佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

Đầu Trang | 01 | 02 | 03 | 04 | 05| 06 | 07 | 08 | 09 | 10

TỲ  NẠI  DA

Hán Dịch: Đời Diêu Tần Sa Môn Trúc Phật Niệm

Việt Dịch:  Thích Tâm Tịnh

 Chứng nghĩa: Tỳ kheo Thích Đỗng Minh,

--- o0o ---

Quyển thứ mười 

Phật ở vườn Kỳ-thọ Cấp Cô Độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vào sáng sớm, nhóm sáu Tỳ-kheo đến nhà đă thỉnh Phật và chúng Tăng ngồi đùa giỡn với trẻ con.

Lúc ấy trời rất nóng, vợ trưởng giả muốn cởi bớt y phục để làm thức ăn cho chúng Tăng nhưng xấu hổ với nhóm sáu Tỳ-kheo.

Thấy vậy, các trưởng giả nói với nhau:

- Sa-môn Thích tử này không có điều ǵ cấm kỵ cả. Chúng Tăng chưa đến mà đă đến trước, làm trở ngại việc làm thức ăn của người.

Nghe vậy, Tỳ-kheo mười hai pháp đến bạch Thế Tôn. Thế Tôn bảo:

- Có gia đ́nh thỉnh ăn sáng hoặc ăn ngọ, Tỳ-kheo nào đến ngồi ở nhà ấy trước đại chúng để đùa giỡn với trẻ em th́ phạm tội đọa.

Phật ở vườn Kỳ-thọ Cấp Cô Độc, thuộc nước Xá-vệ.

Nhóm sáu Tỳ-kheo tự ỷ thuộc ḍng dơi nhà vua nên vào cung khi gà chưa gáy. Thấy vậy, các trưởng giả nói với nhau:

- Sa-môn Thích tử này tự ỷ thuộc ḍng dơi nhà vua nên vào cung khi gà chưa gáy.

Nghe vậy, Tỳ-kheo mười hai pháp đến bạch Thế Tôn. Thế Tôn bảo:

- Tỳ-kheo nào khi trời chưa sáng, của báu chưa được đem cất, vua chưa mặc y phục mà bước qua ngưỡng cửa thành - trừ khi bị quan gọi gấp - th́ phạm tội đọa.

Có mười lư do không nên vào cung vua:

- Nếu Tỳ-kheo vào cung vua, đệ nhất phu nhân bước ra mỉm cười, đảnh lễ Sa-môn, Tỳ-kheo cũng mỉm cười đáp lại. Vua thấy liền sanh ác ư, nghĩ rằng: “Sa-môn này tư thông với vợ ḿnh”. Đó là lư do đầu tiên của việc Tỳ-kheo không nên vào cung vua.

- Hoặc có lúc vua cùng phu nhân ngủ chung, sau đó quên là đă ngủ chung mà phu nhân có thai. Tỳ-kheo vào cung, vua liền sanh ác tâm, nghĩ rằng: “Sa-môn này thường vào cung, chắc là đă tư thông với vợ ta”. Đó là lư do thứ hai của việc Tỳ-kheo không nên vào cung vua.

- Hoặc có lúc cung vua mất châu báu, thấy Tỳ-kheo vào cung, vua liền sanh ác tâm, nghĩ rằng: “Sa-môn này thường vào cung, chắc là đă ăn trộm châu báu mang đi”. Đó là lư do thứ ba của việc Tỳ-kheo không nên vào cung vua.

- Hoặc có lúc vua bàn luận định giết thái tử và những người thân. Vua chưa ra sắc lệnh th́ sự việc bị tiết lộ. Tỳ-kheo vào cung, vua liền sanh ác niệm, nghĩ rằng: “Không c̣n ai khác, chính Tỳ-kheo đă tiết lộ việc này”. Đó là lư do thứ tư Tỳ-kheo không nên vào cung vua.

- Hoặc có lúc thái tử mưu tính giết vua. Tỳ-kheo vào cung ngồi nói chuyện với thái tử, vua liền sanh ác niệm, nghĩ rằng: “Tỳ-kheo này thường đến chỗ thái tử, chắc là đồng mưu với thái tử”. Đó là lư do thứ năm Tỳ-kheo không nên vào cung vua.

- Hoặc có lúc vua muốn giết đại thần. Vua chưa có sắc lệnh mà đă bị tiết lộ ra ngoài. Tỳ-kheo vào cung, vua liền sanh ác niệm, nghĩ rằng: “Không c̣n ai khác, chắc chắn Tỳ-kheo ấy đă tiết lộ việc này”. Đó là lư do thứ sáu Tỳ-kheo không nên vào cung vua.

- Hoặc có lúc vua muốn đưa người hạ tiện lên làm đại thần. Vua chưa có sắc lệnh th́ tiếng đồn đă vang ra ngoài. Tỳ-kheo vào cung vua, vua liền sanh ác niệm, nghĩ rằng: “Tỳ-kheo ấy đă tiết lộ việc này”. Đó là lư do thứ bảy Tỳ-kheo không nên vào cung vua.

- Hoặc có lúc vua muốn công phạt nước khác. Phi nhân, Dược-xoa truyền tin ấy đi. Tỳ-kheo vào cung, vua liền sanh ác niệm: “Chắc chắn Tỳ-kheo tiết lộ tin này”. Đó là lư do thứ tám Tỳ-kheo không nên vào cung vua.

- Hoặc có lúc vua và đại thần không thích gặp Tỳ-kheo, Tỳ-kheo vào cung, đại thần không thích gặp. Đó là lư do thứ chín Tỳ-kheo không được vào cung vua.

- Hoặc là Tỳ-kheo thường vào cung vua, bị giữ ở lại đêm trong ấy, trở ngại không thể ngồi thiền, tụng kinh, giảng dạy. Đó là lư do thứ mười Tỳ-kheo không nên vào cung vua.

Phật ở vườn Kỳ-thọ Cấp Cô Độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vào ngày mười lăm, kiền chùy được đánh để tập hợp chúng Tăng thuyết giới. Lúc ấy Tỳ-kheo Xiển-nộ nói rằng:

  - Các giới luật ấy tôi đă thông thuộc hết”, và các Tỳ-kheo cho là Tỳ-kheo Xiển-nộ đă thông thuộc. Các Tỳ-kheo đến bạch Thế Tôn. Thế Tôn bảo:

- Khi thuyết giới, Tỳ-kheo nào nói rằng: “Tôi đă biết pháp này, việc ǵ cứ nửa tháng lại phải đến thuyết giới. Tôi đă hiểu pháp ấy”. Các Tỳ-kheo cho rằng Tỳ-kheo ấy thường xuyên đến nghe, đă từng nghe giới này, hoặc đă nghe ở nhiều nơi khác. Tỳ-kheo nào như vậy th́ phải nên sám hối như pháp và dạy bảo họ phải chuyên chú nghe giới. Tỳ-kheo nào không hiểu mà nói hiểu th́ phạm tội đọa.

Phật ở vườn Kỳ-thọ Cấp Cô Độc, thuộc nước Xá-vệ.

Các Tỳ-kheo lấy ngà voi, xương, sừng làm ống đựng kim. Thấy vậy các trưởng giả nói với nhau:

- Nếu Sa-môn Thích tử không tham đồ tốt th́ việc ǵ phải lấy ngà voi, xương, sừng làm ống đựng kim?!

Nghe vậy, Tỳ-kheo mười hai pháp đến bạch Thế Tôn. Thế Tôn bảo:

- Tỳ-kheo nào dùng ngà voi, xương, sừng làm ống đựng kim th́ phạm tội đọa.       

Phật ở vườn Kỳ-thọ Cấp Cô Độc, thuộc nước Xá-vệ.

Các Tỳ-kheo không biết pháp làm giường nên làm loại giường có chân rất cao. Tỳ-kheo mười hai pháp đến bạch Thế Tôn. Thế Tôn dạy:

- Tỳ-kheo nào làm giường có chân cao quá tám ngón tay của Như Lai, trừ phần diềm ráp vào thành giường th́ phạm tội đọa.

Phật ở vườn Kỳ-thọ Cấp Cô Độc, thuộc nước Xá-vệ.

Nhóm sáu Tỳ-kheo thu lượm sợi bông và cỏ Bồ-đài để dành làm ngọa cụ. Chỉ vài ngày sau liền sanh trùng. Tỳ-kheo mười hai pháp đến bạch Thế Tôn. Thế Tôn bảo:

- Tỳ-kheo nào cất sợi bông và cỏ Bồ-đài để nhồi ngọa cụ th́ phạm tội đọa.

Phật ở vườn Kỳ-thọ Cấp Cô Độc, thuộc nước Xá-vệ.

Nhóm sáu Tỳ-kheo làm y tắm mưa nhưng không biết kích cở. Tỳ-kheo mười hai pháp đến bạch Phật, Phật bảo:

- Tỳ-kheo nào làm y tắm mưa dài quá sáu khuỷu tay, rộng quá hai khuỷu rưỡi th́ phạm tội đọa.

Phật ở vườn Kỳ-thọ Cấp Cô Độc, thuộc nước Xá-vệ.

Y áo các Tỳ-kheo mỏng, thưa, Thế Tôn cho phép mặc y lót. Các Tỳ-kheo không biết may dài ngắn thế nào, liền đến bạch Thế Tôn, Thế Tôn bảo:

- Tỳ-kheo nào may y lót dài quá bốn khuỷu tay, rộng quá hai khuỷu tay th́ phạm tội đọa.

Thế Tôn ở vườn Kỳ-thọ Cấp Cô Độc, thuộc nước Xá-vệ.

Thế Tôn  cho phép làm tọa cụ, các Tỳ-kheo không biết làm thế nào, liền đến bạch Thế Tôn, Thế Tôn bảo:

- Tỳ-kheo nào làm tọa cụ dài quá hai khuỷu tay, rộng quá một khuỷu tay rưỡi (trừ phần biên)  th́ phạm tội đọa.

Phật ở vườn Kỳ-thọ Cấp Cô Độc, thuộc nước Xá-vệ.

Tỳ-kheo Nan-đà là em con mẹ kế của Thế Tôn, có thân h́nh xinh đẹp không ai bằng. Phật có ba mươi hai tướng tốt, Nan-đà có ba mươi tướng. Nan-đà đắp y có kích thước bằng y của Như Lai đắp. Trông thấy Nan-đà đến, các Tỳ-kheo trưởng lăo cho là Như Lai nên đều đứng dậy nghinh đón. Khi Nan-đà đến gần, họ mới biết là Nan-đà, chẳng phải là Phật nên đều xấu hổ, ngồi xuống trở lại.

Tỳ-kheo mười hai pháp đến bạch Thế Tôn, Thế Tôn liền tập hợp chúng Tăng, v́ muốn đầy đủ mười công đức nên kiết giới cho Sa-môn:

- Tỳ-kheo nào may ba y bằng kích thước của y Như Lai th́ phạm Ba-dật-đề. Y Như Lai dài chín khuỷu tay, rộng sáu khuỷu tay. (Y Tỳ-kheo dùng có kích thước là: rộng ba khuỷu tay, dài năm khuỷu tay)

 

Pháp BA-LA-ĐỀ-ĐỀ-XÁ-NI

 

Phật ở vườn Kỳ-thọ Cấp Cô Độc, thuộc nước Xá-vệ.

Lúc ấy trời hạn hán, thóc lúa quư hiếm, khất thực khó được. Các Tỳ-kheo có nhan sắc tiều tụy.

Tỳ-kheo ni Cồ-đàm-di-đề-thứ có bạn bè rộng răi, có thể xin mọi thứ theo ư thích, luôn được các trưởng giả giúp đỡ.

Thấy các Tỳ-kheo có nhan sắc tiều tụy, có bao nhiêu thức ăn xin được, cô ấy đều cúng hết cho các Tỳ-kheo, c̣n ḿnh th́ nhịn đói, không ăn liên tiếp ba bốn ngày.

Vào sáng sớm, cô ấy muốn vào thành nhưng khi đến cửa thành th́ bị ngất xỉu, nằm cạnh đường. Có một Ưu-bà-tắc trông thấy, liền vào nhà sai tỳ nữ đến đỡ Tỳ-kheo ni ấy vào nhà. Tỳ nữ liền đỡ Tỳ-kheo ni đó vào nhà, nấu cháo cho cô ấy ăn.

Ưu-bà-tắc hỏi ni cô:

- Cô bị bệnh ǵ mà nằm ở cạnh đường vậy?

Tỳ-kheo ni nói đầy đủ việc ấy, nghe vậy, các trưởng giả nói với nhau:

- Sa-môn Thích tử này không biết đủ mới để cho Tỳ-kheo ni Đề-thứ nhịn đói ba bốn ngày rất là khổ sở.

Nghe vậy, Tỳ-kheo mười hai pháp đến bạch Phật, Thế Tôn bảo:

- Tỳ-kheo nào không bệnh mà vào làng nhận thức ăn từ Tỳ-kheo ni không bà con th́ Tỳ-kheo ấy phải sám hối với một Tỳ-kheo có giới hạnh rằng: “Tôi đă làm việc đáng nhục nhă, cần phải sám hối như pháp”. Đó là pháp hối quá.

Phật ở vườn Kỳ-thọ Cấp Cô Độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một trưởng giả bày thức ăn, thỉnh nhiều Tỳ-kheo. Tỳ-kheo ni Thổ-la-nan-đà cũng thọ thực ở nhà ấy. Cô ta lớn tiếng kêu xin để mong được lợi ích. Các trưởng giả thấy vậy liền nói với nhau:

- Ở giữa đại chúng, v́ sao Tỳ-kheo ni này lại kêu la lớn tiếng như vậy?

Nghe vậy, Tỳ-kheo mười hai pháp đến bạch Thế Tôn, Thế Tôn bảo:

- Khi Tỳ-kheo ngồi ăn, nếu có Tỳ-kheo ni nào lớn tiếng xin thức ăn th́ Tỳ-kheo không được ăn, mà phải ngồi yên. Các Tỳ-kheo phải bảo Tỳ-kheo ni rằng: “Này cô! Hăy thôi, để yên cho các Tỳ-kheo thọ thực”. Nếu trong chúng không có Tỳ-kheo nào bảo với Tỳ-kheo ni như vậy th́ các Tỳ-kheo này phải sám hối với các Tỳ-kheo rằng: “Tôi đă làm việc đáng hổ thẹn. Cần phải sám hối như pháp.”. Đó là pháp hối quá.

Phật ở vườn Kỳ-thọ Cấp Cô Độc, thuộc nước Xá-vệ.

Lúc ấy Thất-lê-yết-nộ - đại thần của vua Ba-tư-nặc - giàu có vô hạn, ruộng vườn rất nhiều, tŕ giới tinh tấn, thông minh trí tuệ, đă đắc quả kiến đế. Vị ấy thỉnh Phật và chúng Tăng xin cung cấp y phục, thức ăn, giường nằm, thuốc chữa bệnh, cúng dường làm phước không biết mỏi mệt. Sau đó vị ấy nghèo dần, vợ con tôi tớ không đủ y áo để che thân. Thấy vậy các trưởng giả nói với nhau:

- Sa-môn Thích tử không hề biết đủ. Cứ đến nhà Thất-lê-yết-nộ măi, làm ông ấy lấy phần của vợ con cho Tỳ-kheo ăn đến nỗi vợ con không có áo quần để mặc.

Nghe vậy, Tỳ-kheo mười hai pháp đến bạch Thế Tôn, Thế Tôn bảo:

- Nhà của người đă kiến đế thỉnh th́ không được cứ đến nhà ấy thọ thực măi. Đối với nhà của người đă kiến đế, tuy họ đă thỉnh trước nhưng Tỳ-kheo không được ở đó quá một đêm. Tỳ-kheo nào đến đó, tự tay nhận đồ ăn uống quá một lần th́ phải sám hối với Tỳ-kheo có giới hạnh rằng: “Tôi thật đáng xấu hổ, phải sám hối như pháp”. Đó là pháp hối quá.     

Phật ở vườn Ni-câu-loại của ḍng họ Thích, ở Ca-duy-la-vệ.

Ḍng họ Thích ở Ca-duy-la-vệ thường để riêng đồ ăn uống để cúng Phật và Tăng, sau đó mới tự ăn.

Lúc ấy các phụ nữ họ Thích mang thức ăn đến tịnh xá cúng dường Phật và Tăng, khi sắp đến nơi th́ bị bọn cướp cướp sạch. Nghe tin các phụ nữ họ Thích bị bọn cướp cướp sạch, nhóm sáu Tỳ-kheo bảo nhau rằng:

- Chúng ta hăy cùng đến trêu đùa chơi.

Họ liền đến bảo các phụ nữ rằng:

- Đồ ăn uống đâu rồi? Hăy cho chúng tôi một ít đi!

Các phụ nữ đều mất hết quần áo nên xấu hổ nói rằng:

- Bị giặc cướp hết rồi.

Thế Tôn biết nhưng vẫn hỏi A-Nan:

- Ai nói chuyện lớn tiếng ngoài vườn vậy?

A-Nan bạch Phật:

- Các phụ nữ họ Thích mang đồ ăn uống đến, bị giặc cướp đoạt, lại bị nhóm sáu Tỳ-kheo đến trêu ghẹo, v́ vậy gây ồn ào.

Thế Tôn bảo A-Nan:

- Ông hăy đi lấy vải dư đem cho họ đắp.

Vâng lệnh Phật, A-Nan liền lấy vải dư cho họ đắp. Các phụ nữ ḍng họ Thích liền đắp vải ấy rồi đến chỗ Phật, đảnh lễ sát đất, ngồi qua một phía. Thế Tôn liền nói pháp cho các cô ấy nghe. Thuyết pháp xong, Ngài im lặng. Thấy Phật im lặng, các phụ nữ đứng dậy đảnh lễ Phật rồi đi.

Khi các phụ nữ ấy đi được một lát, nhân việc ấy Thế Tôn liền tập hợp chúng Tăng, v́ muốn đủ mười công đức nên kiết giới cho Sa-môn:

- Có tịnh xá nằm ở nơi hoang vắng, xa đường cái, có tai nạn nguy hiểm, có nhiều giặc cướp; Tỳ-kheo nào biết chỗ ḿnh ở, ở nơi hoang vắng, xa đường cái, có nhiều tai nạn nguy hiểm, có nhiều giặc cướp, trước không được Tăng sai ra ngoài và đă thọ thực ở bên trong, hoặc ngoài vườn mà lại ra ngoài xin thức ăn uống th́ Tỳ-kheo ấy phải sám hối với Tỳ-kheo có đức hạnh rằng: “Tôi đă làm việc đáng hổ thẹn, phải sám hối như pháp”. Đó là pháp hối quá.

 

Pháp XOA-KẾ-LẠI-NI (Pháp Chúng học)

 

Phật ở vườn Kỳ-thọ Cấp Cô Độc, thuộc nước Xá-vệ.

Lúc ấy nhóm sáu Tỳ-kheo mặc y hạ lụng thụng quét đất. Thấy vậy, các trưởng giả nói rằng:

- Sa-môn Thích tử mặc y hạ kéo lê lết không khác ǵ phụ nữ.

Tỳ-kheo mười hai pháp đến bạch Thế Tôn, Thế Tôn bảo:

- Mặc y hạ không được để lụng thụng quét đất. Tỳ-kheo nào để lụng thụng quét đất th́ phạm pháp Chúng học.

Nhóm sáu Tỳ-kheo đắp y hạ quá cao. Thấy vậy, các trưởng giả nói với nhau:

- Sa-môn Thích tử đắp y hạ quá cao, khác ǵ đàn bà!

Tỳ-kheo mười hai pháp đến bạch Thế Tôn, Thế Tôn bảo:

- Không được đắp y hạ quá cao. Ai đắp cao th́ không thích hợp với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo đắp y hạ lệch qua một bên. Thấy vậy, các trưởng giả nói với nhau:

- Sa-môn Thích tử đắp y hạ lệch qua một bên.

Thế Tôn bảo:

- Đắp y hạ không được để lệch qua một bên. Ai đắp y hạ lệch qua một bên th́ không hợp giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo đắp y hạ quấn thắt lưng thật nhuyễn, tạo thành những nếp nhăn tḥng từ trên xuống giống như cái búa, hoặc như mũi nhọn. Thấy vậy, các trưởng giả bảo nhau:

- Sa-môn Thích tử đắp y hạ quấn thật nhuyễn thành những nếp nhăn tḥng từ trên xuống.

Thế Tôn bảo:

- Đắp y hạ không được quấn thật nhuyễn thành những nếp nhăn cho tḥng từ trên xuống. Ai làm như vậy th́ không hợp giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo đắp y hạ thành h́nh giống như lá cây Đa-lặc. Các trưởng giả nói với nhau:

- Sa-môn Thích tử đắp y hạ giống như lá cây Đa-lặc.

Thế Tôn bảo:

- Không được đắp y hạ tạo thành h́nh giống như lá cây Đa-lặc. Ai đắp như vậy th́ không hợp giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo đắp y hạ thành h́nh giống như ṿi voi. Thấy vậy, các trưởng giả nói với nhau:

- Sa-môn Thích tử đắp y hạ giống như ṿi voi.

Thế Tôn bảo:

- Không được đắp y hạ giống như ṿi voi. Ai đắp như vậy th́ không hợp giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo đắp y hạ giống như vắt cơm lúa mạch. Các trưởng giả nói với nhau:

- Sa-môn Thích tử đắp y hạ giống như vắt cơm lúa mạch.

Thế Tôn bảo:

- Không được đắp y hạ giống như vắt cơm lúa mạch. Ai làm như vậy th́ không hợp giới hạnh. (Kéo lệch một góc rồi luồn vào bên trên, không có buộc thắt lưng)

Nhóm sáu Tỳ-kheo đắp y hạ giống như tấm lưới bằng len. Các trưởng giả nói với nhau:

- Sa-môn Thích tử đắp y hạ như tấm lưới bằng len.

Thế Tôn bảo:

- Không được đắp y hạ giống như tấm lưới bằng len. Ai đắp như vậy th́ không hợp giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo ủi y hạ bóng láng để đắp. Các trưởng giả nói với nhau:

- Sa-môn Thích tử này ủi y hạ láng bóng để đắp.

Thế Tôn bảo:

- Không được ủi y hạ cho láng bóng để đắp. Ai làm như vậy th́ không hợp giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo túm đầu y hạ lại mà đắp. Các trưởng giả nói rằng:

- Sa-môn Thích tử này túm đầu y hạ lại mà đắp.

Thế Tôn bảo:

- Không được túm đầu y hạ lại để đắp. Ai làm như vậy th́ không hợp giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo đắp đắp y hạ làm bằng tơ mịn. Các trưởng giả nói với nhau:

- Sa-môn Thích tử này đắp y hạ làm bằng tơ mịn.

Thế Tôn bảo:

- Không được đắp y hạ làm bằng tơ mịn. Ai vi phạm th́ không hợp giới hạnh.

Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

-Phải đắp y hạ cho tề chỉnh. Ai đắp y hạ không tề chỉnh th́ không hợp giới hạnh.

Phật ở vườn Kỳ thọ Cấp-cô-độc, thuộc nước Xá-vệ.

Lúc ấy nhóm sáu Tỳ-kheo đắp ba y, để một góc y kéo lê trên đất. Thế Tôn bảo:

- Không được đắp ba y mà để một góc y rủ xuống kéo lê trên đất. Ai làm vậy th́ không hợp giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo đắp ba y quá cao. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được đắp ba y quá cao. Ai đắp cao th́ không hợp giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo buông một góc của ba y ở phía trước. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được buông một góc của ba y ở phía trước. Ai làm như vậy th́ không hợp giới hạnh. (Không được vắt ngược y lên vai rồi buông nó xuống cánh tay trước khuỷu tay)

Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Phải đắp ba y cho tề chỉnh. Ai đắp không tề chỉnh th́ không hợp giới hạnh.

Phật ở vườn Kỳ-thọ Cấp Cô Độc, thuộc nước Xá-vệ.

Nhóm sáu Tỳ-kheo không giữ yên tĩnh khi đi vào nhà. Thấy vậy Thế Tôn bảo:

- Phải giữ yên tĩnh khi đi vào nhà. Ai vi phạm th́ không hợp giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo không giữ yên tĩnh khi ngồi trong nhà. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Phải giữ yên tĩnh kh ngồi trong nhà. Ai không giữ yên tĩnh khi ngồi trong nhà th́ trái với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo không chú ư khi vào nhà. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Phải chú ư khi đi vào nhà. Ai không chú ư th́ không hợp giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo không chú ư khi ngồi trong nhà. Thế Tôn bảo:

- Phải chú ư khi ngồi trong nhà. Ai không chú ư khi ngồi trong nhà th́ trái với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo trợn mắt khi đi vào nhà. Thế Tôn bảo:

- Không được trợn mắt khi đi vào nhà. Ai làm vậy th́ không hợp giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo trợn mắt khi ngồi trong nhà. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được trợn mắt khi vào ngồi trong nhà. Ai trợn mắt khi vào ngồi trong nhà th́ trái với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo ngước đầu đi vào trong nhà. Thế Tôn bảo:

- Không được ngước đầu đi vào nhà. Ai làm vậy th́ không hợp giới hạnh. 

Nhóm sáu Tỳ-kheo ngẩng cao đầu ngồi trong nhà. Thế Tôn bảo:

- Không được ngước đầu ngồi trong nhà. Ai làm vậy th́ trái giới hạnh (giống như tự đại).

Nhóm sáu Tỳ-kheo kêu gọi nhau khi đi vào nhà. Thế Tôn bảo:

- Không được kêu gọi nhau khi đi vào nhà. Ai làm vậy th́ trái với giới hạnh.  

Nhóm sáu Tỳ-kheo kêu gọi nhau khi ngồi trong nhà. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được kêu gọi nhau khi ngồi trong nhà. Ai làm vậy th́ không hợp giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo kêu la lớn tiếng khi đi vào nhà. Thế Tôn bảo:

- Không được kêu la lớn tiếng khi đi vào nhà. Ai làm vậy th́ không hợp giới hạnh.  

Nhóm sáu Tỳ-kheo kêu la lớn tiếng khi ngồi trong nhà. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được kêu la lớn tiếng khi ngồi trong nhà. Ai làm vậy th́ trái với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo đi cà-nhót vào nhà. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được đi cà-nhót vào nhà. Ai đi như vậy th́ trái với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo ngồi chồm hổm trong nhà. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được ngồi chồm hổm trong nhà. Ai làm vậy th́ trái với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo lấy ba y trùm đầu mà đi vào nhà. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được lấy ba y trùm đầu khi đi vào nhà y. Ai làm vậy th́ trái với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo lấy ba y trùm đầu mà ngồi trong nhà. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được lấy ba y che đầu mà ngồi trong nhà. Ai làm vậy th́ trái với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo quấn ba y nơi cổ đi vào nhà. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được quấn ba y nơi cổ đi vào nhà. Ai làm vậy th́ trái với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo quấn ba y nơi cổ ngồi trong nhà. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được quấn ba y nơi cổ ngồi trong nhà. Ai làm vậy th́ trái với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo đắp ba y để hở ngực đi vào nhà. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được để hở ngực mà đi vào nhà. Ai làm vậy th́ trái giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo đắp ba y để hở ngực mà ngồi trong nhà. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được để hở ngực khi ngồi trong nhà. Ai làm vậy th́ trái giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo rủ ba y che kín chân đi vào nhà. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được rủ ba y che kín chân đi vào nhà. Ai làm vậy th́ trái giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo rủ ba y che kín chân khi ngồi trong nhà. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được rủ ba y che kín chân mà ngồi trong nhà. Ai làm vậy th́ trái giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo vắt ngược phần y ở hai bên hông lên trên vai mà đi vào nhà. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được vắt ngược phần y ở hai bên lên vai mà đi vào nhà. Ai làm vậy th́ trái giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo vắt ngược phần y hai bên lên vai mà ngồi trong nhà. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được vắt ngược phần y ở hai bên lên vai mà ngồi trong nhà. Ai làm vậy th́ trái với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo vắt ngược ba y lên vai trái đi vào nhà. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được vắt ngược ba y lên vai trái đi vào nhà. Ai làm vậy th́ trái với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo vắt ngược ba y lên vai trái ngồi trong nhà. Thế Tôn bảo:

- Không được vắt ngược ba y lên vai trái ngồi trong nhà. Ai làm vậy th́ không hợp giới hạnh.

(Thiếu giới bên phải)

Nhóm sáu Tỳ-kheo lắc hai tay ở trong ba y đi vào nhà. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được lắc hai tay bên trong ba y mà đi vào nhà. Ai làm vậy th́ trái giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo lắc hai tay bên trong ba y khi ngồi trong nhà. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được lắc lư cánh tay bên trong ba y khi ngồi trong nhà. Ai làm vậy th́ trái giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo vẩy tay đi vào nhà. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được vẩy tay đi vào nhà. Ai làm vậy th́ trái giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo vẩy tay khi ngồi trong nhà. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được vẩy tay khi ngồi trong nhà. Ai làm vậy th́ không hợp giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo lắc khuỷu tay đi vào nhà. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được lắc khuỷu tay đi vào nhà. Ai lắc khuỷu tay đi vào nhà th́ trái với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo lắc khuỷu tay khi ngồi trong nhà. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được lắc khuỷu tay khi ngồi trong nhà. Ai làm vậy th́ trái với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo lắc vai khi đi vào nhà. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được lắc vai đi vào nhà. Ai làm vậy th́ trái với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo lắc vai khi ngồi trong nhà. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được lắc vai khi ngồi trong nhà. Ai làm vậy th́ trái với giới hạnh.      

Nhóm sáu Tỳ-kheo lắc lư đầu khi đi vào nhà. Thế Tôn bảo:

- Không được lắc lư đầu mà đi vào nhà. Ai làm vậy th́ trái với giới hạnh.       

 Nhóm sáu Tỳ-kheo lắc lư đầu khi ngồi trong nhà. Thấy vậy Thế Tôn bảo:

- Không được lắc lư đầu khi ngồi trong nhà. Ai lắc lư đầu khi ngồi trong nhà th́ trái với giới hạnh.    

Nhóm sáu Tỳ-kheo lắc lư thân ḿnh khi đi vào nhà. Thấy vậy Thế Tôn bảo:

- Không được lắc lư thân ḿnh khi đi vào nhà. Ai làm vậy th́ trái với giới hạnh.       

Nhóm sáu Tỳ-kheo lắc lư thân ḿnh khi ngồi trong nhà. Thế Tôn bảo:

- Không được lắc lư thân ḿnh khi ngồi trong nhà. Ai làm vậy th́ trái với giới hạnh.Nhóm sáu Tỳ-kheo nắm tay nhau đi vào nhà. Thấy vậy Thế Tôn bảo:

- Không được nắm tay nhau đi vào nhà. Ai làm vậy th́ trái với giới hạnh.       

Nhóm sáu Tỳ-kheo nắm tay nhau ngồi trong nhà. Thấy vậy Thế Tôn bảo:

- Không được nắm tay nhau ngồi trong nhà. Ai làm vậy th́ trái với giới hạnh. 

Nhóm sáu Tỳ-kheo co một chân lên nhảy ḷ c̣ vào nhà. Thấy vậy Thế Tôn bảo:

- Không được co một chân nhảy vào nhà. Ai làm vậy th́ trái với giới hạnh.    

Nhóm sáu Tỳ-kheo co một chân ngồi trong nhà. Thấy vậy Thế Tôn bảo:

- Không được co một chân ngồi trong nhà. Ai làm vậy th́ trái với giới hạnh.  

Nhóm sáu Tỳ-kheo chụm hai chân nhảy vào nhà. Thấy vậy Thế Tôn bảo:

- Không được chụm hai chân nhảy vào nhà. Ai làm vậy th́ trái với giới hạnh. 

Nhóm sáu Tỳ-kheo chụm hai chân nhảy vào ngồi trong nhà. Thế Tôn bảo:

- Không được chụm hai chân nhảy vào ngồi trong nhà. Ai làm vậy th́ trái với giới hạnh.Nhóm sáu Tỳ-kheo xếp bàn chân lên nhau ngồi trong nhà. Phật dạy:

- Không được xếp chân lên nhau ngồi trong nhà. Ai làm vậy th́ trái với giới hạnh.   

Nhóm sáu Tỳ-kheo tréo chân ngồi trong nhà. Thấy vậy Thế Tôn bảo:

- Không được tréo chân ngồi trong nhà. Ai làm vậy th́ trái với giới hạnh.       

Nhóm sáu Tỳ-kheo chống cằm ngồi trong nhà cười đùa với nhau. Thấy vậy Thế Tôn bảo:

- Không được chống cằm ngồi trong nhà cười đùa với nhau. Ai làm vậy th́ trái với giới hạnh. 

Phật ở vườn Kỳ-thọ Cấp-cô-độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một trưởng giả thỉnh Phật và chúng Tăng. Khi Phật và chúng Tăng đă an tọa, trưởng giả tự tay dâng nước và bày các loại đồ ăn uống. Vợ trưởng giả cũng đi dâng thức ăn. Nhóm sáu Tỳ-kheo măi ngước nh́n vợ trưởng giả, làm đồ ăn uống không vào bát mà rơi hết ra ngoài. Thấy vậy, các trưởng giả nói với nhau:         - V́ sao Sa-môn lại nh́n nhan sắc của phụ nữ để cho đồ ăn uống bị đổ hết ra ngoài bát!

Tỳ-kheo mười hai pháp đến bạch Thế Tôn, Thế Tôn bảo:

- Phải chú ư nh́n ngay thẳng khi nhận thức ăn. Ai không làm vậy th́ trái với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo không chú ư nh́n ngay thẳng khi nhận canh, đồ ăn. Thế Tôn bảo:

- Phải chú ư nh́n ngay thẳng khi nhận canh, đồ ăn. Ai không làm vậy th́ trái với giới hạnh. 

Nhóm sáu Tỳ-kheo nhận cơm đầy tràn bát. Thế Tôn bảo:

- Phải nhận cơm vừa ngang bát. Ai nhận cơm đầy tràn bát th́ trái với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo lựa thức ăn nằm trong cơm để ăn. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được lựa thức ăn nằm lẫn trong cơm để ăn. Ai làm vậy th́ không hợp với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo xoay bát rồi dùng ngón tay moi thức ăn ở trong cơm mà ăn. Thế Tôn bảo:

- Không được xoay bát rồi dùng ngón tay cái moi thức ăn ở trong cơm ra mà ăn. Ai làm vậy th́ không hợp với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo ṿ cơm thành vắt để ăn. Thế Tôn bảo:

- Không được ṿ cơm thành vắt để ăn. Ai ṿ cơm thành vắt để ăn th́ trái với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo lượm cơm rơi rớt để ăn. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được lượm cơm rơi rớt mà ăn. Ai làm vậy th́ trái với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo thun mũi lại mà ăn. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được được thun mũi lại mà ăn. Ai làm vậy th́ trái với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo rảy tay mà ăn. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được rảy tay mà ăn. Ai làm vậy th́ không hợp với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo hớp cơm mà ăn. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được hớp cơm mà ăn. Ai làm vậy th́ trái với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo dùng lưỡi liếm bàn tay mà ăn. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được dùng lưỡi liếm bàn tay mà ăn. Ai làm vậy th́ không hợp với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo co ngón tay vét bát rồi liếm ăn. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được co ngón tay vét bát rồi liếm ăn. Ai làm vậy th́ trái với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo thè lưỡi mà ăn. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được thè lưỡi mà ăn. Ai làm vậy th́ trái với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo không nhai thức ăn mà nuốt. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được không nhai thức ăn mà nuốt. Ai làm vậy th́ trái với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo dùng ngón tay vuốt bát làm dơ bẩn rồi dùng tay dơ đó nhận nước uống. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được dùng tay dơ mà nhận nước uống. Ai làm vậy th́ trái với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo vắt nắm cơm lớn để vào ḷng bàn tay rồi ép vào trong miệng. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được vắt nắm cơm lớn để vào ḷng bàn tay rồi ép vào trong miệng. Ai làm vậy th́ trái với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo ṿ vắt cơm lớn hơn bốn ngón tay mà ăn. Thế Tôn bảo:

- Không được ṿ vắt cơm lớn hơn bốn ngón tay. Ai làm vậy th́ trái với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo há lớn miệng khi ăn. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được há lớn miệng khi ăn. Ai há lớn miệng th́ trái với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo há lớn miệng đợi khi vắt cơm chưa đưa tới miệng. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được há lớn miệng đợi khi vắt cơm chưa đến miệng. Ai làm vậy th́ trái với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo ngậm cơm mà nói. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được ngậm cơm mà nói. Ai ngậm cơm mà nói th́ trái với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo không bệnh mà xin cơm canh. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được xin cơm canh khi không bệnh. Ai làm vậy th́ trái với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo lấy cơm che lên canh để xin canh. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được lấy cơm che lên canh để xin thêm canh. Ai làm vậy th́ trái với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo quay đầu nh́n vào bát cơm của Tỳ-kheo ngồi cạnh hai bên để xem cơm nhiều ít. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được quay đầu nh́n vào bát của người ngồi cạnh hai bên để xem cơm nhiều ít. Ai làm vậy th́ không hợp với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo không nh́n vào bát khi ăn. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được không nh́n vào bát khi ăn. Ai không làm vậy th́ trái với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo chọn người để nhận thức ăn. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Không được chọn người để nhận thức ăn. Ai làm vậy th́ trái với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo rửa bát, thức ăn c̣n thừa không nói với thí chủ mà đem đổ. Thấy vậy, Thế Tôn bảo:

- Rửa bát xong, thức ăn c̣n thừa, nếu chủ nhà không đồng ư th́  không được đổ. Ai làm vậy th́ trái với giới hạnh.    

Phật ở vườn Kỳ-thọ Cấp Cô Độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vua Ba-tư-nặc tự ra quy định cho ḿnh suốt đời.

Biết Phật ở vườn Kỳ-thọ Cấp-cô-độc, thuộc nước Xá-vệ, vua chọn ngày đến bái yết Thế Tôn. Vua nghĩ: “Nếu ta không đi th́ phải giao cho đại thần năm trăm lượng vàng”.

Vua bảo các đại thần:

- Hôm nay ta muốn đến đảnh lễ, chiêm ngưỡng Thế Tôn. Các khanh hăy đi quét dọn Kỳ-hoàn.

Tuy nghe vua ra lệnh nhưng các đại thần không làm theo. Vua lập lại đến ba lần:

- Hôm nay ta muốn đến lễ bái, chiêm ngưỡng Thế Tôn. Các khanh hăy đi quét dọn Kỳ-hoàn.

Tuy nghe vua ra lệnh, các bề tôi vẫn không nghe theo. Vua Ba-tư-nặc liền nổi giận, bảo các đại thần rằng:

- Ta bảo quét dọn Kỳ-hoàn, v́ sao các khanh không nghe lời ta? Ai không nghe lời ta, không quét dọn Kỳ-hoàn th́ sẽ bị chém đầu  hết, bỏ lên đường cái rồi lấy chân hất đến cổng Kỳ-hoàn.

Nghe vậy, các bề tôi bảo nhau:

- Vua này hung bạo, không có ḷng từ, có thể bắt giết chúng ta.  Lúc ấy, họ liền đến quét dọn Kỳ-hoàn rồi trở về tâu với vua:

- Đă quét dọn xong, xin đại vương lên đường.

Vua Ba-tư-nặc liền bảo người đánh xe:

- Ngươi hăy chuẩn bị xe “Vũ băo”, ta muốn đi lễ bái Thế Tôn.

Người đánh xe liền chuẩn bị xe cộ để sẵn ở ngoài cổng rồi vào tâu với vua:

- Xe đă được chuẩn bị xong. Đă đến giờ xuất hành, thưa đại vương.

Vua Ba-tư-nặc liền lên xe Vũ băo, đi từ thành Xá-vệ đến bên ngoài cổng Kỳ-hoàn th́ xuống xe, cởi bỏ năm oai nghi như: bỏ lọng, tháo măo, bỏ phất trần có chuôi bằng châu báu, tháo giày được khắc chạm, cởi kiếm và đi bộ đến chỗ Như Lai, đảnh lễ sát đất, ngồi qua một phía.

Vua Ba-tư-nặc chợt nghe mùi hương chẳng phải của nhơn gian, v́ vậy tuy nghe Thế Tôn thuyết pháp nhưng vua không tiếp thu được, chỉ để ư đến mùi hương.

Thế Tôn biết nhưng vẫn hỏi vua Ba-tư-nặc:

- V́ sao hôm nay vua không chú ư nghe pháp mà lại bị tán tâm?

Vua Ba-tư-nặc bạch Thế Tôn:

- Từ nhỏ trẫm đă được sanh trưởng trong cung, tám tuổi đă biết việc vua. Các loại hương có trong tất cả các kho như: mộc mật, thanh mật, chiên đàn, miệt tiền, kê thiệt... chỉ cần nghe qua là trẫm đều phân biệt được. Loại hương này chẳng phải là mùi hương của nhơn gian. Đó là hương ǵ vậy? Xin Thế Tôn nói cho trẫm biết.

Thế Tôn nói:

- Đại vương muốn thấy người phát ra mùi hương này sao?

- Dạ, muốn thấy.

Thế Tôn liền đưa cánh tay phải được trang nghiêm bằng trăm tướng, ấn bàn tay xuống đất, chợt có bộ hài cốt dài năm trượng sáu xuất hiện, bay lên hư không, ngồi, nằm, đi lại hoặc nhập thiền, phóng ra các loại ánh sáng xanh, vàng, đỏ, trắng, hoặc màu lưu ly, vọt lên phía Đông, niến mất ở phía Tây, bốn phương đều như vậy. Dưới thân phun ra nước, trên thân phun ra lửa. Dưới thân phát lửa, trên thân phun nước... làm bao nhiêu biến hóa rồi lặn xuống đất.

Cả Kỳ-hoàn đều ngửi mùi hương của hài cốt ấy.

Vua Ba-tư-nặc bạch Phật:

- Đó là bộ xương của ai vậy?

Thế Tôn bảo:

- Đó là xương của vị Bích-chi Phật.

Vua lại bạch Thế Tôn:

- Xưa kia vị ấy đă tạo công đức ǵ mà có mùi hương vi diệu này?

  Thế Tôn đáp:

- Cách đây vô số kiếp, khi con người thọ hai mươi ngàn tuổi, có vị Phật Ca-diếp Vô sở trước Đẳng chánh giác xuất thế, thuyết pháp cho chúng sanh một cách rộng răi.

Khi Ngài nhập Niết-bàn, có vua Chấp B́ cho chở hương, hoa, cờ, lọng, loa, trống, tấu nhạc, cúng dường đủ cách để làm lễ trà tỳ.

Lúc ấy vua Chấp B́ suy nghĩ: “Ta phải dựng tháp thờ Phật Ca-diếp sao cho thật đẹp”.

Ở bốn cửa thánh có bốn con rồng lớn. Chúng ra khỏi nước, hóa thành Bà-la-môn, đến đứng trước vua, ṿng tay thăm hỏi và ngồi ở một phía. Họ hỏi vua:

- Không biết đại vương định tạo tháp thờ Phật Ca-diếp bằng những vật ǵ?

Vua đáp:

- Sẽ đắp đất để làm.

Bốn người ấy tâu vua:

- Người thường chết th́ đắp đất làm mộ, c̣n đây là Thế Tôn mà lại đắp đất sao?

Vua hỏi:

- Bốn người định làm ra sao?

Bốn người ấy đáp:

- Làm bằng bốn loại châu báu.

Vua hỏi:

- Đem cả Diêm-phù-đề bán không được một loại châu báu, th́ lấy đâu ra bốn loại?

Bốn người liền suy nghĩ: “Chắc vua không biết ta là vua rồng”. Họ liền tâu với vua:

- Chúng tôi là vua rồng, chẳng phải là người phàm. Chúng tôi ở trong bốn cửa thành, có các cung điện bằng vàng, bạc, lưu ly, hoặc thủy tinh.   Vua hăy sai thợ đào hào ở bốn cửa thành, nơi nào có vàng th́ sẽ thành hào vàng. Nơi có bạc, thủy tinh, lưu ly đều thành hào bạc, thủy tinh, lưu ly.

Vua cho người đào hào ở bốn cửa thành và đều thành bốn cái hào đựng bốn loại châu báu. Vua cho lấy số châu báu đó dựng tháp thờ Phật Ca-diếp., dài một do-tuần, rộng một do-tuần, cao một do-tuần. Sau đó treo lọng cách nóc tháp một do-tuần.

Khi tháp thờ Phật Ca-diếp được làm xong th́ trời đă tối mịt. Vua cho người lắc chuông trong thành thông báo cho những người bán hoa đem tất cả các loại hoa đến cửa cung và vua mua hết.

Có con của một trưởng giả thường đến nhà dâm nữ để mua dâm. Dâm nữ ấy bảo cô tớ gái ra xem, nếu con của trưởng giả có mang hoa đến th́ mở cửa ngay, c̣n nếu không mang hoa đến th́ đừng có mở cửa.

Khi con của trưởng giả đến cửa, nàng hầu hỏi:

- Ai đó?

Đáp:

- Con của trường giả.

Nàng hầu hỏi:

- Có mang hoa đến không?

Đáp:

- Không có hoa.

- Nếu không có hoa th́ không được vào.

Con của trưởng giả liền suy nghĩ: “Trong thành này hoa rất quư hiếm, không thể t́m được, chỉ có hoa ở tháp Phật Ca-diếp là dễ được”. Anh ta liền vào tháp Phật Ca-diếp, đựng hoa đầy tấm vải rồi trở ra. Lúc ấy trời đă tối, cửa thành đă đóng, anh ta theo cống thoát nước mà chui vào, đến gơ cửa nhà dâm nữ.

Nàng hầu hỏi:

- Ai vậy?

Đáp:

- Con của trưởng giả.

Nàng hầu hỏi:

- Có mang hoa đến không?

Đáp:

- Có.

Nàng hầu liền mở cửa mời anh ta vào. Anh ta vào, đưa hoa cho dâm nữ rồi cùng nhau giao hội suốt đêm.

Gần sáng, toàn thân thể anh ta đều sanh ghẻ lớn như hạt cải, dần dần lớn như hạt đậu bề, rồi như hạt đậu lớn, rồi như quả A-ma-lặc, rồi như quả Tỳ-hê-lặc, rồi lớn như trái bầu tiểu bách tử, thân thể tuôn mủ, máu đen tuôn chảy.

Dâm phụ bảo nàng hầu:

- Hăy đem quẳng vào hố.

Nàng hầu nói:

- Không được. Để báo với cha anh ấy.

  Nàng hầu liền đến báo với cha anh ta rằng:

- Con trai ông bị bệnh. Hăy đến chăm sóc.

Người cha liền dẫn theo bốn người nữa đến khiêng cậu ấy về nhà, mời thầy thuốc giỏi đến nói rằng:

- Cậu bé này bị bệnh nặng, phải trị bằng cách nào đây?

Thầy thuốc đáp:

- Cần phải có chín lạng ngưu-đầu chiên-đàn

Người cha hỏi:

- Để làm ǵ?

Thầy thuốc đáp:

- Ba lạng để xoa thân, ba lạng uống vào bụng, ba lạng để xông y phục.

Người cha suy nghĩ: “Có bao nhiêu tiền đều đă giao hết cho nhà dâm phụ. Ngưu-đầu chiên-đàn có giá rất mắc, sợ rằng không thể mua nổi”. Ông ta liền nhờ bà con giúp đỡ và có được chín lạng ngưu-đầu chiên-đàn, đem mài trên đá ở trước bệnh nhân.

Người bệnh hỏi:

- Định làm ǵ vậy?

Người cha đáp:

- Để thoa lên mụt nhọt.

Người con nói với cha:

- Con phạm tội rất nặng. Dù có đặt con vào rừng chiên-đàn th́ bệnh con cũng không khỏi.

Người cha hỏi:

- Tội ǵ mà nặng vậy?

Người con kể đầy đủ sự việc và xin chín lạng ngưu-đầu chiên-đàn đó. Người cha đưa chiên-đàn cho con. Người con nói:

- Xin cha hăy đem con đến chỗ tháp Phật Ca-diếp.

Bốn người liền khiêng cậu ấy đến chỗ tháp Phật. Cậu ta cầm ba lạng ngưu-đầu chiên-đàn và nói rằng:

- Vừa rồi con đă lấy trộm hoa của Phật Ca-diếp. Xin đem hương này đề bồi thường số hoa đó. Sáu lạng c̣n lại th́ xin dâng cho Phật Ca-diếp.

Cậu ấy phát nguyện rằng:

- Nhờ công đức này, xin cho con không đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, chỉ sanh trong trời người và cuối cùng đạt được quả Bích-chi Phật mà nhập Niết-bàn.

Các mụt nhọt trên thân cậu ấy lành ngay lập tức. Khi đến đây phải khiêng, nhưng khi về th́ cậu ấy tự đi bộ. Sau khi mạng chung, cậu ấy sanh lên cơi trời Ba mươi ba.

Vào ngày cậu ấy sanh lên trời, chư thiên đều nghe mùi hương chiên-đàn. Khi hết tuổi thọ ở cơi trời th́ được sanh ở nhơn gian, mỗi lỗ chân lông đều có mùi hương chiên-đàn. Sau đó, cậu ấy xuất gia, học đạo và đắc quả Bích-chi Phật, nhập vào Niết-bàn Vô-dư.

Từ lúc vị ấy nhập Niết-bàn đến nay đă năm trăm năm, xương cốt không mục cho nên có mùi hương chẳng phải ở nhơn gian này, làm cho cả Kỳ-hoàn đều được ngửi thấy mùi hương đó.

(Lúc Phật nói lời này, hàng ngàn vạn người phát sanh ư Bích-chi Phật).

Này đại vương! Con của trưởng giả lúc ấy, nay chính là hài cốt của vị Bích-chi Phật.

Thế Tôn liền thuyết pháp cho vua nghe. Thuyết pháp xong, Thế Tôn im lặng.

Lúc ấy, vua Ba-tư-nặc đứng dậy đảnh kễ Phật rồi đi, cởi xe Vũ băo trở về thành Xá-vệ.

Khi vua đang ngồi trên xe, nhóm sáu Tỳ-kheo thuyết pháp cho vua nghe. Thấy vậy, Tỳ-kheo mười hai pháp đến bạch Phật. Thế Tôn bảo:

- Không được thuyết pháp cho người cởi xe. Ai làm vậy th́ trái với giới hạnh.

Vua ở phía trước, nhóm sáu Tỳ-kheo ở phía sau thuyết pháp. Thế Tôn bảo:

- Người ở phía trước, ḿnh ở phía sau th́ không được thuyết pháp. Ai thuyết pháp như vậy th́ trái với giới hạnh.

Vua ở giữa đường, nhóm sáu Tỳ-kheo ở lề đường thuyết pháp cho vua nghe. Thế Tôn bảo:

- Người ở giữa đường, ḿnh ở lề đường th́ không được thuyết pháp. Ai thuyết pháp như vậy th́ trái với giới hạnh.

Vua ngồi, nhóm sáu Tỳ-kheo đứng thuyết pháp cho vua. Thế Tôn bảo:

- Người ngồi, Tỳ-kheo đứng th́ không được thuyết pháp. Ai thuyết pháp như vậy th́ không hợp với giới hạnh.

Vua ngồi ở chỗ cao, nhóm sáu Tỳ-kheo ngồi ở chỗ thấp thuyết pháp cho vua. Thế Tôn bảo:

- Người ngồi ở chỗ cao, ḿnh ngồi ở chỗ thấp th́ không nên thuyết pháp. Ai thuyết pháp như vậy th́ không hợp với giới hạnh (trừ người bệnh).

Vua che đầu, nhóm sáu Tỳ-kheo thuyết pháp cho vua. Thế Tôn bảo:

- Không được thuyết pháp cho người che đầu. Ai thuyết pháp như vậy th́ trái với giới hạnh.

Vua trùm đầu, nhóm sáu Tỳ-kheo thuyết pháp cho vua. Thế Tôn bảo:

- Không được thuyết pháp cho người trùm đầu. Ai thuyết pháp như vậy th́ không hợp với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo thuyết pháp cho người lật ngược phần y hai bên. Thế Tôn bảo:

- Không được thuyết pháp cho người lật ngược phần y ở hai bên. Ai thuyết pháp như vậy th́ không hợp với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo thuyết pháp cho người đắp ba y bị lệch một bên và xệ dưới đất. Thế Tôn bảo:

- Không được thuyết pháp cho người đắp ba y lệch một bên và xệ xuống đất. Ai thuyết pháp như vậy th́ trái với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo thuyết pháp cho người đắp ba y để rủ phần trên của y xuống một bên, hở ngực. Thế Tôn bảo:

- Không được thuyết pháp cho người đắp ba y để rủ phần trên của y xuống một bên, hở ngực. Ai thuyết pháp như vậy th́ trái với giới hạnh (trừ người bệnh).

Nhóm sáu Tỳ-kheo thuyết pháp cho người vắt ngược ba y lên vai. Thế Tôn bảo:

- Không nên thuyết pháp cho người lật ngược ba y lên vai. Ai thuyết pháp như vậy th́ trái với giới hạnh (trừ bệnh).

Nhóm sáu Tỳ-kheo thuyết pháp cho người vung vẩy hai cánh tay bên trong ba y. Thế Tôn bảo:

- Không được thuyết pháp cho người vung vẩy hai cánh tay trong ba y. Ai thuyết pháp như vậy th́ trái với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo ngồi thuyết pháp cho người nằm. Thế Tôn bảo:

- Người nằm, Tỳ-kheo ngồi th́ không nên thuyết pháp. Ai thuyết pháp như vậy th́ trái với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo thuyết pháp cho người mang giày da. Thế Tôn bảo:

- Không được thuyết pháp cho người mang giày da. Ai thuyết pháp như vậy th́ không hợp với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo thuyết pháp cho người mang guốc gỗ. Thế Tôn bảo:

- Không được thuyết pháp cho người mang guốc gỗ. Ai thuyết pháp như vậy th́ trái với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo thuyết pháp cho người cầm dù che thân. Thế Tôn bảo:

- Không được thuyết pháp cho người cầm dù che thân. Ai thuyết pháp như vậy th́ không hợp với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo thuyết pháp cho người chống gậy. Thế Tôn bảo:

- Không được thuyết pháp cho người chống gậy. Ai thuyết pháp như vậy th́ trái với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo thuyết pháp cho người cầm dao. Thế Tôn bảo:

- Không được thuyết pháp cho người cầm dao. Ai thuyết pháp như vậy th́ trái với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo thuyết pháp cho người cầm kích, Thế Tôn bảo:

- Không được thuyết pháp cho người cầm kích. Ai thuyết pháp như vậy th́ trái với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo thuyết pháp cho người cầm búa. Thế Tôn bảo:

- Không được thuyết pháp cho người cầm búa. Ai thuyết pháp như vậy th́ không hợp với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo đại tiểu tiện, khạc nhổ lên rau cỏ ở trong vườn sạch. Thế Tôn bảo:

- Không được đại tiểu tiện, khạc nhổ lên rau cỏ trong vườn sạch. Ai làm vậy th́ trái với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo đại tiểu tiện, khạc nhổ trong nguồn nước mà trưởng giả dùng để ăn uống. Thế Tôn bảo:

- Không được khạc nhổ, đại tiểu tiện trong nước sạch. Ai làm vậy th́ trái với giới hạnh.

Nhóm sáu Tỳ-kheo đứng tiểu tiện. Thấy vậy, các trưởng giả bảo nhau:

- Sa-môn Thích tử này đứng tiểu tiện, có khác ǵ ngoại đạo Ni-kiền-tử.

Họ đến bạch Thế Tôn. Thế Tôn bảo:

- Không được đứng tiểu tiện. Ai đứng tiểu tiện th́ trái với giới hạnh (trừ người bệnh).

Phật ở vườn Kỳ-thọ Cấp Cô Độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một trưởng giả thỉnh Phật và chúng Tăng. Lần đó đến phiên nhóm sáu Tỳ-kheo và nhóm mười bảy Tỳ-kheo ở lại giữ tịnh xá. Nhóm sáu Tỳ-kheo bảo nhóm mười bảy Tỳ-kheo ở lại giữ tịnh xá, c̣n họ sẽ đem phần cơm về cho.

Khi đi giữa đường, nhóm sáu Tỳ-kheo bảo nhau:

- Nếu nhận được cơm, chúng ta sẽ đi chậm răi sau các Tỳ-kheo, đợi quá ngọ mới mang thức ăn về.

Chúng Tăng ăn xong, nhóm sáu Tỳ-kheo nhận phần cơm của nhóm mười bảy Tỳ-kheo và đi từ từ phía sau các Tỳ-kheo. Khi đến bên ngoài cổng Kỳ-hoàn, họ đứng chần chờ ở dưới chân thành hoặc dưới gốc cây chứ không chịu vào.

Nhóm mười bảy Tỳ-kheo tuổi nhỏ, không chịu nổi cơn đói, liền ra ngoài cửa trông chừng nhưng không thấy, liền leo lên cây cao và ngó thấy nhóm sáu Tỳ-kheo đang ngồi dưới gốc cây hoặc ở dưới thành. Thấy các Tỳ-kheo ấy trèo cây, các trưởng giả liền đến bạch Thế Tôn. Thế Tôn bảo:

- Không được trèo lên cây cao quá đầu người. Ai trèo lên cây cao quá đầu người th́ không hợp với giới hạnh (trừ khi sợ hổ, sói, trộm cướp).

  

Phật ở vườn Kỳ-thọ Cấp Cô Độc, thuộc nước Xá-vệ.

Lúc ấy có Tỳ-kheo tên Tư-cừu, ưa thích đấu tranh, không biết tôn ty, đụng ai cũng mắng chửi. Các Tỳ-kheo mười hai pháp đến bạch Thế Tôn. Thế Tôn  bảo:

- Tha thứ cho Tỳ-kheo như tha thứ cho người si.

Có bảy pháp sám hối lỗi lầm:

1- Trước đó có lỗi, nên dạy sám hối lỗi ấy, là pháp thứ nhất.  

2- Làm ngay thẳng, tâm ư của ông không để có lỗi lầm, là pháp thứ hai.

3- Nếu người ngu gây lỗi th́ dạy cho yên lặng, là pháp thứ ba.

4- Người không biết pháp, dạy cho biết pháp, là pháp thứ tư.

5- Có phạm lỗi ở trong chúng Tỳ-kheo phải như cỏ che đất, sám hối rồi lại sám hối thêm nữa, là pháp thứ năm.

Tỳ-kheo trách phạt phải đủ năm pháp:

* Bản thân không có lỗi lầm, sau đó mới trách người kia. Ḿnh đă không trong sạch, không thể tự làm trong sạch, th́ trước hết phải tự làm trong sạch, sau đó mới làm trong sạch cho người. Đối với pháp thứ nhất, Tỳ-kheo trách phạt phải giữ tâm ư cho ngay thẳng, sau đó mới trách phạt người. Đó là pháp thứ nhất.

* Tỳ-kheo trách phạt ấy nếu có nói ǵ bất tịnh, riêng ḿnh bất tịnh, không thể tự tịnh, trước hết phải tự làm sạch ḿnh, sau đó mới làm sạch người. Đối với pháp thứ hai này, Tỳ-kheo trách phạt phải chuyên nhất tâm ư, sau đó mới trách phạt người. Đó là pháp thứ hai.

* Tỳ-kheo trách phạt ấy, nếu tâm ḿnh bất tịnh, không thể tự làm sạch th́ trước hết phải làm sạch tâm ḿnh, sau đó mới làm sạch người. Đối với pháp thứ ba ấy, Tỳ-kheo trách phạt phải chuyên nhất tâm ư, sau đó mới trách phạt người kia. Đó là pháp thứ ba.

* Tỳ-kheo trách phạt đi lại vô độ, không thể tự kềm chế th́ trước tiên phải làm trong sạch ḿnh, sau đó mới làm trong sạch người. Đối với pháp thứ tư này, Tỳ-kheo trách phạt phải chuyên nhất tâm ư, sau đó mới trách phạt người kia. Đó là pháp thứ tư.

* Tỳ-kheo trách phạt nếu không được nghe nhiều, không được thông minh, trước kia chưa được học hành th́ trước hết phải siêng năng học, sau đó mới dạy người. Đối với pháp thứ năm này, Tỳ-kheo trách phạt phải chuyên nhất tâm ư, sau đó mới trách phạt người kia. Lại phải học năm pháp cung kính là: cung kính Thế Tôn, Pháp, chúng Tăng, giới, tịnh hạnh. Đó là năm pháp.

Nếu có phạm lỗi th́ Tỳ-kheo Thượng tọa phải sám hối với Tỳ-kheo Hạ tọa, Tỳ-kheo Hạ tọa phải sám hối với Tỳ-kheo Thượng tọa. Phải tha thứ lỗi lầm cho nhau, không được để qua một đêm không sám hối tội lỗi. Nếu để qua một đêm không sám hối th́ đối với pháp Tỳ-ni sẽ không đạt được pháp Tỳ-ni.

Nếu các Tỳ-kheo ư không được tốt, có phạm lỗi ǵ th́ Tỳ-kheo Thượng tọa và Tỳ-kheo Hạ tọa phải cùng nhau sám hối để đạt được pháp Tỳ-ni nơi pháp Tỳ-ni, các Tỳ-kheo liền được yên thân hành đạo.

Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Ai có lỗi không sám hối th́ không hợp với giới hạnh.

(Trong bảy pháp thiếu mất hai pháp là trưởng lăo và thiếu niên. Về sau, vị ấy phân năm pháp thành bảy pháp, tách pháp trên, dưới hướng về nhau sám hối ở năm pháp sau thành hai pháp nữa, thế là đủ bảy pháp).

Giới y hạ ở trong luật không giống nhau (luật nói quấn nhuyễn, giới bên trên nói quấn nhuyễn đầu y thành h́nh như vắt cơm lúa mạch nghĩa là cuốn ngược lên).

Trong phần liên quan đến ba y (bốn giới trước giống nhau, sáu giới sau thiếu một giới lật ngược y vắt lên vai phải mà đi vào hoặc ngồi trong nhà).

Thuyết pháp (ḿnh ngồi ghế thấp, người ngồi ghế cao th́ không  được thuyết pháp).

Vẩy tay để lấy thức ăn (trong luật thiếu vẩy tay, vung vẩy hai chân).

Thọ thực: luật chỉ cho nhận cơm vừa ngang bát, không được há lớn miệng vét bát, thọc ngón tay cái vào cơm, không nhai mà nuốt, ăn vắt cơm lớn, dùng ngón tay lượm cơm bỏ vào miệng nhai.

Vào trong nhà (trong luật có trợn mắt, ngước đầu, kêu gọi lớn tiếng, ngước nh́n một cách tự đại như vậy).

TỲ NẠI DA

previous.png     Hết quyển mười (trọn bộ) 

Đầu Trang | 01 | 02 | 03 | 04 | 05| 06 | 07 | 08 | 09 | 10

 

 

 

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0