng: Thường hay xa ĺa đọan trừ huệ nghi vậy. Nghĩa là ở nơi Đại Thừa sâu xa quảng đại, chẳng khởi sai biệt huệ điên đảo và nghi. Ư nầy được giải thích rằng: Do nơi Đại Thừa các nghi đă ĺa vậy. Các nghi đă ĺa cho nên nói rằng các nghi ấy tức là Phật nói Hỉển, Mật ba tạng đủ lọai chẳng giống nhau mà khởi lên nghi hoặc; gọi đây là các điều nghi.

Nói là ĺa nghi là hay lấy sự đọan ĺa vĩnh viễn việc đọan chấp pháp vậy. Nghĩa là đối với chỗ nghe, chỗ suy nghĩ về pháp có thể vĩnh viễn đọan trừ ngă và ngă sở chấp. Nghĩa là ngă hay nghe, ngă hay tư duy. Chỗ giác, nghe, chỗ suy nghĩ. Như ngă chấp trước tất cả đều là không. Đối với nghĩa nầy sẽ chứng hiện tiền quan vậy. Ư nầy được giải thích rằng: v́ sao lại không có chấp nầy?

V́ ở nơi thắng nghĩa chứng được hiện quán và đọan trừ pháp chấp. Căn cứ vào chỗ không chấp nghe, suy nghĩ; nên gọi đây là đọan pháp chấp. Pháp chấp đă không, ngă chấp lại đọan. Chẳng khởi lên ngă hay nghe, suy nghĩ, hiểu biết.

Phần thứ tư lại ĺa các pháp chấp, nói về bảy địa và 4 hạnh của Bồ Tát. Bảy địa gồm: Một là chủng tánh địa. Nghĩa là chủng tánh chưa phát tâm vị. Hai là Thắng Giải Hạnh Địa; tức là Thắng Giải Hạnh Trụ phát tâm đă xong tại nơi Địa Tiền, ba lần tăng lên Thượng Ư Lạc Địa; tức là Cực Hỷ Trụ  ở nơi Sơ Địa.

Tứ Chánh Hạnh Địa nghĩa là Tăng Thượng nơi  giới trụ, tăng thượng nơi tâm trụ. Giác Phần tương ưng với Tăng Thượng Huệ Trụ. Đế Phần tương ưng với Tăng Thượng Huệ Trụ. Duyên Khởi tương ưng với Tăng Thượng Huệ Trụ. Có Gia Hạnh, có công dụng, chẳng có tướng trụ. Tổng cộng có 6 trụ; gọi là Chánh Hạnh Địa. Như thế lần lượt ĺa cấu măi cho đến Viễn Hành.

Năm là Quyết Định Địa; tức là không có Gia Hạnh, không có công dụng trụ. Ở Đệ Bát Địa có ba lọai quyết định. Một là tánh quyết định; hai là phát tâm quyết định và ba là bất hư hạnh quyết định. Ở  nơi đệ bát địa nầy rơi vào ở đệ tam quyết định; cho nên nói là quyết định hạnh địa. Tức là Vô Ngại Giải Trụ.

Ở đệ cửu địa th́ có bảy thí dụ về Cứu Cánh Địa. Tức là tối thượng thành măn Bồ Tát trụ lại cùng với Như Lai trụ. Ở Địa thứ 10 sánh với Phật Địa. Đệ Thập Địa gọi là Cứu Cánh Phật Địa. Kết qủa là Cứu Cánh vậy.

Tứ Hạnh gồm có: Một là Bồ Đề Phần Pháp Hạnh; hai là Thần Thông Hạnh; ba là Ba La Mật Đa Hạnh; bốn là Thành Tựu Hữu T́nh Hạnh. Nguyên Nhân khởi lên có hai. Một là Thông; hai là Biệt. Thông ấy là quan dư giáo; biệt ấy thuộc một kinh vậy. Thông ấy có nhiều nghĩa. Hữu vi đầu tiên do nhơn khởi; nên nói các pháp; tức là vô luợng nghĩa kinh nói rằng: Pháp vô lượng.

Dùng những tánh dục của vô lượng chúng sanh ấy ; nên chỗ nói pháp cũng vô lượng. Điều nầy sanh ra là do nguyên nhơn nầy khởi. Lại nữa một nguyên nhơn khác theo kinh Pháp Hoa nói rằng: V́ những chúng sanh nầy nên mới khởi tâm đại bi. Đây ư nói Đức Phật do từ  bi nầy mà khởi lên để nói kinh có hai nguyên nhơn; tức là tổng nói về hai việc trước. Phần thứ 20 của Duy Thức nói rằng: Triển chuyển tăng thượng lực và hai thức thành quyết định. Lại có hai nguyên nhơn: Trong bài tụng của Pháp Hoa nói rằng: Nhiều lọai nhân duyên lấy vô lượng thí dụ để làm sáng tỏ cho Phật Pháp, nhằm khai ngộ cho chúng sanh. Đây chính là v́ Pháp v́ người làm hai lọai nhân duyên. Lại có 3 nguyên nhân. Theo kinh Bát Nhă nói rằng: Trụ như thế nào, tu như thế nào và hàng phục tâm nầy như thế nào? Duy chỉ Ước(Giáo)phát khởi nơi Đại Thừa để hỏi về sự thật. Ba Thừa đều đầy đủ; giản lược hai thừa th́ nói ư thú Đại Thừa. Tức là ba nguyên nhân nầy. Một là làm cho phát tâm; hai là làm cho tu hành và ba là làm cho đọan chướng. Như thế lần lượt làm cho sáng tỏ con đường nầy, thành tựu con đường đạo vậy. Chẳng mất Đạo. Điều nầy theo việc tu hành của Ước(Giáo) lần lượt sẽ nói đến.

Lại có bốn nguyên nhơn , như Pháp Hoa phần thứ ba nói rằng: nghĩa là những người chưa được độ th́ làm cho được độ; những người chưa hiểu th́ làm cho hiểu; những người chưa an th́ làm cho được an; những người chưa chứng được Niết Bàn th́ làm cho chứng Niết Bàn. Nghĩa là làm cho những chúng sanh chưa ĺa khổ th́ làm cho được ĺa khổ; chưa được vui th́ làm cho được vui; chưa phát tâm dứt ác tu thiện th́ làm cho phát tâm bỏ ác tu thiện. Những người chưa chứng qủa th́ làm cho được chứng quả. Những điều nầy nương vào thệ nguyện rộng lớn hóa độ chúng sanh theo thứ lớp.

Lại có năm nguyên nhơn. Theo Tư Ích Kinh phần hai nói rằng: Nếu người nào hay ở nơi Như Lai căn cứ vào văn tự chương cú để nói rơ ràng tùy thuận, cho đến nói rằng có thể rơ biết Như Lai dùng những ǵ để nói   pháp, dùng tùy nghi để nói. Dùng phương tiện nào để nói, dùng pháp môn nào để nói, dùng tâm đại bi nào để nói. Dầu Phạm Thiên hay Bồ Tát có thể rơ biết Như Lai, dùng Ngũ Lực để nói: đây là Bồ Tát có thể làm Phật sự. Dùng những ǵ để nói pháp tức là nói ba đời thế và xuất thế gian sanh tử Niết Bàn, uẩn, xứ, giới v.v.tức là luận bàn về pháp thể, dùng những ǵ  tùy nghi để nói; tức là tùy theo căn cơ nghi hoặc. Hoặc tranh luận hoặc chẳng tranh luận; nói về ngă, vô ngă v.v.hoặc nói rơ ràng hoặc nói ẩn dụ.

Dùng những phương tiện nào để làm cho chúng sanh ĺa khổ, hoặc làm cho được an lạc, chỉ bày lợi ích rơ ràng ở nơi không lời dùng để thuyết pháp cũng là phương tiện. Dùng pháp môn ǵ nghĩa là ở nơi một pháp các môn để nói vậy. Dùng tâm đại bi nào để khởi lên bốn nguyên nhơn kia? Đầu tiên ở chỗ 2 và 4 để nói. Phần thứ ba thông qua có thể nói. Phần thứ năm có thể khởi lên nguyên nhơn; tức là làm ba ví dụ. Đầu tiên hai và bốn làm chỗ nói. Phần thứ ba do có phương tiện cho nên có thể khởi nói. Phần thứ năm do có đại từ bi; cho nên v́ vật mà khởi ở nơi phương tiện nói cho kia nghe pháp kia.

Đại Bi ấy có 32, như nói các pháp vô ngă, mà  những chúng sanh chẳng tin, chẳng rơ. Như Lai đối với điều nầy khởi tâm đại bi, liền tùy theo cảnh giới của sanh kia mà chẳng rơ. Mê mệt nơi sanh tử, chẳng thể ra khỏi; cho nên khởi tâm đại bi. Tùy theo nơi kia chẳng rơ biết tâm đại bi mà liền nói. Từ đó làm cho chúng sanh có thể giảm dần. Ḷng từ của Như Lai chính là chỗ cảm ứng.

 Lược nói có hai duyên. Mở bày có năm. Nói rộng ra th́ vô lượng; giống như Du Ǵa Nhiếp Thích Phần nói. Sau đó giải bày.

Lại nữa có sáu nguyên nhơn mà Bồ Tát Vô Trước nơi Bát Nhă luận đă giải thích. Tu Bồ Đề hỏi ư ấy có 6. Phật v́ đó mà đáp có 6 ư. Luận rằng: V́ sao mà Thượng Tọa Tu Bồ Đề hỏi vậy? Đáp rằng: Có 6 nhơn duyên, v́ đọan nghi, v́ khởi ḷng tin, v́ thâm nhập pháp, v́ chẳng thối chuyển, v́ sanh hoan hỷ, v́ chánh pháp ở lại dài lâu. Nếu kẻ có nghi th́ được đọan nghi. Nếu đă đọan nghi rồi, có lạc phước huệ, mà tâm chưa thành tựu th́ các Bồ Tát và Thanh Văn phước đức ở nơi Bát Nhă kinh mà khởi tín tâm rơ biết. Kẻ đă được tâm thành tựu rồi th́ thâm nhập vào nghĩa ấy. Phước đức nầy chẳng nhẹ, do người ấy mong thọ tŕ tu hành, có nhiều công đức, chẳng trở lại thối chuyển. Người mà  đă được thuận nhiếp và tâm thanh tịnh th́ đối với pháp tự nhập vào, đồng sanh hoan hỷ. Có thể làm cho vị lai Đại Thừa giáo ở lâu; cho nên Pháp Hoa mới có sự suy lường trên dưới vậy.

Lại có tám nguyên nhơn. Từ Pháp Hoa đệ nhất Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp văn thành tựu có 8 nghĩa lớn. Nhơn đây mà chia ư nghĩa ra. Nếu chia theo Du Già 81 Nhiếp Thích Phần th́, cách giải thích kinh theo quy tắc là trước giải thể lọai của kinh, sau đó giải thích văn nghĩa, pháp v.v.Bắt đầu giải thích chỗ khó, kế đến giải thích nghĩa lại có nhiều. Phần thứ tư là nương vào nơi chốn và tổng quát để lập nên chỗ phát khởi của nhơn duyên. Luận kia nói rằng: Như trên đă nói là nói sự việc, nơi thời gian và nơi chúng sanh.

Chư Phật Thế Tôn lưu bố Thánh Giáo cho nên nói tên kia là v́ nương vào nơi chốn và sự việc. Nương vào nơi chốn có 3. Một căn bản sự việc nương vào nơi chốn lại có 6. Một là nơi lành; hai là nơi ác, ba là thóai tùy, bốn là thăng tiến, năm là sanh tử, sáu là Niết Bàn sanh tử. Ở phía trước phần 4 Niết Bàn, tức Dư và Vô Dư v.v. Ở trong ấy 3 đối lại với 2. Việc được phương tiện nương vào nơi chốn lại có 12; tức là 12 hành. Một là dục hành, hai là nan dục hành, ba là thiện hành, bốn là bất thiện hạnh, năm là khổ hạnh, sáu là phi khổ hạnh, bảy là thuận thóai phần hạnh, tám là thuận tiến phần hạnh, chín là tạp nhiễm ô hạnh, mười là thanh tịnh hạnh, mười một là tự lợi nghĩa hạnh, mười hai là lợi tha nghĩa hạnh. Trong ấy 6 đối với 3.

Nương vào sự bi mẫn của việc kia lại có 5. Một là làm cho ĺa dục, liền v́ đây mà nói sanh tử sai quấy; hai là thị hiện tức là v́ hiển thị bốn lọai đạo lư. Nghĩa là pháp nhĩ nhân duyên chứng thành tác dụng 4 lọai đạo lư kia; ba là chỉ bày tức là kẻ chưa phát tâm chỉ vẻ làm cho phát tâm tu các chánh hạnh; bốn là tán dương người thấy kẻ thối lui, khuyến tấn khuyên bảo làm cho họ tiến; năm là kẻ vui mừng thấy có thể tiến tu mà lại thóai lui, làm cho sanh vào chỗ hoan hỷ.

Thời gian nương vào nơi chốn tức là ba đời mà chúng sanh y cứ nương vào nơi ấy. Nghĩa là 27 lọai chúng sanh ấy nương vào Nhiếp Tư Ích Kinh  Như Lai Ngữ Lực. Sự nương vào nơi chốn; trong ấy lấy căn bản sự nương vào nơi chốn và thời gian nương vào nơi chốn. Lấy điều kia để thuyết pháp những ǵ nhiếp được phương tiện nương vào nơi chốn. Nghĩa là tùy nghi như thế nào thuyết pháp và dùng phương tiện  ǵ, pháp môn ǵ để nhiếp. Hoặc dùng đại bi và phương tiện nào để nhiếp. Bi mẫn nương vào nơi chốn tức là ĺa dục v.v.

Ước(Giáo)phương tiện có thể khởi lên 5; tức là v́ ḷng thương đối với chúng sanh nương vào nơi chốn lại v́ đại bi mà nhiếp. Du Già Ước(Giáo)có thể thương chỗ thương mà biệt khai. Tư Ích căn cứ vào việc khởi bi làm nhơn, lại dùng đại bi nhiếp; cho nên kinh kia nói rằng: như nói các pháp vô ngă mà chúng sanh sanh ra chẳng tin chẳng rơ. Như Lai đối với điều nầy mà khởi lên ḷng thương. Sự hiển bày nầy ở nơi chư Phật là do ḷng bi vậy. V́ chúng hữu t́nh nương vào chỗ lành, dữ, cho đến tự tha lợi hành tùy theo nơi đây mà có thể làm cho rơ biết. Cùng với những công đức dấu niềm vui tu đọan để cho chứng được và làm cho ĺa dục , chỉ bày tán thán hoan hỷ. Ở  trong kinh văn tùy theo nghĩa mà chia ra. Sợ phiền phức chẳng thuật lại.

Cách khác theo Đại Trí Độ Luận, trong ấy  nói: Ở đây v́ khởi ư, ư ấy là  nguyên nhơn để thỉnh. Những việc nầy đều là như thế. Nay lại từ nơi kinh mà khởi ư, trong ấy tổng cộng có 10 môn. Nói cách khác có 52. Một đàng là v́ hiển nơi một mà nói kinh nầy có bốn lọai. Một đàng khác là một ấy hiển nhất thừa; cho nên nói kinh nầy. V́ vậy phần thứ hai nói trong kinh nầy duy chỉ nói một thừa. Hai là v́ hiển bày việc b́nh đẳng của Thế Tôn với Đại Huệ. Đa Bảo tán thán bảo rằng hay b́nh đẳng với Đại Huệ. Ba là v́ hiển chơn như thể, duy nhứt tướng cho nên nói kinh nầy. Cho nên phần thứ ba nói rằng Như Lai trí là một tướng một vị vậy. Trước ba kia làm cho ngộ. Bốn là v́ tất cả sắc thân Tam Muội; nên Hỷ Kiến Bồ Tát cũng được hiện nhất thiết sắc thân tam muội.Trong số nhiều ấy lược ra nơi đây chỉ có bốn. Điều thứ nhất lược rơ về nguyên nhân làm cho tu có hai. V́ hiển hai lại có bảy. Một là hiển giáo lư, hơn hai nên nói kinh nầy.

Cho nên phía dưới câu văn nói rằng chư Phật trí huệ thậm thâm vô lượng, với cửa trí huệ nầy khó hiểu, khó vào. Luận giải thích rằng: Việc chứng sâu xa ấy cùng với việc chỉ bày sâu xa kia lại như hoa sen hai nghĩa. Lại nhiếp ở cửa nầy và nay th́ muốn nghe. Hai là v́ hiển nhơn quả cả hai cửa. Trong luận nầy nói rằng từ đây trở đi làm rơ tướng nhơn qủa, làm cho vui tu vậy. Phần thứ ba là v́ hiển quyền thật hai thừa mà câu văn ở dưới dùng một Phật thừa, v́ chúng sanh để nói pháp. Chẳng có thừa nào khác, hoặc hai hoặc ba. Lại nói rằng duy chỉ có một sự thật. Ng̣ai hai tức chẳng đúng và làm cho chấp thủ vậy. Phần thứ tư hiển chơn hóa thành hai thân. Thọ Lượng Phẩm nói rằng: Họ đều v́ ta mà ra khỏi cung gịng họ Thích. Từ khi ta thành Phật đến nay vô lượng A Tăng Kỳ kiếp, làm cho rơ biết việc chơn hóa nầy. Phần thứ năm hiển tổn ích hai hạnh. Cho  nên trong phẩm Bất Khinh nói rằng: Với kẻ cúng dường, cúng dường nầy như thế hướng đến để nói. Những người phỉ báng như trước đă nói, làm cho pḥng ngừa để tu vậy. Phần thứ sáu là hiển quyền, bỏ dơ sanh tịnh, như Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự Phẩm v.v..nay ĺa ác gần thiện vậy. Phần thứ bảy là dấu phía dưới hiện ở trên. Phần thứ tám như đă nói là sẽ sanh Đao Lợi Thiên v.v làm cho ĺa sự lo sợ sẽ gần gủi.

Ba là hiển ba có bảy. Một hiển ba về chỗ ở. Câu văn phía dưới nói rằng: Lại thấy cơi kia, thấy ở chư Phật và nghe chư Phật nói kinh pháp; lại thấy ở kia các vị Tỳ Kheo v.v.Lại nữa ở phần thứ hai nói rằng: Nếu có thể được tin  kia  để nói th́ liền thấy nơi ta và các vị Tỳ Kheo Tăng cùng các vị Bồ Tát. Luận rằng: Phật và Đệ Tử thị hiện khác nhau hiện ra Tam Bảo, làm cho vui khởi niềm tin. Phần thứ ba hiển Ba Thừa khác nhau. Nghĩa là Tỳ Kheo cùng với tứ chúng và thấy các vị Bồ Tát đầy đủ nhân duyên để cầu Phật đạo.

Luận rằng: Lại cũng có Thừa  khác nhau cho nên có sự cao thấp. Phần thứ ba Thế Tôn hiển 3 cổ xe để giáo hóa. Kẻ nhập định th́ hiện ra xe của tâm nhớ nghĩ; việc phóng quang th́ xe ấy hiện ra cảnh thần thông; người thuyết pháp th́ hiện ra xe giáo huấn. Khiến cho kẻ trí khởi tâm tôn trọng. Phần  thứ tư hiện ra việc thấy rơ 3 tánh. Câu văn ở dưới  nói rằng: Chư Phật Lưỡng Túc Tôn rơ biết pháp thường vô tánh. Giống Phật từ nhân duyên khởi; cho nên nói một Thừa là Pháp Vị vậy. Khiến cho rơ ba tánh và đạt được chỗ rơ biết. Phần thứ năm hiển bày ba thắng hạnh. Phần phía dưới nói rằng: Vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai và ngồi ṭa Như Lai. V́ hiển bày thắng hạnh để làm chỗ tu học. Phần thứ sáu hiển bày 3 lọai b́nh đẳng. Một là Thọ nhận sự thọ kư của Phật cho các vị Thanh Văn được làm Phật. Hai là Phật Đa Bảo đă vào Niết Bàn; nhưng từ Niết Bàn mà dậy. Ba là hiện ra thân Phật để nhiếp hóa tất cả Phật. Cho nên luận nói rằng:  V́ trừ ba lọai nhiễm, không phiền năo, tam muội, thấy chúng nhiễm kiêu mạn nên nói ba b́nh đẳng. Ba lọai nhiễm mạn là: Một là tin các Thừa khác nhau. Hai là tin Niết Bàn ở thế gian khác nhau. Ba là tin ở thân nầy, thân kia khác nhau; khiến cho chứng được chơn lư, nhiếp tự, hóa tha. Phần thứ bảy là Phật hiển bày ba sự giác ngộ. Kinh phía dưới tất cả đều có ư là Như Lai ra khỏi cung ḍng họ Thích là hiện hóa thân. Ta thật từ khi thành Phật đến nay dài lâu là hiển báo thân. Như Lai rơ biết như thật về ba cơi; nên hiển thị pháp thân để nói và phần thứ  tám là thị hiện thành sự giác ngộ lớn, bậc vô thượng, thị hiện ba lọai Phật giác ngộ v.v...làm cho rơ biết chơn hóa mà cầu chứng đạo.

Bốn là hiển bày 4 ấy có bảy. Một là hiển thị Như Lai có 4 cách nói về nguyên nhơn lại nói bốn lọai thành tựu. Một là đă thành tựu rồi; tức là các lọai phương tiện; hai là giáo hóa thành tựu; tức là các lọai tri kiến. Ba là công đức cứu cánh thành tựu; tức là các lọai niệm quán. Bốn là nói năng thành tựu; tức là đủ lọai ngôn từ, làm cho rơ biết hai sự ưu việt, khởi lên sự khát ngưỡng. Hai là hiển thị khai thị ngộ nhập bốn lọai công việc, làm cho rơ quả, hạnh, nhơn. Ba là hiển 4 hạnh Bồ Đề.

Phần phía dưới nói về pháp du hí thần thông của Bồ Tát, tịnh Phật quốc độ và thành tựu chúng sanh, khiến tu hành tinh tấn. Thứ tư hiển 4 an lạc hạnh; tức là phẩm An Lạc Hạnh. Một là Chánh Thân Hạnh; hai là Chánh Ngữ Hạnh; ba là ư ĺa các việc ác, tự lợi hạnh; bốn là cùng tu các hạnh lành làm lợi lạc cho người khác, khiến việc hoằng pháp lợi sanh, học điều có, bỏ điều chẳng phải. Năm lọai hiển Như Lai 4 lọai thắng lực. Phẩm Dũng Xuất nói rằng: Như Lai nay muốn hiển phát tuyên nói chỉ bày thần lực của chư Phật, trí tuệ của chư Phật, lực tự tại của thần thông, lực sư tử phấn tấn của chư Phật, lực đại uy thế của chư Phật; khiến cho rơ biết chỗ thâm diệu kia. Sáu là hiển thị Như Lai có 4 lọai tất cả. Phẩm Thần Lực nói rằng: Như Lai làm chủ tất cả các pháp; Như Lai có năng lực tự tại tất cả; Như Lai tàng chứa tất cả bí mật; Như Lai có tất cả mọi việc sâu dày. Bốn việc tất cả ấy làm cho có thể rơ biết , khuyên dạy chỗ tốt đẹp.                                                                     

Bảy lọai hiển thị thành tựu 4 pháp chưa thay thế được nghe kinh nầy. Phẩm Phổ Hiền nói rằng: Một là chư Phật hộ niệm; hai là trồng các cội công đức; ba là vào Chánh Định Tụ; bốn là: phát tâm cứu vớt tất cả chúng sanh làm cho rơ biết thắng pháp khó nghe, liền tu thắng hạnh, sau đó mới được nghe; năm là v́ làm sáng tỏ năm ấy có 7; một là hiển bày trí tuệ thâm sâu. Luận giải thích rằng: Trí huệ lại có 5 lọai thâm sâu. Một là nghĩa; hai là thể; ba là nội chứng; bốn là nương vào; năm là vô thượng thậm thâm, làm cho vui chứng. Hai là hiển bày giáo  môn có 5 lọai khó. Trong Luận Diệp Kinh nói rằng: Trí huệ môn nầy khó thấy, khó biết, khó rơ, khó hiểu, khó vào, làm cho chúng sanh t́m cầu, nguyện muốn được nghe. Ba là làm hiển 5 lọai trược. Phía dưới nói về nghĩa của kiếp trược, khiến cho sanh xa ĺa, hiển ra ḷng đại bi của chư Phật. Bốn là hiển 5 lọai yếu kém chẳng v́ nói một. Phẩm Phương Tiện nói rằng: Độn căn vui nơi pháp nhỏ, tham đắm nơi sanh tử. Đối với tất cả vô lượng chư Phật chưa thật hành thâm sâu diệu đạo; những sự khổ ấy năo lọan, v́ đây mà nói Niết Bàn; khiến cho xả bỏ chỗ yếu kém của người.

Năm là hiển thị năm đức, v́ nói một Thừa. Phía dưới nói có Phật Tử tâm tịnh nhu nhuyến, lại lợi căn; nên vô lượng chư Phật ở nơi đó mà thực hành diệu đạo, khiến cho học được  điều thắng diệu. Sáu là làm rơ Ngũ Thừa, khiến cho rơ biết căn tánh. Một là mưa nhuần thấm, làm cho các lọai sanh trưởng. Luận giải thích rằng: kẻ v́ một hướng cầu Đại Thừa, tăng thượng mạn nói rằng không có Thừa sai biệt, khiến cho rơ biết các lọai Thừa khác nhau. Nói ví dụ mưa, khiến cho biết rằng gốc rễ căn cơ tùy nghi giáo hóa vậy.

Phần thứ bảy hiển 5 duyên mới nói một Thật. Trong Hóa Thành Phẩm nói rằng:Tự rơ Niết Bàn thời đến. Chúng sanh lại thanh tịnh tin hiểu kiên cố. Rơ biết pháp không, thâm nhập Thiền Định, khiến cho rơ biết pháp khó nghe được an lạc thành thục. Tám là hiển 6 có 6. Một là thị hiện 6  lọai chấn động, khiến cho chúng sanh kinh ngạc ngộ ra. Hai là hiện sáu cơi, khiến cho sợ hăi xa ĺa. Phía dưới câu văn nói rằng:Tận thấy cơi kia 6 ḷai chúng sanh. Ba là hiện hành lục độ, khuyến khích làm cho tu học. Như phía dưới bài tụng nói. Bốn là làm rơ với sáu việc thọ kư. Luận nói rằng: Một là chưa nghe khiến cho nghe; hai là nói; ba là nương vào nghĩa ǵ; bốn là làm cho trụ; năm là nương vào pháp; sáu là lần lượt. Cách chia câu văn có thể rơ; hiển thị điều ngay theo căn cơ, khiến cho bỏ chỗ chấp; năm là hiển thị trang nghiêm sáu căn, khuyến khích làm cho tŕ tụng, như phẩm Pháp Sư Công Đức nói rộng. Nên  biết đó mà tŕ kinh; sáu là làm rơ 6 lọai thọ kư, khiến cho rơ biết quả về sau, rơ biết chỗ khởi lên quyết định có tâm tu học. Nghĩa là biệt kư, đồng kư, hậu kư, vô óan ác kư, thông hạnh kư, cụ nhơn kư như trong luận có giải thích rộng.

Phần bảy hiển 7 lại có 4. Một là hiển Thế Tôn đầy  đủ 7 thành tựu. Có đủ lọai lời nói làm cho sanh ra có nhu cầu để hỏi. Một là đủ lọai thành tựu. Hai là ngôn ngữ thành tựu. Ba là tướng. Bốn là cảnh. Năm là đủ lọai. Sáu là giác thể. Bảy là tùy thuận chúng sanh tu hành, nói thành tựu. Theo kinh để có thể rơ, khiến cho người trí đầy đủ biện đức. Hai là hiển 7 lọai chúng sanh khởi lên 7 lọai mạn, khiến cho rơ biết sự sai quấy. Ba là để trị cách nói nầy với 7 thí dụ, khiến cho đọan trừ những chướng nhiễm ô. Như thế luận giải đầy đủ. Bốn là hiển tŕ kinh đầy đủ với 7 đức; khiến thực hành pháp vậy. Theo phẩm Pháp Sư, liền cầu áo Như Lai để mặc. Lại nữa v́ người kia mà chư Phật trong hiện tại nói chỗ hộ niệm. Có niềm tin lớn và chí nguyện lực cũng như những lực của căn lành. Cùng với Như Lai ở chung một chỗ; Đức Phật xoa đầu; khiến cho rơ biết việc tŕ kinh thành người ḥan hảo, thực hành kinh thâm diệu. Tám là hiển 8 ấy có 4. Một là nguyện chỉ bày đầy đủ 8 việc sâu xa. Giải thích rằng: Một là độc kinh; hai là tu hành; ba là hạnh quả; bốn là tăng trưởng tâm công đức; năm là thích việc vi diệu; sáu là  vô thượng thậm thâm; bảy là vào chỗ thậm thâm; tám là cùng với Thanh Văn Bích Chi Phật tạo ra chỗ ở  sâu xa. Câu văn phân chia để rơ; khiến cho rơ biết chỗ sai biệt tốt xấu để chỉ bày. Hai là v́ làm cho ĺa khỏi 8 việc tà vạy.

Câu văn phía dưới nói về người kẻ bạc đức thiếu phứơc. Lại nói chẳng cầu lực lớn nơi Phật. Lại nói về cái ngă lớn nhiễm ô tà kiến v.v...khiến cho rơ biết tà chánh. Ba là khiến cho tu bát chánh. Câu văn phía dưới nói Thế Tôn rơ biết tâm ta, đánh bạt tà thuyết để nói Niết Bàn; khiến cho rơ biết chỗ ưa dùng để được ra khỏi cuộc thế được vui. Bốn là làm cho ĺa khỏi tám nạn. Phẩm Đề Bà nói rằng: chẳng sanh vào địa ngục; làm cho rơ biết sự thắng lợi, được kết qủa vui đẹp ở đời. Chín là hiển 9 bộ kinh để làm nơi diễn nói; khiến cho rời bỏ quyền uy. Cho nên câu văn dưới nói rằng: Ta đối với 9 bộ pháp nầy tùy thuận chúng  sanh để nói. Lấy việc vào Đại Thừa làm gốc. Cho nên nói kinh nầy. Khiến cho rơ biết phương tiện, chỉ bày một nữa việc. Mười là làm hiển 10 có 5. Một là chỉ bày Văn Thù được Túc Mệnh Trí, thành tựu 10 việc như hiện tại tiền. Như trong luận giải thích đầy đủ. Biện giải câu văn để hiển bày. Hiển ấy đối với Ngài là chỗ ưu việt vậy. Hai là hiển thị giáo pháp có 10 lọai thắng diệu. Câu văn phía dưới diễn nói chánh pháp về sơ thiện, trung thiện v.v...khiến sanh chỗ vui thích. Ba là hiển Đại Thừa lại có 10 vô thượng, khiến  cho rơ biết chỗ ưu việt của kinh. Như văn từ đầy đủ và phân chia đầy đủ. Bốn là hiển 10 nghĩa để nói Nhứt Thừa. Rơ biết luận Đại Thừa và luận Trang Nghiêm; khiến cho rơ biết Đại Thừa ấy có 4 bí mật. Năm là hiển thị kinh nầy có 10 lọai thù thắng.

Một là nêu lên sự việc làm sáng tỏ chỗ khó tin, lược đưa ra 6 hạnh để  lảm sáng tỏ việc khó khăn nầy. Như phẩm thấy Bảo Tháp nói. Hai là dụ cho lọai khó suy lường. Lược đưa ra 10 thí dụ để làm rơ kinh nầy như phẩm Dược Vương Bồ Tát nói. Giống như tất cả nước sông đều chảy về biển v́ tất cả vậy. Ba là chứng nghiệm được hơn Nhị Thừa. Rơ chứng liền đó bảo tháp hiện ra để muốn chỉ bày việc Phật đều đến. Điều nầy dùng để chứng minh cho việc thắng diệu. Từ dưới Long Cung tất cả đều hướng về. Phổ Hiền diệu âm nương về nơi Bảo Tháp. Lại nghe tiếng các Bồ Tát đầy đủ uy đức, vây quanh tứ chúng, Long Thiên cùng các Tôn Giả tập hợp, để nghe điều thắng diệu. Bốn là có thể trừ 8 nạn. Theo  Thành Thật Luận nói về 4 bánh xe có thể bẻ găy 8 nạn. Ở trong kinh nầy, người nghe ít sinh tin; tức là có thể tổng trừ được. Phẩm Đề Bà Đạt Đa nói: Năm là sanh Thiên liền gặp Phật, như phẩm Phổ Hiền nói. Sáu là được ở Tịnh Độ, liền nghe một phẩm, sau đó văng sanh về Tịnh Độ. Như phẩm Dược Vương nói. Bảy là chẳng thối Bồ Đề. Một lần nghe  sanh tín tâm, chẳng thối bồ đề. Như phẩm Phân Biệt Công Đức nói. Tám là v́ phước điền ở đời. Tŕ kinh 4 câu th́ được sự cúng dường thắng diệu của trời ngừơi. Một bước tán thán lại vô biên; một việc tán thán kẻ tŕ kinh phước lại hơn kia. Như  phẩm Pháp Sư nói. Chín là phước báu khó nghĩ bàn. Tŕ độc kinh nầy công đức vô hạn. Như phẩm Dược Vương và phẩm Phân Biệt Công Đức nói. Mừơi là mau được thành Phật. Như phẩm Đề  Bà Đạt Đa và phẩm Bất Khinh nói. Đầy đủ như trong Hành Nghi nói. Lược đưa ra chỗ đại cương, làm rơ mười môn nầy, lo toan mà dừng.

Phía trứơc có 52 duyên. Kinh nầy là nhơn khởi. Tụng rằng: Đầu 4,3 mỗi mỗi 7,5,7,6 có 6,7,8,4,9,1,10 có 5 nên biết. Kiết Tạng Pháp Sư lược giải thích 10 nghĩa. Một là nói về Bồ Tát Đạo. Hai là thọ nhận việc thỉnh cầu của Phạm Vương. Ba là hiển thị ba đời chư Phật quyền thật ba trí. Bốn là nói về 3 tịnh. Năm là nói về 3 pháp môn căn bản. Sáu là nói về ba lọai pháp môn. Bảy là làm chỗ đọan nghi. Tám là nói Trung Đạo. Chín là tăng trưởng niệm Phật Tam Muội. Mười là ba đời chúng sanh như thật phân biệt tội phứơc   hai môn. Nay lược chỗ kia phần một nói về Bồ Tát Đạo để nói kinh nầy.

Thời gian đầu từ Hội Hoa Nghiêm đến cuối cùng là Pháp Hoa, tập hợp các kinh Đại Thừa rồi nói Bồ Tát hạnh. Nay v́ nhân duyên ǵ mà lại nói nữa?

Đáp rằng: có 2 Bồ Tát. Một là trực văng; hai là vu văng. Nay lại bỏ Tiểu vào Đại Bồ Tát cho nên nói kinh nầy.

Hỏi rằng: Dùng việc được trí của Hoa Nghiêm để làm trực văng. Nay lại trở lại nhỏ để nhập vào lớn mà nói?

Đáp rằng: Theo phẩm Dũng Xuất nói: Những chúng sanh nầy đầu tiên thấy thân ta khi tịch diệt nơi đạo tràng thấy Lô Xá Na nghe chỗ ta nói; nghĩa là dạy Hoa Nghiêm để trừ trước tiên những kẻ tu học Tiểu Thừa, liền rơ biết ở trước chưa làm như người nầy, nay lại làm cho được nghe kinh nầy, khiến nhập vào Phật huệ . Cho nên rơ biết bây giờ liền quay  về từ Tiểu.

Hỏi rằng:v́ sao trứơc lại trực văng. Sau đó lại trở lại Tiểu?

Đáp rằng: Tu hành xa gần riêng biệt. Hai là v́ thọ nhận sự thỉnh cầu của Phạm Vương cho nên nói kinh nầy.

Hỏi rằng: Ngày xưa dạy Bát Nhă và sự chỉ bày kia đă làm rơ cho sự thưa thỉnh nầy và với nay có ǵ khác chăng?

Đáp rằng: Thỉnh lại có hai lúc và mời ấy cũng lại có hai lọai. Đầu tiên thỉnh nói căn bản  pháp luân. Nay thọ thỉnh cùng với xưa có khác. Như Phẩm Phương Tiện và Trí Độ Luận quyển đầu đă nói. Ba là muốn làm rơ ba đời chư Phật quyền thật 3 trí tướng thành tựu; cho nên nói kinh nầy. Phi thật chẳng thể hiển quyền. Phi quyền chẳng thể hiển thật. Thật ấy có công khởi quyền. Quyền ấy có tư lương thật dụng.

Câu văn phía dưới nói. Đối với một Phật Thừa phân biệt nói ba; tức là từ Thật khởi Quyền. Ta dùng phương tiện nầy khiến cho vào trí huệ Phật. Tức là dùng Quyền thông qua Thật. Lời dạy kia chạy đi hoặc chấp Quyền, quên Thật. Ngày trước chấp người Tam Thừa chẳng thể ngộ nhập con đường của nhứt thừa. Hoặc chấp Thật quên Quyền để nghe Pháp Hoa nhứt thừa; nghĩa là không có Tam Thừa. Nói phá có thể rơ biết. Bốn là muốn nói 3 pháp môn thanh tịnh. Chúng sanh bổn tánh chưa từng dơ sạch. Đối với chúng sanh điên đảo cho nên thành ra dơ sạch. Lại dơ chẳng thể chặt bỏ vậy. Phật, Bồ Tát dần dần xuất hiện để khai mở 3 việc thanh tịnh. Một là dùng 5 giới, Thập Thiện làm thanh tịnh ba cơi. Hai là nói Nhị Thừa để tịnh ba cơi, sau đó làm rơ Nhứt Thừa để tịnh Nhị Thừa. Dùng Tam Đồ làm chỗ thật khổ. Tam giới làm chỗ khổ vừa, biến hóa dễ dàng làm khổ thấp hơn. Cho nên nói ba biển. Nói 5 việc và 3 pháp môn nhiếp phục để tổng nói về Thánh Giáo. Ở đây có ba cửa. Một là nhiếp tà trở về  với chánh môn. Hai là nhiếp sự khác nhau quy về chỗ đồng môn. Ba là nhiếp nguyên nhơn quy về qủa môn.

Về nhiếp tà quy chánh môn nghĩa là Đức Thích Ca chưa ra khỏi cơi phàm t́nh có 2 tà của một tại gia ngọai đạo, khởi lên thương mến chúng sanh; hai là xuất gia ngọai đạo, khởi lên thấy chúng sanh. Làm cho trở nên chánh đạo; nên gọi đó là tà. Ở nơi  phẩm Phương Tiện dùng các món nhơn duyên, đọa lạc vào tam đồ; tức là khởi lên ḷng thương chảy vào tà kiến, ṭan là thấy những ngọai đạo. Như Lai ra đời nhiếp phục điều kia và hai tà ấy trở về Ngũ Thừa là chánh. Ở trong hai ấy có vô văn phi pháp, dùng người trời để thành tựu. Ba tánh ấy là 3 thừa nhiếp vậy. Nhiếp hai tà kia để trở về th́ gọi là 5 việc chánh.

Hai là nhiếp điều khác để trở về cùng giống nhau. Nếu kẻ ngộ một con đường rồi th́ chẳng nói ra, v́ kẻ độn căn mà lưu bố vậy. Chỉ có xả bỏ hai việc tà chấp, Ngũ Thừa sai khác và nhiếp 5 việc khác nhau ở phía trước đồng trở về Nhứt Thừa.

Ba là nhiếp nhơn để quy về quả. Ĺa việc nhiếp 5 ấy quy về một, chỉ là nhơn hạnh. Muốn làm cho tu nhơn chứng qủa tốt; nên nói Như Lai xưng chơn và ứng hóa hai thân để nhiếp nhơn trở về quả. Sáu điều muốn nói 3 lọai pháp môn. Một là căn bản pháp luân. Hai là chi mạt pháp luân. Ba là nhiếp mạt quy bổn pháp luân. Phật lúc mới thành đạo v́ chư Bồ Tát mà nói Hoa Nghiêm là căn bản pháp môn. Những kẻ bạc phước độn căn chẳng nghe thấu; nên nói Nhị Thừa để chỉ bảo là chi mạt pháp luân. Hơn 40 năm nói pháp và nay làm cho Pháp Hoa nầy quy về một; nên liền nhiếp mạt quy bổn.

Hỏi rằng: nơi nào có câu văn ấy?

Đáp: Nơi phẩm Tín Giải nói rằng: Khi thấy Trưởng Giả ngồi ṭa Sư Tử đầy đủ của  trân bảo; tức là chỉ cho Hoa Nghiêm làm giáo pháp căn bản. Gọi con mà chẳng được nên liền cùng hai người cởi bỏ y phục qúy giá, mặc đồ của người hốt phân, áo xấu ở nơi thấp hèn và giả gọi là con.  Đây chính là v́ chi mạt giáo. Sau đó mới hội thân tộc lại và phú chúc tài sản cho.  Đây là nhiếp mạt quy bổn.

Bảy là v́ muốn  trừ nghi của Thanh Văn Bồ Tát cho nên nói kinh nầy. Như cách giải mới phân biện. Tuy có một ít sai biệt và lược nói chẳng rơ hết vậy. Tám là muốn nói pháp Trung Đạo; cho nên nói kinh nầy.

Hỏi rằng:V́ sao rơ biết được?

Đáp rằng: Hai lần thuyết pháp. Đầu tiên đều phóng tướng lông trắng giữa chặn mày. Trên chẳng quá đầu, dưới chẳng qúa chân. Phóng hào quang giữa chặn mày là biểu hiện hai lần nói Trung Đạo vậy. Lần đầu tiên làm rơ con đường thanh tịnh; tức là nhứt thừa. Lần thứ hai là làm rơ pháp thân thanh tịnh; tức là chơn thật thân.

Hỏi rằng:V́ sao lại làm rơ Trung Đạo?

Đáp rằng: Xưa nói Ngũ Thừa là v́ muốn làm hiển thị 5. Lời dạy kia theo sự nghe 5 thừa mà tạo nên 5 sự giải thích sai khác rơi vào các biên (kiến). Lời dạy cho người trời kia là ở nơi sanh tử. Kẻ cầu Nhị Thừa rơi vào Niết Bàn biên. Kẻ học Đại Thừa chấp trước vào Đại Thừa biên. Nay phá những biên kiến nầy làm cho tâm không c̣n chấp trước nữa.

Chín là v́ làm tăng việc niệm Phật Tam Muội cho nên nói kinh nầy. Từ xưa chưa làm rơ thân chân thật và thân phương tiện. Phàm phu nhị thừa bắt đầu thể hiện. Bồ Tát chưa rơ Phật cho nên chẳng thể giải rơ được lễ niệm. Thường có chỗ được tâm lễ niệm; tức là lễ niệm ấy có chỗ được tâm. V́ sao chưa thể niệm nơi Phật. Cho nên Phật chẳng phải Thầy của kia, mà kia cũng chẳng phải là đệ tử của Phật. Nay khai mở thân phương tiện và thân chơn thật, mới giải bày ở lễ niệm.

Hỏi rằng: Ngày xưa v́ sao mà chẳng giải rơ về lễ niệm?

Đáp rằng: Xưa kia chấp về số nhiều mà chẳng ra khỏi 3 lọai. Một là chẳng biết Bổn một Tích nhiều. Hai là chẳng rơ Bổn ấy chẳng hề sanh diệt ở nơi sanh tử. Ba là chẳng rơ Đức Thích Ca từ lâu xa đă chứng Pháp Thân; không phải nơi Già Da mới bắt đầu có. Đây là ba lọai bịnh; cho nên thị hiện làm ba lọai giáo môn. Một là làm rơ việc Đức Thích Ca ở nơi Tịnh Độ và chư Phật ứng thân bất nhị. Cho nên biết rằng ứng thân bất nhị là Tích thân bất nhứt. Hai là mở tháp cùng ngồi. Hiển thị Đa Bảo diệt nhưng chẳng diệt; tức là rơ biết Đức Thích Ca chỉ sanh nơi chẳng sanh và chẳng sanh nơi chẳng diệt; gọi đây là pháp thân. Phương tiện nói diệt; gọi là Tích dụng vậy. Sanh vào vương cung mà chẳng khởi, Song Lâm diệt mà chẳng mất. Tích tuy sanh diệt mà pháp thân  chưa hề khởi hiện. Ba là quá khứ đă thành lâu rồi và vị lai chưa diệt; nên gọi đây là pháp thân. Nhiên Đăng thọ kư, Già Da thành đạo, nhơn ấy chính là phương tiện.

Hỏi rằng: Đức Thích Ca chứng pháp  thân. Vậy pháp thân ấy có xa gần chăng?

Đáp rằng: Pháp thân th́ chẳng xa gần. Pháp thân chẳng xa gần; tức là rơ được chỗ chẳng xa gần ấy. Cho nên mới nói rằng: Ngộ ấy gốc ở pháp thân, mà pháp thân th́ không có xa gần; tức là rơ biết được chỗ chẳng xa gần ấy.

V́ sao lại muốn làm rơ 3 việc nầy?

Đáp rằng: Đầu tiên tức là pháp thân bất nhị. Tích thân bất nhứt. Chưa rơ thân bất nhị làm thân sanh diệt, mà thật ra chẳng sanh diệt vậy. Kế đến làm rơ pháp thân vô sanh  diệt c̣n ứng thân th́ có sanh diệt. Tuy rơ pháp sanh diệt; nhưng pháp, ứng lại có khác. Chưa rơ được Đức Thích Ca từ lâu xa đă chứng pháp thân, v́ chứng lâu xa vậy. Kế đến làm rơ việc xa gần nầy. Tất cả chư Phật đều đầy đủ 2 việc như trước. Đức Thích Ca th́ đầy đủ cả 3.

Hỏi rằng: Làm sáng tỏ việc niệm Phật như thế nào gọi là niệm?

Đáp rằng: Như trong kinh Đại Phẩm nói rằng: Dùng sự vô  ức cho nên hiển thị điều nầy để trừ phân biệt chỗ không thấy. Phật v́ chỗ niệm, sanh v́ hay niệm. Như thể của chân lư mà v́ lễ niệm. Như phẩm An Lạc và phẩm Thọ Lượng đă nói rơ.

Mười là muốn v́ vị lai thập phương chúng sanh như thật phân biệt sự ích lợi. Tội phước hai lọai nghiệp báo như hành nghi đă nói. Mười ư nghĩa gần gũi làm rơ chánh tà. Kinh ấy được gọi là cửa ngơ chú giải. Trong ấy nói rằng: nương vào thuận theo thể nghĩa xứ và trong ấy nguyên nhơn xuất thế , phước báo. Nương vào Tông Luận chú giải rằng: Việc ấy có 4 lọai. Nghĩa là: giáo, lư, hạnh, quả. Lược nói lại có 3. Ngược lại điều nầy cũng có 3. Một là lời nói vô nghĩa, như luận của bốn Vệ Đà, kệ tụng của Bà La Môn. Âm thanh thanh nhă, sâu xa dễ mến. Thường hay t́m nghĩa nầy và cả hai đều chẳng là chân lư. Như luận kia nói rằng: Ta như đă uống nước cam lồ thành tựu, chẳng trở lại sanh tử nữa. Hai là nói lời tà vọng. Như 95 lọai ngọai đạo khác, lại nói về nhơn quả, thường làm rơ chỗ tà ty, cho nên nói là tà vọng. Ba là như pháp để nói. Như Phật đă nói nơi nhơn quả đạo lư, nói về khổ tập. Đây chính là nhơn quả thế gian. Diệt đạo ấy là xuất thế nhơn quả. Đạo lư tuyên  xưng chẳng tà ngụy. Cho nên gọi đây là nói như pháp. Lư ấy lại có 3. Một là nghĩa tăng trưởng ích lợi. Như ngọai đạo đối với pháp vô ngă, ngang ngược với pháp của ta. Hai là nghĩa tổn giảm. Như những việc tà kiến và đọan kiến vậy. Ba là nghĩa thuận thể, như giáo pháp của Phật có liền nói có, không liền nói không. Đọan ĺa thường kiến, cho nên gọi đây là thuận thể. Hành ấy lại có 3. Một là thuận theo nhơn  quả của thế gian, như việc đời, trung với vua, hiếu với cha mẹ v.v...Hai là nguyên nhơn của tà ty. Nghĩa là vọng nói những điều tà giới cấm v.v...Ba là ở trong nguyên nhơn. Như ở cửa Phật Pháp ĺa khổ lạc biên, ĺa tà để cầu vậy. Quả ấy lại có 3. Một là quả xiểm trá, như bẻ quanh từ cuộc sống để t́m chỗ sung sứơng. Hai là qủa hư vọng , như những ngọai đạo vọng nói tính tóan vô tưởng về Niết Bàn vậy. Ba là xuất thế quả, như giáo pháp của Phật hay làm cho chúng sanh ra khỏi chỗ sanh tử chứng được Niết Bàn vậy.

Do nương vào giáo lư hạnh quả mà có tà chánh; cho nên lập thành tên gọi như vậy, làm cho bỏ tà về chánh.  Lại nữa v́ được 4 lọai thanh tịnh cho nên làm rơ 4 cách gọi tổng cả . Một là cực thanh tịnh. Hai là nghĩa thanh tịnh. Ba là phương tiện thanh tịnh. Bốn là sở đắc thanh tịnh . Như thế lần lượt lập nên kia. Giáo nghĩa là đầu, giữa, sau đều lành. Lư tức là ĺa sự  tăng ích tổn giảm kia. Hành nghĩa là ĺa khổ lạc v.v...Khổ ấy là phi thế gian các khổ , nương tựa vào các  hoặc. Cho nên nói đây là thanh tịnh. Lại nữa v́ nương vào sự khoa trương chứng ngộ cái lư và nương vào lư để khởi ra hành và do hành mà được qủa. Nếu chẳng thể đủ th́ chẳng phải do ngộ cái lư. Nếu chẳng ngộ lư mà có tà phân biệt, cho nên tạo ra các việc làm ác. Có tà phân biệt cho nên tạo ra các ác hạnh và cảm các quả khổ. Nay nương vào chánh giáo có thể hiển rơ lư chánh, liền chứng chánh lư, có thể khởi lên chánh hạnh. Do chánh hạnh cho nên có thể được quả lành. Do nương vào 4 nơi ấy mà lập nên được tên gọi nầy. Lại do sự dạy dỗ ấy nên sanh nơi có trí huệ. Nương vào lư sinh ra sự suy nghĩ. Nương vào hành sanh ra việc tu. Cái nhơn nầy được quả vậy. Nhiếp Đại Thừa nói rằng: Sự nghe ấy huân tập, không có quả sanh th́ chẳng phải đạo lư. Lại có hai lọai. Một là nương vào pháp nhơn và hai là nương vào pháp dụ; hoặc đơn hoằc kép. Nói sao chẳng nhứt định. V́ sao lại như điều nầy? Nương vào người nghĩa là làm cho rơ biết tu sáu ḥa kính. Nương vào pháp nghĩa là làm cho rơ biết nghĩa  đen và pháp lớn v..v...Nương vào pháp dụ nghĩa là v́ kẻ độn căn, rộng lược cho sáng tỏ cho nên từ nơi chốn đến công việc. Tất cả trong pháp ấy tóm thâu; nên gọi là rộng răi vậy. Đối với những nghĩa trên giáo pháp ấy đă thành cách gọi, duy chỉ có chúng sanh nhiều khi chẳng ra khỏi nơi nầy. Hăy  như Nhiếp Luận nói về tên gọi nầy có tổng cả đến 10 lọai. Tụng ấy nói về pháp, chúng sanh, pháp, nghĩa, khác, rộng, tánh, bất tịnh, tịnh, cứu cánh. Gọi đây là chỗ hành sai biệt.

Đầu tiên pháp ấy nghĩa là sắc, thọ v.v...Chúng sanh có nghĩa là trời, người thế gian và cũng c̣n gọi là tùy tín hành cùng với tên  gọi thánh giáo. Sau đó pháp nầy được gọi là khế kinh. Nghĩa ấy nghĩa là ở đây rộng nói về giả thiết sự nguy hại đối với cha mẹ. Lược gọi là tất cả pháp vô ngă vậy. Quảng ở đây có nghĩa là sắc vô ngă. Tánh gọi  các chữ, các từ, các câu là cái nhơn vậy. Bất tịnh nghĩa là những sự sai biệt sanh ra những phiền năo cấu nhiễm. Tịnh ấy nghĩa là các vị hiền thánh việc cấu nhiễm đă vĩnh viễn xa ĺa. Cứu cánh nghĩa là tổng thể các duyên ; tức là Bát Nhă Ba La Mật Đa cùng với Thập Địa v.v...Dùng nghĩa tổng lược để làm chỗ duyên vậy. Ở đây có 5 đối nghịch. Một là pháp đối nhơn. Hai là nghĩa đối giáo. Ba là lược đối rộng. Ba điều nầy lần lượt như vậy. Bốn là nhiễm đối với tịnh. Gọi là phần 8,9. Năm là phân biệt đối với phi phân biệt. Lại cũng gọi là  nhơn đối với quả. Phần thứ 7 và chữ thứ 10  v́ ng̣ai nhơn cho nên phân biệt làm cho hiển thị 10 cái lư của cứu cánh. Cho nên gọi là vô phân biệt. Ở trong ấy phần thứ hai 8,9 là cách gọi từ con người. Ng̣ai ra là cách gọi từ pháp. Bây giờ làm rơ gíao nghĩa tức là cách gọi của đệ tam khế kinh vậy.

Du Già 81 tên gọi ấy có 12. Tụng nói rằng: giả, thật, đồng, dị, lọai, tùy đức và giả nói, đồng, phi đồng, chỗ hiển rơ, chẳng hiển, rộng, lược một. Giả lập gọi như thế là đối với nội giả lập ngă, hữu t́nh v.v... Đối với ngọai giả lập là ngói gạch v.v...Nghĩa là đối với mắt, sắc ấy cùng với các căn trong nghĩa ấy lấy mắt để gọi. Cùng lọai giống nhau nghĩa là có tánh của sắc, thọ, gọi là cái nhân lớn. Khác lọai tương ưng nghĩa là Phật thọ kư cho cái đức gần gũi. Tùy đức nghĩa là tính chất nghi ngại danh sắc bao gồm cả thọ. Giả thiết nghĩa là xưng nghèo, gọi giàu v.v...Cùng chỗ rơ tên nghĩa là cùng chỗ rơ biết với tướng sai biệt có không. Đồng liễu hiển nghĩa là nghĩa ấy để vậy. Chẳng hiển nghĩa là nghĩa ấy khó liễu được, như chú Đạt La Thôi Trà v.v...Lược danh nghĩa là một chữ. Quảng ấy có nghĩa là nhiều chữ. Trong nầy có 6 cách đối lại . Một là tùy ấy rộng đối giữa thật và giả. Hai là cùng lọai khác với khác lọai. Ba là xưng thể hư đối với giả thiết. Bốn là cùng đối với chẳng cùng. Năm là nghĩa rộng đối với khó dễ. Lại cũng c̣n nói rằng rộng ấy là tiêu đề đối với mật. Sáu là có thể rộng đối với lược. Tuy là 12 tên gọi nhưng chẳng ra khỏi pháp nhơn. Văn ấy hiển thị có thể rơ. Nếu biện giải về giáo ấy th́ tùy theo chỗ nghĩa nầy có thể thông suốt được. Thông qua các luận và các việc thành lập chỉ bày, tên gọi chẳng giống nhau. Tổng cộng mở ra có 6 ví dụ. Một là nương vào 6 sự giải thích để thông  biệt. Hai là giáo, lư, hạnh, quả thông biệt. Ba là nhơn pháp thông biệt. Bốn là pháp dụ thông biệt. Năm là Tam Bảo thông biệt. Sáu là tán thán thông biệt; hoặc nay hợp lại làm hai. Đó là nhơn pháp. Ở phía trước căn cứ vào 6 chỗ thông biệt, lại có nhiều lọai, như nương vào sáu cách giải thích; hoặc duy chỉ có một. Hoặc thông 2,3,4,5,6 v.v...hoặc chẳng  phải chỉ có một mà có hai cách giải thích. Như trong kinh Niết Bàn thể ấy thông với việc chú thích rơ ràng chỗ giải thích; tức là có giữ nghiệp và nương vào sự chú thích. Hoặc thông với 3 sự giải thích. Như Thành Duy Thức Luận văn,  Đại Thừa A Tỳ Đạt Ma Tạp Tập Luận v.v...

Có thông y chủ, tŕ nghiệp, hữu tài, như chánh pháp niệm kinh v.v...tức là thông tŕ nghiệp, y chủ, lân cận. Ng̣ai ra có thể so sánh để biết; hoặc có thể chẳng có 6 việc gỉai thích nâỳ. Nếu nương vào giáo lư hành quả,  4 cách gọi thông biệt; th́ thông âư liền có 15. Biệt ấy có 4.2,3 mỗi mỗi có 6,3,3 hợp chung lại thành 4,4 và 4 ấy hợp lại 1. Lời dạy sau cùng nhiều nghĩa nhẫn nại ở Kinh Niết Bàn. Như thế lần lượt giáo lư hạnh quả 4 tên riêng lẽ. Hai hợp với hai như Kinh Giải Thâm Mật nói về giáo lư thâm mật ấy. Trong kinh Đại Phương Quảng Bồ Tát Thập Địa có chỉ về hạnh hợp nầy. Trong kinh Xưng Tán Phật Công Đức có chỉ về qủa hợp nầy. Như kinh Tín Đao Nhập Ấn có lư hành hợp nầy. Trong Kinh Như Lai Nhập Nhất Thiết Cảnh Giới có lư quả hợp nầy. Trong kinh Như Lai Cầu Phật Bổn Nghiệp có hành quả hợp nầy. Ng̣ai ra cũng có thể hiểu rộng hơn về pháp nhơn đơn hợp. Tất cả đều có thể rơ biết dễ dàng. Dụ về người gọi như trong Bồ Tát Anh Lạc Bổn Nghiệp. Dụ về người, pháp hợp như Kinh Thắng Man Sư Tử Hống Nhứt Thừa Đại Phương Tiện. Tam Bảo đơn hợp nghĩa là có Kinh A Súc Phật, kinh Tứ Phần Giới, kinh Thuyết Vô Cấu Xưng Tam Bảo như thế. Kinh Như Lai Công Đức Trang Nghiêm, Phật pháp hợp danh. Kinh Phật Đại Tăng Đại; gọi là Phật Tăng hợp. Kinh Bồ Tát giới gọi là Pháp Tăng hợp. Kinh A Nan nghe Phật tốt xấu, gọi Tam Bảo hợp. Như trên tổng cộng đă thành lập, tên gọi chẳng giống nhau. Rộng hơn th́ ở luận Duy Thức có tŕnh bày, sao chép, sợ phiền ở đây nên lược bớt.

Những người đời sau , trứơc nên thông qua tên gọi và sau đó th́ thuần thục kinh nầy. Kinh nầy gọi là phần giữa của hai. Đầu tiên nương vào chỗ sớ giải biện bạch. Sau đó thuật lại và làm rơ chỗ khác nhau. Trong sự khác nhau của việc thuật lại th́ đầu tiên giải về pháp vi diệu. Sau đó biện luận thí dụ. Đầu tiên giải thích về diệu pháp ấy Nam Nhạc Tư Thiền Sư nói có 10 diệu . Một là cảnh diệu, hai trí, ba hành, bốn vị, năm là 3 pháp, sáu là cảm ứng,  bảy là thần thông, tám là thuyết pháp, chín là quyến thuộc, mười là công đức lợi ích diệu.

Cảnh ấy tức là 10 như. Trí ấy tức là hay duyên vào bổn hậu hai trí. Trí ấy chỉ đạo để hành. Hành nơi kinh qua gọi là trụ. Trụ ấy nương vào 3 pháp. Nương pháp dùng đến ư vật cơ để làm cảm ứng. Tùy theo chỗ cảm mà hay hiện ra thông; nên gọi là thần thông. Cảm ứng ấy diễn giải giáo lư để thuyết pháp. Nhơn ấy tùy theo Phật hóa độ nghe pháp, có thể ngộ và làm quyến thuộc. Dùng giáo pháp thọ sanh, v́ lợi cơ, tùy nhập vào ích lợi gọi đây là công đức lợi ích diệu. Tại sao được trí ấy và có 10 diệu, như câu văn ở dưới sẽ rơ biết.

Phẩm Phương Tiện nói chỉ có Phật với Phật mới có thể hiểu nhau về chư pháp thật tướng; tức là diệu cảnh. Ta từ thành tựu trí tuệ; tức là trí diệu. Đầy đủ các hạnh ở các đường tức là hạnh diệu. Xe ấy chở đồ qúy báu ở nhơn vị đến thẳng đạo tràng là qủa vị; tức là vị diệu. Phật tự tại ở Đại Thừa như được pháp nầy,  định huệ lực trang nghiêm; tức là tam pháp diệu. Ta dùng Phật nhăn để quan sát tất cả là ta, con sợ vào nhà lửa, thấy người cha ngồi trên giường, v́ đó mà ứng cảm diệu. Nay Đức Phật Thế Tôn nhập vào Tam Muội mưa hoa, đất chấn động, phóng quang từ xa soi rọi; đây chính là thần thông diệu. Có thể nói việc thuyết pháp đầu giữa và sau nói lời lành nhu nhuyến. Việc thuyết pháp nầy tất cả đều đến nhứt thiết trí địa. Hay nói vô thượng đạo và đó là thuyết pháp diệu. Giáo hóa các vị Bồ Tát, không có đệ tử Thanh Văn, đây là v́ quyến thuộc dị. Thanh Văn nghe pháp được thọ kư trước Phật,  đời sau tùy theo chỗ nghe được phứơc lợi; tất cả là v́ lợi ích diệu. Lần lượt sanh khởi để nói nghĩa rộng như bên trên đă giải nói về diệu pháp. Kế đến   giải nói về thí dụ, hóa ra nhiều chúng sanh.

V́ sao chỉ riêng nói về liên hoa để thí dụ?

Đáp: Kiết Tạng Pháp Sư nói rằng: Lược có ba nghĩa. Một là ĺa khỏi thí dụ;  hai là hợp dụ; ba là thông dụ. Nói ĺa dụ nghĩa là: một là làm sáng tỏ hoa nầy chẳng có ǵ như vậy. Trong ấy hoa thật đầy đủ bao gồm trong ấy. Trong kinh nầy chẳng nói mà có rồi. Nói về nhơn quả cùng lúc. Dùng dụ liên hoa đối với nhơn quả vậy. Luận nói về sự thị hiện tướng nhơn quả v.v...Hai là do hoa nở mà biến hiện. Do nói ra mà hiển thị cái lư vậy. Dùng dụ hoa sen để chỉ cho cái lư . Ở  phía dưới nghĩa nầy sâu xa, lời nói xảo diệu. Ba là hoa chưa nở, mà thật chưa hiện. Hoa nở tức là thật phương hiện. Chưa mở cửa phương tiện; tức là chơn thật tướng chưa hiển thị. Khai mở cửa phương tiện tức là chơn thật tướng mới hiển thị. Hoa nở dụ cho cửa phương tiện,  khai thật hiện dụ chơn thật tướng hiển thị vậy. Cho nên bên dưới nói rằng: khai cửa phương tiện hiển thị tướng chơn thật.

Hai hợp dụ lược nói có 10 nghĩa. Một là hoa từ hạt sanh, dụ cho nhứt thừa, tất có chủng tử khởi. Cho nên phía dưới nói giống Phật từ duyên khởi vậy. Hai là hoa nầy từ bùn nhơ đến, dụ cho Phật thừa dần dần tăng trưởng. Cho nên nói rằng dần dần tích tụ công đức. Ba là hoa nầy tăng trưởng đầy đủ ra khỏi bùn nhơ. Dụ cho Đức Phật ra khỏi chốn sanh tử . Cho nên bên dưới nói rằng: Như Lai đă ĺa khỏi ba cơi như nhà lửa nầy. Tịch nhiên nhàn cư an ổn như chỗ rừng vắng vậy. Bốn là hoa nầy tuy rằng  ra khỏi chỗ bùn nhơ mà chẳng phải xả bỏ bùn nhơ.  Điều nầy dụ cho Phật tuy ra khỏi 4 lưu chuyển mà chẳng bỏ ba cơi. Cho nên ở dưới nói rằng: Ở bên ng̣ai cửa nghe có người nói, sợ vào nhà lửa; nên mới cản trở gíup đỡ. Năm là hoa nầy thanh khiết đệ nhứt, dụ cho Phật Thừa là đệ nhất trong ngũ thừa. Cho nên nói rằng: Thừa nầy vi diệu thanh tịnh đệ nhất.  Đối với các thế gian v́ việc có, không là trên hết. Sáu là hoa nầy phàm thánh ĺa sự yêu mến và Phật Thừa lại cũng như thế. Thế và xuất thế gian gọi đây là ĺa sự yêu kính vậy. Cho nên nói rằng: ở Phật hoan hỷ tất cả chúng sanh nên xưng tán cúng dường lễ bái. Bảy là hoa nầy cùng với đài hoa cùng lúc, dụ cho Phật Thừa vạn đức đầy đủ. Cho nên nói rằng: vô lượng ức thiên  các lực giải thóat, thiền định, trí huệ và Phật Thừa không ng̣ai. Tám là hoa nầy là nơi Phật và Bồ Tát ngồi. Kinh nầy lại cũng như vậy, v́ Phật Bồ Tát mà cùng ở chung. Cho nên nói rằng: Phật tự tại lại như nơi pháp mà được. Định huệ lực trang nghiêm, dùng đây để độ chúng sanh. Chín là hoa nầy nở khép đúng lúc, dụ cho Nhứt Thừa này ẩn hiện có lúc. Ngày trước ẩn, nay hiện. Cho nên nói rằng: tại sao chưa thể nói. V́ lúc nói chưa đến. Nay chính là lúc đúng thời; nên quyết định nói Đại Thừa. Mười là hoa nầy kiếp sơ lúc mới thành Phạm Vương ngồi trên ấy và v́ chúng sanh làm cha. Kinh nầy lại cũng như vậy; cho nên nói rằng: Đại Phạm Vương là cha của tất cả thế gian. Kinh nầy lại cũng như thế, v́ tất cả thế gian làm cha; v́ tất cả hiền thánh làm cha. Ng̣ai ra có nơi lại nói Trí Độ Bồ Tát là mẹ, dùng phương tiện làm cha v.v...

Nói về Thông Dụ th́ Đại Tập kinh nói rằng: Từ Bi là gốc hạt, trí tuệ là hoa lá. Tam Muội là búi tóc, giải thóat là quả, Bồ Đề là ong chúa, Niết Bàn là cam lồ. Cho nên ta đănh lễ kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Lại giải thích rằng: Sỡ dĩ nói diệu là diệu ấy bất khả tư ngh́ vậy. Pháp nghĩa là xưng tán 10 lọai quyền, thật. Liên Hoa dùng để dụ cho pháp quyền thật . Tốt dùng diệu pháp khó giải, từ gần dụ xa, huống hồ là ư và nhiều chỗ giải thích lược bớt trước sau để hợp thành sáu dụ. Một là Liên chính là Hoa; dụ cho Thật mà cũng Quyền. Cho nên rơ biết tịch diệt đệ nhất, dùng phương tiện vậy. Tuy chỉ ra nhiều con đường; nhưng kỳ thật chỉ một Phật Thừa. Hai là hoa ấy dụ cho khai quyền. Liên ấy hiện ra để dụ cho hiển thật. Câu văn phía dưới khai mở cửa phương tiện, hiển tướng chơn thật. Ba là hoa rơi dụ cho việc phế bỏ quyền. Liên thành tựu dụ cho việc thành lập là thật. Câu văn phía dưới ngay thẳng phương tiện,   thường nói đạo vô thượng. Bốn là lại dụ Liên ấy với Bổn. Hoa ấy dụ cho Tích. Từ Bổn xuống Tích. Tích nương vào nơi Bổn. Câu văn phía dưới nói về lúc kiếp trược lọan thời...cho đến nói cho nên chư Phật Như Lai dùng phương tiện lực đối với một Phật Thừa để phân biệt nói thành ba v.v...Hai việc của hoa dụ cho khai Tích. Nên phía dưới nói rằng: Các ngươi nên lắng nghe. Như Lai nói lực bí mật của thần thông, cho đến từ khi ta thành Phật đến nay đă trải qua vô lượng. Sáu là hoa ấy dụ cho phế Tích. Liên thành tựu dụ cho lập Bổn. Câu văn phía dưới nói rằng: Tất cả pháp của các Đức Phật đều như vậy. V́ để độ cho chúng sanh, tất cả đều thật, không hư dối. V́ thế nên đầu tiên mở ra diệu pháp; kế đến dụ cho hoa sen biến hóa to thành to lớn để chấp vào lời dạy, phá bỏ cỏ, làm cho chỗ ở sạch sẽ. Khai mở cửa phương tiện, chỉ bày diệu lư chơn thật. Gom vạn điều tốt vào vệc làm nhỏ. Thâu rộng lớn vào Nhứt Thừa. Tất cả những người thuộc thượng, trung, hạ căn đều thọ kư. Lại phát huy quyền hành cho các bậc Thánh. Hiển hiện gốc gác vi tế. Cho nên đạo ấy tăng giảm, 4 ḷai gần gũi Đức Đại Giác một thời hóa đạo  lư, hiện ra đầy đủ tất cả. Hoa sen ấy dụ cho ư niệm hoan hỷ vậy.

Nói Phẩm ấy có không. Giữa ấy nói 5 việc lớn, 3 nhỏ chẳng dễ, v́ để cho con đường chư Thiên Đế Thích an ổn nên nói. Cách dịch ấy v́ tŕnh bày 5, mất cái chính hết 3, chẳng phải dễ. Một là tiếng Phạn trong sách ấy cho đến Bổn ấy khiến tŕnh bày. Một là mất Bổn. Hai là kinh tiếng Phạn chất lượng cao, người tŕnh bày thích câu văn, có thể truyền đến tâm chúng sanh, chẳng phải văn từ th́ chẳng được. Hai là mất đi Bổn.  Ba là câu văn chữ Phạn đầy đủ, cho đến việc than vịnh chắc rằng hàm chứa khác; hoặc giả 4 ấy chẳng gồm việc năo hại nầy, mà nay ghi lại đây vậy. Ba là  tất cả đều là Bổn. Bốn là chữ Phạn có nghĩa nói đúng là giống như lọan từ. T́m ṭi kiểm tra hướng đến ngôn ngữ, câu văn lại chẳng khác. Hoặc một ngàn, hoặc năm trăm, nay th́ chẳng c̣n tồn tại. Bốn là mất Bổn. Năm là việc ấy giống như được tác thành; nên gần giống như là trái lại với ngôn từ phía trước. Từ đây về sau sẽ nói để trừ nghi. Năm điều nầy mất bản chính.

 Kế đó tâm của Trí Kính Tam Đạt muốn làm đầy đủ bộ mặt để diễn giải chỗ Thánh, tất nhiên cái nhơn lúc ấy với người tục lại khác mà thường th́ sách ấy hay với xưa, rồi thích nghi với nay; đây chẳng phải là chuyện dễ vậy. Kẻ phàm bị tổn thương, Thánh nhân th́ gần gũi. Những điều muốn ghi chép cho ngàn lời nói, cốt truyền lại thích hợp cho trăm vua và dưới là muôn họ. Hai việc nầy chẳng dễ. A Nan Xuất Kinh rơ biết Phật chưa lâu. Tôn Giả Đại Ca Diếp làm cho 500 vị lục thông thay đổi, kinh sách cũng thế. Nay đă xa cách cả ngàn năm, chỉ nương với ư để chép. Những vị A La Hán kia cũng chẳng khác ǵ điều nầy. Việc sanh tử của những kẻ phàm phu thường thường là thế, há chẳng rơ pháp mà nghi ngờ ư. Tách rời ra 3 việc ấy chẳng dễ. Sư thấy từ 5 thành 3 cũng chẳng dễ. Thích Phạm v́ đó tŕnh bày. Kẻ cuồng có thể chẳng trấn được,  để rơ các phẩm kinh, được gọi trung ấy có hai. Đầu tiên là giải thích tên từng phẩm chẳng giống nhau. Lại nữa làm rơ được tên gọi. Tên gọi chẳng giống như Kinh Chánh Pháp Hoa nói nơi phẩm Quang Doan, phẩm Phương Tiện, phẩm Ứng Thời, phẩm Giải Lạc, phẩm Dược Thảo, phẩm Thọ Thanh Văn Quyết, phẩm Văng Kiết, phẩm Thọ Ngũ Bá  Đệ Tử Quyết, phẩm thọ A Nan La Vân Quyết, phẩm Dược Vương Như Lai, phẩm Thất Bảo Tháp, phẩm Đề Bà Đạt Đa, phẩm Nhập Bảo Tháp, phẩm Khuyến Thuyết, phẩm An Hạnh, phẩm Tha Địa Dũng Xuất, phẩm Như Lai Hiện Thọ, phẩm Hành Phước Sự, phẩm Cần Minh, phẩm Thán Pháp Sư, phẩm Bị Khinh Mạn, phẩm Như Lai Thần Túc Hành, phẩm Dược Vương Bồ Tát, phẩm Diệu Hống Bồ Tát, phẩm Quan Thế Âm Phổ Môn, phẩm Tổng Tŕ,  phẩm Tịnh Phục Tịnh Vương, phẩm Lạc Phổ Hiền. Chưa nói Phật nói phẩm nầy; lúc ấy như hằng hà sa ức, trăm ngàn Bồ Tát hội tụ tất cả đều được Tổng Tŕ. Phẩm Chúc Lũy. Giải thích các phẩm trong sự phế lập. Chúc Lũy lại ở trước phẩm Dược Vương; cho đến có 8 việc sai khác về thập chứng chúc lũy; nay ở trước phẩm Dược Vương. Bây giờ trở lại như vậy cho nên chứng được và thường sai hóa Phật trở lại nước.

Tháp  của Phật Đa Bảo chưa ḥan lại; hai việc không lời, Phật tán thán chứng đạo. Trong phẩm Dược Vương lại nói về Tháp, ca ngợi 3 diệu âm, hân hoan kính ngưỡng việc chứng đạo. Từ dưới đất vọt lên biến thể phân thân. Diệu Âm hay đănh lễ hai vị Phật; 4 uế độ chẳng thanh tịnh, chứng được. Hóa Phật chưa ḥan lại. Thí dụ nầy làm cho thanh tịnh. Diệu Âm đến, ngày ấy tại sao bị biết? Năm lần hỏi Phật đến chẳng chứng. Nói rằng Đa Bảo Như Lai đến nghe pháp chăng? liền chẳng thấy Đa Bảo, khiến tháp đóng cửa, sáu là muốn thấy Đức Đa Bảo chứng đạo. Nếu chưa đóng cửa tháp th́ hai vị Phật cùng ngồi, chính mỗi người đều thấy, cần thỉnh để thấy sao? Bảy là thỉnh thấy, tuy chỉ nghe việc chứng, liền nghe được âm thanh; chẳng  nói là thấy Phật. Trí sáng đă khép lại. Tám là cung kính tháp; không có Phật chứng; hai Đức Phật cùng ngồi; nên đănh lễ hai vị. V́ sao lại nói lễ tháp Đa Bảo? Chín là chia hai chẳng rơ chứng. Hóa Phật nếu như chưa ḥan lại. V́ sao lại chẳng phụng thí. Mười là chẳng phân biệt chứng phân thân. Nếu phẩm Dược Vương thí dụ có hóa Phật. Sao lại chẳng có câu văn nói chứng?  Đây chính là 10 điều chứng theo chúc lũy, chẳng phải về sau. Rộng như kia nói, kính tin t́m hiểu, lư màu, câu văn thông suốt, th́ nghĩa ấy có hằng ngàn cách. Nay việc phiên dịch quy về sách cũ như cái đức ở trên. Cho nên 10 chứng chúc lũy ấy nay nói trước, như có 10 việc chẳng thể. Cho nên Chúc Lũy lại ở phần sau của kinh nầy. Một là làm cho trở lại như xưa, chứng chẳng thể được. Chẳng có lời nói như vậy, nên thường hay làm cho tháp đóng cửa, chẳng trở lại nước ḿnh. Kinh Chánh Pháp Hoa nói rằng: Đa Bảo Thế Tôn làm cho Thất Bảo giảng đường ở nơi tháp Phật ḥan lại như cũ. Cho nên nơi ấy lại chẳng có thể nói. Kinh gốc chỉ có sai biệt; tuy một vị Phật nói lại chẳng đồng, thấy nhỏ, nghe khác. Hai là chẳng nói Phật tán thán việc chứng đạo là chẳng thể.

Phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự nói rằng: Đức Đa Bảo Như Lai ở nơi tháp Thất Bảo tán thán nói rằng: Lành thay! lành thay! tuy mở tháp báu; Phật chẳng ở đấy. Nay nói Đa Bảo ở trong tháp tán thán nói lời lành thay; chẳng phải nói tháp tán thán, nói chẳng phải Phật tán thán, chứng chẳng thể lời nầy. Ba diệu âm khai mở, kính chứng chẳng thể.  Ở phía dưới đất vọt lên đănh lễ phân thân Diệu Âm chẳng lễ; tức là đă  chứng rồi. Lại nữa Văn Thù chẳng lễ phân thân, rồi đi. Phẩm Đề Bà Đạt Đa lại cũng nói như vậy. Cho đến hai Đức Thế Tôn,  chỗ tu kính đă ḥan tất, qua nơi Ngài Trí Tích; chẳng nói biến lễ, há hóa Phật đi khỏi; cho nên lấy đó mà chẳng thể. Bốn uế độ phi tịnh, chẳng thể chứng được. Nếu dùng Diệu Âm để chỉ bày cho kia trở lại nơi uế độ th́ ứng hóa Phật đến Linh Sơn, ra khỏi nơi ấy th́ chẳng tịnh.  Nếu nói rằng chỉ có các núi lớn mới căn cứ vào bổn tính để nói về quốc độ thanh tịnh. Diệu Âm thấy uế; nên cũng như vậy . Nếu nói tuy biến Tịnh Độ Linh Sơn thường c̣n; cho nên chẳng v́ đó mà thí dụ. Linh Sơn chẳng uế, biến tịnh để dụ cho sự tồn tại. Liền xuất hiện đá núi như thế  th́ được điều ǵ. Cho nên nói tại ấy là  nói rộng lúc ban đầu. Như Văn Thù từ biển vọt lên. Thí dụ để nói về núi Kỳ Xà Quật. Khi ấy liền bay lên hư không, nh́n núi là muốn ǵ? Cho nên từ hư không bảo tháp , căn cứ vào Bổn, nói đến núi, đất đai, rồi khiến mang hoa đến. Cho nên rơ biết căn cứ vào Bản chẳng phải tịnh độ ở trong, có thể có trong núi Kỳ nầy. Bản văn phía dưới nói rằng:

Lúc ấy ta và chúng tăng đều ra khỏi núi Linh Thứu. Lại căn cứ vào nơi Bản để nói. Nếu nói theo kinh nói th́ chỉ lưu lại hội chúng, mà lưu lại người, núi th́ chẳng phải. Chúng ấy làm cho nghe pháp, Bản ấy có thể giữ lại nơi núi, chẳng nghe kinh được lưu giữ, có ích ǵ? Cho nên nói uế độ chẳng phải tịnh, chứng chẳng thể được. Năm lần hỏi Phật đến, chẳng chứng chẳng thể được. V́ sao Văn Thù mong thấy Diệu Âm. Đức Thích Ca Như Lai nói Đa Bảo Như Lai có thể v́ các ngươi mà hiện ra việc nầy. Lúc ấy Phật Đa Bảo bảo Ngài Diệu Âm rằng: Thiện Nam Tử đến. Văn Thù Sư Lợi muốn được gặp, do Đức Phật triệu đến. Thế nào là hỏi thử? Hỏi ấy là v́ truyền lại lời Phật; cho nên kinh nói rằng: Tịnh Hoa Trí Phật vấn tấn Đức Thế Tôn. Lại hỏi rằng Đa Bảo Như Lai đến để nghe pháp chăng? Chẳng phải Diệu Âm tự hỏi; cho nên chẳng có thể. Khi ra khỏi sự mong muốn thấy Đa Bảo chứng th́ chẳng thể. Nếu nói hai Đức Phật đồng ngồi; tức là có thể thấy đầy đủ, sao cần phải thỉnh Phật?

Ta nay muốn thấy Phật Đa Bảo nghĩa là Bồ Tát hạ nhơn, Như Lai thượng quả, gia bị làm cho thấy, có thể được gặp tôn nhan. Nếu chưa gia bị th́ chẳng thể thấy được. Hy vọng Phật gia bị; cho nên thỉnh cầu được gặp. Vả lại Diệu Âm sẽ đến; nên Văn Thù cung thỉnh Phật gia hộ. Diệu Âm liền hiện nơi nguyên nhơn để thấy. Do nhờ Phật lực mà cùng đồng chỗ ngồi, thỉnh rồi mới thấy. Nếu chẳng thỉnh để gặp th́ tháp liền đóng; cho nên chẳng có thể. Bảy là thỉnh gặp, chỉ nghe chứng th́ chẳng thể. Nếu dùng sự thỉnh gặp, trải qua hay xưng gọi; sự tán thán ấy chẳng nói là thấy thân. Tức là làm rơ chỗ chẳng thấy Đa Bảo. Nay th́ Văn Thù nuốn gặp Diệu Âm. Kinh chẳng tán thán việc Diệu Âm đến. Văn Thù được gặp. Văn Thù lại ứng chơn, chẳng thấy Diệu Âm. Nếu đă thỉnh gặp rồi th́ được thấy, sao lại nói vậy? Diệu Âm muốn gặp liền gặp. Sao trong câu văn lại nói là việc gặp chẳng thể được? Tám là cung kính tháp, không có Phật chứng th́ chẳng thể. V́ sao lại nói Diệu Âm kính tháp mà chẳng nói là kính Phật? Sau khi chứng, tháp đóng lại. Khi Phổ Hiền đến lại chẳng nói kính tháp? Tháp lại cũng không. Chẳng được nói tháp, lúc ấy trả qua đi. Câu văn không lưu lại nơi tháp. Tuy chẳng kính tháp, chẳng pḥng có tháp. Chẳng nói kính Phật v́ sao lại pḥng gặp Phật? Lại như sau khi tháp mở, tất cả đều ở trên hư không. Văn Thù Hải Hội nói là nghinh tiếp ở Linh Sơn. Há chẳng biết rằng Phật tại trong bảo tháp? Dùng núi chính, cho nên nói là nghinh thỉnh ở núi. Dùng điểm chính ở tại tháp; cho nên nói rằng kính tháp. Chẳng phải chẳng nghinh tiếp trên hư không và c̣n thân cận lễ Phật , mà như xưa nói rằng: hoa sen ấy ở dưới chân, cũng chưa hẳn ở nơi đầu  gối.  Đây chỉ là một từ ngữ kính trọng.  Điều nầy nên rơ như thế. Lại nữa nơi Chánh Pháp Hoa có nói việc Quan Âm cúng chuỗi Anh Lạc. Một phần phụng cúng Đức Thích Ca Mâu Ni, một phần phụng cúng Đức Đa Bảo Như Lai; chẳng nói phụng cúng tháp. Rơ ràng là tháp chưa đóng; nên Diệu Âm được thấy. Bây giờ tuy nói đóng; nhưng mà chẳng thể được. Chín là hai phần chẳng rơ việc chứng th́ chẳng thể. Nếu dùng Đa Bảo để chia làm hai th́ chẳng gặp hóa Phật. Làm rơ biết hóa Phật; cho nên lúc ấy Long Nữ mới phụng cúng Đức Thích Ca và Đa Bảo lại đă qua rồi. Lại nữa Ngài Văn Thù chẳng lễ phân thân của Đức Đa Bảo;  Đa Bảo chẳng phải chẳng không. Quan Âm chẳng cúng phân thân, được những ǵ mà đă đi khỏi? Cung kính lễ rồi; cho nên chẳng thể. Mười là vô biệt phân thân, chẳng thể chứng được. Giá như bên dưới kinh văn chẳng nói về hóa Phật. Sao lại bỏ cái tính ấy lại? Như phẩm Dược Vương chẳng nói đến Thanh Văn, Thanh Văn há chẳng có? Nếu đứng trong phẩm Phổ Hiền để nói; tức là việc chứng ấy hiện có Thanh Văn. Duy chỉ trong Chánh Pháp Hoa phần Chúc Lũy ở nơi kinh chưa có. Việc làm rơ biết hóa Phật lại cũng có như thế. Nghĩa của câu văn nói có thể tức là có thể. Văn nghĩa chẳng đầy đủ. V́ sao lại nói quá vậy? V́ thế cho nên chẳng có thể.

Trong phần chế bản, câu văn nói thứ nhất về phẩm Phương Tiện, sau đó 8 phẩm nói phần Chánh Tông. Một ấy nói cho đến phần phẩm Bất Khinh Bồ Tát lấy làm Chánh Tông. Tuy có hai cách giải thích ư, dựa vào đó để giải thích. V́ sao vậy? Câu văn ở dưới nói rằng: Nay ở trong kinh nầy tuy nói là nhất thừa, lại cũng nói khai cửa phương tiện; tức là hiển quyền thưở xưa; hiển tướng chơn thật; tức là nay nói lời thật. Lại nơi phẩm Phương Tiện lấy làm căn bản chánh để rơ quyền, thật; cho nên nói về hóa thành dụ. Lại nói lại nghĩa trước. Ba căn rộng nói. Ở phía dưới th́ tán thán khuyên làm, thuyết pháp đầy đủ, liền đó Trí Tích thỉnh đến. V́ làm rơ chỗ lưu thông; nên hiển kinh thế lực, hóa thành rộng lớn hơn; chẳng phải đây là quyền hiển nơi nhứt thật. Lại nữa nơi luận ấy giải thích rằng: bảo người con như Thanh Văn, làm các việc và muốn làm cho Thanh Văn quay về với việc lớn. Nơi Nhiếp Đại Thừa nói : v́ dẫn nhiếp một lọai và nhiệm tŕ cho nên nói thành hai thừa, mà chẳng bỏ chỗ kia, há nói rằng báo, pháp(thân) chẳng làm khởi lên hóa(Phật)và khi thành Phật rồi chẳng khởi hóa Phật nữa; nên chẳng làm cho việc tu Phật là nguyên nhơn của đức; cho nên rơ biết chẳng phải xả nơi hóa thân, tuy nói pháp, báo(thân). Lại nữa ba Phật ấy đầy đủ Bồ Đề Vô Thượng ; cho nên nói đệ nhứt thiện. Ng̣ai ra phẩm Phương Tiện làm sáng tỏ cho đến phẩm Thường Bất Khinh làm Chánh Tông. Cho đến phía dưới phẩm Phương Tiện 19 phẩm làm sáng tỏ kinh thể, sau 8 phẩm làm rơ chỗ lưu thông. Tựa ấy làm rơ chỗ dạy dỗ, do thể ấy làm rơ sự lợi ích nơi chỗ ngồi. Nếu dung được sự thọ kư làm ích lợi th́ tức là nói phẩm Phương Tiện nầy và dưới đó 8 phẩm làm Chánh Tông. Nếu được chứng th́ tất cả được gọi là lợi ích. Sự hướng dẫn của Pháp Sư tốt đẹp cho đến phẩm Phổ Hiền tại sao phải đến Bất Khinh.  Điều nầy có lớn có nhỏ; ng̣ai ra như trứơc đă chế định,  được mất có thể rơ biết. Có giải thích về 7 việc thành tựu. Bài tựa, sự thành tựu lại có hai. Một là trong những pháp môn hiển thị có tốt. Hai là tự tại công đức thành tựu. Nói pháp môn tối thắng; cho nên chia ra câu văn thành tựu  nơi lời tựa. Tự tại công đức; cho nên chia ra làm sáu lọai.  Đây chính là sự giải thích về luận đúng, sai.

Luận ấy tự phân chia ra bảy thành tựu như đă nói. Lại nữa phần tựa thành tựu; tức là mỗi mỗi tờ giải thích, dung hai nghĩa nầy phân biệt thuộc thành tŕ của núi. Làm sao được tự tại trực thuộc 6 thành tựu mà chẳng thể nói? Luận nói rằng: hiển thị pháp thù thắng nầy tức là đề cao những chỗ thuộc kinh văn. Công đức thành tựu nghĩa là chẳng thể kết hợp phân phối rơ ràng thuộc phạm vi ng̣ai 6 ấy. Dùng pháp tốt đẹp nói đến việc hiển thị hai việc phía trước. Lấy đó có thể chỉ bày rộng ra và chỗ công đức rộng lớn ấy gọi là pháp. Pháp  ấy gọi là rộng răi rồi giải về”ta nghe như vầy”. Tất cả đều nói rằng chính A Nan gần gũi thân cận nghe từ Phật.

Hỏi rằng:Như Phật thành đạo sau hai mươi năm A Nan mới bắt đầu xuất gia th́ làm sao các kinh đều có thể ghi là”Ta nghe như vầy”?

Đáp rằng: V́ Phật nói lại lần nữa . Sao biết được điều nầy? Trong kinh Bồ Tát Xứ Thai đều nói rộng phân biệt điều nầy. Trong thời gian Phật nói, kẻ chẳng nghe là A Nan, th́ nói là không nghe và Phật bảo nghe nên nói. A Nan được Tam Muội nơi Phật; cho nên có thể thọ tŕ được vậy.

Hỏi rằng: Nếu như  thế th́ tại sao Đại Trí Độ nói rằng: Lúc A Nan ngồi ṭa cao để nói kinh th́ hướng đến nơi Đức Phật nhập Niết Bàn để nói kệ rằng: Lúc Đức Phật mới chuyển bánh xe pháp th́ lúc bấy giờ ta chưa thấy, nghe triển chuyển như vậy. Xưa nơi Ba La Nại v́ 5 Tỳ Kheo mà chuyển bánh xe pháp Tứ Đế?

Đáp rằng: Văn của Đại Trí Độ Luận tùy theo bộ kia ; cho nên nói như thế. Lại nữa giải thích Đức Phật tại đó lần đầu tiên v́ 5 người mà nói. Sau đó lại v́ A Nan mà nói lại. Nói đấy là nghe triển chuyển.

Hỏi rằng: Nếu như vậy th́ Nhập Đại Thừa Luận nói rằng: A Nan giữ pháp chẳng hết . V́ trước đó 20 năm tất cả đều chẳng nghe. Lại nữa dẫn theo kinh A Hàm th́ nói: Thích Đề Ḥan Nhơn sai Uất Đa La nói. Tôn Giả ! ta được tha tâm nên quan sát tất cả chúng sanh trong cơi Diêm Phù Đề chẳng có thể hay thọ tŕ Phật Pháp; chỉ trừ Tôn Giả; ng̣ai ra chẳng ai có thể. Do nguyên nhơn  duyên nầy có thể biết rằng A Nan chẳng thể lănh hội. Lại nơi kinh Thủ Lăng Nghiêm, Phật v́ Tịnh Nhựt Tạng Thiên Tử mà nói. Chỗ lănh hội của A Nan ít, chẳng đủ để nói; chẳng ǵn giữ, điều ấy có rất nhiều. Cho đến nói rộng ra lại đầy khắp cả mười phương vi trần thế giới, tất cả đều như A Nan, chẳng thể thọ tŕ hết, lại cũng như thế chăng?

Đáp rằng: Căn cứ nơi Đức Phật th́ những ǵ chưa như thế , th́ chưa v́ đó mà nói thêm. Lại giải rằng: Thủ Lăng Nghiêm kinh căn cứ nơi chỗ sở ngộ của Phật, chưa nói pháp; cho nên nói rằng chẳng thể tổng tŕ. Những ǵ mà chưa nói như lá trong rừng. Lại nữa, nếu ở nơi nầy nói pháp th́ A Nan có thể giữ ǵn. Ng̣ai 10 phương Tịnh Độ khác th́ A Nan chẳng thể nghe giữ được.

Hỏi rằng: Nếu A Nan Đà chẳng phải là Đại Bồ Tát th́ chẳng thể thọ tŕ. Nếu Bồ Tát nầy hóa thành Thanh Văn th́ sao chẳng thể thọ tŕ?

Đáp rằng: Tại ở nhơn vị vậy . Nơi hiển tướng thân ở tại thế giới nầy. Ng̣ai ra nói rằng chẳng thể tŕ. Ở trong thế giới nầy nếu thật, th́ không thể nói ǵ cả. A Hàm nói chỉ trừ Tôn Giả, ng̣ai ra chẳng thể được. Uất Đa La lại là Thanh Văn, ĺa nơi thai để nói, tất chẳng thể tŕ, chẳng sai biệt sao. Cho nên tạo ra thông lệ nầy. Những câu văn đă chẳng sai. Nói các lậu đă tận để giải thích. Câu Xá  nói rằng: Khể Lưu hữu t́nh, nơi sanh tử; hoặc làm cho lưu chuyển nơi sanh tử. Từ Trời Hữu Đảnh cho đến ngục Vô Gián, do sự tương tục kia nơi sáu cửa đau đớn. Việc nầy th́ vô cùng; cho nên gọi là Vô Lậu.

Thế Thân Bồ Tát thuật lại nói kinh bộ rằng: nếu giải thích tốt th́ các cảnh giới lưu chú liên tục; sự sai nầy chẳng dứt; cho nên gọi là lậu. Trong Đại Thừa Tạp Tập thứ sáu nói rằng: Làm cho tâm liên tục lưu chuyển, tan ra chẳng dứt; cho nên gọi là lậu.  Điều nầy lại cũng nói rằng: nương vào cửa ng̣ai lưu chuyển; cho nên tạo thành dục lậu. Nương vào nội môn để lưu chuyển; cho nên thành hữu lậu. Nương vào hai chỗ kia để lưu chuyển; nên gọi là vô minh lậu. Làm cho tâm liên tục lưu chuyển, tan ra chẳng dừng nghỉ, th́ đây là nghĩa của lậu.

Giải rằng: nơi cảnh sai quấy, tạo nên tên lậu là cặn bă của Tiểu Thừa, mất đi cái nhu nhuyến của Đại Thừa. Khi ra khỏi lậu, theo Du Già 64 nói về vô minh lậu, chỉ chấp vào cái thấy ác rồi nương vào vô minh, làm vô minh lậu. Cho nên luận kia nói rằng: Lược do năm tướng, lập nên tà, giải thích tà, tà dục vô minh lậu. Một là hữu tưởng luận môn sanh khởi vô minh. Hai là vô tưởng luận môn sanh khởi vô minh. Ba là phi hữu tưởng phi vô tưởng luận môn sanh khởi vô minh. Bốn là do đọan kiến luận môn sanh khởi vô minh. Năm là do hiện pháp Niết Bàn luận môn sanh khởi vô minh. Đây là những câu văn để chứng minh, duy chấp vào phân biệt. Lại nữa hay chấp vào chỗ thấy để nương vào vô minh th́ chẳng phải như vậy. Điều nầy chớ nương vào dục giới, ba sự t́m cầu nơi cửa để nói. Chẳng có, tuy nói, chẳng như vậy.

Bên trên lược  về cảnh giới vô minh, không lậu, như sau đó sớ giải.  Đại Thừa nói lư tận cùng. Du Già thứ 89 nói rằng: các cơi dục trói chặt bởi phiền năo, duy trừ vô minh; nên gọi tên là dục lậu. Các cảnh sắc, vô sắc hai cơi ấy là nơi cột tất cả phiền năo, trừ vô minh; nên gọi là hữu lậu. Đối với ba cơi; nơi có vô trí, tổng nhiếp làm một, lập nên vô minh lậu. Tất cả Câu Xá đều tụng rằng: dục, phiền năo lại cột chặt, trừ si nên gọi là dục lậu. Hữu lậu ở bên trên hai cơi tuy phiền năo trừ nghi, vô kư, cùng với nội môn định địa; cho nên hợp nhất. Vô minh các hữu là gốc; cho nên phân biệt làm một lậu; rồi trói buộc trừ hôn trầm trạo cử. Sa Bà nói: cơi kia cột chặt ít, chẳng tự tại. Cứ như phẩm lọai túc luận và kinh bộ luận tông th́ thêm hai điều nầy. Tuy nhiên căn cứ vào hai tông th́ ba cơi phiền năo, ba lậu nhiếp hết. Trong kinh lại nói rằng: lại chẳng có phiền năo. Hai là giải thích như sớ giải, chẳng phải ba lậu nhiếp phía trước; họăc chẳng hết, lại nói chẳng có dư. Có cách giải thích rằng: phía trước ba lậu nhiếp thủ, chẳng tận. Lại nói chẳng gồm phiền năo. Thật là dối trá. Cuối các kết có nói: chẳng phải là chín kết, tướng ấy như Tông nói. Chín ấy tuy dục giới hiện sự trói buộc; cho nên chấp vào 5, trên dưới phân biệt kết nối. Nay nghĩa ấy chẳng phải vậy.  Căn cứ vào 89 nói rằng: Nương vào 9 lọai có thể ḥa hợp; cho nên kiến lập nên 9 kết. Một là nương vào phẩm tại gia, có thể thương ḷai hữu t́nh, chẳng phải hữu t́nh, tất cả cảnh giới, sân tham ái cột chặt. Hai tức là nương vào chỗ tất cả ác cảnh giới sân si  cột chặt. Ba là nương vào tự nơi hữu t́nh kiêu mạn cột chặt. Bốn, năm, sáu nương vào ác thuyết pháp, các phẩm của người xuất gia, ba lọai tà ty, thắng giải cột chặt. Nghĩa là nương vào việc nghe không phải chánh pháp. Nương vào những chỗ chẳng như lư, tà tư duy, nương vào phi phương tiện để tu. Như thế có sự sai biệt liền chia làm ba lọai. Bảy là nương vào nơi lành để thuyết pháp, luật, vô thắng giải cột chặt. Tám là nương vào phẩm xuất gia, trí bần cùng. Chín là nương vào phẩm tại gia tài bần cùng. Như thế khởi lên 9 lọai. Sau đó hai căn cứ vào nguyên nhơn. Dùng phẩm xuất gia về pháp keo kiệt để rơ biết bần cùng trí. Phẩm tại gia keo kiệt về tài sản; cho nên sẽ bần cùng về tài sản. Căn cứ vào điều nầy đa phần sanh nơi  dục giới. Không chỉ nói rộng, mà trong Tạp Tục thứ 6 có nói rằng: Ái kết nghĩa là 3 cơi tham ái kết chặt; cho nên mạn kết; tức là thất mạn.Vô minh kết chặt nơi ba cơi vô trí. Trong Đại Đồng Hữu Bộ Biên Luận phần thứ nhất câu văn lại nói rơ; chẳng nói riêng về dục.

Lại nữa quyển 84  nói rằng:  Đối với 5 lọai có thể ḥa hợp; cho nên nói là kết. Hướng đến 5 cơi có thể  sanh nơi năm cơi. Đối với trong các cơi có thể ḥa hợp cho nên gọi là hướng đến cơi ấy.  Lại nói các cơi chẳng giản đơn như hai cơi trên. Làm sáng tỏ qua ba cơi, ba thấy và hai thủ; mỗi mỗi kết hợp lại như Câu Xá nói: Chấp vào vật; cho nên 3 việc thấy kia có 8o vật. Hai thủ ấy lại cũng như vậy; cho nên gọi là vật. Ba lọai ấy thủ nơi một và có thể chấp giữ; nên gọi là các chấp thủ. Thủ ấy  chấp thủ nên có thể thủ hữu phân biệt.

V́ trong nhân duyên ràng buộc nào mà chấp thủ tật keo kiệt chia làm hai?

Đáp rằng: Do  tánh bất thiện tự do khởi lên; nên 8 sự trói buộc có thể như vậy. Trong 10 lọai cột chặt phẩn phục lại đầy đủ hai nghĩa; nên gọi là số hiện hành. Lại nữa hai ấy có thể lấy tham tiền tài là nguyên nhơn;  cho nên  biến hiện, cần sám tùy phiền năo; cho nên năo lọan cả người xuất gia và tại gia. Do vậy sớ giải rộng ra.Câu văn tận lư.

Nếu  năm chấp thủ trên dưới phân kết, rộng hơn phần 84 nói rằng: Hướng về sắc, vô sắc, dục giới; gọi đây là phần dưới. Hướng đầy đủ tu đạo, thấy đạo là phần dưới. Do Ước(Giáo)hai điều nầy phần dưới sai biệt. Rộng ra điều nầy tức là ứng với 5 phần dưới của kết; rộng phân biệt hoặc. Không đầy đủ sanh ái chẳng thành, có kết. Khuyết nhuận sanh là câu văn dư, sai.  Điều nầy theo Ước(Giáo)là phần nhiều. Chín kết lại cũng như vậy. Lược đưa ra chỉ 2,3. Ng̣ai ra câu văn giải khác có nhiều sự thiếu sót, sai quấy. Rộng ra điều nầy có thể rơ biết.

Ví dụ như trong chúng A Tu La, có người dẫn dụ kinh A Hàm nói rằng: Người ở cơi trời Quang Âm Thiên vào biển rồng,  trôi trong biển rồi theo đó thành một cái trứng. Trải qua 8.000 năm th́ sanh ra A Tu La nữ, thân lớn như núi Tu Di. Có ngàn đầu nhỏ trong nước; riêng chỉ một thân nữ sanh ra Tỳ Ma Chất Đa. Thân h́nh gấp 4 lần biển lớn; chín đầu 8 chân, ngàn tay nhỏ nhiệm. Vào trong núi thơm Càn Thát Bà nữ sanh Xá Thai. Trong kinh nầy bàn về nghĩa của ngọai đạo. Phía dưới như vậy. Cơi trời dục giới hay chẳng sạch, dơ; há Quang Âm thiên mà chỉ ṭan sạch sẽ ư? Có nơi giải thích rằng: Khi thuyết pháp cho đến khi thành tựu; gọi đây là kinh điển Đại Thừa. Có nhiều ư nghĩa khác nhau từ đây trở đi, mà sự khác biệt nầy tên gọi có nhiều cách khác nhau. Theo tất cả những kinh điển Đại Thừa th́ nghĩa nầy chưa thể được; chớ nên giải tổng biệt. Lư ấy có thể như vậy. Dùng kinh điển Đại Thừa gọi tất cả kinh Đại Thừa. Điều nầy quá thịnh hành, có nhiều cách gọi sai biệt từ đây trở đi. Thế mà thông tất cả Đại Thừa.  Điều nầy tức chưa thể.

Lúc luận giải rồi, đưa ra thuyết rất nhiều nghĩa. Phải rơ tất cả bao nhiêu th́ được? Hoặc nói rằng ng̣ai kinh chưa nói Pháp Hoa nầy.  Điều nầy như thế có thể rơ. Mười bảy vị thường giải thích một điều là nghĩa vô lượng. Lại có luận nói rằng: Kinh nầy có 17 tên gọi. Nếu rơ tất cả th́ làm thế nào để nói điều nầy?  Lại tự giải thích rằng. Lúc ấy chỉ nói một bộ giáo; nhưng nghĩa th́ có 3 tên gọi. Như Hoa Nghiêm lại có tên là Phương Quảng. Lại nói rằng: Ng̣ai ra c̣n có 14 tên gọi để chú thích nghĩa  rộng nữa. Trong kinh có nhiều nghĩa cũng không đủ. Nhiều nghĩa cũng không ng̣ai tên gọi. Thường là 3 tên. Thế  th́ tại sao lại có đến 17 tên gọi, qua tất cả kinh điển Đại Thừa? Lại được luận rằng: Kinh Đại Thừa nầy có 17 tên gọi. Nếu tên vô lượng nghĩa th́ chẳng đầy đủ. Làm thế nào để nói rằng: trong nầy có 17 tên gọi, thấy trong sáu cơi? Có nói về vua Diệm La, mà kinh Hoa Nghiêm sánh với những cơi khác. Kinh Hoa Nghiêm nói rằng: Làm cho chúng sanh ĺa khỏi cơi của vua Diệm La, cái khổ gia h́nh. Cho nên nói rằng: làm cho chúng sanh ĺa địa ngục, súc sanh, ngạ qủy và vua Diệm La nơi có bốn ác khổ. Dùng câu văn nầy để chứng minh xác lập cơi ấy. Nếu so sánh với Du Già luận phần thứ hai th́: khi kiếp sơ đă thành lập xong rồi, có một ḷai hữu t́nh cứ tăng dần lên và do tạp nhiễm  nghiệp nên sanh vào nơi lạc già, tạo thành nơi yên ổn , rồi làm vua. Lại nói về chỗ sanh kia; cho nên rơ biết và nhiếp kia. Nay th́ nghĩa không phải như vậy. Nếu hứa với cơi kia để nhiếp th́ nên  thọ khổ của cơi kia. Nếu thọ khổ ở cơi kia th́ làm sao có thể trị phạt những hữu t́nh ở cơi kia được?

Cho nên Duy Thức thứ 20 nói rằng: Duyên ǵ mà chẳng bằng ḷng với ngục tốt, mà lọai nầy thật là ḷai hữu t́nh. Chẳng đúng lư vậy.  Sanh vào nơi kia th́ chẳng nên nhiếp Na Lạc Già vậy. Chẳng thọ như kia về chỗ thọ khổ. Cho đến có thể tự chẳng thể nhẫn thọ được đất nóng, lửa dữ, đốt cháy khổ sở. Sao lại nói kia có thể bách hại những kẻ kia?  V́ như vậy nên rơ rằng chẳng phải nhiếp cơi kia vậy. Lại nữa Hoa Nghiêm nói rằng: Cho đến vua Diệm La là kẻ ở 4 cơi ác khổ,  mà vua quan th́ ở riêng biệt một cơi.  Căn cứ vào cơi thật của qủy th́ như A Tu La  khác nhau đối với Luận Du Già nói rằng: sanh vào nơi Na Lạc Già rồi yên ổn liền làm vua để phán quyết cơi kia. Lại cũng nói rằng: Sanh nơi Na Lạc Già tạo sự yên tĩnh,  rồi làm vua để phán xét các ḷai hữu t́nh th́ chẳng phải vậy.  Lại nơi Duy Thức thứ 20 có sự sai khác với những kinh luận về cơi qủy nầy.

Hỏi về nghĩa lớn nguyên nhơn để thành tựu th́ luận giải thích có 8.  Như nghe đầy đủ về thí dụ, rồi mới khai quyền hiển thật. Với Trung Luận th́ nói rằng: chỉ bày hai lọai cảnh giới bí mật để làm đốn ngộ cho con người, so với tiệm ngộ chăng?

Đáp rằng: So sánh với nghĩa tuy thông,  mà ư là đối với tiệm ngộ.  V́ sao vậy?  Căn bản là do Thanh Văn tạo nên việc nầy. Muốn làm cho nghe biết pháp khó tin. Nếu căn cứ vào đốn ngộ để chỉ bày cảnh giới bí mật th́ liền làm cho chấp vào ư nghĩa của cảnh giới thanh tịnh,  sao có thể nói đầy đủ hơn?  Cho nên đối với Thanh Văn khiến cho xả bỏ tích quyền. Chỉ cho Thanh Văn cảnh giới bí mật,  làm cho chấp vào chỗ thật nầy.  Hiển thị cảnh giới bí mật của Bồ Tát. Bên trên tất cả hiển thị làm cho hoan hỷ. Chưa làm rơ, khiến cho tu lư, trí, làm cho tu chứng nơi hai quả. Hữu Đắc Trí xem lư đối với việc nghe.

Hỏi rằng: có thuyết nói về hai lọai cảnh giới bí mật. Nghĩa là thổi pháp loa, đánh pháp cổ lớn. Nghĩa nầy th́ như thế nào?

Đáp rằng: Thuyết kia chẳng như lư, không đúng vậy. Luận rằng: Đại pháp cổ là hai câu thị hiện. Nếu chấp vào Pháp Loa tức là đại pháp cổ một câu hiển thị. Sao lại được nói là hai?  Nếu nói rằng chấp vào  pháp cổ cùng với pháp loa kia nói là hai câu thị hiện, th́ chẳng bỏ đại pháp cổ, lại làm sáng tỏ nghĩa ǵ đây?  Nếu nói luận kia là chỗ để phân biệt điều nầy với kinh kia,  th́ như vậy luận văn ấy tự giải thích về kinh riêng,  làm sao có thể dẫn nghĩa giải thích kinh Pháp Hoa nầy?  Hà huống là những kinh điển Đại Thừa vô biệt bộ giải thích?  Thứ nhất Phật nói vô,  hữu hai kinh,  chỉ nên từ luận 8 ấy. Câu văn có thể tự ư so sánh những ǵ mà có thể giải thích.  A Hàm 8 lọai sâu xa lại thông,  giải thích về trí tuệ.  Nghĩa tuy có thể như vậy;  nhưng khi giải thích luận văn th́ có 8 lọai sâu xa, thông thích làm hai.  Sai biệt ở chỗ luận nói.  Như thế câu văn có thể rơ biết.

Hỏi rằng: Luận ấy nói: sanh ra sợ hăi th́ làm cho đọan ĺa sợ hăi, v́ lợi ích cho hai lọai người. Câu văn phía dưới lại nói rằng: 4 hối sợ hăi. Nghĩa là Đại Đức Xá Lợi Phất và ta chẳng chứng pháp Tiểu Thừa như vậy,  mà tự dừng. Tức là tâm hối quá nầy;  gọi đây là sợ hăi;  cho nên trước nên sợ.  V́ sao lại giải thích rằng:  chẳng nói không sợ;  nói ấy tức là sợ chăng?

Đáp rằng: có luận nói rằng:  Nếu v́ sự nói ấy;  nghĩa là Ngài Xá Lợi Phất cùng ta chẳng chứng. Cho nên nói rằng: có sợ hăi.  Lại như tâm nghi ngờ,  liền có mới, cũ.  Điều hối quá nầy cũng như thế.  V́ muốn đọan trừ sửa đổi nguyên nhơn, hối liền nổi lên.  Lại nữa trước hối để tu Tiểu.  Nay v́ nói phương pháp hối ấy chẳng sớm để tu Đại;  cho nên giải thích, không phương hại.  Nay lại có một cách giải thích;  hoặc có thể sớ giải bản chánh,  có ngộ nhận;  nên nói là hai.  Một thuyết nói có sợ.  Thuyết thứ hai;  tức là chẳng sợ.  Như Xá Lợi Phất nói rằng:  nghe nói, chưa nghe, đọan trừ hối vậy.  Giải thích nầy tỉnh lược quá,  chẳng thuận với kinh luận.

Lại hỏi rằng: Sự sợ hăi có 5 như là:  kinh sợ, sợ hăi,  lại có sự báng bổ, làm cho thối thác, tổn hại và điên đảo. V́ sao lại bỏ chỗ để lui?

Đáp rằng:  Nghe nói rằng:  chẳng bổ báng;  cho nên ngồi yên. Tăng thượng khởi lên hủy báng; cho nên thối lui chỗ ngồi.

Hỏi rằng:   Kẻ tổn họai phỉ báng nghe để phỉ báng;  cho nên chẳng thóai lui. V́ sao luận nói rằng: có Thanh Văn chấp giữ,  dùng sự thật bổ báng không Đại Thừa  chăng?

Đáp rằng:  Nghĩa là Thanh Văn chấp thật, kẻ hủy báng không Đại Thừa.  Căn cứ xưa kia kẻ phàm phu nghe Tiểu Thừa giáo, chấp vào đó lấy làm cứu cánh. Nghĩa là chẳng có Đại Thừa. Chưa hề nghe nói đến Đại Thừa.  Khởi lên sự hủy báng; điều nầy làm tổn hại hoặc phỉ báng. Theo chỗ nương vào Tiểu Thừa cho là cứu cánh. Chấp cứu cánh của ngă  như là Niết Bàn.  Nay nghe Đại Thừa liền tin,  chẳng phỉ báng. Thường cân nhắc,  chẳng phân biệt,  chẳng thể tiến tu. Liền nghe chỉ có một.  Tức là chẳng phải có Thanh Văn được diệt,  ngược đạo.  Nghi về sanh; cho nên gọi là tổn họai.  Cho nên câu văn phía dưới nói rằng:  Nếu ta và Đệ Tử thật được A La Hán, Bích Chi Phật, mà chẳng tin kinh nầy,  th́ chẳng có căn cứ.

Hỏi rằng:Như vậy th́ chẳng nói định tánh Nhị Thừa làm chỗ ngồi hiện tại sao?

Đáp rằng: Quả vị Bích Chi Phật th́ việc nầy không định. Kinh hay nói việc cầu Duyên Giác. Định Tánh của Thanh Văn tuy chẳng thật có, lại cũng chẳng phải pḥng hộ. Làm cho trở thành chẳng phải pháp ngu. Lại nữa giả sử việc nghe ấy có tin;  tức chẳng hồi tâm.  Lại thêm tổn hại, sợ hăi, chẳng phải lại cũng sai lầm sao?

Hỏi rằng: Khó nói về hai cơi thú như dê , nai, khó ra khỏi chỗ ở. C̣n cơi của Thái Tử đối với trâu kia lại cũng nên ra khỏi chỗ ở?

Đáp rằng:  Nhị Thừa hoặc Bồ Tát,  dê, nai, gọi là ra khỏi nhà.  Ở vào kiếp sơ hoặc du hành; chẳng được gọi là ra khỏi nhà.

Hỏi rằng:  Địa tiền Bồ Tát hoặc tại khổ chẳng được gọi là ra khỏi nhà. Từ Sơ Địa trở lên hoặc tại khổ lại cũng nên chẳng ra khỏi nhà sao?

Đáp rằng: Phân biệt có hai chướng. Rời khỏi sơ địa được ĺa phân đọan;  gọi đây là ra khỏi nhà.

Hỏi rằng:  như vậy th́ sơ địa thọ việc khó khăn để ĺa phân đọan; nên gọi là ra khỏi nhà. Ngựơc lại với dễ dăi ở bát địa thọ tiền th́ bảy ấy chưa ĺa,  không thể ra khỏi nhà chăng?

Đáp rằng:  Trước bảy(địa)có thể ĺa phân đọan.  Tuy chẳng phải là không đễ dàng để gọi là ra khỏi nhà.

Hỏi rằng:  Nếu như vậy th́ ba quả có thể ĺa phân đọan chăng?  Mà ba quả đầu con người gọi là ra khỏi nhà?

Đáp rằng:  Lực của sơ địa Bồ Tát có thể do bi tâm mà chẳng thọ xưng ra khỏi nhà. Trước ba quả người ĺa, chẳng định, không phải là điều nầy vậy;  cho nên giữ lại, chẳng ra khỏi nhà.

Hỏi rằng:  Nếu như ba quả trước chưa thể hồi hướng đến Đại;  chẳng thọ,  khó khăn,  chẳng ra khỏi nhà. Chẳng định hồi tâm,  thọ nhận khó khăn,  có thể ĺa đọan phần;  nên gọi là ra khỏi nhà chăng?

Đáp rằng: căn cứ vào kẻ hồi tâm, liền thọ nhân sự khó khăn, được gọi là ra khỏi nhà.

Hỏi rằng:  Nếu như vậy th́ ba quả đầu con người há được gọi là ra khỏi ba cơi khổ,  đầy đủ ba minh và lục thông sao?  Phần thứ hai ở dưới nói rằng:  Nếu tâm quyết định đầy đủ ba minh và lục thông th́ có được Duyên Giác,  chẳng thóai tâm Bồ Tát. Trường Hàng lại cũng nói:  Thấy các chúng sanh, từ nơi Phật dạy ra khỏi 3 cơi khổ chăng?

Đáp rằng:  Những câu văn như vậy căn cứ nơi thuyết quyết định.  Hữu học hồi tâm và thọ nhận khó khăn đều bất định;  cho nên chẳng chướng;  gọi là ra khỏi.  Nếu như  chẳng phải như vậy th́ nên chẳng bỏ xe. Nếu chưa bỏ xe được th́ ghi lại cái ǵ ?  Nếu nói rằng:  ở trong nhà lại được xe; được nhớ lại,  được xe;  tức là nên có học cách lên xe để ra khỏi nhà. Nếu như vậy th́ khiến cho hữu học hơn vô học. V́ ở trong nhà được xe rồi. Nếu nói rằng:  Hữu học chưa gọi là được xe; cho nên nói vô học.  Nói những ǵ mà vô học được ghi lại;  tức gọi là cùng xe với xe.  Hữu học được thọ kư,  chẳng gọi là cùng xe với xe.  Nếu  nói rằng:  cảm nhận cái khổ;  cho nên chẳng  cùng xe với xe. Trước đệ thất địa lại cũng nên nghĩ như vậy.

Hỏi rằng: Trong Thích Già có so sánh với luận và nói rằng:  Kẻ không phải Nhị Thừa th́ không Nhị Thừa Niết Bàn.  V́ vậy cho nên không Niết Bàn.  V́ Hành Quả lại cũng chẳng phi hữu chăng?

Đáp rằng:  Có nơi nói rằng có thể chứng trí và có nơi chứng lư.  Tức là không có hai Niết Bàn. Sáng tỏ lại cũng không hai trí.  Nhị trí đă không;  cho nên hai hành cũng không.  Hành nhơn chỉ chỗ khởi,  lại chẳng có lời dạy riêng biệt;  cho nên nói cả hai là vậy.  Nghĩa như thật tức chẳng phải như thế.  Thường chẳng phải hai lư.  Chỉ một chơn như.  Duy chỉ có Đại Niết Bàn vậy. Những câu văn trên dưới thường nói về pháp thân th́ chẳng có sai biệt.  Lại nói những ǵ về pháp thể, th́ chỉ có thể của một thừa.  Nhứt thừa thể nghĩa là chư Phật Như Lai b́nh đẳng pháp thân.  Thanh Văn Bích Chi Phật chẳng như thể b́nh đẳng pháp thân như kia.  Do nhân quả, hành quán không giống nhau.  Cho nên nói là do nhân qủa hành quán chẳng giống,  minh trí hạnh cũng sai biệt.

Lại nữa như trước đă nói rằng 3 thừa pháp kia thường có tên gọi là chương đầu,  câu văn nói chẳng phải nghĩa thật. V́ thật nghĩa kia, chẳng thể nói vậy. Lại nữa lư vô vi, thể một ấy, không phân biệt trí hành cùng với sự thật sai biệt ở một phương tiện khác.

Hỏi rằng:  Đă nói về thật,  chứng A La Hán th́ chẳng tin pháp nầy,  không tồn tại ở nơi nầy. Sao lại được có sự tổn hại việc lo lắng?

Đáp rằng:  Nay nói thật được là căn cứ vào kẻ hồi tâm.  Do vậy phần thứ hai nói rằng:  Chúng ta ngày nay mới thật là Phật Tử.  Lại cũng nói là chơn A La Hán.  Kẻ sáng suốt chưa hồi th́ chưa phải là Phật Tử,  chưa phải là A La Hán. Bất định là như vậy.  Định tánh lại cũng như thế.  Cho nên nói là chính ḿnh;  nghĩa là chẳng phải chơn thật hai Thánh. Nếu như thế th́ được gọi là tăng thượng mạn,  được thế gian định;  nghĩa là được vô lậu;  gọi là tăng thượng mạn.  Hay được giải thóat nhỏ và chưa được giải thóat lớn.  Lại nữa chưa được pháp thân,  mà tự cho rằng cùng với Như Lai đồng ngồi nơi ṭa giải thóat.  Tuy không c̣n phiền năo là sở tri chướng.  Do không chướng kia;  nên được gọi tên là mạn.  Nếu chẳng phải như vậy th́ lúc đầu chưa tin,  sau đó mới tin;  nên mỗi mỗi không có chỗ nầy.  Tăng thượng mạn lại cũng như thế,  trừ Phật diệt độ rồi,  sau đó liền hóa mới được.  Tuy tạo ra sự giải thích nầy;  nhưng chẳng giống như sự giải thích trước.  Phía trước  giảm sự lo sợ,  giả sử chẳng hồi tâm,  nghe lại chẳng phỉ báng,  thuận với câu văn nầy.

Hỏi rằng:  Kinh nào nói rằng: Ta biết chúng sanh  nầy chưa hề tu căn lành.  Kinh nầy chính là làm thóai tâm người tu giải thóat.  Trước nói rằng:  nay ở trong chúng hội nầy như ta cùng với trăm ngàn vạn ức đời đời đă từng từ Phật nhận lănh sự hóa độ.  Quyển thứ hai lại nói rằng: Ta ở nơi hai vạn ức Phật,  mà chứng vô thượng đạo;  cho nên thường giáo hóa các ngươi chăng?

Đáp rằng: Có hai cách giải.  Một nói là chớ căn cứ  chỗ chẳng thối;  nên căn cứ nơi người nhỏ; nghĩa là chưa tu thiện.  Một cách khác nói rằng:  giả sử gặp tu lớn.  Chẳng phải tăng thượng phẩm th́ chưa thành định vị;  nghĩa là chưa tu căn lành.  Chẳng ṭan diện, chẳng tu.

Hỏi rằng: V́ căn cứ vào đời nầy để nói nhiều đời chăng?

Đáp rằng:  Nói về nhiều đời, nhiều đời ấy là chỗ hóa độ,  há được nói rằng ta gặp để nói.  Giả sử ng̣ai Phật giáo hóa ra,  lại cũng nói là v́ ta.  Chẳng phải chỉ đời nầy.  Nghe ấy tức là chứng được Thánh;  nơi quả nhỏ.  Cực tật sanh ra ba.  Giống như Thu Tử  trải qua 60 kiếp,  há chỉ có đời nầy mới giáo hóa nơi việc nhỏ.  Nếu như vậy th́ tại sao ở quyển thứ hai nói rằng:  đầu tiên nghe Phật pháp,  gặp đó liền tin thọ?

Đáp rằng: ban đầu nghe,  lại rơ được ngôn ngữ chăng?  Chưa thể định cho bây giờ.

Hỏi rằng: Nếu như vậy th́ v́ sao nói rằng:  ta vốn dính mắc tà kiến v́ các  Thầy Phạm Chí,  Đức Thế Tôn rơ biết tâm ta,  phá bỏ tà ấy,  nói Niết Bàn?

Đáp rằng: Vả lại căn cứ vào đời nầy,  chẳng phải chỉ nghe mà ngộ liền chỗ nhỏ.  Lại giải thích điều nầy căn cứ vào chỗ hóa hiện,  thật th́  chẳng phải như vậy. Ta dùng mắt của Phật.  Phật có ngũ nhăn;  nên nói là Phật nhăn quan.  Ở đây ngũ nhăn ấy phân biệt nói về ngũ môn.  Một la thể; hai là giải thích tên;  ba là được người;  bốn là phế lập và năm là tương nhiếp.  Phần thứ nhất xuất thể nghĩa là căn cứ vào nhục(nhăn)và thiên nhăn các tông nói khác,  rộng ra để bàn, dư nhiều chẳng thuật lại đủ. Thường nương vào Đại Thừa, tự chính tông ḿnh để nói. Có dùng chủng tử nhăn thức;  nên gọi là nhăn.  Cho nên phần 20 của Duy Thức nói rằng: Thức từ chính hạt giống sanh;  giống như tướng của cảnh mà chuyển đổi thành nội ngọai xứ vậy.  Phật nói kia chia ra làm 10. Có dùng chủng sắc;  nên gọi là nhăn căn.  Quán xem nơi duyên và Duyên Luận nói rằng: Thức bên trên sắc công năng;  gọi đây là ngũ căn.  Với lư công năng cùng với cảnh sắc từ vô thỉ nương tựa nhau để làm duyên. Có thuyết nói rằng:  hay do cảm nhăn căn nghiệp chủng; nên gọi là nhăn căn.  Thành Duy Thức Luận nói rằng: Có Bích(Chi Phật)như trước đă nói,  quá khó rơ biết,  phụ vào đó chấp kia lại chuyển.  Nên lại nói:  Trong thức, chứa hạt giống nghiệp; gọi đây là ngũ sắc căn. Như trên ba cách nói ấy đều chẳng phải đúng nghĩa.  Đối với pháp th́ Ngũ Uẩn Du Già nói rằng:  nhục nhăn thể tánh lấy 4 đại chủng để tạo ra tịnh sắc mà làm nhăn căn.  Đối với trong nầy có ba cách nói.  Một là chủng tử, hai là hiện hành và ba là cả hai.  Thuyết nầy mới đúng.  Cho nên Ngũ Uẩn Luận nói rằng: Nhăn căn v́ sao có nghĩa là tứ đại;  chỗ tạo ra căn thức để nương vào.  Dùng sắc để làm cảnh;  cho nên thông qua đó hạt giống hiện ra.  Thiên nhăn căn thể ấy dùng định để khởi lên tứ đại;  chỗ tạo ra tịnh sắc làm tánh.  Đây chính là thông với quả vậy.  Cho nên Vô Trước Bồ Tát nói trong Bát Nhă luận rằng: V́ sắc nhiếp vậy.  Sắc nhiếp lại có hai.  Nghĩa là pháp quả tu quả. Pháp quả tức là nhục(nhăn). Tu quả tức là Thiên(nhăn).  Pháp tức là tên gọi chung tất cả vậy.  Tức có thể cảm nói nghiệp;  nhục ấy là quả nầy.  Tuy rơ biết tổng gọi riêng là nhục,  như nói ở sắc xứ.  Tu ấy nghĩa là định nhơn nầy;  tu chỗ khởi lên;  nên gọi là tu quả.  Huệ pháp hai mắt đầy đủ huệ làm tánh.  Duyên với chơn và tục hai cảnh riêng biệt.  Cho nên Vô Trước Bồ Tát trong Bát Nhă nói rằng:  Đệ nhứt nghĩa đế vào đời để nhiếp đế.  Lại cũng có nghĩa là đệ nhứt nghĩa trí lực. Thế trí ấy không bị điên đảo chuyển.  Đây là một huệ ước,  giữ cảnh dụng phần.  Phật nhăn tức là lấy 4 nhăn trứơc làm tánh.

Trí Độ Luận nói rằng: Giống như 4 con sông chảy ra biển. Tất cả đều gọi là thiên tŕ(ao trời). Bốn nhăn trứơc ở nơi thân Phật th́ gọi là Phật nhăn.  Nếu căn cứ vào  Vô Trước Bồ Tát Bát Nhă Luận đă nói th́ sau Phật trí mới gọi là Phật nhăn. Luận rằng:  Tất cả những chủng tử tất cả nên rơ nhiếp.  Lại nói rằng:  Tất cả nên rơ trong trí tất cả  hạt giống công dụng trí,  gọi là Phật nhăn. Trong Đại Trí Độ Luận nói rằng:  Căn cứ vào tổng thể xuất thể.  Trong Bát Nhă Luận nói mỗi cá biệt xuất thể.  Lại cũng trong Bát Nhă luận rằng:  4 trứơc căn cứ vào nguyên nhơn Phật nhăn để ứơc quả,  chẳng phải như vậy.  Phật quả há có nghiệp cảm dị thục nhăn căn.  Lại nữa Phật hậu trí há do bổn trí, chẳng thể đảo chuyển.  Hăy rơ biết nhiệm vận vậy.  Hoặc cũng trong Đại Trí Độ Luận nói rằng:  Tất cả đều gọi là Phật nhăn. Dùng trí mạnh;  cho nên tổng nói là trí.  Nếu như vậy th́ v́ sao nói rằng:  trong tất cả chủng ứng trí,  tất cả chủng vô công dụng trí.  Căn cứ vào điều nầy tức là Biến Thủ Hậu Trí làm Phật nhăn. Cho nên trứơc giải rơ.

Hai cách giải thích về tên.  Một là tổng; hai là biệt.  Tổng ấy gọi là nhăn.  Tiếng Phạn gọi là Bạt Già Phạt Sô.  Bạt Già ở đây nói là 5.  Phạt Sô có nghĩa là hành tận.  Nghĩa là như đi chợ đủ lọai vật thấy hết rồi;  cho nên nói là hành tận. Nương vào đó để dịch nghĩa là nhăn.  Chẳng phải dịch đúng. Tiếng Phạn gọi là Nhăn.  Nghĩa là mắt chiếu sáng.  Có 5 điều giải thích. Mỗi cách giải thích khác nhau.  Nhục(nhăn) nghĩa là dị thục sắc.  Nhục ấy tức là nhăn.  Riêng nghiệp lấy làm tên.  Ánh sáng tự tại thanh khiết,thần dung nên gọi là Thiên.  Thiên ấy gọi là thông với dục, sắc, vô sắc;  ư nói là sắc thiên. Mắt của Trời; cho nên nương vào người để làm nguyên nhơn.

Hoặc là Định Quả Quang Khiết;  nên gọi là Thiên.  Thiên ấy tức là mắt giữ lại từ nghiệp.  Việc giải thích nầy quá viển vông.

Lại nữa Đại Trí Độ Luận nói có  giống và khác nhau.  Nói rằng:  Thiên th́ có thiên nhăn;  cho nên chẳng phải ấy tức là nhăn. Chiếu soi gọi là huệ.  Huệ ấy tức là nhăn.  Lại cũng có sự giải thích của Tŕ Nghiệp.  Pháp ấy tức là cảnh.  Duyên nơi pháp của nhăn.  Gọi đây là pháp nhăn. Căn cứ vào huệ cùng với duyên thông;  gọi đây là pháp.  Ng̣ai ra mỗi mỗi biệt duyên.  Đây có thể là thông duyên.  Lại  duyên nơi giáo pháp.  Ở đây riêng biệt;  nên gọi là pháp nhăn.  Phật gọi là như thường. Mắt Phật gọi là Phật nhăn.  Nương vào đấy sinh ra sự giải thích.

Ba là được làm người. Dục,sắc  ở trong hai cơi hữu t́nh.  Nếu là thiên nhăn nầy th́ dục giới có sáu cơi trời cùng với ba châu, trừ Bắc Câu Lô được 4 tĩnh lự căn bản định,  có thể khởi thiên nhăn.  Dùng đó để được thông.  Nhị thừa có huệ nhăn,  chiếu sanh không lư.  Tuy cũng được pháp nhăn;  nhưng lấy sự yếu đuối;  cho nên chẳng nói kia thành.  Bồ Tát có pháp nhăn,  dung hữu chủng trí,  hay duyên vào tất cả.  Phật có Phật nhăn,  cùng hiển có thể rơ biết.  Lại nữa thành hậu hậu,  tất nhiên có tiền tiền.  Thắng được cả chỗ yếu kém.  Sự yếu kém chẳng thành hậu được. Thành tiền tiền,  chẳng thể định,  có thể thành nơi hậu hậu.  Đại Trí Độ Luận nói rằng: Trời có Thiên nhăn.  Nhị Thừa có Huệ nhăn. Bồ Tát có Pháp nhăn.

Hỏi rằng: nếu Phật có pháp nhăn th́ tức nhiên có Phật nhăn.  Bồ Tát có Pháp nhăn;  nên có tên là Bồ Tát nhăn chăng?

Đáp rằng: Phật nhăn chỉ có Phật có.  Do Phật lập thành tên. Pháp ấy chẳng do Bồ Tát. Từ cảnh(giới)nên gọi là Pháp nhăn.  Ng̣ai ra y cứ vào trí.

Hỏi rằng:  Pháp ấy chẳng do Bồ Tát,  chẳng gọi là Bồ Tát nhăn.  Thiên nhăn chẳng do Thiên th́ v́ sao  có tên là thiên nhăn?  Lại nữa Thiên nhăn chẳng do Thiên mà được gọi là Thiên nhăn,  th́ nhục nhăn chẳng do người,  th́ được nhơn nhăn sao?

Đáp rằng:  Nhục(nhăn)thông với các cơi báo; chẳng gọi chỉ nhơn nhăn.  Thiên chỉ riêng với pháp kia;  cho nên gọi là thiên nhăn.

Hỏi rằng: Pháp thông nơi Phật, lại chẳng gọi là Bồ Tát nhăn.  Thiên thông với các chúng,  thành ǵ mà riêng gọi là Thiên nhăn?

Đáp rằng: Phật cùng với thiên xứ thông;  cho nên gọi là thiên nhăn.  Người chỉ khởi lên sau trời,thuộc thiên nên gọi là thiên nhăn.  Lại nữa tên gọi ấy giả lập làm ǵ giả khổ để cầu.  Giả sử tạo ra nhiều thông,  rốt cuộc trở lại có nạn.  Vả lại mỗi mỗi căn cứ vào nghĩa  để lập nên tên gọi nầy.

Hỏi rằng: Bốn phế lập ấy v́ sao lại lập nên ngũ nhăn mà chẳng tăng, chẳng giảm vậy?

Đáp rằng: Tất cả các pháp lược nói có hai lọai.  Một là sắc pháp . Hai là chẳng phải sắc pháp.  Ở  trong sắc pháp có 2 lọai nầy.  Một là hiển hiện cận sắc.  Hai là ẩn tàng viễn sắc.  Rơ hiển cận sắc cho nên lập thành nhục nhăn.  Rơ ẩn tàng viễn sắc cho nên lập thành thiên nhăn.  Hoặc trong sắc căn,  định tán nghiệp riêng biệt.  Tán nghiệp quả nhăn thành lập,  v́ nhục nhăn.  Định sở khởi nhăn thành lập,  v́ thiên nhăn.  Yếu mạnh chẳng giống nhau;  cho nên chia làm hai lọai.  Do vậy Vô Trước luận nói rằng: Vị pháp quả, tu quả nầy v́ ngũ nhăn.  Trần cảnh giới;  cho nên sơ sắc nhiếp. Trong phi sắc pháp có lư sự cảnh. V́ liễu lư cảnh lập nên huệ nhăn. V́ liễu sự cảnh lập nên pháp nhăn nầy. Lại nữa duy chỉ một trí căn bản đặc thù; cho nên lập thành hai.  Do vậy Vô Trước Luận Đệ Nhất Nghĩa Đế, nhiếp thế đế nhiếp.  Lại lấy quả đối nhơn để tổng lập nên Phật nhăn.  Cho nên trong Trí Luận ở phía trước tứ nhăn cho đến Phật quả,  tổng gọi là Phật nhăn. Hoặc căn cứ được ở người chia thành 5 lọai.

Hỏi rằng:  Suy nghĩ so sánh có thể được. Phế lập như vậy th́ lần lượt như thế nào?

Đáp rằng: dùng điều yếu, mạnh để dẫn đến việc lần lượt sanh.  Đối với trong sắc,  nhục nhăn là yếu nhất.  Chỉ thấy(sắc)hiển lộ .  Thiên nhăn th́ mạnh hơn.  Thấy qua ẩn hiện;  cho nên nói sau về nhục(nhăn).  Đối với ở trong phi sắc,  do rơ chơn đế,  tục trí,  chẳng theo lệ.  Lại nữa liễu tục do chứng chơn;  cho nên nói là được huệ sanh pháp hậu.  Trước nhơn sau quả;  cho nên kế tiếp là Phật nhăn.  Do vậy Vô Trước Luận nói rằng.  Đây chính là ngũ nhăn.  Trần cảnh giới;  cho nên là sơ sắc.  Căn cứ vầo đệ nhất nghĩa trí lực;  cho nên thế trí chẳng điên đảo chuyển.  Từ đó đệ nhứt nghĩa nhiếp ở phía trước.  Năm ấy tương nhiếp với nhau.  Căn cứ vào luận Du Già nói:  Nhăn ấy có 3.  Trong kinh Hoa Nghiêm th́ nhăn ấy có 10; do cách gọi mà tương nhiếp.  Tất cả đều như việc sớ giải. Nếu Du Già thứ 3 lập 1 cho đến 11,  cùng với điều nầy tương nhiếp.  Lo ngại rộng hơn chẳng thuật lại,  kẻ muốn làm rộng hơn th́ nên t́m câu văn kia.

Hỏi rằng :  Kinh nói Bồ Tát nghe pháp nầy sự nghi ngờ tất cả được giải trừ. 1.200 vị La Hán tất cả đều sẽ làm Phật.  Bồ Tát trong hai nghi ấy nay trừ được ǵ?

Đáp rằng: Cả hai đều trừ .   Kia tự rơ được làm Phật, lại chẳng nghi kia chẳng được làm Phật.

Hỏi rằng: Sao mà rơ được?

Đáp rằng:  Theo luận thích dụ th́ phần thứ ba v́ phá một hướng cầu Đại Thừa,  chấp không có Nhị Thừa.  Cho nên nói hai thí dụ.

Hỏi rằng:  Bồ Tát nghi đă trừ,  rơ biết được làm Phật,  sao lại không được thọ kư?

Đáp rằng:  Thanh Văn từ lâu học tập Tiểu(Thừa).  Tuy tin rằng tự ḿnh có thể thành Phật,  lo ngại chưa được quyết định.  Tâm làm cho được quyết định;  cho nên cùng thọ kư riêng biệt.  Bồ Tát trước chẳng học Tiểu(Thừa). Tuy lo kia thối (tâm)khi nghe nói nhứt thừa,  rơ biết không phân biệt Tiểu;  tức trụ ở Đại(Thừa)quyết định;  cho nên giả thọ kư.  Lại nữa cũng cùng thọ kư riêng.

Hỏi rằng:  Trước nói chẳng phải nhứt(thừa)chẳng thành Phật;  tức là tổng cùng thọ kư. V́ sao lại chẳng thọ kư riêng?

Đáp rằng: V́ nói lược cho nên khi nghe th́ khác.

Hỏi rằng: Như vậy nói 1.200 vị A La Hán tất cả đều được làm Phật.  V́ tự rơ sẽ được làm Phật, mà  Phật chẳng rơ chăng?  Nếu tự rơ biết rằng 1.200 người giống như Thu Tử  một thuở được thọ kư, v́ sao nói hóa thành rồi, mới sanh giải tâm ban đầu cùng với việc thọ kư?

Đáp rằng: Có hai cách giải thích.  Một là nói rơ được,  mà chưa hướng đến.  Cho nên vui với Nhỏ.  Nghe nói hóa thành mới hiểu biết và bỏ Tiểu(Thừa).  Bắt đầu cũng được thọ kư.  Hai là nói chưa rơ,  mà khi nghe Phật nói kia sẽ làm Phật.  Nghe đến lần thứ ba mới bắt đầu lănh ngộ.

Hỏi rằng: V́ sao Bồ Tát nghe, nghi liền trừ,  rơ biết sẽ làm Phật,  c̣n 1.200 người tự chưa rơ biết được khi Phật nói?

Đáp rằng: V́ lợi(căn)và độn(căn)khác nhau vậy.  Thu Tử lợi căn, một lần nghe thường phải giải nghi.  Bồ Tát th́ hơn hẳn;  cho nên nghi ấy liền trừ.  1.200  vị ấy độn căn;  cho nên  chưa thể giải nghi được.

Hỏi rằng:  So sánh phẩm Phân Biệt Công Đức nói rằng:  Nếu nghe được phẩm Thọ Lượng,  công đức vô thượng mà thóai tâm Bồ Đề th́ chẳng có nơi nầy.  Xá Lợi Phất ở trong quá khứ đă từng nghe  Kinh Diệu Pháp Liên Hoa,  như gặp Đại Thông vậy. V́  sao lại thối lui?

Đáp rằng:  Có hai cách giải thích. Một  là nói cứu cánh thối lui,  rốt cuộc không có ở nơi nầy. Giả sử có thóai th́ cũng ḥan lại như cũ.  Hai là căn cứ vào kẻ ưu việt;  hoặc căn cứ người lănh ngộ nói chẳng phải tịnh,  phần thứ ba hiển dương nói rằng:  Một là giới tịnh,  thiện trụ thi la(giới);  cho đến các tội nhỏ, vừa mà thấy lớn, sợ sệt,  thọ học, học xứ. Hai là tâm tịnh.  Nương vào giới tịnh cho nên trụ ở 4 tĩnh lự(thiền định).  Ba là thấy tịnh.  Nương vào tâm thanh tịnh;  cho nên được lậu tận trí.  Hiện quán các chân lư.  Bốn là độ nghi tịnh; nương vào chỗ thấy tịnh; cho nên đối với Phật, Pháp, Tăng chẳng hoặc, chẳng nghi.  Năm là đạo phi đạo tri kiến tịnh. Nương vào đạo nghi tịnh;  cho nên được diệu tri kiến.  Rơ Phật chỗ nói đạo hay ra khỏi ngọai đạo để nói,  chẳng thể hết khổ.  Sáu là hành tri kiến tịnh.  Nương vào đạo phi đạo tri kiến tịnh lại được tịnh;  cho nên tri kiến tri.  Ra khỏi đường ấy có thượng, trung và hạ.  Nghĩa là qua ḷng từ bi là chỗ nhiếp vậy.  Bảy là hành đọan tri kiến tịnh.  Nương vào hành tri kiến tịnh;  cho nên được diệu trí.  Nghĩa là ta sẽ đọan những hành vi hạ, trong cùng với việc phát khởi thiện diệu thánh hạnh.  Tám là Vô Dư Tịch Tĩnh Tịnh.  Nương vào hành đọan,  tri kiến tịnh,  chứng đắc vô dư, các lậu vĩnh viễn dứt trừ.  Chín là quốc độ tịnh;  nghĩa là chư Phật cùng với  những công đức vô thượng,  có thể thị hiện bất khả tư ngh́ công đức trang nghiêm ở nhiều quốc độ,  làm cho Phật quốc thật cực tịnh,  cũng như cực tịnh chư vị Bồ Tát và những quyến thuộc.

Hỏi rằng: Nhà lửa ví dụ Xá Lợi Phất v́ thỉnh 1.200 vị,  tất cả đều là những vị vô học.  V́ sao luận thích nói rằng:  V́ hữu học đầy dẫy tánh phiền năo của chúng sanh?

Đáp rằng: Có hai cách giải thích.  Một là nói theo Đàm Bổn th́ nói Quyền Bổn là phàm phu.  Nay lấy dụ để hiển;  cho nên nói là dẫy đầy tánh phiền năo. Như vậy tức là Đàm chứa ư;  nên chẳng sai biệt.  Hai nói rằng:  Căn cứ vào việc Thanh Văn thỉnh.  Chính v́ Vô Học là bên cạnh của Hữu Học.  Căn cứ bên cạnh ấy cho nên nói là phàm phu.  Vô Học văn hiển,  luận ấy lược chẳng giải thích,  chẳng phải vậy.  Kinh nầy làm tông sáng tỏ cho Nhứt Thừa.  Như trong Phẩm Dược Thảo nói những ǵ làm cho rơ biết thừa khác. Nói đủ các thừa.  Ước(Giáo)có học Thanh Văn làm cho trở thành Đại(Thừa).  Văn hiển có thể rơ;  cho nên lược bớt chẳng dẫn giải.

Hỏi rằng: Xe Dê,  xe Hươu để chỉ cho chấp giữ pháp ǵ?

Đáp rằng:  Căn cứ vào các nhà chú giải th́ chấp vào Nhị Thừa Vô Học,  sau khi giải thóat  con đường của thế gian, tâm định hư chỉ. Đây là xe của chủng trí. Dẫn dụ các con làm cho ra khỏi tâm địa thế gian. Thật chẳng thể rơ tất cả các pháp.  Cho nên ra khỏi cửa không được.  Có thể chốc lát tu nghĩa,  ngôn,  không xe. Cho nên luận nói rằng: Người thứ nhất cùng với thế gian trồng đủ  các lọai căn lành,  tam muội công đức,  khiến cho du hí(không thật).  Rồi sau đó khiến cho vào Đại Bát Niết Bàn.

Hỏi rằng:  Nếu như vậy th́ nói những ǵ là thấp, hợp với dụ để nói về xe?  Đây là ba thừa, dùng vô lậu,căn lực, giác đạo, thiền định để mà tự vui vẻ ?

Đáp  rằng: Kia đều lên xe nầy trang nghiêm đầy đủ. Lại trong thân vô lậu làm chủ các pháp. Lại cũng có tên là vô lậu.

Hỏi rằng: Nếu như vậy th́ xe trâu lại cũng như thế chăng?

Đáp rằng:  Cứu cánh kia là thật đức, mà điều hư nầy chỉ cho chẳng phải cứu cánh.

Hỏi rằng: Nếu như vậy th́ hữu lậu há gọi là ra khỏi nhà?

Đáp rằng:  Ra khỏi từng phần;  cho nên gọi là ra khỏi nhà.  Lại nữa cách giải thích ấy chỉ cho Vô Học quả vị, chỗ đắc vô lậu, sanh trí tuệ là v́ xe dê(xe)hươu. Ở phía dưới nói tự tại không lo, không chỗ nương cầu, không lậu căn v.v…

Hỏi rằng: Nếu như vậy th́ xe ra khỏi cửa như thế nào để được trí ?

Đáp rằng: Dùng trí nầy giả và gọi đây là chủng trí. Đây chẳng thể rơ tất cả các pháp;  nên phải tu. Nghĩa ấy nói xe tốt đẹp.

Hỏi rằng: Nếu như vậy th́ gọi cái ǵ là thế gian?

Đáp rằng: Duyên nơi tục và việc đời vậy. Dùng trí kém ;  nên gọi là thế gian.

 Nếu như vậy th́ đối với xe nói thành;  nên  chấp vào chân lư. V́ sao luận nói rằng: Thành Niết Bàn và thành của các Thiền Tam Muội. Niết Bàn; tức là chấp vào thành của Thiền Tam Muội. Bồ Đề v́ sao cuối cùng là thế gian trí?  Lại nữa Nhị Thừa,  sau khi vô lậu đắc, chẳng thể rơ biết tất cả các pháp. Sao gọi là làm cho vui vẻ, mà phía trước nói là lành?

Hỏi rằng: Ng̣ai cửa xe tốt v́ kẻ tam thừa. C̣n tất cả xe tốt khác chỉ cho Nhị Thừa sao?

Đáp rằng: Có hai cách giải. Một là nói thông với ba thừa tốt.  Câu văn chẳng giản lược.  Cựu đức nói; cho nên gọi là các con. Thứ hai nói là chỉ có Nhị Thừa tốt; mà chẳng phải Bồ Tát. V́ sao vậy? Nhà ấy dụ cho phân đọan,  được ra khỏi phân đọan, được gọi là ra khỏi nhà.  Nhị Thừa ra khỏi nhà được quả vô học.  Bồ Tát ra khỏi nhà,  ở nơi sơ địa.  Nhị Thừa Vô Học chưa được chủng trí, sẽ có thể tu học;  nên gọi đây là xe tốt. Sơ địa trở lên, được chủng trí xa; cho nên chẳng đủ tốt. Nếu dùng sự tu học gọi là xe tốt th́ Thập Địa tất cả đều tu, hằng thường tốt đẹp.

Nếu như vậy tức là Bồ Tát chẳng thể chẳng lên xe, sao được nói là lên xe để du hí? Lại nữa luận nói rằng:  trước đó làm cho nhập vào bất thối địa, hiện ra cùng với vô lượng trí nghiệp. Sơ Địa trở lên tức là đắc trí nghiệp. Tuy rơ biết tu học, kinh chẳng nói tốt, nói du hí. Nhị Thừa ra khỏi nhà, chưa được chủng trí. Chưa đến sơ địa, có thể cũng tu học nghĩa, gọi là xe tốt. Lại luận rằng : người thứ nhất nầy cùng với thế gian trồng nhiều căn lành tam muội công đức, làm cho du hí nầy. Sau đó làm cho vào thành Đại Niết Bàn, cùng với trời người thế thiện.  Chưa được điều chơn nầy,  có thể đầy đủ lời nói tốt. Bồ Tát chẳng để chỉ cho Dê,Hươu. Sơ Địa trở lên được chơn. Cho nên Bồ Tát chẳng tốt. Hoặc có thuyết nói rằng: Sơ cơ hư vọng;  cho nên xe phải tốt. Hoặc nói rằng trong nhà nghe ba;  ng̣ai cửa thấy một.  Chẳng rơ ai, rơ một. Cho nên đều tốt đẹp cả là chẳng phải nói thật.

Hỏi rằng:  Nếu Bồ Tát chẳng phải được xe tốt,  gọi là ra khỏi nhà th́ có ngồi chăng?

Đáp rằng:  Gọi là ra khỏi nhà rồi ngồi. Thường là Ước(Giáo) Nhị Thừa cứu cánh vậy. Ĺa chướng tận, tâm dừng lại, kiến lập quả vị. Các vị Bồ Tát học chưa cứu cánh,  chưa ĺa chướng tận, chẳng kiến lập quả được. Tâm chẳng dừng, chẳng được nói là trống trải trên đất. Duy phân biệt mà gọi là trên mặt đất. Người trước 3 quả cũng lại nên như vậy.  Nếu như vậy th́ hữu học lại gọi là ra khỏi chỗ ngồi.

V́ sao ở dưới hợp dụ với ở giữa nói là Phật dạy rằng ra khỏi cửa tam giới khổ,  sợ hăi, hiểm đạo, được Niết Bàn vui?  Lại gỉai thích rằng:  Bồ Tát lại cũng được kêu ngồi. Tuy chưa dừng và chưa tạo ra quả,  mà dùng trí để an xứ,  lại được gọi là ngồi.  Có thể hàng phục nghi hoặc; cho nên xuất phần đọan và gọi là ra khỏi ba cơi. Trên đất không hại?

Nếu mà ba quả lại cũng như đă hứa th́ cũng chẳng mất đi. Giữ, bỏ nhiệm ư.

Hỏi rằng:  Bên ng̣ai ba cửa, thể của xe nầy có nhiều chỗ chẳng giống nhau chăng?

Đáp rằng: Theo lối giải thích xưa th́ đó là Niết Bàn. Nay nói rằng: sau đó được chánh trí. Chấp giữ Niết Bàn mà v́ h́nh tướng của xe. Kinh luận,giải rơ câu văn nầy. Các kinh nói rằng: Muốn mau ra khỏi ba cơi, tự cầu Niết Bàn. Như những đứa con kia v́ cầu xe Dê để ra khỏi nơi nhà lửa.

 Hỏi rằng: Luận nói rằng: Sau đó th́ vào Niết Bàn; cho nên thủ hậu trí mà v́ ba xe kia. Lại nữa câu văn căn cứ vào đâu?

Đáp rằng: Lại trải qua kinh luận để làm rơ câu văn. Nói Dê,Hươu là v́ hậu trí. Luận nói rằng con người là đệ nhất,  dùng thế gian nầy để trồng những căn lành, tam muội công đức, phương tiện, làm cho vui vẻ, khiến cho vào Niết Bàn. Lại nói trồng các căn lành,  tam muội công đức. Rơ ràng chẳng phải Niết Bàn. Cùng với xe Trâu nói cầu tất cả trí Phật, trí tự nhiên, trí vô sư, trí Như Lai để thấy được nhiều niệm an lạc. Rơ ràng chẳng phải là Niết Bàn.

Hỏi rằng:  Tất cả đều đầy đủ thành, câu văn như thế nào là đúng?

Đáp rằng: Giữ trí làm chánh.

Hỏi rằng: Nếu như vậy th́ câu văn trước giải thích như thế nào đây?

Đáp rằng: Niết Bàn tướng;  cho nên gọi là Niết Bàn. Lại nữa cầu (xe)Dê,  Hươu là v́ Niết Bàn vậy. Chẳng dùng Niết Bàn hợp với Dê, Hươu.

Hỏi rằng: Như vậy th́  kia lại giải thích rằng: Tri kiến tánh; cho nên Tam Muội tánh; gọi tên là Tri Kiến v.v… Lư thật Niết Bàn. Đây lại là điều ǵ vậy?

Đáp rằng:  Do giải thích câu văn sai. Hợp với xe Hươu là nói vui riêng với điều lành tịch tĩnh, sâu rơ các pháp nhơn duyên. Cùng với xe trâu nghĩa là nói cảm nhận an lạc, độ thóat trời người. Lại nói rằng: Ta dùng vô lậu căn lực, để tự vui. Lại nói rằng: Ta có xe lớn bảy báu như vậy, số nhiều vô lượng. Hăy nên cùng với tâm, mỗi mỗi cùng nhau. Chớ cho sai biệt.

Nếu là Niết Bàn, há nói vô số, mỗi mỗi cùng nhau? Nếu nói chơn như, chỉ một, mà lại nói đến bảy lọai? hoặc 10 v.v… Căn cứ vào đây có thể chứng minh được để nói rằng  có vô lượng cùng với mỗi mỗi như vậy. Điều nầy nghĩa là chẳng phải như vậy. Nói rơ ra là v́ xe. Lư lấy làm thật; cho nên nơi nầy có sai. Tổng nói là v́ lư. Nếu chỉ giữ lấy lư; tức là khuyết mất Bồ Đề. Nay  chấp vào trí. Trí đọan đầy đủ,  huống là lại như phía trước phần thứ nhất nói về cứu cánh, để được tất cả chủng trí.

Lại nói rằng: Làm cho nhập bất thối địa thị hiện cùng với vô lượng trí nghiệp.  Kinh  cũng nói: Như được pháp định huệ lực trang nghiêm nầy.  Lại nói: Giống Phật từ nhân duyên sanh khởi. Lại nói rằng:  Xe nầy là xe quư, đến thẳng đạo tràng. Lại nói rằng: Lên xe quư báu nầy đi đến bốn phương. Lại nói rằng căn lực, cùng với các pháp công đức vậy. Lại nói: Ta nay v́ ngươi tạo tác ra xe nầy. Cho nên cái lư dụ cho bảo sở. Trước sự có, không tạo ra hữu vi, tu sanh,  nói tạo tác.

Chẳng thể nói rơ hóa thành. Chỉ do lư mà nói sự tạo tác. Kia hay tạo; nên gọi là vô bảo thể. Xe trâu đồng với các con; nên xả bỏ. Nếu  chấp vào thật lư th́ chẳng nói tạo tác, rộng ra có chứng nhiều. Phàm dẫn dụ chẳng đủ; cho nên dùng sự quư báu để dụ cho lư. Xe dụ cho trí thắng.

Hỏi rằng:  Cùng Tử ấy thí dụ đối trị với hướng của tăng thượng mạn. Xe của ta và xe của Phật không có sai biệt ǵ cả. Nếu nói ta và Như Lai , xe ấy chẳng khác biệt; tức là xe nầy cùng với Như Lai tương tự. Ng̣ai ra Nhiếp Luận cũng nói: Thanh Văn làm Phật, sẽ được giống Phật. Nghĩa ấy ư vui tự thể làm sao để đối trị được?

Đáp rằng:  Có hai cách giải thích. Một là nói rằng dự tích cho chính Tiểu Thừa cùng với Như Lai để nói.  Như việc Cùng Tử để đối trị. Ta cùng Phật v.v…Lại cũng sẽ được vui; tức là phi đối trị vậy. Cách khác nói rằng: Định tánh của người, chung cuộc chẳng làm Phật được, mà hay làm cho đồng thể, ư vui. Người bất định sẽ làm Phật, dự định cùng với Phật và các chướng chẳng hồi tâm. Nói đối trị chỗ vọng, có khác biệt. Cho nên chẳng giống nhau.

Hỏi rằng: Tứ Đại Thanh Văn nói, dụ cho sự lănh hội lời dạy;  tức là v́ Vô Học.  Luận ấy v́  sao lại nói Hữu Học?

Đáp rằng:  Dụ xưa ở nhơn mê chấp làm chính.  Nay ngộ rồi,  dụ xưa nói v́ Hữu Học. Lại chính tự ḿnh giải nói dụ ấy rơ ra để nói v́ Hữu Học.  Đâu phải sai ǵ.  Chẳng phải vậy sao?  Bốn người há tự đối trị.

Hỏi rằng: Thọ kư Thanh Văn v́ vui bất định, lại hữu dư sao?

Đáp rằng: Căn cứ vào ở luận giải thông qua bất định,  ngược lại với sự biến hóa kia. Cho nên luận nói rằng: Hai lọai Thanh Văn, Như Lai đều thọ kư. Nghĩa là ứng hóa Thanh Văn. Rốt cuộc trở lại phát tâm Bồ Đề.

Hỏi rằng:  Ai là bất định và ai là biến hóa?

Đáp rằng: Luận nói về bất định. Căn cứ nơi câu văn, đầy đủ ḷng từ của con người th́ nói là biến hóa. Ng̣ai ra đa phần là bất định. Tất cả đều nói sẽ phát tâm Bồ Đề rộng lớn.

Hỏi rằng: Nếu thật dự tính cho Thanh Văn có hồi tâm để làm Phật th́ v́ sao trong kinh Duy Ma nói rằng: Thanh Văn chúng ta giống như hạt giống hư,  chẳng thể dùng lại được?  Nhập Đại Thừa Luận cùng với Bồ Đề Tư Lương Luận lại chẳng hứa khả như trong Kinh Pháp Hoa có thật Thanh Văn ấy. Tất nhiên do sự biến hóa. Cũng giống như hạt giống chưa nẩy mầm. Ư nầy không mê hoặc. Lại nữa chẳng thọ sanh th́ làm sao tu hành được ba kỳ kiếp?

Đáp rằng: Họ tất cả đều căn cứ theo sự ca tụng Đại Thừa. Có thể Tiểu Thừa chẳng cầu nói cơi ấy. Người bất định th́ chung cuộc trở về Đại(Thừa). Làm cho có căn tánh lớn, cầu nơi cơi lớn.  Chẳng phải vậy th́ kinh luận há có thể sai khác sao?  Căn cứ vào những kinh văn nầy, Pháp Hoa hội đủ; bốn lọai Thanh Văn đầu tiên đầy đủ ở hội chúng. Sau đó dừng lại ở ba. Những kẻ tăng thượng thóai lui. Chẳng nói những bậc chơn Thánh rời khỏi chỗ ngồi. Nghe kinh rồi làm cho thành thục, chẳng  ngu nơi pháp.

Trong luận giải thích ghi lại rằng: chẳng v́ thọ kư, chẳng chướng ngại chỗ ngồi. Hoặc có thể vô định tánh luận rằng: có tổn hại sự lo sợ; chẳng v́ đó mà thọ kư vậy. Căn chưa thành thục; cho nên chẳng ở lại chỗ ngồi; liền rời bỏ đi.

Hỏi rằng: Hóa thành dùng những ǵ để làm thể?

Đáp rằng: Như những sớ giải th́ có giải thích thêm rằng: vô học hậu tâm, thế gian Tam Muội nói v́ đó mà hóa thành. Như là thể của hai  xe. Dùng căn bản trí, chẳng thể giải rộng. Cho nên hậu đắc trí tạo Niết Bàn, tướng giải lấy làm cứu cánh vậy. Cho nên nói là hóa ra vậy.

Luận nói người thứ tư phương tiện, làm cho vào thành Niết Bàn. Niết Bàn thành là các thành của Thiền Tam Muội.

Hỏi rằng: Nếu như vậy th́ v́ sao có thể làm tiêu đi sự khổ được?

Đáp rằng: Ĺa chướng mà được vậy. Ra khỏi ba cơi; giống như hai xe kia. Nghĩa là họ được ra khỏi nhà. Điều nầy chẳng phải là dứt khổ sao?

Hỏi rằng: Nếu như vậy th́ hai xe như thế nào mà chẳng được giả ra hóa thành; tức là được vào?

Đáp rằng: Chẳng thể rơ biết tất cả pháp, không phải chủng trí. Cho nên chẳng được xe. V́ sao vậy?  V́ chưa ĺa tri chướng, th́ làm sao được hóa thành. Khi nào khổ tam giới hết, được giải thóat, hoặc chướng đă ĺa.

Hỏi rằng: Nếu như vậy th́ gọi Niết Bàn như thế nào?

Đáp rằng: Giả danh Niết Bàn. Phần thứ hai nói rằng: ĺa hư vọng như thế nào mới gọi là giải thóat? Điều nầy thật ra chưa được giải thóat tất cả. Lại nói rằng: lúc ấy tâm tự biết được đến Niết Bàn. Chướng tăng thượng mạn tự rơ được quả; nhưng thật ra th́ chẳng được. Điều nầy lại cũng như vậy.

Hỏi rằng:  Nếu như vậy th́ Vô Học há chẳng được Hữu Dư sao?

Đáp rằng: Như kia vô lậu trí ẩn, mà chẳng chướng. Hay nói là thế gian trí. Gọi đây là xe. Điều nầy cũng lại như vậy. Chỉ có hữu dư, chẳng phải cứu cánh. Ẩn mà chẳng chướng, làm cho chấp vào Đại(Thừa). Cho nên luận nói rằng: Làm cho vào thành Niết Bàn vậy. Thành Niết Bàn là thành của các thiền Tam Muội. Nếu như vậy tức là chỉ cho Hữu Dư, sao gọi là thành của các thiền Tam Muội? Lại như Thắng Man kinh cũng nói: Được Tứ Trí cùng với Niết Bàn, rơ biết cảnh giới  Niết Bàn gần. Rơ ràng là chẳng phải thật Niết Bàn. Nói gần đến thôi. Nếu Niết Bàn nầy th́ đă được rồi, sao gọi là gần? Thành Duy Thức Luận quyển mười nói rằng: Chẳng nói Vô Học có Niết Bàn. Điều kia có hai cách giải thích. Một là nói: hoặc ước bất định tánh, được Vô Học rồi; tức là hướng đến Đại(Thừa); chẳng nói kia được. Chính cùng với kia giống nhau. Nếu định tánh th́ người,Dê,Hươu hai xe; tức là sự sanh trí kia. Cho nên nói hóa thành; tức là Nhị(Thừa)Niết Bàn. Kia cứu cánh vậy. Chẳng phải dần hết. Chẳng vui nơi Đại(Thừa). Chẳng cùng, chẳng định.

Hỏi rằng: Như cầu ba cơi sẽ v́ thế lực nói ví dụ cho nhà lửa, làm cho xa rời cuộc đời nầy, chẳng làm cho cầu riêng; nên nói ba xe để đối trị; tức là có định nhơn. Thật chẳng phải Niết Bàn mà có tăng thượng mạn. Dùng có thế gian, tam muội, tam ma phạt đề, thật chẳng phải Niết Bàn, mà là Niết Bàn sanh tưởng.  Để đối trị với điều nầy cho nên nói thí dụ hóa thành. Nên biết rằng Hữu Học chấp thế gian tam muội, lấy đó làm Niết Bàn. Thật ra th́ chẳng phải Niết Bàn. Gọi là tăng thượng mạn. Nay nói thế gian tam muội gọi là hóa thành. Giống như nhà lửa làm cho lo sợ chẳng giữ lại. Như vậy th́ được cái ǵ để nói người thứ tư phương tiện, làm cho vào thành Niết Bàn? Nếu như chấp vào thế gian tam muội; gọi là Niết Bàn th́ há chẳng tăng lên sự chấp kia sao? Lại nữa chẳng rơ hóa ấy cầu nhập vào thành kia, liền nói là hóa. Sao lại nghỉ,mong sau mới hướng tới Đại(Thừa)?

Đáp rằng: Chính là Vô Học bàn về việc xưa. Quyền ấy làm cho dừng lại. Căn bản là muốn dần dừng nơi không, để hướng đến Đại(Thừa). Nay lại thêm nghĩa đối trị với Hữu Học. Người bất định hay sâu hướng đến Đại(Thừa). Người có định chấp kia Vô Học, chứng được Niết Bàn, sẽ làm cứu cánh, tác ư vui mừng. Nay Phật nói kia chẳng phải thật diệt, giống như hóa thành. Cho nên xưa nay nói là Niết Bàn. Do ta phương tiện làm kẻ thối tâm giả vào thành Niết Bàn, khiến cho liền đỡ mệt. Sau khi qua khỏi thành nầy rồi, làm cho vào thành Đại Niết Bàn, là chỗ trân quư. Làm cho kẻ Hữu Học rơ biết xả điều nầy để cầu Đại(Niết Bàn). V́ để đối trị; nên tạo ra hóa thành, mà đối trị kia lại không, th́ điều nầy tức là  làm cho 4 người, tạo ra hóa thành để cầu nhập vào, như câu văn đă giải thích. Cùng với lư chẳng sai.  Kẻ ngu thấy mà vui, lại c̣n lấy vui mà giải thích.

Hỏi rằng: mười vô thượng, chính là nói về cái ǵ vậy ?

Đáp rằng: Chính là Thanh Văn bất định tánh vậy. Luận nói rằng: Thị hiện chủng tử vô thượng cho nên nói hai thí dụ.  Các ngươi chỗ hành là con đường Bồ Tát. Nghĩa là phát tâm Bồ Đề xong rồi trở lại trước, chỗ tu hành căn lành chẳng mất là cái nhơn của kia là hậu đắc quả. Ư ấy nói  Nhị Thừa trong thân có chủng tử của Bồ Tát, thường hay trở lại tu hành đều được làm Phật. Sự phát tâm ấy làm cho kiên cố. Kẻ chưa phát tâm làm cho cửa vô thượng lại phát tâm. Lại nói thối lui rồi trở lại phát tâm như trước chỗ tu hành, căn lành chẳng mất, cùng sau đó được quả. Rơ ràng là bất định.

Hỏi rằng: Nếu mà như vậy th́ tại sao  mười lọai vô thượng chẳng đều ở tại chánh tông?

Đáp rằng: Chẳng riêng để hiển lư Nhứt Thừa,  mà tán thán khuyến khích ǵn giữ.  Cho nên thông qua hai phần và lược bớt đại cương. Ng̣ai ra chẳng thuật lại nhiều.

Hỏi rằng: Mười vô thượng nầy có lần lượt chăng?

Đáp rằng: Dùng nghĩa để căn cứ, làm cho khuyến phát tâm, đầy đủ lực của nhơn và nói điều nầy gặp được cái nhơn lớn vậy. Làm cho thuận theo đó mà tu hành, sẽ được Phật quả. Cho nên nói là chủng tử vô thượng. Tức là làm rơ để nói các ngươi chỗ hành là con đường Bồ Tát thiện lương. Làm rơ khi xưa phát tâm căn lành chẳng mất. Khiến cho nghe phật pháp, trở lại giống như làm cái nhơn, sau đó được quả vậy. Nói đây là hữu thắng nhơn. Qua thời gian dài, là cái nhơn tu vô thượng, rồi mới đắc quả. Nói như Đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai đă được Bồ Đề giống như trải qua trong 10 kiếp. Hiển quả thắng thượng, tu nhơn vô thượng.

Thứ đến nói về tu hành vô thượng. Tu hành vô thượng nghĩa là cần thực hành Đại Hạnh. V́ sao ở giữa lănh thọ việc nhỏ?  Hằng v́ xưa nay từng phát tâm lớn; giữa chừng thối lui; chẳng thể mau thành. Quyền thí phương tiện, làm cho dứt khổ đi, sau đó tiến lên Đại; cho nên nói là tăng trưởng công đức lực vô thượng.  Rơ biết xưa nay những ǵ từng phát tâm lớn. Nói về châu báu dụ cho sự lănh giải nầy. Cho nên lần lượt làm cho rơ biết vô thượng. C̣n biết lâu nay lâu dài tu hành là cái nhơn của Đại.  Hay v́ sợ Đại; cho nên giữa đường thối lui. Nay có thể nhớ nghĩ lại rơ biết tu hành. Như các vị Bồ Tát sẽ được Tịnh Độ; cho nên lần lượt nói về thanh tịnh quốc độ. Vô thượng rơ biết, liền tăng sâu sự nghe biết để giải thóat. Do vậy lần lượt nói về vô thượng, khai mở vô thượng sự chỉ bày, trong nhiều kiếp hành nhơn, tất cả đều thành người tuyệt diệu. Cho nên lần lượt nói về sự giáo hóa chúng sanh. Vô thượng thắng nhơn tức là tích chứa, sẽ được thắng quả. Chẳng hề giống với Nhị Thừa. Cho nên lần lượt nói thành Đại Bồ Đề vô thượng chứng quả. Tuy phải chứng, diệt mà có thể trong hiện tại làm lợi sanh. Pháp, Báo thân tuy vẫn thường tại. Hóa thân ứng vật chẳng nhất định. Tuy diệt mà chẳng diệt. Tuy sanh mà chẳng sanh. Cho nên lần lượt nói Niết Bàn vô thượng. Chỗ nói ấy liền làm cho rộng răi, lợi ích vô biên. Khởi lên ḷng tin, cúng dường, nghe pháp, ǵn giữ, tán thán, được vô biên phước đức. Hiện nơi thần lực, đưa kia vào chỗ thắng hạnh và người, pháp đều chứng.

Lại nữa do hành nhơn sâu xa có thể hóa,  có thể thọ.  Bậc Thánh xa đến, vui mừng liền nghe kinh.  Như Lai xoa đầu, từ bi tán thán ba lần, làm rơ  việc vui nầy. Muốn được lưu thông; cho nên lần lượt nói thắng diệu lực vô thượng.  Các Tông đều giải thích, mà sự khác nhau lại vô cùng.  Kinh luận ra đời nhiều cửa ngơ. Ở trong ấy nên rơ thấy vô lượng. Lược nói nguyên nhơn để giảng lần lượt. Nhận nghe lời thuật ít nhiều, nhiều vị chưa rơ th́ nên nghe nhiều, để thêm vào cho đầy đủ.

Pháp Hoa Huyền Tán Nghĩa xong.

Dịch xong Pháp Hoa Huyền Tán Nghĩa nầy vào ngày 20 tháng tư âm lịch năm Quư Tỵ, nhằm ngày 29 tháng 5 năm 2013 tại thư pḥng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc, kỷ niệm đúng 50 năm ngày Bồ Tát Thích Quảng Đức tự thiêu vào mùa Phật Đản năm 1963 tại ngă tư Phan Đ́nh Phùng – Lê Văn Duyệt - Sài G̣n. Ngài đă để lại cho hậu thế một quả tim bất diệt.

Năm nay trong mùa An Cư Kiết Hạ, mỗi tối vào lúc 20 giờ đến 21 giờ 45 phút  Đại chúng chùa Viên Giác tại  Hannover  Đức Quốc đă lạy kinh Đại Bát Niết Bàn đến  quyển II mỗi chữ mỗi lạy; đến phẩm Sư Tử Hống trang 303. Mỗi  đêm thường lạy được 300 đến 350 lạy. Kể từ năm 1984 đến nay(2013) là năm thứ 30;  năm nào chùa Viên Giác cũng lạy kinh bộ và mỗi chữ mỗi lạy như vậy. Ví dụ như Kinh: Ngũ Bách Danh, Tam Thiên Phật Danh,  Kinh Vạn Phật , Kinh Pháp Hoa, Kinh Đại Bát Niết Bàn. Đây là một công đức thật là bất khả tư ngh́ mà cá nhân chúng tôi cũng như Đại Chúng đă thể hiện việc hành tŕ của ḿnh trong những mùa An Cư Kiết Hạ như vậy.

Thích  Như Điển – Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc cung kính ghi lại những việc tu học tại đây trong suốt 30 năm như vậy để đời sau lấy đó làm niềm tin.

 

 

back_to_top.png

 

 

[ TRANG CHỦ | KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

 

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0