佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH ]

 

T1288

Quyển Thượng    Quyển Trung    Quyển  Hạ

Mật Tạng Bộ 4_ No.1288 (Tr.358_ Tr.361)

PHẬT NÓI KINH TỐI THƯỢNG BÍ MẬT NA NƠA THIÊN

Hán dịch: Tây Thiên Dịch Kinh Tam Tạng_ Triều Phụng Đại Phu Thí QuangLộc Khanh_ Minh Giáo Đại Sư (kẻ bầy tôi là) PHÁP HIỀN phụng chiếu dịch

Việt dịch: Sa Môn THÍCH QUẢNG TRÍ

Sưu tập Phạn Chú: HUYỀN THANH

 _QUYỂN THƯỢNG_

   

TỐI THƯỢNG THÀNH TỰU NGHI QUỸ _ PHẦN THỨ NHẤT_

 

Ta nghe như vầy, một thời Đức Phật ngự tại cung  Tỳ Sa Môn cùng với chúng Đại Bồ Tát Ma Ha Tát đến dự trong đó Đại Bí Mật Chủ Kim Cang Thủ Bồ Tát là bậc thượng thủ (đứng đầu) Vô số Thiên Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già và Thích Phạm Hộ Thế, Na La Diên Thiên, Đại Tự Tại Thiên, Bảo Hiền Thiên, Măn Hiền Thiên, Lực Thiên, Đại Lực Thiên, Nan Nễ Kế Thuyết La Thiên, Ma Hạ Ca La Thiên, Y Chủ Thiên và các Thiên Hậu v.v.đều có vô lượng trăm ngàn quyến thuộc đến dự 

Lại có chúng Đại La Sát, đó là Kim Sắc La Sát Chủ, Thập Đầu La Sát Chủ, Vĩ Tỳ Sa Noa La Sát Chủ, Bảo Mật La Sát Chủ, Hành Mật La Sát Chủ, Vô Biên Mật La Sát Chủ, Phổ Biến Mật La Sát Chủ, Thượng Thọ La Sát Chủ, Ác Nha La Sát Chủ, Lợi Nha La Sát Chủ, Ô Xá Bá Nại La Sát Chủ, Tượng Đầu La Sát Chủ, như vậy các La Sát Chủ đều thống lănh trăm ngàn cu chi quyến thuộc đi đến tập hội. 

Lại có chúng Đại Dạ Xoa như là Nhân Tiên Dạ xoa Chủ, A Tra Phạ Dược Xoa Chủ, Thiện Điều Dạ Xoa Chủ, Phát Quang Dạ Xoa Chủ, Thiện Dung Dạ Xoa Chủ, Diệu Quang Dạ Xoa Chủ, Diệu Mục Dạ Xoa Chủ, Vĩ Sắc Nổ Dạ Xoa Chủ, Diệu Phát Dạ Xoa Chủ, Ác Tướng Dạ Xoa Chủ, Đắc Thắng Dạ Xoa Chủ, Xí Thạnh Dạ Xoa Chủ, Hỏa Đảnh Dạ Xoa Chủ, Danh Xưng Dạ Xoa Chủ, Bán Tức Ca Dạ Xoa Chủ, Hoa Thọ Dạ Xoa Chủ, Hoa Kế Dạ Xoa Chủ, Bảo Kế Dạ Xoa Chủ, Quảng Tài Dạ Xoa Chủ, Thiện Giác Dạ Xoa Chủ, Thiện Hạnh Dạ Xoa Chủ, Diệu Tư Dạ Xoa Chủ, Diệu Nghiêm Dạ Xoa Chủ, Châu Nha Dạ Xoa Chủ, Tô Lị Dă Dạ Xoa Chủ, Nhật Quang Dạ Xoa Chủ, Nhật Hỷ Dạ Xoa Chủ, Lộ Xỉ Dạ Xoa Chủ, Xí Thạnh Quang Dạ Xoa Chủ, Úy Diện Dạ Xoa Chủ, Phổ Chiếu Dạ Xoa Chủ, như vậy các Dạ Xoa Chủ có đủ đại oai lực bay trong hư không tự tại đều thống lănh vô số trăm ngàn cu chi quyến thuộc đi đến tập hội. 

Lại có chúng Tŕ Minh Thiên cho đến các chúng Đại Tiên đều đến tập hội.

Đại Tỳ Sa Môn Thiên Vương (Mahā-vaiśravaa-deva-rāja) cùng trăm ngàn cu chi quyến thuộc vây quanh Đức Thế Tôn. Khi ấy có vị Trời tên là Na Nơa (Naa), sắc tướng thù diệu, mặt mày hớn hở tươi cười. Tay cầm Nhật, Nguyệt với các khí trượng, dùng các báu trang nghiêm sáng như Nhật Nguyệt, dùng hai Rồng Nan Đà (Nanda), Ô Bà Nan Đà (Upananda) quấn nơi nách, Đức Xoa Ra (Tāka) làm dây cột eo, có oai lực lớn như Na La Diên (Nārāyaa) cũng đều đi đến tập hội, ngồi trước mặt Đức Phật.

Khi ấy, Tỳ Sa Môn Thiên Vương từ chỗ ngồi đứng dậy, dùng các hoa báu và hoa Bát Nạp Ma (sen hồng), hoa Cu mẫu nại, hoa Bôn nơa lợi ca , hoa Ưu bát la , hoa Tao hiến đề ca, hoa Phạ lị thỉ ca, hoa Chiêm bặc ca, hoa Mạn đà la, hoa Ma ha mạn đà la , dùng các loại hoa trên bờ dưới nước như vậy đều đem cúng dường Đức Phật. Nhiễu quanh ngàn ṿng lễ bàn chân của Đức Phật xong rồi bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Con thấy trong Hội này: chúng Đại Dạ Xoa, chúng Đại La Sát hiện các thứ tướng ăn thịt người. Lại thấy chúng Đại Bồ Tát, chúng Đại Tŕ Minh Thiên với chúng Đại Tiên cho đến Trời, Rồng, Dạ Xoa, La Sát, A Tu La, Ca Lầu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già…các chúng như vậy đều đi đến tập hội vây quanh ĐứcThế Tôn. Đây là điềm rất tốt (Đại tường) mà con chưa từng thấy. Thế Tôn nay muốn nói pháp nào? Là nói pháp Bí Mật Mạn Noa La ? Là nói pháp Tam Mụội ? Bạch Thế Tôn ! Nay đúng là phải lúc !  Nguyện rộng tuyên nói”.

Lúc đó, Đức Thế Tôn nhận lời cầu thỉnh của Tỳ Sa Môn xong, liền bảo rằng: “Này Thiên vương !  Ta thấy tất cả chúng sanh của thế gian, ở trong ngày đêm có sự sợ hăi lớn, bởi v́ vô lượng Dạ Xoa, La Sát đại ác ŕnh rập mong được dịp thuận tiện để gây  bức hại.  

Này Thiên Vương ! Dạ Xoa La Sát đại ác của nhóm ấy, ngày nay qui y ở trong Giáo của Ta, thọ ba Qui Y với  thọ Giới Pháp, nên đối với các Hữu T́nh không dám xâm hại nữa”.

Khi ấy Đức Thế Tôn an ủi Tỳ Sa Môn Thiên Vương như vậy xong, liền nhập vào Tam Ma Địa Điều Phục Dạ Xoa Xí Thạnh Phổ Quang, ở trong Định ấy phóng ánh sáng lớn. Ánh sáng ấy chiếu khắp ba ngàn Đại Thiên Thế Giới, hết thảy tất cả  Dạ Xoa, La Sát, Tỳ Xá Tả, Bộ đa đại ác với các Rồng ác cho đến nhóm Tú Diệu (sao)…được ánh sáng của Đức Phật chiếu đến, thảy đều cảnh giác. Ánh sáng ấy quay lại nhiễu quanh Đức Phật ba ṿng rồi nhập vào đảnh đầu Đức Phật. Sau đó từ nơi mặt phóng ra ánh sáng bảy màu nhập vào đảnh đầu của Na Nơa Thiên. 

Khi Na Nơa Thiên  được ánh sáng nhập vào đảnh đầu xong, liền hiện thân lớn như núi Tu Di (Sumeru), mặt mày hung dữ, há miệng cười lớn, có một ngàn cánh tay. Tay cầm Cát Ba La với các khí trượng, dùng da cọp làm quần, dùng Cát Ba La trang nghiêm toả hào quang rực rỡ, có oai lực lớn. Lúc Na Nơa Thiên hiện thân này th́ đại địa chấn động, người nh́n thấy đều sợ hăi. 

Thời Na Nơa Thiên chắp tay hướng về Đức Phật, rồi bạch rằng: “Thế Tôn ! Con có Tâm Minh, khéo hay điều phục chúng A Tu La với tất cả hàng Dạ Xoa, La Sát, Bộ Đa Tỳ Xá Tả… cho đến Đại Phạm Thiên Vương, Na La Diên Thiên, Đại Tự Tại Thiên thảy điều quy phục, cũng hay câu triệu hết thảy chúng Trời, Rồng. 

Thế Tôn !  Tâm Minh này của con là Pháp thành tựu tối thượng của tất cả bậc Tŕ Minh (Vidya-dhara), cho nên trong Hội này con đối trước Đức Như Lai tuyên nói rộng lớn,  v́ các bậc Tŕ Minh  khiến cho được thành tựu, mau đầy đủ hết thảy mọi mong cầu trong tâm chúng sanh. 

Thế Tôn ! Lại nữa, Tâm Minh này ở hết thảy nơi niệm tụng đều được thành tựu, cho đến được vào tất cả Mạn Noa La với các Tam Muội. Hết thảy Như Lai Bộ (Tathāgata-kulāya), Kim Cang Bộ (Vajra-kulāya), Bảo Bộ (Ratna-kulāya), Liên Hoa Bộ (Padma-kulāya), Yết Ma Bộ (Karma-kulāya)… hết thảy Mạn Noa La ở các Bộ này, tụng Tâm Minh của con đều được thành tựu với được vào hết thảy Mạn Noa La Ấn Pháp, cho đến được Đại Tổng tŕ. 

Thế Tôn ! Đối với Tam Muội b́nh đẳng, Mạn Noa La Pháp, Minh Ngôn, Ấn Tướng của các Bộ này. Nguyện xin Đức Thế Tôn xót thương nhiếp nhận, hứa cho con được tuyên nói”.

Bấy giờ Đức Thế Tôn  bảo Na Nơa Thiên rằng: “Hết thảy Tam Muội b́nh đẳng, Mạn Noa La Pháp, Minh Ngôn, Ấn Tướng của các Bộ. Ta cũng tùy hỷ. Ông, Na Nơa Thiên v́ hết thảy người Tŕ Minh, hăy tuyên nói”. 

Thời Na Nơa Thiên nương theo Thánh Chỉ của Đức Phật, v́ lợi ích cho nên nhiễu quanh Đức Phật ba ṿng rồi đứng trước mặt Đức Phật, nói Tâm Đại Minh là:

1_ A tha đô nhập-phạ lị đa hốt đa phạ hô tất

2_ Đát bát-đa, cát na cát mạt ni thất-ra 

3_ Ế hê duệ hê, cô tất đa, a tra tra ha  sa 

4_ Mạt ni bát-ra lăng phạ ha, sa phiêu-đà hạ ra ra tức đương 

5_ Hiệt lật đa la tán nại na nghiệt lỗ đốt lỗ sắt-ca 

6_ Tát cật-rị đa, tán na ái thiết ly lam 

7_ Ma hạ di rô mạn nại ra đà ra 

8_ Phạ ra nghiêm t́ ra, tô ra nghiệt nơa, nhĩ tô nại nang 

9_ Đà ra , đà ra, đà ra ni đà ra 

10_ Nghiêm t́ ra đề ra, t́ ra t́ ra

11_Mạt t́ ra mạt t́ ra 

12_ A tô ra nghiệt nơa nhị tô nại noan 

13_ Mạt lị-nại, nang đát lị nhạ nang

14_ Vĩ tát phổ lăng nghiệt a nhị đa cát la noa

15_ Bát ra bà nậu ra tức đa mạn noa la

16_ Cát bá ra phạ phạ đường 

17_ Nhạ tra, tra hạ sá cô lăng 

18_ Nễ lị-mạt lăng tam tam bột-ra mang

19_ Sa nghiệt ra tô mê lỗ bát lị-phạ đa 

20_ Đa trí đa lăm nghiệt 

21_ Tát lệ ra thất a ra

22_ Đà đổ  sái ra bá nại na cát lam 

23_ Tán tổ lan nơa, na cát lăm 

24_ A mộ già noa nại xá nhĩ đa mạn noa la 

25_ Thiết thất cát ra nơa mao lệ  đà la 

26_ A tả ra vĩ mạt la 

27_ Tát cát ra nhu tát na nại khất rị đa 

28_ A phạ bà sa cô lăng  29_ Bát ra mạt tha nang 

30_ A tô ra bà phạ ra cô ra na thiết nang 

31_ Một-ra hiệt-dân nại-ra rô nại-ra na mạt tắc-ngật-rị đương 

32_ Mạn nỉ đương bố nhĩ đương a lị tức đương

33_ Tát lị-phạ vĩ nễ-dă đà ra na mạc tắc khất-rị đương 

34_ Cật sa diêu sa địa 

35_ Tất đà hiến đà lị-phạ bố nhĩ đương 

36_ Ma hạ mê rô t́ nơa ra đà lăm 

37_ Phạ ra dă ngu bát vi đa đà lăm 

38_ Bộ nhương nghiệt đa xoa cát 

39_ Phạ tô cát sa nghiệt ra 

40_ Nan nô bát nan nại mạn đà cát bá ra. 

41_ Mê kha ra lăng ngật-rị đa cát trí

42_ Tát nại dụ đề-lị đa cát bá. ra lăng ngật-rị đa thiết ly lăng

43_ Thất phạ bát ra tạt lệ đa mao lệ đà lăm

44_ Phạ dụ bát phạ na vi nghiệt nhạ phạ lị-cang 45_ Tạt đổ lăm nghiệt tác cát-ra tạt ra noản  46_ Kha nghiệt tạt ra noản. 

47_ A bát ra mê dă phạ ra, phạ nhật-ra mẫu tát ra 

48_ Tần ni yết nại-nga đố mạt ra, tác khất-ra

49_ A tất mẫu sa ra đát-lị, thú ra 

50_ Mẫu nại-nga ra bát-ra hạ ra noản

51_ Na nơa cô bát lăm

52_ Phạ ra cô bát lăm 

53_ Tô vi thương  tô, nễ đát lăm 

54_ Tô phạ cát đát lăm  55_ Tô ngu hê-dă cang 

56_ Tất đà tế na bát đinh 

57_ Na nơa cô bát lăm 

58_ Ma phạ lật-đát duệ thiết-dă mật 

59_ Đát nĩnh tha: úm ế hê-duệ hê bà nga vam

60_ Na nơa cô bát ra

61_ Hiệt sa hiệt sa 

62_ Mạt sa mạt sa

63_ Cô rô cô   

64_ Đốt rô đốt rô

65_ Tổ rô tổ rô

66_ Vĩ lị vĩ lị

67_ Tức trí tức trí

68_ Vĩ tức trí vĩ tức trí

69_ Phạ nhật-lăng, phạ nhật-ra phạ, phạ nhật-lăng

70_ Hồng hồng hồng 

71_Hổ đa  hiệt na hiệt na

72_ Vĩ đặc-vơng tát dă, vĩ đặc-vơng tát dă 

73_ Vĩ nại ra, bát dă,vĩ nại ra bát dă 

74_ Ốt tha nại dă, ốt tha nại dă  75_ Cô bát ra cô bát ra. 

76_ Na nơa cô bár ra

77_ Phạ ra cô bát ra

78_ Cô bát ra cô bát ra 

79_ Ngu hê-dă, cô bát ra 

80_ Thâu bà cô bát ra

81_ Dược xoa cô bát ra

82_ Ngu hê-dă cô bát ra  83_ Mạt lị nại, mạt lị nại

84_ Nghịệt lị nhạ nghiệt lị nhạ

85_ Na lị tả na lị tả

86_ Hiệt lị, a na dă hiệt na

87_ Hiệt lị hiệt lị lộ tả na 

88_ Ra khất đa lộ tả na

89_ Nễ ra lộ tả na

90_ Tất đa lộ tả na, ra khất-đa, lộ tả na

91_ Khất lị sắc nơa,lộ tả na

92_ Vĩ khất rị đa lộ tả na

93_ Nễ phạ dă lộ tả na

94_ Tô phạ lan nơa lộ tả na

95_ Tất địa lộ tả na

96_ Mê già cồ số nỗ bà phạ mẫu nỗ bà phạ

97_ Ha ra  hiệt ra thiết một nại cát ra bát dă

98_ Hê hê na nơa cô bát ra

99_  Hệ hệ na nơa cô bát ra cô bát ra 

100_ Tát ra cô bát ra

101_ A vĩ xả a vĩ xả cô bát ra cô bát ra

102_ Phạ ra cô bát ra

103_ Tạt ra tạt ra

104_ Mao lệ  đà ra

105_ Tả ra dă tả ra dă, phạ nhật lăng 

106_ La ngỗ la ngỗ khiết nại-ngang

107_ Cu rô cu rô 

108_ A tra tra hạ sa cu lăng

109_  Tam cu ra cu lăng

110_ Cát ra cát ra

111_ Cát lệ sĩ cát lệ  112_ Cu lộ cu lộ

113_ Môn tả môn tả

114_ Thiết một nại cu lăng

115_ Na nơa mẫu nại nga ra 

116_ Na nơa cô bát ra

117_ Phạ ra phạ ra, phạ nhật ra đà ra 

118_ Bát nại-ma đà ra 

119_ Mẫu sa ra đà ra

120_ Tát khất-ra  đà ra

121_Lăng ngu ra đà ra 

122_ Bát ra thú đà ra

123_ Bá thiết đà ra

124_ A dụ mẫu sa ra, bát ra hạ ra nơa đà ra 

125_ Đà ra ni đà ra 

126_ Tán nại ra, tô lị dă, ma ra đà ra

127_ Nặc xoa đát ra, đa ra nga ra hiệt mạn nơa ra đà ra. 

128_ Nơa nại xả nỉ đa nhập phạ-ra, đế nhạ cát ra

129_ Bát ra đà nậu ra tức đa, mạn nơa la

130_ Sa nghiệt ra tát ra vĩ thâu sát nơa cát ra

131_ Mạt thả mạt cát ra thất thú ma ra 

132_ Ngật rị đa bá thiết đà ra 

133_ A tô ra nghiệt nơa  nang 

134_ Mạt lị nại, na cát ra 

135_ Cung bạn nơa dược xoa, ra xoa sa 

136_ Hột rị nại dụ na mạt nại na cát lam

137_ Tát đát vam, bà nga vam, na nơa cô bát ra cô bát ra

138_ Na lị tả, na lị tả

139_ Hiệt lị, hiệt lị  

140_ Hiệt lị lộ tả na 

141_ Phạ ra, lộ tả na 

142_ Lộ tả na

143_ Vĩ cật rị đa lộ tả na 

144_ Tô phạ lan nơa, lộ tả na

145_ Tất đà lộ tả na

146_ A vĩ xả a vĩ xả 

147_ Thi già lam, tất điện đổ măn đát-ra bát nại, sa-phạ ha.

          *) Athāto jvalita huta-vaho pīhā    -pāda  kanaka mai śilā . 

Ehyehi kupita aa-hāsa mai pralamba hāra. Ardha hāra-racita, haritāla candana agaru  turuka sat-kta sa-naddha śarīra, mahā-meru mandara-dhara, bala-gambhīra  asura-gaa nisūdana, dhara dhara dharaidhara gambhīra  dhīra, vīra vīra, ma vīra  mavīra, asura-gaa nisūdana mardana tarjana. 

Visphuliga āditya kira ā prabhānu-racita maala. kāpala varada ja a a a-hāsa ghora, nir-mala sa-bhrama sāgara sumeru-parvata ta i tara ga salila, śikhara dhātu  śaila padana-kara, sam-cūrana-kara, amogha dva-daśa āditya-maala śaśi-kiraa mauli dhara, acala vimala sakala jyotsnāhya-kta avabhāsa  ghora pramathana, asura bhavana kula nāśana.

          Brahma indra rudra namask         ta      vandita      pūjita        arcita         .

Sarva vidyādhara namask ta , i-o adhi siddha , sarva gandharva pūjita, mahāmeru mandara-dhara, vara yuga-parvata-dhara, bhuja-ga taaka vāśuki sāgara nandopanando bandha-kāpala, mekhalā ala -k ta ka i, sad-dyu dti kāpalāla -kta śarīra, śiva prajvalita-mauli dhara, vāyupavana-vega javārka, catur-aga cakra caraā, khaga-cara a , aprameya vara vajra-musala bhinni, khaga tomara cakra asi musala trisūla mudgara prahara a .

Naa-kūbara, vara-kūbara suve1sa sunetra suvaktra suguhyaka , siddha sanā-patin-naa-kūbara mā-varta iyāmi.

Tadyathā: O ehyehi bhagavān naa-kūbara, hasa hasa, ma a ma a, kuru kuru, turu turu, curu curu, viri viri, ce i ce i, vice i vice i, vajra vajra vajra , hu hu hu , hūta hana hana, vidhva saya vidhva saya, vidrāpaya vidrāpaya, ucchedaya ucchedaya, kūbara kūbara naa-kūbara vara-kūbara, kūbara kūbara, śubha-kūbara, yaka-kūbara, guhya-kūbara, marda marda, garja garja, nādita nādita, hari ānaya hana, hari hari, hari-locana, rakta-locana, nīla-locana, sita-locana, ka-locana, vikta-locana, divya-locana, suvaralocana, siddha-locana, megha ghoodbhavam udbhava, hala hara śabda karāpaya.

He he naa-kūbara, para-kūbara, sāra-kūbara, āveśa āveśa, kūbara kūbara vara-kūbara, jvala jvala mauli-dhara, cālaya cālaya, vajra, rāja rāja-kha ga , kuru kuru aa-hāsa ghora, sa-kula ghora, kara kara, kiri kiri, kuru kuru, muñca muñca, śabda-ghora , na a-mudgara naa-kūbara, vara vara vajradhara, padma-dhara, musala-dhara, cakra-dhara, lāgala-dhara, dharaidhara, candra-sūrya-māla-dhara, nakatra-tarā-graha mandara-dhara, dva-daśa āditya-jvāla-tejas-kara prabhānu-racita maala, sāgara-sara viśo a a-kara, majja makara  śiśu-māra kta-pāśa-dhara, asura-ga ānā mardana-kara, kumbhā a yak a h daya mardana-kara , tva bhagavan na a-kūbara nādita nādita, hari hari, hari-locana, rakta-locana, nīla-locana, vara-locana, vikta-locana, syvara-locana, siddha-locana, āveśa āveśa śīghra siddhyantu mantra-padā  svāhā 

Bấy giờ, Na Nơa Thiên nói Minh này xong, lại bạch Phật rằng: “Thế Tôn ! Tâm Minh này của con, nếu có Hành Nhân y theo Pháp tŕ tụng được thuần thục xong, thảy hay thành tựu việc của ngàn loại.

Nếu có Hành Nhân muốn ngưng sấm sét, nên dùng đao kiếm hoặc cành Thạch Lựu, hoặc cành Yết La Vĩ La, hoặc tro, hoặc nước… đem vật của nhóm như vậy, dùng Minh  này gia tŕ một biến ắt có thể dùng, liền chận đứng được sấm sét.

Lại có Pháp. Nếu có Hành Nhân bị các Dạ Xoa, La Sát ác chấp tŕ ( bị dịch). Nếu muốn khiển trừ, nên dùng An Tất Hương, dùng Minh này gia tŕ một biến, sau đó thiêu đốt,  xông ướp người bị nắm giữ kia. Nghe mùi hương này xong th́ kẻ ấy liền nói rơ lư do rồi được khỏi bệnh.

Lại có Pháp. Nếu Hành Nhân muốn câu triệu tất cả hàng Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, La Sát, Bộ Đa, Tỳ Xá Tả v.v. nên dùng An Tất Hương, tụng Minh này  gia tŕ một biến rồi thiêu đốt để câu triệu, ắt liền đi đến.

Nếu muốn Phát Khiển, cũng dùng An Tất Hương, tụng Minh này gia tŕ một biến, như trước thiêu đốt rồi Phát Khiển, ắt đuổi đi ngay.

Lại có Pháp. Nếu muốn khiến cho cái bát nói chuyện và cử động,  nên lấy cái bát đựng đầy tro gạch đă thiêu đốt để trong Mạn Noă La, tụng Minh này gia tŕ vào An Tất Hương rồi thiêu đốt, lại tụng Minh này một biến th́ cái bát ấy liền nói ra tiếng người, v́ Hành Nhân mà nói các việc với hay cử động.

Lại có Pháp. Nếu muốn khiến cho cái b́nh Ứ Già  nói chuyện và cử động, nên chọn lấy cái b́nh Ứ Già  thuần màu trắng, tinh khiết, tốt mới .Dùng  nhóm hương Bạch Đàn và Cung Câu Ma làm thành Đồ Hương (hương xoa bôi) để xoa bôi,  đựng đầy nước sạch với cắm các vật có mùi thơm, tụng Tâm Minh gia tŕ một biến rồi an trong Mạn Noă La, thiêu đốt An Tất Hương, tụng Tâm minh một biến th́ cái b́nh ấy đồng với việc đă nói lúc trước. Lại tụng Tâm minh gia tŕ Bạch Giới Tử (hạt cải trắng) ném vào cái b́nh thời cái b́nh ấy liền bay lên rời khỏi mặt đất tám ngón tay, tùy ư lại quay trở về vào trong  Mạn Noă La. 

Lại có Pháp. Nếu muốn Tát Đam Bà (Stambha:cây cột) cử động. Trước tiên dùng nhóm hương Bạch Đàn và Cung Câu Ma làm đồ hương mà xoa bôi, sau đó đốt An Tức Hương, búng ngón tay tụng Tâm Minh gia tŕ th́ Tát Đam Bà  ấy tự nhiên cử động sau đó trở về chỗ cũ.

          Lại có Pháp. Nếu muốn khiến cho bàng sanh nói năng, nên đốt An Tất Hương xông ướp tro với Bạch Giới Tử,  tụng  Tâm Minh gia tŕ hai mốt biến xong, sau đó lại tụng Tâm Minh, đem  tro với Giới Tử ném lên thân loài bàng sinh th́ nó liền nói các việc.

Lại có Pháp. Nếu muốn khiến cho Đồng Nữ nói các việc, nên dùng cù ma di (phân ḅ) chưa rớt xuống đất xoa tô Mạn Noă La vuông vức bốn phương. Lại chọn một Đồng Nữ tướng mạo đoan trang, thân thể đầy đủ, khiến tắm rửa sạch sẽ, mặc quần áo mới trắng sạch, ngồi trong Mạn Noă La, dùng các thứ hoa cúng dường, đốt An Tất Hương, thời Đồng Nữ  ấy liền  nói các việc quá khứ, hiện tại,  vị lai.

Lại có Pháp. Nếu muốn khiến cho Đồng Nam nói chuyện, nên dùng Bạch Giới Tử cùng với tro Tức Đế trộn chung lại, tụng Tâm Minh gia tŕ một biến, đốt An Tất Hương xông ướp xong, đem rải trên đảnh đầu của ĐồngTử thời Đồng Tử ấy liền nói các việc.

Lại có Pháp. Nếu muốn ngăn cấm lửa chẳng cho nóng, nên dùng củi gỗ, tụng Tâm Minh gia tŕ một biến, đốt An Tất Hương xông cướp xong, rồi ném vào trong lửa th́ lửa liền lạnh như tuyết.

Lại có Pháp. Nếu muốn ngăn cấm các Tà Chú, nên dùng dây lụa trắng sạc,. tụng Tâm Minh gia tŕ một biến, đốt An Tất Hương xông ướp xong, rồi cột buộc ở cánh tay trái của Hành Nhân thời tất cả  Tà Chú đều bị chế phục.

Lại có Pháp. Nếu muốn khiến cho Một Nạp Nga Ra (Mudgara: cây búa) làm Pháp thành tựu, nên dùng cù ma di (phân ḅ) chưa rớt xuống đất xoa tô Mạn Nơa La, đem Một Nạp Nga Ra an trong Mạn Noă La, lấy các thứ hoa cúng dường, đốt An Tất Hương xông ướp, tụng Tâm Minh gia tŕ một biến th́ Một Nạp Nga Ra hay làm các việc thành tựu, lại hay khiến tùy ư cử động. Một Nạp Nga Ra này đi vào trong trận chiến th́ tự nhiên được thắng. Cho đến cây rừng núi đá cũng hay tồi hoại được. Phàm mọi việc do Hành Nhân đó đă làm  thảy đều thành tựu.

Lại có Pháp. Nếu muốn khiến cho cây cung làm Pháp thành tựu, nên dùng An Tất Hương, tụng Tâm Minh gia tŕ một biến rồi thiêu đốt xông ướp, liền  hay tùy ư làm các việc thành tựu.

Lại có Pháp. Nếu muốn khiến cho Tam Xoa làm việc thành tựu, như trước làm Mạn Noă La, sau đó tụng Tâm Minh một biến gia tŕ An Tất Hương xông ướp Tam Xoa, rồi để Tam Xoa trong Mạn Noă La, lại tụng Tâm Minh một biến thời Tam Xoa phóng ánh sáng rực rỡ, cử động rời khỏi mặt đất bay đi bốn phương, sau đó lại trở về vào bên trong Mạn Noă La làm Pháp thành tựu tuỳ theo ư người tu hành.

Lại có Pháp. Nếu muốn khiến cho cây kiếm làm Pháp thành tựu, cũng dùng An Tất Hương, tụng Tâm Minh gia tŕ một biến, rồi thiêu đốt xông ướp, cũng hay làm tất cả việc thành tựu.

Lại có Pháp. Nếu muốn khiến cho Khiết Thung Nga (khaga: cây đao) làm Pháp thành tựu, nên dùng tro Tức Đế , tụng Tâm minh gia tŕ một biến, bôi nơi Khiết Thung nga, cũng hay làm tất cả việc thành tựu.

Lại có Pháp. Nếu muốn khiến cho Cát Ba La (Kapāla:cái bát) làm Pháp thành tựu. Trước tiên y theo Pháp xoa tô Mạn Noă La xong, liền y theo Pháp chọn lấy Cát Ba La sạch sẽ, dùng Bạch Đàn Hương xoa bôi rồi để trong Mạn Noă La, đốt An Tất Hương, tụng Tâm minh gia tŕ một biến tức chỗ làm thành tựu, hay khiến cho cử động, lại hay nói việc ba đời.

Lại có Pháp. Nên dùng cây kiếm bén, tụng Tâm Minh gia tŕ một biến, đốt An Tất Hương xông ướp, sau đó Hành Nhân lớn tiếng tụng chữ Hồng gia tŕ cây kiếm ấy thời cây kiếm liền phóng ánh sáng bay lên trong hư không rồi quay về chỗ cũ. Nếu vào trong trận th́ quân địch sẽ thối lui bỏ chạy.

Lại có Pháp. Nếu muốn khiến cho h́nh tượng trong các miếu thờ Trời (Thiên Từ) cử động. Ở trước tượng ấy, đốt An Tất Hương, tụng Tâm Minh một biến thời tượng Trời ấy  tùy ư nghiêng động.

Lại có Pháp. Nếu tùy theo nơi chốn của địa phương mà Hành Nhân nghi có phục tàng (kho tàng bị chôn dấu) và muốn lấy. Liền ở đất đó làm Mạn Noă La, đốt An Tất Hương, tụng Tâm Minh một biến thời phục tàng hiện ra.

Lại có Pháp. Hoặc dùng Bạch Giới Tử, tụng Tâm Minh gia tŕ một biến. Đem Giới Tử (hạt cải) này tùy theo nơi chốn mà ném, hoặc trong tụ lạc, hoặc trong nhà trống, hoặc trước tượng ở miếu thờ Trời, hoặc ở  tháp miếu, cho đến sườn núi, ao Rồng …tùy theo chỗ đă ném, đốt An Tất Hương, tụng Tâm Minh gia tŕ một biến thời nơi có phục tàng ấy thảy đều hiện ra.

Lại có Pháp. Dùng Bạch Giới Tử, tụng Tâm Minh một biến gia tŕ rồi ném Giới Tử này vào thân tượng (con voi), đốt An Tất Hương xông ướp, lại tụng Tâm Minh một biến thời tượng ấy  tùy theo ư Hành Nhân  khéo hay làm các việc, hoặc  khiến phá Thiết Đốt Rô (Śātru: Oan Gia) cũng được tùy ư.

Lại có Pháp. Nếu muốn v́ người trừ bệnh sốt rét hoặc làm ủng hộ. Lấy tro, Bạch Giới Tử ḥa chung với nước, tụng Tâm Minh mốt biến gia tŕ, đốt An Tất Hương xông ướp xong đem đeo ở trên thân thời bệnh sốt rét liền khỏi với được ủng hộ.

Lại có Pháp. Nếu muốn chận đứng các việc sợ hăi, nên dùng sợi dây trắng, đốt An Tất Hương xông ướp, tụng Tâm Minh gia tŕ một biến rồi đeo trên cổ, tức trừ các sợ hăi.

Lại có Pháp. Nếu  muốn trừ các bệnh, nên dùng An Tất Hương, tụng Tâm Minh gia tŕ một biến, đốt xông ướp thân người bệnh th́ các bệnh liền khỏi.

Lại có Pháp. Nếu muốn Thiết Đốt Rô (Oan Gia) khiến bị Nhập Phạ La (Jvara:

nóng sốt), nên dùng An Tất Hương, tụng Tâm Minh gia tŕ một biến, tức có thể khiến cho một ngàn Thiết Đốt Lỗ đều bị Nhập Phạ La (nóng sốt)

Lại có Pháp. Nếu muốn khiến cho Thiết đốt rô  (Oan Gia) Tả Đô Lị Tha Ca

Nhập Phạ Ra Sanh Giả (Caturthakā-jvara: Bệnh sốt rét cứ bốn ngày th́ phát bệnh  một lần), nên dùng Ngỗ Ma Sa hoà chung với An Tất Hương, tụng Tâm Minh gia tŕ một biến, đọc tên thiết đốt rô, làm Hộ Ma bảy biến, tức bị tả đô lị tha ca nhập phạ ra (Caturthakā-jvara:Tứ nhật ngược). Nếu muốn khiến cho ngưng dứt, cũng dùng An Tất Hương, tụng Tâm Minh gia tŕ một biến, làm hộ ma bảy biến, liền được ngưng dứt

Lại có Pháp. Nếu muốn thiết đốt rô (Oan Gia) bị Ngật ra ha (Grahā: Sao Diệu gây phiền năo) chấp tŕ (nắm giữ), nên  dùng An Tất Hương, đồng tụng Tâm Minh và tên của Thiết đốt rô gia tŕ bảy biến rồi ném vào trong lửa, tức bị Ngật ra ha chấp tŕ. Nếu muốn ngưng dứt , nên dùng tro gia tŕ một biến rồi đội ở trên đảnh đầu liền ngưng dứt.

Lại có Pháp. Nếu muốn trừ các bệnh sốt rét, nên dùng sợi dây màu đen, tụng Tâm Minh gia tŕ một biến rồi đeo nơi  cánh tay, liền khỏi bệnh.

Lại có Pháp. Nếu muốn trừ các bệnh tật, nên dùng bảy thứ lúa và Bạch Giới Tử trộn chung với nhau rồi tẩm bơ,  tụng Tâm Minh làm  Hộ Ma (Homa) liền khỏi bệnh.

Lại có Pháp. Nếu muốn giải cho người bị trúng các thuốc độc, nên dùng lông đuôi chim công, tụng Tâm Minh gia tŕ xong, quét phất nơi thân người bị trúng độc, liền được giải trừ chất độc.

Các Pháp như trên đều dùng An Tất Hương, tụng Tâm Minh gia tŕ, thảy đều được thành tựu.

 

PHẬT NÓI KINH TỐI THƯỢNG BÍ MẬT NA NƠA THIÊN

_QUYỂN THƯỢNG (Hết)_

 

PHẬT NÓI KINH TỐI THƯỢNG BÍ MẬT NA NƠA THIÊN

Hán dịch: Tây Thiên Dịch Kinh Tam Tạng_ Triều Phụng Đại Phu Thí QuangLộc Khanh_ Minh Giáo Đại Sư (kẻ bầy tôi là) PHÁP HIỀN phụng chiếu dịch

Việt dịch: Sa Môn THÍCH QUẢNG TRÍ

Sưu tập Phạn Chú: HUYỀN THANH

_QUYỂN TRUNG_

 

THÀNH TỰU  NGHI QUỸ _PHẦN THỨ HAI_

 

Bấy giờ Na Nơa Thiên lại nói Đại Minh là:

1_ Na mô ra đát na đát ra dạ dă. 

2_ Na mô phệ thiết ra, phạ nơa tả

3_ Ma hạ ra nhạ tả. 

4_ Na mô na nơa cô bát ra tả 

5_ Ngu hê dă, ca địa bát đế. 

6_ Na nă cô bát ra ma phạ lật đa duệ sa dă mật 

7_ Rô bán a nậu bát mạt rô bán tô rô bán. 

8_ Na nă cô bát lăm cô bát ra

9_ Tán nại rô cang, a lật đa cang 

10_ Hê mạt cang bột ra mạt cang 

11_ Na nơa na nơa

12_ Na nơa cô bát lăm 

13_ Phạ ra phạ ra cô bát ra. 

14_ Ma hạ ngu hê dă cang

15_Phạ hiệt phạ lăng, phạ hiệt phạ lăng

16_ Bố lô bố lô 

17_ Mẫu rô mẫu rô

18_ Cô bát ra na nơa, cô bát ra, sa-phạ hạ.

*) Namo ratna-trayāya

Namo vaiśravaṇāya mahā-rājāya

Namo naḍa-kūbarāya guhyakādhipataye.

Naḍa-kūbarasya mā-varta  iṣyāmi.

Rūpaṃ anupama-rūpaṃ, su-rūpaṃ, naḍa-kūbaraṃ kūbara candrakaṃ, hemakaṃ, brahmakaṃ, naḍa naḍa naḍa-kūbaraṃ, vara vara-kūbara, mahāguhyakaṃ vah-varaṃ vah-varaṃ, puru puru, bhū-puru bhū-puru, kūbara naḍakūbara svāhā

Khi Na Nơa Thiên nói Đại Minh xong, lại bạch Phật rằng: “Thế Tôn ! Đại Minh này của con là Tối thượng Đại vô úy, khéo hay điều phục các Dạ Xoa, làm các pháp thành tựu, quyết định đều thành một Niệm. Đại Minh này đầy đủ các việc tối thượng. Nếu có Hành Nhân tụng Đại Minh này thuần thục xong, sau đó mới có thể làm mọi loại việc.

          Nếu người muốn xa ĺa thiết đốt rô (Oan gia), nên dùng cây Khư Nỉ La làm cái then (hay cây cọc)  dài tám ngón tay, dùng Đại Minh này gia tŕ một biến xong đóng nơi thiết đốt rô noă ra (?) tức mau xa ĺa. Nếu muốn giải trừ th́ rút cái then ra, liền  được giải trừ.

Lại có Pháp. Nếu muốn thiết đốt rô ốt nạp ma đa, nên dùng Bạch Giới Tử (hạt cải trắng) tụng Đại Minh gia tŕ một biến xong,  ném vào trong ngật lị ha (Graha) ấy, liền bị ốt nạp ma đa. Nếu muốn trừ giải, nên dùng An Tất Hương, tụng Đại Minh gia tŕ một biến xong, ở trong ngật lị ha thiêu đốt, tức được trừ giải.

Lại có Pháp. Nếu muốn làm cho ly tán (chia ĺa), nên dùng ma nỗ sa tất đế làm cái then dài tám ngón tay, tụng Đại Minh gia tŕ một biến, đốt An Tất Hương xông ướp, lại đem cái then này đóng Noă Ra ấy, trong ṿng  ba đêm kẻ ấy liền ly tán.

Lại có Pháp. Nếu muốn phá họai thiết đốt rô (Oan gia), nên lấy a dục mật dă một nại nga ra, cùng kêu tên người kia, tụng Đại Minh gia tŕ một biến, đóng xuống đất thời kẻ kia liền bị phá họai. Nếu muốn giải trừ lấy một nại nga ra (Mudgara: cây búa) lên tức được giải trừ.

Hoặc đóng trong thấp ma xá na (śmaśana: nơi vắng lặng, hoặc rừng Thi Đà) th́ thiết đốt rô ấy liền bị Bộ đa nắm giữ (chấp tŕ). Nếu lấy một nại nga ra (Mudgara: cây búa) lên, liền được giải trừ, 

Hoặc đóng trong Thuấn nễ dă nga ra thời kẻ kia bị Tỳ xá tả (Piśāca) ngật ra ha (Grahā) chấp tŕ. Lấy lên tức trừ giải

Hoặc đóng trước mặt ngật ra ma noa ra thời kẻ kia liền bị ấn nại lị dă cột trói. Lấy lên liền trừ giải. 

Hoặc đóng trong đồng trống vắng, tức bỏ nơi chốn mà đi, chạy vào trong núi non giống như con chương (một loài giống như con hươu nhỏ, màu vàng), hươu. Lấy lên liền trừ  giải. 

Nhóm Pháp như vậy, tụng Đại Minh gia tŕ một biến, đốt An Tất Hương đều mau thành tựu.

Lại có Pháp. Nếu muốn tịch trừ Dạ xoa (Yakṣa), La sát (Rākṣasa), nên làm Mạn Noă La vuông vức bốn phương, đồt An Tất Hương, dùng Một nại nga ra (Mudgara: cây búa) đánh Mạn Noă La thời Dạ Xoa La Sát ấy cùng các quyến thuộc thảy đều chạy xa.

Lại có Pháp. Nếu muốn sai khiến Dạ xoa, La Sát, nên vẽ h́nh tượng ấy, sau đó tụng Đại Minh gia tŕ vào một nại nga ra (cây búa) một biến, dùng đánh h́nh tượng th́ Dạ xoa, La Sát ấy liền hiện bổn thân, tùy theo ư người tu hành làm các vịệc. Hoặc chỉ chỗ có phục tàng, cho đến tiền bạc lúa gạo thảy đều cung cấp, tất cả hầu hạ giống như tôi tớ.

Lại có Pháp. Nếu muốn cầu Tỳ Sa môn cung cấp, nên đắp vẽ tượng ất, đốt An Tất Hương xông ướp, tụng Đại Minh, dùng một nại nga ra (cây búa)mà đánh thời Tỳ Sa Môn ấy liền hiện bổn thân, ban cho Hành Nhân tất cả điều cầu nguyện, lúa gạo tiền bạc…thảy đều cung cấp. 

Lại có Pháp. Nếu muốn cầu Pháp thành tựu của Tỳ Sa Môn, nên đi đến nơi có tượng Tỳ Sa Môn, đốt An Tất Hương, dùng bàn tay đè bàn chân của Tỳ Sa Môn, tụng Đại Minh bảy biến th́ tượng ấy liền đứng dậy. Nếu không mau đứng dậy th́ đầu bị bể làm bảy phần. Lại gia tŕ vào Bạch Giới Tử (hạt cải trắng) ném đánh mặt tượng th́ tượng ấy liền nói chuyện với Hành Nhân, tùy theo ư của điều đă hỏi đều nói, cho đến chỉ dẫn chỗ có phục tàng. Lại lấy Bạch Giới Tử hoà chung với tro, tụng Đại Minh gia tŕ bảy biến rồi để ở đảnh đầu của Tỳ Sa Môn, đốt An Tất Hương, lại tụng Đại minh một biến thời Tỳ Sa Môn cùng một trăm quyến thuộc cầm các tài bảo hiện  trước mặt Hành Nhân, mong muốn điều ǵ đều được thành tựu.

Lại có Pháp. Nếu muốn cầu Pháp thành tựu của Na La Diên (Nārāyaṇa), nên đi đến nơi có tượng Na La Diên, đốt An Tất Hương, lấy tay đè bàn chân tượng, tụng niệm Đại Minh th́ tượng liền cử động. Lại tụng Đại Minh gia tŕ vào Bạch Giới Tử ném đánh tượng ấy thời  tượng liền nói và ban cho Hành Nhân, tất cả điều mong cầu đều được thành tựu và hay thành tựu hết thảy Nghi Quỹ.

          Lại có Pháp. Nếu muốn cầu thành tựu Pháp của Đại Tự Tại Thiên (Maheśvara), nên chọn một Cát Ba Ra (cái bát) đầy đủ Pháp. Tụng Đại Minh gia tŕ vào Bạch Giới Tử bảy biến xong, đổ đầy trong Cát Ba Ra để trên đảnh tượng Đại Tự Tại Thiên. lúc đó, vị Trời ấy sẽ ban cho Hành Nhân hết thảy thành tựu. Lại ở trước mặt tượng, đốt An Tất Hương, tụng Đại Minh thời tượng Trời liền bảo Hành Nhân:

Người cầu việc ǵ ?  Ta đều làm cho”…  cho đến cung cấp tất cả các thứ cần dùng.

Lại có Pháp. Nếu muốn cầu Pháp thành tựu của Phạm Thiên (Brahma), hành nhân đi đến chỗ có tượng Phạm Thiên, nên dùng sữa ḅ tắm Thiên Tượng, đốt An Tất Hương, tụng Đại Minh này, thời Phạm Thiên hiện Bổn Tướng đứng trước mặt Hành Nhân hỏi rằng: “Tùy theo điều Ngươi mong cầu, tất cả Pháp Nghi Quỹ  thành tựu thảy đều ban cho ngươi”. Hết thảy sữa tắm Thiên Tượng, Hành Nhân tự uống, từ đây trở về sau, Pháp chưa từng nghe đều được nghe, đa văn rộng lớn ví như biển lớn, đầy đủ âm thanh vi diệu như Khẩn Na La (Kiṃnara), ba nghiệp thanh tịnh, sống lâu ngàn năm, cho đến hết thảy Nghi Quỹ Thành Tựu đều được thành tựu.

Lại có Pháp. Nếu Hành Nhân muốn hàng phục loài Rồng, nên  nặn đắp thân Rồng an trong Mạn Noă La, dùng hương hoa cúng dường, dùng nhánh Cát Ra Vĩ Ra, tụng Đại Minh gia tŕ một biến, đánh vào thân Rồng ấy. Lại tụng Đại Minh gia tŕ thời Rồng ấy liền hiện thân tuôn cơn mưa lớn cho đến làm theo tất cả việc.

Lại có Pháp. Nếu muốn ngừng sấm sét mưa đá…nên nặn đắp thân Rồng. Lấy cây Thạch Lựu, tụng Đại Minh gia tŕ một biến xong, đánh vào thân Rồng thời sấm sét mưa đá liền dừng.

Lại có Pháp. Nếu muốn ngưng gió, nên dùng cây chổi, tụng Đại Minh gia tŕ rồi để trên lầu gác thời cơn gió ấy liền ngưng đứt 

Lại có Pháp. Nếu muốn phá thiết đốt rô (oan gia), nên dùng cành Cát ra vĩ ra, đốt An Tất Hương xông ướp, tụng Đại Minh gia tŕ một biến rồi đánh Cát ba ra  liền phá thiết đốt rô. Dùng Pháp này phá hết thảy hàng Dạ xoa, La sát cũng được tùy ư.

Như vậy chỗ làm pháp thành tựu của Đại Minh này đều nên đốt An Tất Hương gia tŕ đều được thành tựu

    

TỐI THƯỢNG THÀNH TỰU NGHI QUỸ _PHẦN THỨ BA_

 

Bấy giờ Na Nơa Thiên lại nói Đại Minh là:

1_ Na mô phệ thiết-ra, phạ nơa tô đá dă.

2_ Na nơa cô bát ra dă 

3_ Nễ vĩ-dă, vĩ ma na tạt lị đá dă 

4_ Hê mạt ma đă ra t́ nơa ra thiết lợi ra dă  5_ Dược xoa,ra xoa xoa sa mạn nễ đá dă. 

6_ Đát-vơng ba nga vam, a phạ lật-đa duệ sa dă mật 

7_ Đát nĩnh tha: mạt ni mạt ni 

8_ Cốt tra, cốt tra 

9_ Cốt tra, cốt tra 

10_ Cốt cốt cốt cốt

11_ Bát ra bát ra 

12_ Bố ra bố ra 

13_ Cô bát ra cô bát ra 

14_ Na nơa cô bát ra 

15_ Nễ vĩ-dă vĩ ma ra côn nơa lê  16_ Đốt trí đốt trí, sa-phạ hạ.

*) Namo vaśravaṇa-sutāya naḍa-kūbarāya, divya-vimāna jvalitāya, hemamāla viṭhapana śarīrāya, yakṣa rākṣasa vanditāya, tvaṃ bhagavan mā-varta iṣyami.

Tadyathā: Maṇi maṇi, kuṭṭa kuṭṭa, kuṭṭa kuṭṭa, ku ku, ku ku, para para, pūra pūra, kūbara kūbara, naḍa-kūbara divya-vimāna, kuṇḍale tuṭi tuṭi  svāhā.

Khi Na Nơa Thiên nói Đại Minh này xong, lại nói Pháp thành tựu. 

Nếu có Hành Nhân muốn cầu điều thành tựu của các Dạ Xoa, nên dùng gỗ của cây Ni câu đà làm một miếng ván, ở trên mặt ván dùng các màu sắc tốt đẹp vẽ tượng Dạ xoa kia. Mặt màu xanh lục, tướng rất hung ác, răng nanh ḷi ra, dùng các báu trang nghiêm nơi thân. Tay trái cầm Cát Ba Ra (cái bát), tay phải tác Thí nguyện. 

Như vậy vẽ tượng xong, sau đó Hành Nhân nên tự khiết tịnh, ăn bạch thực (thức ăn màu trắng), ở trước tượng này, tụng Đại Minh tám ngàn biến. Đủ biến số rồi, Dạ xoa liền hiện thân đứng trước mặt Hành Nhân. Hành Nhân liền dâng bạch thực và Ứ Già v.v.Dạ xoa liền hỏi: “Ngươi cầu việc ǵ ?”. Hành Nhân trả lời: “Ta cầu việc....”. Dạ xoa liền bảo: “Ngươi được tùy ư” cho đến bay trong hư không được tự tại,  đi đứng tuỳ ư, sống lâu năm trăm tuổi.

Lại có Pháp.  Nếu Hành Nhân muốn cầu điều thành tựu của La Sát. Trước cần chọn đất thấp ma xá na (śmaśana: nơi vắng vẻ, hoặc rừng Thi Đà), sau đó tắm gội sạch sẽ, y theo Pháp mặc áo. Ở nơi đất đă chọn ấy, để đồ ăn xuất sanh và bát Ứ Già… Dùng rô địa la (Rudhira: máu) Hộ Ma mười hai ngày đêm. Đủ ngày rồi, tức La Sát ấy hiện bổn thân, tướng hung ác có bốn tay. Tay cầm Tam Xoa, Việt Phủ (cây búa), đảo chữ (cái chày), linh (cái chuông) v.v.. cỡi sư tử đứng trước mặt Hành Nhân, bảo rằng: “Nay Ta muốn ăn”. Hành Nhân thấy vậy cũng đừng nên sợ hăi, tay cầm đồ ăn mà nói với La Sát rằng: “Đồ ăn này y theo Chỉ Dụ của Na Noă Thiên, nên như Pháp ăn”. Nói xong liền dâng đồ ăn và hiến Ứ Già. La Sát ăn xong bảo Hành Nhân rằng: “Ngươi cầu việc ǵ ?”.

Hành Nhân nói: “V́ Ta làm tất cả việc”. La Sát liền nói: “Đúng vậy ! Đúng vậy ! Điều ngươi đă mong cầu, Ta đều v́ ngươi làm” .

Lại có Pháp. Nếu Hành Nhân muốn cầu điều thành tựu của thuốc Thánh (Thánh Dược), nên dùng Hùng Ḥang ḥa rô đề ra (máu) chứa đầy bên trong Cát Ba La (cái bát) y như Pháp, tụng Đại Minh gia tŕ tám trăm biến. Tuỳ theo lúc  tụng Đại Minh dùng cành Cát ra vĩ ra quấy đảo thuốc.Nếu được Cát Ba Ra (cái bát) ấm, nóng, phát lửa, thời thuốc Thánh liền thành. 

Nếu lấy thuốc này chấm nơi trán th́ thành Tŕ Minh Thiên bay đi trong hư không được tự tại. Chấm nơi tim tức được ẩn thân, tuỳ ư đi đứng không có chướng ngại. Nếu chấm nơi mắt liền thấy hết thảy phục tàng cho đến được vào hang A Tu La và cung Rồng. Nếu uống thuốc này vào sẽ sống lâu trăm ngàn kiếp, biến thân tướng ấy như Chuyển Luân Vương, đầy đủ âm thanh vi diệu như Khẩn Na La và như Phạm Âm. Nếu dùng bôi thân th́ thân liền kiên cố giống như Kim Cang.

Lại có Pháp. Nếu Hành Nhân muốn thành tựu thuốc Thánh , nên dùng bơ của con dê đực và bơ của con ḅ màu vàng trộn chung lại, y theo Pháp đốt đèn .Lấy khói đèn ấy cùng với thuốc Tao Vĩ La ḥa chung với nhau, tụng Đại Minh gia tŕ hai mốt biến, tức thành thuốc Thánh. Nếu dùng thuốc này chấm vào mắt th́ người đó được oai lực lớn, mọi người nh́n thấy đều yêu trọng.

Lại có Pháp. Nếu cầu điều thành tựu của thuốc Thánh, nên dùng Ngưu Ḥang, tụng Đại Minh này gia tŕ hai mốt biến th́ thuốc ấy liền thành. Nếu có người lấy thuốc này chấm nơi trán th́ người ấy được oai lực lớn, người nh́n thấy đều yêu  trọng. Nếu uống thuốc này vào th́ người ấy ở  tất cả chỗ luận nghĩa được đắc thắng, cho đến được thành tựu tất cả việc.

Lại có Pháp. Nếu Hành Nhân  muốn điều phục thiết đốt rô (oan gia). Trước tiên nên lựa chọn đất thấp ma xá na, vào ngày 14 của kỳ hắc nguyệt, ngồi nơi đất ấy làm pháp Câu Triệu để câu triệu hàng Dạ xoa, La Sát, Bộ Đa, Tỳ Xá Tả v.v. đốt An tất Hương, tụng Đại Minh hai mốt biến. Đủ số rồi th́ các hàng ấy hiện thân đứng trước mặt Hành Nhân. Hành Nhân lại tụng Đại Minh th́ hàng La Sát ấy nói với Hành Nhân rằng: “Ngươi triệu Ta để làm ǵ ?”. Hành Nhân nói: “Các ngươi hăy bắt giữ  Thiết Đốt Rô (tên gọi là.….)” Thời  hàng Dạ Xoa ấy liền mau chóng đi đến chỗ ấy bắt giữ Thiết Đốt Rô. Người bị bắt giữ này không có cách nào giải được. Nếu Hành Nhân v́ kẻ ấy giải trừ cũng tự bị bệnh.

Lại có Pháp. Nếu  Hành Nhân muốn trừ Thiết Đốt Rô, nên thiêu tro ở Thấp ma xá na, xông ướp bàn chân của  Na nơa thiên. Lấy tro đây làm tượng Thiết Đốt Rô ấy, dùng cây then Na ra a tất đế đóng vào Hột Lư Nại Dă (Hṛdaya:trái tim) của thiết đốt rô Lại dùng bàn chân trái đạp lên h́nh tượng ấy, dùng tâm giận dữ tụng Đại Minh này thời hết thảy dịp thuận tiện do Thiết Đốt Lỗ ŕnh t́m mau bị tịch trừ.

          Lại có Pháp. Nếu Hành Nhân muốn giáng sấm sét, mưa đá. Nên  dùng cây Cát la vĩ la màu đỏ, y theo pháp làm cái then, tụng Đại Minh gia tŕ xong, đóng ở dưới gốc cây thời ở chỗ đóng đinhấy sẽ giáng sấm sét, mưa đá. Nếu muốn ngưng dứt, lấy cái then lên, liền ngưng dứt .

Các Pháp như vậy các Pháp đều dùng An Tất Hương mà thiêu đốt, tức tất cả Pháp đều được thành tựu.

 

TỐI THƯỢNG MẠN NƠA LA NGHI QUỸ THÀNH TỰU _PHẦN THỨ TƯ_

 

Bấy giờ Na Nơa Thiên lại nói Pháp Đại Mạn Noă La tối thượng. Mạn Nơa La này hay thành hết thảy Thiên… cho đến Phạm Vương Na La Diên, Đại Tự Tại Thiên thường đi đến Quy y…...cho đến chư Tiên cũng thường khen ngợi, chư Phật Bồ Tát đều nhiếp thọ. Hết thảy hàng Dạ Xoa, La Sát đều được Tam Muội. Hết thảy Minh Ngôn cùng với tất cả Nghi Quỹ thảy đều được thành. 

Nếu có Hành Nhân muốn làm Mạn Noă La này. Trước tiên, nên y theo Pháp chọn lựa đất cát tường thành tựu. Sau đó ở kỳ Bạch Nguyệt, ngày có sao tốt trực nhật mới có thể bắt đầu. Hành Nhân trước hết tự tắm rửa sạch sẽ, mặc áo trắng mới sạch, ăn uống Bạch Thực, sau đó lấy Cù Ma Di (phân ḅ) chưa rớt xuống đất làm Mạn Noă La có  ba lớp.

Lớp thứ nhất bên ngoài rộng khoảng 32 khuỷu tay, phân lượng đầy đủ, bốn hướng mở bốn cửa, tṛn đầy ṿng chung quanh Mạn nơa La ấy. Lớp thứ hai bên trong, dùng Bạch Đàn Hương làm rộng khoảng tám khuỷu tay. Lớp thứ ba bên trong, dùng Long Năo và Cung Cụ Ma hương làm rộng khoảng bốn khuỷu tay. 

Ở chính giữa Mạn Noă La của lớp thứ ba bên trong này, vẽ Đức Phật Thích Ca, cầm chày Kim Cang và bánh xe. Trước mặt Đức Phật vẽ Na Nơa Thiên đầy đủ tướng đoan nghiêm có mười sáu cánh tay cầm các khí tượng và dùng các báu trang nghiêm. 

Lớp thứ hai bên trong,  y theo Pháp vẽ các Đại Thiên, Đại Phạm Vương, Na La Diên Thiên, Đại Tự Tại Thiên. Ở bốn góc vẽ bốn Đại Thiên Vương. 

Lớp thứ nhất bên ngoài vẽ Đại Dạ Xoa Chủ. Ở bốn cửa vẽ Măn Hiền Thiên, Bảo Hiền Thiên, Nan Nễ Kế Thuyết La Thiên. 

Như vậy vẽ tượng xong, sau đó trước hết ở trước mặt Đức Phật để bốn cái bát vàng. 

Ở phương Nam của Ngoại Mạn Noă La, y theo Pháp an 25 cái b́nh Ứ Già, 25 cái lư hương, tám cái bát bằng bạc… cho đến phương Tây, Bắc, Đông  cũng đều như vậy. 

Lại an các thứ hoa quả, đồ ăn uống xuất sanh. Hoa quả đều có 800 mâm, 800 cái chén đèn, 800 phần đồ ăn xuất sanh. Lại hiến 108 phần thức ăn có 64 mùi vị,  lại an các thứ cờ xí. Lại an 108 cái bát giữa các tiêu xí. Tiếp theo an 32 cây kiếm, 108 cái phan . Lại an 8 một nại nga ra (Cây búa), 8 cái Tam Xoa, 4 bánh xe, 4 cái loa, 4 cái Thiết Cật Để, 32 cái chày Kim Cang, 4 cái chày vồ, 4 cái chuông, 4 cái Đổ Ma La với mọi thứ hương hoa….. 

Sau đó ở bốn cửa, bốn góc đều dựng đứng một h́nh người mặc giáp trụ, tay cầm khí trượng. 

Ở bốn mặt bên ngoài, dùng năm thứ lụa màu, mọi loại trần thiết trang nghiêm. Lại tấu các thứ kỹ nhạc.Mỗi khi hiến dâng đồ ăn uống thời tấu nhạc cúng dường,

Nghi tắc như vậy y theo Pháp an bày xong. Sau đó Hành Nhân y theo Pháp, một ngày ba thời hiến đồ ăn xuất sanh. Đồ ăn này đều nên gia tŕ bảy biến rồi mới hiến cho Hiền Thánh.

Sau đó Hành Nhân dùng An Tất Hương, Bạch Giới Tử , hương du (dầu thơm) hoà chung với nhau. Ở trước Mạn Nơa La y theo Pháp làm Hộ Ma thời Na Nơa Thiên ấy liền hiện bổn thân như tướng trong Mạn Noă La lúc trước, lễ Đức Thế Tôn xong rồi bảo với Hành Nhân rằng: “Nay Ta khéo đến, ngươi có cầu nguyện ǵ, Ta sẽ ban cho”. Tức thời Hành Nhân dâng hiến Ứ Già xong, liền ước nguyện. Na Nơa Thiên ấy tùy theo ư của Hành Nhân. “Như ước muốn của ngươi: làm Tŕ Minh Thiên, hoặc Thiên  Đế Thích, hoặc địa vị của Hộ Thế Chuyển Luân Vương…. cho đến Phạm Thiên, Đại Tự Tại Thiên, Na La Diên v.v.

Hành Nhân cho đến mong cầu như Na Noă Thiên cũng được tùy ư, huống chi là các việc thế gian: sống lâu,đa văn, trân bảo,tài cốc, hết thảy chúng sanh tôn trọng. Hoặc chế phục Tà Pháp, bảo bàng sanh nói chuyện hoặc lấy phục tàng đều được tùy ư. Cho đến giáng phục Rồng, vào cung Rồng (Long cung); hoặc cầu thuốc Thánh, hoặc pháp Ẩn thân, cho đến Thiên Nhăn, Túc Mạng Trí với hàng Dạ xoa, La sát v.v.Mọi loại Pháp thành tựu như vậy thảy đều tuỳ ư.

Hoặc chẳng làm Mạn Noă La, Hành Nhân chỉ khởi tâm bền chắc dũng mănh của Thượng Phẩm, tŕ tụng Đại Minh măn một ngàn biến thời chỗ tạo làm đều thành. 

Hành Nhân như vậy được măn nguyện xong, liền chí thành lễ tạ hết thảy các Hiền thánh. Liền tụng Đại Minh Phụng tống Na Nơa Thiên trở về chỗ cũ. 

Đại Minh là:

1_ Na mô phệ thiết-ra phạ nơa tô đa dă. 

2_ Na nơa cô bát ra dă. 

3_ Úm, sa ra sa ra 

4_ Vĩ sa ra, vĩ sa ra  5_ Na tra na tra. 

6_ Nghiệt tha nghiệt tha toa bà phạ nẵng 

7_ Na nơa cô bát ra, dă tha tô kha tát-đát-vơng 

8_ Dược xưng nại-ra , toa hạ

*) Namo vaiśravaṇa-sutāya naḍa-kūbarāya.

Oṃ sāra sāra, visāra visāra, naṭā naṭā, gaccha gaccha sva-bhavana, naḍakūbarāya yathāsukha-sattvaṃ  yajendra  svāhā

Hành Nhân dùng hoa, tụng Đại Minh này gia tŕ một biến, đốt An Tất Hương xông ướp hoa mà hiến dâng thời Na Nơa Thiên liền ẩn thân không hiện.

 

TỐI THƯỢNG THÀNH TỰU HỌA TƯỢNG NGHI QUỸ _PHẦN THỨ NĂM_

 

Bấy giờ, Na Nơa Thiên lại nói Pháp vẽ tượng. 

Nếu Hành Nhân muốn vẽ tượng Na Nơa Thiên, nên dùng lụa trắng tốt mới sạch, đủ đầu đuôi, vuông bốn khuỷu tay. Được tấm lụa này xong, lại  y theo Pháp chọn nơi chốn thù thắng, nên khiến người thợ vẽ Trai Giới trong sạch, rồi mới bắt đầu vẽ. Nên dùng đồ dùng mới sạch đựng màu sắc để điều hoà .

Ở chính giữa tấm lụa, vẽ Na Nơa Thiên với tướng đoan nghiêm, có mười sáu cánh tay  đều cầm khí trượng. Ở hai bên trái phải, vẽ Phạm Thiên, Na La Diên Thiên, Đại Tự Tại Thiên, Tỳ Sa Môn Thiên, Bảo Hiền Thiên, Măn Hiền Thiên, Lực Thiên. Đại Lực Thiên, Cát Tường Thiên, Đại Biện Thiên. Tiếp, ở bên dưới vẽ các Thiên Tử với các Thiên Tiên. Tiếp,  ở bên ngoài vẽ Đại Dạ Xoa Chủ

Nhóm như vậy, y theo Pháp vẽ xong, sau đó y theo Pháp cúng dường các thứ. 

Hành Nhân muốn làm các Pháp thành tựu. Ở trước mặt tượng, tụng Đại Minh một ngàn biến thời chỗ làm đều được thành tựu

 

PHẬT NÓI KINH TỐI THƯỢNG BÍ MẬT NA NƠA THIÊN

_QUYỂN TRUNG (Hết)_

 

PHẬT NÓI KINH TỐI THƯỢNG BÍ MẬT NA NƠA THIÊN

Hán dịch: Tây Thiên Dịch Kinh Tam Tạng_ Triều Phụng Đại Phu Thí QuangLộc Khanh_ Minh Giáo Đại Sư (kẻ bầy tôi là) PHÁP HIỀN phụng chiếu dịch

Việt dịch: Sa Môn THÍCH QUẢNG TRÍ

Sưu tập Phạn Chú: HUYỀN THANH

_QUYỂN HẠ_

 

TỐI THƯỢNG THÀNH TỰU CÚNG DƯỜNG ĐẠI MINH_PHẦN THỨ SÁU_

 

Bấy giờ Na Nơa Thiên nói Hiến Ứ Già Đại Minh là:

1_Na mô phệ thiết-ra phạ nơa tô đa dă. 

2_ Na nơa cô bát ra dă. 

3_ Úm, na nơa cô bát ra bôn nhạ, toa hạ.

*) Namo vaiśravaṇa-sutāya. Naḍakūbarāya_ Oṃ _ Naḍa-kūbaraya puṇya  svāhā 

Dùng Đại Minh này gia tŕ nước Ứ Già bảy biến dùng hiến dâng Hiền Thánh.

Lại nói Kết Giới Đại Minh là:

1_ Na mô bà nga phạ đổ 

2_ Na nơa cô bát ra dă 

3_ Phệ thiết ra phạ na tô đa dă 

4_ Bố lị-vơng nễ thương ra xứng đổ dă ma 

5_ Nại xuy na phạ tô  nễ phạ 

6_ Bát thất tức ma phạ rô kĩ 

7_ Ốt đát ra  cô vĩ ra

8_ A độ na nga. 

9_ Ốt lặ-đặc-vơng, nhu để 

10_ Vĩ nễ du phạ du 

11_ Tất lị sắc tra đa, tát lị vi, ngu hê dă ca

12_ Lạc xoa cô lị vơng đổ mạn nơa lăng 

13_ Đát ninh tha a: Tất trí lê 

14_ Bát ra tất trí lê 

15_ Đổ trí đổ trí 

16_ Đô ni đô ni 

17_ Na noă, na noă

18_ Cô bát ra cô bát ra 

19_ Na nơa cô bát ra nghê dă, bát dă để

20_ Để sắc diễm đổ ma để cật ra mang

21_ Mạn nơa ra, toa hạ.

*) Namo bhagavato naḍakūbarāya vaiśravaṇa-sutāya. Pūrvāṃ diśaṃ rājantu yama, dakṣiṇa-vāsudeva, paścimā-varuṇā, uttara-kuvera, adhurnāgā, ūrdhva-jyotir, viniveśa-vāyu, pṛṣṭhatā sarve gugyaka rakṣa kurvantu maṇḍalaṃ.

Tadyathā: Sthire sthire prasthire, taṭi taṭi, tāḍe tāḍe, naḍa naḍa, kūbara kūbara, naḍa-kūbara ājñāpayati tiṣṭhantu māṃ, ati-kramaṃ maṇḍalā svāhā 

Tụng Đại Minh này gia tŕ Bạch Giới Tử, nước bảy biến xong , nên tác Kết Giới.

 Lại nói Hiến Hương Đại Minh là:

1_ Na mô phệ thiết ra phạ na tô đa dă. 

2_ Na nơa cô bát ra dă. 

3_ Đa tả na mạc tắc-cật-lị đoả. 

4_ Úm , tát ra tát ra 

5_ Na tra na tra 

6_ Nơa nơa nơa nơa 

7_ Độ trí độ trí

8_ Na nơa cô bát rô nghệ dă bát dă để, toa hạ.

Namo vaiśravaṇa-sūtāya, naḍa-kūbarāya, tasya mamaskṛtvā _ Oṃ_ sara sara, naṭa naṭa, ḍa ḍa ḍa ḍa, dhūti dhūti, naḍa-kūbara ājñāpayati svāhā 

Tụng Đại Minh này bảy biến gia tŕ hương rồi thiêu đốt.

Lại nói Hộ Ma Đại Minh là:

1_ Na mô bà nga phạ đổ  2_ Na nơa cô bát ra dă 

3_ Phệ thất ra phạ na tô đổ dă. 

4_ Úm,  hiệt na  hiệt na 

5_ Nhập-phạ ra, nhập-phạ ra

6_ Hê na nơa cô bát ra cô bát ra

7_ Nhập-phạ ra cô bát ra, toa hạ

Namo bhagavato naḍa-kūbarāya, vaośravaṇa-sutāya_ Oṃ _ hana hana, jvala jvala, he naḍa-kūbara, jvala kūbara svāhā 

Tụng Đại Minh này gia tŕ vật Hộ Ma bảy biến rồi làm Hộ Ma.

Lại nói Mộc Dục (Tắm gội) Đại Minh là:

1_ Na mô na nơa cô bát ra dă. 

2_ Úm, khế lệ khế lệ 

3_ Khế khế lê

4_ Nhập-phạ lê nễ, toa hạ

*) Namo naḍa-kūbarāya_ Oṃ _ khele khele, khe-khele jvālini  svāhā 

Tụng Đại Minh này bảy biến gia tŕ nước, Bạch Giới Tử .. để làm Mộc Dục (tắm gội).

          Lại nói Khiết Tịnh Đại Minh là:

1_ Na mô na nơa cô bát ra dă. 

2_ Úm,  hiệt na, nghĩ rị phạ rô nơa phạ để 

3_ Dược xoa cô bát ra, toa hạ

*) Namo naḍa-kūbarāya_ Oṃ_ hana gili varuṇavati yakṣa-kūbara  svāhā

Tụng Đại Minh này gia tŕ nước bảy biến để làm Khiết Tịnh.

Lại nói Hoa Đại Minh là:

1_ Na mô phệ thất ra ma na tô đa dă. 

2_ Na nơa cô bát ra dă. 

3_ Úm, đốt rô đốt rô 

4_ Bố sắt-ba phạ để 

5_ Mẫu rô mẫu rô 

6_ Bát ra ma ngu hê dă. 

7_ Na nơa cô bát ra, toa hạ

*) Namo vaiśravaṇa-sūtāya, naḍa-kūbarāya_ Oṃ_ dhuru dhuru, puṣpavati. muru muru, parama-guhya,  naḍa-kūbara svāhā 

Tụng Đại Minh này bảy biến gia tŕ hoa để dùng cúng dường.

Lại nói Đồ Hương (hương xoa bôi) Đại Minh là:

1_ Na mô na nơa cô bát ra dă

2_ Nễ vĩ-dă vĩ ma na tạt ra dă

3_ Cát rị cát rị 

4_ Tam măn đa hiến đề. 

5_ Úm, vĩ thú địa, toa hạ

*) Namo naḍa-kūbarāya, divya-vimāna jvalitāya, kiri kiri, samantagandhe_ Oṃ_viśuddhi  svāhā 

Tụng Đại Minh này bảy biến gia tŕ hương xoa bôi để hiến dâng.

Lại nói Đăng Đại Minh là:

1_ Na mô na nơa cô bát ra tả 

2_ Nhập-phạ lê đa đế nhạ đà ra tả 

3_ Nhập-phạ ra đổ. 

4_ Úm, đốt trí, toa hạ

*) Namo naḍa-kūbarāya, jvalita-teja dharāya, jvalatu_ Oṃ _ tuṭi  svāhā 

Tụng Đại Minh này bảy biến gia tŕ đèn để hiến dâng.

          Lại nói Xuất Sanh Đại Minh là:

1_ Na mô na nơa cô bát ra tả 

2_ Phệ thất ra ma nơa tô đa tả. 

3_ Úm, vĩ cát tra dă 

4_ Vĩ nhạ dă bát ra phạ ra 

5_ Cô bát ra dă, toa hạ

*) Namo vaiśravaṇa-sūtāya, naḍa-kūbarāya_ Oṃ_vikaṭaya vijaya pravara kūbarāya svāhā

Tụng Đại Minh này bảy biến gia tŕ thức ăn  xuất sanh.

Lại nói Thất Kha Phạ Đà Đại Minh là:

1_ Na mô na nơa cô bát ra dă. 

2_ Tát lị-phạ nễ phạ đa măn nễ đa dă. 

3_ Úm, cát lị cát lị 

4_ Cô bát ra cô bát ra 

5_ Để sắt trí để sắt trí

6_ Thất khế, toa hạ

*) Namo naḍa-kūbarāya, sarva-devatā vanditāya_ Oṃ_ kiri kiri, kūbara

kūbara, tiṣṭi tiṣṭi,  śikhe svāhā 

Tụng Đại Minh này bảy biến xong, nên làm thất kha phạ đà (śikhi-bandha)

Lại nói Ủng Hộ Đại Minh là:

1_ Na mô na nơa cô bát ra tả

2_Úm, tổ rô tổ rô 

3_ Rô rô rô rô

4_ Cô bát ra cô bát ra 

5_ A khất-ra ma thiết lị lăm

6_ Ra xoa ra xoa 

7_ Ma ma tát lị-phạ ca lăng 

8_ Độ trí độ trí, toa hạ

*) Namo naḍa-kūbarāya_ Oṃ_ curu curu, ruru ruru, kūbara kūbara, ākramaṃ śarīraṃ  rakṣa rakṣa mama sarva-karaṃ, dhuṭi dhuṭi svāhā 

Tụng Đại Minh này ủng hộ tự thân và thân kẻ khác. Hoặc dùng sợi dây, hoặc dùng nước, hoặc Bạch Giới Tử, hoặc tro, hoặc đốt An Tất Hương. Dùng vật của nhóm như vậy gia tŕ hai mốt biến để làm ủng hộ.

   

TỐI THƯỢNG THÀNH TỰU ẤN TƯỚNG ĐẠI MINH _PHẦN THỨ BẢY_

 

Bấy giờ, Na Nơa Thiên lại nói Pháp Ấn Tướng.

Ấn tướng này là Pháp thành tựu tối thượng. Hành Nhân muốn làm Pháp Kết Ấn, trước tiên hai tay cần phải thanh tịnh sạch sẽ, lại dùng hương xoa hai bàn tay xong,  mới có thể kết Ấn.

Na Nơa Thiên Căn Bản Ấn.Hai tay chắp lại, ngón giữa dựng song song, ngón út cũng vậy, ngón cái như móc câu, lại co ngón giữa như cái ṿng, ngón trỏ cũng như vậy. 

Ấn nầy có oai đức lớn, khéo làm tất cả việc. cho đến khiến các lọai cử động, nói các việc với điều phục hàng Dạ Xoa, La Sát; cũng có thể làm câu triệu. Việc của nhóm như vậy đều được thành tựu, cũng hay thành tựu hết thảy Pháp. 

Lúc kết Ấn này thời tụng Đại Minh là:  Úm, đốt trí đốt trí, cô bát ra, toa hạ.

*) Oṃ_ Tuṭi tuṭi, kūbara  svāhā 

Mẫu Nại Nga Ra Ấn. Lại như Ấn trước, co đầu ngón cái lại, ngón giữa như Kim Cang, an ở trên đảnh.

Lúc kết Ấn này thời tụng Đại Minh là: 

1_Úm, tức trí tức trí 

2_ Tức tức trí

3_ Mẫu nại nga ra, hồng.

Oṃ_ Ceṭi ceṭi, ceceṭi,  mudgara hūṃ  Ấn với Đại Minh này hay thành tất cả việc.

Na Nơa Thiên Tâm Ấn. Chẳng sửa Ấn trước, hai tay như Kim Cang, co ngón trỏ như mặt trăng.  

Lúc kết Ấn này thời tụng Đại Minh là: 

Úm,  đốt rô trí, đốt rô trí, toa hạ

*) Oṃ_ Dhruṭi dhrūṭi svāhā 

Ấn với Đại Minh này hay  điều phục tất cả  Dạ Xoa, La Sát, các Rồng cho đến các nhóm ác.

Chư Thiên Tâm Ấn. Chẳng sửa Ấn trước, co hai ngón trỏ, dựng thẳng hai ngón cái thành Ấn

Lúc kết Ấn này thời tụng Đại Minh là: 

1_ Úm, na nơa lị ni 

2_ Nễ phạ nhạ dă, hồng, phát tra.

*) Oṃ_ Naḍariṇi dava jaya hūṃ phaṭ 

Ấn với Đại Minh này hay làm hết thảy Pháp thành tựu.

Nhất Thiết Dạ Xoa La Sát Tâm Ấn. Để hai ḷng bàn tay ngang bằng nhau, ngón trỏ , ngón giữa, ngón cái cột dính nhau, thành Ấn Lúc kết Ấn này thời tụng Đại Minh là: 

1_ Úm na mô tốt-đổ đế, bộ đế thuyết ra dă 

2_ Na nơa cô bát ra tả, nỗ ma đổ

3_ Ma hạ nghiệt na địa bát để nẵng 

4_ Phệ thiết-ra phạ noản tô đa 

5_ Hồng, tức trí, toa hạ

*) Oṃ_ namostute bhūtaśvarāya naḍa-kūbarāya, anu-mato mahā-gaṇaadhipatena vaiśravaṇa-sutāya hūṃ ceṭi svāhā 

Ấn với Đại Minh này khéo điều các Diệu (sao) với tất cả hàng Dạ Xoa, La Sát, Bộ Đa…. Lúc kết Ấn và tụng Đại Minh này thời hàng Dạ Xoa v.v. thảy đều tiêu tán, nếu không th́ cái đầu sẽ bị bể làm bảy phần.

          Chư Thiên Ấn. Chẳng sửa Ấn trước, mở hai ngón trỏ, duỗi hai ngón út.  

Lúc kết Ấn này thời tụng Đại Minh là: 

1_ Úm, bát ra ma ngu-hê dă cát

2_ Nhập-phạ ra, nhập-phạ ra,  bát-ra nhập-phạ ra, hồng.

*) Oṃ_ Parama-guhyasya, jvala jvala prajvala, hūṃ  Ấn và Đại Minh này cũng hay làm tất cả Pháp thành tựu.

          Na Nơa Thiên Tâm Ấn. Chẳng sửa Ấn trước, hai ngón trỏ như cái ṿng, hai ngón giữa như móc câu, tách mở hai ngón út th́ thành Ấn.

Lúc kết Ấn này thời tụng Đại Minh là: 

1_ Úm, hiệt ra  hiệt ra 

2_ Bát ra hiệt ra, toa hạ.

*) Oṃ_ Hara hara prahara svāhā 

 

Khi Na Nơa Thiên nói Ấn Minh đó xong, lại nói:”Nếu có  Hành Nhân làmcác pháp thành tựu, cần phải thường hành ba Mật, tức là Tam Muội, Ấn Tướng, Đại Minh…th́ có thể y theo Pháp làm các việc thành tựu, chỗ làm đều thành”

 

TỐI THƯỢNG THÀNH TỰU KÍNH ÁI HỘ MA PHÁP _PHẦN THỨ TÁM_

 

Bấy giờ Na Noă Thiên lại nói Đại Minh là:

1_Na mô na noă cô bát ra dă 

2_ Phệ thiết ra phạ na tô ra dă. 

3_ Đát nĩnh tha: Nga ra tất 

4_ Ma hạ nga ra tất nễ

5_ Hê lị hê lị hê lị. 

6_ Di lị di lị toa hạ

7_ A mẫu cương mê tát hê ra niên 

8_ Tất tô phạ lan noản 

9_ Tát khế nễ dă, phổ nhĩ bế dă 

10_ Tát-đát-ra lăng ca ra noăn

11_ Phạ thiết ma na dă, toa hạ

*) Namo naḍa-kūbarāya, vaiśravaṇa-sūtāya.

Tadyathā: Grasi mahā-grasini, heri heri heri, mili mili svāhā.

Amukāmi, sahiraṇya, sasuvarṇānāṃ sakhādya pūjitāya vastra-raṅgha rādha vaśamanaya svāhā  

Nếu Hành Nhân muốn làm Hộ Ma, nên dùng củi ốt ma đa với Bạch Giới Tử (hạt cải trắng), A đát ma, rô địa la (máu)… tụng Đại Minh đồng làm Hộ Ma thời  hết thảy chỗ làm đều được thành tựu.

          Lại có Pháp. Nếu có người muốn được tất cả mọi người kính yêu, nên dùng An Tất Hương, tụng Đại Minh gia tŕ 21 biến, đốt lên xông ướp thân thời tất cả người nh́n thấy thảy đều kính yêu.

Lại có Pháp. Nếu Hành Nhân muốn ở chỗ luận nghĩa được thắng, nên dùng Xương Bồ, tụng Đại Minh gia tŕ 21 biến rồi ngậm trong miệng. Phàm chỗ luận nghĩa, tất cả được thắng.

          Lại có Pháp. Nếu người muốn vào trận chiến được thắng, nên dùng Thanh Mộc Hương, tụng Đại Minh gia tŕ 21 biến, đốt xông ướp thân, tức được thắng.

          Lại nói Đại Minh là:

1_ A phạ sa ra, a phạ sa ra 

2_ Nghiệt tha nghiệt tha thuyết bà phạ nẵng, toa hạ

*) Avasara, avasara, gaccha  gaccha,  śiva-vaṇa  svāha 

 

Nếu muốn phụng tống Na Noă Thiên trở về chỗ cũ. Trước tiên tụng Đại Minh lúc trước, làm Hộ Ma xong. Lại tụng Đại Minh này bảy biến thời Na Noă Thiên liền quay trở về chỗ cũ.

   

ĐẠI MINH MẠN NOA LA THÀNH TỰU NGHI QUỸ _PHẦN THỨ CHÍN_

 

Bấy giờ Na Noă Thiên lại nói Đại Minh là:

1_ Na mô na noă cô bát ra tả 

2_ Phệ thiết ra phạ noă tô đa tả 

3_ Ma hạ ngu hê dă. Khẩn nại ra tả 

4_ Di vĩ-dă, vĩ ma na phạ tất na tả 

5_ A tha đổ na noă cô bát ra tả 

6_ Ma hạ ngu hê dă khẩn nại ra tả. 

7_ Hột rị nại dă ma phạ lật đa dă sa-dă di

8_ A phạ hiệt nẵng 

9_ A vĩ xá nẵng 

10_ Bố ra bát nẵng 

11_ Lăm nga bát nẵng 

12_ Rô nại bát nẵng

13_ Măn đà nẵng  

14_ Ma ra noản 

15_ Đát ra tát nẵng 

16_ Đa lị nhạ nẵng. 

17_ Tát đam bà nẵng 

18_ Ngoại bà nẵng 

19_ Mô hiết nẵng

20_ Tát lị phạ mật đát ra noản, bát ra ma tha nẵng. 

21_ Na mô na noă cô bát a dă 

22_ Na mô phệ thất ra phạ na dă. 

23_Na mô vĩ rô bát xoa dă 

24_ Na mô vĩ rô trà ca dă. 

25_ Na mô đặc lị đế ra sắc tra ra dă. 

26_ Na mô nhạ trí ra dă. 

27_ Na mô dược xoa nghiệt na dă. 

28_ Na mô ma ni bạt nại ra dă. 

29_ Na mô bố lan nơa bạt nại ra dă. 

30_ Na mô tát lị phạ vĩ nễ dă măn đát ra bố nhĩ đa dă. 

31_ Ma hạ bát ra hiệt ra na đà ra dă 

32_ Tỳ ma na nại dă. 

33_ Bà dă bát ra nại dă 

34_ Nhập-phạ lê đa nan na. 

35_ Bát ra hiệt na ra hiệt tát tha dă 

36_ Tô vĩ ma ra vĩ thất đa 

37_ Bát ra hạ ra na lăng khất lị,thiết rị ra dă 

38_ Tát lị phạ nễ phạ nghiệt na nậu nghê dă 

39_ Đa dă tán nại ra tô lị dă, tắc kiến đà đạt ra dă. 

40_Na noă cô bát ra dă 

41_ Ê hê duệ hê 

42_ Một ra hám ma tát đế duệ na 

43_ Nễ phạ tát đế duệ na 

44_ Phạ du bộ đổ bộ đoả 

45_ Bát ra vĩ thiết bát-ra

46_ Nhất mang thiết lợi lăm tát lị phạ nỉ phạ 

47_ Nhất mang nga ra hạ ma phạ  hiệt diễn đống.

48_ A vĩ thiết diễn đống 

49_ Phạ đoả bát diễn đống

50_ Ma ra bát diễn đống  

51_ Dă nỉ du nhạ na thiết đán nghiệt đổ 

52_ Dă nễ một-ra hám ma, lộ cát nghiệt đán 

53_ Dă nễ phạ phạ rô na ra diễm 

54_ Ấn nại ra, nghiệt đổ phạ 

55_ Vĩ số nỗ lộ cát nghiệt đổ tất phạ. 

56_ Tô ma tô lị dă, nghiệt đổ tất phạ 

57_ Tát đát đa sa đát vơng, na noă cô bát ra 

58_ A cát trà dă. 

59_ A ca lị sa dă, bà nga vam 

60_ Na noă cô bát ra 

61_ Mẫu nại nga ra mẫu sa ra 

62_ Tác khất-ra bá ni ra nghê dă bát dă để

63_ Bố rị phạ nễ thương ấn nại ra 

64_ Nại xoa na nễ thất dă ma 

65_ Sa đa tha nễ, thất bát tất tả di phạ rô nô na nga 

66_ Ốt đa rị na phệ thất ra phạ na sa nại 

67_ Ế đế nễ thiết bá ra 

68_ A nghê dă, bát dă đa nễ đa thiết 

69_ Bộ bộ na noă cô bát ra 

70_ Ma lị nại ma lị nại 

71_ Bát ra ma lị nại, bát ra ma lị nại  

72_ Cô bát ra  cô bát ra 

73_ Bố sắc ba cô bát ra 

74_ Hột-rị nại dă cô bát ra. 

75_ Hô đổ hô đổ 

76_ Mẫu đổ mẫu đổ

77_ Hiệt na hiệt na 

78_ Nại hiệt nại hiệt 

79_ Bát tả bát tả

80_ Thân nại thân nại 

81_ Tần nại tần nại 

82_ Hạ hạ hạ hạ.

83_ Na noă cô bát ra 

84_ Hệ hệ hệ hệ 

85_ Na noă cô bát ra 

86_ Bố ra bố ra 

87_ Bố ra dă na noă cô bát ra 

88_ Nễ vĩ dă cô bát ra 

89_ A nghê dă bát dă đổ ngu hê dă cát. 

90_ Na noă na noă na noă. 

91_ Nễ ni nễ ni nễ ni

92_ Hồng hồng

93_ Đa trí đa trí

94_ Đổ trí đổ trí 

95_ Tức trí tức trí 

96_ Tức bát trí, toa hạ.

*) Namo naḍa-kūbarāya, vaiśravaṇa-sutāya, mahā-guhyakendrasya, divyavimāna vāsinasya. Arthātho naḍa-kūbarasya mahā-guhyakendrasya hṛdayaṃ māvarta iṣyāmi, āvāhanam āvaśanaṃ pūrva paryantaṃ gopanaṃ raudrānāṃ bandhanaṃ         mārāṇām   bhrāmaṇaṃ        trāsanaṃ    tarjanaṃ    stambhanaṃ jambhanaṃ mahanaṃ, sarva amitrānāṃ pramathanaṃ.

Namo naḍa-kūbarāya Namo vaiśravaṇāya

Namo virūpakṣāya

Namo virūḍhakāya

Namo dhṛtaraṣṭrāya

Namo jaṭilāya

Namo yakṣa-gaṇāya

Namo māṇi-bhadrāya

Namaḥ pūrṇa-bhadrāya

Namaḥ  sarva vidyādhara pūjitāya, mahā praharaṇa dharāya, bhīmarūpāya, bhaya pradāya, prajvalita daṇḍa prahahaṇa hastāya, suvimala niśita praharaṇa alaṃkṛta śarīrāya. Sarva deva-gaṇa anujñātāya, candra-sūryaskandha darāya, naḍa-kūbarāya.

Ehyehi brahma satyena, sarva devatā satyena, vāyu satyena, vāya bhūtodbhūtatvā, praveśa praveśa, imaṃ śarīraṃ. Sarva devānāṃ imaṃ grahām āvāhayantu āveśayantu bandhāpayantu mārāpayantu, yadi yojana-śata gatoḥpi vā, yadi brahma-loka gatoḥpi vā, yadi varuṇālabha gatoḥpi vā, yadi indra-loka gatoḥpi vā, yadi viṣṇu-loka gatoḥpi vā, yadi vā soma sūrya gatoḥpi vā, yadi vātatastvaṃ naḍa-kūbara, āgāṭha āgāṭha, ākarṣaya bhagavan na,dakūbara, mudgara musala cakrapāṇir- ājñāpayati.

Pūrvā-diśam indra, dakṣiṇa-diś  yama sthatāṃ, diś- paścime varuṇonāgā, uttareṇa vaiśravaṇa sadas, ite diśā-pāla ājñāpayati nitya āśā. 

Bho bho naḍa-kūbara, marda marda, pra-marda pramarda, kūbara kūbara puṣpa kūbara, hṛdaya kūbara hūṃ, huṭu huṭu, muṭu muṭu, hana hana, daha daha, paca paca, cchinda cchinda, bhinda bhinda Hā hā hā hā, naḍa-kūbara 

Hi hi hi hi, naḍa-kūbara 

Pūra pūra pūrāpaya naḍa-kūbara

Divya-kūbara

Ājñāpayatu guhyaka, naḍa naḍa, niḍi niḍi, hūṃ hūṃ, phaṭ phaṭ, taṭi taṭi,

tuṭi tuṭi, ceṭi ceṭi, cit-ceṭi svāhā 

Đại Minh này có oai lực lớn, nếu dùng Đại Minh này gia tŕ An Tất Hương rồi thiêu đốt, làm việc của các Tú Diệu (sao) đều được thành tựu.

Lại nữa, trước tiên Hành Nhân cần thanh tịnh sạch sẽ sau đó mới tụng Đại Minh này gia tŕ An Tất Hương 21 biến. Lấy hương này đốt trước tượng vẽ của Na Noă Thiên và dâng hiến Bạch Thực *thức ăn màu trắng) xong Hành Nhân tụng Đại Minh này một ngàn biến, đủ số rồi tức tượng vẽ liền cử động và phóng ánh sáng bảo Hành Nhân rằng: “Người đối với Pháp thành tựu Nghi Quỹ, Mạn Noă La của Na Noă thiên đều được các thành tựu”. Hành Nhân thấy điềm lành này, liền dâng hiến Ứ Già, từ đây về sau hết thảy chỗ làm đều được thành tựu.

          Lại có Pháp. Nên dùng An Tất Hương tụng Đại Minh gia tŕ xong, đốt hương xông ướp cây kiếm với tụng Đại Minh gia tŕ, cây Kiếm liền của động, phóng ánh sáng làm mọi loại việc cho đến khí trượng của nhóm Tam Xoa, luân (bánh xe), chày Kim Cang, chày vồ, mẫu nại nga ra (cây búa)v.v.  nên như Pháp trước gia tŕ An Tất Hương rồi thiêu đốt xông ướp,  tức đều cử động phóng ánh sáng hay làm mọi loại việc.

          Lại nữa, dùng Bạch Giới Tử tụng Đại Minh gia tŕ xong, ném đánh Thiên Tượng (tượng vị Trời) lại tụng Đại Minh, đốt An Tất Hương xông ướp Tượng, tượng liền phóng ánh sáng… cho đến Phạm Thiên, Na La Diên Thiên, Đại Tự Tại Thiên, Tỳ Sa Môn Thiên, Ma Hạ Ca La Thiên v.v. cũng như Pháp trước, đốt An Tất Hương xông ướp với tụng Đại Minh gia tŕ thời Tượng đều phóng ánh sáng.

Lại nữa, Hành Nhân y theo Pháp làm Mạn Noă La, dùng hương hoa cúng dường. Lại y theo Pháp lấy b́nh Ứ Già đựng đầy nước thơm để trong Mạn Noă La, đốt An Tất Hương, tụng Đại Minh gia tŕ thời cái b́nh Ứ Già tự nhiên cử động cho đến phóng ánh sáng..

Lại nữa, như trước làm Mạn Noă La, dùng mọi loại hương hoa cúng dường, sau đó lấy cái kiếng sạch, bôi hương nơi mặt sau kiếng để trong Mạn Noă La. Lại dùng Bạch Giới Tử kèm hoa gạo, tụng Đại Minh gia tŕ xong, ném đánh vào mặt kiếng, đốt An Tất Hương, tụng Đại Minh ba biến thời cái kiếng liền cử động và phóng ánh sáng lớn. Ở trong mặt kiếng được nh́n thấy các việc quá khứ, hiện tại, vị lai…cũng được nh́n thấy cơi Trời, cơi Tứ Thiên Vương, bên dưới đến Long cung… thảy đều được thấy. cho đến tuổi thọ của thân ḿnh và thân của người khác cũng hay được biết. 

Lại nữa, Hành Nhân trước tiên tự trai giới sạch sẽ, mặc quần áo tốt mới sạch xong, sau đó y theo Pháp lấy một Cát Ba La (cái bát)  đầy đủ tướng tốt, dùng nước thơm rửa cho thật sạch, dùng hương xoa mà xoa bôi, khoảng giữa dùng dầu thơm mà xoa bôi. Sau đó, Hành Nhân dùng phấn (bột) năm màu, y theo Pháp làm Mạn Noă La vuông vức bốn phương, an 4 cái b́nh Ứ Già đựng đầy nước thơm, 4 cái bát bằng bạc dựng đầy đồ ăn xuất sanh, 4 cái bát hoa, 4 cây cây kiếm với phướng năm màu, 

An bày như vậy xong. Ở chính giữa Mạn Noă La an ba cái Cát Ba La (3 cái bát), đem một cái Cát Ba La phí trước tụng  Đại Minh gia tŕ bảy biến để trên 3 cái Cát Ba La. Lại đốt An Tất Hương, tụng Đại Minh gia tŕ, búng ngón tay ba lần. thời Cát Ba La ấy  liền phóng ánh sáng, Hành Nhân nh́n thấy các việc như trong cái kiếng ở trên, cho đến được thấy Na Noă Thiên với các quyến thuộc cùng nói chuyện với Hành Nhân, nói sự mong cầu của Hành Nhân đều được tuỳ ư. 

Mạn Noă La như trên cho đến Pháp thành tựu của nhóm Cát Ba La. Phàm Nam Tử, Nữ Nhân đó phát Tâm mạnh mẽ bền chắc lợi lạc, làm Pháp này thảy đều thành tựu. Chỉ trừ tội Đại ngũ nghịch, hủy báng Phật Pháp, không nhớ ân đức, th́ không được thành tựu cũng chẳng được thấy nghe pháp này.

 

Lại nữa, Hành Nhân muốn vào cung A tu la với cung Rồng, nên y theo Pháp tụng Đại Minh 21 biến, đốt An Tất Hương thảy đều được vào. 

Lại nữa, đốt An Tất Hương tụng Đại Minh với dùng Bạch Giới Tử ném đánh vào đầm của Rồng (Long đàm). Lại lấy cây Khư Nễ La làm cái then (cái cọc) đóng trong đầm của Rồng,  tức liền cấm chế. Nếu muốn trở lại như cũ, nên lấy cái cọc ấy lên, đốt An Tất Hương tức được như cũ.

Nếu muốn chế phục oán trận, nên dùng sắt làm cái cọc, y theo Pháp tụng Đại Minh gia tŕ 21 biến, đốt An Tất Hương xông ướp rồi.đóng dưới gốc cây lớn, tức chế oán trận. Nếu lấy cái cọc ấy lên tức được như cũ. 

Nếu muốn giải sự nắm giữ (chấp tŕ) của các Tú Diệu, nên đốt An Tất Hương xông ướp thân người đă bị nắm giữ, tụng Đại Minh gia tŕ Bạch Giới Tử với nước, ném rảy trên thân người ấy,  tức được trừ giải.

Muốn trừ các bệnh sốt rét, nên dùng sợi dây năm màu, tụng  Đại Minh gia tŕ xong, đốt An Tất Hương xông ướp rồi buộc trên thân người bệnh th́ bệnh sốt rét liền  hết.

Nếu muốn giải thoát sự cột trói, nên tụng Đại Minh tám trăm biến thời  tất cả sự cột trói đều được giải thoát. 

Nếu muốn giải thoát gông cùm, tụng Đại Minh gia tŕ, đốt An Tất Hương xông ướp Bạch Giới Tử rồi ném đánh, liền được thoát.. 

Nếu muốn dời sấm sét, mưa đá  đi qua nơi khác, nên dùng cành Thạch Lựu 

Nếu muốn ngưng mưa, nên dùng cành  Cát Ra Vĩ Ra. 

Nếu muốn cầu lúa gạo, nên dùng bảy thứ lúa làm Hộ Ma,  tức được tuỳ ư. 

Nếu muốn cầu mưa, nên dùng Chi Ma (mè) và cánh mễ (gạo tẻ) đồng làm Hộ Ma, tức được tuôn mưa. 

Nếu muốn tịch trừ các Dạ Xoa, liền dùng vỏ trấu làm Hộ Ma. 

Nếu muốn trừ các bệnh, nên dùng dầu Chi Ma (dầu mè) làm Hộ Ma. 

Nếu muốn dời  chất độc sang chốn khác, nên dùng đuôi chim công. 

Muốn cầu an vui chỉ cần chí thành tŕ niệm, liền thường an vui.

Đại Minh như vậy khéo làm trăm ngàn Pháp thành tựu, nên y theo Pháp niệm tụng  với dùng An Tất Hương thời chỗ làm đều thành. Ở trong các Pháp thời Pháp này  rất là thù thắng. 

 

PHẬT NÓI KINH TỐI THƯỢNG BÍ MẬT NA NƠA THIÊN

_QUYỂN HẠ (Hết)_

03/09/2009

 

 

back_to_top.png

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH ]

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0