佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

Số 1075

CHUẨN ĐỀ PHẬT MẪU

Hán Dịch: Đường Thiên Trúc Tam Tạng Kim Cang Trí
Việt Dịch: Huyền Thanh dịch

I _ DANH TỰ:

Chuẩn Đề được dịch âm từ các tên Phạn là Cundì , Cunïtïi , Cunïdïhi , Kunïdïi , Cunõdhe , Cunde,  Cumïdi , Cumïdhe , ‘Suddhe ( Trong các tên Phạn này thì 2 tên thường được dùng là Cunõdhe với ‘Suddhe )  và được phiên dịch theo các ý nghĩa là Khiết Tĩnh, Thanh Tịnh, Diệu Nghĩa, Minh Giác, Hộ Trì Phật Pháp. Đây là vị Bồ Tát hay hộ mệnh và tế độ các chúng sinh khiến cho ngộ giải Phật Quả .

Theo Truyền Thuyết của Ấn Độ thì Cunïtïi hay Cunïdïhi là tên của một Apsara và có ý nghĩa là Nguồn suối nhỏ, cái giếng nhỏ, may mắn, tốt giỏi, người có tài ba lỗi lạc.

Theo Truyền Thuyết khác thì Chuẩn Đề ( Kunïdïi ) là một tên gọi của Durga ( Hóa thân của Hắc Mẫu Thiên Kàli ) với bài Chú xưng tán là:

OMÏ _ KÀLI  KULI  KUNÏDÏI _SVÀHÀ

( Quy mệnh Hắc Mẫu Thiên. Nguyện tuân theo sự tôn kính ‘Sakti mà thành tựu Pháp của Durga ).

Theo Truyền Thống Hoa Văn thì  Chuẩn Đề còn có các tên gọi khác là: Thất Câu Chi Phật Mẫu hay Thất Câu Đê Phật Mẫu ( Sapta_Kotïi  Buddha  màtrï ) , Chuẩn Đề Phật Mẫu ( Cunõdhe  Màtrï ) , Thất Câu Đê Phật Mẫu Chuẩn Đề (Sapta_Kotïi  Buddha  Màtrï  Cunõdhe ), Chuẩn Đề Bồ Tát ( Cunõdhe Bodhisatva ), Chuẩn Đề Quán Aâm hay Chuẩn Đề Quán Tự Tại ( Cunõdhe Avalokite’svara )

Hiện Đồ Thai Tạng Giới Man Đa La ghi nhận Chuẩn Đề là một trong 3 vị Phật Mẫu thuộc Biến Tri Viện với Tôn Tượng màu vàng lợt, mặc áo lụa mỏng như Thiên Y , đầu đội mão báu có ngọc lưu ly rũ treo, mặt có 3 mắt, ngồi trên tòa sen, toàn thân có 18 tay, mỗi tay có đeo vòng xuyến khảm Xà Cừ và mỗi tay đều cầm các loại khí cụ biểu thị cho các Tam Muội Gia ( Bản Thệ_ Samaya ). Trong Viện này thì Chuẩn Đề biểu thị cho sự thanh tĩnh vô nhiễm cấu là đặc tính của Liên Hoa Bộ ( Padma Kulàya ) nên Chuẩn Để được xem là Mẫu ( Màtrï ) của Liên Hoa Bộ trong Phật Bộ ( Buddha Kulàya ) nghĩa là từ Tôn này sinh ra các Tôn trong Liên Hoa Bộ.

Trong Kim Cương Giới Man Đa La thì  Chuẩn Đề được nhận biết dưới danh hiệu Kim Cương Hộ Bồ Tát ( Ràksïa Bodhisatva ) là một trong 4 vị Bồ Tát thân cận của Đức Phật Bất Không Thành Tựu ( Amoghasiddhi Buddha ) [ tức là Đức Phật Thích Ca ( ‘Sàkyamunïi Buddha ) ] ở phương Bắc. Tôn này được sinh từ Môn Giáp Trụ Đại Từ của tất cả Như Lai vì thế Chuẩn Đề được dịch ý là Hộ Trì Phật Pháp và là vị Bồ Tát thường đi lại trong Thế Gian để đập nát các Hoặc Nghiệp của tất cả chúng sinh, khiến cho kẻ đoản mệnh được thọ mệnh lâu dài, tăng tiến Phước Tuệ , đời đời xa lìa nẻo ác, mau chóng phát Tâm Bồ Đề ( Bodhicitta ) và viên mãn mọi ước nguyện. Ý nghĩa này thường được đại chúng nhận biết nhiều qua các công năng của Thần Chú Chuẩn Đề ghi trong các Kinh Quỹ.

Dựa trên hai truyền thống này mà các Dòng Phái Mật Giáo đã có sự nhận định khác nhau về Bồ Tát Chuẩn Đề.

_ Chuẩn đề thuộc Quán Âm Bộ ( hay Liên Hoa Bộ )

Căn cứ và chủng tử BU (            ) nghĩa là “ Ngộ Giải chẳng thể đắc”: của Bồ Tát Chuẩn Đề trong Biến Tri Viện và Quán Tự Tại Bồ Tát ( Avalokite’svara Bodhisatva ) ở cánh hoa Đông Bắc trong Trung Đài Bát Diệp Viện cũng có chủng tử là BU  , đồng thời cả 2 Tôn này đều biểu thị cho Tâm Tính thanh tịnh nên người đời hợp xưng thành danh hiệu Chuẩn Đề Quán Aâm và hồng danh này biểu thị cho Hạnh Nguyện của Tâm Bồ Đề với Đức Tự Chứng.

Dựa trên ý nghĩa này nên Hệ Đông Mật của Nhật Bản đem Chuẩn Đề làm một Tôn trong 6 vị Quán Aâm và nhiếp vào trong 6 vị Quan Aâm của Liên Hoa Bộ. 6 vị Quán Aâm này chia vào 6 nẻo tác thân ứng hóa để tế độ các chúng sinh.

Theo Ma Ha Chỉ Quán thì  6 vị Quán Aâm với hình sắs, danh hiệu như sau đều hiển tướng Từ Bi cứu độ chúng sinh trong 6 nẻo , gồm có :

1 ) Đại Từ Quán Aâm là Biến Thân của Chính Quán Aâm có chủng tử là JAHÏ (            ) cứu Địa Ngục Đạo , Thân màu xanh, tay trái cầm hoa sen xanh, tay phải Thí Vô Úy .

Kết Đại Tam Cổ Ấn , dùng Bản Chú.

2 ) Đại Bi Quán Aâm là Biến Thân của Thiên Thủ Quán Aâm có chủng tử là HRÌHÏ (            ) Cứu Ngạ Quỷ Đạo. Thân màu vàng ròng , 6 mặt có tướng Từ Bi. Tay trái cầm hoa sen hồng, tay phải Thí Vô Úy.

Kết Liên Hoa Hợp Chưởng, tụng Chú là:

OMÏ _ VAJRA  DHARMA _ HRÌHÏ

3 ) Sư Tử Vô Úy Quán Aâm là Biến Thân của Mã Đầu Quán Aâm có chủng tử là KHÌ (            ) hoặc  HÙMÏ (            ) cứu Súc Sinh Đạo. Thân màu xanh, tay phải cầm hoa sen trên hoa có Phạn Khiếp , tay trái Thí Vô Úy.

Kết Phạn Khiếp Ấn, tụng Chú là:

OMÏ _ VAJRA  KHÌ _ SVÀHÀ

4 ) Đại Quang Phổ Chiếu Quán Aâm là Biến Thân của Thập Nhất Diện Quán Aâm có chủng tử là KA (            ) cứu A Tu La Đạo. Thân màu thịt. Tay phải cầm hoa sen hồng trên hoa có bình hoa, miệng bình dứng báu Độc Cổ. Tay trái Thí Vô Úy.

Kết Bất Động Ấn, tụng Chú là:

OMÏ _ MAHÀ  PRABHA _ SVÀHÀ

5 ) Thiên Nhân Trượng Phu Quán Aâm là Biến Thân của Chuẩn Đề Phật Mẫu có chủng tử là SU (            ) cứu Nhân Đạo.

Hợp 2 ngón út, 2 ngón vô danh cài chéo nhau bên trong. Dựng 2 ngón giữa , đem 2 ngón trỏ phụ lưng ngón giữa, đem 2 ngón cái phụ bên cạnh 2 ngón trỏ. Tụng Chú là:

OMÏ _ SURE  SURE  SUNÏE _ SVÀHÀ

6 ) Đại Phạm Tấn Tốc Quán Aâm là Biến Thân của Như Ý Luân Quán Aâm có chủng tử là HRÌHÏ (            ) cứu Thiên Đạo. Thân màu trắng. Tay trái cầm hoa sen, trên hoa dựng chày Tam Cổ. Tay phải Thí Vô Úy

Kết Đại Tam Cổ Ấn, ngón trỏ như hình báu. Tụng Chú là:

OMÏ _ HRÌHÏ  MAHÀ  PRA _ SVÀHÀ

. ) Thắng Quân Bất Động Quỹ ghi :” Trùy Chung Ca Thái La Vương là thân sở biến của Chuẩn Đề Quán Aâm”

. ) Quỹ ghi :” Tu Pháp Chuẩn Đề đều thấy tượng của Quán Tự Tại”

. ) Tiểu Dã Sao ghi:” Thiên Nhân Trượng Phu là Chuẩn Đề Phật Mẫu cứu độ Nhân Gian”

. ) Khuyến Tu Tự Sao ghi:’ Chuẩn Đề là Quán Aâm”

. ) Thạch Sơn ghi:” Chuẩn Đề Quán Tự Tại Bồ Tát”

. ) Thiền Tông cũng dùng Chuẩn Đề là một Tôn trong Quán Aâm Bộ

Lại nữa Chuẩn Đề dịch là Thanh Tịnh tức Thanh Tĩnh Quán Aâm , Vì Bất Không Quyến Sách Quán Aâm cũng có tên là Thanh Tịnh và cũng là một Hóa Tôn cứu độ tất cả chúng sinh trong Nhân Đạo nên Chuẩn Đề chính là Bất Không Quyến Sách .

Do nhận định Chuẩn Đề là một Tôn trong Quán Aâm Bộ nên các hệ phái này đều dùng Kết Giới Minh Vương là Mã Đầu hoặc Quân Trà Lợi.

_Chuẩn Đề thuộc Phật Bộ

Theo Hiện Đồ Thai Tạng Giới Man Đa La thì Chuẫn Đề là một Tôn trong Biến Tri Viện biểu thị cho đức Năng Sinh của chư Phật  và từ Tôn này sinh ra các Tôn của Liên Hoa Bộ. Lại nữa Chuẩn Đề còn biểu thị cho Tâm Tính Thanh Tĩnh là khuôn mẫu để sinh ra các Phật Tử ( Buddhaputra ) nên Chuẩn Đề được tôn xưng là Phật Mẫu ( Buddha Màtrï ). Do Biến Tri Viện là một Viện trong Phật Bộ thuộc Thai Tạng Giới nên Chuẩn Đề phải là một Tôn trong Phật Bộ.

Cao Huệ nói:” Chuẩn Đề là Hộ Bồ Tát, một trong 4 Bồ Tát thân cận của Đức Bất Không Thành Tựu Như Lai mà Bất không Thành Tựu Như Lai lại là Đức Phật Thích Ca. Do đó Chuẩn Đề là một Hóa Thân của Đức Phật Thích Ca”

Khẩu nói:” Bất Động là Hóa Thân của Thích Ca Mâu Ni mà Thắng Quân Bất Động Quỹ ghi: Hiện Thân thứ năm trong 8 loại thân là thân sở biến của Chuẩn Đề. Do đó Chuẩn Đề là hóa thân của Đức Phật Thích Ca”

Khẩu nói:” Tu Pháp Chuẩn Đề thì dùng Ô Sô Sa Ma ( Ucchusïma ) làm Kết Giới Minh Vương mà Ô Sô Sa Ma là thân sở biến của 2 Tôn Thích Ca và Bất Động. Do đó Chuẩn Đề là một hóa Thân của Thích Ca”.

Quỹ ghi :” Dùng Ô Sô Sa Ma hay Vô Năng Thắng làm Kết Giới Kim Cương” vì Ô Sô Sa Ma và Vô Năng Thắng (Aparajita ) đều là thân sở hóa của Thích Ca nên Chuẩn Đề phải là Hóa Thân của Thích Ca

Bạch Bảo Khẩu Sao ghi nhận:” Chuẩn Đề là hoá thân của Thích Ca biểu thị cho Đức Thuyết Pháp

Hệ Thai Mật của Nhật Bản đem Chuẩn Đề nhập vào Phật Bộ, dùng làm một Tôn trong Phật Bộ.

Do nhận định Chuẩn Đề là một Tôn trong Phật Bộ nên các Hệ Phái  này thường dùng Ô Sô Sa Ma hay Vô Năng Thắng làm Kết Giới Minh Vương.

II_ TRÚ XỨ:

Chuẩn Đề Phật Mẫu cư ngụ tại Trời Sắc Cứu Cánh.

III _ TÔN TƯỢNG:

Tôn Tượng Chuẩn Đề có nhiều dạng: 4 tay, 6 tay, 14 tay, 18 tay… nhưng thông thường người ta hay thờ phụng Tượng 18 tay.

Tượng Chuẩn Đề Quán Aâm của Trung Hoa : Tượng có 4 cánh tay, trên đỉnh đội Định Ấn là một vị Hóa Phật. Bên trái : Tay thứ nhất để trước eo, tay thứ hai cầm Bảo Châu ( Viên ngọc báu ). Bên phải: Tay thứ nhất cầm chày Độc Cổ, tay thứ hai nâng cao lên đem ngón cái và ngón vô danh cùng vịn nhau, Nhũ phòng ( hai vú ) sung mãn lộ xuất biểu thị cho tướng Phật Mẫu.

Tượng Chuẩn Đề Quán Aâm của Tây Tạng: Tượng có 4 tay, ngồi Kiết Già trên hoa sen. Hai tay trái phải thứ nhất đặt ở trên rốn cầm Bình Bát. Tay phải thứ hai rũ xuống tác Thí Vô Uý Ấn, tay trái thứ hai co ở trước ngực cầm hoa sen trên hoa an trí một rương Kinh Phạn.

Tôn Tượng Chuẩn Đề Phật Mẫu 18 tay được ghi nhận rất rõ trong Kinh Quỹ.Nay dựa vào Bạch Bảo Khẩu Sao  ghi nhận lại sự minh họa ý nghĩa của Tôn Tượng này .

Tượng có thân màu vàng trắng: Màu vàng ( A ) tượng trưng cho Thai Tạng Giới, màu trắng ( VAMÏ ) tượng trương cho Kim Cương Giới. Màu vàng trắng biểu thị cho nghĩa “ Lý Trí chẳng hai, Định Tuệ một Thể” và biểu thị cho Đức Năng Sinh của chư Phật.

Mặt Tượng có 3 mắt: 3 mắt là Phật Nhãn, Pháp Nhãn, Tuệ Nhãn biểu thị cho nghĩa “ 3 Đế chẳng dọc chẳng ngang, nhất như bình đẳng

Thân Tượng có mọi loại trang nghiêm tỏa ánh hào quang tròn sáng rực lửa: Sắc Pháp biểu thị cho nghĩa của Thai Tạng Giới. Mọi loại biều thị cho các Pháp như cát bụi. Trang Nghiêm biểu thị cho nghĩa Bồ Tát dùng phiền não làm Bồ Đề.Ánh hào quang tròn sáng rực lửa biểu thị cho nghĩa Tâm Pháp của Kim Cương Giới, là Trí hay phá mọi ám chướng của Tâm hư vọng.

Thân Tượng có 18 tay:

Hai tay bên trên tác Tướng Thuyết Pháp: Tôn này vào Nhân Đạo hay làm vị Hóa Chủ phá 3 Chướng nên đặt biệt hiện ra 3 mắt Trí nói Pháp lợi sinh nên y theo giáo vì Pháp Cơ khiến cho chứng quả vị của 3 Thân

Bên Phải:

Tay thứ hai tác Thí Vô Úy: 5 ngón tay bên phải biểu thị cho 5 Trí là nghĩa của Quang Minh. Tôn này là Hóa Chủ của Nhân Đạo nên ở Thế Giới Sa Bà có hiệu là Thí Vô Úy ( Abhayamïdada ) . Do hiển nghĩa Đại Bi chân thật sạu rộng nên hiện tay này.

Tay thứ ba cầm cây Kiếm: Cây Kiếm biểu thị cho Trí Tuệ giáng 4 Ma , trừ 3 Chướng, hại 3 Độc , dứt 5 Dục.

Tay thứ tư cầm Sổ Châu ( Tràng Hạt ) : Tràng Hạt biểu thị cho Trí Tuệ mang nghĩa Chuyển Pháp Luân. Mẫu Châu là Bản Tôn A Di Đà. Manh mối của tràng hạt là Quán Aâm, đây là manh mối Đại Bi của Quán Aâm xâu suốt 108 phiền nảo. Mỗi lần chuyển dời một hạt ắt dứt bỏ một phiền não, nên đoạn 108 phiền não chứng 108 Tam Muội, mỗi mỗi đều đủ cho Pháp,  như Đức Thần Lực chẳng thể nghĩ bàn,mỗi mỗi đều đủ vô lượng Bản Thệ Tam Muội của thân khẩu ý.

Tay thứ năm cầm quả Vĩ  Nhạ Bố La Ca ( Bìjapùraka): Bìja là hạt, Pùraka là tràn đầy nên Bìjapùraka được dịch là Tử Mãn Quả, quả này chí có ở Thiên Trúc.Quả này biểu thị cho hạt giống mãn vạn hạnh vạn thiện, hiển nghĩa công đức viên mãn của Phật Quả.

Tay thứ sáu cầm cây búa (Phủ Việt ): Cây búa phá tất cả, không có gì không tồi phá được là tồi phá nạn Vô Minh, cắt đứt Hoặc Chướng biểu thị không dư sót.

Tay thứ bảy cầm móc câu: Móc câu ( Anõku’sa ) có nghĩa là vua, 4 biển đều triều tôn nhà vua nên vạn đức đều quy vào Tôn này, nghĩa là vua của các Tôn nên gọi là Phật Mẫu. Sở Thuyên Câu Triệu tất cả chúng sinh khác vào cung Pháp Giới Nội Chứng vốn có là có triệu vào Như Lai Tịch Tĩnh Trí Đức. Do vậy hiện tay cầm móc câu.

Tay thứ tám cầm Bạt Chiết La ( Vajra ) : Đường gọi Độc Cổ Xử là chày Kim Cương, Tam Cổ Xử  là Bạt Chiết La ( Vajra ). Tam Cổ Xử hay tồi diệt 3 Độc hiển chư Tôn của 3 Bộ nên là Phật Mẫu của 3 Bộ.

Tay thứ chín cầm vòng hoa báu ( Bảo Man) : Hoa Man xâu suốt hoa lá biểu thị cho nghĩa Vạn Đức Trang Nghiêm, là công đức của Bình Đẳng Tính Trí.

Bên trái:

Tay thứ hai cầm cây phướng báu Như  Ý: Phướng báu Như Ý là phướng báu của Tâm Bồ Đề ( Bodhicitta ) có địa vị cao tột. Đối với chúng sinh không có Phước Tuệ , bần cùng thì ban cho Nguyện Thế Xuất Thế. Viên ngọc báu ( Bảo châu ) là gốc rễ của mọi thiện, đáy nguồn của vạn hạnh.

Tay thứ ba cầm hoa sen hồng: Hoa sen hồng  tên Phạn là Padma.

Hoa sen là tự tính thanh tĩnh biểu thị cho nghĩa Tự Tính Thanh tĩnh của tất cả các Pháp. Là Pháp tĩnh 3 Độc , 5 Dục, tất cả tội của Nhân Gian.

Màu hồng biểu thị cho màu sắc khả ái ( đáng yêu )

Tôn này vào Nhân Đạo làm vị Hóa Chủ nên đặc biệt dùng hoa sen hồng biểu thị cho Đức này

Tay thứ tư cầm bình Táo Quán: Cái Bình mang nghĩa chứa đầy tất cả vật. Phật Mẫu Tôn sinh ra các Tôn trong 3 Bộ là Đức chứa đầy. Do vậy hiện thị tay cầm bình Táo Quán.

Tay thứ năm cầm sợi dây: Sợi dây biểu thị cho nghĩa giáng phục Ác Ma. Các Tôn Phẫn Nộ ( Krodha Nàtha ) hay cầm sợi dây. Tôn này trói buộc kẻ khó phục khiến cho khuynh động dẫn vào cung Pháp Giới vốn có. Trong 4 Nhiếp Phương Tiện thì đây là phương tiện Đại Bi cực vị vậy.

Tay thứ sáu cầm bánh xe: Bánh Xe ( Luân_ Cakra ) nghĩa là chuyển hoặc tồi phá, biểu thị cho sự lưu chuyển sinh tử trong 25 Hữu. Khi luân chuyển đã diệt thì bánh xe dừng lại vậy.

Tay thứ bảy cầm loa : Loa là vỏ ốc ( ‘Sanõkha ) mang nghĩa nói tịch tĩnh như Pháp. Lại biểu thị cho tiếng rống của sư tử, khi sư tử rống thì muôn thú trong sơn dã đều bị giáng phục. Nay dùng tiếng vang lớn của loa khiến giáng phục loại phiền não hoặc chướng của chúng sinh.

Tay thứ tám cầm Hiền Bình: Hiền Bình là Tam Muội Gia ( Samaya ) biểu thị sự chứa đầy 4 Trí Cam Lộ ban cho chúng sinh đều khiến mở Hoa Giác vốn có.

Tay thứ chín cầm rương Kinh Bát Nhã : Rương Kinh Bát Nhã biểu thị cho Thể của Trí Tuệ. 10 phương 3 đời Phật Bồ Tát đều y theo Bát Nhã này thành Chính Giác. Do Tôn này là Phật Mẫu của chư Phật nên cầm rương Kinh Bát Nhã.

Để giúp cho Đồ Chúng dễ ghi nhớ Tôn Tượng 18 tay của Chuẩn Đề Phật Mẫu, các vị Đạo Sư Trung Hoa đã biên soạn bài tán Chuẩn Đề Phật Mẫu là:

Khuôn mặt Bồ Tát như trăng đầy

Sắc tướng trắng vàng rất đoan nghiêm

Nay con đỉnh lễ , thệ quy y

Nguyện thấy Tôn nhan thường cúng dường

NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT

 

Trên mặt Bồ Tát có ba mắt

Như bốn biển lớn thật lặng trong

Nay con đỉnh lễ, thệ quy y

Nguyện được năm loại mắt thanh tịnh

NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT

 

Tai Bồ Tát đeo báu trang sức

Mọi thứ thù thắng rất trang nghiêm

Nay con đỉnh lễ, thệ quy y

Nguyện được Nhĩ Thông , nghe Diệu Pháp

NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT

 

Lồng ngực Bồ Tát hiện chữ Vạn

Như trăng tròn diệu hiển quang minh

Nay con đỉnh lễ , thệ quy y

Nguyện được Tâm Thông, nghe liễu ngộ

NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT

 

Bồ Tát đội mão hoa trên đỉnh

Trong mão hóa hiện năm Như Lai

Nay con đỉnh lễ, thệ quy y

Nguyện được Từ Tôn ban quán đỉnh

NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT

 

Bồ Tát khoác áo màu trắng tinh

Sáu Thù đeo thể thật trang nghiêm

Nay con đỉnh lễ, thệ quy y

Nguyện được quần áo khéo giải thoát

NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT

 

Thân Bồ Tát đeo Châu Anh Lạc

Tay, ngón đeo vòng báu trang nghiêm

Nay con đỉnh lễ, thệ quy y

Nguyện đủ băm hai ( 32 ) tướng Như Lai

NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT

 

Bồ Tát  ngồi thẳng trên hoa sen

Lớn cao chẳng động tựa núi vàng

Nay con đỉnh lễ, thệ quy y

Nguyện sau sẽ ngồi tòa Bồ Đề

NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT

 

Mọi chi phần trên thân Bồ Tát

Thường phóng vô lượng ánh sáng lớn

Nay con đỉnh lễ, thệ quy y

Nguyện được Từ Quang đến hộ niệm

NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT

 

Tay Bồ Tát kết Ấn Thuyết Pháp

Biểu thị khéo nói tất cả Pháp

Nay con đỉnh lễ , thệ quy y

Nguyện được các Pháp đều thông đạt

NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT

 

Tay Bồ Tát cầm Phướng báu diệu

Biểu thị Thế Gian là Tối Thắng

Nay con đỉnh lễ , thệ quy y

Nguyện con hay dựng Phướng Đại Pháp

NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT

 

Bồ Tát kết Ấn Thí Vô Úy

Dìu dắt chúng sinh bị hiểm nạn

Nay con đỉnh lễ, thệ quy y

Nguyện con mau lìa sự đáng sợ

NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT

 

Tay Bồ Tát cầm hoa sen diệu

Biểu thị sáu căn thường thanh tịnh

Nay con đỉnh lễ, thệ quy y

Nguyện con lìa dơ ( ly cấu ) như hoa sen

NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT

 

Tay Bồ Tát cầm kiếm Trí Tuệ

Hay chặt trói buộc của phiền não

Nay con đỉnh lễ, thệ quy y

Nguyện con chặt đứt Tham, Sân, Si

NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT

 

Tay bồ Tát cầm bình Táo Quán ( rưới vảy )

Tuôn nước Cam Lộ thấm chúng sinh

Nay con đỉnh lễ, thệ quy y

Nguyện con thường được Phật quán đỉnh

NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT

 

Bồ Tát cầm tràng hoa màu nhiệm

Mọi thứ trang điểm thật thù thắng

Nay con đỉnh lễ , thệ quy y

Nguyện con được buộc lụa Diệu Pháp

NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT

 

Bồ Tát cầm sợi dây Kim Cương

Khéo hay dẫn nhập vào tất cả

Nay con đỉnh lễ, thệ quy y

Nguyện con được vào Pháp tương ứng

NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT

 

Tay Bồ Tát cầm quả Thiên Diệu

Biểu thị viên thành quả Bồ Đề

Nay con đỉnh lễ, thệ quy y

Nguyện con rộng tu các quả lành

NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT

 

Bồ Tát cầm bánh xe tám căm

Uy quang chiếu diệu khắm Tam Giới ( 3 cõi )

Nay con đỉnh lễ, thệ quy y

Nguyện con thường chuyển Đại Pháp Luân

NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT

 

 

Tay Bồ Tát cầm cây búa lớn

Hay phá Pháp Bất Thiện bền chắc

Nay con đỉnh lễ, thệ quy y

Nguyện con đập nát núi Nhân Ngã ( Người và Ta )

NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT

 

Tay Bồ Tát cầm Loa Đại Pháp

Âm thanh chấn động ba ngàn cõi

Nay con đỉnh lễ, thệ quy y

Nguyện con hay nói tất cả Pháp

NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT

 

Bồ Tát cầm móc câu Kim Cương

Khéo hay câu triệu khắp tất cả

Nay con đỉnh lễ, thệ quy y

Nguyện con thành tựu Pháp Câu Triệu

NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT

 

Tay Bồ Tát cầm Bình Như Ý

Tuôn ra Tạng báu với Kinh Điển

Nay con đỉnh lễ, thệ quy y

Nguyện con thọ dụng thường như ý

NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT

 

Tay Bồ Tát cầm chày Kim Cương

Tám Bộ Trời Rồng đều quy ngưỡng

Nay con đỉnh lễ, thệ quy y

Nguyện con điều phục kẻ khó phục

NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT

 

Tay Bồ Tát cầm Kinh Bát Nhã

Hàm chứa nghĩa vi diệu thâm sâu

Nay con đỉnh lễ, thệ quy y

Nguyện con không Thầy tự nhiên ngộ

NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT

 

Bồ Tát cầm viên ngọc Ma Ni

Hào quang tròn trắng không tỳ vết

Nay con đỉnh lễ , thệ quy y

Nguyện Tâm Địa con luôn lanh lợi

NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT

 

Phật Mẫu Chuẩn Đề Đại Bồ Tát

Hiện mười tám tay ngồi trên Đàn

Tám Đại Bồ Tát hộ tám phương

Đệ Tử một lòng quy mệnh lễ

NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ  ĐẠI BỒ TÁT

IV- CHÂN NGÔN:

Theo truyền thống Hoa Văn thì Chuẩn Đề có Mật hiệu là Tối Thắng Kim Cương ( Vijaya Vajra ) hay Kim Cương Mẫu ( Vajra Màtrï )

Chủng tử là : BU (            ) hay  SA (            ) hay  CA (            )

Tam Muội Gia hình là : Hiền Bình, Hoa sen, Giáp trụ, chày Tam Cổ, chày Ngũ Cổ.

Phạn Hiệu là ÀRYA  BUDDHÀ  BHAGAVATI ( Thánh Phật Thế Tôn ) hay ÀRYA  BUDDHÀ  BHAGAVATI  BODHISATVA ( Thánh Phật Thế Tôn Bồ Tát )

Tam Mật Phòng ghi là: NAMO  ÀRYA  ‘SUDDHA  BODHISATVA  MAHÀ  SATVA ( Kính lễ Thánh Thanh Tịnh Bồ Tát Ma Ha Tát )

Tâm Chú của Chuẩn Đề được ghi nhận qua nhiều bản khác nhau:

_ Hiển Mật Viên Thông ghi là:

OMÏ _ CALE  CULE  CUMÏDE _ SVÀHÀ

_ Thắng Định Phòng ghi là:

OMÏ _ ‘SALE  ‘SULE  ‘SUDDHE _ SVÀHÀ

_ Thất Câu Chi Viện ghi là:

OMÏ_ ‘SALE  ‘SUDDHE _ SVÀHÀ

_ Pháp Tự Luân Quán ghi là;

OMÏ _ CARE  SURE  ‘SUDE _ SVÀHÀ

_ Bạch Bảo Khẩu Sao ghi là:

OMÏ_ ‘SALE  ‘SULE  ‘SUNTE _ SVÀHÀ

_ Tự Luân Quán ghi là:

OMÏ _ CALE  SULE  ‘SUDDHA _ SVÀHÀ

_ Đồ Tượng 10 ghi nhận là:

OMÏ _ ‘SALE  ‘SULE  CUMÏDE _ SVÀHÀ

Hay OMÏ_ CALE  SURE  ‘SUNDHE _ SVÀHÀ

_ Bản thường dùng ghi là;

OMÏ _ CALE  CULE  CUNÕDHE _ SVÀHÀ

_ Bản khác ghi là:

OMÏ_ ‘SARI  ‘SÙRI  ‘SUDDHE _ SVÀHÀ

Nay theo sự khảo cứu của chúng tôi thì chỉ có 3 bài Chú biểu thị rõ nghĩa của Phạn Văn là:

1 ) OMÏ : Cảnh Giác

‘SARI : Thú tính hoang dã, người hung bạo, loài thú hoang

‘SÙRI : Biến đổi trở thành anh hùng

‘SUDDHE : Thanh tịnh

SVÀHÀ : Quyết định thành tựu.

 

2 ) OMÏ : Nhiếp triệu

‘SALE : Cây thương , cây giáo

‘SÙLE: Tay cầm cây thương, quyền lực với cây thương

‘SUDDHE : Thanh tịnh

SVÀHÀ : Quyết định thành tựu

3 ) OMÏ : 3 Thân quy mệnh

CALE : lay động. Nghĩa bóng là Giác động tức là chuyển động sự Giác Ngộ.

CULE : Nghi thức cạo tóc Quy Y, đỉnh cao của căn nhà, trung tâm của sao chổi. Nghĩa bóng là Trực  khởi  tức là đi thẳng đến

CUNÕDHE ( hay CUNÏDÏHI ) là nguồn suối nhỏ, cái giếng nhỏ, nguồn hạnh phúc.Nghĩa bóng là Tự Tính thanh tĩnh của Tâm Bồ Đề.

SVÀHÀ : Quyết định thành tựu, hay thành tựu tự tính an lạc của Đại Niết Bàn.

Nếu dựa theo nghĩa đen thì bài Chú trên hàm chứa nhiều ý nghĩa thô tục nên một số Học Giả đã loại bỏ câu Chú này và thay bằng câu Chú thứ hai bên trên (Nhật Bản thường dùng câu Chú thứ hai ) . Tuy nhiên dựa theo thói quen tu tập và nghĩa bóng thì người ta thường dùng câu Chú thứ ba này với ý nghĩa là:

“ Khi thân khẩu ý hợp nhất với sự giác ngộ Phật Tính sẽ đi thẳng vào Tự Tính Thanh Tĩnh của Tâm Bồ Đề và thọ nhận mùi vị an lạc tịch tĩnh của Đại Niết Bàn”

CÔNG NĂNG CỦA THẦN CHÚ CHUẨN ĐỀ:

Công Năng của Thần Chú Chuẩn Đề được ghi nhận rất nhiều trong các Kinh Quỹ. Nay chúng tôi chỉ ghi nhận thêm một số công năng mà Kinh Quỹ ghi thiếu như sau:

_ Trừ Khẩu Thiệt: Đoạn 5 Tân, đủ Trai Giới, trong 14 ngày vào Đạo Trường này liền tăng lộc ép buộc oan gia tai hoạnh vì khẩu thiệt. Mỗi đêm 3 thời hướng về Bản Tôn tụng Chân Ngôn 108 biến, cứ một biến thì xưng tên gọi của kẻ ấy một lần liền giải oán kết, thân như cha mẹ.

Trừ Khẩu Thiệt Lợi Quan Trị Tất Trúng Chú là:

“ Phu phu, túc bà túc bà, a kính bà a kính bà, cứu tra cứu tra, sa ha”

BHUHÏ  BHUHÏ_ ‘SUBHA  ‘SUBHA _ AKAMÏPA  AKAMÏPA _ KUTÏA  KUTÏA _ SVÀHÀ

_ Cầu Thông Minh: Nếu muốn cầu thông minh. Lấy Thạch Xương Bồ, Ngưu Hoàng mỗi thứ nửa lạng, đảo quết  làm bụi nhỏ rồi hòa với bơ. Ở trước Phật làm Man Trà La, niệm tụng 5000 biến rồi uống vào liền được thông minh.

Thông Minh Chú là:

“ Mỵ đế mỵ đế, ưu đế ưu đế, ưu đà đế , sa ha”

MITI  MITI_ UTTI  UTTI _ UDÀTTI _ SVÀHÀ

_ Thấy cha mẹ đã chết và diên mệnh: Nếu muốn thấy cha mẹ đã quá vãng với nam nữ đã quá vãng kèm biết nơi thọ sinh. Trong 14 ngày y theo Pháp niệm tụng đều được thấy biết.

Lại Quỹ ghi rằng: Cha mẹ gặp Pháp này, được vào Quán Đỉnh hay khiến cho con cháu đều cùng được phước. Nếu nam nữ được vào Quán Đỉnh hay khiến cho cha mẹ sống lâu tăng phước, vĩnh viễn không có tai nạn, mong cầu vừ ý.

_ Cầu mưa: Nếu có đại hạn. Vào giữa đêm đốt An Tất Hương , kết Ấn rồi Sắc cho Rồng ở 5 phương mau khiến tuôn mưa. Nếu 21 ngày mà chưa tuôn mưa, liền lấy Trầm Thủy Hương khắc 5 vị Rồng dài 9 thốn, tùy phương vẽ 5 màu đều an trên Đàn. 7 ngày y theo Pháp niệm tụng liền được tuôn mưa. Nếu muốn tạnh mưa liền ngửa mặt hướng lên Trời tụng Đà La Ni 81 biến tức tạnh mưa.

_ Hiện Thanh Y Đồng Tử phụng sự: Mỗi ngày đêm 6 thời tụng Đà La Ni này 1080 biến. Trải qua 49 ngày như Niệm Tụng này tức Thanh Y Đồng Tử sẽ hiện thân phụng sự người niệm tụng. Hai Đồng Tử ấy đều tự có Sứ Giả ( 7 người ) . Đồng Tử bên trái biết việc sinh sống, thiện ác, cát hung của Nhân Gian. Vị Đồng Tử bên phải biết việc thiện ác trong Minh Đạo ( Cõi Aâm ) . Muốn biết việc Quan Lộc, tuổi thọ, cát hung của người liền Sắc cho Đồng Tử bên phải khiến nơi Minh Đạo sao chép Tính ( Họ Tên )  sắc cho Tư Mệnh với Diêm La mau chóng báo . Mỗi lần Sắc thời kết Ấn tụng Đà La Ni 7 biến liền ở trong cõi Aâm biết đủ thiện ác. Vị Đồng Tử bên phải ấy tự hiện thân có thể hỏi gốc rễ.

Thầy nói: Nếu có thể 49 ngày như 6 thời này niệm niệm xong. Sau đó tụng thêm 108 biến, cũng chẳng khác biến số. Hai vị Đồng Tử ấy hỏi lấy Danh Tự, cần sai khiến liền sai khiến.

V_ ẤN KHẾ :

Ấn Khế của Chuẩn Đề có rất nhiều. Nay chi ghi nhận 2 Ấn với ý nghĩa cơ bản của Ấn Khế.

Đệ Nhất Căn Bản Ấn: Hai Luân Địa , hai Luân Thủy cài nhau đặt trong lòng bàn tay. Hai Luân Hỏa dựng đứng thẳng cùng vịn nhau. Hơi co hai Luân Phong vịn trên lóng thứ nhất trên lưng hai Luân Hỏa. Hai luân Không đặt bên cạnh hai Luân Phong

Ấn này gọi là Tam Cổ Ấn, Tam Năng Sinh Phật Mẫu Ấn tức là Phật Đỉnh Ấn biểu thị cho nghĩa của Phật Mẫu.Trong đó:

Hai Luân Địa ( 2 ngón út ) cài bên trong biểu thị cho Thành Sở Tác Trí, làm nghiệp Đức bên trong là Phật Đỉnh Ấn nên tác nghiệp chẳng lộ ra ngoài.

Hai Luân Thủy ( 2 ngón vô danh) cài bên trong biểu thị cho Diệu Quan Sát Trí là Đức Thuyết Pháp Đoạn Nghi nên thường ở bên trong

Hai Luân Hỏa ( 2 ngón giữa ) là Pháp Thể của Pháp Nhĩ căn bản

Hai Luân Phong ( 2 ngón trỏ ) là Giới Tuệ của Tu Sinh Thủy Giác, thường hay khai mở nghĩa Tâm Bồ Đề của chúng sinh

Hai Luân Không ( 2 ngón cái ) là nghĩa Nhất Đức Thành Tựu của Pháp Giới Thể Tính Trí

Kết Ấn này , tụng Chân Ngôn:

NAMO  SAPTÀNÀMÏ  SAMYAKSAMÏBUDDHA  KOTÏINÀMÏ

OMÏ_ CALE  CULE  CUNÕDHE _ SVÀHÀ

Đệ Nhị Căn Bản Ấn: Hai tay hướng ra ngoài cài chéo nhau, kèm dựng 2 ngón trỏ, 2 ngón cái liền thành

Ấn này thường dùng để Hộ Thân. Khi kết Ấn Hộ Thân thì khởi Tâm Đại Bi duyên khắp 4 loài sinh trong 6 nẻo. Nguyện cho tất cả Hữu Tình đều mặc áo giáp Kim Cương bền chắc trang nghiêm Đại Thệ mau chứng Vô Thượng Chính Đẳng Bồ Đề.

Kết Ấn này, tụng Chân Ngôn là:

OMÏ _ KAMALE  VIMALE  CUNÕDHE _ SVÀHÀ

Ý nghĩa của tay Ấn này là:

6 ngón ( 2 ngón út, 2 ngón vô danh, 2 ngón giữa ) cùng cột buộc nhau biểu thị cho sự ràng buộc sinh tử trong 6 nẻo

2 ngón trỏ chỉ cho Thể ngưng nghỉ của Mệnh mà chúng sinh cột buộc trong Tả Đạo đã trở thành mệnh ngắn ngủi vô thường. Do Phật Giới thuận Hữu Đạo nên Tuệ Mệnh thường trụ bất biến. Như vậy 2 ngón trỏ hợp nhau biểu thị cho sự hòa dung của Phật Giới và Sinh Giới khiến cho chúng sinh đoản mệnh được hòa hợp với Tuệ Mệnh thường trụ của Phật Giới.

2 ngón cái hợp dựng biểu thị cho sự Quy Pháp Giới Đại Không.

Riêng Ấn này tập Giáp Trụ Ấn. Do Tôn này là sở biến của Bắc Phương Hộ Bồ Tát , mặc giáp trụ Kim Cương bền chắc hộ Phật, hộ mệnh cho chúng sinh. Bên trong tồi phá phiền não của nẻo ác, bên ngoài giáng phục 3 chướng nạn của Ma. Duyên khắp 4 loài trong 6 nẻo thành tựu diên mệnh cho Hữu Tình. Nếu cầu Diên Mệnh Tất Địa thời quán nghĩa lý này.

VI_Ý NGHĨA PHÁP VẼ TƯỢNG CHUẨN ĐỀ PHẬT MẪU:

Thất Câu Đê Phật Mẫu Sở Thuyết Chuẩn Đề Đà La Ni Kinh ( Do Tam Tạng BẤT KHÔNG dịch ) có ghi:

“ Tượng Chuẩn Đề Phật Mẫu với thân màu trắng vàng, ngồi Kiết Già trên hoa sen, thân tỏa hào quang tròn có dính hạt thóc nhẹ như áo của 10 Ba La Mật Bồ Tát, phía trên bên dưới đều tác màu trắng. Lại góc áo khoác ngoài ( Thiên Y ) có quấn anh Lạc, đội Mão Trời, cánh tay đều đeo vòng xuyến. Đàn Tuệ ( 2 bàn tay ) đều đeo vòng báu. Mặt Tượng ấy có 3 mắt, 18 cánh tay.

Hai tay bên trên tác tướng Thuyết Pháp

Bên phải: Tay thứ hai tác Thí Vô Úy, tay thứ ba cầm cây Kiếm, tay thứ tư cầm vòng hoa báu, lòng bàn tay thứ năm cầm Cụ Duyên Quả, tay thứ sáu cầm cây Búa, tay thứ bảy cầm Móc Câu, tay thứ tám cầm chày Kim Cương, tay thứ chín cầm Tràng Hạt.

Bên trái: Tay thứ hai cầm cây Phướng báu Như Ý, tay thứ ba cầm Hoa Sen hồng hé nở, tay thứ tư cầm Quân Trì, tay thứ năm cầm Sợi Dây, tay thứ sáu cầm Bánh Xe, tay thứ bảy cầm Thương Khư (‘Sanõkha_Vỏ ốc ) , tay thứ tám cầm Hiền Bình, tay thứ chín cầm rương Kinh Bát Nhã.

Bên dưới hoa sen vẽ ao nước. Trong ao có Long Vương Nan Đà ( Nanda Nàga ràja ) , Long Vương Ổ Ba Nan Đà ( Upananda Nàga ràja ) nâng tòa hoa sen.

 Bên trái vẽ người Trì Minh , tay cầm lò hương chiêm ngưỡng Thánh Giả. Chuẩn Đề Phật Mẫu thương xót người Trì Minh, hướng mắt nhìn xuống.

Bên trên vẽ 2 vị Tĩnh Cư Thiên Tử, một vị tên là Cụ Sách Đà Thiên Tử, tay cầm vòng hoa hướng xuống dưới, nương theo trên hư không đến cúng dướng Thánh Giả”.

Ý nghĩa của Tranh Tượng này là:

_ Thân màu trắng vàng: Biểu thị cho nghĩa Lý Trí chẳng hai, Định Tuệ một Thể hàm chứa Đức Năng Sinh của chư Phật.

_ Ngồi Kiết Già: Biểu thị cho tính Nhất Như của sinh tử và Niết Bàn

_ Hoa sen : Biểu thị cho Tâm Đại Bi

_ Thân tỏa hào quang: Biểu thị cho Trí phá ám chướng của Tâm hư vọng.

_ Phía trên bên dưới toàn là màu trắng: Biểu thị cho sự hiển bày Pháp Đại Bi trắng tịnh để hóa độ chúng sinh

_ Mọi thứ trang sức trên thân: Biểu thị cho hiện tượng Bồ Tát đi vào dòng sinh tử dùng phiền não để hiển thị Bồ Đề.

_ Mặt có 3 mắt : Hiện Phật Nhãn, Pháp Nhãn, Tuệ Nhãn biểu thị cho nghĩa Ba Đế chẳng dọc chẳng ngang, nhất như bình đẳng.

_ Thân có 18 tay:

Hai tay thứ nhất :  tác tướng thuyết Pháp biểu thị cho sự hiển bày Phật Pháp hóa độ chúng sinh . Còn lại tám tay bên trái biểu thị cho Mê Giới và tám tay bên phải biểu thị cho Phật Giới .

Hai tay thứ hai :  Tay trái cầm Phướng báu tượng trưng cho Tâm Bồ Đề vốn có nơi mọi chúng sinh mà chẳng tự biết . Nay dùng tay Thí Vô Úy bên phải gia trì khiến cho hiển đắc Tâm Bồ Đề đó .

Hai tay thứ ba :  Tay trái cầm hoa sen tượng trưng cho Bản Thể vô cấu nhiễm vốn có của mọi chúng sinh, nhưng do dựa vào phiền não ngăn trệ mà dư Tập khí chưa hết nên chẳng hiển lộ được vạn đức . Nay dùng cây kiếm sắc bén bên phải tượng trưng cho Đẳng Giác của Phật giới, một lần chuyển kiếm chém đứt dư Tập khí ấy khiến cho hoa sen thanh tịnh nở bày những cánh hoa vạn đức vạn thiện .

Hai tay thứ tư :  Tay trái cầm bình Quân trì chứa nước Táo quán      ( Nước rưới vảy  ) tượng trưng cho Trí Tuệ vốn có của chúng sinh . Nhưng do không có Phước, không có trí như đất khô cằn chẳng có nước thấm ướt nên mầm giống Bồ Đề chẳng thể sinh trưởng được, đây tức là dựa vào phiền não mà chẳng thể phát sinh Trí Tuệ . Nay dùng tay phải cầm Tràng hạt gia trì khiến cắt đứt 108 phiền não để cho hiển đắc được nước Trí Tuệ của Như Lai rưới thấm ướt đất tâm khô cằn . Nước ấy là Đức của Trí Thủy chứa trong bình Quân Trì vậy .

Hai tay thứ năm :  Tay trái cầm sợi dây tượng trưng cho sự ràng buộc cột trói chúng sinh trong nhà sinh tử, sự ràng buộc này thiên về Thức thứ tám (Alàya  vijnõàna). Tay phải cầm Cụ Duyên Quả ( Bìja pùraka_ Tử Mãn Quả ) tượng trưng cho thức thứ tám là thức của tâm . Nhiều hạt giống của Pháp ở ngoài Tâm được thu nạp vào mà chẳng bị hư hoại hao tổn, lại tùy ý khiến sinh ra sự xoay chuyển làm cho Thức thứ tám lưu chuyển, chứng đắc được cảnh giới Đại Viên . Khi ấy tất cả năm ấm thuộc chủng tử  trong Thức thứ tám đều bị thiêu hủy hết nên A lại gia hiển bày Tâm Tĩnh Bồ Đề vô cấu nhiễm giống như đẳng hư không . Như vậy, dùng Cụ Duyên Quả gia trì chuyển Thức thành Trí thì dây nghiệp bị thiêu cháy hết mà ngưng nghỉ sự luân chuyển của sinh tử bản hữu .

Hai tay thứ sáu :  tay trái cầm Bánh xe tượng trưng cho sự luân chuyển trong ba cõi sáu đường của các chúng sinh . Tay phải cầm cây búa là lợi khí  đập nát . Nay dùng búa lớn đập nát bánh xe luân chuyển khiến nó trở thành Đức Luân Viên Cụ Túc của Như Lai .

Hai tay thứ bảy :  Tay trái cầm Thương Khư  ( ‘Sanõkha ) là vỏ ốc trong biển tượng trưng cho chúng sinh đang trầm luân trong biển khổ sinh tử . Nay tay phải cầm Đại Bi Câu ( Móc câu Đại Bi )  tiếp dẫn khiến cho đến được bờ bên kia là Niết Bàn an lạc .

Hai tay thứ tám :  tay trái cầm Hiền Bình tượng trưng cho sự hòa hợp của Sắc ( Rùpa ) Tâm ( Citta )  là nẻo sinh tử, nước trong bình tượng trưng cho sự nắm giữ tội của ba nghiệp mà lưu chuyển không cùng . Nay tay phải dùng Bạt Chiết La Tam Cổ Xử ( Chày Tam Cổ Kim Cương ) phá nát ba nghiệp ấy mà chặn đứng dòng sinh tử .

             Hai tay thứ chín :  Tay trái cầm Bát Nhã Phạm Khiếp  là Trí Thức sở nạp trong Tâm, do chẳng tự biết nên phải bị trầm luân trong biển khổ . Nay tay phải dùng Bảo Man ( Vòng hoa báu ) gia trì khiến khai phát Bản Trí ấy . Bảo Man là Tâm Tính Nghiêm vậy

Do các nghĩa này mà Chuẩn Đề ( Cunõdhe ) còn được dịch ý là MINH hoặc Diệu Giác . Đây là thành quả của Tuệ Ba La Mật và là điều kiện căn bản để phát sinh Chư Phật vậy .

_ Trong ao nước có 2 vị Long Vương Nan Đà, Ô Ba Nan Đà cùng nâng đỡ tòa sen: Tòa sen tượng trưng cho núi Tu Di ( Sumeru ) 2 anh em Long Vương Nanda và Upananda là 2 Long Vương quấn quanh chân núi ấy.

Khi Đức Thích Ca đản sinh thời Long Vương dùng nước nóng tắm gội nên 2 vị Rồng này biểu thị cho Đẳng Giác Vị hay Vô Cấu Vị . Dùng nước Vô Cấu tắm gội khiến thành Diệu Giác, mãn Quả Diệu Giác này thì Thích Ca và Chuẩn Đề đồng Thể. Sau khi mãn Quả dùng Đẳng Giác Vô Cấu nên hai vị Rồng làm Tòa biểu thị cho nghĩa này.

Hai vị Rồng nâng đỡ cọng sen:  Bồ Tát Đạo theo thứ tự tu hành  Địa Ba La Mật từ Địa thứ nhất  cho đến Địa thứ mười một. Nên biết Địa sau dùng Địa trước làm thềm bậc nên nói Như Lai dùng Thân Bồ Tát làm Tòa Sư Tử. Nay 2 rồng nâng đỡ cọng sen được biểu thị cho nghĩa này

Hoa sen sinh từ nước: Nước biểu thị cho nước Định ( Định Thủy ) mang ý  nghĩa Dưỡng Nuôi Thủ Hộ . Do đó hoa sen sinh từ nước được hiểu là Dùng nước Định nuôi dưỡng tự tính thanh tịnh bất nhị .

_Bên trên vẽ 2 vị Tĩnh Cư Thiên: Chúng Tĩnh Cư  gồm có 5 vị Thiên Tử là: Tự Tại Thiên Tử, Phổ Hoa Thiên Tử, Quang Man Thiên Tử, Ý Sinh Thiên Tử, Danh Xưng Viễn Văn Thiên Tử. Các vị Thiên này đều biểu thị cho nghĩa Trong Sạch ( ‘Suddha ) đều là Pháp căn bản để sinh ra Thánh Giả. Nay đề cử 2 vị Thiên này đều là Thánh Giả thân cận Đức Phật, lắng nghe nói Pháp để hóa độ phương khác. Vì Chuẩn Đề Phật Mẫu hay vào Nhân Đạo nói Pháp lợi sinh, xoay chuyển Pháp Luân tồi phá tội ác của chúng sinh. Nên trong tranh tượng vẽ 2 vị Thiên này.

               _ Bên trái vẽ người Trì Minh , tay cầm lò hương chiêm ngưỡng Thánh Giả. Chuẩn Đề Phật Mẫu thương xót người Trì Minh, hướng mắt nhìn xuống:

               Người Trì Minh cầm lò hương chiêm ngưỡng Thánh Giả: Biểu thị cho sự đem nhiệt tâm chân thành quán sát rõ ràng Pháp Yếu của Bản Tôn  nhằm chuyên chú thực hành

               Chuẩn Đề Phật Mẫu thương xót người Trì Minh , hướng mắt nhìn xuống: Biểu thị cho lực gia trì của Bản Tôn luôn luôn hiện hữu. Nếu Hành Giả biết cách thọ nhận sẽ thành tựu Tất Địa mong cầu.

Ngoài ra trong Kinh còn ghi rằng bên dưới trang tượng nên viết Bài Kệ Pháp Thân Duyên Khởi  nhằm giúp cho Hành Nhân chuyên chú quán niệm sẽ mau chóng thực chứng được Pháp Duyên Khởi mà chứng Đạo Bồ Đề.

Pháp Thân Duyên Khởi Kệ là:

“ Chư Pháp tùng Duyên Khởi

Như Lai thuyết thị Nhân

Bỉ Pháp Nhân Duyên tận

Thị Đại Sa Môn thuyết”

Dịch là:

“ Các Pháp theo Duyên khởi

Như Lai nói là Nhân

Pháp ấy Nhân Duyên hết

Là Đại Sa Môn nói”

Các Bậc Đạo Sư Tây Tạng thì thay bài Kệ trên bằng Thần Chú Duyên Khởi là:

OMÏ_YE  DHARMA  HETU  PRABHÀVA  HETUN 

          TESÏÀMÏ  TATHÀGATO  HYA  VADATA 

          TESÏÀMÏ  CHAYO  NIRODHA.

          EVAMÏ  VÀDI  MAHÀ  ‘SRAMANÏAHÏ  YE _ SVÀHÀ

                                                         Mùa Xuân năm Giáp Thân ( 2004 )

                                                 HUYỀN THANH (Nguyễn Vũ Tài) kính ghi


Mật Tạng Bộ 3_ No.1075 ( Tr.173_ Tr.178 )

PHẬT THUYẾT THẤT CÂU ĐÊ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI MINH ĐÀ LA NI KINH

Hán dịch : Đời Đường_ Thiên Trúc Tam Tạng KIM CƯƠNG TRÍ

Việt dịch : HUYỀN THANH

Như vậy tôi nghe. Một thời Đức Bạc Già Phạm ( Bhagavan_Thế Tôn ) ngự tại vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc trong đại thành Danh Xưng.Bấy giờ Đức Thế Tôn suy tư quán sát thương lo cho các chúng sinh đời vị lai nên nói Quá Khứ Thất Câu Đê Chuẩn Đề Như Lai Đẳng Phật Mẫu Chuẩn Đề Đà La Ni cho đến nay Ta cũng nói. Liền nói Đại Minh là:

“ Ná ma táp đa nam, tam miệu tam bột đà, câu đê nam. Đát điệt tha: Aùn_ Chiết lệ chủ lệ chuẩn đề, sa phộc ha”

NAMO  SAPTANÀMÏ  SAMYAKSÏAMÏBUDDHA  KOTÏINÀMÏ.

TADYATHÀ : OMÏ_ CALE  CULE  CUNÕDHE _ SVÀHÀ

Nếu có Bật Sô, Bật Sô Ni, Ô Ba Sách Ca, Ô Ba Tư Ca thọ trì đọc tụng Đà La Ni này mãn 90 vạn biến thì 5 tội Vô Gián với tất cả tội nặng trong vô lượng kiếp sau đều diệt hết không sót. Ở nơi sinh ra đều gặp thẳng chư Phật, Bồ Tát, hết thảy tư cụ tùy ý sung túc, vô lượng trăm ngàn đời thường được xuất gia, thường là nơi chư Thiên yêu kính cũng thường thủ hộ. Nếu sinh vào chốn nhân gian sẽ làm con của nhà Đế Vương, hoặc sinh vào nhà quý tộc. Nhà đó không có tai hoạnh, bệnh khổ gây não hại, chẳng bị đọa vào 3 nẻo ác, mọi việc tạo tác trong chư Hữu (các cõi ) không có gì không có đồng bạn, nói ra lời dạy thì người đều tin nhận.

Tụng Đà La Ni này 10 vạn biến thì được thấy Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, chư Phật, nếu có tội nặng chẳng được nhìn thấy. Liền tụng đủ 10 vạn biến tức trong Cảnh Giới nôn mửa cơm màu đen. Hoặc thấy lên cung điện. Hoặc lên núi cao với trên cây. Hoặc thấy biển lớn xoáy nước. Hoặc bay trên hư không tự tại. Hoặc thấy Thiên Nữ ban cho Diệu Ngôn Biện. Hoặc thấy ở trong Đại Tập Hội nghe nói Diệu Pháp. Hoặc thấy nhổ tóc, tự mình cạo đầu. Hoặc ăn Lạc Phạn ( Cơm có trộn lạc ), uống Cam Lộ màu trắng. Hoặc vượt qua biển lớn. Hoặc nổi trên sông nhỏ sông lớn.Hoặc lên Tòa Sư Tử. Hoặc thấy cây Bồ Đề. Hoặc ngồi trên thuyền. Hoặc thấy Sa Môn. Hoặc mặc áo trắng, áo vàng dùng áo che phủ đầu. Hoặc thấy mặt trời, mặt trăng. Hoặc thấy đồng nam, đồng nữ. Hoặc thấy trên thân của mình có cây sữa. Hoặc lên cây có hoa quả. Hoặc thấy trong miệng của Hắc Trượng Phu phun ra lửa mạnh, sợ hãi chạy đi. Hoặc thấy ngựa, trâu ác có dạng tựa như đánh nhau. Hoặc thấy tự ăn cháo sữa. Hoặc thấy hoa trắng có mùi thơm. Nếu thấy tướng như trên liến biết Diệt tội sinh phước.

Nếu bị 5 tôi nghịch , nghiệp cực nặng chẳng được thấy tướng trên. Cần phải tụng đủ 70 vạn biến ắt được thấy tướng mạo như trước.

Lại nữa, nay Ta nói công năng, việc tạo tác của Đà La Ni này.Nếu ở trước tượng Phật hoặc ở trước tháp xá Lợi hay nơi thanh tĩnh, dùng Cù Ma Di xoa tô đất rồi làm Man Trà La ( Manïdïala _ Đàn ) hình vuông rộng 4 khuỷu tay. Lại đem hương , hoa, phướng, lọng, thức ăn uống, đèn sáng, đuốc lửa tùy theo sức bày biện y theo Pháp cúng dường.

Nếu muốn cầu nguyện. Trước tiên nên niệm tụng, gia trì vào nước thơm rải 8 phương, trên, dưới để Kết Giới. Kết Giới xong, ở 4 góc và chính giữa Man Trà La đều để một cái bình nước thơm. Hành Giả ở mặt Tây hướng về phương Đông, quỳ dài niệm tụng 1080 biến. Bình nước thơm ấy liền tự chuyển động, tùy ý Đông Tây nhận dùng cao thấp.

Hoặc dùng cái bát sành sứ sạch, đốt hương xông ướp, trong ngoài bôi xoa hương thơm, chứa đầy nước thơm và hương hoa tốt rồi đặt ở trong Mạn Trà La. Y theo Pháp cái bình lúc trước mà tác niệm tụng thì cái bát ấy liền chuyển động cùng với cái bình không khác.

Nếu muốn biết tất cả việc : Thành Tựu, Chẳng Thành Tựu. Liền đốt hương, phát nguyện, khải bạch Thánh Giả, Nguyện Tâm quyết nghi. Nếu chuyển bên phải thì biết thành tựu, chuyển bên trái tức chẳng thành tựu

Lại lấy hoa tốt, niệm tụng 108 biến. Khiến một Đồng Tử tắm gội sạch sẽ, mặc áo mới sạch. Dùng bột hương xoa tay, nâng hoa án khôn mặt. Lại đưa tay của mình liền lấy hoa riêng niệm tụng. Cứ một biến thì một lần ném lên thân Đồng Tử, đồng tử liền nghe việc thiện ác và nói lại. Tùy ý múa cười, đứng ngồi, đi lại.

Hoặc ở mặt gương sáng sạch, dùng hoa tốt niệm tụng 108 biến rồi rải lên trên gương thì Sứ Giả liền hiện trong gương.

Lại dùng Pháp trước, liền lấy hoa tốt rải trên mặt gương liền có tướng thiện ác hiện trong gương. Hoặc dùng Chu Sa , hoặc dùng dầu thơm bôi móng ngón tay cái ( Dầu thơm dùng hoa Tô Ma Na xâm trong dầu Hồ Ma ) niệm tụng 108 biến liền hiện Thiên Thần với hình tượng chư Tăng, Bồ Tát,Phật. Nếu Tâm có sự nghi ngờ việc trong ba cõi, mỗi mỗi thỉnh hỏi đều biết thiện, chẳng thiện tức đều tự hiện trên ngón tay cái.

Nếu người bị bệnh ác. Dùng cành Thạch Lựu, mầm non màu trắng, cỏ thơm… niệm tụng, dùng roi phất phẩy liền khỏi.

Hoặc dùng cỏ mầm để trong bơ, niệm tụng 7 biến ném vào trong lửa thiêu đốt rồi xông khói vào người bệnh, liền trừ khỏi.

Hoặc nhờ Đồng Nữ xe sợi thành dây chỉ, niệm tụng một biến thì kết một gút. Như vậy đủ 21 gút đem cho người bệnh, trẻ con nam nữ cột buộc trên đỉnh đầu thì bệnh do hàng Ma. Quỷ, Mỵ ác gây ra đều được trừ khỏi.

Hoặc dùng hạt cải trắng để trong bơ. Lấy chút ít hạt cải, niệm tụng một biến thì một lần ném trong lửa, 21 lần như vậy thì bệnh liền khỏi.

Lại dùng Cù Ma Di xoa tô đất làm Mạn Trà La. Dùng tro vẽ đất làm hình ấy, dùng roi gậy bằng cành Thạch Lựu đánh thì Quỷ đó kêu khóc cầu xin, tự bỏ chạy chẳng dám đến. Hoặc dùng Đồng, Thiếc, Gỗ làm chày Kim Cương để bên cạnh người bệnh, niệm tụng dùng gậy đánh thì Quỷ cũng liền bỏ chạy.

Lại có Pháp. Nếu có người bị Quỷ ám thân, lại ở nơi xa không thể tự đến, hoặc Hành Giả chẳng thể tự đi. Nên lấy cành Dương Liễu, niệm tụng 108 biến rồi sai người mang đến chỗ ấy, nói rằng:” Ngươi ở hay ngươi đi. Ta tên (….. ) sai mang gậy roi này cho ngươi. Nếu ngươi chẳng đi sẽ tổn hại cho ngươi”. Nếu chẳng đi , dùng roi đánh thì Quỷ liền bỏ đi.

Lại có Pháp. Nếu đi đêm trên đường, niệm tụng không thiếu sẽ không bị vướng nạn sợ hãi về giặc cướp, trộm cắp, cọp, sói, Quỷ, Mỵ ác. Giữ Tâm niệm tụng và tác Hộ Thân thì các nạn thuộc nhóm ấy đều tự tiêu diệt, hoặc phát Tâm Bồ Đề hoặc sinh sợ hãi, hoặc có lời nói Tâm cầu miễn nạn, nếu bị cột trói liền tự giải thoát.

Nếu muốn vượt qua sông hồ, biển lớn mà trong nước có hàng Rồng, Cù đáng sợ. Niệm tụng như Pháp trước liền được chẳng sợ.

Hoặc bị rắn cắn, liền khiến người ấy nhiễu vòng quanh người Niệm Tụng một số vòng, liền khỏi.

Hoặc bị Đinh Sang, ung thư, ghẻ nhọt, bệnh lác, bệnh lậu. Lấy Huân Lục Hương, đất sạch cùng hòa với nước, niệm tụng 21 biến rồi xoa bôi lên trên, liền khỏi.

Hoặc quốc thổ bị khô hạn, nguồn nước chẳng đều. Nhóm trâu, ngựa, súc vật vướng dịch độc lưu hành. Nên dùng Du Ma, Đại Mạch, gạo tẻ, hạt dẻ, đậu, bơ, mật, sữa, lạc, cây có nhựa trắng, các loại hương tạp… đều để một bên, đốt hương phát nguyện:” Vì tất cả chúng sinh trừ khử tai nạn” . Liền tác Thủ Khế ( Tay Ấn ) Hộ Thân, tưởng niệm. Lấy các vật lúc trước niệm tụng gia trì rồi ném vào trong lửa thiêu đốt. Như vậy 7 ngày, mỗi ngày 3 thời tác Pháp, mỗi thời 1080 biến liền được mãn nguyện, tất cả an vui, tất cả Tam Bảo thảy đều hộ trợ cũng hay thành tựu tất cả Đại Nguyện.

Nếu muốn giáng phục các Đại Quỷ Thần, nhìn thấy liền tâm phục. Lấy 7 hạt xương Xá Lợi để trong cái bát Lưu Ly trắng. Lấy nửa thăng Đề Hồ đổ đầy cái bát. Vào đêm thuộc ngày 15 của kỳ Bạch Nguyệt, trước Đài Hương với trước tháp Suất Đổ Ba, dùng bùn xoa tô Mạn Trà La hình vuông rộng một, hai khuỷu tay. Đặt cái bát ở trong, lấy hoa tốt cúng dường, mặt Tây để một lò hương, thiêu đốt An Tất Hương, gấp rút niệm tụng thì Xá Lợi trong cái bát ấy sẽ tỏa ánh sáng, hoặc sinh ra Xá Lợi thời Hành Giả cầm lò hương phát nguyện lễ bái. Liền lấy Xá Lợi ra, uống hết Đề Hồ. Lấy cái bình Lưu Ly chứa Xá Lợi ấy, dùng lụa ngũ sắc phủ đầy rồi đội trên đầu, tức vô lượng câu đê Phật thường toại hạnh, các hàng Quỷ Thần tự nhiên giáng phục. Lúc tác Pháp thời một ngày một đêm chẳng ăn.

Nếu cầu giàu có. Dùng gạo tẻ, Du Ma để trong bơ, lạc. Tay nhúm chút ít, phát nguyện niệm tụng 7 biến rồi ném vào trong lửa thiêu đốt. Tùy sức từ 7 ngày đến 49 ngày , liền như nguyện ấy.

Nếu cầu con. Ở trên lá, vỏ cây hoa viết Đà La Ni này và vẽ Đồng Tử. Dùng áo lót màu tím, niệm tụng 1080 biến rồi để trong búi tóc, liền mang thai.

Nếu muốn kẻ khác kính nhớ thì xưng tên gọi của người ấy, niệm tụng Bản Bộ 1080 biến liền được kính nhớ.

Nếu chồng chẳng thích vợ. Lấy cái bình sạch chứa đầy nước thơm, đặt riêng ở Tĩnh Xứ. Dùng Cù Ma Di xoa làm Mạn Trà La, niệm tụng 108 biến. Như vậy 7 cái bình đều tác Pháp này. Ở Tĩnh Xứ dùng hương hoa làm Đạo Trường, lấy nước thơm bên trong bình tắm gội thì người chồng liền yêu thích, cũng được mang thai. Vợ chẳng thích chồng cũng như Pháp lúc trước.

Nếu muốn giáng phục Xả Đổ Lô ( ‘Satrù: Oan Gia ) Lấy một Kiếp Ba La, nước nóng thơm tắm gội sạch sẽ. Lấy Hoàng Đan hòa với bơ xoa bôi trên Kiếp Ba La liền xoa tô khắp rồi đặt trong một Mạn Trà La nhỏ. Xong lấy 5 chén đèn bơ đặt ở 4 góc và chính giữa, xưng Na Ma (Nàma: Tên gọi ) trước tiên, niệm tụng , một lần xưng một lần tụng, gia trì vào hạt cải trắng. Để một chén sữa trên Mạn Trà La cúng dường Kiếp Ba La này, một đêm đổi một lần, nói rằng:” Vì Con lấy Chất Đa (Citta: Tâm ) ấy đến “. Cái đó tức Chất Đa Nậu Khư ( Citta duhïkha : Sự khổ não bất toàn của tâm ) Muốn Mẫu Đà ( Buddha: Giác Tuệ ) thì Xả Đổ Lô ( ‘Satrù : Oan gia) ấy liền phục thật. Chớ khiến hết, vì hết tức nhiều kiếp chất chồng sẽ trừ bỏ Đạo.

Nếu muốn cầu thông minh. Lấy Thạch Xương Bồ, Ngưu Hoàng, mỗi thứ nửa lạng, giã thành bụi, dùng bơ hòa. Ở trước Phật làm Mạn Trà La, niệm tụng 5000 biến rồi uống vào, liền được thông minh.

Muốn được thấy tất cả Quỷ Thần. Lấy Ngưu Hoàng niệm tụng khiến cho khói, lửa hiện ra. Liền bôi con mắt và uống vào, liền nhìn thấy.

Lại có Pháp. Ở bên cạnh biển lớn hoặc trên bãi cát bên sông, sông dùng ấn hình tượng cái Tháp. Ấn cát trên đầm làm hình tượng Tháp, niệm tụng một biến thì ấn thành hình cái Tháp, như vậy đủ số 60 vạn biến liền được nhìn thấy Tượng của Thánh Giả Quán Tự Tại, hoặc thấy Đa La Bồ Tát, Kim Cương Tạng Bồ Tát, tùy theo tâm nguyện ấy đều được mãn túc. Hoặc thấy trao cho Thuốc màu nhiệm của Tiên Thần, hoặc thấy trao cho Bồ Đề thọ ký, hoặc hiện trước mặt đến hỏi thì tùy theo điều cầu nguyện đều được địa vị của hàng Bồ Tát.

Lại có Pháp. Nếu nhiễu quanh Tượng của cây Bồ Đề, hành Đạo niệm tụng mãn 100 vạn biến liền thấy Phật, Bồ Tát, La Hán vì mình nói Pháp. Ý muốn tùy Bồ Tát liền được làm tùy tòng, sự mong cầu như nguyện cho đến thân đời này thành Đại Chú Tiên, liền được đi đến Tĩnh Thổ ở 10 phương phụng sự chư Phật, được nghe Diệu Pháp.

Lại có Pháp. Nếu lúc khất thực thời thường trì Đà La Ni này thì chẳng bị người ác, chó ác… xâm hại, khất thực dễ được.

Lại có Pháp. Nếu ở trước Tháp hoặc trước tượng Phật hoặc trước Tháp Xá Lợi tụng trì Đà La Ni này 30 vạn biến. Lại vào ngày mồng một cho đến ngày 15 của kỳ Bạch Nguyệt, bày cúng dường lớn, một nhày một đêm chẳng ăn, chính niệm tụng thời được thấy Kim Cương Tạng Bồ Tát liền đưa người ấy đến trong cung của mình.

Lại có Pháp. Nếu vướng Vương Nạn ( Nạn vua chúa ) bị cột trói, nhốt cùm, xiềng xích, cấm đoán thân ấy. Tụng Đà La Ni này liền được giải thoát.

Lại có Pháp. Nếu ở trước Tháp Chuyển Pháp Luân , hoặc trước Tháp nơi Phật sinh ra, hoặc trước Tháp ở thềm báu mà Đức Phật từ Trời Đao Lợi đi xuống, hoặc trước Tháp Xá Lợi . Ở trước các Tháp của nhóm như vậy niệm tụng nhiễu theo bên phải 49 ngày liền thấy A Bát La Thị Đa Bồ Tát ( Aparajita Bodhisatva: Vô Năng Thắng Bồ Tát ) và A Lợi Đề Bồ Tát ( Hrïtye Bodhisatva_ Quỷ Tử Mẫu Bồ Tát ) , tùy theo sự cầu nguyện đều được mãn túc. Nếu cầu Thuốc Tiên tức liền trao cho, lại vì người ấy nói Pháp để hiển bày Đạo Bồ Đề.

Nếu có người tụng Đà La Ni này cho đến chưa ngồi Đạo Trường thì tất cả Bồ Tát sẽ làm bạn tốt của người ấy.

Lại Chuẩn Đề Đại Minh Đà La Ni này được chư Phật nói vì lợi ích cho tất cả chúng sinh về Đạo Trường Bồ Đề vô biên.

Nếu có chúng sinh bạc phước không có chút căn lành, không có căn khí, không có Bồ Đề Phần. Nếu người đó được nghe Chuẩn Đề Đà La Ni này hoặc đọc một biến liền được sinh mầm giống căn khí của Bồ Đề Phần, huống chi tụng trì thường xuyên mà chẳng giải được sự vô dụng ư ? !... Do căn lành này mau thành hạt giống Phật, đều được thành tựu vô lượng công đức, vô lượng chúng sinh mau lìa trần cấu quyết định thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề ( Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác ).

 

PHẬT THUYẾT THẤT CÂU ĐÊ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐÀ LA NI NIỆM TỤNG PHÁP

 

Y theo bản Kinh Phạn có 10 vạn Kệ Tụng. Nay Ta lược nói niệm tụng, Quán Hạnh, thứ tự cúng dường

Nếu có Bật Sô, Bật Sô Ni, Ô Ba Sách Ca, Ô Ba Tư Ca phát Tâm Bồ Đề , hành Hạnh Bồ Tát , cầu mau ra khỏi sinh tử. Trước tiên nên vào Tam Muội Gia Quán Đỉnh Đạo Trường, thọ trì Cấm Giới bền chắc chẳng lui, yêu thích Giới Hạnh Bồ Tát Đại Thừa, nơi 4 Uy Nghi tu 4 Vô Lượng, phát 4 Hoằng Nguyện, cầu mau lìa Tam Đồ ( 3 nẻo Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sinh ) . Đối nới tất cả sự nghiệp, tâm chẳng tán loạn thì mới có thẩ vào Pháp Môn Bí Mật này

Phàm Pháp Niệm Tụng Cúng Dường. Ở nơi cư trú đều nên tắm gội sạch sẽ, mặc áo mới sạch, tùy sức bày biện nghiêm sức Đạo Trường

Pháp Đạo Trường ấy. Nên lựa chọn Thắng Địa, Đông Tây Nam Bắc đều rộng 4 khuỷu tay làm Mạn Trà La hình vuông, đào sâu xuống dưới một khuỷu tay trừ bỏ các loại: Xương, đá, gạch, ngói, đất ác, tóc, lông, tro, than, trấu, cây nhiều gai, trùng, kiến… Dùng đất sạch tốt lấp đầy và nện chặt cho bằng phẳng. Lấy Cù Ma Di ( Phân trâu trắng ở núi Tuyết ) và đất tốt hòa chung với nước thơm xoa tô đất.

Nếu ở lầu gác , hoặc ở trên Điện thì y theo Pháp Nê Đồ ( dùng bùn xoa tô) Nếu ở trong núi với nhà sạch tốt thì chẳng nên đào đất mà y theo trước xoa tô nghiêm sức. Liền giương Thiên Cái ( Lọng Trời ) , 4 mặt treo phướng. Nếu có Tượng Bản Tôn Thất Câu Đê Phật Mẫu thì đặt yên trong Mạn Trà La hướng mặt về phương Tây. Nếu không có Bản Tôn mà có các Tượng Phật, Xá Lợi với Kinh Điển Đại Thừa thì cúng dường cũng được. Mài Bạch Đàn Hương xoa tô làm Mạn Trà La có 8 góc ( Bát Giác Mạn Trà La ) giống như trăng đầy hoặc tựa như hoa sen 8 cánh. Liền đem vật cúng mới sạch là vật khí bằng vàng, bạc, đồng đã tôi luyện (Thục Đồng)  Thương Khư ( ‘Sanõkha: Vỏ ốc ) , Bối ( vỏ sò ), Ngọc, đá, đồ sứ, gỗ…chứa đầy các thức ăn uống với hương hoa tốt, đèn sáng, nước thơm Ứ Già tùy theo sức mà đặt bày cúng dường.

Nếu là Bật Sô, Bật Sô Ni . Trước tiên giữ Giới Hạnh rồi mới vào Đạo Trường, lại nên Sám Hối liền tự thề phát nguyện Thọ Giới.

Nếu là Bồ Tát tại gia , mới đầu vào cũng nên tự thề phát nghuyện tùy theo sức, thọ Tam Quy Ngũ Giới hoặc thường giữ 8 Giới.

Nếu thường 3 thời niệm tụng. Liền ở Tây Nam của Đạo Trường hướng về phương Đông, chí Tâm chắp tay cúi 5 vóc sát đất kính lễ chư Phật Bồ Tát ở 10 phương, Chân thành vận tưởng tràn khắp Hư Không Giới. Liền quỳ gối phải sát đất, chắp tay, chí Tâm Sám Hối :

” Từ Vô Thủy trở đi có bao nhiệu tội của Thân Khẩu Ý. Nay đối trước chư Phật Bồ Tát, Đệ Tử ( họ tên… ) xin phát lộ sám hối cho đến mọi loại Công Đức do viên mãn Phước Trí của chư Phật Bồ Tát 3 đời quá khứ, hiện tại, vị lai . Nay con xin tùy hỷ”

Liền an Tâm quyết định ngồi theo thế Kiết Già hoặc Bán Già, trừ tất cả vọng tưởng, quán chúng sinh trong 6 nẻo từ vô thủy đến nay ở trong biển sinh tử bị luân hồi 6 nẻo. Nguyện đều phát Tâm Bồ Đề, hành Hạnh Bồ Tát, mau được ra khỏi.

Liền dùng dầu thơm xoa tay rồi kết Thủ Khế ( Tay Ấn ) . Lúc kết Khế thời dùng áo che tay đừng để người khác nhìn thấy.Trước tiên kết 3 Bộ Tam Ma Gia Khế rồi kết các Khế.

Khế thứ nhất :” Phật Bộ Tam Ma Gia Khế”. Tướng của Khế đó là: Đều ngửa tay Phước Trí ( 2 bàn tay ) hơi co Đàn ( ngón út phải ) Giới ( Ngón vô danh phải ) Nhẫn Nhục ( ngón giữa phải ) Bát Nhã ( ngón út trái ) Phương Tiện ( ngón vô danh trái ) Nguyện ( ngón giữa trái ) cùng trụ nhau. Tiến Lực ( 2 ngón trỏ ) đè lóng trên Nhẫn Nguyện ( 2 ngón giữa ) , Thiền Trí ( 2 ngón cái ) phụ bên cạnh Tiến Lực ( 2 ngón trỏ ) liền thành. Tụng Chân Ngôn là:

“ Aùn_ Đát tha nghiệt đổ phộc bá gia, sa-phộc ha”

OMÏ_ TATHÀGATA  UDBHÀVAYA _ SVÀHÀ

(Tụng 3 biến, đem Khế bung trên đỉnh đầu. Liên Hoa Bộ, Kim Cương Bộ đều dựa theo đây )

Khế thứ hai :” Liên Hoa Bộ Tam Ma Gia Khế”. Hai Phước Trí (2bàn tay) cùng hợp nhau. Giới ( Ngón vô danh phải ) Nhẫn ( ngón giữa phải ) Tiến ( ngón trỏ phải ) Phương Tiện ( ngón vô danh trái) Nguyện ( ngón giữa trái ) Lực ( ngón trỏ trái ) mỗi mỗi bung tán rồi hơi co lại. Sáu Ba La Mật ( 6 ngón tay ) mở như hoa sen. Đàn ( ngón út phải ) Tuệ ( ngón út trái ) Thiền ( ngón cái phải ) Trí ( ngón cái trái ) cùng dính nhau, cũng hơi co lại liền thành. Tụng Diệu Ngôn là :

“ Aùn _ Bát đầu mâu phộc bá gia, sa-phộc ha” ( Tụng 3 biến )

OMÏ_ PADMA  UDBHÀVAYA _ SVÀHÀ

Khế thứ ba : “ Kim Cương Bộ Tam Ma Gia Khế” Úp Phước ( Bàn tay trái) ngửa Trí ( bàn tay phải ) Thiền ( ngón cái phải ) Bát Nhã ( ngón út trái ) Đàn (ngón út phải ) Trí ( ngón cái trái )cùng cài nhau, liền thành. Tụng Diệu Ngôn là:

“ Aùn_ Phộc chiết lỗ bà bá gia, sa-phộc ha” ( Tụng 3 biến )

OMÏ_ VAJRA  UDBHÀVAYA _ SVÀHÀ

Khế thứ tư :” Chuẩn Đề Phật Mẫu Căn Bản Thân Khế “. Tướng của Khế đó là: Trước tiên đem 2 ngón út , 2 ngón vô danh cùng cài chéo nhau trong lòng bàn tay. Dựng thẳng 2 ngón giữa cùng dính đầu ngón, 2 ngón trỏ phụ bên cạnh lóng trên của 2 ngón giữa, 2 ngón cái đều phụ bên cạnh 2 ngón trỏ liền thành. Diệu Ngôn, tụng Căn Bản Đà La Ni ( Tụng 7 biến, đưa Khế  bung tán trên đỉnh đầu. Dùng các Khế bên dưới kết thành, đè chạm Ấn xong cũng đều nên bung trên đỉnh đầu )

Khế thứ năm : “ Tịch Trừ Nhất Thiết Thiên Ma Aùc Quỷ Thần Đẳng Khế”. Khế ấy: Trước tiên đem ngón giữa, ngón vô danh, ngón út và ngón cái của tay phải nắm ngón giữa, ngón vô danh, ngón út của tay trái. Tiếp đem ngón cái trái nắm trên móng của 3 ngón giữa, vô danh, út của tay trái rồi hợp thành quyền, đem 2 ngón trỏ cùng dính đầu ngón , liền thành. Diệu Ngôn là:

“ Aùn_ Câu lỗ đa na, hồng, nhạ”

OMÏ _ KRODHANA   HÙMÏ   JAHÏ

( Tụng một biến, đem Khế chuyển quanh thân theo bên phải. Làm như thế 3 lần )

Khế thứ sáu: “ Kết Địa Giới Quyết Khế”. Tướng của Khế đó là: Đem 2 ngón giữa, 2 ngón vô danh cùng cài chéo nhau trong lòng bàn tay, bên phải đè bên trái, co ngón trỏ trái như móc câu, dựng thẳng ngón trỏ phải. Khiến 2 ngón cái, 2 ngón út cùng dính mặt ngón, liền thành. Diệu Ngôn là:

“ Aùn_ Chuẩn nễ, nê, chỉ la dã, sa-phộc ha”

OMÏ_ CUNÕDHE _ DHE , KÌLÀYA _ SVÀHÀ

( Tụng một biến, đem ngón cái của Khế chạm đất một như thế đóng cọc. Làm 3 lần rồi nghỉ )

Khế thứ bảy: “ Kết Tường Giới Khế”. Tướng của Khế là: Dựa theo Quyết Khế lúc trước, đem ngón trỏ phải co như móc câu, dựng thẳng ngón trỏ trái, liền thành.Diệu Ngôn là:

“ Aùn_ Chuẩn nễ, nê, bát la ca la gia, sa-phộc ha”

OMÏ_ CUNÕDHE_ DHE,  PRAKARÀYA _ SVÀHÀ

( Tụng ba biến, đưa Khế quơ theo bên phải 3 vòng )

Khế thứ tám: “ Kết Võng Khế” . Khế đó dựa theo Tường Khế, mở ngửa dính nhau, ngón cái phải vịn đầu ngón trỏ trái, ngón cái trái vịn đầu ngón trỏ phải, ngón út y như cũ cùng trụ nhau, liền thành. Diệu Ngôn là:

“ Aùn_ Chuẩn nể, nê, bán nhạ la, sa-phộc ha”

OMÏ_ CUNÕDHE _ DHE , PAMÏJALA _ SVÀHÀ

( Tụng 3 biến , đưa Khế tùy theo mặt trời quơ 3 lần )

Khế thứ chín: “ Kết Ngoại Hỏa Viện Đại Giới Khế”. Khế đó : Dùng tay trái đè kín lưng tay phải, trùng nhau. Dựng thẳng 2 ngón cái cùng cách nhau khoảng 2 thốn, liền thành. Diệu Ngôn là:

“ Aùn_ A tam ma nghĩ nễ, hàm, sa-phộc ha”

OMÏ_ ASAMÀMÏGNI  HÙMÏ _ SVÀHÀ

( Tụng 3 biến, đưa Khế chuyển bên phải 3 lần )

Khế thứ mười: “ Kết Xa Lạc Ấn”. Tướng của Khế đó là: Trước tiên, 2 tay hướng vào bên trong cùng cài chéo nhau, bên phải đè bên trái. Liền ngửa mở lòng bàn tay, duỗi thẳng 2 ngón trỏ dính đầu ngón, đưa 2 ngón cái bật đầu 2 ngón giữa, đưa qua đưa lại, liền thành. Diệu Ngôn là:

“ Aùn_ đổ lô, đổ lô, sa-phộc ha”

OMÏ_ TURU  TURU _ SVÀHÀ

( Kết Khế này, Tâm tưởng trong Tập Hội ở cung Trời A Ca Ni Sắt Tra (Sắc Cứu Cánh ) 10 Địa Bồ Tát vây quanh Đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai. Thỉnh Chuẩn Đề Phật Mẫu ngồi trên Xa Lạc 7 báu trang nghiêm. Trên Xa Lạc có tòa hoa sen trắng, trên Tòa có hình tượng như mong cầu. Trong Tâm tưởng niệm như ở ngay trước mắt. Liền tụng Diệu Ngôn 3 biến )

Khế thứ mười một: “ Kết Nghinh Thỉnh Thánh Giả Khế” . Dựa theo Đệ Nhất Căn Bản Khế lúc trước, đưa 2 ngón cái qua lại, triệu mời 3 lần, liền thành. Diệu Ngôn là:

“ Aùn_ Chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề, ê hế duệ tứ, bạc già phộc để, sa-phộc ha”

OMÏ_ CALE  CULE  CUNÕDHE _ EHYEHI  BHAGAVATI _ SVÀHÀ

( Kết Khế này, tưởng Thánh Giả từ trên Xa Lạc đi xuống đến Đạo Trường trên tòa sen trắng. Liền tụng Diệu Ngôn 3 biến )

Khế thứ mưới hai: “ Kết Liên Hoa Tòa Khế”. Dựa theo Căn Bản Khế lúc trước, kèm 2 ngón cái hướng về thân mở thẳng, liền thành. Diệu Ngôn là:

“ Aùn_ Ca ma la, sa-phộc ha”

OMÏ_ KAMALA _ SVÀHÀ

( Kết Khế này, Tâm tưởng trong Đạo Trường có mọi loại lưới báu, trên Tòa Sư Tử nở sen trắng, an đặt Thánh Giả trên hoa sen. Liền tụng Diệu Ngôn 3 biến )

Khế thứ mười ba: “ Kiết Ứ Già Khế”. Dựa theo Căn Bản Khế lúc trước, đem 2 ngón cái đều vịn dưới cạnh lóng thứ nhất ở gốc ngón trỏ, liền thành. Diệu Ngôn là:

“ Aùn_ Chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề, át kiềm, bạc già phộc để, bát la để sai, sa-phộc ha”

OMÏ _ CALE  CULE  CUNÕDHE _ ÀRGHÀMÏ  BHAGAVATI  PRATICCHA _ SVÀHÀ

Khế thứ mười bốn:” Kết Táo Dục Khế” Dựa theo Ứ Già Khế lúc trước, đem 2 ngón cái đều vịn cạnh lóng giữa của 2 ngón giữa , liền thành. Diệu Ngôn là:

“ Aùn_ Chiết, sa-phộc ha”

OMÏ_ CA _ SVÀHÀ

Khế thứ mười lăm : “ Kết Đồ Hương Khế”. Dựa theo Căn Bản Khế lúc trước,đe 2 ngón cái nắm dính lóng dưới của ngón trỏ phải, liền thành. Diệu Ngôn là:

“ Aùn_ Lệ, sa-phộc ha”

OMÏ _ LE _ SVÀHÀ

Khế thứ mười sáu : “ Kết Hoa Man Khế”. Dựa theo Căn Bản Khế lúc trước, đe 2 ngón cái để cạnh lóng dưới của ngón trỏ trái, liền thành. Diệu Ngôn là:

“ Aùn_ Chủ, sa-phộc ha”

OMÏ _ CU  _ SVÀHÀ

Khế thứ mười bảy: “ Kết Thiêu Hương Khế”. Dựa theo Căn Bản Khế lúc trước, co ngón trỏ phải vịn đầu 2 ngón cái, liền thành. Diệu Ngôn là;

“ Aùn_ Lệ, sa-phộc ha”

OMÏ _ LE _ SVÀHÀ

Khế thứ mười tám : “ Kết Cúng Dường Ẩm Thực Khế”. Dựa theo Căn Bản Khế lúc trước, đem ngón trỏ trái vịn đầu 2 ngón cái, liền thành. Diệu Ngôn là:

“ Aùn_ Chuẩn, sa-phộc ha”

OMÏ _ CUNÕ _ SVÀHÀ

Khế thứ mười chín: “ Kết Đăng Khế”. Dựa theo Căn Bản Khế lúc trước, đem 2 ngón trỏ đều vịn đầu 2 ngón cái, liền thành. Diệu Ngôn là:

“ Aùn, đề, sa-phộc ha”

OMÏ _ DHE _ SVÀHÀ

( Nhóm Đồ Hương Khế bên trên, mỗi mỗi đều dùng Khế chạm vào trên sắc vật thật rồi cúng dường )

Khế thứ hai mươi : “ Kết Bố Tự Khế”. Tướng của Khế đó là: Đưa 2 ngón giữa, 2 ngón vô danh hướng vào bên trong  cùng cài chéo nhau. Kè dựng thẳng 2 ngón cái, 2 ngón trỏ, 2 ngón út cùng dính đầu ngón, liền thành.

Kết Thủ Khế này thành, liền tưởng thân của mình giống như Thích Ca Như Lai với 32 tướng tốt 80 loại tùy hình đẹp, thân tỏa ánh hào quang àu vàng tía ( Tử Ma Kim Sắc ) . Tưởng xong, dùng Thủ Khế ( Tay Ấn ) chạm trên đầu an chữ Aùn (OMÏ _            ) , chạm mắt an chữ Chiết ( CA_            ) mỗi mỗi y theo thứ tự chữ cho đến đầy đủ và dùng Khế chạm bày.

Nói Pháp Tưởng chữ của Đà La Ni an bày ở thân:

_ Aùn ( OMÏ _            ) tưởng an trên đầu

Màu sắc trắng như trăng

Tỏa nơi vô lượng quang

Trừ diệt tất cả chướng

Liền đồng Phật Bồ Tát

Xoa trên đỉnh người ấy

_ Chữ Chiết ( CA_           ) an hai mắt

Màu sắc như Nhật Nguyệt

Chiếu soi các ngu ám

Hay phát Thâm Tuệ Minh ( Ánh sáng Tuệ thâm sâu )

_ Chữ Leä ( LE_           ) an trên cổ

Màu như Lưu Ly cam

Hay hiển các sắc tướng

Dần đủ Trí Như Lai

_ Chữ Chủ (CU_            ) tưởng an tim

Màu sắc như trắng sáng

Giống như Tâm thanh tĩnh

Mau đạt Đạo Bồ Đề

_ Chữ Leä ( LE_           ) an hai vai

Màu vàng như Kim Sắc

Do quán sắc tướng ấy

Hay mặc Giáp Tinh Tiến

_ Chữ Chuẩn ( CUNÕ_                    ) trưởng trong rốn

Màu trắng vàng màu nhiệm

Mau khiến lên Đạo Trường

Được Bồ Đề Bất Thoái

_ Chữ Đề ( DHE_            ) an hai đùi

Màu sắc như vàng lợt

Mau chứng Đạo Bồ Đề

Được ngồi Tòa Kim Cương

_ Sa-Phộc ( SVÀ _            ) hai bắp chân

Dạng ấy màu vàng đỏ

Thường hay tưởng chữ ấy

Mau được chuyển Pháp Luân

_ Chữ Ha ( HA_           ) hai bàn chân

Màu sắc như trăng đầy

Hành Giả tác tưởng đó

Mau được đạt Viên Tịch

Như vậy Bố Tự ( an bày chữ ) tưởng niệm xong

Liền thành Chuẩn Đề Thắng Pháp Môn

Cũng là Bản Tôn Chân Thật Tướng

Hay diệt các tội, được cát tường

Giống như tụ Kim Cương bền chắc

Gọi là Chuẩn Đề Thắng Thượng Pháp

Nếu thường tu hành y như thế

Nên biết người ấy mau Tất Địa ( Siddhi_ Thành Tựu )

Khế thứ hai mươi mốt:” Đệ Nhị Căn Bản Khế”. Tướng của Khế đó là: Đưa 2 tay hướng vào bên trong cùng cài chéo nhau. Kèm dựng thẳng 2 ngón trỏ, 2 ngón cái, liền thành. Diệu Ngôn là:

“ Nam mô táp đá nẫm,tam miệu tam bột đà, câu đê nam. Đát diệt tha: Aùn_ Chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề, sa-phộc ha”

NAMO  SAPTÀNÀMÏ  SAMYAKSAMÏBUDDHA  KOTÏINÀMÏ

TADYATHÀ : OMÏ_ CALE  CULE  CUNÕDHE _ SVÀHÀ

( Tụng 7 biến, đưa Khế lên đỉnh đầu bung tán )

Khế thứ hai mươi hai: “ Kết Phụng Sổ Châu Khế” Tướng của Khế đó là: Trước tiên lấy Sổ Châu ( Tràng hạt ) để trong 2 lòng bàn tay, liền để ngang trái tim rồi chắp hai tay lại. Tụng Căn Bản Đà La Ni lúc trước 3 biến, đem tràng hạt đội trên đỉnh đầu, liền tác Bả Sổ Châu Khế để Tĩnh Châu ( Làm cho tràng hạt thanh tịnh )

Khế thứ hai mươi ba: “ Bả Sổ Châu Khế”. Tướng của Khế đó là: 2 ngón vô danh, 2 ngón cái đều vịn trên hạt châu, 2 tay cùng cách nhau khoảng một thốn, bung mở các ngón còn lại rồi hơi co lại, liền thành. Tụng Tĩnh Sổ Châu Diệu Ngôn là:

“ Aùn_ Vi lô già na, a ma la, sa-phộc ha”

OMÏ_ VAIROCANA  AMALA _ SVÀHÀ

( Tụng 3 biến )

Tĩnh Sổ Châu xong. Tự Tâm tưởng trong miệng của Thất Câu Đê Phật Mẫu tuôn ra văn tự của Thất Câu Đê Đà La Ni, mỗi một chữ phóng tỏa ánh sáng ngũ sắc nhập vào trong miệng của Hành Giả rồi an trong vành trăng ngay trái tim của mình, xoay chuyển theo bên phải đặt bày. Liền tụng Căn Bản Đà La Ni một biến, dùng ngón vô danh phải lần qua một hạt châu, cứ thế giáp vòng trở lại hạt ban đầu, chẳng gấp chẳng chậm, chẳng được cao giọng. Nên xưng chữ rõ ràng mà tự nghe được chữ an bày trên thân với Bản Tôn đã quán.

Niệm tụng Ký Số.Ở trong một niệm và tu một thời, quán thấy chẳng được khiếm khuyết khiến Tâm tán loạn.Nếu Quán Niệm mệt mỏi thì tùy sức niệm tụng hoặc 1000, 2000, 3000, 4000 cho đến 5000 biến . Thường lấy một số làm hạn định. Nếu có duyên sự, cũng chẳng được giảm số dưới 108 biến. Đây gọi là Thanh Niệm Tụng. Nếu cầu giải thoát sẽ mau ra khỏi sinh tử.

_ Tác Tam Ma Địa Quán Hạnh này thì không có ký không có số. Người niệm liền tưởng trái tim của mình có một mặt trăng đầy rất ư thanh tĩnh, trong ngoài rõ ràng. Đem chữ Aùn (            ) để trong tâm mặt trăng. Đem các chữ Chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề, sa-phộc ha(                                                                                   ) từ phía trước chuyển theo bên phải, thứ tự giáp vòng an bày Luân Duyên. Thành thật quán ( Đế quán ) nghĩa của mỗi một chữ, đem Tâm tương ứng chẳng được khác biệt.

Nói Nghĩa Bố Tự của Tam Ma Địa Quán Niệm

Aùn Tự Môn (            ) có nghĩa là Lưu Chú chẳng sinh diệt. Lại ở tất cả Pháp làm nghĩa Tối Thắng

Chiết Tự Môn (           ) Ở tất cả các Pháp làm nghĩa Vô Hành ( không có lưu chuyển )

Lệ Tự Môn (            ) ở tất cả Pháp làm nghĩa Vô Tướng (không có tướng )

Chủ Tự Môn (            ) ở tất cả Pháp làm nghĩa Vô Khởi Trụ ( Không có khới trụ )

Lệ Tự Môn (            ) ở tất cả Pháp làm nghĩa Vô Cấu (không có bợn nhơ )

Chuẩn Tự Môn (                    ) ở tất cả Pháp làm nghĩa Vô Đẳng Giác

Đề Tự Môn (             ) ở tất cả Pháp làm nghĩa Vô Thủ Xả ( không có lấy, không có bỏ )

Sa-phộc Tự Môn (            ) ở tất cả Pháp làm nghĩa Bình Đẳng Vô Ngôn Thuyết

Ha Tự Môn (            )ở tất cả Pháp làm nghĩa Vô Nhân Tịch Tịnh Vô Trụ Niết Bàn

Đã nói nghĩa của chữ. Tuy lập văn tự đều là nghĩa không có văn tự. Để không có văn tự nên đế quán mỗi một nghĩa tướng, vòng quanh rồi lại bắt đầu, không có ký không có số, chẳng được cắt đứt ( đoạn tuyệt ) . Chẳng cắt đứt là nghĩa Tối Thắng lưu chú chẳng sinh chẳng diệt. Do nghĩa tối thắng chẳng sinh chẳng diệt cho nên là Vô Hành. Vì nghĩa Vô Hành cho nên là Vô Tướng. Vì nghĩa Vô Tướng cho nên là Vô Khởi Trụ. Vì nghĩa vô khởi trụ cho nên là Vô Đẳng Giác. Vì nghĩa vô đẳng giác cho nên là vô thủ xả. Vì nghĩa vô thủ xả cho nên là Bình đẳng vô ngôn thuyết. Vì nghĩa bình đẳng vô ngôn thuyết cho nên là vô nhân tịch tịnh vô trụ niết bàn. Vì nghĩa Tịch Tịnh Vô Trụ Niết Bàn cho nên là bất sinh bất diệt tối thắng vô đoạn tuyệt, vòng quanh rồi lại bắt đầu. Đây gọi là Tam Ma Địa Niệm Tụng

Nói Pháp Chuẩn Đề Cầu Nguyện Quán Tưởng:

Nếu cầu Vô Phân Biệt nên quán Vô phân biệt vô ký niệm

Nếu cầu Vô Tướng Vô Sắc nên quán văn tự vô văn tự niệm

Nếu cầu Pháp Môn Không Hai ( Bất Nhị Pháp Môn ) nên quán 2 cánh tay

Nếu cầu  Bốn Vô Lượng nên quán 4 cánh tay

Nếu cầu Sáu Thông nên quán 6 cánh tay

Nếu cầu Tám Thánh Đạo nên quán 8 cánh tay

Nếu cầu Mười Ba La Mật, viên mãn Mười Địa nên quán 10 cánh tay

Nếu cầu Như Lai Phổ Biến Quảng Địa nên quán 12 cánh tay

Nếu cầu mười tám Pháp Bất Cộng nên quán 18 cánh tay. Liền quán Pháp như tượng vẽ

Nếu cầu 32 Tướng nên quán 32 cánh tay

Nếu cầu 84000 Pháp Môn nên quán 84 cánh tay

Quán Niệm như trên sẽ vào Nhất Thiết Như Lai Tam Ma Địa Thậm Thâm Phương Quảng Bất Tư Nghị Địa, là Chính Niệm Xứ, là Chính Chân Như, là Chính Giải Thoát.

Niệm Tụng Quán Hạnh xong. Muốn ra khỏi Đạo Trường , lại nên y theo thứ tự trước. Liền kết Thủ Khế của nhóm: Thiêu Hương, Đăng Minh, Aám Thực, Cúng Dường, Sám Hối, Tùy Hỷ, Phát Nguyện.

Liền kết Đệ Nhất Căn Bản Khế lúc trước, tụng Căn Bản Đà La Ni 7 biến rồi bung Ấn trên đỉnh đầu.

Lại kết Xa Lộ Khế lúc trước, đưa 2 ngón cái hướng ra ngoài, bật đầu ngón giữa 3 lần, tụng Diệu Ngôn là:

“ Aùn_ Đổ lô, đổ lô, Sa-phộc ha”

OMÏ_ TURU  TURU _ SVÀHÀ

( Tụng 3 biến )

Lại kết Nghinh Thỉnh Ấn lúc trước. Đem ngón cái hướng ra ngoài, mở 3 lần liền thành Tống Thánh Giả Hoàn Bản Cung. Diệu Ngôn là:

“ Aùn_ Chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề, nghiệt xa nghiệt xa, bà nga phộc để, sa phộc bá nẫm, bố ná , a yết la nga, ma na gia, sa-phộc ha”

OMÏ_ CALE  CULE  CUNÕDHE _ GACCHA  GACCHA  BHAGAVATI  SVÀBHANÀMÏ  BUDDHA  ARGHA  MANÀYA_ SVÀHÀ

Liền kết Ngoại Hỏa Viện Đại Giới Khế lúc trước, tụng A Tam Ma Kỳ Neã Diệu Ngôn, chuyển bên trái 3 lần liền thành.

Liền kết 3 Bộ Tam Ma Gia Khế, đều tụng Diệu Chân Ngôn một biến liền xong, tùy ý ra khỏi Đạo Trường, tùy ý Kinh Hành. Đọc tụng Đại Bát Nhã hoặc Hoa Nghiêm, hoặc Vô Biên Môn, hoặc Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Niết Bàn, Kinh Luận Đại Thừa…suy tư, tụng, nói hoặc đem ấn Tháp Tượng Thất Câu Đê Phật, dùng ấn bùn thơm,trên cát, trên giấy… tùy ý nhiều ít.

Nếu niệm tụng có công đức như cảnh giới đã nói trong Kinh, mỗi mỗi biết thứ tự thật rõ ràng.

Muốn tác mọi loại phương pháp của nhóm Phiến Để Ca ( ‘Sàntika_ Tức Tai ) hoặc vì tự thân hoặc vì người khác liền dốc lòng y theo Pháp mà tác niệm tụng.Nếu muốn Tức Tai trừ tất cả Quỷ Thần và được thông minh, trường thọ, cầu giài thoát. Liền ở trong Đạo Trường, hướng mặt về phương Bắc, chéo 2 bắp chân dựng thẳng đầu gối mà ngồi. Quần áo, thức ăn uống, hương, hoa, đèn, đuốc, đất đều dùng màu trắng. Từ ngày mồng một đến ngày mồng 8 của tháng, một ngày 3 thời niệm tụng với Pháp của nhóm Hộ Ma. Nếu Niệm Tụng thời trước tiên tụng Căn Bản Đà La Ni 7 biến xong, sau đó chỉ tụng từ chữ Aùn. Diệu Ngôn là:

“ Aùn_ Chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề ban cho ( họ tên của mình hay người khác) trừ tai nạn, sa-phộc ha”

OMÏ_ CALE  CULE  CUNÕDHE  ( Khiến cho…. ) ‘SÀNTIMÏ  KURU _ SVÀHÀ

Nói Pháp Bố Sắt Trí Ca ( Pusïtïika _ Tăng Ích ) . Nếu muốn cầu tăng trưởng 5 Thông, Chuyển Luân, mọi loại Bảo Tạng, Bố Xa Luân, Kiếm, Hiền Bình, Như Ý Bảo, An Thiện Na, Ngu Lý Ca, Gương, Búa, Sợi dây, Tam Cổ Xoa… tất cả tài bảo, cỏ thuốc… cầu Pháp thành tựu. Thân mặc áo vàng, hướng mặt về phương Đông, ngồi Kiết Già. Mọi thứ cúng dường như hương, hoa, thức ăn uống, quả trái, đèn đuốc, đất… đều dùng màu vàng. Từ ngày mồng 8 đến ngày 15 của tháng, mỗi ngày 3 thời niệm tụng, làm việc Hộ Ma, niệm tụng như trước. Diệu Ngôn là:

Aùn_ Chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề ban cho ( họ tên… ) sở cầu như ý, sa-phộc ha”

OMÏ_ CALE  CULE  CUNÕDHE ( Khiến cho…. ) PUSÏTÏIMÏ  KURU _ SVÀHÀ

Nói Pháp Phạt Thí Ca La Noa ( Va’sikaranïa_ Kính Aùi ) Nếu muốn hô triệu tất cả hàng Trời, Rồng, Quỷ , Thần, Người, Phi Nhân…thì nên tác Pháp này. Thân mặc áo đỏ, hướng mặt về phương Tây, ngồi theo thế Hiền Tọa. Hương, hoa, thức ăn uống, Quả trái, đèn đuốc, đất… đều dùng màu đỏ. Từ ngày 16 đến ngày 23 , mỗi ngày 3 thời niệm tụng, tác Pháp Hộ Ma. Diệu Ngôn là:

Aùn_ Chiết lệ,chủ lệ, chuẩn đề. Vì con nhiếp triệu vị Thần ( tên là…. ) thành tựu nguyện của con, sa-phộc ha”

OMÏ _ CALE  CULE  CUNÕDHE ( Khiến cho…. ) VA’SI  KURU _ SVÀHÀ

Nói Pháp A Tỳ Già Lỗ Ca ( Abhicàruka_ Giáng Phục ) Nếu muốn giáng phục tất cả Quỷ Thần với Người, Trời… là tổn hoại Tam Bảo, chúng sinh có nhiệu tội nghiệp chướng nặng, kẻ khó điều phục … hay khiến phát Tâm Bồ Đề, tu các nghiệp lành thì nên khởi Tâm Từ Bi mà tác Pháp này. Thân mặc áo xanh, hướng mặt về phương Nam, tác Tông Cứ Tọa ( chéo ống chân ngồi xổm ) ống chân phải đè ống chân trái. Dùng hương, hoa, thức ăn uống, quả trái, đất… đều là màu xanh đen. Từ ngày 23 đến ngày cuối tháng, mỗi ngày 3 thời niệm tụng, tác Pháp Hộ Ma. Diệu Ngôn là:

“ Aùn_ Chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề, hồng, phát tra”

OMÏ_ CALE  CULE  CUNÕDHE  HÙMÏ  PHATÏ

Tác Pháp xong, niệm tụng như thường

Nói Pháp Vẽ Tượng Thất Câu Đê Phật Mẫu Chuẩn Đề

Lấy lụa trắng thanh tịnh chư bị cắt, loại bỏ tóc người. Họa Sư thọ 8 Giới Tế, chẳng dùng keo nấu bằng da thú để hòa màu sắc, mọi thứ trang nghiêm thân ấy. Từ eo trở xuống mặc áo trắng, áo trên có hoa. Lại thân khoác áo ngoài ( Thiên Y ) bằng lụa mịn màng mỏng nhẹ. Dùng đai ngũ sắc cột eo, mây sắc đỏ sáng sớm quấn quanh thân, cổ tay đeo xuyến bằng vỏ ốc trắng, cánh tay đeo vòng xuyến dùng 7 báu trang nghiêm. Trên mỗi một tay đeo Chỉ Hoàn ( Nhẫn ) . Thân có 18 tay, mặt có 3 mắt.

2 tay bên trên tác tướng Thuyết Pháp

Bên phải: tay thứ hai Thí Vô Úy, tay thứ ba cầm cây Kiếm, tay thứ tư cầm tràng hạt, tay thứ năm cầm quả Vĩ Nhạ Bố La Ca ( Đường gọi là Tử Mãn Quả, nơi này không có chỉ Tây Tạng mới có ) , tay thứ sáu cầm cây búa, tay thứ bảy cầm móc câu, tay thứ tám cầm Bạt Chiết La ( Vajra_ Chày Kim Cương ) , tay thứ chín cầm vòng hoa báu ( Bảo Man )

Bên trái : tay thứ hai cầm cây phướng báu Như Ý, tay thứ ba cầm hoa sen, tay thứ tư cầm bình Táo Quán, tay thứ năm cầm sợi dây, tay thứ sáu cầm bánh xe, tay thứ bảy cầm vỏ ốc ( Loa ) tay thứ tám cầm Hiền Bình, tay thứ chín cầm rương Kinh Bát Nhã Ba La Mật.

Phía dưới Bồ Tát làm ao nước. Trong ao có 2 vị Long Vương ( Nàga Ràja ) là Nan Đà ( Nanda ) và Ô Bạt Nan Đà ( Upananda ) cùng nâng cuống hoa sen, ở trên hoa sen an Chuẩn Đề Bồ Tát ( Cunõdhe Bodhisatva ) . Vòng tròng chung quanh Tượng ấy an lửa rực sáng. Tượng ấy tác con mắt thương xót nhìn xuống. Hành Giả ngồi ngay bên dưới, tay cầm lò hương, hướng mặt lên trên nhìn Bồ Tát. Ở phía trên Bồ Tát vẽ 2 vị Tĩnh Cư Thiên. Tượng Pháp như vậy, xong.

PHẬT THUYẾT THẤT CÂU ĐÊ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐÀ LA NI KINH

 ( Kèm Niệm Tụng Quán Hạnh Pháp )

Hết

19/10/2002

 

back_to_top.png

 

 

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0