佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

 TRANG CHỦ*--KINH ĐIỂN*--ĐẠI TẠNG KINH*--THẦN CHÚ*--HÌNH ẢNH*--中文*--ENGLISH

 Đại Phương Đẳng Đà La Ni Kinh, 4 quyển, Sa-môn Thích Viên Đức

VT1339

Quyển Một   Quyển Hai   Quyển Ba   Quyển Bốn

KINH ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG ĐÀ RA NI

Hán Dịch:  Bắc Lương, Sa-Môn Pháp Chúng

Việt Dịch: Sa-Môn Thích Viên Đức

Quyển Một

Phần Một

Tôi nghe như vầy: Một thời đức Phật ở tại nước Xá-vệ, trong rừng cây Kỳ-đà cùng với 500 đại đệ tử đều câu hội đầy đủ.

Bấy giờ Văn-thù-sư-lợi Pháp Vương Tử từ thành Vương Xá đem theo đủ 92 ức chúng đại Bồ-tát. Tên quư vị ấy là: Văn-thù-sư-lợi Pháp Vương Tử, Từ Vương Pháp Vương Tử, Đại Mục Pháp Vương Tử, Phạm Âm Pháp Vương Tử, Diệu Sắc Pháp Vương Tử, Chiên-đàn Lâm Pháp Vương Tử, Sư Tử Hống Âm Pháp Vương Tử, Diệu Thinh Pháp Vương Tử, Diệu Sắc H́nh Mạo Pháp Vương Tử, Chủng Chủng Trang Nghiêm Pháp Vương Tử, Thích Tràng Pháp Vương Tử, Đảnh Sanh Pháp Vương Tử, hết thảy 92 ức như vậy đến rừng Kỳ-đà thấy đức Phật Thế tôn, nhiễu quanh Phật ba ṿng, đầu mặt lễ chân Phật rồi lui ngồi một bên, cùng nhau cung kính khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.

Đại vương Ba-tư-nặc đem 500 vương tử. Các vị ấy là: Càn-đề-la vương tử, Trưởng Sanh vương tử, Chơn Như Pháp vương tử, Pháp H́nh vương tử… cả thảy 500 vương tử như vậy đều đến rừng Kỳ-đà, nhiễu Phật ba ṿng, đầu mặt lễ chân Phật rồi lui ngồi một bên, khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.

Ức-già-hằng-khư Ưu-bà-tắc trong thành Xá-vệ đem 600 Ưu-bà-tắc, tên các vị ấy là: Ức-già-đế Ưu-bà-tắc, Diệu Thinh Ưu-bà-tắc, Chư Tướng Trang Nghiêm Ưu-bà-tắc, Hảo Nghiêm Tâm Ưu-bà-tắc, Tu-đạt-đa Ưu-bà-tắc… hết thảy 600 Ưu-bà-tắc như vậy đều đến rừng Kỳ-đà, nhiễu Phật ba ṿng, đầu mặt lễ chân Phật rồi lui ngồi một bên, khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.

Lại có 500 đốc tín (ḷng tin thuần thành) Ưu-bà-di, các vị ấy là: Tỳ-xá-khư Ưu-bà-di, Không Diệu Tướng Ưu-bà-di, Hoa Dị Kỹ Nữ Ưu-bà-di, Khiên-na-la Ưu-bà-di, Thuyền-thực-già Ưu-bà-di, Ma-ha-nam Ưu-bà-di… cả thảy 500 vị Ưu-bà-di như vậy đều đến rừng Kỳ-đà, nhiễu Phật ba ṿng, đầu mặt lễ chân Phật rồi lui ngồi một bên, khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.

Lại có Ức-già Trưởng giả tử cùng 500 Trưởng giả tử đều đầy đủ, các vị ấy tên là: Tu-đạt-đa Trưởng giả tử, Lư-như-đạt-đa Trưởng giả tử, Chiên-đàn Lâm Trưởng giả tử, Diệu Sắc H́nh Mạo Trưởng giả tử… hết thảy 500 vị Trưởng giả tử như vậy đều đến rừng Kỳ-đà, nhiễu Phật ba ṿng, đầu mặt lễ chân Phật rồi lui ngồi một bên, khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.

Lúc bấy giờ, đức Văn-thù-sư-lợi liền từ ṭa đứng dậy, trịch vai áo bên hữu, gối hữu sát đất, chắp tay cung kính, mắt không tạm rời mà bạch đức Phật rằng: “Đức Thế tôn Như Lai trước sau đă nói các đà-ra-ni là môn cao tột trong tất cả thế gian, lại là cao tột trong Chánh pháp, lại là hơn hết trong chư Thiên. Chúng sanh ở đây lấy Pháp tối thắng này để vào các môn đà-ra-ni quán cảnh giới của Phật. Đức Thế tôn lấy từ bi lực v́ vô lượng vô biên chúng sanh cho nên diễn bày giải nói danh tự đà-ra-ni.”

Phật dạy Văn-thù-sư-lợi: “Lành thay, lành thay! Thiện nam tử, ông v́ vô lượng khổ năo chúng sanh nên thỉnh hỏi môn đà-ra-ni. Thiện nam tử, ông hăy lắng nghe! Ta sẽ v́ ông mà lược nói danh tự của các đà-ra-ni. Thiện nam tử, có đà-ra-ni tên là Ma-ha-đản-tŕ, có đà-ra-ni tên Ma-ha-ly-bà-đế, có đà-ra-ni tên Bảo Tràng, có đà-ra-ni tên Bảo Diễm, có đà-ra-ni tên Bảo Cái, có đà-ra-ni tên Kim Cang Cái, có đà-ra-ni tên Kim Cang Diệu, có đà-ra-ni tên Chư Sắc Trang Nghiêm, có đà-ra-ni tên Kim Cang Sắc Thân, có đà-ra-ni tên Chủng Chủng Trang Nghiêm, có đà-ra-ni tên Bạt-hầu-già-la, có đà-ra-ni tên Tỳ-già-đà-la, có đà-ra-ni tên Thủy Quang, có đà-ra-ni tên Tam-muội, có đà-ra-ni tên Hoa Tụ, có đà-ra-ni tên Quyết Định, có đà-ra-ni tên Thường Trụ, có đà-ra-ni tên Chúng Hoa Hương, có đà-ra-ni tên Chủng Chủng Quang Minh. Thiện nam tử, những đà-ra-ni như thế đó 92 ức Hằng hà sa môn, mỗi mỗi đà-ra-ni lại có 92 ức Hằng hà sa môn, như vậy kẻ trí giả nên lần lượt thứ lớp thi thuyết ba phẩm (thượng, trung, và hạ căn), nói các đà-ra-ni này phải đúng thời mà nói.”

Văn-thù-sư-lợi đă đem 92 ức Bồ-tát trụ Vô sanh Pháp nhẫn, sáu trăm Ưu-bà-tắc trụ Bích-chi Phật tâm, năm trăm Ưu-bà-di viễn trần ly cấu được Pháp nhăn tịnh, năm trăm trưởng giả tử phát Tam-bồ-đề tâm. Vua Ba-tư-nặc đă đem hết thảy các vương tử, ở trước đức Như Lai, cầu xin xuất gia.

Phật dạy các vương tử: “Lành thay, lành thay! Nay ở trong Pháp của ta cầu xin xuất gia, nay chính là lúc đúng thời, ”

Đức Phật dạy các vương tử: “Thiện lai Tỳ-khưu!” th́ các vương tử râu tóc tự rớt, Pháp phục tự mặc, liền thành Sa-môn giới hạnh đầy đủ. Khi ấy đức Thế tôn v́ các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minh và Lục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân. Lúc ấy đức Thế tôn lặng thinh ấn khả, liền nhập chư đà-ra-ni môn phóng đại quang minh, chiếu nơi Đông phương vô lượng ức thiên na-do-tha tam thiên đại thiên thế giới. Từ phía sau Càn Đà Sơn phóng quang này rồi, có vô lượng ức thiên na-do-tha Dạ-xoa, Nam, Tây, Bắc phương và bốn phía, dưới đến Ca-đà-nan thế giới, trên đến tiếp thức 10 phương thế giới cũng lại như vậy. Mỗi mỗi đều có vô lượng ức thiên na-do-tha chúng Dạ-xoa, thấy hào quang ấy rồi, liền khi đó t́m ánh quang, qua đến thế giới Ta-bà, tới rừng Kỳ-đà, thấy đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai vào các môn đà-ra-ni, và thấy Văn-thù-sư-lợi Pháp Vương Tử nơi hai bên tả hữu đức Phật, muốn thỉnh Thế tôn chuyển Pháp luân.

Bấy giờ có vô lượng ức thiên na-do-tha Dạ-xoa chúng và Văn-thù-sư-lợi, các đại Bồ-tát cùng 500 đại đệ tử, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, cư sĩ, cư sĩ tử, mỗi mỗi đều từ Phật nhập các môn đà-ra-ni. Lúc ấy trong chúng có một Tỳ-khưu gọi là Lôi Âm, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào trong rừng nhập thiền tam-muội. Bấy giờ trong hư không có các chúng ma, lúc ấy trong chúng có một ma vương gọi là Đản-trà-la ở nơi hư không khởi ḷng suy nghĩ rằng “vô lượng đại chúng trước sau đoanh vây đức Phật Thích-ca Mâu-ni, nghe ngài nói Pháp được lợi lành lớn. Nay Tỳ-khưu này lại nhập thiền định tam-muội. Nếu ta không hoại diệt nhơn duyên thiện căn của Tỳ-khưu này, th́ Tỳ-khưu này sẽ quyết định nơi đời Hiền kiếp thành Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác, thành Nhứt thiết trí, được đại thiện lợi. Ta nay đem các quyến thuộc phá hoại thiện căn nhơn duyên của Tỳ-khưu này.”

Lúc ấy ma vương liền đem 92 ức quyến thuộc đến rừng Kỳ-đà ngăn che thiện căn nhơn duyên của Tỳ-khưu. Bấy giờ Lôi Âm Tỳ-khưu hết sức buồn rầu lo lắng, lớn tiếng kêu rằng:

- Nam mô thập phương tam thế vô lượng chư Phật

- Nam mô thập phương tam thế chư Pháp

- Nam mô thập phương thiểu phần Túc nhơn.

Xướng như vậy rồi, lúc ấy mười phương chư Phật đồng thinh xướng rằng: “Sẽ dùng pháp ǵ cứu Tỳ-khưu kia?” Bấy giờ Bảo Vương Phật giơ tay nói rằng: “Trong chúng Bồ-tát đây, có Bồ-tát nào có thể cứu khổ vị Tỳ-khưu chăng?”

Bấy giờ trong chúng có một Bồ-tát tên gọi Hoa Tụ, liền từ ṭa đứng dậy, trịch vai áo bên hữu, gối hữu sát đất, chắp tay hướng Phật mà bạch đức Phật rằng: “Sẽ lấy pháp ǵ răn bảo Đản-trà-la kia?”

Bấy giờ Phật dạy Hoa Tụ đại Bồ-tát: “Ông không biết ư? Ta nay lấy bí pháp của chư Phật răn bảo Đản-trà-la kia.”

Bấy giờ Phật dạy Hoa Tụ đại Bồ-tát: “Ta sẽ lấy Ma-ha Đản-tŕ đà-ra-ni Chương cú hàng phục ma Ba-tuần này, tăng thêm căn lành cho Tỳ-khưu kia. Ông nay lắng nghe, ta sẽ v́ ông mà nói bí pháp của chư Phật.”

Hoa Tụ bạch đức Phật rằng: “Cúi mong đức Thế tôn, chúng con mong muốn được nghe diệu Pháp như thế.”

Phật dạy: “Này Hoa Tụ, ta nay nói với ông chớ nên truyền diệu Pháp như thế, phải nên nhờ thần minh làm chứng. Ǵ gọi là thần minh? Thiện nam tử, phải có 12 điều mộng vương như sau, nếu thấy một điều mộng vương đó, mới có thể v́ người khác mà nói.”

Bấy giờ đức Thế tôn liền nói đà-ra-ni chương cú:

Nam mô hốt hốt điệt tả Trệ đề dị cần Na dà di mi Sa ha Đá điệt tha Bồ ḱ lẫm bà Uất ba đa t́ da Bồ ḱ lẫm bà Liệt phá la A nâu na Đá điệt tha A nâu na Đá điệt tha Phục đắc cứu truy Bồ ḱ lẫm bà Sa ha.

Khi nói Pháp này, có tám vạn bốn ngàn Bồ-tát trụ thiểu phần túc địa, có hai mươi sáu vạn Tỳ-khưu trụ Bích-chi Phật địa, lại có ba vạn bốn ngàn Tỳ-khưu đắc A-la-hán quả, có bảy vạn Ưu-bà-tắc phát tâm Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác, có năm trăm Ưu-bà-di xa ĺa trần cấu, đắc Pháp nhăn tịnh.

Bấy giờ Hoa Tụ Bồ-tát liền tán khen Phật rằng:

Thế tôn sắc thân như núi vàng

Cũng như mặt trời chiếu thế gian

Hay dứt hết thảy các khổ năo

Con nay cúi đầu Đại Pháp Vương

Thế tôn thân tướng như núi cả

Đại từ vô lượng hộ hết thảy

Chúng con thọ giáo thành chủng trí

Trừ bỏ xan tham, ĺa các trước

Thế chúa Pháp Vương rất hi hữu

Như vậy diệu Pháp c̣n quá hơn

Khó thấy, khó nghe, cũng khó gặp

Nếu có thấy nghe thành Chánh giác

Thế tôn pháp lực hơn hơn hết

Quá hơn ba cơi, thấy chúng sanh

Nếu có chúng sanh chí tâm nghe

Không một người nào chẳng đắc đạo

Đă gọi kẻ sáng thành Chánh giác

Độ các chúng sanh không ngằn mé

Riêng đến đạo tràng làm Thiên sư

Vậy sau nói Pháp rốt ráo vui.

Khi Hoa Tụ Bồ-tát đă tán khen Phật rồi, thoạt nhiên ẩn thân, liền qua Tây phương Ta-bà thế giới, đến rừng Kỳ-đà thấy Lôi Âm Tỳ-khưu bị 92 ức thiên ma Ba-tuần che giấu. Bấy giờ Hoa Tụ Bồ-tát nói với Đản-trà-la rằng: “Ngươi nay làm ǵ? Có phải muốn phá hoại thiện căn nhơn duyên của Tỳ-khưu này?”

Thế tôn oai lực rất vô lượng

Hay hoại tất cả các ngoại đạo

Hay phá tất cả các ác tặc

Hay lập tất cả các thiện pháp.

Lúc bấy giờ ma vương nghe lời ấy rồi, ḷng càng kinh hăi, lông ḿnh đứng dựng, tức thời báo rằng:

“Ta là thế vương

Tự tại nơi đời

Hay hoại tất cả

Các thiện trí tuệ.”

Bấy giờ Hoa Tụ Bồ-tát bảo ma vương rằng:

“Trí huệ Thế tôn chiếu hư không

Hay tận tất cả các ác pháp

Ta sẽ phục ngươi như Tần-bà

Ngươi nếu không tin, nay sẽ biết.”

Bấy giờ Hoa Tụ Bồ-tát nói với Lôi Âm rằng: “Ông nay lắng nghe, ta sẽ v́ ông nói phục các ác thú. Ta sẽ phục ma Ba-tuần này, nhân đây ông sẽ được chứng biết phương tiện của chư Phật.”

Lúc ấy Hoa Tụ Bồ-tát liền nói chương cú đà-ra-ni:

Nam mô hốt hốt điệt tả Trệ đề dị cần Na dà da di Sa ha.

Khi nói Pháp này, có 600 ma vương, lễ chân Bồ-tát, chắp tay cung kính, bạch Bồ-tát rằng: “Có đà-ra-ni gọi là Tự Thệ, chúng tôi muốn lập đà-ra-ni như thế, cúi mong hứa cho!”

Hoa Tụ nói: “Tiểu trụ Đản-trà-la nói chưa đúng thời!”

Bấy giờ Hoa Tụ lại nói câu đà-ra-ni:

Đá điệt tha Bồ ḱ lẫm bà Uất ba đa t́ da Bồ ḱ lẫm bà Liệt phá la A nâu na Đa điệt tha A nâu na Đa điệt tha Phục đắc cứu truy Bồ ḱ lẫm bà Sa ha.

Chính khi nói Pháp, có 600 vạn ma vương Ba-tuần đồng kêu trách: “Sao khổ thế này? Chịu khổ như vầy, phải làm thế nào để khỏi những khổ như thế?”

Bấy giờ Hoa Tụ liền bảo ma vương rằng: “Nếu muốn ĺa các khổ như thế, các ngươi phải phát tâm Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác.”

– Dạ vâng! Cúi mong đại sĩ, chúng con xin phát Tam-bồ-đề tâm!

Hoa Tụ nói: “Lành thay, lành thay!”

Khi ấy các ma vương liền nói đà-ra-ni rằng:

Nam mô ma ha phù đà kha Nam mô ma ha ly bà phù đà kha Nam mô Hoa Tụ đà-ra-ni Tỳ xá xà trất mục Uùc dà lâm Đàn tra lâm Cùng dà lâm Hằng dà cấm A lệ na lệ na la lệ Sa ha.

Bấy giờ Hoa Tụ khen ma vương rằng: “Lành thay, lành thay Phật tử! Có thể thọ tŕ Ma-ha Đản-tŕ đà-ra-ni Chương cú, sẽ được lợi ích lớn cho vô lượng ma chúng.”

Bấy giờ ma vương hớn hở vui mừng, liền cởi Kiếp-ba-dục y trên thân mà đem cúng dường, các y chất đầy như núi Tu-di mà đem cúng dường Hoa Tụ đại Bồ-tát. Đă cúng dường xong, ma vương lại bạch Hoa Tụ rằng: “Mười hai vị đại vương chúng tôi sẽ thọ tŕ Ma-ha Đản-tŕ đà-ra-ni Chương cú này, lại c̣n che chở, cúng dường người nào tŕ Kinh này. Những người như vậy, nếu gặp khổ ách, phải nên xưng 12 thần danh của chúng tôi.”

Hoa Tụ liền dạy ma vương rằng: “Tên của các vị ấy như thế nào?”

Ma vương thưa:

1. Vương tên Đản-trà-la

2. Vương tên Cân-đề-la

3. Vương tên Mậu-tŕ-la

4. Vương tên Càn-cơ-la

5. Vương tên Đa-lâm-la

6. Vương tên Ba-lâm-la

7. Vương tên Đàn-lâm-la

8. Vương tên Thuyền-đa-lâm-la

9. Vương tên Cùng-già-lâm-la

10. Vương tên Ca-lâm-la

11. Vương tên Cùng-già-lâm-la

12. Vương tên Bà-lâm-la.

Hết thảy các vương như vậy đều xướng lên rằng: “Bọn chúng tôi sẽ thọ tŕ đọc tụng Kinh đà-ra-ni để nhiếp cứu người tu hành, khiến cho họ bền chắc Tam-bồ-đề tâm và hoạch đắc thiện lợi.”

Bấy giờ Hoa Tụ tán khen ma vương rằng: “Lành thay, lành thay! Các ngươi ngày nay phát tâm đại dơng mănh thọ tŕ, ủng hộ đà-ra-ni Kinh điển và đem ban cho người tu hành, không bao lâu các ngươi sẽ được thành Đẳng chánh giác.”

Lúc ấy các ma vương nhảy nhót vui mừng, được điều chưa từng có, liền từ ṭa đứng dậy, lễ chân Bồ-tát, trước sau vây quanh, vui mừng tuân hành phụng giữ đà-ra-ni Kinh điển.

Bấy giờ Lôi Âm liền từ ṭa đứng dậy, chắp tay cung kính bạch Hoa Tụ rằng: “Lành thay! Chúng Pháp Tụ Sĩ đem Đại Phương Đẳng đà-ra-ni này đến để cứu tôi, khiến cho tôi ở trong Pháp sanh tâm được tăng thọ; thí như người chết, chết rồi sống lại, tôi nay cũng lại như thế. Ngài nay chính là chư Pháp mẫu trong pháp hùng mănh, khiến thân tôi sống lại trong tâm pháp bền chắc.”

Hoa Tụ nói: “Tôi không phải là chư Pháp mẫu. Đà-ra-ni như thế mới đáng là mẫu, mới đáng là phụ. Ông sẽ thọ tŕ đà-ra-ni này.”

Bấy giờ Lôi Âm bạch Hoa Tụ rằng: “Lúc ấy, tôi hướng đến đức Thế tôn được vô lượng đại chúng trước sau đoanh vây, v́ chúng sanh mà nói Pháp.”

Bấy giờ Hoa Tụ hỏi Lôi Âm rằng: “Tên đức Thế tôn ấy là chi?”

Lôi Âm đáp rằng: “Tên Thích-ca Mâu-ni, từ bi che khắp vô lượng chúng sanh như Ngài không khác vậy, đại từ vô lượng cũng dụ như Ngài, cứu nhiếp tất cả ách khổ địa ngục, ban vui vô lượng. Hai chúng ta có thể cùng đến đó cúng dường Thế tôn, sẽ được lợi lành.”

Khi nói lời ấy th́ trong hư không có 82 ức chư Thiên Đao-lợi tấu trỗi nhạc trời, thiêu hương, rải hoa cúng dường ngài Hoa Tụ. Bấy giờ trong chúng ở hư không, có một Thiên vương gọi là Ma-ha Dà-lại-xa bảo chư Thiên chúng: “Hai vị đại sĩ này muốn hưng khởi đại Pháp, chúng ta qua đó để chính tai nghe được Pháp cam lồ của chư Phật.”

Bấy giờ hai vị đại sĩ liền từ ṭa đứng dậy, sửa sang y phục rồi cùng các chúng ma và các Thiên nhơn lội bộ mà đi. Khi ấy, chư Thiên liền theo hai người qua đến Kỳ-hoàn.

Lúc ấy đức Thế tôn xa nghe Thiên nhạc, từ thiền định dậy bảo A-nan rằng: “Ra bên ngoài xem tiếng ǵ đấy?”

Bấy giờ A-nan vâng lời đức Thế tôn dạy, liền ra ngoài nghe, thấy có hai người cùng vô lượng đại chúng trước sau vi nhiễu cũng như núi vàng qua đến Kỳ-hoàn. Bấy giờ ngài A-nan trở vào trong Kỳ-hoàn, quỳ dài chắp tay mà bạch đức Phật rằng: “Ngoài kia có hai người thân như núi vàng, mầu nhiệm không chi sánh kịp, dụ như mặt trời chói sáng, hay chiếu suốt hết thảy trong ngoài.”

Khi A-nan nói chưa dứt lời, Hoa Tụ Bồ-tát phóng đại quang minh chiếu khắp mười phương vô lượng thế giới, chu biến tất cả, ai thấy hào quang nào đều được giải thoát. Bấy giờ Hoa Tụ thầm nghĩ “lấy ǵ chứng minh?” Suy nghĩ như vậy rồi, bấy giờ Bà-tẩu từ địa ngục ra, đem theo 92 ức tội nhơn t́m hào quang đến Ta-bà thế giới, mười phương thế giới mỗi mỗi cũng đều đem 92 ức tội nhơn, cũng lại như vậy, cũng t́m hào quang qua tới Ta-bà thế giới. Bấy giờ vô lượng vô biên đại chúng trước sau đoanh vây đến Kỳ-hoàn tinh xá, thấy đức Phật Thích-ca Mâu-ni và hai vị hiền sĩ này ở hai bên tả hữu của Phật.

Bấy giờ Xá-lợi-phất thấy trong tâm đại chúng có điều nghi, năm trăm đại đệ tử và chư đại chúng, ḷng mỗi vị đều sanh nghi. Xá-lợi-phất biết tâm chúng nghi, tự ḿnh cũng chưa rơ, liền từ ṭa đứng dậy, trịch vai áo bên hữu, gối hữu sát đất, bạch đức Phật rằng: “Kính thưa đức Thế tôn, đại chúng như thế từ phương nào bỗng nhiên đến nơi rừng Kỳ-đà này? Thưa đức Thế tôn, Bồ-tát như thế xưa đă chưa từng thấy mà nay lại thấy, Trời người như thế xưa đă chưa từng thấy mà nay lại thấy, ma vương như thế xưa đă chưa từng thấy mà nay lại thấy, tội nhơn (người ở địa ngục) như thế xưa đă chưa từng thấy mà nay lại thấy. Bồ-tát, Trời người, ma vương, tội nhơn như thế nay từ phương nào thoạt nhiên đến đây?”

Bấy giờ đức Thế tôn lặng thinh không đáp. Lúc ấy Văn-thù-sư-lợi nói với Xá-lợi-phất rằng: “Này Thiện nam tử, đại chúng như thế, ta nay sẽ nói, ông hăy lắng nghe. Vị Bồ-tát ấy tên là Hoa Tụ, thấu rơ phương tiện, từ phương Đông đến chỗ Phật. C̣n chư Thiên kia là từ cơi Trời Đao-lợi mà đến chỗ Phật. Các ma chúng kia là ma chúng của cơi này vậy. Với các tội nhơn, người thứ nhứt tên là Bà-tẩu. Ông nay nên biết, khi đức Thế tôn chưa ra đời, người ấy làm điều không lành nên phải đọa địa ngục trải nhiều thọ khổ. Ông không thấy sao? Hoa Tụ đại Bồ-tát này phóng đại bi quang, nhơn ánh quang ấy, Bà-tẩu từ A-tỳ đại địa ngục ra mà qua đến đây.”

Xá-lợi-phất thưa: “Bà-tẩu tiên nhơn này, được nghe Phật nói đă lâu rồi, v́ làm điều không lành nên vào địa ngục. Tại sao nay nói Bà-tẩu tiên nhơn ra khỏi địa ngục, được gặp Như Lai đến Chơn đẳng Chánh giác, và các tội chúng từ các phương khác cùng với Bà-tẩu qua đến nơi đây? Phật nói một người làm điều không lành khiến nhiều người khác ra khỏi địa ngục, việc này khó tin, cái nghĩa đó như thế nào? Văn-thù-sư-lợi, mong ngài nói cho ít lời để giúp tôi được ĺa các điều nghi lầm.”

Phật dạy Xá-lợi-phất: “Lành thay, lành thay! Khéo hỏi việc đó, hăy lắng nghe, hăy lắng nghe! Ta sẽ v́ ông mà nói!”

Xá-lợi-phất thưa: “Cúi mong đức Thế tôn, con mong muốn nghe!”

Phật bảo Xá-lợi-phất: “Thiện nam tử, chớ nên nói thế, đại chúng như vậy qua đến chỗ ta đều có nhơn duyên, tóm lại có ba việc: Thứ nhất, chúng ấy chẳng thể nghĩ bàn, Bồ-tát chúng muốn khiến ta nói Đại Phương Đẳng đà-ra-ni, cho nên khiến ta hiển bày phương tiện vị tằng hữu, v́ vậy đến ngăn che Lôi Âm Tỳ-khưu này. Về nhơn duyên thiện căn của Lôi Âm Tỳ-khưu, ta nay sẽ nói, các ông lắng nghe!”

Xá-lợi-phất thưa: “Cúi mong đức Thế tôn, con mong muốn nghe!”

– Thiện nam tử, thứ hai: chúng ấy gồm Hoa Tụ Bồ-tát và Trời Đao-lợi sở dĩ đến chỗ ta là v́ muốn hiển bày oai thần lực của đà-ra-ni này, lại muốn hiển dương sức thần thông của mười phương chư Phật, v́ nhơn duyên đó mà đến chỗ ta.

Thiện nam tử, thứ ba: chúng ấy v́ muốn phá định thọ quả báo của hết thảy chúng sanh, các chúng như vậy, v́ nhơn duyên đó, qua đến chỗ ta. Thiện nam tử, chớ nên nói Bà-tẩu tiên nhơn là người địa ngục vậy. V́ cớ sao thế? Ông nay lắng nghe, Thiện nam tử, Bà ấy gọi là Thiên, Tẩu ấy gọi là Huệ, cho nên gọi là Bà-tẩu. Như vậy, người Thiên Huệ th́ tại sao lại rốt ráo chịu khổ địa ngục? Điều đó không có lư.

Lại nữa Thiện nam tử, Bà ấy gọi là Quảng, Tẩu ấy gọi là Thông. Quảng thông tất cả các Pháp th́ tại sao lại rốt ráo vào địa ngục? Điều đó không có lư.

Lại nữa Thiện nam tử, Bà ấy gọi là cao, Tẩu ấy gọi là diệu, trong các phương tiện, người này cao diệu hơn hết thảy. Đă là người cao diệu th́ tại sao lại rốt ráo chịu khổ địa ngục? Điều đó không có lư.

Lại nữa Thiện nam tử, Bà ấy gọi là ly, Tẩu ấy gọi là đoạn, ly đoạn tất cả khổ năo ấy th́ tại sao lại rốt ráo chịu khổ ở địa ngục? Điều đó không có lư.

Lại nữa Thiện nam tử, Bà ấy gọi là thiện, Tẩu ấy gọi là tri, như vậy thiện tri hết thảy Pháp th́ làm thế nào lại rốt ráo chịu khổ ở địa ngục? Điều đó không có lư.

Lại nữa Thiện nam tử, Bà ấy gọi là cương, Tẩu ấy gọi là nhu, người cương nhu th́ tại sao lại rốt ráo chịu khổ ở địa ngục? Điều đó không có lư.

Lại nữa Thiện nam tử, Bà ấy gọi là từ, Tẩu ấy gọi là bi, từ bi như thế ấy th́ làm thế nào lại rốt ráo chịu khổ ở địa ngục? Điều đó không có lư.

Lại nữa Thiện nam tử, Bà ấy gọi là lực, Tẩu ấy gọi là thiện, người lực thiện th́ làm thế nào lại rốt ráo chịu khổ ở địa ngục? Điều đó không có lư.

Lại nữa Thiện nam tử, Bà ấy gọi là thần, Tẩu ấy gọi là thông, người thần thông th́ làm sao lại rốt ráo vào nơi địa ngục trải qua các thọ khổ? Điều đó không có lư.

Lại nữa Thiện nam tử, Bà ấy gọi là tướng, Tẩu ấy gọi là hảo, kẻ có tướng hảo th́ làm sao lại rốt ráo vào nơi địa ngục? Điều đó không có lư.

Lại nữa Thiện nam tử, Bà ấy gọi là tổng, Tẩu ấy gọi là tŕ, tổng tŕ phương tiện th́ làm sao lại vào nơi địa ngục rốt ráo chịu khổ? Xá-lợi-phất! Những việc này rất nhiều, ta nay chỉ lược nói, nói mười việc về nhơn duyên Bà-tẩu. Nếu phải nói rộng ra hai chữ danh hiệu ấy, th́ nghĩa ấy rất nhiều, cùng năm suốt đời cũng không hết.

Thiện nam tử, chớ nói Bà-tẩu tiên nhơn ở tại địa ngục rốt ráo thọ khổ. Thiện nam tử, nếu nói lời ấy tức là hủy báng đà-ra-ni trên đây, và hủy báng kim cang sắc thân, cho đến hủy báng Bảo Vương Như Lai kai, và hủy báng Hoa Tụ đại Bồ-tát này, và c̣n hủy báng mười phương ba đời chư Phật. Người này quyết vào địa ngục không nghi. Tại v́ sao? Hủy báng đà-ra-ni trên là hủy báng tất cả chư Phật, (người này) quyết vào địa ngục không c̣n nghi ngờ vậy. Thiện nam tử, chớ nói Bà-tẩu tiên nhơn ở tại địa ngục!”

Lúc bấy giờ Xá-lợi-phất bạch đức Phật rằng: “Kính thưa đức Thế tôn, từng nghe Phật nói Bà-tẩu tiên nhơn vào nơi địa ngục trọn không ngày ra, sở dĩ v́ thế cho nên con mới dám phát lời hỏi. Đức Thế tôn, Bà-tẩu tiên nhơn vào địa ngục lúc nào mà nhờ Phật giải thoát?”

– Thiện nam tử, ta xưa ở trên Đâu-suất Thiên, Bà-tẩu tiên nhơn này ở tại Diêm Phù Đề làm chủ lái buôn, đem 620 vạn thương nhân vào biển lượm của báu, nương hải thuyền đi ra biển, lần lần vào sâu để lấy trân bảo. Được các báu rồi, chở trên hải thuyền muốn về bổn quốc, giữa đường gặp nạn cá ḱnh Ma-yết, nạn sóng nước, nạn gió băo, lại gặp nạn Dạ-xoa. Sáu trăm hai mươi vạn người như vậy thời mỗi người một họ, khấn hứa Ma-hê-thủ-la Thiên. Bấy giờ bọn họ liền ĺa bốn nạn, trở về bổn quốc. Tới bổn quốc rồi, mỗi người dắt một con dê muốn đến Thiên miếu. Bấy giờ Bà-tẩu thầm nghĩ rằng “ta nay làm sao nói với những lái buôn, dạy họ đừng làm các việc ác. Ta nay sẽ bày phương tiện cứu mạng những con dê ấy”, nghĩ xong liền hóa ra hai người, một là cổ xuất gia Sa-môn, hai là tại gia Bà-la-môn. Khi ấy Bà-la-môn ở trong chúng xướng lời rằng: “Thiên chủ cùng 620 vạn người muốn đến Thiên miếu.”

Bấy giờ Sa-môn gặp Bà-la-môn ở giữa đường. Sa-môn hỏi rằng: “Ông cùng đại chúng muốn qua phương nào?”

Người tại gia nói: “Tôi muốn qua Thiên miếu mà cầu đại lợi.”

Sa-môn nói: “Tôi xem các ông muốn được đại suy chứ làm thế nào mà được đại lợi.”

Như vậy lần lượt tranh luận không thôi. Bấy giờ chúng nhơn hỏi Bà-la-môn rằng: “Đây là người nào mà h́nh mạo như thế?”

Bà-la-môn nói: “Đây là cổ thời Sa-môn.”

Những người kia hỏi: “Sa-môn nói ǵ?”

Bà-la-môn nói: “Sa-môn nói sát sanh tế Trời sẽ bị tội lớn.”

Mọi người nói với Bà-la-môn rằng: “Đó là si Sa-môn! Cần ǵ phải dụng lời nói, mau qua Thiên miếu sẽ được đại lợi.”

Bấy giờ Bà-la-môn nói: “Chúng tôi là đại sư, nay ở tại Thiên miếu, không việc ǵ mà không thấu đạt, có thể cùng chung thưa hỏi.”

Lúc bấy giờ mọi người đều nói “Hay thay!”

Sa-môn cùng Bà-la-môn và hết thảy mọi người, trước sau vi nhiễu, đến chỗ đại tiên. Bấy giờ Sa-môn hỏi đại tiên rằng: “Giết dê cúng Trời sẽ được sanh Thiên hay vào địa ngục?”

Đại tiên đáp rằng: “Si Sa-môn! Giết dê tế Trời mà đọa địa ngục ư?”

Sa-môn hỏi: “Không đọa ư?”

Bà-tẩu nói không, Sa-môn liền nói: “Nếu quả không đọa, ông phải chứng minh cho biết.”

Bấy giờ Bà-tẩu tức thời hăm thân, nhập A-tỳ địa ngục. Khi mọi người thấy việc như thế rồi liền kêu “Than ôi! Họa thay! Quả thật như vậy, đại tiên Thông Trí nay đă sa vào nơi địa ngục, huống hồ bọn chúng ta lại không khỏi đọa vào địa ngục ấy sao?”

Bấy giờ mọi người buông thả lũ dê rong chạy bốn phương, rồi vào trong núi truy t́m các tiên. Đă được tiên rồi, thọ tiên pháp trải qua 21 năm, mỗi mỗi đều mạng chung sanh Diêm Phù Đề. Thời ấy, ta từ Đâu-suất Thiên hạ sanh Diêm Phù Đề bạch tịnh vương gia. Bấy giờ 620 vạn người sanh nước Xá-vệ được thọ thân người. Ông không biết ta khi xưa mới đến nước Xá-vệ, đă hàng phục 620 vạn người khiến họ xuất gia, phát Tam-bồ-đề tâm, th́ đâu phải ai khác, chính là những kẻ thương buôn xưa kia vậy. Thiện nam tử, Bà-tẩu tiên nhơn có sức oai thần như vậy, hóa độ các người như vậy qua đến chỗ ta, th́ làm sao nói là người bị đọa vào địa ngục?

Lại nữa Thiện nam tử, Bà-tẩu tiên nhơn vào địa ngục rồi, trong mười phương đại địa ngục hóa độ những chúng sanh cực khổ, mong họ phát thiện tâm. Phát thiện tâm rồi, cầu ra khỏi địa ngục. Hoa Tụ Bồ-tát từ phương Đông qua đến Ta-bà thế giới này phóng đại quang minh, vậy các tội nhơn t́m ánh quang đến Ta-bà thế giới được gặp ta, gốc nhơn tâm lành ấy nên qua đến chỗ ta.”

Bấy giờ Văn-thù-sư-lợi khen Bà-tẩu tiên nhơn rằng: “Lành thay, lành thay, đại sĩ có đại phương tiện, hay hóa độ chúng sanh thọ khổ như vậy, mang họ đến chỗ tôi, không lâu sẽ xa ĺa tất cả các hoạn.”

Khi ấy 500 đại đệ tử xa ĺa nghi hoặc, hoan hỉ phụng hành.

Bấy giờ Lôi Âm liền từ ṭa đứng dậy, trịch vai áo bên hữu, gối hữu sát đất, ṿng tay chắp lại mà bạch đức Phật rằng:

– Kính thưa đức Thế tôn, con hướng đến nơi rừng mà tự suy nghĩ “Đức Thế tôn khi xưa tu hành khổ hạnh rất khó làm, nhập chư thiền định, tu đại bi tâm, được bi tâm rồi cứu các chúng sanh khiến ĺa ba cơi mà được vui Niết-bàn. Con nay cũng nên vào chư thiền định, nên tu từ bi tứ vô lượng tâm, cũng nên xa ĺa các giặc phiền năo, cũng nên xa ĺa hết thảy các nạn thế gian”. Nghĩ niệm vậy rồi, muốn vào môn đà-ra-ni. Chúng ma vương này đến ngăn trở sự tư duy của con như thế, khiến con không được chánh niệm, liền gào khóc kêu to, rồi không lâu sau, Bồ-tát Hoa Tụ thoạt nhiên đến chỗ con, con cũng không biết, Bồ-tát như thế qua đến chỗ con hàng ma oán rồi, bỗng nhiên con nh́n thấy bốn phương, thấy Bồ-tát Hoa Tụ đứng ở trước con, lại thấy mười phương chư Phật đều nương cưỡi liên hoa bảy báu ở trong hư không, thấy các ma vương ṿng tay chắp lại, cung kính vi nhiễu Hoa Tụ Bồ-tát. Bấy giờ con cho đó là ma vương, rồi nghe trong hư không tiếng gọi con rằng “Ông nay tại sao không biết cung kính Đại sĩ như vậy?” Con nghe lời ấy rồi, liền từ ṭa đứng dậy, đảnh lễ dưới chân, dùng đôi mắt nh́n trong hư không có chư Thiên Vương dùng các danh hoa mà đem cúng dường. Khi ấy chư Thiên liền lấy các thứ danh hoa cầm đem cho con. Con được hoa rồi liền đem cúng dường Hoa Tụ Bồ-tát ma-ha-tát. Con liền bạch “Kỳ-hoàn có đức Phật tên là Thích-ca Mâu-ni. Hai chúng ta có thể cùng chung cúng dường để được đại lợi” Nghe lời này rồi (Hoa Tụ Bồ-tát) đáp rằng “Hay thay, hay thay!” và liền từ ṭa đứng dậy cùng nhị chúng này qua đến chỗ Phật. Kính thưa đức Thế tôn, những việc này rất nhiều, con nay chỉ lược nói để đức Thế tôn được chứng biết. Cúi mong đức Thế tôn diễn bày đường lối giải thoát. Bồ-tát đă đến phương độ này có nhơn duyên ǵ để cứu con?”

Bấy giờ đức Phật dạy Lôi Âm: “Thiện nam tử, Bồ-tát ấy xưa kia là thiện tri thức của ông, đă từng cúng dường mười phương Hằng hà sa chư Phật, ở nơi các đức Phật đă rơ thấu phương tiện, thâm nhập được các môn đà-ra-ni, hay quán sát thâm sâu cảnh giới của chư Phật, biết căn tánh lợi độn của chúng sanh. Thiện nam tử, ở phương Đông có đức Phật tên là Bảo Vương, thế giới tên là Chúng Hương, cách thế giới này 20 vạn ức cơi Phật. Bồ-tát này từ phương đó mà qua đến nơi đây, muốn khiến ta hiển bày đại phương tiện xa xưa vậy. Ông nay lắng nghe, ta sẽ v́ ông mà nói. Này Thiện nam tử, thời quá khứ có Phật tên là Chiên-đàn Hoa Như Lai Vô sở trước Chí chơn Đẳng chánh giác. Đức Phật kia cách đời nay đă quá lâu xa không thể nghĩ bàn. Lúc đó ta cũng như ông không khác. Lại nữa Thiện nam tử, lúc ấy có một Bồ-tát tên là Thượng Thủ, làm một khất sĩ vào thành khất thực. Bấy giờ có một Tỳ-khưu tên là Hằng-già, gọi khất sĩ lại hỏi rằng: “Ông từ đâu đến?”

Đáp rằng: “Tôi từ trong chơn thật đến.”

Hằng-già hỏi: “Ǵ gọi là thật?”

– Tịch diệt tướng cho nên gọi là chơn thật.

– Nói rằng là tịch diệt tướng, vậy trong đó có chỗ sở cầu hay không có chỗ sở cầu?

– Không có sở cầu.

– Nói rằng không có sở cầu, th́ cần ǵ phải dụng cầu?

– Trong cái không có sở cầu cho nên ta mới cầu vậy.

– Nói rằng trong cái không sở cầu th́ dụng cái cầu để làm ǵ?

– Có sở cầu ấy tất cả đều không, đắc ấy cũng không, trước ấy cũng không, thật ấy cũng không, đến ấy cũng không, gọi ấy cũng không, hỏi ấy cũng không, tịch diệt Niết-bàn cũng lại đều không, tất cả hư không phần giới cũng lại đều không. Ta như vậy lần lượt v́ Không Pháp mà cầu chơn thật.

– Đă thật th́ dụng ǵ mà cầu? Ông nói vạn pháp cũng lại đều không th́ dụng cầu làm ǵ?

– Lấy cái Không-Không ấy mà làm thật.

– Bồ-tát nay phải thế nào mà cầu thật pháp?

– Phải nơi sáu món Ba-la-mật trong ấy mà cầu.

– Ǵ là sáu?

– Là Đàn Ba-la-mật, Thi Ba-la-mật, Sằn-đề Ba-la-mật, Tỳ-lê-da Ba-la-mật, Thiền Ba-la-mật, Bát-nhă Ba-la-mật [1] .

Thượng thủ nói rồi, Hằng-già nhảy nhót vui mừng, rồi liền đầu mặt kính lễ dưới chân Thượng Thủ mà hỏi rằng: “Phải lấy món ăn ǵ để cúng dường ngài?”

Thượng Thủ đáp: “Phải lấy tu-đà vị mà cúng dường.”

Lúc bấy giờ Hằng-già liền đến đô thị mà xướng lên rằng: “Tôi muốn bán thân, ai có cần mua không?”

Lúc đó trong chúng có một cư sĩ tên Tỳ-nô-luật bước tới nói: “Tôi muốn mua. Ông cần những ǵ?”

Hằng-già bảo: “Cần tu-đà-la-la.”

– Cần bao nhiêu trái?

– Tôi cần năm trái.

Lúc đó cư sĩ liền đếm năm tiền, mua đạo nhơn này để sai sử. Bấy giờ Hằng-già bạch đại gia rằng: “Thân tôi đă thuộc về ông, nhưng từ đây trong bảy ngày, tôi muốn cúng dường Thượng Thủ Tỳ-khưu.”

Bấy giờ cư sĩ bảo Hằng-già rằng: “Tôi đem ông về đến chợ nhà rồi sẽ thả ông về.”

Lúc ấy Hằng-già thấy nhà cửa rồi bèn đi bộ trở về, trông thấy Thượng Thủ khất thực chưa được, liền đưa Thượng Thủ đến đô thị mua sắm trăm vị đồ ăn thức uống. Sắm sửa các thứ xong, mang đến chùa tên Tứ Vương thiết lễ cúng thí, bày biện các thứ, giường nệm ṭa ngồi, các loại hương thơm hoa quư cúng dường Thượng Thủ, lại c̣n bày nhiều loại ẩm thực và nhiều vật thực mầu nhiệm khác mà cúng dường.

Bấy giờ Thượng Thủ bảo Hằng-già rằng: “Thiện nam tử, nay chính là thời, ông nay lắng nghe, ta sẽ v́ ông mà nói tất cả chư Phật thọ hành thật pháp.”

Lúc ấy Thượng Thủ rộng v́ Hằng-già nói thọ hành thật pháp, nên thọ chương cú đà-ra-ni như vầy:

Đá điệt tha Bồ ḱ lẫm bà Uất ba đa t́ da Bồ ḱ lẫm bà Liệt phá la A nâu na Đá điệt tha A nâu na Đá điệt tha Phục đắc cứu truy Bồ ḱ lẫm bà Sa ha Nam mô hốt hốt điệt tả Trệ đề dị cần Na dà da di Sa ha Ma ha phù đà ti Nam mô ma ha ly bà phù đà kha Nam mô Hoa Tụ đà-ra-ni Tỳ xá xà trất mục Uùc dà lâm Đản tra lâm Cùng dà lâm Hằng dà cấm A lệ na lệ na la lệ Sa ha.

Bấy giờ Hằng-già hớn hở vui mừng mà hỏi Thượng Thủ rằng: “Làm thế nào để phụng tŕ thật pháp của chư Phật?”

Lúc ấy Thượng Thủ bảo hành giả rằng: “Nếu có kẻ trai lành, người gái tín nào nguyện muốn nghe, ông phải hiện trong mộng, phải hiện thân trước người ấy. Vậy nếu họ thấy thân ông, ông sẽ dạy cho họ tu hành thật pháp.”

– Phải làm thế nào để tu hành?

– Khi muốn thực hành, phải bảy ngày trai giới, ngày ngày tắm rửa ba lần, mặc y mới thanh tịnh, ngồi trước tượng Phật, làm bảo cái năm sắc, tụng chương cú này 120 biến, nhiễu quanh 120 lần. Làm như vậy rồi, ngồi lại mà tư duy, tư duy xong rồi trở lại tụng chương cú này, trong bảy ngày như vậy.

Bấy giờ hành giả liền hỏi Thượng Thủ: “Phải dùng ngày nào?”

– Thiện nam tử, cần phải dùng những ngày từ mồng 8 đến 15 mỗi tháng để tu hành pháp này. Lúc ấy, cho dù có chúng sanh từng phạm tội ngũ nghịch, thân có hủi lác, mà pháp này không trừ lành th́ thật là không có lư đó. Nếu Ưu-bà-tắc phạm tam quy y cho đến sáu điều trọng giới, nếu không hoàn sanh th́ không có lẽ đó. Nếu có người phạm những giới như Bồ-tát 24 giới, Sa-di 10 giới, Thức-xoa Sa-di-ni giới, Tỳ-khưu giới, Tỳ-khưu-ni giới, phải nhứt tâm sám hối, nếu không hoàn sanh th́ không có lẽ đó, trừ không chí thành. Lại nữa Thiện nam tử…”

Bấy giờ Thượng Thủ rộng v́ Hằng-già mà nói tên 24 trọng giới:

1. Nếu có Bồ-tát thấy chúng sanh đói kém đến cầu ẩm thực, ngọa cụ mà không ch́u ư th́ gọi là phạm đệ nhất trọng giới.

2. Nếu có Bồ-tát dâm dục vô độ chẳng lựa cầm thú th́ gọi là phạm đệ nhị trọng giới.

3. Nếu có Bồ-tát thấy Tỳ-khưu chứa nuôi vợ con, rồi nói ra lỗi ấy, th́ gọi là phạm đệ tam trọng giới.

4. Nếu thấy có người lo rầu không vui, muốn tự hủy thân mạng, mà Bồ-tát lại dụng ư tăng thêm hờn giận làm hỏng mất mạng căn của họ, lại như c̣n đem cho thêm lửa để thiêu cháy hết thảy tài vật của họ, th́ gọi là phạm đệ tứ trọng giới.

5. Nếu có Bồ-tát ra khỏi tinh xá, đến khoảng đồng trống gặp được của rơi, tùy ư lấy dùng, th́ gọi là phạm đệ ngũ trọng giới.

6. Nếu có Bồ-tát thấy có người này giận dữ muốn hại mạng người kia, mà ḿnh c̣n dùng lời ngọt dịu khen sự giận hờn của họ, th́ gọi là phạm đệ lục trọng giới.

7. Nếu nghe hoặc thấy có người giận hờn, muốn thiêu đốt Tăng pḥng, mà Bồ-tát không tận t́nh can ngăn tâm ác của kẻ kia, th́ gọi là phạm đệ thất trọng giới.

8. Nếu nghe hoặc thấy có người phạm trọng tội, Bồ-tát nên kín đáo gọi người kia đến chỗ ḿnh mà khuyên rằng: “Tôi có thuốc hay tưới rửa ông, để giới căn có thể hoàn sanh.” Nếu họ không chịu đến th́ Bồ-tát phải gọi ba lần. Nếu gọi không đủ ba lần th́ Bồ-tát phạm đệ bát trọng giới.

9. Nếu nghe thấy có người phạm tội ngũ nghịch, Bồ-tát nên đến bên họ mà nói “Đây không phải là chánh pháp, chẳng phải là hạnh tốt, chớ nên làm điều ấy.” Nếu Bồ-tát không làm nhv th́ gọi là phạm đệ cửu trọng giới.

10. Nếu thấy nghe người khác muốn hưng khởi làm việc lành lớn mà Bồ-tát lại có tâm giận hờn muốn phá hoại huệ thiện của người ta, th́ gọi là phạm đệ thập trọng giới.

11. Nếu thấy có người uống rượu say sưa, mà Bồ-tát không tận t́nh đến khuyên can, trừ tự nhơn duyên, rằng “Đây không phải là hành vi tốt”, th́ gọi là phạm đệ thập nhứt trọng giới.

12. Nếu thấy nghe có người này phạm dâm với vợ người khác, mà Bồ-tát c̣n đi học lại cho người chồng rằng “Người đó phạm ông, ông nên đề pḥng!”, th́ gọi là phạm đệ thập trọng giới.

13. Nếu Bồ-tát xem oan gia của người khác rồi khởi tưởng oan gia ấy, th́ gọi là phạm đệ thập tam trọng giới.

14. Nếu thấy có người thương kẻ oán như con đỏ, mà Bồ-tát lại đi nói với người ấy rằng “Tại sao lại xem kẻ đó như con đỏ”, th́ gọi là phạm đệ thập tứ trọng giới.

15. Nếu thấy có kẻ tụ tập để tranh đấu lẫn nhau, mà Bồ-tát c̣n trợ giúp để đánh đập, th́ gọi là phạm đệ thập ngũ trọng giới.

16. Nếu biết việc kín đáo riêng tư của người, mà Bồ-tát c̣n bày chuyện phỉ báng hoặc nói với tứ chúng khiến người ta không vui, sanh tâm giận hờn, th́ gọi là phạm đệ thập lục trọng giới.

17. Nếu thấy nghe việc thiện của người khác mà Bồ-tát lại bảo rằng “Không nên làm điều ấy” , th́ gọi là phạm đệ thập thất trọng giới.

18. Nếu đang đi giữa đường và thấy có người trùng hưng chùa tháp, tinh xá, mà Bồ-tát lại không đến giúp đỡ, th́ gọi là phạm đệ thập bát trọng giới.

19. Nếu biết có người xa ĺa thiện tri thức để gần gũi bạn ác, Bồ-tát không được tán khen người ấy, mà phải khuyên họ lánh xa kẻ ác để gần gũi bạn lành. Nếu Bồ-tát không làm nhv, th́ gọi là phạm đệ thập cửu trọng giới.

20. Chỗ của Chiên-đà-la, hoặc chỗ của người ác, chó ác, chỗ Thanh văn nhị thừa, những nạn như vậy Bồ-tát không được đến, trừ khi ḿnh có việc gấp, nếu không th́ gọi là phạm đệ nhị thập trọng giới.

21. Nếu có thấy, nghe, hoặc nghi sát, Bồ-tát phải tự suy nghĩ “ăn thứ thịt này là đoạn hạt giống đại từ, đắc đại tội.” Nếu không nghĩ như vậy mà c̣n bảo rằng ḿnh không thấy, không nghe, không nghi sát, th́ ăn sẽ không có lỗi, th́ gọi là phạm đệ nhị thập nhứt trọng giới.

22. Nếu có thấy, nghe, hoặc nghi sát, mà Bồ-tát c̣n cho rằng “nếu không ăn thịt này tức trái ba đời chư Phật bảo tàng, lại trái với ân của ba đời chư Phật”, rồi cho tôn người ấy, th́ gọi là phạm đệ nhị thập nhị trọng giới.

23. Nếu có Bồ-tát hiểu các phương tiện, biết căn cơ của chúng sanh, mà lại không chịu chỉ dạy khi người ta thưa hỏi, th́ gọi là phạm đệ nhị thập tam trọng giới.

24. Nếu khi đang tŕ giới này, mà thấy Hoa Tụ, hoặc thấy Hư Không Tạng, hoặc thấy Quán Thế Âm, hoặc thấy mỗi mỗi chư Bồ-tát; hoặc thấy hoặc không thấy những điều vừa kể hoặc nhiều việc khác nữa, th́ Bồ-tát không được nói với người khác rằng “Tôi thấy Pháp Vương Tử như thế, như thế …vv.” Nếu nói ra th́ hiện thân sẽ bị chướng đạo pháp, bị bịnh lác trắng, hoặc bị ngu si, hoặc bị mù ḷa, hay bị hoa mắt vọng tưởng phân biệt các pháp yếu của chư Phật, mắc bịnh ngu si. Loè báng giới này phải mắc tai ương như vậy. Khi tŕ giới này th́ không được nói ra ngoài rằng “tôi thấy việc này việc nọ”. Trong thời gian bảy ngày không được nói. Ngoài ra c̣n nhiều việc nữa cũng không được nói.

Thiện nam tử, đây gọi là đệ nhị thập tứ giới của Bồ-tát ma-ha-tát. Thiện nam tử, nơi nơi chỗ chỗ chớ vọng tuyên nói bí pháp của chư Phật. Thiện nam tử, hết thảy chư Phật do nơi giới này mà thành Đẳng chánh giác. Quá khứ chư Phật cũng nhơn giới này mà thành Đẳng chánh giác. Vị lại chư Phật cũng lại như vậy.

Bấy giờ Hằng-già hỏi Thượng Thủ rằng: “Sát-lợi, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà được thọ giới này không?”

– Những người như vậy được thọ giới này.

Hằng-già bạch rằng: “Làm thế nào để thọ được hảo giới như vậy?”

– Khi thọ giới này, nên thỉnh một Tỳ-khưu hiểu giới tướng, thỉnh các chúng Tăng tùy ḷng sở kham, không luận nhiều ít. Lại nên thỉnh 24 h́nh tượng, nếu nhiều hơn cũng không ngại. Làm các thứ ẩm thực rất mỹ vị để cúng dường chúng Tăng và Tỳ-khưu ấy, năm vóc sát đất nới trước h́nh tượng và các tôn Tăng, chí tâm lễ kính, xướng lên như vầy:

Chư Phật sắc tạng chư chúng Tăng

Con nay quy y thọ tôn Giới

Chúng Tăng mở rộng ḷng từ mà chứng biết cho.

Lại xướng thêm rằng:

Trong pháp hùng mănh vi diệu tôn vương,

Ngày nay cho con được thọ tŕ Giới này.

Bấy giờ người ấy nên tự nói rơ biết giới rồi, lại thỉnh đủ ba lần rồi cho thật thuần thuộc giới tánh này, nguyện suốt đời tu hành thọ tŕ, nguyện tu hành bền chắc giữ ǵn không trái phạm. Tŕ giới này tùy ư văng sanh.

Hằng-già trọn đời tu Bồ-đề tánh Bồ-tát ma-ha-tát, tự nghe giới này; khi thọ giới này, phải y pháp như thế.

Quyển Một   Quyển Hai   Quyển Ba   Quyển Bốn

KINH ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG ĐÀ RA NI

Hán Dịch:  Bắc Lương, Sa-Môn Pháp Chúng

Việt Dịch: Sa-Môn Thích Viên Đức

Quyển Hai

– Thiện nam tử, nếu ông chưa rơ việc này, ta sẽ v́ ông lược nói bổn sự nhơn duyên xưa.

Bấy giờ Thượng Thủ lại bảo Hằng-già rằng: “Thiện nam tử, quá khứ có Phật hiệu Chiên-đàn Hoa Chí Chơn Đẳng chánh giác, nước gọi là Chiên-đàn Hương. Đức Phật ấy thành Đẳng chánh giác trong nước đó. Vua nước đó gọi là Bảo Chiên-đàn, có một người em tên là Lâm Quả. Lúc đó đại vương có 999 người con, tất cả những vương tử ấy trị đời bạo ác, không thuận luật hành. Vị vua kia rất tốt, thường đem các việc lành thuận hóa chúng sanh, khiến họ đạt được an vui.

Thời ấy, đại vương và em Lâm Quả ngồi suy nghĩ “Đă từng từ 92 ức Hằng hà sa chư Phật thọ giới mầu này, nay ta lại nên tŕ giới mầu này để nhiếp các con ta khiến được chánh kiến”. Khi họ suy nghĩ như vậy, mười phương vô lượng ức thiên na-do-tha Hằng hà sa hết thảy chư Phật, khác miệng đồng lời mà khen ngợi đại vương: “Lành thay, lành thay! V́ muốn nhiếp thọ các con, đại vương và em Lâm Quả hay thọ tŕ giới mầu như vậy!”

Bấy giờ, đại vương và em Lâm Quả nghe tiếng chư Phật, liền từ ṭa đứng dậy, đảnh lễ chân Phật rồi lui ngồi một bên, và cho gọi các con. Khi các con qua đến chỗ cha, thấy chư Phật rồi, đầu đảnh lễ chân Phật rồi lui ngồi một bên, sau đó thưa cha rằng: “Cha muốn sai bảo điều chi?”

Lúc đó đại vương cùng em Lâm Quả bảo các con rằng: “Các con biết chăng, ta có diệu giới từng được thọ từ vô lượng ức thiên chư Phật. Liệu các con nay có thể thọ giới ấy không?”

Khi ấy các con hớn hở vui mừng, đảnh lễ chân cha, xoa tay chắp lại, chiêm ngưỡng mắt cha mà thưa rằng: “Cúi mong từ phụ, chúng con xin được thọ diệu giới ấy.”

Bấy giờ đại vương và em Lâm Quả hiện sức thần thông khiến các con được thấy hết thảy mười phương vô lượng ức thiên na-do-tha Hằng hà sa chư Phật trụ nơi hư không. Lúc đó các con đều lễ chân Phật, cầu thọ diệu giới. Bấy giờ chư Phật lặng thinh hứa khả. Lúc ấy các con hai ba phen thưa thỉnh, rồi liền tự thiêu thân, trải tám vạn bốn ngàn kiếp cúng dường chư Phật xong, lại từ đất đứng dậy chiêm ngưỡng chư Phật, cầu thọ diệu giới. Lúc ấy chư Phật liền trao cho các con những giới mầu nhiệm như trên.

Thiện nam tử, khi ấy Thượng Thủ bảo Hằng-già rằng: “Ông có biết không, người tối thượng trong số các vương tử xưa kia nay chính là ta vậy. Ông có biết không, người thứ hai trong hàng vương tử ấy, đâu phải ai khác, nay chính là ông đấy!”

Thiện nam tử, khi Thượng Thủ nói pháp này, thời trong hư không có 92 ức chư Thiên đắc trụ Vô sanh pháp nhẫn.

Lại nữa Thiện nam tử, khi ấy Thượng Thủ rộng v́ Hằng-già diễn nói Pháp đại lợi ích như thế. Bấy giờ Hằng-già hớn hở vui mừng v́ đă thọ được diệu giới như vậy. Thiện nam tử, những người như thế là thiện tri thức của ông xưa kia đấy, nên ta sẽ v́ ông mà nói. Thiện nam tử, Thượng Thủ khi ấy, hiện nay là Hoa Tụ Bồ-tát vậy. Ông có biết không, Hằng-già xưa kia đâu phải người nào khác, nay chính là thân ông đó. Chiên-đàn Vương xưa kia, nay là Đông phương Bảo Vương Phật. Ông có biết không, Lâm Quả xưa kia, nay chính là thân ta. Ông có biết không, các vương xưa kia, nay là ngàn Phật trong Hiền kiếp vậy. Chín mươi hai ức chư Thiên xưa kia đâu phải ai khác, nay chính là 92 ức ma vương vậy. Thiện nam tử, như vậy các ma vương muốn khiến ông nhớ lại sức tu hành nghiệp lành gốc xưa, lại muốn khiến ta nói nhơn duyên đă qua cho nên mới đến đây ngăn che ông, lại muốn khiến ta nói kinh Đại Phương Đẳng đà-ra-ni để cứu nhiếp các chúng sanh khổ năo trong đời đương lai, v́ nhơn duyên đó họ mới đến khuấy nhiễu ông.”

Lúc đó 500 chúng đại đệ tử Bồ-tát ma-ha-tát, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, cư sĩ, cư sĩ tử, Thiên nhơn, ma vương, Bà-tẩu đại sĩ và Dạ-xoa, những đại chúng như thế vui mừng nhảy nhót, đảnh đới phụng hành.

Bấy giờ đức Phật dạy A-nan: “Ông nghe thật pháp của chư Phật đó chăng?”

– Dạ vâng, thưa Thế tôn, ngày nay con mới nghe chương cú Pháp tạng thậm thâm như thế rất là hi hữu, hay khiến ĺa tất cả địa ngục, ngạ quỷ, các Trời người …vv, tất cả chúng sanh đều được giải thoát, hay diệt tất cả các nghiệp báo.

Khi ấy đức Phật dạy A-nan: “Hay lắm, thiện nam tử, như lời ông nói là chân thật không hư dối. Nếu ta c̣n ở đời hay đă qua đời, kinh này ở tại Diêm Phù Đề cũng như mặt trời chiếu sáng thế gian. Chúng sanh nào ân may được gặp sẽ được thấy bốn phương. Lại như các núi, núi Tu-di là cao hơn hết, nếu ở trên đỉnh núi đó tức đều thấy việc ở bốn phương. Kinh đà-ra-ni này cũng lại như thế, cao hơn trong tất cả các pháp, thấy được tướng các pháp. Lại như biển lớn không có bờ mé, kinh đà-ra-ni này cũng lại như vậy, không có bờ mé, chỗ được công đức cũng không có ngằn mé. Thiện nam tử, ta nay lấy vô biên Pháp tạng như vậy mà giao phó cho ông, ông có thể hộ niệm tu hành thọ tŕ.”

Bấy giờ A-nan bạch Phật rằng: “Kính thưa đức Thế tôn, nếu như thế th́ con không thể kham nổi việc tu hành thọ tŕ Kinh điển như vậy. Bởi v́ sao? V́ Pháp này rất thâm sâu mầu nhiệm không có ngằn mé. Kinh này tối cao như núi Tu-di, hàng Thanh văn không thể thọ tŕ được. Tại sao vậy? V́ khó được ngằn mé ấy, chẳng phải chỗ biết của con, v́ nhơn duyên đó, con không thể kham nổi việc thọ tŕ tu hành Kinh điển như vậy!”

Bấy giờ đức Phật dạy A-nan: “Ư ông nghĩ sao? Giả sử có Trời tên là Căn-hằng ở trên Phi tưởng phi phi tưởng, thân dài một do-tuần hoặc hai do-tuần, cho đến 90 do-tuần hoặc 800 do-tuần, cả thảy Trời như vậy mà không có một điều thiện, chỉ có các ác vây quanh nơi thân. Nếu lấy đầu, tóc, răng, niếu, móng, da, lông, lỗ chân lông, mỗi mỗi phát ra lửa hay thiêu đốt tất cả. Thiện nam tử, giả sử Trời này hạ xuống Diêm Phù Đề hay đến hang núi, rừng cây, cho đến chỗ suối nguồn, sông ao, thành ấp, tụ lạc. Ác lực trong thân Trời ấy phát ra lửa dữ có thể thiêu cháy hết thảy ba ngàn đại thiên thế giới. Thiện nam tử, giả sử những việc như vậy xảy ra th́ có đáng sợ chăng?”

A-nan bạch rằng: “Rất là đáng sợ! Kính thưa Thế tôn, giả sử có khổ như vậy, phải làm thế nào mà diệt?”

– Thiện nam tử, nay nếu sợ khổ như vậy, ông phải tu hành thọ tŕ, đọc tụng kinh Đại Phương Đẳng đà-ra-ni, giả sử lửa dữ như trên có xảy ra th́ sẽ biến thành hoa sen bảy báu. Thiện nam tử, v́ nhơn duyên đó, phải biết kinh này có sức công đức đại oai thần, hay diệt vô lượng ác cừu như vậy. Lại nữa Thiện nam tử, để ư việc này: nếu có con voi một thân mười đầu, đầu có hai nanh, thân có bốn chân, loại voi như vậy bạo ác ở thế gian, ngày ngày chúng ăn mà không lựa chỗ, cứ mỗi ngày ăn đủ bốn loài chúng sanh, lũ voi ác như vậy đều ăn hết thảy, nếu có chúng sanh nào biết đào tẩu th́ mới mong thoát khỏi, c̣n không th́ quyết định sẽ bị voi ác ăn thịt. Thiện nam tử, loài voi ác này có đáng sợ lắm không?

A-nan bạch đức Phật rằng: “Rất đáng sợ, thưa đức Thế tôn! Liệu có chúng sanh nào có khả năng hoại được loại voi ác tâm như thế không?”

– Có!

– Người nào thế?

– Thiện nam tử, ai tu hành đà-ra-ni này tức là người đó. Nếu có thọ tŕ đọc tụng tức là người đó vậy. Lại nữa, thiện nam tử, giả sử có con rắn, tánh nó rất ác, hễ ḅ đến chỗ nào, nếu gặp người th́ tất cả mạng đều thuộc về nó. Nếu ngửi thấy mùi có thể bị hại mạng, nếu nh́n thấy nó cũng có thể bị hại mạng. Nếu nó ḅ đến suối nguồn, rừng núi, ao hồ, hơi của nó đến chỗ nào th́ chỗ ấy đều khô cạn. Bất kỳ chúng sanh nào nghe đến tên của nó th́ bị á khẩu, không thể nói được. Thiện nam tử, những việc như vậy có đáng sợ chăng?

– Rất đáng sợ, thưa Thế tôn! Liệu có chúng sanh nào trong tứ sanh có khả năng diệt được những khổ như vậy không?

Phật dạy A-nan: “Thiện nam tử, có!”

A-nan bạch rằng: “Đó là người nào?”

Phật dạy A-nan: “Nếu có kẻ trai lành, người gái tín tu hành, thọ tŕ đọc tụng đà-ra-ni này, th́ tức là người đó vậy! Lại nữa thiện nam tử, nếu trong nhơn gian có con rồng, rồng này tánh càng đại bạo ác. Nếu trông thấy người hoặc súc sanh, cho đến loài cây cỏ, ngũ cốc, rừng núi, các loài thấp sanh, nỗn sanh …vv, nó liền sanh tâm giận dữ, lại hay phun lửa, phun nước, vậy liệu có người nào có thể diệt các ác như vậy không? Thiện nam tử, nếu trong quốc ấp, tụ lạc, chỉ cần có một người từng đă thọ tŕ đọc tụng, tu hành kinh điển đà-ra-ni, th́ các việc như trên thảy đều tiêu diệt. Vô lượng chúng sanh gặp được người ơn này sẽ được yên ổn. Thiện nam tử, v́ nhơn duyên đó, phải biết kinh này có vô lượng oai thần lực công đức. Bởi nhơn duyên ấy, ta nay bảo ông thọ tŕ kinh này. Sau khi ta đă qua đời, kinh này ở Diêm Phù Đề sẽ là đại trân bảo của chúng sanh. Nếu ai hay tu hành, thọ tŕ đọc tụng, phải biết người đó toàn dụng của báu vậy. Nếu lại có người chỉ hay đọc tụng, phải biết người ấy đắc trung phần báu. Nếu lấy các thứ hương thoa, hương bột, hoa tràng, phan cái mà cúng dường kinh, phải biết người đó được hạ phần báu.

Thiện nam tử, ta nay v́ ông nói tướng nhơn duyên hạ phần báu ấy. Thiện nam tử, nếu có một người thần thông vô lượng như Văn-thù-sư-lợi, cũng dụ với ta, biện tài vô ngại, cùng với ta, hai người ở trong một kiếp thường hay biện tài, v́ vô lượng vô biên chúng sanh mà nói pháp, khiến cho đại Bồ-tát trụ Nhứt sanh bổ xứ, lại đem hết thần thông dùng các món y phục, ngọa cụ, ẩm thực, thuốc thang cúng dường các Bồ-tát ấy. Liệu phước báo của người kia có nhiều không?”

A-nan thưa rằng: “Rất nhiều, bạch đức Thế tôn!”

– Thiện nam tử, nếu lại có người lấy hương thoa, hương bột, lọng tán, màn trướng mà cúng dường kinh này, thậm chí chỉ chừng một bài kệ bốn câu trong kinh. Nếu ai cúng dường người đó, th́ sẽ thu hoạch được công đức c̣n hơn công đức của ta và kẻ biện tài kể trên, huống ǵ suốt đời tu hành, thọ tŕ đọc tụng kinh này. Công đức của người như vậy thật không thể nào kể hết. Nếu có thầy toán hoặc đệ tử của thầy toán đem hết khả năng để tính đếm th́ trăm ngàn vạn phần không thể biết một. Thiện nam tử, để ư việc này: giả sử có các Bồ-tát chỉ cần một đời nữa là được thành Phật, hoặc trăm ngàn vạn ức Hằng hà sa số chư Bồ-tát ấy đem hết sức thần thông, đem hết sức biện tài, nếu họ đồng nhập thiền định từ một kiếp cho đến trăm ngàn vạn kiếp, vô lượng Bồ-tát như vậy, nếu đem so với người chỉ muốn tư duy tu hành thọ tŕ kinh Đại Phương Đẳng đà-ra-ni, th́ trăm ngàn vạn phần cũng không b́ kịp một.

Thiện nam tử, phải biết kinh này có sức công đức đại oai thần, lại là Đại bảo tàng trong nước, là chỗ quy hướng của hết thảy chúng sanh. V́ nhơn duyên đó, ta nay nói với ông thọ tŕ kinh này ở tại Diêm Phù Đề, rộng tuyên lưu bố, v́ chúng sanh mà nói, khiến các chúng sanh được vui cứu cánh.

Bấy giờ A-nan và 500 đại đệ tử, vô lượng đại chúng liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo bên hữu, gối hữu sát đất, đảnh lễ chân Phật, hoan hỉ phụng hành.

Phần Hai: Thọ Kư

Lúc bấy giờ, Lôi Âm liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo bên hữu, chắp tay hướng Phật mà thưa rằng: “Hay thay! Đức Thế tôn khéo nói hạnh nghiệp nhơn duyên xa xưa đă làm, nay đă nói xong, đem Kinh Đại Phương Đẳng đà-ra-ni này phó chúc cho A-nan lưu bố đời sau, vô lượng chúng sanh được Pháp này mà thu hoạch lợi lành lớn! Hay thay, đức Thế tôn, Đại từ bi vương!”

Phật dạy Lôi Âm: “Thiện nam tử, như lời ông nói, ta đă nói xong, những điều chưa nói, nay ta sẽ nói, chính ông sẽ được! Thiện nam tử, ông ở nơi đời Hiền kiếp sẽ thành Phật tên là Lôi Âm Bảo Vương Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật, Thế tôn. Nước tên Phổ Oai thanh tịnh không chi sánh, thuần các Bồ-tát tập hội nơi ấy. Những Bồ-tát kia biện tài vô ngại, thần thông vô lượng, rơ đạt phương tiện, mỗi mỗi Bồ-tát có đại quang minh hay chiếu 80 vạn ức Hằng hà sa sát độ, ai thấy được hào quang kia liền đắc tổng tŕ, thần thông vô lượng như các Bồ-tát không khác. Cơi nước ấy được trang nghiêm không chi so được. Ông sẽ ở nơi thế giới đó mà làm Phật, thọ 620 vạn tuổi, chánh pháp và tượng pháp cũng lại như thế.”

Bấy giờ 500 đại đệ tử Thanh văn chúng liền từ ṭa đứng dậy, sửa sang y phục, đảnh lễ chân Phật rồi lui ngồi một bên, đồng thanh khen rằng:

Thế tôn trí tuệ như hư không

Thảy biết chúng sanh tướng khứ lai

Mười phương tất cả đều thấy nghe

Con xin cúi đầu chúng bảo vương.

Bấy giờ Phật bảo 500 chúng đại đệ tử: “Các ông cũng sẽ mỗi mỗi đều làm Phật đồng một hiệu, hiệu là Bảo Nguyệt Vương Như Lai Vô Sở Trước Chí Chơn Đẳng chánh giác.”

Khi Phật thọ kư cho 500 đại đệ tử th́ những ao hồ nguồn suối nào đă bị cạn kiệt, cây cối rừng lùm nào đă khô héo trong mười phương ba ngàn đại thiên thế giới đều hoàn sanh tươi tốt. Bấy giờ ba ngàn đại thiên thế giới có sáu cách biến động. Các Phạm Vương và Đế-thích thấy tướng như vậy liền cùng suy nghĩ “Có nhơn duyên ǵ mà các điềm như vậy hiện ra? Hay là Trời đại đức sanh ra, hay là chư đại Bồ-tát được thọ kư Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác?”

Bấy giờ hết thảy các Trời liền đến Ta-bà thế giới, thấy đức Phật Thích-ca Mâu-ni thọ kư các Thanh văn đại đệ tử rồi, liền đầu mặt lễ chân đức Thế tôn, lễ rồi lui ngồi một bên mà đồng thinh khen rằng:

Thế tôn trí huệ rất sâu mầu

Hay nhuần giống bại [2] , tươi hết thảy

Cũng như hoa sen chơn diệu sắc

Không đắm thế gian như hư không.

Khi chư Thiên nói kệ khen rồi, Phật dạy các Thiên tử: “Các ông không lâu cũng sẽ được Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác, thành Nhứt thiết trí.”

Lúc ấy Phật dạy Đông phương Thiên tử: “Ông nay lắng nghe, ta sẽ v́ ông nói nhơn duyên thành Phật. Đông phương có thế giới tên là Ly Cấu, ông sẽ ở đó mà thành Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác, được Nhứt thiết trí.”

Phật dạy Nam phương Thiên tử: “Có thế giới gọi là Nhiễm Sắc, ông sẽ ở đó mà thành Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác, được Nhứt thiết trí.”

Phật dạy Tây phương Thiên tử: “Có thế giới gọi là Diệu Sắc, ông sẽ ở đó mà thành Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác, được Nhứt thiết trí.”

Phật dạy Bắc phương Thiên tử: “Có thế giới gọi là Chúng Nan, ông sẽ ở đó mà thành Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác, được Nhứt thiết trí.”

Thiên tử bạch Phật rằng: “Thế giới v́ sao gọi là Chúng Nan?”

Phật dạy: “Thế giới ấy từ xưa đến nay chưa có Phật nên gọi là Chúng Nan.”

Phật dạy Hạ phương Thiên tử: “Có thế giới gọi là Chúng Thinh, ông sẽ ở đó mà thành Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác, được Nhứt thiết trí.”

Phật dạy Thuợng phương Thiên tử: “Có thế giới gọi là Chúng Diệu, ông sẽ ở đó mà thành Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác, được Nhứt thiết trí.”

Phật dạy mười phương thế giới hết thảy chư Thiên tử: “Các ông cũng sẽ mỗi mỗi đều thành Phật.”

Khi Thế tôn thọ kư chư Thiên, thời phóng đại hào quang sáng chiếu khắp Đại Tiểu Thiết Vi Sơn trong mười phương thế giới. Bấy giờ trong Đại Tiểu Thiết Vi Sơn, có ngạ quỷ, A-tu-la …vv, vô lượng ức thiên thấy hào quang sáng này, mỗi mỗi đầu hào quang hiện các hóa Phật. Lúc ấy chư hóa Phật bảo những ngạ quỷ: “Bọn khổ các con có thể đến Diêm Phù Đề mà uống lương dược”. Bấy giờ ngạ quỷ trông thấy đức Phật Thích-ca Mâu-ni ngồi ṭa sư tử thọ kư chư Thiên nhơn Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác.

Lúc đó trong chúng có một A-tu-la trên núi cao liền bảo các ngạ quỷ: “Bọn khổ các ngươi có thể qua Diêm Phù Đề để nghe Pháp vị cam lồ của chư Phật.”

Bấy giờ những ngạ quỷ liền theo vị đó đến Diêm Phù Đề, thấy đức Phật Thích-ca Mâu-ni cùng vô lượng đại chúng, trước sau đoanh vây mà v́ đó nói Pháp. Lúc đó khi nh́n thấy chư đại chúng đồng sáng rực như vàng ṛng, hết thảy đều có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp, A-tu-la tự suy nghĩ rằng “Phật ấy là ai?”

Bấy giờ v́ biết được tâm niệm kia, đức Thế tôn liền vọt bay lên hư không, cao 10 cây đa-la, ngồi hoa sen bảy báu. Lúc đó A-tu-la dùng kệ khen rằng:

Thế tôn mặt mắt như nguyệt vương

Hay phá hết thảy các tối tăm

Nay lại cứu vớt bọn chúng con

Chúng con quy mạng Thiên trung tôn.

Bấy giờ đức Thế tôn dạy các ngạ quỷ: “Các con ở đây trải qua bao nhiêu thời gian?”

A-tu-la bạch đức Phật rằng: “Chúng con đă thấy và nghe 92 ức đức Phật đă qua, ngày nay mới được gặp Thiên trung vương!”

Bấy giờ đức Thế tôn v́ các ngạ quỷ mà nói 12 nhơn duyên, v́ A-tu-la nói sáu món Ba-la-mật. Khi nói Pháp này, hết thảy A-tu-la phát tâm Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác. Lúc đó các ngạ quỷ liền cầu xin xuất gia khi được thoát thân. Bấy giờ đức Thế tôn dạy:

“Thiện nam tử, hay ở pháp của ta cầu xin xuất gia.” Khi ấy các thiện nam tử liền thành Sa-môn, giới hạnh đầy đủ. Bấy giờ đức Thế tôn v́ các Tỳ-khưu nói Ma-ha Đản-tŕ đà-ra-ni Chương cú, thời các Tỳ-khưu đắc A-la-hán, Tam minh, Lục thông, đủ Bát giải thoát.

Lúc ấy Xá-lợi-phất bạch đức Phật rằng: “Thưa Thế tôn, Kinh này thần lực vô lượng như vậy, hay khiến Thiên nhơn, A-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ vân tập đến tận đạo tràng. Sức Kinh như vậy hay cứu tất cả. Người thọ tŕ Kinh, công đức thế nào?”

Phật dạy Xá-lợi-phất: “Ta hướng đến lời ông hỏi ấy là dụng thế nào?”

Xá-lợi-phất bạch đức Phật rằng: “Kính thưa Thế tôn, người thọ tŕ Kinh này phải lấy ǵ để cúng dường?”

Phật dạy Xá-lợi-phất: “Nếu có người đem đầu mắt, thân thể, vợ con, voi ngựa, bảy báu má cúng dường ta, th́ công đức sẽ không bằng người hay lễ lạy quyển kinh này một bái. Nếu lại có người đem của trân bảo trong tứ thiên hạ chứa đầy đến Phạm Thiên mà cúng dường ta, th́ sẽ không bằng kẻ cùng với người thọ tŕ kinh này trong khoảng một bữa ăn. Nếu lại có người chất chứa trân bảo đầy hết ba ngàn đại thiên thế giới mà đem cúng dường ta, công đức sẽ không bằng người tŕ chương cú này một ngày một đêm, huống ǵ so với người suốt đời thọ tŕ đọc tụng th́ quả là công đức vô lượng. Nếu lại có người chất chứa trân bảo đầy khắp hết thảy mười phương thế giới số lượng nhiều như bụi nhỏ, phía trên cao đến chiều đứng thế giới, rồi mang cúng dường hết cho ta, th́ công đức cũng không bằng người chỉ tŕ một bài kệ bốn câu, chuyển dạy cho người khác, thật là công đức vô lượng vô biên.”

Phật dạy Xá-lợi-phất: “Tất cả Thanh văn, Bích-chi Phật …vv, trên đến hàng Thập trụ Bồ-tát tính đếm ví dụ cũng không thể hết một phần nhỏ công đức của người thọ tŕ kinh này.”

Bấy giờ Phật dạy A-nan: “Ông có nghe công đức chứa nhóm như vậy không?”

– Dạ vâng, kính thưa Thế tôn, con đă nghe xong!

– Hăy để ư việc này: Ta nay sẽ nói lại với ông. A-nan, ông nay lắng nghe, ta sẽ v́ ông nói công đức của kinh này. Ư ông nghĩ sao? Tất cả các loại ṃng muỗi trong mười phương, nếu có người hiểu được tiếng của chúng để mà giáo hóa hết, cho đến giáo hóa các loại cầm thú khiến chúng được thân người, lại khiến họ tin nơi ba đời, th́ công đức của người giáo hóa ấy có nhiều chăng?

A-nan bạch Phật rằng: “Rất nhiều, thưa Thế tôn!”

– A-nan, nếu có người chép tŕ kinh này, dù chỉ một bài kệ bốn câu, th́ công đức của họ lại c̣n hơn người kể trên trăm ngàn vạn phần, dù muốn tính đếm thí dụ cũng không thể đến ngằn mé. A-nan, để ư việc này: Nếu lại có người nghe được chừng một bài kệ của kinh này mà không khiếp, không sợ, không sanh phỉ báng th́ công đức của người này lại c̣n hơn cả hai người kể trên, và cũng thí dụ không thể tính đếm cho đến ngằn mé.

A-nan, để ư việc này: Nếu có người nghe kinh này mà ḷng vui mừng hoặc tự chép viết hay bảo người khác chép viết, hoặc thấy người khác chép viết, hay nghe biết người khác chép viết mà sanh tâm vui mừng, th́ công đức của người vui mừng kia lại c̣n hơn ba người kể trên.

A-nan, để ư việc này: Nếu lại có người biện tài vô ngại như Văn-thù-sư-lợi Pháp Vương Tử hóa độ chúng sanh nơi một thế giới Phật, khiến họ xuất gia và đều chứng đắc Tứ quả Sa-môn; lại có người như Văn-thù-sư-lợi hóa độ chúng sanh trong 60 thế giới được xuất gia và đắc A-la-hán, hoặc đắc Bích-chi Phật, hoặc phát tâm Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác. Ư ông nghĩ sao? Công đức của hai người vừa kể có nhiều không?

A-nan bạch Phật: “Rất nhiều, thưa Thế tôn! Không thể xưng kể, không thể so lường!”

– A-nan, nếu lại có người nghe được kinh này mà vui mừng hớn hở, đến nơi đạo tràng tu hành bảy ngày, th́ công đức của người này lại c̣n vượt hơn những ǵ mà tất cả các người kể trên đă làm, tất cả ma Ba-tuần bị khuất phục.

A-nan bạch đức Phật rằng: “Con cùng đại chúng hoan hỉ phụng hành.”

Bấy giờ Văn-thù-sư-lợi Pháp Vương Tử Bồ-tát ma-ha-tát ở đại chúng khởi tâm niệm rằng: “Đức Thích-ca Như Lai cùng vô lượng đại chúng trước sau đoanh vây nói Kinh Đại Phương Đẳng đà-ra-ni này. Ta không biết nghĩa thú ấy như thế nào, nay ta sẽ thỉnh hỏi. V́ sao? Trong Thiên trung tôn vương, chỉ có đức Như lai mới hay v́ ta giải nói nghĩa đó.”

Nghĩ như vậy rồi, liền từ ṭa đứng dậy, trịch vai áo bên hữu, gối hữu sát đất, cung kính chắp tay, mắt không tạm rời, bạch đức Phật rằng: “Kính thưa Thế tôn, như trước đă nói, trước ở nơi đại thành Vương Xá thọ kư cho hàng Thanh văn. Nay lại ở nước Xá-vệ trong rừng Kỳ-đà mà thọ kư cho hàng Thanh văn. Xưa ở Ba-la-nại thọ kư cho hàng Thanh văn đại đệ tử. Bạch đức Thế tôn, con nay có chút nghi hoặc, muốn thưa hỏi đức Như lai, xin Phật cho phép.”

Bấy giờ Xá-lợi-phất hỏi Văn-thù-sư-lợi Pháp Vương Tử rằng: “Đức Thế tôn mở rộng ḷng từ vô lượng, đă thọ kư cho hàng đại đệ tử Thanh văn chúng con rằng không lâu sẽ được Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác thành Nhứt thiết trí, mỗi nơi thế giới như nay đức Thế tôn nhiếp các chúng sanh thường tại đạo tràng. Lời nói của đức Thế tôn là chân thật, không hư dối, có thể đến lần thứ hai, thứ ba thọ kư cho hàng đại đệ tử Thanh văn chúng con. Chúng con quyết sẽ như đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai, quyết định không hư dối, không có nghi ngờ vậy. Văn-thù-sư-lợi, ư ông nghĩ sao? Chúng ta sẽ được Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác phải không?”

Văn-thù-sư-lợi nói với Xá-lợi-phất: “Ư ông nghĩ sao? Cũng như cây khô trở lại sanh cành lá phải không? Cũng như nước núi trở về bổn xứ phải không? Cũng như đá vỡ hiệp trở lại phải không? Cũng như giống lúa rang khô mà sanh mầm trở lại phải không? Như trong ruộng muối mà đi gieo giống phải không? Các việc như thế có được hay không?”

Xá-lợi-phất nói: “Không vậy. Văn-thù-sư-lợi, các việc như trên thật không thể được!”

Văn-thù-sư-lợi nói: “Nếu không thể được, tại sao ông lại hỏi tôi thọ kư sẽ được Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác, tâm sanh vui mừng? Vậy pháp thọ kư không có h́nh tướng, không có ngôn ngữ, không có khứ lai, không có vui mừng, không có tướng đắc nên không có ngôn ngữ, không có vọng tưởng, phân biệt chư Pháp mà thọ kư Pháp. Nên khởi tác tướng như vậy có thể được như tánh. Vả chăng, pháp thọ kư như hư không không sắc, cũng như hư không không h́nh, như mây bay không thật, như gió thổi không h́nh thể, như hư không nghe âm thanh không thấy h́nh kia, như nước nhóm bọt không có thật xứ, như ngựa chạy đồng trống đuổi theo ánh lửa của thành Càn-thát-bà. Phải biết Pháp như vậy không có thật xứ. Luận rằng đại Bồ-tát được pháp thọ kư nên quán sát các pháp tướng như vậy. Nếu có thể như vậy mà quán sát, ấy mới gọi là thọ kư Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác.

Xá-lợi-phất hỏi Văn-thù-sư-lợi: “Nếu tất cả pháp tánh vốn không ấy, đức Như lai lấy pháp ǵ thọ kư Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác cho chúng tôi vậy?”

Văn-thù-sư-lợi đáp Xá-lợi-phất rằng: “Như Lai lấy như-như-tánh mà thọ kư các ông.”

Xá-lợi-phất nói: “Như Văn-thù-sư-lợi đă nói, ở trong không có như tánh, nay ông lại bảo với tôi là Như Lai lấy tánh như-như mà thọ kư cho các ông.”

Văn-thù-sư-lợi đáp Xá-lợi-phất rằng: “Đức Như Lai thọ kư, Không tức là Như, Không ly là Như.”

Xá-lợi-phất nói: “Như trên đă nói không có h́nh tướng, mà nay Pháp này có h́nh tướng hay không?”

Văn-thù-sư-lợi nói: “Không tức là h́nh tướng, không ly h́nh tướng là 32 tướng.”

Xá-lợi-phất nói: “Đức Như lai thọ kư tam-bồ-đề cho chúng ta ấy là hư vọng ư?”

Văn-thù-sư-lợi nói: “Không tức là hư vọng, không ly là hư vọng.”

Xá-lợi-phất nói: “Phải cầu cái ǵ?”

Văn-thù-sư-lợi nói: “Trong cái tánh như như mà cầu.”

Xá-lợi-phất nói: “Như này là như tánh th́ phải cầu cái ǵ?”

Văn-thù-sư-lợi nói: “Nơi trong Như Lai chơn đế mà cầu.”

Xá-lợi-phất nói: “Như Lai chơn đế phải cầu cái ǵ?”

Văn-thù-sư-lợi nói: “Nơi trong cái như như tánh mà cầu.”

Xá-lợi-phất nói: “Tức là như? Hay không tức là như?”

Văn-thù-sư-lợi nói: “Không tức không như tức là như tánh.”

Xá-lợi-phất nói: “Tức là như? Hay không tức là như?”

Văn-thù-sư-lợi nói: “Tức cũng là như, không tức cũng là như. Không tức không ly ấy gọi là như tánh.”

Bấy giờ Xá-lợi-phất không biết là nói ǵ, không biết lấy ǵ đáp, làm thinh rồi trở về bổn ṭa mà ngồi.

Lúc ấy đức Phật bảo Văn-thù-sư-lợi Pháp Vương Tử rằng: “Lành thay, lành thay Phật tử! Lời nói hay lắm! Như pháp thọ kư ấy, sự thọ kư nên như thế mà quán sát pháp tánh mới gọi là thọ kư.”

Bấy giờ Xá-lợi-phất ở trước đức Phật mà tự than, nói xả bỏ tâm Thanh văn, Bích-chi Phật trở về lại nơi bổn nghiệp. Phật dạy Xá-lợi-phất: “Lành thay, lành thay thiện nam tử, mới hay từ bỏ tâm Thanh văn, Bích-chi Phật trở về bổn nghiệp mà không chấp trước tánh tướng của các pháp, không lâu sẽ được Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác.”

Khi nói Pháp này, vô lượng ức thiên na-do-tha đại chúng đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác.

Bấy giờ 500 đại đệ tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đầu mặt lễ chân mà bạch Phật rằng: “Kính thưa đức Thế tôn, như Phật đă nói, khi hành pháp này sẽ có ma Ba-tuần đến phá hoại thiện căn nhơn duyên của người đó, vậy làm thế nào để biết?”

Khi ấy Phật dạy 500 chúng đại đệ tử: “Khi ma này đến, gồm có 40 vạn ức đến chỗ người đó, phát lên tiếng hung dữ, cột kèo nhà cửa đều rung động phóng đại ác phong, hoặc khi phóng hỏa, hoặc khi phóng thủy muốn giết hại người ấy. Hoặc khi trong mộng đứng trước người ấy, kéo cắt lưỡi người ấy, hoặc khi phun lửa trên mặt người, hoặc bưng núi muốn đè người ấy. Người ấy nên đáp ‘Ngươi đến rất lành’. Lúc nói lời này, người ấy nên im lặng mà niệm trong tâm Ma-ha Đản-tŕ-la đà-ra-ni Chương cú. Lại nên xưng rằng: “Nam mô Thích-ca Mâu-ni Phật, Nam mô Văn-thù-sư-lợi Pháp Vương Tử, Hư Không Tạng Pháp Vương Tử, Quán Thế Âm Pháp Vương Tử, Tỳ-sa-môn Pháp Vương Tử, Hư Không Pháp Vương Tử, Phá Ám Pháp Vương Tử, Phổ Văn Pháp Vương Tử, Diệu H́nh Pháp Vương Tử, Đại Không Pháp Vương Tử, Chơn Như Pháp Vương Tử”, nên niệm danh hiệu các đại Bồ-tát như thế. Những pháp vương tử ấy quyết sẽ đến chỗ người tu hành mà ủng hộ, khiến cho được an vui, không bị khổ năo. Vậy các Tỳ-khưu khi gặp nạn nên niệm danh tự những vương tử vừa kể.”

Bấy giờ A-nan bạch đức Phật rằng: “Kính thưa Thế tôn, khi người tu hành bị ma Ba-tuần khủng bố, phải cầu các vương đại từ đến cứu giúp, th́ phải lấy ǵ để cúng dường những vương tử ấy?”

Lúc ấy Phật dạy A-nan: “Khi Ba-tuần đi rồi, nên dùng các thứ hương thoa, hương bột cúng dường những vương tử ấy, dùng các thứ hương nê mà thoa trong tịnh thất, dùng màu ngũ sắc họa vẽ, khác miệng đồng lời mà tán khen chư Pháp vương. Bấy giờ đức Quán Thế Âm liền vào tịnh thất ấy, hoặc làm đạo nhơn, hoặc làm Sa-di, Thức-xoa Sa-di-ni, hoặc làm Ưu-bà-tắc hoặc làm khất sĩ, hoặc làm chó đói vào thất, hoặc làm kiều khách đến xin ngủ nhờ trong thất, hoặc làm quốc vương, vương tử, hoặc làm người thường mà đến thất của người tu hành.”

Khi ấy A-nan bạch đức Phật rằng: “Kính thưa Thế tôn, khi tu hành pháp này, có được nhiều chúng không?”

Phật dạy A-nan: “Có mười người trở lại.”

Khi ấy A-nan bạch đức Phật rằng: “Kính thưa Thế tôn, khi tu pháp này, có được kinh doanh và cười nói không?”

Phật dạy A-nan: “Chỉ được nhứt tâm niệm Ma-ha Đản-tŕ-la đà-ra-ni Chương cú, c̣n không được tiếp khách, nói cười các ác uế niệm, huống nữa là những vụ kinh doanh buôn bán đó ư!”

Phật dạy A-nan: “Khi tu tŕ kinh này, nếu thiện nam tử thiện nữ nhơn nh́n thấy Phật Vô Lượng Thọ, Phật Thích-ca Mâu-ni, Phật Duy-vệ, Phật Thi-khí, Phật Tùy-diếp, Phật Câu-lâu-tần, Phật Câu-na-hàm Mâu-ni, Phật Ca-diếp, quá khứ Phật Lôi Âm Vương, Phật Bí Pháp Tạng, th́ nên trước chư Phật mà chí tâm sám hối, sẽ diệt được 92 ức tội sanh tử. Hành giả này vĩnh viễn hết lậu tam đồ, không c̣n sanh tử nữa, th́ lúc đó mới nh́n thấy chư Phật hiện tiền. Khi sám hối nên dùng các thứ hương hoa, tràng phan, bảo cái mà cúng dường, lại cũng dùng hương thoa, hương bột mà cúng dường. Cúng dường như vậy xong sẽ thấy mười phương Diệu Lạc thế giới. Khi được thấy rồi th́ phải dè dặt, đừng mang ra mà nói với người khác. Nếu nói, th́ sẽ không được phước, chứ đừng nói chi ra khỏi sanh tử, phải trở lại tam đồ trải qua trăm ngàn vạn kiếp chịu khổ thống ở nơi có nạn. Người đó c̣n mắc bịnh bạch lại (lác trắng), đui điếc câm ngọng, không biết mặn lạt, không phân biệt tốt xấu. Hễ muốn cầu thông minh, th́ trái lại phải mắc quả báo ngu si.”

A-nan bạch đức Phật rằng: “Kính thưa Thế tôn, khi muốn từ bỏ gia đ́nh, người tu hành phải nói như thế nào?”

Phật dạy A-nan: “Khi muốn ra khỏi gia đ́nh, người tu phải nói như vầy: ’Tôi muốn tu hành kinh điển đà-ra-ni, cha mẹ có cho phép không? Nếu có cho th́ con mới ra đi.’ Nói như vậy rồi, trong tâm lặng lẽ suy nghĩ rằng ‘Ta cũng muốn xả bỏ vợ con, gia đ́nh quyến thuộc, tu hành Kinh điển đà-ra-ni thẳng đến đạo tràng, nên như Pháp Tỳ-khưu tu hành tịnh hạnh, đủ ba y, tích trượng, tháo thủy, thực khí, tọa cụ [3] .Người tu hành chỉ nên giữ chừng ấy. Sống nơi đạo tràng như Pháp Tỳ-khưu, lại cũng nên thọ sáu trọng giới như Ưu-bà-tắc xả ác luật nghi. Khi thọ, chớ nên nh́n nữ sắc, chỉ tự nghĩ rằng ‘Tâm ta như bị ghim mũi tên độc, làm sao nhổ ra? Không nên nh́n nữ sắc, là v́ bản thân ta từ hồi nào đến giờ, chính v́ nh́n ngó nữ sắc mà đọa rớt nơi tam đồ, không có kỳ hạn nào ra được, ’ phải khởi niệm như vậy, quán sát sáu trần cũng lại như vậy. Các đệ tử của ta không nên đắm trước chỗ đấy, những loại giặc như vậy phá tan công đức lành của người. A-nan, ta nay nói với ông bảo đệ tử của ta chớ cùng với lục tặc mà kết làm bạn hữu, nó sẽ phá tan công đức kia đó!”

A-nan bạch Phật rằng: “Kính thưa Thế tôn, đó là nói đến những kẻ được cha mẹ cho phép. C̣n nếu cha mẹ, vợ con không cho phép người tu, th́ phải dùng phương tiện ǵ để họ đến đạo tràng?”

Phật dạy A-nan: “Người này nên đối trước cha mẹ mà thiêu các thứ hương thơm, quỳ dài chắp tay, nên nói lên rằng ‘Con nay muốn đến đạo tràng, xin thương xót cho phép, ’ cũng nên tŕnh bày cho được hiểu rơ, cũng nên tùy nghi thuyết pháp, cũng nên ba phen nài xin. Nếu không được cho phép, người tu nên ở lại nhà ḿnh mà lặng lẽ tự suy tư tụng Kinh điển này.”

A-nan bạch Phật rằng: “Phải làm thế nào mà tu hành?”

Phật dạy A-nan: “Khi tu hành, người này phải thanh tịnh trong nhà ḿnh, thiêu hương cúng dường.”

A-nan bạch Phật: “Nữ nhơn có được đến chỗ tu hành ấy không?”

Phật dạy A-nan: “Có đến cũng không sao.”

A-nan bạch Phật: “Lại được giữ y này không?”

Phật dạy A-nan: “Giữ y cũng không sao. Chỉ nói ta là đệ tử chớ đắm trước nữ sắc, phải buộc tâm không cho buông lung, cũng như đạo tràng nhơn và pháp, nếu hay như vậy mà thanh tịnh tu hành th́ trong bảy ngày, đức Quán Thế Âm Bồ-tát hiện ra trước người ấy mà nói Pháp, hoặc khi nằm mộng hoặc lúc thức ngủ, đạo tràng hiện trước người ấy không khác. Nếu được như vậy, nên nhứt tâm nhớ niệm đà-ra-ni Kinh điển. Nếu đem tâm tán loạn mà cầu nhơn Thiên sẽ bị quả báo địa ngục, thọ muôn mối khổ không có ngày ra. Giả sử ra được th́ cũng làm thân tôi tớ bị người ghét mắng, áo cơm không đủ, thường chịu nghèo cùng đói khát. Vậy chớ nên suy nghĩ tạp loạn, phải chí thành tâm, nếu không chí tâm th́ sau này ăn năn không kịp.”

A-nan bạch Phật: “Người này từ biệt gia đ́nh xuất gia cạo bỏ râu tóc được không?”

Phật dạy: “Không vậy!”

A-nan bạch Phật: “Nếu không cạo bỏ th́ sao nói đủ ba y?”

Phật dạy A-nan: “Nói ba y, th́ một gọi là đơn phùng, hai là tục phục .

A-nan bạch Phật rằng: “Thưa Thế tôn, trước giờ nói một là xuất gia y, hai là tại gia phục. Nếu tại gia th́ có dụng ba thứ ấy không?”

Phật dạy A-nan: “Một là xuất gia y, ấy là làm theo pháp thức của ba đời chư Phật; hai là tục phục, ấy là muốn khiến cho đệ tử của ta, khi đến đạo tràng, th́ mặc riêng biệt một bộ phục, thường đem theo tùy thân, thước tấc không rời, nếu rời y này tức đắc tội chướng đạo. C̣n y thứ ba, ấy là để đủ cho tục phục đem đến đạo tràng, thường dùng trong việc đi đứng nằm ngồi. Như vậy đó, ông nên thọ tŕ.”

A-nan bạch Phật rằng: “Nếu có kẻ trai lành, người gái tín mà không thọ sáu trọng giới kể trên, th́ có được đến đạo tràng không?”

Phật dạy A-nan: “Tùy ư có thể kham đến nơi đạo tràng.”

A-nan bạch Phật: “Nếu có thọ, th́ thọ suốt đời chăng?”

Phật dạy A-nan: “Cũng như pháp trên, tùy ư có thể kham thọ các giới luật.”

A-nan bạch Phật: “Như trước giờ đă nói, thẩm xét là phải hay không?”

Bấy giờ, bảy đức Phật liền hiện thân trụ trước A-nan, mà nói với A-nan rằng: “Chớ đem ư tiểu trí của Thanh văn Tiểu thừa mà tùy thuận các chúng sanh khởi đoạn diệt kiến. Quá khứ chư Phật đều do môn này mà thành Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác. Pháp này là pháp môn của tất cả chư Phật vậy. Ba đời chư Phật đều do môn này mà thành Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác.”

Chư Phật nói rồi thoạt nhiên biến mất.

A-nan nghĩ thầm “Lúc năy có bảy đức Phật, nay lại ở đâu?”

Phật biết ư, liền đáp rằng: “Nay ở tại phương Đông. A-nan, v́ ông khởi lên đoạn diệt kiến cho nên các ngài mới đến để chứng cho ông đó.”

A-nan bạch Phật: “Thẩm định đă trừ mà không c̣n nghi ngờ nữa.”

Phật dạy A-nan: “Như lời ông đă nói, quyết định không c̣n nghi ngờ.”

A-nan bạch Phật: “Như vậy đồng kẻ tu hành, có không thấy …vv, có chí tâm th́ mới trừ vô lượng hết thảy các tội ấy, c̣n nếu không chí tâm th́ gọi là người ǵ?”

Phật dạy A-nan: “Người ấy gọi là thiểu phần đắc.”

A-nan bạch Phật rằng: “Người này khi mạng chung sẽ sanh về chỗ nào?”

Phật dạy A-nan: “Tùy ư mà sanh.”

A-nan bạch Phật: “Tùy ư mà sanh v́ oai lực của Đại Phương Đẳng đà-ra-ni hay v́ oai lực của đức Thế tôn trong ba cơi?”

Phật dạy A-nan: “Không phải đức của ta, mà đó chính là sức thần công đức của Ma-ha Đản-tŕ-la đà-ra-ni, có công năng đem chúng sanh đến cơi nước An Lạc.”

A-nan bạch Phật rằng: “Nếu cho vậy là phải, con không dám hỏi đáp như thế.”

Phật dạy A-nan: “Khi ta c̣n ở đời hoặc đă qua đời, có ai phỉ báng kinh Đại Phương Đẳng này, ông nay hăy lắng nghe suy nghĩ, ta sẽ v́ ông phân biệt giải nói nhơn duyên phỉ báng kinh.

A-nan, giả sử tất cả mười phương thế giới đều bị phá nát thành bụi nhỏ, th́ số bụi ấy c̣n có thể đếm biết, chứ không thể biết hết tội báo của kẻ phỉ báng kia. Nếu Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di tu hành Phật Pháp, vào trong Pháp của ta, muốn cầu các món quả báo nhơn Thiên, muốn cầu Diệu Lạc thế giới ở phương khác, th́ ngược lại c̣n bị các thứ khổ hoạn. V́ sao vậy? V́ phỉ báng Phương Đẳng đà-ra-ni vậy. Muốn cầu chủng trí, ngược lại bị quả báo ngu si. Muốn cầu nhơn Thiên thượng diệu khoái lạc, trái lại đọa địa ngục rốt ráo chịu khổ. Muốn cầu tôn vương, trái lại bị hạ tiện. Muốn cầu thông minh, trái lại ám độn. Muốn cầu thiên nhăn, ngược lại bị manh báo (mù ḷa). Muốn cầu con cái, ngược lại bị cô độc báo. Muốn cầu thân có mùi thơm, ngược lại bị hết sức hôi thúi dơ xấu. Thân muốn cầu 32 tướng đoan chánh, ngược lại bị 32 điều xấu xí. Muốn cầu tha phương Diệu Lạc thế giới, ngược lại bị tha phương địa ngục cực khổ. Muốn cầu đại giàu có, ngược lại bị quả báo nghèo cùng.

A-nan, v́ nhơn duyên (phỉ báng) ấy, cho nên ta nói với ông: chớ nên phỉ báng kinh này. Ta nay chỉ lược nói tội báo như trên. Ông nay lắng nghe, ta sẽ v́ ông mà nói.

Lại có tội báo: Nếu có kẻ thiện nam, người thiện nữ không hiểu Như Lai đă nói nghĩa Phương Đẳng, ở trong Pháp này mà hoành sanh phỉ báng, đem vọng tưởng phân biệt các Pháp, hoặc sanh tâm sân giận, người này đến khi mạng chung sẽ đọa vào Đông phương A-tỳ địa ngục, chịu khổ trải qua tám vạn bốn ngàn kiếp, lần lượt như thế v́ tội báo đă phỉ báng kinh. Chung quanh A-tỳ địa ngục có tám vạn bốn ngàn cái ngăn, và khi từ địa ngục ra, người phỉ báng kia lại lần lượt vào từng ngăn ấy trải qua tám vạn bốn ngàn kiếp. Mỗi ngăn như vậy lại có 16 ngăn khác bao quanh, và tuần tự như vậy mà lọt vào Đông-Nam phương, Nam phương, Tây-Nam phương, Tây phương, Tây-Bắc phương, Bắc phương, Đông-Bắc phương, từng địa ngục như vậy, mỗi mỗi từng kiếp số, lần lượt mà chịu khổ. Trên đến chư Phật, bậc trung có thiểu phần túc nhơn, dưới đến Bích-chi Phật và Thanh văn nhơn, những bậc đại sĩ như thế cũng không thể cứu được.

Từ những địa ngục ấy ra rồi, (kẻ phỉ báng kia) phải sanh trong thế gian, ngạ quỷ, súc sanh, sâu kiến, ruồi rận, thủy trùng ṇng nọc, cá hoặc ba ba, thuộc những loài không bao giờ có một lần thay đổi. Giả sử bị làm người hủi lác ung thư, bần cùng đê tiện, thường sanh những chỗ thấp hèn, mù cả hai mắt hoặc chột một mắt, thân thể hôi thúi, các căn không đầy đủ, ai thấy cũng ghét mắng. Giả sử có sanh vào ḍng giàu có, th́ lại bị ngọng liệu, thọ mạng ngắn ngủi, mọi người quở trách rằng h́nh mạo c̣n tệ hơn là kẻ ác, ác kiến, thường bị trù rủa khiến phải chết sớm, hoặc khi sanh ra đời th́ ngũ căn không đầy đủ.

A-nan, là v́ do đời trước phỉ báng kinh Phương Đẳng cho nên thọ nghiệp như vậy. Tuy được thân người, các căn không được hoàn toàn. Giả sử không gặp được thiện tri thức như đă kể trên, (kẻ phỉ báng) lại lần lượt trở vào các địa ngục. Loại địa ngục đó là nhà cửa của họ, quả báo xấu như vậy là y phục của họ.

A-nan, phải biết nghiệp đó không thể lấy tướng ḷng dối gạt, khiến cho tinh thần phải chịu các khổ báo. A-nan, ta nay nói với ông, đối với hạng người không tin, chớ nên nói kinh này.

Quyển Một   Quyển Hai   Quyển Ba   Quyển Bốn

KINH ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG ĐÀ RA NI

Hán Dịch:  Bắc Lương, Sa-Môn Pháp Chúng

Việt Dịch: Sa-Môn Thích Viên Đức

Quyển Ba

Phần Ba: Mộng Hành

Lúc bấy giờ Phật dạy Văn-thù-sư-lợi Pháp Vương Tử: “Khi ta c̣n ở đời hay đă qua đời, nếu có kẻ trai lành, người gái tín nào qua đến chỗ ông, muốn cầu kinh đà-ra-ni, ông phải giáo hóa họ cầu 12 điều mộng vương. Nếu họ thấy được một trong 12 điều mộng vương ấy, ông phải giáo thọ bảy ngày hành pháp cho họ.”

Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng: “Ǵ là 12 điều mộng vương? Thế nào gọi là bảy ngày hành pháp?”

Phật dạy Văn-thù-sư-lợi: “Thiện nam tử,

1/ Nếu có kẻ trai lành, người gái tín nào ở trong mộng thấy được thần thông có thể bay, lại thấy các món màn trướng, tràng phan, bảo cái theo sau ḿnh, như vậy tức là Đản-trà-la.

2/ Nếu kẻ trai lành, người gái tín ở trong mộng thấy h́nh tượng, xá-lợi, tháp miếu, đại chúng Tăng nhóm tụ, như vậy tức là Cân-đề-la.

3/ Nếu kẻ trai lành, người gái tín ở trong mộng thấy quốc vương, đại thần mặc y thanh tịnh, riêng cưỡi ngựa trắng, thấy như vậy tức là Mậu-tŕ-la.

4/ Nếu kẻ trai lành, người gái tín ở trong mộng thấy cưỡi voi vượt qua sông lớn, thấy như vậy tức là Càn-cơ-la.

5/ Nếu kẻ trai lành, người gái tín ở trong mộng thấy cưỡi lạc đà lên núi cao, thấy như vậy tức là Đa-lâm-la.

6/ Nếu Tỳ-khưu muốn cầu pháp này, ở trong mộng thấy ḿnh lên ṭa cao chuyển Bát-nhă, thấy như vậy tức là Ba-lâm-la.

7/ Nếu trong mộng, Tỳ-khưu thấy đến ngồi dưới gốc cây, thượng đàn thọ giới Cụ túc, thấy như vậy tức là Đàn-lâm-la.

8/ Nếu trong mộng, Tỳ-khưu thấy ngồi trước h́nh tượng Phật, triệu thỉnh chúng Tăng, thiết lễ cúng dường, thấy như vậy tức là Thuyền-lâm-la.

9/ Nếu trong mộng, Tỳ-khưu thấy một cây hoa quả sum suê, ngồi dưới gốc cây mà nhập thiền tam-muội, thấy như vậy tức là Cùng-già-lâm-la.

10/ Nếu trong mộng mà đại vương thấy ḿnh cầm đao kiếm dạo chơi bốn phương, thấy như vậy tức là Ca-lâm-la.

11/ Nếu có đại thần ở trong mộng mà thấy nhiều người cầm thủy b́nh tắm rửa cho ḿnh, rồi thoa các phấn thơm, mặc y thanh tịnh, thấy như vậy tức là Cùng-già-lâm-la.

12/ Nếu có Thiên nhơn ở trong mộng mà thấy cưỡi xe dê đi vào chỗ nước sâu, ở trong nước đó có nhiều độc xà, thấy như vậy tức là Bà-lâm-la.

Nếu những người kể trên mộng thấy như vậy th́ ông mới có thể v́ họ mà nói. Thiện nam tử, nếu họ thấy được từng việc như vậy th́ mới có thể v́ họ mà nói bảy ngày hành pháp.”

Bấy giờ, Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng: “Thưa đức Thế tôn, như thế nào là bảy ngày hành pháp? Làm thế nào để thọ tŕ? Làm thế nào để tu hành những pháp như vậy?”

Lúc ấy, đức Phật dạy Văn-thù-sư-lợi Pháp Vương Tử rằng: “Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn, ở phần đầu ban ngày đến nơi đạo tràng, nên lấy hương thoa, hương bột, Chiên-đàn, trầm thủy, huân lục, hải chử ngạn hương mà cúng dường Ma-ha Đản-tŕ-la đà-ra-ni kinh. Bấy giờ Hoa Tụ Bồ-tát, Quán Thế Âm Bồ-tát đến tại đạo tràng. Hai vị đại sĩ sẽ dị khẩu đồng âm mà tán khen hành giả rằng ‘Lành thay, lành thay thiện nam tử thiện nữ nhơn …vv, hay ở trong Pháp của Thích-ca Mâu-ni Như Lai mà tu hành Ma-ha Đản-tŕ-la đà-ra-ni Kinh’. Bấy giờ Quán Thế Âm và Hoa Tụ Bồ-tát ở trong hư không cưỡi hoa sen báu cùng vô lượng đại chúng trước sau đoanh vây.

Văn-thù-sư-lợi, ta nói với ông khuyên các chúng sanh thọ tŕ tu hành Ma-ha Đản-tŕ-la đà-ra-ni Kinh, lần lượt trao nhau để được ra khỏi tam giới, tùy ư đắc nguyện. Nếu có thanh tín sĩ, thanh tín nữ ở phần đầu của ban ngày, khuyên bảo các chúng sanh đến nơi đạo tràng, thiêu các thứ hương, treo tràng phan, bảo cái; (lúc ấy) nếu có kẻ trai lành, người gái tín muốn cầu những việc hiện tại vị lại th́ có thể cầu. Khi đó hai vị đại sĩ tùy căn lương mỗi người mà ban cho những ǵ họ cầu mong trong hiện tại và vị lai.

Văn-thù-sư-lợi, nếu hành giả chí tâm th́ thấy hai vị đại sĩ này bay lên hư không. C̣n nếu không chí tâm th́ không thấy. Văn-thù-sư-lợi, đây gọi là sơ nhựt phần tu hành đà-ra-ni kinh.

Lại nữa Văn-thù-sư-lợi, đến ngày thứ hai trong đạo tràng, kẻ thiện nam, người thiện nữ nên thiêu các thứ hương, hương thoa, hương bột, treo tràng phan, bảo cái mà cúng dường Ma-ha Đản-tŕ-la đà-ra-ni Kinh, th́ đức Bảo Vương Như Lai và đích thân ta, từ núi Linh Thứu cùng vô lượng na-do-tha đại chúng, mỗi mỗi đại chúng đều cưỡi hoa sen bảy báu trước sau vi nhiễu qua đến đạo tràng, dùng các thứ âm thanh, các thứ tán thán khen ngợi đạo tràng của hành giả rằng “Lành thay, lành thay, hỡi kẻ trai lành, người gái tín …vv, sau khi ta qua đời lại có thể thọ tŕ đọc tụng kinh điển đà-ra-ni, trong ḷng lại tự suy nghĩ ḿnh có thể tu hành thọ tŕ Kinh này, lại nghĩ niệm đến mười phương ba đời chư Phật Như Lai, lúc ấy ta sẽ tùy học.

Văn-thù-sư-lợi, sau khi ta qua đời, như trên mà qua đến đạo tràng của hành giả, ta sẽ tùy căn cơ cao thấp của người đó mà nói Pháp. Người đó có thể nghe thấy hoặc không nghe thấy, có thể nh́n thấy h́nh ta hoặc không nh́n thấy, chỉ trừ không chí tâm mà không thấy được. Đây gọi là tu hành Ma-ha Đản-tŕ-la đà-ra-ni kinh phần thứ hai.

Lại nữa Văn-thù-sư-lợi, trong ngày thứ ba ở đạo tràng, kẻ trai lành, người gái tín treo tràng phan, bảo cái, dùng hương thoa, hương bột, Chiên-đàn, trầm thủy, huân lục, hải chữ ngạn hương mà cúng dường kinh Ma-ha Đản-tŕ-la đà-ra-ni. Bấy giờ sẽ có Phật Duy Vệ, Hư Không Tạng đại Bồ-tát qua đến đạo tràng cùng vô lượng đại chúng trước sau đoanh vây trong hư không, các vị cũng lại cưỡi hoa sen bảy báu, ở trong hư không hoặc nơi cao thất Đa-la thọ, phóng đại quang minh chiếu khắp mười phương cơi Phật. Những người tu hành trong các cơi Phật đó thấy hào quang này rồi đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác. Các phương khác cũng có những vị hiền thánh, tất cả đều nương theo hào quang mà qua đến đạo tràng. Bấy giờ tùy căn lượng hạnh lực của ḿnh, hành giả sẽ thấy hoặc không thấy. Hành giả nghe Phật nói như vậy nên vui mừng hớn hở chưa từng có. Văn-thù-sư-lợi, đây gọi là tu hành Ma-ha Đản-tŕ-la đà-ra-ni Kinh phần thứ ba.

Lại nữa Văn-thù-sư-lợi, trong ngày thứ tư ở đạo tràng, kẻ trai lành, người gái tín đọc tụng tu hành Ma-ha Đản-tŕ-la đà-ra-ni Kinh, treo tràng phan, bảo cái, dùng hương thoa, hương bột, Chiên-đàn, trầm thủy, huân lục, hải chữ ngạn hương mà cúng dường kinh Ma-ha Đản-tŕ-la đà-ra-ni. Bấy giờ sẽ có Phật Thức-khí qua đến đạo tràng cùng vô lượng đại chúng trước sau đoanh vây trong hư không cao thất Đa-la thọ, phóng đại quang minh chiếu khắp mười phương vi trần thế giới, chúng sanh trong những thế giới ấy khi thấy hào quang này đều thấu đạt pháp tánh. Bấy giờ, nếu hành giả trong đạo tràng không có tâm tà vạy hư dối, và dù đời này hay đời trước đều chưa phạm căn bản tội, sẽ thấy rơ đức Phật Thức-khí cưỡi hoa sen bảy báu trong hư không. Lúc ấy hành giả đảnh lễ chân Phật, Phật Thức-khí liền lấy tay xoa đầu hành giả mà nói rằng ‘Hỡi kẻ trai lành, người gái tín, các con không lâu sẽ đến cội Bồ-đề, phá các oán ma, phục các ngoại đạo, sẽ đắc tổng tŕ như ta không khác!’. Văn-thù-sư-lợi, đây gọi là tu hành Ma-ha Đản-tŕ-la đà-ra-ni Kinh phần thứ tư.

Lại nữa Văn-thù-sư-lợi, trong ngày thứ năm ở đạo tràng, kẻ trai lành, người gái tín đọc tụng tu hành Ma-ha Đản-tŕ-la đà-ra-ni Kinh, treo tràng phan, bảo cái, dùng hương thoa, hương bột, Chiên-đàn, trầm thủy, huân lục, hải chữ ngạn hương mà cúng dường kinh Ma-ha Đản-tŕ-la đà-ra-ni, tâm không sanh niệm khác, khi nào ta sẽ đắc Tùy đà-ra-ni môn, lúc nào ta sẽ ly ba cơi ác, khi nào ta sẽ xa ngũ cái, khi nào ta sẽ ĺa mười triền, sẽ xa các kiêu mạn và những nạn ngu tập như vậy …vv, khi nào ta sẽ xa các khổ nạn như vậy …vv, Bấy giờ Tùy-diếp Phật ở nơi hư không cưỡi hoa sen bảy báu v́ vô lượng đại chúng mà nói các Pháp yếu. Khi ấy tại đạo tràng, hành giả nghe tỏ rơ chương cú Phật đă nói, rơ ràng không lăng quên, thảy đều ghi trong tâm. Lúc đó nếu có thấy hoặc không thấy, cho đến bảy ngày thấy, cho đến 14 ngày không thấy, cho đến 21 ngày thấy và không thấy, là do nghiệp bất định, nghiệp tội cạn sâu từ đời trước. Văn-thù-sư-lợi, đây gọi là tu hành Ma-ha Đản-tŕ-la đà-ra-ni Kinh phần thứ năm.

Lại nữa Văn-thù-sư-lợi, trong ngày thứ sáu ở đạo tràng, kẻ trai lành, người gái tín đọc tụng tu hành Ma-ha Đản-tŕ-la đà-ra-ni Kinh, treo tràng phan, bảo cái, dùng hương thoa, hương bột, Chiên-đàn, trầm thủy, huân lục, hải chữ ngạn hương mà cúng dường kinh Ma-ha Đản-tŕ-la đà-ra-ni, sẽ có Phật Câu-na-hàm Mâu-ni cùng vô lượng đại chúng trước sau đoanh vây, cùng tứ thiên hạ qua đến đạo tràng. Bấy giờ hành giả thấy rơ đức Phật Câu-na-hàm Mâu-ni và bảy vị Phật trong hư không, mỗi mỗi vị đều ngồi trên hoa sen bảy báu, mỗi hoa cao rộng hơn tám vạn bốn ngàn do-tuần, mỗi hoa cách mặt đất cũng tám vạn bốn ngàn do-tuần. Khi người tu hành thấy được việc này, được vui mừng hớn hở chưa từng có. Lúc đó chư Phật khác miệng đồng lời khen ngợi hành giả “Lành thay, lành thay, đệ tử của Thích-ca Như Lai hay theo di pháp mà thọ tŕ đọc tụng Ma-ha Đản-tŕ-la đà-ra-ni Kinh, đến nơi đạo tràng, không lâu sau sẽ ly ba ác đạo, cứu nhiếp chúng sanh ở tại nhơn Thiên hưởng vui rốt ráo sung sướng.” Văn-thù-sư-lợi, đây gọi là tu hành Ma-ha Đản-tŕ-la đà-ra-ni Kinh phần thứ sáu.

Lại nữa Văn-thù-sư-lợi, trong ngày thứ bảy ở đạo tràng, kẻ trai lành, người gái tín đọc tụng tu hành Ma-ha Đản-tŕ-la đà-ra-ni Kinh, chớ nên khởi niệm ǵ khác, chỉ nên chí tâm thính thọ chắc chắn, đừng nghĩ vợ con, voi ngựa, bảy báu, chớ cho vọng tưởng tán loạn thiện tâm, khiến luống uổng một đời mà không đắc đạo, hư mất công năng, không xa các khổ. Văn-thù-sư-lợi, người tu hành nên chí tâm như vậy. Bấy giờ sẽ có hết thảy chư Phật ở mười phương nơi hư không, mỗi vị sẽ đem một Hằng hà sa, hoặc đem hai Hằng hà sa, hoặc ba Hằng hà sa, hoặc một vạn Hằng hà sa, hoặc hai vạn Hằng hà sa, hoặc ba vạn Hằng hà sa, hoặc mười vạn Hằng hà sa, hoặc 20 vạn Hằng hà sa, hoặc 30 vạn Hằng hà sa, hoặc 60, hoặc 70, hoặc 80, hoặc 90 cho đến 100, hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm, sáu trăm, bảy trăm, tám trăm, chín trăm cho đến không thể tính, không thể đếm đại chúng vân tập tại đạo tràng. Lúc đó đại chúng đều xem nhau, thấy nhau, đều có 32 tướng tốt, thân như vàng ṛng Diêm Phù Đề, mỗi mỗi cơi Phật đều hiện ra trước người ấy, dùng các trân bảo xen nhau trang nghiêm hết thảy các quốc độ chưa từng có được, như Văn-thù-sư-lợi Pháp Vương Tử, tại nơi hư không đều tự nghi sợ, mới tự suy nghĩ “Duyên ǵ chư Phật đều hiện thế giới thanh tịnh như vậy?”. Khi khởi niệm như thế, ta cùng Văn-thù-sư-lợi và vô lượng đại chúng trước sau đoanh vây qua đến đạo tràng, tùy căn lượng của người tu hành mà thuyết pháp, khiến cho họ được thấy rơ thân ta gia hộ oai thần cho họ, khiến họ được thấy các tịnh quốc trong hư không, khi thấy tịnh quốc rồi vui mừng khôn xiết được việc chưa từng có, liền phát tâm Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác mà không c̣n thối chuyển. Trong ṿng bảy ngày liền được tùy ư sanh. Văn-thù-sư-lợi, đây gọi là tu hành Ma-ha Đản-tŕ-la đà-ra-ni Kinh phần thứ bảy.”

Lúc bấy giờ Hoa Tụ Bồ-tát liền từ ṭa đứng dậy, trịch vai áo bên hữu, gối hữu sát đất, cung kính chắp tay mà bạch Phật rằng: “Kính thưa đức Thế tôn, con từ Đông phương Diệu Lạc thế giới, do chư Phật sai qua đây cứu Lôi Âm Tỳ-khưu, giúp Tỳ-khưu trụ tâm bền chắc, như Phật đă nói, không lâu sẽ thành Chánh đẳng chánh giác, độ các chúng sanh không có giới hạn, khiến được cứu cánh trụ thường định tâm. Con nhớ lại công hạnh khi xưa cho nên qua đến Ta-bà thế giới này, nghe thọ diễn thuyết đà-ra-ni kinh, lại nghe thọ kư cho các hàng Thanh văn 500 đại đệ tử, muời phương Thiên tử nay c̣n hiện đây. Trước Thế tôn đă tự rơ nên dùng cái ǵ nói là mười phương hết thảy mà thấy nghe. Cúi mong cho con được lập đại thệ nguyện hộ tŕ kinh điển này.”

Phật dạy Hoa Tụ: “Lành thay, lành thay thiện nam tử, cho phép ông tự ư lập đại thệ nguyện!”

Bấy giờ Hoa Tụ Bồ-tát, tức nơi trước Phật, tự lập thệ nói lên như vầy: “Kính thưa Thế tôn, nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn nào thọ tŕ đọc tụng Kinh đà-ra-ni này, con sẽ từ hôm nay, ngày đêm không rời, ủng hộ người ấy khiến không buồn khổ hoạn nạn, sức khoẻ, đẹp đẽ, danh thơm thảy đều đầy đủ. Nếu đức Thế tôn cho con nguyện này, con mới nhận thành Đẳng chánh giác. Nếu có chúng sanh gặp khổ ách mà con không đến cứu, giúp họ được bổn tâm, th́ con trọn không nhận thành đạo quả Chánh giác. Nếu lại có người tu tŕ Kinh này đến nơi đạo tràng, khi gặp khổ nạn xưng tên con mà con không đến cứu, con trọn không thành Đẳng chánh giác. Nếu có chúng sanh nhớ niệm tên con, ngày đêm sáu thời niệm niệm không dứt, cầu sanh Diệu Lạc thế giới mà không được văng sanh, th́ con không thành Đẳng chánh giác. Nếu có chúng sanh tu hành đà-ra-ni, con sẽ ngày đêm v́ họ nói Pháp khiến họ vui mừng, đến ngày sắp mạng chung, quyết định tự biết sanh Diệu Lạc thế giới không có nghi ngờ, hoặc con khiến người ấy trông thấy Diệu Lạc thế giới như nh́n quả Ha-ma-lặc trong ḷng bàn tay, và bao nhiêu việc tốt xấu thảy đều rơ thấu.

Thưa Thế tôn, nếu khiến tất cả chúng sanh được sanh vào Diệu Lạc thế giới ấy, con mới nhận thành Đẳng chánh giác. Nếu khi văng sanh mà tam đồ phần nghiệp không vĩnh đoạn, th́ con trọn không nhận thành Đẳng chánh giác. Đă sanh Diệu Lạc thế giới, mà không rời bỏ được nhơn duyên tập khí ngu si kiêu mạn, th́ con trọn không nhận thành Đẳng chánh giác.

Kính thưa đấng thiên trung tôn vương, nếu có chúng sanh từ lúc sanh ra cho đến già, chỉ cần khởi một niệm “con sẽ chép viết Kinh đà-ra-ni thọ tŕ đọc tụng”, vậy sau được sanh. Cho dù chép viết được hay không chép viết được, đọc tụng được hay không đọc tụng được, th́ vào ngày lâm chung, con quyết đến chỗ người kia cứu vớt tinh thần của họ, khiến sanh Diệu Lạc thế giới.

Thưa Thế tôn, chỉ trừ hai hạng người con không thể nhiếp cứu: Một là phỉ báng Kinh Phương Đẳng; hai là dụng Tăng kỳ vật[5] , cho đến vật dụng của một vị Tỳ-khưu. Nếu ai dùng vật như vậy th́ sẽ không được văng sanh Diệu Lạc thế giới.

Nếu có chúng sanh bị việc quan sự ưu sầu không vui, bị kẻ khác áp bức buộc tới chỗ vua, hoặc nơi lửa lớn, nước lớn, sư tử, cọp beo, quân trận giao chiến, mù mịt nơi hang núi không biết đường về; nếu gặp các nạn xứ như vậy nên đọc tụng đà-ra-ni này 120 lần, xưng danh tự con “Nam mô Hoa Tụ Bồ-tát đại sĩ”, nên xướng như vậy, khi ấy con cùng vô lượng đại oai đức chư Thiên, trước sau đoanh vây đến chỗ người kia, phá các nạn ấy khiến không bị hoạn.

Nếu đức Thế tôn cho con những lời nguyện như trên, th́ con mới nhận đạo quả Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác. Nếu không cho, con trọn không thành Đẳng chánh giác.”

Bấy giờ Phật dạy Hoa Tụ Bồ-tát: “Lành thay, lành thay thiện nam tử, ḷng từ bi của ông thật là vô lượng, muốn đem môn từ bi ấy nhiếp lấy chúng sanh, bày các phương tiện, khiến không năo hoạn, tùy ư được sanh về các cơi nước an lạc.”

Khi ấy, Tỳ-sa-môn Thiên vương liền từ ṭa đứng dậy, trịch vai áo bên hữu, gối hữu sát đất, chắp tay hướng Phật mà bạch Phật rằng: “Kính thưa đức Thế tôn, con là quỷ thần tướng quân, nhiếp các quỷ thần cũng như đức Thế tôn nhiếp hết thảy chúng con. Đức Thế tôn nay cho con hộ tŕ Kinh đà-ra-ni không?”

Bấy giờ Phật dạy Tỳ-sa-môn Thiên vương: “Hay quá, quỷ thần đại vương! Muốn hộ tŕ kinh đà-ra-ni ấy tức là con ba đời của chư Phật, tức báo ân ba đời chư Phật.”

Lúc ấy Tỳ-sa-môn Thiên vương liền nơi trước Phật mà lập nguyện: “Thưa đức Thế tôn, khi kẻ trai lành, người gái tín tŕ Kinh đà-ra-ni, nếu có người ác muốn làm suy loạn, khiến cho hành giả loạn tâm tán ư, không thể tu hành. Lúc bấy giờ con sẽ hiện đến, khiến cho kẻ ác ngược lại bị hao tán suy bại, hoặc khiến nước lửa, trộm cướp, quan huyện đến bức ép oan uổng hoạnh nạn, khiến kẻ ác không thể trốn thoát, hoặc có lúc đến chết, hoặc có khi gần chết, người ác như vậy dù có làm quan cũng không được thăng tiến, hoặc khiến ác mộng đều đổ nơi thân quằn quại lăn lóc dưới đất, hoặc khi trong mộng lại bị ở truồng mà chạy, răng nướu rơi rụng, tóc trắng mặt nhăn, mắt chột đui mù. Thưa đức Thế tôn, con khiến cho người ác bị các ác mộng như vậy. Thưa đức Thế tôn, lúc đó con sai các quỷ thần năo hại gia cang nhà cửa của họ, khiến họ bị đại trọng bệnh, có khi đến chết. Thưa đức Thế tôn, có cho con hộ Kinh này như vậy không?”

Bấy giờ đức Thế tôn lặng thinh không đáp. Hoa Tụ liền nói với Tỳ-sa-môn rằng: “Đức Thế tôn lặng thinh tức là có thể cho phép ông làm những điều như vừa nói.”

Bấy giờ A-nan nói với Hoa Tụ rằng: “Tôi nay hỏi ông, xin ông đáp cho, chứ đừng lặng thinh như đức Thế tôn.”

Lúc ấy Hoa Tụ nói với A-nan: “Tùy ư cứ hỏi, sẽ v́ ông mà đáp.”

Bấy giờ A-nan nói với Hoa Tụ rằng: “Tại sao đức Thế tôn không làm thinh mà thọ kư cho các hàng Thanh văn? V́ sao vậy? Làm thinh ấy là tánh ấn khả đó. V́ nhơn duyên ǵ mà nói lời phương tiện thọ kư các đệ tử Thanh văn?”

Lúc ấy Hoa Tụ nói với A-nan: “Đức Như lai có làm thinh thọ kư các hàng Thanh văn, có lúc dùng lời nói phương tiện mà thọ kư cho. A-nan, Như Lai thọ kư không những chỉ một. V́ sao thế? V́ các pháp bất định cho nên Như Lai dùng nhiều phương tiện. Trí huệ vô lượng, thế giới vô biên, cho nên chúng sanh tu hành cũng vô biên. Vậy nên đức Thế tôn lấy phương tiện thọ kư cho các đại đệ tử.”

Bấy giờ A-nan nói với Hoa Tụ rằng: “Nếu là các pháp bất định th́ mười phương chư Phật cũng nên bất định. Chư Phật không định, mười phương thế giới cũng lại không định ư?”

Bấy giờ, Hoa Tụ liền lấy tay hữu tiếp lấy Tây phương Diệu Lạc thế giới đưa lên hư không cũng như đại sĩ lấy trái a-ma-la-lặc để nơi bàn tay mặt mà không bị trở ngại ǵ. Lúc ấy đại chúng trông thấy Tây phương Diệu Lạc thế giới, sông ao, hoa cây, các thứ trang nghiêm đều rơ ràng. Bấy giờ đại chúng vui mừng hớn hở, chí tâm kính lễ Vô Lượng Thọ Phật, mỗi mỗi đều cầu sanh Diệu Lạc thế giới.

Lúc ấy Hoa Tụ nói với A-nan rằng: “Ư ông nghĩ sao? Các pháp như vậy có định tánh không?”

A-nan đáp Hoa Tụ: “Các pháp như vậy không có định tánh. Tôi không dám hỏi các pháp định tướng.”

Bấy giờ Phật dạy A-nan: “Hai đại sĩ các ông không cần phân vân tranh luận như thế. V́ sao? Này A-nan, ư ông nghĩ sao? Người tam quả có vào địa ngục không? Đấng A-la-hán có thọ ngạ quỷ h́nh không? Cho đến thọ thân súc sanh không, và chỗ biên địa tà kiến không?”

A-nan bạch Phật: “Không vậy, thưa Thế tôn! V́ sao? Bậc A-la-hán gọi là ly tất cả rốt ráo hoạn nạn. Nếu không ly tất cả rốt ráo hoạn nạn th́ không gọi là A-la-hán.”

– Thiện nam tử, ông nói thế nào? Tất cả pháp là không định tướng. Bậc A-la-hán vĩnh viễn không thọ những khổ như vậy đâu không định ư?”

A-nan bạch Phật rằng: “Thưa Thế tôn, bậc A-la-hán đắc tận định trí tuệ không?”

Phật dạy: “Không vậy. Bởi v́ sao? A-la-hán c̣n phân đoạn Bát-niết-bàn, cho nên không được cứu cánh tận huệ. Thiện nam tử, luận kẻ học giả quán tất cả pháp trụ b́nh đẳng tánh, không ly có, không ly không; không ly hữu biên, không ly vô biên; không tức là biên, không ly là biên; không tức là ngă, không ly nơi ngă; không tức là sắc, không ly nơi sắc; không tức là thọ, không ly nơi thọ. Tất cả pháp không thể nói định, không thể nói không định. Nếu nói không định th́ không Tam Bảo rốt ráo giải thoát. Phải biết là pháp tức có định tánh ấy. Nếu nói không định th́ trên không có chư Phật, dưới không có chúng sanh, là không định tướng. Tuy lại như vậy song không thể nói không, không thể nói có. Nếu Bồ-tát quán tất cả pháp trước hữu, trước vô tướng tức Bồ-tát hệ lụy ràng buộc. Nếu thấy chúng sanh mà sanh trước tướng th́ Bồ-tát bị hệ lụy. Nếu ly chúng sanh th́ Bồ-tát cũng hệ lụy. Nếu trước chúng sanh mà hành là Bồ-tát hệ lụy, nếu ly chúng sanh mà hành th́ Bồ-tát cũng hệ lụy. Nếu trước ngă mà hành th́ Bồ-tát hệ lụy, nếu ly ngă mà hành th́ Bồ-tát cũng hệ lụy. V́ sao vậy? Bồ-tát thường nên trụ trung đạo, tâm mới đắc Bồ-tát cứu cánh huệ. Thiện nam tử, bậc A-la-hán đều không có việc ấy. Không có việc ấy cho nên không được gọi là cứu cánh huệ.

Thiện nam tử, nói Bồ-tát trụ tâm trung đạo, ông nay lắng nghe, ta sẽ v́ ông mà nói. Bồ-tát quán hư không như đất, quán đất như hư không; quán vàng như đất, quán đất như vàng; quán chúng sanh phi chúng sanh, quán phi chúng sanh là chúng sanh; quán pháp là phi pháp, quán nơi phi pháp là chánh pháp; mà là chánh pháp không có sai biệt. Quán các tŕ giới b́nh đẳng với phá giới, quán các phá giới như đủ giới tướng. Ly nơi nhị biên, trụ tướng b́nh đẳng. Phá giới tŕ giới nên b́nh đẳng tâm mà quán. Thượng, trung, hạ tánh cũng nên tâm b́nh đẳng mà quán. Quán hữu vi vô vi pháp nên b́nh đẳng tâm mà quán, không tán khen Đại thừa, không hủy bỏ Tiểu thừa, giàu sang thấp hèn, tốt xấu hôi dơ, các căn đầy đủ hay dù khiếm khuyết, thông thái ngu si đều không khen chê.

Thiện nam tử, luận kẻ làm Bồ-tát v́ pháp cúng dường cũng không nên lựa chọn các việc như trên, ấy mới gọi là Bồ-tát trụ tâm trung đạo cứu cánh trí huệ. Thiện nam tử, kẻ Thanh văn không có việc như vậy nên không có cứu cánh huệ cũng không cứu cánh Niết-bàn. V́ sao thế? Bởi chưa rơ pháp tánh nên không được cứu cánh Niết-bàn.

Lại nữa thiện nam tử, xưa kai ta từng làm cư sĩ, bản tánh kiêu ngạo buông lung, không cầu kinh điển xuất thế. Lúc đó có vị Tỳ-khưu cầm b́nh bát qua đến chỗ ta, cầu xin ta giúp đỡ nuôi thân. Bấy giờ ta đáp rằng “Sa-môn Thích tử, ông từ phương nào mà đến chỗ tôi? Cầm bát mà đứng cầu xin cái ǵ?” Ta lại hỏi thêm rằng “Ông nơi năm pháp, thường học luật ǵ? Ông nói 12 bộ kinh, thường học những ǵ?” Lại hỏi tiếp rằng “Ông chủng tánh ǵ? Thượng tánh, trung tánh, hay hạ tánh?” Lại hỏi tiếp rằng “Ông nay tên ǵ, họ ǵ? Nơi trong tam nghiệp, thường tu cầu nghiệp ǵ? Muốn cầu chỗ nào? Thượng trung hạ thừa, ông nhiếp thừa nào? Cầu cứu cánh hay cầu phân đoạn?” Ta lần lượt mà hỏi như vậy vô cùng, thân liền mắc bịnh rồi lại mạng chung, v́ nhơn duyên ấy cho nên ta nay nói với ông, khi nào bố thí, chớ nên lựa thượng trung hạ tánh, thật tướng thế đế, đối với pháp hữu vô chớ sanh phân biệt. Nếu sanh phân biệt th́ gọi là Bồ-tát trước ngă, nhơn, thọ giả, cũng trước nơi việc tu hành, không gọi là Bồ-tát trụ tâm trung đạo đắc cứu cánh huệ.

Thiện nam tử, ta nay lại lược nói nhơn duyên xa xưa. Ta xưa làm một Tỳ-khưu, thời ấy có một cư sĩ mở hội lớn làm việc bố thí, mời Sa-môn, Bà-la-môn, kẻ bần cùng hạ tiện, cần áo cho áo, cần ăn cho ăn, cần trân bảo cho trân bảo. Lúc đó ta hết sức nghèo túng, hoàn toàn không có chút sở hữu nào cả. V́ mong có chút tiền tài nên ta mới đến chỗ hội ấy. Khi đi giữa đường, thấy có cái cầu lớn, trên cầu nhiều người thỉnh thoảng qua lại. Trong số đó có một trí giả, ta đem ngu ư mà hỏi ông ta rằng: “Cái cầu này do ai làm? Sông này từ đâu mà chảy đến và sẽ đi về đâu? Cây này mọc ở rừng nào, người nào chặt, voi nào chở? Cây này màu xanh hay trắng, đỏ hay đen? Làm ngày nào? Cây này là tùng, bá, hay liễu, cong hay ngay, có đốt mắt hay không đốt mắt? Phá cây này bằng búa ǵ, đúc ra ở tại đâu, thợ nào làm ra? Nước này mặn, đắng, hay ngọt, sâu hay cạn? Dùng cầu này để làm chi?

Thiện nam tử, lúc đó ta lần lượt hỏi 7.800 câu xong, th́ người trí giả đáp rằng: “Quái thay ông si Sa-môn! Cư sĩ thỉnh ông, ông chỉ đi bộ một lúc là đến chỗ hội, có thể được vui vẻ, sau không hối hận. Ông nay nên bỏ việc hỏi han như thế đi, đối với bản thân ông không có lợi ǵ mà dụng hỏi làm chi, những cây mọc ở rừng nào, người nào làm, búa nào chặt. Quái ông si Sa-môn! Ông mau đi trở lại đi, sẽ nói với ông!” Bấy giờ ta nghe lời này rồi liền bách bộ mà đi đến chỗ hội. Thức ăn nóng đă hết, tiền bạc cũng chẳng c̣n. Thấy vậy ta buồn rầu hối hận, gào khóc mà nói rằng: “Khổ thay, miệng ḷng đă mất dịp may!” Quá khổ như vậy, trở về trên cầu lại thấy mọi người nh́n ḿnh, trong đó có người bảo rằng: “Sa-môn, sao ông tiều tụy như thế? Nhiều điều không tốt ư?” Lúc đó ta đáp: “V́ quá nghèo cùng nên quá đến chỗ hội, muốn cầu xin áo mặc, ăn uống và đồ cần dùng. Đi nửa đường, tôi thấy ông nên hỏi những việc vô ích, khiến tôi mất dịp ăn uống và tiền tài, v́ vậy tôi sanh buồn.”

Lúc đó người trí mới nói với ta rằng: “Phàm là vị Tỳ-khưu, đối với bản thân không có lợi th́ không nên nói, dụng hỏi ấy để làm ǵ? Này kẻ thiện sĩ Tỳ-khưu, ông v́ lầm một phen mà mất cái lợi hiện tại. Từ nay trở về sau, đối với bản thân không có lợi ích th́ dè dặt đừng nên hỏi nhiều. Nên quán các pháp nào có lợi cho ḿnh th́ mới nên hỏi. Ǵ gọi là lợi? Quán pháp hữu vi nên hăy xa ĺa, đó tức là lợi. Quán pháp b́nh đẳng mới nên thân cận, đó tức là lợi. Không khen ḿnh, không chê kẻ khác, đó tức là lợi. Tự ḿnh rơ thấu, dạy kẻ khác rơ thấu, đó tức là lợi. Tự ḿnh nhàm chán các vui ở đời, dạy kẻ khác nhàm chán, đó tức là lợi. Tự biết chớ hỏi những điều không lợi ích, lại dạy kẻ khác chớ hỏi những điều ấy, đó tức là lợi. Lúc năy tôi đă biết rằng hỏi không lợi cho ḿnh, cho nên tôi khuyên ông mau đi qua chỗ hội.”

Thiện nam tử, khi người trí nói pháp này, chín mươi hai ức chư Thiên Đao Lợi ở trong hư không đă nghe được, liền phát tâm Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác. Lúc ấy có 500 cư sĩ viễn trần ly cấu đắc pháp nhăn tịnh. C̣n ta được nhập vào môn đà-ra-ni. Thiện nam tử, nhơn đó ta được vào cứu cánh huệ, trụ tâm trung đạo. A-la-hán đều không được việc ấy th́ làm sao mà đắc cứu cánh huệ? V́ chê Đại thừa khen các Tiểu thừa, vậy cho nên không đắc cứu cánh huệ.”

Bấy giờ A-nan bạch Phật rằng: “Kính thưa đức Thế tôn, người như vậy nay lại ở đâu? Thọ quả báo trải bao nhiêu kiếp? Phật danh hiệu là ǵ? Những kiếp ấy tên ǵ? Vua kia tên chi?”

Phật dạy A-nan: “Thiện nam tử, nay ta có thể nói với ông bằng ví dụ. Giả sử có người thân lực vô lượng, đập ba ngàn đại thiên thế giới ra thành bụi nhỏ. Thiện nam tử, để ư việc này: người đó lại gom bụi nhỏ của ba ngàn đại thiên thế giới rồi đập nát thành vi trần, như vậy lần lượt mười phương Hằng hà sa thế giới cũng đập nhỏ thành bụi, liệu có thể biết được số lượng ấy chăng?”

A-nan bạch Phật: “Thưa đức Thế tôn, một thế giới cho đến trăm thế giới c̣n không thể đếm, huống là số vi trần ư?”

Thiện nam tử, thế giới có thể biết số kia, có đức Phật đă qua đời c̣n xa xưa hơn số ấy, Phật ấy hiệu là Chiên-đàn Hoa Như Lai Chí chơn Đẳng chánh giác, nước tên là Tôn Đế, kiếp tên Tịnh Tŕ, vương tên là Chiên-đàn Quả. Chiên-đàn Hoa Phật sanh ở vương cung kia thành Đẳng chánh giác và vào cơi Niết-bàn.

Lại có Phật tên Thích-ca Mâu-ni, như vậy lần lượt có hai vạn ức Phật Thích-ca Mâu-ni, ta thảy đều cúng dường. Vị Phật tối sơ ấy khiến ta kiên cố đà-ra-ni, th́ đâu phải ai khác, nay chính là Văn-thù-sư-lợi Pháp Vương Tử vậy. Cư sĩ thiết Pháp hội ấy nay là Hoa Tụ Bồ-tát ma-ha-tát vậy. Năm trăm cư sĩ khi ấy nay là năm trăm đại đệ tử vậy.”

Bấy giờ vương tử, Bồ-tát, cư sĩ, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Thiên Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, năm trăm đại đệ tử, vô lượng đại chúng và A-nan hoan hỉ phụng hành.

Quyển Một   Quyển Hai   Quyển Ba   Quyển Bốn

KINH ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG ĐÀ RA NI

Hán Dịch:  Bắc Lương, Sa-Môn Pháp Chúng

Việt Dịch: Sa-Môn Thích Viên Đức

Quyển bốn

Phần Bốn: Hộ Giới

Bấy giờ Văn-thù-sư-lợi liền từ ṭa đứng dậy, trịch vai áo bên hữu, gối hữu sát đất, bạch đức Phật rằng: “Kính thưa đức Thế tôn, sau khi Thế tôn qua đời, nếu có Tỳ-khưu hủy phạm bốn trọng giới, hoặc Tỳ-khưu-ni hủy phạm tám trọng giới; nếu có Bồ-tát hoặc Sa-di, Sa-di-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di hủy phạm các giới tương ứng, khi đă phạm trọng tội rồi th́ làm sao mà diệt?”

Phật dạy: “Than ôi, lành thay, Văn-thù-sư-lợi hay thưa hỏi những việc như thế! Ḷng từ bi của ông quá thù thắng nên mới phát hỏi lời ấy! Nếu ông không hỏi, ta trọn không nói việc Tỳ-khưu trong đời ác đă hủy phạm giới. Lành thay, lành thay, Văn-thù-sư-lợi! Ông nay lắng nghe, ta sẽ v́ ông mà nói. Sau khi ta qua đời, nếu có ác luật nghi Tỳ-khưu hủy phạm tứ trọng giới và cứ mặc nhiên thọ sự cúng dường của đàn việt mà không biết cải hối, phải biết Tỳ-khưu đó chắc chắn phải đoạ địa ngục thọ khổ không chút nghi ngờ. Ta nay sẽ ban cho món lương dược để cứu vớt vị Tỳ-khưu trọng bịnh, sau khi ta qua đời, hủy phạm bốn trọng cấm xấu hổ không phát lồ. Ông nay lắng nghe, ta sẽ v́ ông mà nói:

Ly bà ly bà đế Cừu ha cừu ha đế Đà la ly đế Ni ha la đế Tỳ ma ly đế Sa ha.

Văn-thù-sư-lợi, đà-ra-ni này là quá khứ thất Phật đă tuyên nói. Chữ “thất” này không thể đếm cũng không thể tính, nói đà-ra-ni này cứu nhiếp chúng sanh. Hiện tại mười phương không thể tính, không thể đếm thất Phật cũng tuyên nói đà-ra-ni này cứu nhiếp chúng sanh. Vị lai mười phương không thể tính, không thể đếm thất Phật cũng tuyên nói đà-ra-ni này cứu nhiếp chúng sanh. Ông nay thỉnh hỏi nghĩa đà-ra-ni, ta đă nói xong. Ông hăy đem kinh đà-ra-ni này cứu nhiếp luật nghi Tỳ-khưu ở đời ác sau này, khiến cho họ kiên cố trụ thanh tịnh địa.

Thiện nam tử, Tỳ-khưu nào hủy phạm tứ trọng cấm th́ phải chí tâm nhớ niệm kinh đà-ra-ni này, tụng 1.400 biến. Tụng 1.400 biến xong rồi mới một lần sám hối, thỉnh một vị Tỳ-khưu v́ ḿnh làm chứng nhơn, nơi trước h́nh tượng mà tự bày tỏ tội lỗi ḿnh. Như thế lần lượt trải qua 87 ngày cần mẫn sám hối rồi, mà các giới căn không hoàn sanh, th́ không có lư đó. Người kia cần mẫn sám hối trong 87 ngày xong, nếu không kiên cố tâm Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác, th́ cũng không có lư đó.

Lại nữa Văn-thù-sư-lợi, làm thế nào biết được giới đă thanh tịnh? Nếu trong mộng thấy có sư trưởng lấy tay xoa đầu ḿnh, hoặc cha mẹ, Bà-la-môn, kẻ kỳ cựu có đức, dạng người như vậy, hoặc cho ẩm thực, y phục, ngọa cụ, thang dược, th́ biết ḿnh được an trụ giới thanh tịnh. Nếu thấy được mỗi mỗi tướng như vừa kể, nên nói cho thầy biết như pháp diệt tội như vậy.

Lại nữa thiện nam tử, trường hợp Tỳ-khưu-ni hủy phạm tám trọng cấm, nếu muốn diệt tội th́ phải thỉnh một Tỳ-khưu biết rơ luật trong ngoài, rồi tŕnh bày tội lỗi cho Tỳ-khưu nghe, nghe xong Tỳ-khưu nên như pháp mà dạy nội ngoại luật như thế này:

A lệ ly bà kỳ la đế La đế bà Ma la đế A ma la đế Sa ha.

Thiện nam tử, nếu như pháp thọ tŕ đọc tụng đà-ra-ni này 97 ngày, mỗi ngày tụng 49 biến rồi sám hối một lượt, theo thầy tu hành, th́ không có lư nào mà không diệt trừ được ác nghiệp.

Thiện nam tử, nếu ông không tin, ta nay v́ ông lược nói: ta xưa v́ duyên ngu hạnh nghiệp nhơn, cho nên mười phương hư không pháp giới và cơi đất lớn, núi sông, rừng cây, nghiền nát hết làm bột, nhỏ như vi trần c̣n có thể đếm biết được, trừ hết thảy chư Phật ra, không người nào có thể biết ta đă phạm giới. Mười phương vô biên, ta đă phạm giới cũng lại vô biên. Vi trần vô số, ta đă phạm giới cũng lại vô số. Chúng sanh vô biên, ta đă phạm giới cũng lại vô biên. Phương tiện vô biên, ta đă phạm giới cũng lại vô biên. Pháp tánh vô biên, ta đă phạm giới cũng lại vô biên.

Thiện nam tử, ta quán xét hết thảy nghiệp như vậy lại càng lo sợ. Trên đến Bồ-tát, dưới đến Thanh văn, không ai có thể cứu ta thoát những khổ báo. Suy nghĩ như vậy rồi, ta liền đi t́m cầu Kinh điển đà-ra-ni này. T́m cầu được rồi, ta tu hành 97 ngày, mỗi ngày đọc tụng 49 biến, nghe trong hư không có tiếng nói rằng: “Lành thay, lành thay thiện nam tử, mới hay t́m cầu Kinh điển đà-ra-ni này!” Nghe xong ta nh́n xem bốn phương, thấy có hàng hàng chư Phật hiện tiền, mỗi mỗi chư Phật đưa tay xoa đầu ta, nghe ta hối lỗi. Thiện nam tử, v́ nhơn duyên đó, sau khi ta qua đời, nếu có Tỳ-khưu-ni phạm tám trọng cấm, nên phải t́m đến Kinh điển đà-ra-ni này mà đọc tụng tu hành. Nếu trong mộng thấy những việc như trên, phải biết Tỳ-khưu-ni kia đă an trụ thanh tịnh địa, đầy đủ thanh tịnh giới.

Lại nữa thiện nam tử, nếu có Bồ-tát thọ tám trọng cấm rồi sau hủy phạm, ôm ḷng cuồng loạn, muốn tự ăn năn tŕnh bày tội lỗi mà không có chỗ quy thú, không thể diệt tội. Những tội lỗi như thế Tăng đem ḥa hợp mang ra tẩn xuất nên quá lo sợ. Kẻ có lỗi nên ở trong một tịnh thất, dọn quét trong ngoài cho thật sạch sẽ, thỉnh một Tỳ-khưu thông suốt luật nghi trong ngoài, ở trước vị ấy tŕnh bày lỗi lầm và nói như thế này: “Tăng nay ruồng đuổi, tôi đến nơi đây, tôi nay thỉnh Thầy cũng đến nơi đây, xin Thầy giáo hóa pháp tịnh luật.”

Bà la lệ Cừu na la lệ A na la lệ Kỳ na la lệ Già na lệ A lệ na lệ A đế na lệ A đế na lệ Sa ha.

Thiện nam tử, đà-ra-ni này là chỗ hộ tŕ của ba đời chư Phật, cũng là bí tạng của ba đời chư Phật. Thiện nam tử, xưa ta chưa nói, nay đă nói. Xưa ta chưa làm, nay đă làm. Xưa chưa từng nghe, nay đă nghe, mở ba nhơn phương tiện này đă xong, khiến cho chúng sanh gặp ba nhơn phương tiện này mà mau ra khỏi tam giới như mù được thấy mặt trời, như con trẻ được mẹ, như chim ra khỏi trứng, như người đói được ăn, như kẻ bị trói được mở, như người lạnh được lửa, như kẻ trần truồng được áo mặc, như kẻ mê được gặp người dẫn đường, như người khát được nước.

Thiện nam tử, pháp vị này của ta lại cũng như vậy. Nếu trụ ở đời lâu một kiếp, hoặc bớt đi một kiếp v́ các chúng sanh thọ tŕ đọc tụng, giải nói nghĩa ấy, v́ kẻ ngu si mà nói, phải biết người đó như ta không khác, trụ nơi thanh tịnh địa. Vậy người ấy nên sanh tâm khó gặp, tự ḿnh tŕnh bày tội lỗi, th́ không có lư ǵ mà trọng tội không diệt.”

Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng: “Kính thưa Thế tôn, đà-ra-ni này nên đọc tụng bao nhiêu biến? Tu hành bao nhiêu ngày mới chấm dứt?”

Phật dạy: “Thiện nam tử, đà-ra-ni này nên tụng 600 biến mới sám hối một lần. Khi sám hối, nên thỉnh một vị Tỳ-khưu đứng trước mặt, ḿnh tự tŕnh bày tội lỗi cho vị ấy nghe, như vậy lần lượt trải qua 67 ngày, đến khi thấy được các mộng tướng kể trên. Nếu được như vậy th́ biết là Bồ-tát đă trụ thanh tịnh địa, đầy đủ thanh tịnh giới.

Lại nữa thiện nam tử, nếu Sa-di, Sa-di-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di hủy phạm các cấm giới, cũng nên thỉnh một Tỳ-khưu biết rơ luật nghi trong ngoài, ḿnh ở trước tôn tượng hoặc tôn kinh Bát-nhă, tự tŕnh bày tội lỗi cho Tỳ-khưu nghe, Tỳ-khưu này nên dạy cho họ pháp tịnh luật:

Luật già la đế Mộ già la đế A đế ma la đế Uùc già la đế Bà la đế Bà ṭa la yết đế Ṭa la yết đế Đậu la xa yết đế Tỳ xa yết đế Ly bà yết đế Bà la lệ a lệ Kỳ la lệ a lệ Tỳ la lệ a lệ Kỳ lan lệ a lệ Đề lan lệ a lệ Tỳ la a lệ Sa ha.

Thiện nam tử, ta v́ thương xót tất cả chúng sanh nên nói đà-ra-ni này. Nếu có hạ liệt Sa-di, Sa-di-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di cũng nên thọ tŕ đọc tụng đà-ra-ni này, tụng 400 biến mới sám hối một lượt, lần lượt như vậy trải qua 47 ngày, tự ḿnh tŕnh bày tất cả tội lỗi cho vị Tỳ-khưu nghe rơ. Xong hết 47 ngày, nếu thấy những điềm mộng như trên đă kể, th́ biết Sa-di, Sa-di-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di kia đă trụ thanh tịnh địa, đủ thanh tịnh giới.”

Bấy giờ Văn-thù-sư-lợi và 500 đại đệ tử, tâm có chút ít nghi. Phật biết ư liền dạy rằng: “Như các ông đă nghĩ, kẻ hành giả nên tu năm việc tŕ các giới tánh, nghĩa là:

1. Không phạm đà-ra-ni nghĩa;

2. Không báng Phương Đẳng kinh;

3. Không thấy lỗi của kẻ khác;

4. Không tán khen Đại thừa mà hủy báng Tiểu thừa;

5. Không rời bạn lành.

Thường nói với chúng sanh năm diệu hạnh như vậy, ấy là hành giả nghiệp không phạm giới tánh.

Lại nữa thiện nam tử, khi được mộng lành th́ không được nói cảnh giới đó ra, cũng không được nói ḿnh đă tu hành tốt xấu như thế nào. Ngày ngày nên ba thời dùng hương thơm thoa đất, sái quét sạch sẽ, cũng nên mỗi ngày tụng một biến, mỗi ngày sám hối một lần. Năm việc như thế để cho kẻ hành giả nghiệp không phạm giới tánh.

Thiện nam tử, lại có năm việc nữa:

1. Tỳ-khưu nào tu hành pháp này không được cùng bạch y[6] cúng tế quỷ thần;

2. Cũng không được khinh quỷ thần;

3. Cũng lại không được phá miếu thờ quỷ thần;

4. Giả sử có người cúng tế quỷ thần cũng không được khinh;

5. Cũng không được qua lại với người ấy.

Năm việc như vậy là nghiệp hạnh của kẻ tu hành hộ giới cảnh giới.

Thiện nam tử, lại c̣n năm việc nữa:

1. Không được qua lại nhà của người phỉ báng kinh Phương Đẳng;

2. Không được qua lại với Tỳ-khưu phá giới;

3. Cũng không được qua lại nhà của Ưu-bà-tắc phá ngũ giới;

4. Không được qua lại nhà của kẻ thợ săn;

5. Không được qua lại với người nào thường nói lỗi của Tỳ-khưu.

Năm việc như vậy là nghiệp hạnh của kẻ tu hành hộ giới cảnh giới.

Thiện nam tử, lại c̣n năm việc nữa:

1. Không được qua lại nhà của người làm nghề lột da thú;

2. Không được qua lại nhà người nhuộm chàm;

3. Không được qua lại nhà người nuôi tằm;

4. Không được qua lại nhà người ép dầu;

5. Không được qua lại nhà người đào chuột.

Năm việc như vậy là nghiệp hạnh của kẻ tu hành hộ giới cảnh giới.

Thiện nam tử, lại c̣n năm việc nữa:

1. Không được qua lại nhà kẻ cướp;

2. Không được qua lại nhà người trộm cắp;

3. Không được qua lại nhà người thiêu Tăng pḥng;

4. Không được qua lại nhà người trộm cắp của chúng Tăng;

5. Không được qua lại nhà người chỉ trộm lấy vật của một Tỳ-khưu.

Năm việc như vậy là nghiệp hạnh của kẻ tu hành hộ giới cảnh giới.

Thiện nam tử, lại c̣n năm việc nữa:

1. Không được qua lại nhà người nuôi heo, dê, gà, chó;

2. Không được qua lại nhà người xem sao, thiên văn;

3. Không được qua lại nhà kẻ dâm nữ;

4. Không được qua lại nhà góa phụ;

5. Không được qua lại nhà người nấu rượu.

Năm việc như vậy là nghiệp hạnh của kẻ tu hành hộ giới cảnh giới.

Thiện nam tử, bảy khoa năm việc như trên, người tu hành nên hiểu rơ, quán sát tận nguồn gốc, nhiên hậu xa ĺa. Các việc khác cũng lại như thế.

Lại nữa thiện nam tử, có hai hạng người tu hành: xuất thế tu hành và tại thế tu hành. Người xuất thế tu hành, ta không cấm những việc như trên, nhưng ta lại cấm đối với người tại thế tu hành. V́ sao? Thí như con trẻ khi mới biết đi, bà mẹ giữ ǵn không cho đi xa. Giả sử đi xa hoặc bị dứt sữa mà chết, hoặc rớt trong nước mà chết, hoặc cọp beo, sư tử ăn thịt, hoặc bị các chim hung tợn làm thương tổn. Trẻ con như vậy, mẹ thường giữ ǵn không để bị hại, để sau này lớn lên, nó ra làm th́ mới chắc chắn thành tựu.

Thiện nam tử, ta cũng lại như thế, là mẹ của tất cả. Hết thảy chúng sanh tức là con ta, thường hộ trợ họ để không gặp hoạnh, mau ra ba cơi mới có thể làm xong. Nếu không ngăn giữ các con như vậy th́ làm thế nào được Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác, như người mẹ kia không ngăn con th́ làm thế nào con có thể khôn lớn trưởng thành?

Lại nữa thiện nam tử, nếu các đệ tử của ta thấy những người ác luật nghi không lành như trên, xem tướng tốt xấu, buôn bán đổi chác nuôi sống, một hạng không đúng đắn làm các việc ác, xả bỏ pháp của ta mà đi tham đắm các ác luật nghi, sau rồi mạng chung chịu vô lượng khổ. Ta thấy như vậy sanh tâm thương xót, v́ các chúng sanh bày những phương tiện, để cho chúng sanh nương vào đấy mà ra ba cơi khổ, được vui cứu cánh. V́ vậy ta nay bày nhiều phương tiện cứu nhiếp chúng sanh khiến được cứu cánh tịch diệt Niết-bàn.”

Bấy giờ Văn-thù-sư-lợi và 500 đại đệ tử, vô lượng đại chúng hoan hỉ phụng hành.

Phần Năm: Bất Tư Ngh́ Liên Hoa

Bấy giờ tại rừng Kỳ-đà có vô lượng ức thiên na-do-tha đại chúng, có hoa sen báu từ đất vọt lên cao mười cây đa-la. Hoa ấy có 80 vạn Hằng hà sa lớp, mỗi lớp có một đức Phật cũng vô lượng đại chúng trước sau đoanh vây vi nhiễu mà nói nghĩa đà-ra-ni, như vậy thứ lớp 80 vạn Hằng hà sa chư Phật đều nói nghĩa đà-ra-ni. Trong hoa phóng ra đại quang minh soi khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Lúc đó đại chúng thấy việc này rồi đắc điều chưa từng có, không biết v́ nhơn duyên ǵ mà tướng ấy hiện ra. Đại chúng đều khởi nghi rằng “Đức Như lai v́ duyên ǵ thị hiện diệu bảo liên hoa như vậy? Trong ấy chư Phật nói diệu Pháp tạng. Nay chúng ta sẽ hỏi ai về các tướng này?”

Bấy giờ Văn-thù-sư-lợi biết niềm nghi của đại chúng, liền từ ṭa đứng dậy, trịch vai áo bên hữu, gối hữu sát đất, bạch đức Phật rằng: “Kính thưa Thế tôn, tâm của năm trăm đại đệ tử và tất cả đại chúng đang có nghi hoặc, con cũng chưa rơ hoa này gọi là ǵ, v́ duyên ǵ mà thoạt qua đến đây? Hoa này không thể nghĩ bàn, lại c̣n có chư Phật ở trong đó cùng vô lượng đại chúng nói diệu Pháp tạng, việc này không thể nghĩ bàn. Lại có hào quang chiếu sáng khắp mười phương vi trần thế giới, việc này cũng không thể nghĩ bàn. Hoa này lại có 32 món vi diệu trang nghiêm cũng không thể nghĩ bàn. Hoa này có bốn điều không thể nghĩ bàn như vậy. Hoa này gọi là ǵ? Lớp số chư Phật quang minh trong đó từ phương nào thoạt nhiên đến đây? V́ nhơn duyên ǵ mà hiện tướng ấy?”

Bấy giờ Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: “thiện nam tử, hoa này gọi là Ưu-đàm-bát-la-la-xà[7] , chư Phật trong ấy đều đồng tên Thích-ca Mâu-ni. Ta đă từ lâu thường cúng dường hết thảy chư Phật ấy, nơi các ngài đă thâm nhập pháp tánh. Đại chúng các ông cũng nên cúng dường.”

Lúc bấy giờ đại chúng liền từ ṭa đứng dậy, mỗi mỗi đều đến dâng hoa cúng dường chư Phật, đến rồi đầu mặt lễ chân. Cúng dường hoa xong, chiêm ngưỡng chư Phật mắt không tạm rời.

Bấy giờ Xá-lợi-phất nghĩ muốn cúng dường những Phật ấy, liền dùng thần thông nhiễu quanh hoa vương kia trải qua 87 ngày, nhưng trăm ngàn vạn phần không được chu khắp một. Xá-lợi-phất liền lớn tiếng gào khóc, đi bộ mà trở lại, đến trong đại chúng mà bạch đức Phật rằng: “Không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, chắc con mất hết thần thông. V́ sao vậy? Hướng cùng vô lượng đại chúng qua đến chỗ Phật, nghĩ muốn cúng dường những vị Phật kia, con liền dùng thần thông muốn tuần hành xem khắp hoa này, trải qua 87 ngày nhưng trăm ngàn vạn phần không chu khắp được một. V́ nhơn duyên ấy, con nay cho rằng đă mất thần thông, không c̣n nghi ngờ ǵ nữa!”

Bấy giờ Phật dạy Xá-lợi-phất: “Giả sử chim bay nhanh hơn điển quang trăm ngàn vạn bội, có A-la-hán lại c̣n nhanh hơn vậy trăm ngàn vạn bội, lại có Bồ-tát c̣n hơn ức bội, lại có Bồ-tát c̣n quá hơn vạn vạn bội. Giả sử (có bay) trăm ngàn vạn ức kiếp cũng c̣n không chu khắp, huống ǵ 87 ngày mà ông có thể bay khắp được ư? Hỡi thiện nam tử, ông không mất thần thông đâu! Thí như có hạt muối lớn như vi trần, muối này thế gian cho là mặn, lại không hơn ta, kẻ trí ở thế gian liền đem quăng trong biển lớn, dẫu mất thân ấy, cái muối mặn ở tại chỗ nào? Các ông Thanh văn cũng lại như thế, thần thông lớn nhỏ như muối kia vậy, pháp vị nhiều ít như vị mặn kia, làm thế nào muốn biết biên giới của hoa này?”

Bấy giờ đức Thế tôn liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đến chỗ liên hoa, lấy hoa cúng dường hết thảy chư Phật kia. Hoa cúng dường rồi, liền nói đà-ra-ni rằng:

Bà ha la đế Bà đế la Tỳ lưu lại đa kỳ kha đế sa Kha kha kha lê kha điệt trĩ tất Tát bồ ê a ê bồ ê kha Uất kha xà ê Phục xà ê xà Bồ ê xà ê Tất xà ê A nâu xà ê A nâu xà ê ê xà Phục xà ê ê xà Bồ xà ê ê xà Phục xà ê ê xà Phục xà hiếp phục xà Bồ xà ê ê xà Đáo trĩ Sa ha.

Bấy giờ chư Phật nói đà-ra-ni xong, đức Thế tôn liền từ ṭa đứng dậy, nói với chư Phật rằng: “Nay kinh Đại Phương Đẳng đà-ra-ni này sẽ phải giao phó cho ai?”

Bấy giờ trong hội có 80 vạn Hằng hà sa Pháp thân Đại sĩ liền từ ṭa đứng dậy, chắp tay cung kính bạch đức Phật rằng: ”Kính thưa Thế tôn, cho dù Phật c̣n ở đời hay đă qua đời, kể từ ngày hôm nay chúng con nguyện nếu có kẻ trai lành, người gái tín nào hay tu hành giải nghĩa Kinh này, hoặc là thành ấp tụ lạc, tịnh xứ hay chốn núi non rừng thẳm, hoặc nơi thọ hạ chỗ thần tiên trú ngụ mà có tu hành giải nghĩa Kinh này, chúng con 80 vạn Hằng hà sa Bồ-tát quyết tới chỗ đó để ủng hộ người tu hành khiến không gặp hoạnh nạn, thân không mỏi mệt, thường được sắc lực danh dự, cùng những việc lợi ích khác. Người tu hành đi đến chỗ nào th́ hàng Bồ-tát chúng con đều xây dựng các cung điện, bày những món ẩm thực, tùy ư cung cấp khiến không thiếu thốn, chúng con v́ đà-ra-ni này nên cung cấp như vậy khiến cho người tu hành không mất tâm thượng diệu.”

Bấy giờ chư Phật nói với chư Bồ-tát: “Lành thay, lành thay! Đă trụ lâu nơi cơi Ta-bà thế giới, hay thọ tŕ Kinh điển đà-ra-ni, và c̣n cúng dường cho người tŕ Kinh điển này, tức là cúng dường mười phương chư Phật. Các ông không lâu sẽ được Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác. V́ sao vậy? V́ kinh này có vô lượng oai thần lực. Các ông thọ tŕ kinh này có vô lượng phương tiện, các ông thọ tŕ kinh này có vô lượng từ bi, các ông thọ tŕ kinh này có vô lượng thần thông, các ông thọ tŕ kinh này có vô lượng thần lực như vậy th́ làm thế nào mà không thành Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác?”

Bấy giờ chư Phật dạy các Bồ-tát: “Thiện nam tử, cho dù chư Phật c̣n ở đời hay đă qua đời, nếu có chúng sanh đến từng vị Bồ-tát trong số các ông, nếu có hỏi phải làm thế nào để trước đắc Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác, th́ các ông nên chỉ bày là hăy tu hành giải nghĩa kinh này. Hoặc có hỏi người nào trước hết được vào môn tổng tŕ đà-ra-ni, th́ các ông nên chỉ bày là hăy tu hành giải nghĩa kinh này. Hoặc có hỏi làm thế nào hay biết được việc trang nghiêm của mười phương thế giới, th́ các ông nên chỉ bày là hăy tu hành giải nghĩa kinh này. Hoặc có hỏi là người nào sẽ sanh trang nghiêm thế giới, th́ các ông nên chỉ là người tu hành giải nghĩa kinh này. Hoặc có hỏi là người nào đời sau sẽ làm Chuyển Luân Vương, th́ các ông nên nói là người tu hành giải nghĩa kinh này. Hoặc có hỏi người nào đời đương lai hay rộng làm giáo hóa chúng sanh khiến trụ tâm bền chắc nơi đạo Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác, th́ các ông nên nói là người tu hành giải nghĩa kinh này. Hoặc có hỏi người nào đời đương lai được chư Phật khen ngợi, th́ các ông nên nói là người tu hành giải nghĩa kinh này. Hoặc có hỏi người nào hay biết mười phương thế giới có biên giới hay không biên giới, th́ các ông nên nói là người tu hành giải nghĩa kinh này. Hoặc có hỏi người nào hay xa ĺa được lục tặc, th́ các ông nên nói là người tu hành giải nghĩa kinh này. Hoặc có hỏi người nào hay xa ĺa các giặc phiền năo, th́ các ông nên nói là người tu hành giải nghĩa kinh này. Hoặc có hỏi người nào hay xa ĺa được thập nhị thực, th́ các ông nên nói là người tu hành giải nghĩa kinh này. Hoặc có hỏi người nào hay xa ĺa được thập triền, th́ các ông nên nói là người tu hành giải nghĩa kinh này. Hoặc có hỏi người nào hay xa ĺa được ba món ăn ngọt, th́ các ông nên nói là người tu hành giải nghĩa kinh này. Hoặc có hỏi người nào hay xa ĺa độc hại, th́ các ông nên nói là người tu hành giải nghĩa kinh này. Hoặc có hỏi người nào hay xa ĺa bốn độc, th́ các ông nên nói là người tu hành giải nghĩa kinh này. Hoặc có hỏi người nào hay xa ĺa kẻ một phen lừa dối người thân, th́ các ông nên nói là người tu hành giải nghĩa kinh này. Hoặc có hỏi người nào hay xa ĺa ác tri thức ở đời, th́ các ông nên nói là người tu hành giải nghĩa kinh này. Hoặc có hỏi người nào không bị ba ái lôi kéo, th́ các ông nên nói là người tu hành giải nghĩa kinh này. Hoặc có hỏi người nào có thể ở đời này hay đời mai sau không hủy báng kinh Phương Đẳng, th́ các ông nên nói là người tu hành giải nghĩa kinh này. Hoặc có hỏi người nào hay biết mười phương thế giới có bao nhiêu chúng sanh phát Bồ-đề tâm, bao nhiêu chúng sanh phát Thanh văn và Duyên giác tâm, th́ các ông nên nói là người tu hành giải nghĩa kinh này. Hoặc có hỏi người nào hay phân biệt tiếng thuyết Pháp của mười phương chư Phật, tiếng Duyên giác, tiếng Thanh văn, tiếng Cụ trụ Bồ-tát, tiếng Bất cụ trụ Bồ-tát, tiếng Chuyển Luân Vương, tiếng chư Thiên, tiếng Bà-la-môn, tiếng đại thần, tiếng giàu, tiếng nghèo, tiếng vui, tiếng khổ, tiếng Dạ-xoa, tiếng ngạ quỷ, tiếng địa ngục, tiếng súc sanh, tiếng kiếp số khổ báo, tiếng phi kiếp số khổ báo, th́ các ông nên nói là người tu hành giải nghĩa kinh này. Hoặc có hỏi người nào hay phân biệt được các mùi hương thơm trong thế gian, hương hải chử bỉ ngạn, hương đa-ma-la-già, hương tần-bà-già-la-bà, hương bà-thủ-già-la, hương huân-lục-già, hương tô-mạn-đà, hương bà-sư-già, hương thoa, hương bột, hương kê thiệt, hương trầm thủy, hương thường tại thế, hương phi thường tại thế, hương Phật Bồ-đề, hương Bồ-tát cứu cánh, hương Thanh văn phân đoạn, hương Duyên giác căn tế, hương sơ quả nhơn, hương phi sơ quả nhơn, hương cứu cánh Niết-bàn, hương phi cứu cánh Niết-bàn, hương phần tế, hương phi phần tế, hương Chuyển Luân Vương, hương Lật Tán Vương, hương đại thần, hương Bà-la-môn, hương cư sĩ, hương đồng nam, hương đồng nữ, hương phi đồng nam đồng nữ, hương địa ngục ngạ quỷ súc sanh, hương thập phương thế giới, hương phi thập phương thế giới, th́ các ông nên nói là người tu hành giải nghĩa kinh này.

Lại nữa thiện nam tử, khi chư Phật c̣n tại thế hay khi đă qua đời, nếu có chúng sanh gặp được đà-ra-ni này, phải biết người đó cách Phật không xa, th́ như người thợ mộc khéo làm nhà, qua đến rừng rậm trong chốn núi non, trước thấy cây nhỏ, quyết định tự biết ta nay được cây không có nghi vậy. Giả sử sau khi chư Phật qua đời, nếu có chúng sanh gặp đà-ra-ni này, phải biết người đó cách Phật không xa, ví như người đến sông, trông nghe tiếng nước quyết định ta nay được nước mà không có nghi. Giả sử sau khi chư Phật qua đời, nếu có chúng sanh gặp đà-ra-ni này, phải biết người đó cách Phật không xa, ví như người lạc đường trở lại gặp đường chính, quyết định tự biết cách nhà không xa, không c̣n nghi nữa. Giả sử sau khi chư Phật qua đời, nếu có chúng sanh gặp đà-ra-ni này, phải biết người đó cách Phật không xa mà không c̣n nghi vậy, ví như người đào giếng lần thấy đất ướt, quyết định biết nước cách không xa, mà chẳng c̣n nghi ngờ ǵ nữa. Giả sử sau khi chư Phật qua đời, nếu có chúng sanh gặp đà-ra-ni này, phải biết người đó cách Phật không xa.”

Bấy giờ chư Phật bảo các Bồ-tát: “Đương lai có kiếp tên là Diệu Âm Thinh, Bồ-tát các ông sẽ sanh vào kiếp này. Trong kiếp ấy có cơi nước tên là Diệu Âm Tràng Hoa, thế giới đó có thành tên là Vô Nhiễm Hạnh, trong thành có vua tên là Nghiêm Thân. Vua này thường đem 10 điều lành giáo hóa chúng sanh. Bồ-tát các ông sẽ sanh vào vương gia này, xuất gia học đạo, thứ lớp thành Phật, đều hiệu Thích-ca Mâu-ni.”

Bấy giờ hoa sen ra khỏi mặt đất, ở tại hư không phóng đại quang minh, trong hào quang kia có các thứ tiếng mầu nhiệm khen ngợi các Bồ-tát rằng: “Lành thay, lành thay hết thảy chư Bồ-tát! Các vị không lâu chắc chắn sẽ được Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác, như lời Phật nói quyết định không nghi, các ông quyết sẽ được kiên cố Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác, được được Thường Lạc Ngă Tịnh.”

Bấy giờ hoa này ở trong hư không thoạt nhiên không hiện. Lúc đó 500 đại đệ tử sanh ḷng nghi ngờ mà nói lên rằng: “Ô hô lạ thay, v́ nhơn duyên ǵ có việc như thế? Đại liên hoa này không có biên tế, tại nơi hư không thoạt nhiên ẩn mất, nay không biết đă về nơi nào? Trong hoa này có vô lượng chư Phật nay cũng theo đó mà ẩn mất.”

Bấy giờ Phật biết tâm của chúng hội, liền dạy đại chúng: “Ta nay đă nói Kinh điển đà-ra-ni, bây giờ cũng sẽ không như tướng hoa kia. Tất cả các pháp như huyễn, như hóa, như mây hư không, tất cả các pháp cũng lại như thế. Giả sử có pháp hơn hoa ấy cũng như huyễn hóa, không có định tướng. Thiện nam tử, không nên nghi sợ, những việc như vậy không phải là chỗ nghĩ bàn của hàng Thanh văn. Lúc năy hoa hiện ra là do sức thần của đà-ra-ni, nay lại hoàn không ấy cũng là do sức thần của đà-ra-ni. Muốn nói đà-ra-ni nên hoa này từ đất vọt lên. Nay đă nói xong, hoa lại hoàn vô, chẳng phải chỗ nghĩ bàn của hàng Thanh văn các ông. Chư pháp hưng khởi cho nên tướng mạo cũng hưng khởi, chư pháp suy tàn cho nên tướng mạo cũng suy tàn. Đà-ra-ni hưng khởi nên các hoa cũng hưng khởi. Nói đà-ra-ni xong, các hoa tàn diệt.

Thiện nam tử, các ông không thấy ư? Ta khi mới ban đầu chuyển Pháp luân, vô lượng vô biên đại chúng nhơn Thiên, A-tu-la …vv, trước sau đoanh vây, ấy gọi là Pháp hưng. Ta đă nói xong là chư Pháp suy tàn, Thiên nhơn A-tu-la tùy ư đă đến, phải biết chư Pháp như tướng huyễn hóa, thí như người sanh đến 50 tuổi thường đến lúc suy hoại. Pháp ta đă nói cũng lại như thế. Lúc mới nói, ban đầu đă có tánh tận diệt, chẳng phải nói xong mới có tánh tận diệt ấy. Hoa này lúc ban đầu xuất hiện chắc đă có khứ tánh không nghi. Pháp tánh thường vậy, có ǵ là nghi ư?”

Phật dạy A-nan: “Ông phải thọ tŕ kinh đà-ra-ni này. Ta nay ra đời để ba lần chuyển kinh đà-ra-ni này. Khi ban đầu mới nói phó chúc cho ông cứu nhiếp ách bệnh khổ của chúng sanh. Khi nói lần thứ hai cứu hộ Pháp của ta, khiến cho ma Ba-tuần không hủy loạn được. Nay lần thứ ba nói, đều v́ cứu nhiếp tất cả chúng sanh đến chốn Niết-bàn. Vậy cho nên một Pháp phương tiện, ba phen nói độ các chúng sanh. Đem ba Pháp này phó chúc cho ông, thí như trưởng giả có ba phương tiện thường dùng tu hành bản thân: Tâm phương tiện suy niệm; Nhăn phương tiện để xem xét; Tay phương tiện để làm. Như vậy ba việc ḥa hiệp thành một. Kinh đà-ra-ni này của ta cũng lại như thế. Ban đầu nói dụ Tâm, thứ hai nói dụ Mắt, thứ ba nói dụ Tay. Tuy có ba tên mà kỳ thật là một, một Phật Bồ-đề. Như cư sĩ kia sắp lâm chung chỉ có một người con, đem ba việc này giao phó cho con, con đă thọ giáo, nhiên hậu tu hành thường được cao vị.

Thiện nam tử, ta tức là cha, ông là con ta. Tu ba nhơn đại phương tiện của ta về sau đắc làm Thiên trung tôn vương, như con cư sĩ thuận lời cha dạy, về sau được giàu sang phú quư. Nếu không thuận lời cha dạy th́ làm sao được sang quư? Nếu ông không thuận lời dạy này của ta th́ làm sao đắc được Thiên trung tôn vương?

Lại nữa thiện nam tử, thí như sông lớn có chỗ thủng lớn. Ư ông nghĩ sao? Thủng lớn hay sông lớn?”

A-nan thưa rằng: “Kính thưa Thế tôn, thủng có thể đầy chẳng phải sông đầy, thủng quyết lớn vậy.”

Phật dạy: “Lành thay, lành thay thiện nam tử, khéo nói lời ấy! Thủng ấy dụ ta, sông ấy dụ ông. Thủng tràn lớn nước lần lượt chảy đến nơi bể. Nếu lại có nước mà không nhờ thủng đất mặn chứa đầy, nước mặn ấy chảy th́ lại mất thân kia.

Thiện nam tử, lại có một thứ nước trụ tại trong thủng không chịu chảy ra. Thiện nam tử, thủng ấy dụ cho bể lớn, ví dụ là ta, nước dụ Bồ-tát, trụ dụ Thanh văn, mặn ấy dụ Duyên giác. Tuy nhập vào trong mặn rồi lần lượt mà đi vào bể lớn. Tuy trụ trong thủng lần lượt đă t́m vào biển lớn. Thiện nam tử, ba việc như thế đều quy về đại hải. Ta nay đă nói nghĩa đà-ra-ni, ban đầu nói cứu bệnh, thứ hai là nói cứu Pháp, thứ ba là nói hộ thân, tuy nói ba tên mà kỳ thật là một.

Lại nữa thiện nam tử, thí như cây lớn, nhơn đất mà sanh, đầu nó có hai nhánh. Ư ông nghĩ sao? Cây nhơn đất sanh hay đất nhơn cây sanh?”

A-nan thưa: “Kính thưa Thế tôn, cây nhơn đất sanh, chẳng phải cây sanh đất.”

– Thiện nam tử, ông khéo nói lời ấy. Đất dụ là ta, cây dụ Bồ-tát, nhánh dụ Thanh văn và Duyên giác. Thiện nam tử, ba việc như thế có thể nói chẳng phải một loại không?”

A-nan thưa: “Một loại đă sanh không thể khác vậy. V́ sao? Một đại địa sanh nên một rễ lớn, không thể nói chẳng phải một loại vậy.”

Phật dạy: “Lành thay thiện nam tử, ta đă nói nghĩa đà-ra-ni cũng lại như thế mà không có khác. Bởi v́ sao? Bởi một thân kim cang cho nên một ư sanh, một khẩu thuyết, v́ nhơn duyên ấy mà không có cái ǵ xen khác. Ta nay đă ba lần nói đà-ra-ni đem phó chúc cho ông, một Phật Bồ-đề thừa cũng giao phó cho ông, ông nay lắng nghe thọ tŕ, dè dặt chớ nên quên lăng đà-ra-ni này. Khi ta đă qua đời, ông nên lưu bố đà-ra-ni này.”

Lại dạy A-nan: “Thí như vị quốc vương trong mái tóc có viên minh châu rất cưng quư ái trọng, nên lúc sắp lâm chung trao cho con cưng. Ta nay là vua của chư Pháp, kinh này ví như là minh châu trong búi tóc. Ông như con ta, nay lấy kinh Đại Phương Đẳng đà-ra-ni này trao cho ông, thí như vị vua lấy viên minh châu nơi búi tóc trao cho con ḿnh.”

Lại dạy A-nan: “Thí như đại vương thống lănh tất cả nước, khi sắp lâm chung, việc quốc chánh giao phó cho con. Ta nay cũng lại như thế, là vua trong tất cả các Pháp được tự tại. Đại tiểu thừa Kinh điển giao phó cho ông thí như đại vương, việc tốt xấu giao phó cho con.

A-nan, ta nay đem kinh Đại Phương Đẳng đà-ra-ni này giao phó cho ông. Nếu có chúng sanh đến chỗ ông muốn cầu kinh này, ông nên khéo léo v́ họ nói mười sự tướng, mười hai mộng vương như trên. Với người ấy, ông có thể nói việc cảnh giới. Ở trong một hội, chớ v́ nhiều mà nói, ví như kẻ đi buôn dạo khắp bốn phương, đến một nước để bán của báu, đến lúc bán đều không chỉ người. Ông nay cũng lại như thế, ít ít mà nói.

Lại nữa A-nan, thí như người nữ có một đứa con, làm các thức ăn uống để trong nhà đều không chỉ cho con. Như vậy các thức ăn uống ấy đều là của con ḿnh, trọn không cho hết mà thảy khiến hết vậy. Ông nay cũng lại như thế, không nên trong một hội v́ chúng sanh mà nói tận hết việc cảnh giới.

Lại nữa A-nan, đà-ra-ni không được dùng chú phương đạo trị bệnh: Càn-đà quỷ bệnh, Cuồng loạn quỷ bệnh, Bất ngữ quỷ bệnh, Bất khai nhăn quỷ bệnh, Hấp tinh khí quỷ bệnh, Thùy nhơn quỷ bệnh, Thị nhơn quỷ bệnh, Thực nùng huyết quỷ bệnh, Khí thủy hỏa quỷ bệnh, Ly mị quỷ bệnh, Mê nhơn quỷ bệnh, Thực phát quỷ bệnh, Hay khiến người vô tâm thức quỷ bệnh, Thực nhơn tâm quỷ bệnh, Đại dịch quỷ bệnh, nếu gặp những bệnh như vậy th́ không được dùng, trừ tự nhớ niệm kinh Đại Phương Đẳng đà-ra-ni. V́ sao? Bởi chẳng phải đối trị vậy. Thiện nam tử, ư ông nghĩ sao? Có kẻ thiện nam, người thiện nữ nào mài đất đại địa dùng làm thức ăn để nuôi thân tứ đại, ngày ngày thường ăn như vậy để nuôi thân không?”

A-nan bạch Phật: “Không vậy, thưa Thế tôn! Đất như vậy gốc không phải là món ăn, làm thế nào nuôi thân được?”

Phật dạy A-nan: “Lành thay, lành thay thiện nam tử, lời ấy thật không dối. Đất ấy nhất định không phải là thức ăn. Pháp này của ta nay nhất định không dùng trị bịnh cho đời. V́ sao thế? V́ đà-ra-ni này không phải là pháp đối trị.

A-nan, ta nay đă nói xong Đại Phương Đẳng đà-ra-ni, chỗ đáng thọ tŕ th́ đă thọ tŕ, chỗ đáng giáo hóa th́ đă thọ hóa, chỗ đáng nói th́ ta đă nói xong, chỗ đáng tŕ th́ Bồ-tát đă tŕ xong. Thanh văn đă tŕ mà chưa nên vậy. A-nan, ư ông nghĩ sao? Thọ tŕ chương cú như vậy không?”

A-nan bạch Phật: “Kính thưa Thế tôn, con sẽ thọ tŕ chương cú như vậy. Sau khi Phật qua đời, nếu có Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Bà-la-môn, Bà-la-môn nữ, cư sĩ, cư sĩ nữ, Thiên, Long, Dạ-xoa, Ma-hầu-la-già …vv mà đến chỗ con t́m hỏi nghĩa đà-ra-ni, con sẽ v́ họ nói như Phật Thế tôn. Cúi mong ngài cho phép!”

Phật dạy A-nan: “Lành thay, lành thay! Chơn đệ tử ta, chơn dụng Pháp ta để ra khỏi khổ ba cơi. Lành thay, lành thay A-nan! Chúng sanh không hay thọ tŕ Kinh điển như vậy vi phạm trọng giới, hủy báng chánh pháp, nghịch hại thánh nhơn. A-nan, v́ nhơn duyên ấy, ta nay chú trọng kinh này đem phó chúc cho ông, sẽ v́ chúng sanh trừ diệt trọng tội.”

Bấy giờ A-nan và 500 đại đệ tử, Văn-thù-sư-lợi cùng chư Bồ-tát, vua Ba-tư-nặc và 500 Tỳ-khưu, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, cư sĩ, cư sĩ tử và mười phương thiên tử, Bà-tẩu đại sĩ cùng các tội nhơn, tám mươi vạn ức Hằng hà sa chư ba, chín mươi hai ức Thiên tử và các Thiên nhơn, A-tu-la, vô lượng đại chúng hoan hỉ phụng hành, mỗi mỗi đều lễ chân Phật đảnh đới thọ tŕ.

KINH ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG ĐÀ-RA-NI (hết)

[1] Dàna-paramità (Bố thí); Sila-paramità (Tŕ giới); Ksanti-paramità (Nhẫn nhục); V́rya-paramità (Tinh tấn); Dhỳana-paramità (Thiền định); Pràjnà-paramità (Trí tuệ).

[2] Hay làm tươi nhuận các hạt giống bại.

[3] Đồ tắm giặt, b́nh bát đựng thức ăn, và đồ trải ngồi tọa thiền và nằm nghỉ.

[4] Một là y may riêng, hai là mặc theo thế tục.

[5] Trộm vật dụng của chư Tăng để dùng riêng.

[6] Người đời không quy y Tam Bảo.

[7] Utpalaraja: Liên hoa vương màu xanh.

[8] Phụ lục đầy đủ thần chú, sau khi so ba bản đời Minh, Tống, Nguyên: Bà la ha đế Bà đế la tỳ lưu lại đa Kỳ kha đế Sa ha Kha kha lê kha điệt trỉ a ê Bồ ê kha uất kha xà ê Bồ ê xà ê bàn xà ê A nâu xà ê A nâu xà ê ê xà Phục xà ê ê xà Bồ xà ê ê xà Phục xà ê ê xà Bồ xà ê ê xà Phục xà hiếp phục xà bàn điệt trỉ Sa ha.

 

 

-

TRANG CHỦ*--KINH ĐIỂN*--ĐẠI TẠNG KINH*--THẦN CHÚ*--HÌNH ẢNH*--中文*--ENGLISH

Uploaded / Updated on 2021-12-19

 

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0