佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

 TRANG CHỦ*--KINH ĐIỂN*--ĐẠI TẠNG KINH*--THẦN CHÚ*--HÌNH ẢNH*--中文*--ENGLISH

 

[M] [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7]

KINH ĐẠI THỪA NHẬP LĂNG-GIÀ

Hán Dịch: Đại Châu Vu-Điền, Tam Tạng Pháp Sư Thật-Xoa-Nan-Đà

Việt Dịch: Thích Nữ Trí Hải

QUYỂN BẢY

CHƯƠNG 10,2 : KỆ TỤNG - PHẦN THỨ NH̀

Nếu những bậc tu hành

Không khởi các phân biệt

Không lâu được tam muội

Lực, thông, và tự tại

Kẻ tu hành không nên

Vọng chấp nhân, vi trần

Thời, thắng tính, tác giả

Duyên sinh ra thế gian

Thế gian do phân biệt

Các thứ tập khí sinh

Kẻ tu hành hăy quán

Các hữu như mộng huyễn

Xa ĺa kiến chấp thường

Phủ định và xác định

Thân, tài sản, chỗ ở

Không phân biệt ba cơi

Không nghĩ việc ăn uống

Chính niệm đoan thân trú

Luôn luôn cung kính lễ

Chư Phật và Bồ Tát

Khéo giải nghĩa kinh luật

Pháp lư thú chân thật

Năm pháp, hai vô ngă

Lại tư duy tự tâm

Pháp nội chứng thanh tịnh

Các địa cùng Phật địa

Hành giả tu như thế

Ngồi đài sen, (được) quán đảnh

Du hành khắp các nẻo

Chán ghét tất cả hữu

Đến g̣ mả, chỗ tịnh

Tu tập các quán hạnh

Có vật không nhân sinh

Vọng nói ĺa đoạn, thường

Lại nói ĺa hữu, vô

Vọng chấp là trung đạo

Vọng chấp vô nhân luận

Vô nhân là đoạn kiến

V́ không rơ ngoại vật

Phá hoại lư trung đạo

Sợ sa vào đoạn kiến

Không xả pháp sở chấp

Vừa xác định phủ định

Vọng nói là trung đạo

Khi đă rơ duy tâm

Xả ĺa hết ngoại pháp

Lại ĺa vọng phân biệt

Như thế hợp trung đạo

Duy tâm, không có cảnh

Không cảnh, tâm không sinh

Ta và chư Như Lai

Nói đó là trung đạo

Dù sinh hay không sinh

Tự tính, không tự tính

Hữu và vô đều không

Không nên phân biệt hai

Không thể khởi phân biệt

Kẻ ngu nói giải thoát

Tâm không biết trí sinh

Sao đoạn được nhị chấp

V́ hiểu rơ tự tâm

Đoạn được hai sở chấp

Hiểu rơ nên đoạn được

Không phải không phân biệt

Biết rơ do tâm hiện

Phân biệt sẽ không khởi

V́ phân biệt không khởi

Tâm chân như chuyển y

Nếu thấy pháp khởi ra

Ĺa các lỗi ngoại đạo

Niết Bàn của bậc trí

Không phải là diệt hoại

Ta và chư Phật nói

Biết vậy sẽ thành Phật

Nếu lại thêm phân biệt

Tức là luận ngoại đạo

Không sinh mà hiện sinh

Không diệt mà hiện diệt

Biến khắp muôn ức chỗ

Liền hiện như trăng nước

Một thân làm nhiều thân

Đốt lửa cùng rưới mưa

Tùy cơ hiện trong tâm

Cho nên nói duy tâm

Tâm cũng là duy tâm

Phi tâm cũng tâm khởi

Thông đạt các sắc tướng

Tất cả đều duy tâm

H́nh tướng Phật, Thanh Văn

Cùng hiện tướng Duyên Giác

Và các h́nh sắc khác

Đều nói là duy tâm

Từ nơi vô sắc giới

Cho đến trong địa ngục

V́ chúng sinh hiện khắp

Đều do tâm làm nên

Các tam muội như huyễn

Cùng với thân ư sinh

Mười địa và tự tại

Đều do chuyển y thành

Kẻ ngu bị tưởng chuyển

Theo thấy nghe hay biết

Tự phân biệt điên đảo

Bị hư luận làm động

Hết thảy không, vô sinh

Ta thật không Niết Bàn

Hóa Phật ở các cơi

Nói tam thừa, nhất thừa

Phật có ba mươi sáu

Mỗi loại có mười hạng

Tùy tâm khí chúng sinh

Mà hiện ở các cơi

Pháp Phật ở thế gian

Cũng như tính vọng kế

Tuy thấy có đủ thứ

Kỳ thực không có ǵ

Pháp Phật là chân phật

Ngoài ra đều (là) Hóa Phật

Tùy chủng tử chúng sinh

Thấy hiện thân của Phật

V́ mê hoặc các tướng

Nên khởi ra phân biệt

Phân biệt không khác chân

Tướng bất (?) nơi phân biệt

Tự tính cùng thọ dụng

Hóa thân cùng Hiện hóa

Ba mươi sáu vị Phật

Đều do tự tính thành

Do giống tập huân ngoài

Mà sinh ra phân biệt

Không giữ cái chân thật

Mà giữ cái vọng chấp

Mê hoặc do nội tâm

Cùng duyên ở ngoại cảnh

Chỉ hai thứ ấy khởi

Không có duyên thứ ba

Mê hoặc nương trong ngoài

Mà có ra sinh khởi

Sáu mươi hai, mười tám

Nên Ta nói là tâm

Biết chỉ có căn, cảnh

Tất ĺa nơi ngă chấp (àtmagràha)

Rơ tâm không cảnh giới

Liền ĺa được pháp chấp

Do nương nơi bản thức (àlaya)

Mà có các thức sinh

Do nương vào nội xứ

Mà tợ h́nh hiện ngoài

Kẻ ngu thường phân biệt

Hữu vi cùng vô vi

Đều là bất khả đắc

Như hoa đốm, mao luân

Như thành Càn Thát Bà

Như huyễn như ảo tượng

Không có mà thấy có

Duyên khởi pháp cũng thế

Ta do ba thứ tâm

Giả lập căn, cảnh, ngă

Mà tâm, ư, thức kia

Tự tính thật không có

Tâm ư cùng với thức

Vô ngă có hai thứ

Năm pháp và tự tính

Ấy là cảnh giới Phật

Nhân tập khí là một

Mà thành ra ba tướng

Như lấy một màu ḥa

Tường vẽ thấy các h́nh

Năm pháp hai vô ngă

Tự tính, tâm, ư thức

Ở trong chủng tính Phật

Đều là bất khả đắc

Xa ĺa tâm, ư, thức

Lại ĺa nơi năm pháp

Và ĺa nơi tự tính

Đấy là chủng tính Phật

Nếu nghiệp thân ngữ ư

Không tu pháp bạch tịnh

Chủng tính tịnh của Phật

Tất ĺa nơi hiện hạnh

Thần thông lực tự tại

Tam muội, tịnh trang nghiêm

Các thứ ư sinh thân

Ấy chủng tính Phật tịnh

Chỗ nội chứng vô cấu

Xa ĺa các tướng nhân

Bát địa và Phật địa

Do Như Lai tính thành

Viễn Hành cùng Thiện Thệ

(Dùramgamà, Sàdhumat́)

Pháp Vân và Phật địa

Đều là chủng tính Phật

Ngoài ra đều nhị thừa

Tâm Như Lai tự tại

Nhưng v́ hàng ngu phu

Tướng tâm có sai biệt

Mà nói bảy thứ địa

Địa thứ bảy không khởi

Lỗi lầm thân ngữ ư

Sở y địa thứ tám

Như mộng thấy qua sông

Địa thứ tám thứ năm

Hiểu rơ công xảo minh

Các Bồ Tát hay làm

Vua trong các cơi hữu

Kẻ trí không phân biệt

Sinh hay là không sinh

Không cùng với bất không

Tự tính, vô tự tính

Thảy chỉ là tâm lượng

Mà thật bất khả đắc

V́ hàng nhị thừa nói

Đây thật, đây hư vọng

Không phải v́ Bồ Tát

Không nên nói phân biệt

Hữu phi hữu đều không

Cũng không tướng sát na

Pháp giả, thật cũng không

Ngoài tâm không có được

Hữu pháp là tục đế

Vô tính đệ nhất nghĩa

Mê hoặc chỗ vô tính

Ấy tức là thế tục

Hết thảy pháp đều không

Ta v́ hàng phàm ngu

Theo tục giả bày nói

Nhưng đấy không chân thật

Các pháp do ngôn khởi

Tất có nghĩa sở hành

Khi thấy do ngôn sinh

Th́ các pháp không có

Như ĺa tưởng không hoa

Ĺa h́nh cùng không bóng

Nếu tạng thức thanh tịnh

Th́ sóng thức không sinh

Nương Pháp thân có Báo

Từ Báo khởi Hóa thân

Đấy là căn bản Phật

Ngoài ra Hóa Phật hiện

Không nên vọng phân biệt

Không cùng với bất không

Vọng chấp hữu và vô

Lời nghĩa đều không có

Kẻ phàm vọng phân biệt

Đức, thật, trần làm sắc

Một mảy trần không có

Cho nên không cảnh giới

Chúng sinh thấy tướng ngoài

Đều do tự tâm hiện

Cái bị thấy đă không

Nên không có ngoại cảnh

Như voi bị sa lầy

Không thể nào di động

Thanh Văn trú trong định

Ch́m đắm cũng như thế

Nếu thấy các thế gian

Do tập khí làm nhân

Hữu vô đều không thấy

Pháp vô ngă, giải thoát

Tự tính là vọng kế (parikalpita)

Duyên khởi tức y tha (paritantra)

Chân như là viên thành

Trong kinh Ta thường nói

Tâm, ư cùng với thức

Phân biệt cùng biểu thị

Tạng thức làm ba cơi

Đều đồng nghĩa với tâm

Thọ mạng, hơi ấm, thức

A Lại Gia, mạng căn (j́vitendriyà)

Ư cùng với ư thức

Đều đồng nghĩa “phân biệt”

Tâm hay giữ được thân

Ư (manas) xét đoán suy lường

Ư thức cùng năm thức

Rơ cảnh giới tự tâm

Hoặc thật có ngă thể

Khác uẩn cùng trong uẩn

Nơi đó t́m ngă thể

Rốt ráo không thể được

Quán thế gian mỗi mỗi

Các phiền năo chính, phụ

Đều do tự tâm hiện

Ĺa khổ được giải thoát

Tâm trí Thanh Văn đạt

Tịch tịnh trí Duyên Giác

Trí tuệ của Như Lai

Sinh khởi vô cùng tận

Thật không có sắc ngoài

Chỉ do tự tâm hiện

Phàm phu không hay biết

Vọng phân biệt hữu vi

Không biết cảnh giới ngoài

Các thứ đều do tâm

Kẻ ngu dùng nhân, dụ

Lập thành bốn cú nghĩa

Bậc trí tất hiểu rơ

Cảnh giới tự tâm hiện

Không dùng tôn nhân dụ

Lập ra các cú nghĩa

Phân biệt, bị phân biệt

Đều là tướng vọng kế

Y chỉ nơi vọng kế

Mà khởi thêm phân biệt

Xoay chuyển nương lẫn nhau

Đều do một tập khí

Cả hai đều là khách

Không (phải) tâm chúng sinh khởi

Ở yên trong ba cơi

Phân biệt tâm, tâm sở

Tợ cảnh giới hiện ra

Là tự tính vọng kế

H́nh bóng cùng chủng tử

Hợp thành mười hai xứ

Sở y, sở duyên hợp

Nói có vật được sinh

Cũng như bóng trong gương

Mắt ḷa thấy mao luân

Tập khí che cũng thế

Kẻ ngu khởi vọng kiến

Nơi cảnh tự phân biệt

Mà khởi thêm phân biệt

Ngoại cảnh không thể có

Như ngu không biết dây

Lầm cho dây là rắn

Không hiểu tự tâm hiện

Vọng phân biệt cảnh ngoài

Như thế tự thể dây

Tính nhất dị đều ĺa

Chỉ v́ tâm mê lầm

Vọng khởi phân biệt dây

Khi vọng kế phân biệt

Tính vọng kế không c̣n

Như các vật cũng vậy

Chỉ do phân biệt sinh

Sở kiến tuyệt phi hữu

Từ vô thỉ mê hoặc

Khởi phân biệt hữu vi

Pháp nào khiến mê hoặc

Nguyện Phật v́ con nói

Các pháp không tự tính

Chỉ do tự tâm hiện

Không hiểu rơ tự tâm

Cho nên phân biệt sinh.

Như kẻ ngu phân biệt

Vọng kế thật không có

Có những cái khác thế

Mà kẻ ngu không biết

Những cái bậc thánh có

Kẻ ngu không biết đến

Nếu thánh cũng như phàm

Th́ thánh có hư vọng

V́ tâm thánh vốn tịnh

Nên không có mê hoặc

Tâm phàm ngu không tịnh

Nên có vọng phân biệt

Như mẹ bảo con thơ:

“Thôi con đừng khóc nữa

Trên trời có quả rơi

Xuống nhiều cho con bắt”

Ta v́ chúng sinh nói

Các thứ quả tưởng tượng

Khiến chúng vui ham theo

Pháp thật ĺa hữu vô

Các pháp trước không có

Các duyên không ḥa hợp

Vốn không sinh mà sinh

Tự tính vốn không có

Pháp chưa sinh không sinh

Ĺa duyên, không chỗ sinh

Pháp hiện sinh cũng thế

Ĺa duyên không thể có

Quán thật chỉ duyên khởi

Không hữu cũng không vô

Không hữu vô cùng sinh

Kẻ trí không phân biệt

Kẻ ngu phu ngoại đạo

Vọng nói tính nhất, dị

Không hiểu lư duyên khởi

Thế gian như huyễn mộng

Đại thừa Ta vô thượng

Siêu việt nơi danh ngôn

Nghĩa ấy rất rơ ràng

Mà kẻ ngu không biết

Thanh Văn cùng ngoại đạo

Thuyết họ đầy xan lẫn

Khiến nghĩa đều biến đổi

Tất cả do vọng kế

Các tướng cùng tự thể

H́nh trạng cùng với tên

Bốn thứ ấy duyên nhau

Mà khởi các phân biệt

Chấp do Phạm, Tự Tại

Một thân (Suz. Nhân) cùng nhiều thân

Cùng nhật nguyệt vận hành

Kẻ ấy không (phải) con Ta

Đầy đủ các Thánh kiến

Thông đạt pháp như thật

Khéo léo chuyển các tưởng

Đến bên kia bờ thức

Dùng pháp giải thoát này

Ĺa hẳn nơi hữu vô

Cùng ĺa chỗ khứ, lai

Đấy (là) con trong pháp Ta

Nếu sắc, thức chuyển diệt

Các nghiệp bị hư hoại

Tức là không sinh tử

Cũng không thường, vô thường

Nhưng khi chúng chuyển diệt

Tuy xả ly sắc xứ

Nghiệp vẫn ở tạng thức

Ĺa lỗi lầm hữu vô

Sắc thức tuy chuyển diệt

Mà nghiệp không hoại mất

Khiến ở trong các cơi

Sắc thức lại tương tục

Nếu các chúng sinh kia

Nghiệp đă khởi bị hoại

Ấy là không sinh tử

Lại không có Niết Bàn

Nếu nghiệp cùng sắc thức

Đồng thời mà diệt hoại

(Nếu) Trong sinh tử có sinh

Sắc, nghiệp sẽ không khác

Sắc, tâm và phân biệt

Không khác, không không khác

Kẻ ngu nói diệt hoại

Mà thật ĺa hữu, vô

Duyên khởi cùng vọng kế

Xoay vần không tướng riêng

Như sắc với vô thường

Xoay chuyển sinh cũng thế

Đă ĺa khác, không khác

Vọng kế không thể biết

Như sắc tính vô thường

V́ sao nói có không

Khéo đạt chỗ vọng kế

Duyên khởi tất không sinh

Do thấy chỗ duyên khởi

Vọng kế tức chân như

Nếu diệt tính vọng kế

Tức là hoại pháp nhăn

Bèn ở trong pháp Ta

Xác định cùng phủ định

Các hạng người như thế

Thường hủy báng chính pháp

Kẻ kia cùng phi pháp

Diệt hoại pháp nhăn Ta

Bậc trí không giao thiệp

Lại bỏ việc tỳ kheo

V́ phá hoại vọng kế

Nên xác định, phủ định

Nếu theo sự phân biệt

Khởi các kiến hữu, vô

Họ như huyễn, mao luân

Mộng, nắng cùng Càn thành

Họ không học Phật pháp

Không nên cùng ở chung

Đă tự do hai biên (?)

Lại c̣n phá người khác

Nếu có bậc tu hành

Quán nơi tính vọng kế

Vắng lặng ĺa hữu vô

Phật tử nên cùng ở

Như thế gian có chỗ

Sinh vàng, ngọc ma ni

Chỗ kia không tạo tác

Mà chúng sinh thọ dùng

Nghiệp tính cũng như vậy

Xa ĺa các thứ tính

Nghiệp được thấy vốn không

Mà vẫn sinh các nẻo

Như chỗ thánh biết rơ

Pháp đều không có ǵ

Do kẻ ngu phân biệt

Pháp vọng kế phi không

V́ kẻ ngu phân biệt

Pháp ấy không có vậy

Đă không hết thảy pháp

Chúng sinh không tạp nhiễm

V́ có pháp tạp nhiễm

Bị vô minh, ái buộc

Hay khởi thân sinh tử

Các căn tất đầy đủ

Nếu nói ngu phân biệt

Pháp này đều là không

Th́ không các căn sinh

Kẻ tu hành không chơn

Nếu không có pháp này

Vẫn làm nhân sinh tử

Kẻ ngu không đợi tu

Tự nhiên mà giải thoát

Nếu không có pháp kia

Phàm Thánh làm sao phân

Lại tất không Thánh nhân

Tu hành ba giải thoát

Các uẩn cùng nhân, pháp

Tự, cọng tướng sáu tướng

Các duyên và các căn

Ta v́ Thanh Văn nói

Duy tâm và không nhân

Các địa và tự tại

Chân như tịnh nội chứng

Ta v́ Bồ Tát nói

Đời vị lai sẽ có

Kẻ mặc áo ca sa

Vọng nói chỗ hữu, vô

Hủy hoại chính pháp Ta

Pháp duyên khởi vô tính

Là lănh vực chư Thánh

Tính vọng kế không vật (Bhàva)

Kẻ suy tính phân biệt

Vị lai có kẻ ngu

Các ngoại đạo Kiệt ma (Kanabhuj)

Nói ra luận vô nhân (Asatkàryavàda)

Ác kiến hoại thế gian

Vọng nói các thế gian

Đều do vi trần sinh

Mà trần kia không nhân

Chín món thật vật thường

Do thật mà sinh thật

Do đức mà sinh đức

Pháp tính khác với đây

Hủy báng nói không có

Nếu vốn không mà sinh

Thế gian có nhân đầu

Sinh tử không nhân đầu

Ấy là pháp của Ta

Hết thảy vật ba cơi

Vốn không mà sinh ra

Th́ lừa, chó sinh sừng

Đáng lẽ không nghi ngại

Noăn sắc thức vốn không

Mà nay mới có sinh

Áo, mũ, đệm các thứ

Lẽ ra do bùn sinh

Trong vải không có đệm

Trong cây bồ cũng không

Trong mỗi duyên sao không

Đều sinh ra cái đệm

Nếu mạng và thân kia

Vốn không mà nay sinh

Như Ta đă nói trước

Đấy là luận ngoại đạo

Tôn Ta nói trước kia

V́ để ngăn ư ấy

Khi ngăn ư ấy rồi

Sau mới nói tên ḿnh

Sợ rằng chúng đệ tử

Mê chấp tôn hữu vô

Nếu Ta v́ kẻ ấy

Trước nói luận ngoại đạo (t́thavàda)

Ác tuệ Ca tỳ la

V́ các đệ tử nói

Thắng tính sinh thế gian

(Bị cầu na) chuyển biến

V́ các duyên không có

Không đă sinh, hiện sinh

Các duyên đă là không

Không sinh không bất sinh

Tôn Ta ĺa hữu vô

Lại ĺa các nhân duyên

Sinh diệt và sở tướng

Hết thảy đều xa ĺa

Thế gian như huyễn mộng

Nhân duyên đều vô tính

Thường quán sát như vậy

Phân biệt tuyệt không khởi

Nếu quán được các hữu

Như ảo tượng, mao luân

Lại như Tầm hương thành

Thường ĺa hữu ĺa vô

Nhân duyên đều xả ly

Khiến tâm được thanh tịnh

Nếu nói không ngoại cảnh

Mà chỉ có tâm thôi

Không cảnh tức không tâm

Làm sao thành duy thức (cittamàtra)

Nếu có cảnh sở duyên

Tâm chúng sinh khởi lên

Không nhân tâm không sinh

Làm sao thành duy thức

Chân như cùng duy thức

Là lănh vực chúng Thánh

Có danh ngôn không thật

Không giải được pháp Ta

Do năng thủ sở thủ

Mà tâm có sinh khởi

Tâm thế gian như vậy

Nên không là duy tâm

H́nh bóng, thân, tài, đất

Như huyễn, do tâm sinh

Tâm tuy phân làm hai

Mà tâm không hai tướng

Như dao không tự cắt

Như ngón không tự sờ

Tâm không tự thấy ḿnh

Việc ấy cũng như vậy

Không có h́nh tượng xứ

Tất không y tha khởi

Tính vọng kế cũng không

Năm pháp hai tâm diệt

Năng sinh và sở sinh

Đều là tướng tự tâm

Mật ư nói năng sinh

Mà thật không tự sinh

Các thứ cảnh h́nh trạng

Nếu do tưởng tượng sinh

Hư không cùng sừng thỏ

Đáng cũng thành cảnh tướng

Tợ cảnh do tâm khởi

Cảnh ấy không phải vọng

Nhưng cảnh vọng kế kia

Ĺa tâm không thể có

Trong vô thỉ sinh tử

Cảnh giới đều không có

Tâm không có chỗ khởi

Làm sao thành h́nh tượng

Nếu vật không có (mà) sinh

Sừng thỏ đáng cũng sinh

Không thể vô vật sinh

Mà khởi ra phân biệt

Như bóng gương không có

Th́ trước kia cũng không

Làm sao trong vô cảnh

Mà tâm duyên cảnh khởi

Chân như, không, thật tế

Niết Bàn cùng pháp giới

Hết thảy pháp không sinh

Ấy tính đệ nhất nghĩa

Kẻ ngu sa hữu vô

Phân biệt các nhân duyên

Không thể biết các hữu

Không sinh, không tác giả

(Do) Tâm vô thỉ làm nhân

Duy tâm không có vật

Đă không cảnh vô thỉ

Tâm do đâu mà sinh?

Vô vật mà sinh được

Th́ nghèo đáng là giàu

Vô cảnh mà sinh tâm

Nguyện Phật v́ con nói

Hết thảy đều không nhân

Không tâm cũng không cảnh

Tâm đă không chỗ sinh

Ĺa chỗ làm ba cơi

Nhân các b́nh, áo, sừng

Mà nói không sừng thỏ

Cho nên không được nói

Không có pháp nhân nhau

Không nhân có mà không

Cái không ấy không thành

Có đối không cũng thế

Xoay chuyển nhân nhau khởi

Nếu y theo vài pháp

Mà có vài pháp khởi

Ấy tức cái đă y

Không nhân mà tự có

Nếu vật có chỗ nương

Chỗ nương cũng có nương

Th́ thành lỗi vô cùng

Lại không có ít pháp

Như nương các cây lá

Hiện ra các huyễn tướng

Chúng sinh cũng như vậy

Nương sự hiện các vật

Nương năng lực huyễn sư

Kẻ ngu thấy huyễn tướng

Nương nơi các cây lá

Không huyễn nào có được

Nếu y chỉ nơi sự

Pháp ấy tức liền hoại

Sở kiến đă không hai

C̣n chút nào phân biệt

Phân biệt không vọng kế

Phân biệt cũng không có

V́ phân biệt là không

Không sinh tử Niết Bàn

Do không (cái) bị phân biệt

Phân biệt tất không khởi

Làm sao tâm không khởi

Mà có được duy tâm

Ư sai biệt vô lượng

Đều không pháp chân thật

Không thật không giải thoát

Lại không các thế gian

Như kẻ ngu phân biệt

Sở kiến ngoài đều không

Tập khí quấy đục tâm

Như h́nh ảnh hiện ra

Các thứ pháp hữu, vô

Hết thảy đều không sinh

Chỉ duy tự tâm hiện

Xa ĺa nơi phân biệt

Nói các pháp do duyên

Cho kẻ ngu, chẳng trí

Tự tính tâm giải thoát

Tịnh tâm lănh vực thánh

Số, thắng cùng lộ h́nh (nanga)

Phạm Chí (Vipra) và Tự Tại

Đều sa vào vô kiến

Xa ĺa nghĩa tịch tịnh

Không sinh, không tự tính

Ly cấu, không như huyễn

Phật xưa và Phật nay

V́ ai nói như vậy

Kẻ tịnh tâm tu hành

Ĺa các kiến, kế đạt

Chư Phật v́ họ nói

Ta cũng nói như vậy

Nếu tất cả do tâm

Thế gian ở chỗ nào

Nhân ǵ thấy đại địa

Chúng sinh có đi lại

Như chim bay trong không

Tùy phân biệt mà đi

Không nương cũng không ở

Như đạp đất mà đi

Chúng sinh cũng như vậy

Do nơi vọng phân biệt

Dạo đi nơi tự tâm

Như chim trong hư không

Bóng thân, tài, quốc độ

Phật nói chi tâm khởi

Xin nói bóng chỉ (là) tâm

Nhân ǵ, v́ sau khởi

Bóng thân, tài, quốc độ

Đều do tập khí chuyển

Lại nhân không như lư

Phân biệt mà sinh ra

Cảnh ngoài là tưởng tượng

Tâm duyên cảnh mà sinh

Rơ cảnh chỉ là tâm

Th́ phân biệt không khởi

Nếu thấy tính vọng kế

Danh nghĩa không ḥa hợp

Xa ĺa giác, sở giác

Giải thoát các hữu vi

Danh, nghĩa đều xa ĺa

Đấy là pháp chư Phật

Nếu ĺa đó cầu ngộ

Tất không giác tự tính

Nếu thấy được thế gian

Ĺa năng giác, sở giác

Khi ấy tất không khởi

Phân biệt danh, sở danh

Do thấy được tự tâm

Danh tự vọng tác diệt

Không thấy được tự tâm

Tất khởi lên phân biệt

Bốn uẩn không sắc tướng

Số bốn không có được

Đại chủng tính khác tên

Làm sao cùng sinh sắc

Do ĺa được các tướng

Năng sở tạo không có

Dị sắc riêng có tướng

Các uẩn sao không sinh

Nếu thấy được vô tướng

Uẩn xứ đều xả ly

Khi ấy tâm cũng ly

Nên thấy pháp vô ngă

Do căn cảnh sai khác

Sinh ra tám loại thức

Ở trong vô tướng kia

Ba tướng ấy đều ĺa

Ư duyên A Lại Gia

Khởi chấp ngă, ngă sở

Cùng hai chấp của thức

Biết rơ tất xa ĺa

Quán thấy ĺa nhất, dị

Ấy tức không bị động

Ĺa nơi ngă, ngă sở

Hai thứ vọng phân biệt

Không sinh không tăng trưởng

Lại không lâm (?) nhăn thức

Đă ĺa năng sở tác

Diệt rồi không sinh lại

Thế gian không năng tác

Lại ĺa tướng năng sở

Vọng kế cũng duy tâm

Ra sao xin Phật nói

Tự tâm hiện các thứ

Phân biệt các h́nh tướng

Không hiểu do tâm hiện

Vọng cho là ngoài tâm

V́ không có trí giác

Nên khởi ra vô kiến

Làm sao nơi tính hữu

Mà tâm không sinh chấp

Phân biệt không hữu, vô

Nên nơi hữu không sinh

Rơ sở kiến duy tâm

Phân biệt tất không khởi

V́ phân biệt không khởi

Chuyển y không chỗ vướng

Đ́nh chỉ bốn tông kia

Gọi là nhân pháp hữu

Đấy là phân biệt tên

Chỗ lập đều không thành

Nên biết nhân năng tác

Cũng thành lập như thế

V́ người thuyết năng tác

Nói nhân duyên ḥa hợp

V́ ngăn lỗi chấp thường

Nói duyên là vô thường

Kẻ ngu nói vô thường

Mà thật không sinh diệt

Không thấy pháp hoại diệt

Mà vẫn có sở tác

Trời, người, A tu la

Quỷ, súc sinh, diêm la

Chúng sinh sinh trong đó

Ta nói là lục đạo

Do nghiệp thượng, trung, hạ

Mà thọ sinh trong đó

Giữ ǵn các thiện pháp

Mà được thắng giải thoát

Phật v́ các tỳ kheo

Nói các chỗ thọ sinh

Niệm niệm đều sinh diệt

Xin Phật v́ con nói

Sắc sắc không tạm ngừng

Niệm niệm cũng sinh diệt

Ta v́ đệ tử nói

Sinh diệt cũng như thế

Phân biệt là chúng sinh

Ĺa phân biệt không có

Ta v́ nhân duyên ấy

Nói các niệm niệm sinh

Nếu ĺa bám nơi sắc

Không sinh cũng không diệt

Duyên sinh không duyên sinh

Vô minh cùng chân như

Hai pháp nên có khởi

Không hai tức chân như

Nếu duyên kia không duyên

Sinh pháp có sai biệt

Thường, vô thường, các duyên

Có năng tác sở tác

Đó tức đại Mâu Ni

Cùng chư Phật đă nói

Có năng tác sở tác

Không khác với ngoại đạo

Ta v́ Phật tử nói

Thân là khổ ở đời

Cùng là tập ở đời

Diệt, đạo tất đều đủ

Kẻ ngu vọng phân biệt

Nên giữ ba tự tính

Thấy có năng, sở thủ

Thế cùng xuất thế pháp

Ta trước quán đối đăi

Nói thủ nơi tự tính

Nay v́ ngăn các kiến

Không nên vọng phân biệt

T́m lỗi là phi pháp

Lại khiến tâm không định

Đều do hai thủ khởi

Không hai tức chân như

Nếu vô minh, ái, nghiệp

Mà sinh ra các thức

Tà niệm lại có nhân

Ấy tức lỗi “vô cùng”

Không trí nói các pháp

Có bốn thứ hoại diệt

Vọng khởi hai phân biệt

Pháp thật ĺa hữu, vô

Xa ĺa bốn cú nghĩa

Lại ĺa nơi nhị kiến

Hai thứ phân biệt khởi

Biết rơ không sinh lại

Trong bất sinh biết sinh

Trong sinh biết bất sinh

V́ pháp kia đồng đẳng

Không nên khởi phân biệt

Nguyện Phật v́ con nói

Lư ngăn ngừa hai kiến

Khiến con cùng các chúng

Thường không sa hữu, vô

Không lẫn ngoại đạo luận

Lại xa ĺa nhị thừa

Chỗ mà Phật đă chứng

Chỗ con Phật không lùi

Giải thoát nhân phi nhân

Cùng một tướng vô sinh

V́ mê chấp dị danh

Kẻ trí nên thường ĺa

Pháp do phân biệt sinh

Như mao luân, huyễn ảo

Ngoại đạo vọng phân biệt

Thế do tự tính sinh

Vô sinh cùng chân như

Tính không và chân tế (bhùtakoti)

Các thứ ấy đồng nghĩa

Không nên chấp là không

Như lông có nhiều tên

Tên Đế Thích cũng thế

Các pháp cũng như vậy

Không nên chấp là không

Sắc và không không khác

Vô sinh cũng như thế

Không nên chấp là khác

Thành ra lỗi kiến chấp

V́ phân biệt tổng, biệt

Cùng với biến phân biệt

Chấp trước các tự tướng

Dài ngắn cùng vuông tṛn

Tổng phân biệt (samkalpa) là tâm

Biến phân biệt (parikalpa) là ư

Biệt phân biệt (Vikalpa) là thức

Đều ĺa tướng năng sở

Trong pháp Ta khởi kiến

Cùng vô sinh ngoại đạo

Đều là vọng phân biệt

Lỗi lầm, đều không khác

Nếu có người rơ được

Pháp vô sinh Ta nói

Cùng cái vô sinh làm

Người ấy hiểu pháp Ta

V́ muốn phá các kiến

Vô minh vô trú xứ

Khiến biết hai nghĩa ấy

Nên Ta nói vô sinh

Phật nói pháp vô sinh

Dù là hữu hay vô

Tức đồng với ngoại đạo

Luận vô nhân,bất sinh

Ta nói là Duy tâm

Xa ĺa nơi hữu vô

Dù sinh hay bất sinh

Kiến ấy đều nên ĺa

Vô nhân nói không sinh

Sinh tất chấp tác giả

Tác tức lẫn các kiến

Vô tức tự nhiên sinh

Phật nói các phương tiện

Chính kiến cùng đại nguyện

Hết thảy pháp nếu không

Th́ sao thành đạo tràng

Ĺa năng thủ sở thủ

Không sinh cũng không diệt

Chỗ thấy pháp phi pháp

Đều do tự tâm khởi

Thuyết do Mâu Ni nói

Trước sau tự mâu thuẫn

V́ sao nói các pháp

Lại nói là không sinh

Chúng sinh không thể biết

Nguyện Phật v́ con nói

Được ĺa lỗi ngoại đạo

Cùng cái nhân điên đảo (Visamàhetu)

Duy nguyện bậc Thắng Thuyết

Nói chỗ sinh và diệt

Đều ĺa nơi hữu vô

Mà không hoại nhân quả

Thế gian sa nhị biên

Bị các kiến mê hoặc

Nguyện xin đấng Mắt Xanh

Nói thứ lớp các địa

Thủ, sinh, cùng bất sinh

Không rơ nhân tịch diệt

Đạo tràng không chỗ được

Ta cũng không nói ǵ

Pháp sát na đều không

Không sinh không tự tính

Các Phật đă sạch hai

Có hai tức thành lỗi

Bị các kiến che lấp

Phân biệt không phải Phật

Tưởng tượng ra sinh diệt

Nguyện v́ chúng con nói

Tích tập các hí luận

Do ḥa hiệp mà sinh

Tùy chủng loại hiện ra

Sắc cảnh đều đầy đủ

Thấy các ngoại sắc rồi

Bèn khởi ra phân biệt

Nếu hiểu được chỗ ấy

Tức thấy nghĩa chân thật

Đều ĺa nơi đại chủng

Các Phật đều không thành

Đại chủng đă duy tâm

Nên biết không ǵ sinh

Tất thuận chủng tính thánh

Chớ phân biệt phân biệt

Không phân biệt là trí

Phân biệt nơi phân biệt

Là hai, không Niết Bàn

Nếu lập tôn vô sinh

Tất hoại cái huyễn pháp

Nếu không nhân khởi huyễn

Tổn giảm tự tôn ḿnh

Ví như bóng trong gương

Tuy ĺa tính một, khác

Chỗ thấy không phải không

Tướng sinh cũng như vậy

Như Càn thành, vật huyễn

Tức đối nhân duyên có

Các pháp cũng như vậy

Tuy sinh mà không sinh

Phân biệt nơi nhân pháp

Mà khởi hai thứ ngă

Đây chỉ thế tục nói

Kẻ ngu không biết rơ

Do nguyện và tập khí

Tự lực và tối thắng

Thứ năm pháp Thanh Văn

Mà có các La Hán

Thời gian và hoại diệt

Thắng giải cùng đổi dời

Bốn thứ vô thường ấy

Ngu phân biệt, không (phải) trí

Kẻ ngu đọa nhị biên

Vi trần, tự tính (praktri), tác (Kàrapa)

V́ chấp tôn hữu, vô

Không biết nhân giải thoát

Đại chủng trái nghịch nhau

Đâu hay khởi sắc tướng

Chỉ là tính đại chủng

Không có sắc sở tạo

Lửa thiêu hoại sắc tướng

Nước đắm ch́m mọi vật

Gió thổi phăng mọi sự

Làm sao sinh các sắc

Sắc uẩn và thức uẩn

Chỉ có hai không năm

Ngoài ra chỉ tên khác

Ta nói là cừu oán

Tâm, tâm sở (cittacaitta) sai biệt

Mà khởi ra hiện pháp

Phân tích các sắc tướng

Chỉ tâm, không vật tạo

Xanh trắng đối đăi nhau

Tác sở tác cũng thế

Sở sinh và Tính Không

Lạnh nóng, tướng sở tướng

Cùng hết thảy hữu vô…

Tưởng tượng, không có thật

Tâm ư và sáu thức

Cùng tương ưng lẫn nhau

Đều nương tạng thức sinh

Không một cũng không khác

Số, tháng và Lộ h́nh

Những kẻ chấp Tự Tại

(Tàrkika, Isvarodita)

Đều sa vào hữu vô

Xa ĺa nghĩa tịch diệt

Đại chủng sinh h́nh (samthàna) tướng (àkriti)

Không sinh ra đại chủng

Ngoại đạo nói đại chủng

Sinh đại chủng và sắc

Ngoài các pháp vô sinh

Ngoại đạo chấp tác giả

Theo nơi tôn hữu, vô

Kẻ ngu không biết rơ

Tướng thanh tịnh chân thật

Cùng ở với đại trí

Chỉ cùng tâm tương ưng

Không ḥa hiệp với ư, (v.v..)

Nếu nghiệp đều sinh sắc

Tất trái nhân các uẩn

Chúng sinh đừng nên chấp

Vô hữu trú vô sắc

Nói sắc mà không có

Th́ chúng sinh cũng không

Luận vô sắc là đoạn

Các thức cũng không sinh

Thức nương bốn chỗ trú

Nói vô sắc sao được?

Nội ngoại đă không thành

Nên thức cũng không khởi

Nếu thức chúng sinh (là) không

Tự nhiên được giải thoát

Ấy là luận ngoại đạo

Kẻ vọng kế không biết

Hoặc có kẻ chấp trước

Các uẩn có trung gian

Như sinh cơi vô sắc

Vô sắc làm ǵ có

Sắc ở trong vô sắc

Tức không thể thấy được

Vô sắc tức trái tôn

Không xe, người đi xe (thừa, thừa giả)

Thức do tập khí sinh

Cùng các căn ḥa hiệp

Tám thức trong sát na

Đều không thể nắm giữ

Nếu các sắc không khởi

Các căn không phải căn

Cho nên Thế Tôn nói

Căn, sắc, Sát nị ca (Ksanika)

V́ sao không rơ sắc

Mà có thức sinh được?

V́ sao thức không sinh

Mà có thọ sinh tử

Các căn cùng căn cảnh

Thánh giả hiểu nghĩa ấy

Kẻ ngu si vô trí

Vọng chấp thủ danh kia

Không nên chấp đệ lục

Có thủ cùng không thủ

V́ ĺa các lỗi lầm

Bậc thánh không định thuyết

Các ngoại đạo vô trí

Sợ hăi nơi đoạn thường

Chấp hữu vi vô vi

Cùng ngă không sai khác

Hoặc chấp ngă là tâm

Hoặc là khác với ư

Tính một có thể giữ

Tính khác cũng như thế

Nếu thủ đă quyết định

Đặt tên tâm, tâm sở

Chấp thủ ấy v́ sao

Không giải quyết “tính một”

Có thủ cùng tác nghiệp

Chứng đắc, nên thọ sinh

Như do lửa mà thành

Ư nghĩa giống, không giống

Như khi lửa thiêu đốt

Củi, vật đều cùng cháy

Vọng chấp ngă cũng thế

V́ sao không sở thủ

Dù sinh hay không sinh

Tâm tính thường thanh tịnh

Chỗ lập ngă ngoại đạo

Sao không lấy ví dụ?

Rừng mê hoặc của thức

V́ vọng xa chân pháp

V́ ưa thích ngă luận

Mà t́m cầu bỉ thử

Chỗ của trí nội chứng

Tướng chân ngă thanh tịnh

Đấy tức Như Lai Tạng

Ngoại đạo không biết được

Phân tích các uẩn ra

Năng thủ và sở thủ

Nếu biết được tướng ấy

Tức sinh trí chân thật

Các kẻ ngoại đạo kia

Ở trong ṿng thức tạng

Chấp Mạt Na là ngă

Không phải chỗ Phật nói

Nếu rơ được chỗ này

Giải thoát thấy chân đế

Khiến tu các phiền năo

Đoạn trừ liền thanh tịnh

Bản tính thanh tịnh tâm

Chỗ chúng sinh cầu được

Như Lai Tạng vô cấu

Xa ĺa biên, vô biên

Bốn thức ở trong uẩn

Như vàng, bạc trong quặng

Gạn lọc thành tươi sạch

Vàng bạc đều hiện rơ

Phật không phải người, uẩn

Chỉ là trí vô lậu

Biết rơ thường tịch tịnh

Là chỗ về của ta

Bản tính thanh tịnh tâm

Tùy phiền năo, ư thảy

Cùng với ngă tương ưng

Nguyện Phật v́ con nói

Tự tính thanh tịnh tâm

Ư thảy là cái ǵ

Nghiệp tích tụ của nó

Tạp nhiễm nên thành hai

Ư thảy (v.v..), ngă, phiền năo

Làm nhiễm ô tịnh tâm

Ví như nước trong kia

Mà có các cấu bẩn

Như áo được ĺa dơ

Cũng như vàng ĺa quặng

Áo, vàng đều không hoại

Tâm ĺa lỗi cũng thế

Kẻ vô trí t́m cầu

Ống tiêu cùng loa trống

Để t́m các tiếng hay

Ngă trong uẩn cũng thế

Như phụ nữ mang thai

Tuy có, không thể thấy

Ngă chân thật trong uẩn

Vô trí không thấy được

Như tinh túy trong thuốc

Lại như lửa trong cây

Ngă chân thật (kudgala) Trong uẩn

Vô trí không thấy được

Không tính trong các pháp

Cùng với tính vô thường

Ngă chân thật trong uẩn

Vô trí không thấy được

Các địa, tự tại, thông

Quyền, đảnh, thắng, tam muội

Nếu không có chân ngă

Những thứ ấy đều không

Có người phá hoại nói:

“Nếu có, chỉ ngả ra”

Bậc trí nên đáp rằng:

“Phân biệt ấy là ngă”

Kẻ nói không chân ngă

Báng pháp, chấp hữu vô

Tỳ kheo nên yết ma

Trục xuất chớ giao thiệp

Thuyết chân ngă bừng thạnh

Như lửa kiếp tận nổi

Thiêu rừng rậm vô ngă

Ĺa các lỗi ngoại đạo

Như tô, lạc, thạch mật

Cùng các thứ dầu ăn

Tất cả đều có vị

Kẻ chưa nếm không biết

Ở trong thân các uẩn

Năm món t́m cầu ngă

Kẻ ngu không hiểu được

Trí thấy tức giải thoát

Dụ do minh trí lập

C̣n không rơ được tâm

Nghĩa chứa đựng trong đó

Làm sao hiển hiểu rơ

Tướng sai biệt các pháp

Không rơ chỉ một tâm

Kẻ suy lường vọng chấp

Không nhân và không khởi

Bậc định quán nơi tâm

Tâm không thấy được tâm

Kiến do sở kiến sinh

Sở kiến nhân ǵ khởi

Họ ta Ca chiên diên (kàtyàyana)

Ra khỏi Tịnh Cư Thiên (sùddhàvàsa)

V́ chúng sinh nói pháp

Khiến nhập Niết Bàn thành

Duyên nơi pháp bốn trú

Ta cùng chư Như Lai

Trong ba ngh́n quyển kinh

Rộng nói Niết Bàn pháp

Dục giới và vô sắc

Không ở đó thành Phật

Cơi trời sắc cứu cánh (Rùpadhàtvakanisttha)

Ĺa dục được Bồ Đề

Cảnh giới không chuyển nhân

Nhân chuyển được cảnh giới

Kiếm bén trí bậc tu

Cắt ĺa phiền năo kia

Vô ngă làm sao có

Các pháp huyễn hữu vi

Kẻ ngu thấy chân như

Sao nói không chân ngă

Pháp đă làm, chưa làm

Đều không nhân mà khởi

Hết thảy đều vô sinh

Kẻ ngu không hiểu được

Pháp năng tác không sinh

Sở tác và các duyên

Cả hai đều không sinh

Làm sao chấp năng tác

Kẻ vọng kế nói có

Nhân trước sau đồng thời

Dụ b́nh, các đệ tử

Nói các vật sinh khởi

Phật không là hữu vi

Các tướng tốt đầy đủ

Là công đức Luân Vương

Đó không phải Như Lai

Phật lấy trí làm tướng

Xa ĺa các kiến chấp

Lănh vực tự nội chứng

Đoạn hết thảy lỗi lầm

Điếc mù cùng ngọng câm

Già, trẻ, ôm hờn oán

Nhất là những kẻ ấy

Không có phần phạm hạnh

Tùy hảo ẩn là trời

Tướng ẩn là Luân Vương

Cả hai đều phóng dật

Chỉ hiện nơi người tu

Sau khi Ta chết rồi

Sẽ có Tỳ da sá (Vyàsa)

Kana (Kanàda) Lê sa bà (Rishabha)

Kiếp tỳ la (Kapila) xuất hiện

Một trăm năm sau Ta

Thuyết của Tỳ da sa

Cùng luận Bà đa la (Bhàraka) v.v..

Rồi có Bán trạch sa (Bàndava)

Kiều vi bà (Kaurava), La ma (Ràma)

Lại có Mao cuồng vương (Mauŕ)

Nan đà (Nanda) và Cúc đa (Gupta)

Đến Miệt lợi xa vương (Mleccha)

Sau đó đao binh khởi

Rồi có thời hắc ám (Kaliyuga)

Thời ấy các thế gian

Không tu hành chính pháp

Qua sau các thời ấy

Thế như bánh xe lăn

Lửa, mặt trời ḥa hiệp

Thiêu đốt ở cơi dục

Lại lập các cơi trời

Thế gian lại thành tựu

Các vương cùng bốn họ

Các tiên cùng pháp hóa

Vệ đà cùng tế tự

Sẽ có pháp ấy thịnh

Pháp đàm luận hí tiếu

Trường hàng và giải thích

Tôi nghe như vầy v.v..

Mê hoặc nơi thế gian

Các thứ y nhận được

Nếu có thứ chính sắc

Lấy bùn xanh phân trâu

Nhuộm đi cho hủy màu

Hết thảy các y phục

Phải ĺa tướng ngoại đạo

Hiện tướng bậc tu hành

Tướng oai nghiêm của Phật

(Y phục phải nghiêm chỉnh)

Cần phải buộc giây lưng

Lọc nước rồi hăy uống

Lần lượt mà khất thực

Không đến chỗ phi xứ

Sinh cơi trời thắng diệu

Và sinh trong loài người

Đủ các tướng quư báu

Sinh trời và vua người

Vua có bốn thiên hạ

Pháp giáo trụ lâu đời

Lên cao tột cung trời

Do tham nên thối thất

Thuần thiện (Ktrayuga) cùng ba thời

Hai thời, thời cực ác

Phật khác hiện thời thiện

Thích Ca ra đời ác

Sau khi Ta Niết bàn

Tất Đạt Đa họ Thích

Tỳ nữu (Visnu), Đại tự tại (Mahesvara)

Các ngoại đạo cũng xuất

Như vậy tôi nghe v.v..

Điều Thích sư tử nói

Đàm cổ (puràvttra) cùng tiếu ngữ (Itihàsa)

Tiên tỳ dạ sa nói

Sau khi Ta Niết Bàn

Tỳ nữu, Đại tự tại

Các thuyết kia nói rằng:

Ta làm nên thế gian

Ta tên Phật ly trần (Viraja-jina)

Họ Ca đa diễn na (Kàtyàyana)

Cha tên Thế gian chủ (Prajàpati)

Mẹ hiệu là Cụ tài (Vasumati)

Ta sinh nước Chiêm bà (Campà)

Ông nội trước của Ta

Do ḍng mặt trăng sinh (Somavamsa)

Nên hiệu là Nguyệt tạng (Somagupta)

Xuất gia tu khổ hạnh

Diễn nói ngàn pháp môn

Thọ kư cho Đại Huệ

Rồi sau đó diệt độ

Đại Huệ truyền Đạt ma (Dharma)

Đạt ma truyền Di khư lê (Mekhala)

Di khư gặp thời ác

Kiếp tận pháp sẽ diệt

Ca Diếp Câu Lưu Tôn

Câu Na Hàm Mưu Ni

Cùng Ta ly trần cấu

Đều sinh thời thuần thiện

Khi thời thiện dần giảm

Có đạo sư tên Huệ (Mati)

Thành tựu đại dơng mănh

Giác ngộ được năm pháp

Không phải nhị, tam thời

Cũng không thời cực ác

Chỉ trong thời thuần thiện

Mới hiện Đẳng Chính Giác

Áo tuy không rách rưới

Nhưng vải vụn vá thành

Như lỗ đuôi Khổng tước

Không có ai xâm đoạt

Hoặc hai ngón ba ngón

Cách nhau mà may thành

Nếu làm khác như thế

Kẻ ngu sinh tham trước

Chỉ giữ ba chiếc áo

Thường tắt lửa tham dục

Tắm trong nước trí huệ

Ngày đêm ba thời tu

Như phóng tên rất mạnh

Tên rơi phóng tên khác

Lại như hai đầu cân

Thiện bất thiện cũng thế

Nếu một hay sinh nhiều

Tất có tướng dị biệt

Kẻ cho hăy như ruộng

Kẻ nhận hăy như gió

Nếu một hay sinh nhiều

Hết thảy không nhân có

Nhân sở tác bị hoại

Ấy là thuyết vọng kế

Nếu thuyết của vọng kế

Thêm dụ đèn, hạt giống

Một mà sinh ra nhiều

Chỉ tương tợ, không nhiều

Mè th́ không sinh đậu

Đậu nhỏ không (phải) giống lúa

Sao nói một sinh nhiều

Danh thủ (pànini) tạo Thanh luận (Sabhanatri)

Quảng chủ tạo Vương luận

Vọng thuyết theo thế luận

Sẽ sinh trong Phạm tạng

Ca đa diên (Kàtyàyana) tạo kinh

(Tiên) Thọ b́ (Yajnàvalka)

Câu lưu (Bhudhuka) tạo thiên văn

Thời ác thế sẽ có

Chúng sinh các thế gian

Nhờ phước được làm ma

Đúng pháp cai trị thế

Giữ ǵn cho cơi nước

Thanh nghị (Vàluŕka) cùng Xích đậu (Masuràksha)

Trắc tích (Kautilya) và Mă hành (Asvalayana)

Những đại phúc tiên ấy

Sẽ xuất hiện đời sau

Tất Đạt Đa ḍng Thích

Bộ đa (Bhùtànta), ngũ Kế giả (Pancacudaka)

Ngũ lực (Vàgbali) cùng Thông huệ (Medhàvin)

Cũng ra đời về sau

Ta ở nơi rừng hoang

Phạm vương đến cho Ta

Trần b́ (Ajina), Tam kỳ trượng (dandakàsthà)

Bác điều (Mekhalà) cùng quân tŕ (Cakramandala)

Bậc đại tu hành này

Sẽ thành đấng ly cấu

Nói pháp chân giải thoát

Tướng của các Mâu Ni

Phạm vương cùng phạm chúng

Các trời cùng chúng trời

Cho Ta áo da nai

Trở về cùng tự tại

Ta ở trong rừng cây

Tứ thiên vương đế thích

Cho Ta y phục đẹp

Cùng với bát khất thực

Nếu lập luận bất sinh

Nhân ấy sinh rồi sinh

Lập vô sinh như thế

Chỉ là thuyết hư huyễn

Do vô thỉ tích tập

Vô minh nhân của tâm

Sinh diệt nối tiếp nhau

Phân biệt của vọng kế

Tăng khu luận có hai

Thắng tính cùng biến dị

Trong thắng có sở tác

Sở tác phải tự thành

Thắng tính cùng với vật

Câu na nói sai biệt

Các món tác sở tác

Biến dị đều không được

Như thủy ngân trong sạch

Bụi bẩn không thể nhiễm

Tạng thức sạch cũng thế

Nơi chúng sinh y chỉ

Như các thứ rau hôi

Vị muối và thai tạng

Chủng tử cũng như thế

Tại sao mà không sinh

Tính nhất và tính dị

Câu bất câu cũng thế

Không sở thủ mà có

Không vô vi, hữu vi

Trong ngựa không tính trâu

Ngă trong uẩn cũng thế

Chỗ nói vi, vô vi

Đều không có tự tính

Trong giáo lư t́m ngă

Là ác kiến vọng cầu

Không hiểu nên nói có

Chỉ vọng thủ, không ngoài

Ngă ở trong các uẩn

Một, khác đều không thành

Lỗi lầm kia rơ rệt

Kẻ vọng kế không biết

Như gương nước và mắt

Hiện ra các thứ h́nh

Xa ĺa tính một, khác

Ngă trong uẩn cũng vậy

Hành giả tu chính định

Kiến (darsana), đế (satya) cùng với đạo (màrga)

Siêng tu ba thứ ấy

Giải thoát các ác kiến

Như ở trong khe cửa

Thấy ánh chớp qua mau

Pháp thiên biến cũng thế

Không nên khởi phân biệt

Phàm phu tâm mê hoặc

Chấp Niết Bàn có, không

Nếu có được thánh kiến

Như thật mà hiểu được

Nên biết pháp biến dị

Xa ĺa nơi sinh diệt

Lại t́m nơi hữu vô

Cùng với tướng năng sở

Nên biết pháp biến dị

Xa ĺa luận ngoại đạo

Lại ĺa nơi danh, tướng

Diệt ngă kiến bên trong

Thân sung sướng cơi trời

Thân bị khổ địa ngục

Nếu không có trung hữu

Các thức không thể sinh

Nên biết trong các đường

Các loại thân chúng sinh

Loài sinh từ thai, trứng v.v..

Đều do trung hữu sinh

Ĺa thánh giáo chính lư

Diệt dục hoặc càng tăng

Là cuồng thuyết ngoại đạo

Kẻ trí không nên nói

Trước nên rơ biết ngă

Và các thủ phân biệt

Không biết rơ phân biệt

Như con người Thạch nữ

Ta ĺa xa nhục nhăn

Dùng huệ nhăn thiên nhăn

Thấy các thân chúng sinh

Ĺa các hành các uẩn

Quán thấy trong các hành

Có sắc tốt sắc xấu

Giải thoát, không giải thoát

Có kẻ ở cơi trời

Kẻ thọ nhân các cơi

Chỉ ḿnh Ta biết được

Vượt chỗ thế gian biết

Không phải cảnh suy lường

Vô ngă mà tâm sinh

Tâm ấy làm sao sinh

Há không nói tâm sinh

Như sông, đèn, hạt giống?

Nếu không vô minh v.v..

Tâm thức tất không sinh

Ĺa vô minh không thức

Làm sao sinh tương tục

Thuyết của kẻ vọng chấp

Ba đời và phi thế

Thứ năm không thể nói

Chỗ các đức Phật biết

Các hành, thủ, sở thủ

Đều là nhân trí tuệ

Không nên nói trí tuệ

Gọi tên là các hành

V́ có nhân duyên ấy

Tất có pháp này sinh

Không riêng có tác giả

Đấy là pháp Ta nói

Gió không thể sinh lửa

Nhưng khiến lửa bùng dậy

Lại do gió lửa tắt

Làm sao dụ cho ngă?

Chỗ nói vi, vô vi

Đều ĺa nơi các thủ

Sao kẻ ngu phân biệt

Lấy lửa mà lập ngă

Sức các duyên xoay vần

Cho nên sinh ra lửa

Nếu phân biệt như lửa

Ngă ấy do ai sinh

V́ ư thảy làm nhân

Các uẩn, xứ tích tụ

Ông thương chủ vô ngă

Thường với tâm cùng khởi

Cả hai như mặt trời

Xa ĺa năng, sở tác

Lửa không thể thành lập

Kẻ vọng kế không biết

Chúng sinh, tâm, Niết Bàn

Bản tính thường thanh tịnh

Nhiễm thói lỗi vô thỉ

Không khác như hư không

Các ngoại đạo tượng ngọa (Hastisayya)?

Bị các kiến tạp nhiễm

Ư thức làm che khuất

Chấp lửa là thanh tịnh

Nếu được như thật kiến

Sẽ đoạn được phiền năo

Xả rừng rậm tà dụ (Drstàntagahana)

Đến lănh vực của Thánh

Phân biệt thành khác nhau

Giữa trí cùng sở tri

Kẻ ngu v́ không biết

Nói chỗ không nên nói

Như ngu lấy gỗ khác

Làm chiên đàn (candanàgaru), trầm thủy

Vọng chấp cùng chân trí

Nên biết cũng như vậy

Ăn xong cầm bát về

Tẩy rửa cho sạch sẽ

Súc miệng sạch các vị

Nên tu hành như thế

Nếu nơi pháp môn này

Suy nghĩ đúng như lư

Tịnh tín ĺa phân biệt

Thành tựu định tối thắng

Ĺa chấp, ở nơi nghĩa

Thành kim cang pháp đăng

Phân biệt nơi hữu vô

Cùng các lưới ác kiến

Ba độc thảy đều ĺa

Được tay Phật quán đảnh

Ngoại đạo chấp năng tác

Mê phương hướng không nhân

Sợ hăi thuyết duyên khởi

Đoạn diệt, không thánh tính

Các quả báo biến khởi

Là các thức cùng ư

Ư từ tạng thức sinh

Thức nương Mạt Na khởi

Tạng thức khởi các tâm

Như biển khơi sóng lớn

Do tập khí làm nhân

Tùy duyên mà sinh khởi

Sát na tướng nối nhau

Chấp cảnh giới tự tâm

Các món h́nh cùng tướng

Ư căn và thức sinh

Do ác tập vô thỉ

Mà sinh tợ ngoại cảnh

Chỗ thấy chỉ là tâm

Ngoại đạo không hiểu được

Nhân kia và duyên kia

Mà sinh ra các thức

Cho nên khởi các kiến

Trôi lăn trong sinh tử

Các pháp như huyễn mộng

Trăng đáy nước, Càn thành

Nên biết hết thảy pháp

Chỉ là tự phân biệt

Chính trí nương chân như

Mà khởi các tam muội

Thủ Lăng Nghiêm như huyễn

Các tam muội như thế

Được nhập vào các địa

Tự tại và thần thông

Thành tựu trí như huyễn

Được các Phật rưới đầu

Thấy thế gian hư dối

Khi ấy tâm chuyển ư

Được vào Hoan hỉ Địa (Muditàbhùmi)

Các địa cùng Phật địa

Đă được chuyển y rồi

Như ma ni nhiều mầu

Lợi ích cho chúng sinh

Tùy hiện như trăng nước

Xa ĺa kiến hữu, vô

Cùng với câu, bất câu

Siêu việt hạnh nhị thừa

Lại siêu đệ thất địa

Pháp hiện chứng bên trong

Từng bậc mà tu tập

Xa ĺa các ngoại đạo

Nên nói là đại thừa

Nói pháp môn giải thoát

Như sừng thỏ, ma ni

Xả ly các phân biệt

Ĺa chết cùng biến dịch

Giáo do lư mà thành

Lư nhờ giáo mà rơ

Nên y giáo, lư này

Chớ lại thêm phân biệt.

KINH ĐẠI THỪA NHẬP LĂNG-GIÀ

<<-- --MỤC-LỤC

[M] [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7]

-

TRANG CHỦ*--KINH ĐIỂN*--ĐẠI TẠNG KINH*--THẦN CHÚ*--HÌNH ẢNH*--中文*--ENGLISH

Updated on 2021-07-08

 

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0