* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ | KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ |HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

Số 1672

Long Thọ Bồ Tát V́ Vua Thiền Đà Ca

Thuyết Pháp Những Bài kệ Quan Trọng 

- Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 thuộc Luận tập bộ toàn.

- Thứ tự Kinh văn số 1672 (1673, 1674).

- Đời Tống, nước Kế Tân, Ngài Tam Tạng Cầu Na Bạt Ma dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán.

- Sa Môn Thích Như Điển, Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover, Đức quốc, dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt nhân ngày khai mạc Khóa Tu Học Phật Pháp Âu Châu kỳ thứ 19 tại Göterborg Thụy Điển ngày 27 tháng 7 năm 2007.

Vua Thiền Đà Ca nên rơ biết

Sanh tử khổ năo nhiều lắm việc

Tất v́ vô minh che chướng ngại

Ta muốn v́ kia làm lợi ích

Giống như khắc họa tạo tượng Phật

Rơ biết thấy nghe nên cung kính

Ta nương Như Lai nói chánh pháp

Đại Vương cũng nên tín, thọ sâu

Ngươi tuy trước nghe Đức Phật nói

Nay làm cho nghe, thọ phân biệt

Giống như ao hoa màu thanh tịnh

Sáng trăng chiếu tỏ sáng lấp lánh

Phật nói sáu niệm nên tu tập

Đó là Tam Bảo thí giới thiên

Tu hành thập thiện tịnh tam nghiệp

Ĺa rượu, buông lung và tà mệnh

Quán thân mệnh, tài rời nguy hiểm

Nên thí phước điền cứu nghèo nàn

Thí như ngục chắc khó sánh bằng

Tối vi đệ nhất, kẻ gần gũi

Khuyến tu tịnh giới trừ cấu uế

Lại chẳng sợ cầu nguyện các việc

Giống như đất rộng trồng nhiều cây

Giới lại như thế sanh điều lành

Tu nhẫn nhu ḥa xả sân nhuế

Phật nói việc nầy rốt trên hết

Như vậy tinh tấn và thiền trí

Đầy sáu hạnh nầy vượt sanh tử

Nếu ở tại nhà hiếu mẹ cha

Đây chính là chỗ thắng phước điền

Hiện đời lưu bố, tên gọi lớn

Vị lai phước báo thành vô lượng

Sát, đạo, dâm, dối, vui cùng rượu

Giường tốt cao rộng và hương thơm

Ca hát xướng lỵ, ăn phi thời

Như vui việc xấu, nên xa ĺa

Nếu ít thời gian, tu giới nầy

Tất thọ vui trời vào Niết Bàn

Ngu si tham dục cùng xiểm ngụy

Cuồng loạn điên đảo và giải đăi

Như những ác nầy, chẳng pháp lành

Đại vương nên quán, xa ĺa chúng

Đoan chánh tôn trọng cùng ngũ dục

Nên biết nguy khốn như bọt nước

Chưa cùng niềm vui, chẳng pháp chắc

Buông lung, tự ḿnh sanh các khổ

Muốn thành căn lành chứng cam lồ

Nên ĺa xa đây như ĺa độc

Lại hay siêng năng, xả kiêu mạn

Giống như không mây, trăng thu sáng

Giống như tay chỉ cùng Nan Đà

Giống như cùng với Thánh Ma Hiền

Như Lai nói có ba loại lời

Vào ư chơn thật, hư, vọng, ngôn

Nhập ư như hoa thật, như mật

Hư vọng xấu kia như phẩn dơ

Nên phải tu tập hai lời trước

Xa ĺa dứt hết việc hư vọng

Từ sáng vào sáng bốn loại pháp

Vua đang phân biệt cùng suy nghĩ

Hai loại vào sáng chính nên tu

Nếu đều si tối nên sớm bỏ

Quả xoài kia biến thành bốn loại

Con người khó phân cũng như thế

Nên dùng trí tuệ sâu quan sát

Nếu là người lành, nên thân cận

Chỉ thấy ngưởi nữ phải đoan chánh

Nên nghĩ như mê, chị suy tưởng

Phải nghĩ tham dục, tâm ch́m ái

Nên rơ phải tu bất tịnh quán

Tâm nầy thao tháo nên ngăn ngừa

Như giữ thân ḿnh và của quư

Nếu tâm cùng khởi, nên sợ hăi

Như sợ đao kiếm của ác thú

Dục ấy chẳng lợi như oán độc

Đây chính là lời Như Lai nói

Sanh tử luân hồi ràng buộc ngục

Nên rơ khuyên tu cầu giải thoát

Lục nhập thao tháo đọa các cảnh

Nên phải giữ ǵn chớ buông lung

Nếu mà như thế giữ các căn

Hơn cả tướng hùng đối địch mạnh

Thân nầy bất tịnh chín lỗ chảy

Chẳng có chỗ cùng như biển sông

Chỉ lớp da che như sạch sẽ

Giống như Anh Lạc tự che thân

Các bậc trí giả hay phân biệt

Trí nầy, hư ấy liền xả bỏ

Giống như ghẻ lở gần lửa đốt

Đầu tuy giảm nhẹ, sau tăng khổ

Nghĩ đến tham dục cũng như vậy

Đầu tuy vui đấy, cuối nhiều lo

Thấy thân tướng thật đều bất tịnh

Liền đó quán về không, vô ngă

Nếu hay tu tập quán như thế

Nơi ấy lợi ích khó nghĩ lường

Chỉ có h́nh tướng cùng nghe nhiều

Nếu chẳng giới, trí như cầm thú

Tuy chỗ xấu hèn ít nghe thấy

Hay tu giới, trí, tên cao cả

Lợi suy tám pháp ít hay khởi

Nếu có, đoạn trừ, thật chẳng lành

Hỡi các Sa Môn, Bà La Môn

Cha mẹ, vợ con cùng quyến thuộc

Lại v́ ư kia, giữ lời nầy

Rộng tạo chẳnh lành, chẳng pháp hành

Tạo nên những việc, khởi điều sai

Tương lai khổ lớn thân nầy chịu

Phàm tạo điều xấu, không báo liền

Chẳng như đao kiếm gây thương tật

Lâm chung các tướng thảy hiện ra

Sau vào địa ngục đều thấy khổ

Tín, giới, thí, nghe, huệ, tàm, quư

Như thế bảy pháp gọi Thánh Tài

Chân thật chẳng sánh, Như Lai nói

Qua khỏi thế gian, đều trân quư

Đại Vương nếu gom thắng tài nầy

Chẳng mất quả vị nơi đạo tràng

Rộng lo, uống say, thích cầm sắc

Giải đăi, kiêu mạn cùng bạn ác

Phi thời, khinh xuất, nhiều động loạn

Như lo bảy pháp sẽ xa ĺa

Tri túc đệ nhất hơn tất cả

Như đây lời ấy, Thế Tôn nói

Tri túc tuy nghèo; nhưng lại giàu

Có tiền muốn nhiều, gọi là nghèo

Nếu có tiền nhiều, tăng nghiệp khổ

Như rồng nhiều đầu, tạo nhiều độc

Hăy quán mùi thơm như thuốc độc

Dùng nước trí huệ, làm cho sạch

V́ giữ thân nầy nên cần ăn

Chớ tham sắc, vị sâu kiêu mạn

Nơi các dục nhiễm nên sanh chán

Siêng cầu vô thượng đạo Niết Bàn

Điều ḥa thân nầy làm an ổn

Sau đó nên siêng tu trai giới

Một đêm phân biệt có năm thời

Ở nơi thời khuya nên ngủ nghỉ

Đầu, giữa, sau đêm quán sanh tử

Hăy nên mong qua, chớ bỏ trống

Tứ vô lượng định, nên tu tập

Tên gọi đây là Phạm Thiên Đạo

Nếu chuyên trói vào tâm Tứ Thiền

Mệnh chung liền sanh cơi trời kia

Đấy là di chuyển, đều vô thường

Khổ không bại hoại, chẳng kiên cố

Vô ngă, vô lạc, chẳng thanh tịnh

Như thế đều gọi: đối trị pháp

Nếu hay quán sâu pháp môn nầy

Vị lai thường ở chỗ tôn quư

Tu hành ngũ giới, đoạn ngũ tà

Đây chính Đại Vương phải nên nhớ

Giống như hạt muối ném vào biển

Chẳng làm cho nước thêm vị mặn

Những ác nhỏ ấy gặp điều lành

Tiêu tan mất hết cũng như thế

Ngũ tà nếu tăng nhiều công đức

Vua nên trừ diệt đừng cho sanh

Ḷng tin, ngũ căn là gốc lành

Đây nên tu tập làm tăng trưởng

Tám khổ ấy sanh, hay thiêu đốt

Thường lấy nước huệ, rưới cho tiêu

Muốn cầu Thiên lạc và Niết Bàn

Nên siêng tu tập, chánh tri kiến

Chỉ có người trí, vào đường tà

Vi diệu công đức, quyết chẳng sai

Bốn loại điên đảo, hại điều lành

Cho nên phải quán, đừng cho sanh

Nghĩa sắc, chẳng ngă, ngă chẳng sắc

Trong ngă, không sắc, sắc không ngă

Nơi sắc sanh ra bốn loại tâm

Chính đó cùng ấm đều như thế

Đây chính hai mươi tâm điên đảo

Nếu hay trừ đoạn, ấy tối thượng

Pháp chẳng tự khởi, tối lúc đầu

Chẳng tự tại tạo cùng thời gian

Đều từ vô minh, ái nghiệp khởi

Nếu không nhơn duyên, chẳng đoạn trừ

Đại Vương nên rơ những nhơn nầy

Đèn huệ chiếu phá những tối tăm

Thân kiến, giới thủ và nghi kết

Ba nầy hay chướng đường vô lậu

Vua nếu hủy hoại, làm tiêu diệt

Thánh giải thoát pháp sẽ hiển hiện

Giống như người mù hỏi tướng nước

Trăm ngàn muôn kiếp khó giải rơ

Muốn cầu Niết Bàn lại cũng thế

Chỉ riêng siêng năng, sau mới chứng

Muốn cùng quyến thuộc và tri thức

Để được việc ấy thật khó khăn

Cho nên Đại Vương nên siêng năng

Sau đó mới được chứng tịch tịnh

Thí, giới, đa văn và Thiền định

Đây chính là gần được bốn chơn lư

Người chủ nên tu huệ sáng suốt

Làm cho ba pháp cầu giải thoát

Nếu hay tu được tối thượng thừa

Tức nhiếp các căn, tất cả lành

Đại Vương nên quán, thân niệm xứ

Thế Tôn nói đây: Thanh Tịnh đạo

Nếu không niệm nầy, tăng ác giác

Cho nên phải biết siêng tu tập

Đời người ngắn ngủi, chẳng dài lâu

Như bọt nước kia mau mất đi

Thở ra thở vào lúc ngủ nghỉ

Niệm niệm luôn luôn hay suy giảm

Chẳng bền liền thấy được suy tàn

Da thịt, xấu hôi thật quá xấu

Tái xanh, trương śnh, máu đờm chảy

Trùng kiến đục khoét nơi cổ họng

Tóc, lông, móng, răng đều ră rời

Gió thổi, nóng đốt làm khô hết

Nên rơ thân nầy chẳng vững chắc

Vô lượng các khổ hay tích tụ

Cho nên hiền thánh, các bậc trí

Đều quán xem đây, liền thí xả

Tu Di, biển lớn cùng sông biển

Bảy mặt trời chiếu đều khô ráo

Như đây bền chắc sẽ tiêu hủy

Huống là khổ ách nơi thân kia

Vô thường cho đến chẳng cứu hộ

Chẳng thể gần gũi, chẳng thể cầu

Cho nên Đại Vương phải thấy Đế

Xa sanh, ĺa khỏi, cầu pháp lành

Thân người khó được, pháp khó nghe

Giống như rùa mù gặp bộng cây

Liền được tự vui nơi thân ấy

Phải nên sanh tâm, nghe chánh pháp

Được thân tốt rồi, tạo việc ác

Giống như b́nh tốt chứa đồ độc

Sanh vào giữa nước gặp bạn lành

Chuyên niệm, phát tâm khởi chánh nguyện

Trồng sâu công đức các căn lành

Vua làm đầy đủ điều lành nầy

Lại hay gần gũi thấy biết người

Phật nói đây là: Tịnh Phạm hạnh

Cho nên phải vui mà tùy thuận

Chư Phật do đây chứng Niết Bàn

Liền gặp vi diệu pháp thanh tịnh

Nên phải nguyện cầu ĺa đường muốn

Sanh tử hiểm nạn, khổ vô lượng

Cùng kiếp nói măi không cùng tận

Ta nay v́ Vua lược phân biệt

Phải nên lắng nghe và suy nghĩ

Tam giới chuyển biến không ngừng nghỉ

Cha mẹ, vợ con là nguyên nhơn

Oán thân, thương ghét chỗ vô thường

Như bánh xe lửa há dừng nghỉ

Vô thỉ, sanh tử từ thế giới

Nước uống, sữa mẹ như biển lớn

Nếu chẳng siêng năng chứng không trí

Tương lai lại uống vô cùng tận

Lưu chuyển năm đường, qua trời người

Nếu chất thân cốt, cao Tu Di

Thương xa, sầu năo bao nước mắt

Chẳng có sông nào chứa hết cả

Nếu tính mỗi người là cha mẹ

Nhiều hơn cỏ cây trong thế gian

Như thọ ngũ dục, vui cơi trời

Rốt rồi đọa lại vào chốn khổ

Chư Thiên đời sống thật dài lâu

Thời gian vui ấy khó nói cùng

Ca hát múa xướng, âm thanh hay

Âm buồn ḥa với chổ sâu xa

Vui với sắc đẹp, cực đoan nghiêm

Vây quanh gần gũi tướng vui ấy

Trăm vị ăn uống đều đầy đủ

Tùy ư chỗ muốn tự nhiên đến

Ao báu, hương thơm, nước tràn đầy

Chung quanh chứa đầy những hoa đẹp

Chim quư sắc màu đậu ở trên

Tiếng buồn cùng hót, giọng bay xa

Chư Thiên vui vẻ bên trong ngoài

Như thế vui đùa chẳng nói hết

Phước hết, lâm chung, ngũ suy hiện

Lúc ấy ngồi khổ, giống vui trước

Đây chỉ có vui cùng Thiên nữ

Người trí thấy rồi liền sanh chán

Tuy ở chỗ quư, thường hay quán

Lại cũng đọa vào chỗ hôi thối

Tuy đến vườn Nan Đà cơi Trời

Liền gặp vào nơi rừng kiếm ấy

Tuy ở ao Mạn Đà cơi Trời

Rốt đọa vào ngục nước than nóng

Tuy cũng ở ngôi vua chuyển luân

Trở lại lúc nhỏ bị cực khổ

Tuy thọ Phạm Thiên, ĺa vui dục

Lại vào vô gián, khổ thiêu đốt

Tuy ở thiên cung đầy ánh sáng

Sau vào địa ngục, tối vô cùng

Đó là Hắc Thằng Hoạt địa ngục

Thiêu đốt, cắt xén cùng vô gián

Đây tám địa ngục thường đốt cháy

Đây chính báo nghiệp ác chúng sanh

Hoặc thọ khổ lớn nơi vạc dầu

Hoặc thân chặt ra từng mảnh vụn

Hoặc cắt tay chân thành từng mảnh

Hoặc lại cắt nhỏ rồi thiêu đốt

Hoặc lấy nước đồng đổ vào miệng

Hoặc lấy ḥn sắt lăn quanh ḿnh

Chó sắt cùng đến liền ăn thịt

Chim sắt cùng đến mổ thịt ăn

Các loại trùng độc đều tụ tập

Hoặc nơi cột cháy, thân bám chặt

Lửa lớn đốt cháy toàn ra nước

Tội báo duyên ấy chẳng chạy trốn

Nuớc sôi tự động phun lên cao

Điên đảo tội nhơn bị ném vào

Con người nguy hiểm khó chạy trốn

Giống như hơi thở của cơi Trời

Nếu người nơi đây mạng thật ngắn

Nghe rồi các khổ chẳng sợ hăi

Phải biết tâm nầy thật cứng cỏi

Giống như Kim Cang chẳng hoại được

Nếu thấy h́nh họa, nghe tiếng kia

Hoặc theo sách kinh tự nhớ nghĩ

Như thế rơ biết, thật khó nhẫn

Huống nữa thân nầy tự trải qua

Vô gián, chẳng cầu đại địa ngục

Trong ấy các khổ khó cùng tận

Nếu lại có người ở một ngày

Ba trăm lần va vào xương cốt

Sanh một niệm khổ ngục A Tỳ

Trăm ngàn vạn phần chẳng sánh một

Thọ khổ lớn nầy qua một kiếp

Tội nghiệp, duyên hết, sau mới miễn

Như thế khổ năo từ đâu sanh

Đều do ba nghiệp bất thiện khởi

Đại Vương nay tuy chẳng vui say

Nếu chẳng tu nhơn, rốt đọa lạc

Nơi cảnh súc sanh, khổ vô lượng

Hoặc bị trói buộc cùng đánh đập

Chẳng có tín, giới cùng đa văn

Hằng bị tâm ác với tướng ăn

Hoặc v́ minh châu, lông, sừng, răng

Xương, lông, da, thịt gây tổn hại

V́ người lên xe, chẳng tự tại

Hằng thọ bát đá, dao, gậy khổ

Ngạ quỷ đạo tuy khổ như thế

Những việc ham muốn chẳng tùy ư

Đói khát bức bách, khổ, lạnh nóng

Mệt đói khổ sở nhiều vô lượng

Bụng lớn như núi, cổ như kim

Tiểu giải, máu mủ chẳng thể nói

Thân trần, tóc tai đều xấu tệ

Như cây đa la bị thiêu đốt

Miệng ấy hằng đêm lửa thiêu lớn

Các trùng tranh nhau cấu xé ăn

Tiểu giải phẩn uế cùng bất tịnh

Trăm ngàn vạn kiếp chẳng thể được

Lại muốn chỉ cầu một phần nhỏ

Liền bị cướp mất,t́m chỗ mất

Trăng thu sáng tỏ, sợ thiêu đốt

Ngày xuân đói khát, chuyển lạnh khổ

Nếu nơi vườn cây các quả hết

Cho đến sạch hết biến khô queo

Tội nghiệp nương vào, thọ trường viễn

Trải qua một vạn năm ngàn tuổi

Thọ những độc hại, không không thiếu

Tất cả quả của báo ngạ quỷ

Chánh Giác nói nhơn vui, khổ năo

Tên gọi Xiểm tham, nghiệp tật đố

Nếu trời phước hết, thiện c̣n thừa

Đây nhơn sanh người, được làm vua

Sau v́ lười biếng phước đều hết

Tất đọa ba ác chẳng nghi ngờ

Hoặc sanh Tu La khởi cống cao

Nhuế tật, tham hại tăng các khổ

Chư thiên tuy có các căn lành

Chỉ v́ hiềm tật mất lợi lạc

Cho nên phải rơ tật đố kết

V́ ch́m ác pháp, nên xả bỏ

Đại vương ngươi nay thật rơ đủ

Sanh tử quá ác, nhiều việc khổ

Nên phải siêng tu, lành xuất thế

Như khát, nhớ uống, cứu đầu cháy

Nếu thân tinh tấn đoạn các hữu

Ở nơi các thiện, tối vô thượng

Nên siêng tŕ giới, tập thiền trí

Điều phục tâm nầy cầu Niết Bàn

Niết Bàn vi diệu, tuyệt các tướng

Vô sanh lăo tử cùng ai năo

Lại không sông núi cùng trời trăng

Cho nên phải rơ, xa chứng biết

Nếu muốn chứng ở Vô Sư Trí

Phải biết chuyên tu Thất Giác Chi

Nếu có lên thuyền vui giác gộ

Sanh tử biển lớn, dễ qua bờ

Phật đă chẳng nói mười bốn pháp

Ngăn sanh tín tâm cùng nghi hoặc

Chỉ nên chánh tâm, siêng tinh tấn

Quyết định tu tập các thiện pháp

Vô minh duyên hành, thức, danh sắc

Lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu

Hữu tức duyên sanh, sanh duyên tử

Nếu hết sanh tử, nhơn duyên diệt

Như thế chánh quán mười hai duyên

Người nầy liền thấy Thánh Sư Tử

Nếu muốn lần lượt thấy Tứ Đế

Nên siêng tu tập Bát Chánh Đạo

Tuy ở cao cả nơi ngũ dục

Lại được Thánh đạo, dứt các kết

Quả nầy chẳng thể cầu ngoài người

Tất tự tâm gặp và chứng đắc

Ta nói các khổ cùng Niết Bàn

Muốn v́ lợi ích cho Đại Vương

Chẳng nên sanh nơi tâm sợ hăi

Thường siêng tụng tập, làm việc lành

Tâm v́ các pháp làm căn bản

Nếu trước điều phục các việc vui

Ta nói pháp căn bản phân biệt

Vua chẳng nên sanh tâm đầy đủ

Nếu có trí lớn liền diễn đạt

Lại nên chí tâm siêng nghe, thọ

Vua nay gọi là Đại Pháp khí

Nếu rộng nghe pháp tất ích nhiều

Nếu thấy liền tu ba thiện nghiệp

Nên sâu, giúp tâm sanh tùy hỷ

Từ đó làm lành và tùy hỷ

Như thế công đức liền hồi hướng

Vua nên ngưỡng vọng bậc Thánh Hiền

Như Quan Âm đă độ chúng sanh

Vị lai chắc chắn thành chánh giác

Nước chẳng sanh già, ba độc hại

Đại Vương nếu tu việc lành trên

Tức tên gọi đẹp rộng lan truyền

Sau nầy lấy đó giáo hóa người

Làm cho tất cả thành chánh giác

Phiền năo sông mê, chúng sanh trôi

V́ sâu giận dữ, thiêu đốt khổ

Muốn diệt như thế các trần lao

Nên tu chơn thật, giải thoát đế

Ĺa những thế gian, pháp giả danh

Liền được thanh tịnh, bất động xứ

Nếu có người nữ, tâm muốn hoại

Như đây, nữ ấy liền xa ĺa

Làm cho trinh ḥa, kính ái chồng

Khiêm cung tinh tấn như kẻ ở

Hằng v́ thân cận tưởng như mẹ

Đây nên tôn kính như Thần nhà

Chỗ ta thuyết pháp, đúng như vậy

Vua nên ngày đêm siêng tu hành.

Long Thọ Bồ Tát v́ vua Thiền Đà Ca thuyết pháp yếu kệ

hết

                           

 Dịch xong ngày 28 tháng 7 năm 2007 tại Thụy Điển

 

 

back_to_top.png

 

 

[ TRANG CHỦ | KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ |HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0